02/06/2023
934

LỄ CHÚA BA NGÔI

Lời Chúa:  Xh 34,4b-6.8-9;  2Cr 13,11-13;  Ga 3,16-18

 

Mục lục

  1. Tin Và Sống (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2. Mầu Nhiệm Cao Cả (Thiên San, MTG. Thủ Đức)
  3. Dòng sông yêu thương (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  4. Món quà Giêsu  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  5. Kinh nguyện trong Thiên Chúa Ba Ngôi  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  6. Thiên Chúa là tình yêu (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  7. Tuy Ba Là Một  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
  8. Vị Thiên Chúa yêu thương và gần gũi  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  9. Chúa Ba Ngôi nối kết tin yêu  (Lm. Nguyễn Xuân Trường)
  10. Ba Ngôi Thiên Chúa ngọn lửa tình yêu  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  11. Tình yêu Thiên Chúa vô biên  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
  12. Gia đình của Thiên Chúa (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
  13. Thiên Chúa là Chúa yêu thương  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí) 
  14. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật Lễ Chúa Ba Ngôi_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)


TIN VÀ SỐNG

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

Chẳng có cha mẹ nào yêu thương con cháu mà để lại cho chúng tài sản giả tạo: nhà cao cửa rộng trên giấy, đồ ăn thức uống bằng gỗ, đá, đô la âm phủ ! Không thể có con ngoan trò giỏi, nếu thiếu vắng tình yêu thương nơi bậc sinh thành và sự tận tâm tận lực của thầy cô giáo. Cũng không bao giờ tìm thấy một gia đình chuẩn mực, hạnh phúc, nếu bầu khí yêu thương nơi gia đình của họ chưa dồi dào, sống động. Từ xưa đến nay, con người vẫn khao khát hạnh phúc, muốn và mong biết sống đúng, sống đẹp, ít là với những ai ta gặp gỡ. Trong đối nhân xử thế, tiền nhân chúng ta có nói tới một kinh nghiệm: kẻ biết ơn, trong lòng được thoả thích, mà kẻ làm ơn tâm tư lại thoả thích ngàn lần. Khổng Tử dạy các học trò: có kiến thức người ta không sống trong nghi ngờ, có lòng nhân, chẳng bao giờ phải ưu tư, có dũng cảm thì thắng được sợ hãi.

Có một sự thật nơi mỗi người: máu ai cũng đỏ, nước mắt ai cũng mặn, trái tim ai cũng bằng thịt, dù hoàn cảnh không giống nhau, chúng ta vẫn bị chi phối bởi tình yêu. Bằng một tình yêu có điều kiện, không ít người nói rằng: đố ai hạnh phúc mà không có tiền, đố ai biết sống lời yêu thương, khi bản thân chưa yêu ai bao giờ ? Đức Giêsu đã nói, đã mạc khải cho ông Nicôđêmô, cho chúng ta: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài, để những ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải hư mất…”. Yêu và được yêu, tin và sống niềm tin, chính là quy luật, là điều kiện để chứng minh, trái tim ta có cùng một nhịp đập, có khởi đầu cho đến cùng đích vẫn là yêu thương. Đức Giêsu khởi đầu từ tình yêu của Thiên Chúa làm người, Đức Giêsu chu toàn sứ mạng Chúa Cha uỷ thác: yêu đến cùng, trên thập giá, Ngài đã gục đầu trao Thần Khí, (Ga 19, 30), tất cả vì yêu, tất cả là hồng ân.

Thành công, hạnh phúc, là mơ ước ở đời này, có được quân sư tài giỏi, gặp được bạn bè tốt, biết sống hoà hợp giữa lý và tình, chắc chắn không phải là điều tự nhiên, không phải là chuyện hên xui. Tin và sống niềm tin lời giáo huấn của Thầy Giêsu: là tự do chọn lựa, là sống lời thưa vâng, trong đó có đau khổ thập giá, có bình an Đấng phục sinh hiện diện. Dù thế gian nói: phải khôn tuỳ lúc, phải khờ tuỳ hoàn cảnh, xác xuất thành công sẽ cao hơn. Suốt 33 năm tại trần thế, Đức Giêsu vẫn là một chứng minh: “Thiên Chúa là tình yêu, Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi ban Con Một Ngài, để những ai tin và sống niềm tin thì được sống”. Tin Đức Giêsu là người thầy tài giỏi, tin Đức Giêsu là người bạn tốt, mới đúng nhưng chưa đủ, phải sống niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa cứu độ, là hiện thân của tình yêu Chúa Cha và Thánh Thần.

Người xưa có câu: một ngày tu chưa thành chánh quả, một ngày ngu, biết bao hậu quả xấu sẽ xảy ra. Biết nói yêu là chết trong lòng một tí, chưa ai gọi bạn là người trưởng thành; nói điêu, nói không thật lòng, có thể làm thiệt hại, làm nhiều người phải khổ vì mất danh dự. Tin Đức Giêsu là tình yêu đến từ Thiên Chúa, tin Đức Giêsu là Đấng quyền năng, nhưng chưa sống niềm tin Đức Giêsu ở trên thập giá, hẳn cũng không thể có bình an của Đấng phục sinh. Trong tình yêu đôi lứa, họ luôn khao khát thuỷ chung và sự bền vững của tình yêu: nói lời phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay ! Trong tình yêu không giai cấp, Đức Giêsu nói: Thầy gọi các con là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy đã nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho các con biết. (Ga 15, 5).

Bài học yêu thương, đoàn kết, sống có trách nhiệm, hẳn ai cũng được nghe, được nhắc bảo về tình yêu và sức mạnh mang tính cộng đồng. Còn việc sống đức yêu thương, chia sẻ những hiểu biết, quảng đại với tha nhân, luôn là thực hành sống động của mỗi người. Ở đời vẫn nói tới sự thiết thực của người cho và kẻ nhận, quyền lợi và nghĩa vụ: ăn cơm nhà Phật, đốt râu thầy chùa, ý nói đến sự phản phúc, vô ơn, sớm muộn cũng phải đối diện với công lý. Trong tin yêu và sống tin yêu, Đức Giêsu lưu ý đến sự liên đới hiệp nhất cần thiết cho sứ mạng riêng của mỗi người: “Thiên Chúa không sai Con của Người để luận phạt thế gian, nhưng để tất cả những ai tin Con của Người thì được sống đời đời”. Đau khổ thập giá không dập tắt được ánh sáng niềm tin, đại loại nó chỉ là tắt đèn, là đang xoá đi cái tôi ích kỷ, vì bình minh đã tới.

Tin và yêu, tin và sống, sẽ mãi mãi là lời mời gọi sống hiệp nhất nên một trong tình yêu Giêsu, tình yêu có Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Sự vĩ đại được biết đến qua lòng cản đảm hơn là khôn ngoan, bằng cấp, sự hiểu biết được kiểm chứng qua hành động hơn là bài học suông, là điểm số khi ngồi ghế nhà trường. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi ban Con Một của Ngài”, nhưng chỉ có những ai tin và sống niềm tin, sống giáo huấn Đức Giêsu, người ấy mới hiểu thế nào là mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Con người có tin hay không, có muốn hiểu, có muốn sống tình liên đới hiệp thông không, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi vẫn đang hiện diện. Xin cho tình yêu mà người kitô hữu mỗi ngày vì dấu tuyên xưng, sẽ mãi là điều kỳ diệu, là sức mạnh và ơn ban giúp chúng con chu toàn bổn phận sống tin yêu cách trọn vẹn hơn. Amen.

Về mục lục

MẦU NHIỆM CAO CẢ

Thiên San, MTG. Thủ Đức

Quanh ta có muôn vàn điều kỳ diệu đang mời gọi ta khám phá. Khi nói đến những điều kỳ diệu, hẳn ai trong chúng ta cũng phải chân nhận rằng, sự kỳ diệu luôn đi kèm với sự khó hiểu. Phải mất một thời gian dài chúng ta mới dần dần khám phá ra những điều kỳ diệu quanh ta. Phát minh này làm tiền đề cho phát minh kế tiếp. Khi thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa cũng đã mất rất nhiều thời gian để mạc khải cách tiệm tiến cho con người biết tình yêu của Ngài: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Mặc khải đến từ Thiên Chúa luôn là một điều gì đó vượt quá sự hiểu biết của con người. Trong đó, mầu nhiệm Một Chúa Ba Ngôi là mầu nhiệm cao cả nhất, khó hiểu nhất.

Thiên Chúa mạc khải cho con người một cách tiệm tiến về chương trình cứu độ của Người. Công trình tạo dựng được khởi đi từ ý định yêu thương của Ba Ngôi và việc tạo dựng con người cũng không nằm ngoài ý định ấy. Khi con người sa ngã phạm tội, Thiên Chúa đã không bỏ mặc nhưng đã hứa ban Đấng Cứu Độ. Từ Apraham đến thời của Đức Giêsu, Dân Do thái vẫn sống trong niềm tin vào một Thiên Chúa độc nhất. Đức Giêsu đã vất vả dường nào để mặc khải cho dân biết về tình yêu cứu độ của Ngài. Đặc biệt là mạc khải cho họ biết chính Ngài là Đấng Chúa Cha sai đến, chính Ngài là Con Một Thiên Chúa. Ngài không chỉ dừng lại ở đó, Ngài còn mặc khải và hứa ban Đấng Bảo Trợ là Chúa Thánh Thần cho các Tông đồ của Ngài. Chính trong thời đại của Đức Giêsu, mạc khải của Thiên Chúa dành cho con người trọn vẹn nhất. Bởi Đức Giêsu chính là mạc khải sau cùng và trọn vẹn của Thiên Chúa dành cho con người. Nhưng để đón nhận mạc khải ấy không phải là điều đễ dàng, đặc biệt là với một dân đã tin vào một Thiên Chúa duy nhất.

Tình yêu của Thiên Chúa không dừng lại ở một dân tộc đơn lẻ nhưng tình yêu của Ngài là tình yêu trao ban cho nhân loại. Quả thật, “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16). Thế gian là ai nếu không phải là tất cả chúng ta, những con người được sinh ra trong ý định yêu thương của Thiên Chúa. Khi xưa, Dân Do thái đã vấp ngã trong việc đón nhận mạc khải của Thiên Chúa qua Đức Giêsu, đến nỗi họ tìm mọi cách để giết Đức Giêsu – Con Một Thiên Chúa, vì tin rằng Ngài là kẻ phạm tượng khi dám cho mình là ngang hàng với Thiên Chúa, dám gọi Thiên Chúa là Cha. Họ không thể từ bỏ niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất của mình để đón nhận mạc khải Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi không tin nhận Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, Đấng Chúa Cha sai đến, họ từ chối đón nhận mạc khải của Thiên Chúa, từ chối tình yêu cứu chuộc của Ngài. Còn chúng ta?

Là thế hệ con cháu, chúng ta đón nhận đức tin nhờ ơn Chúa qua sự ra đi rao giảng của các tông đồ, các môn đệ của Chúa. Có thể nói, để đón nhận mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi là điều không mấy khó khăn đối với chúng ta. Nhưng để hiểu tường tận là điều không thể. Chúng ta chỉ có thể đón nhận và tin yêu. Thiên Chúa tuy Ba Ngôi nhưng lại chỉ là một Thiên Chúa. Mầu nhiệm này ta chỉ có thể biết được và nhận được nhờ Đức Giêsu mạc khải cho. Đức Giêsu đã nhiều lần nhắc đến Chúa Cha và nhắc đến Chúa Thánh Thần, nhưng vào thời điểm đó, có thể nói, các môn đệ là những người đầu tiên đón nhận mạc khải ấy. Tuy nhiên, chính các ngài cũng gặp khó khăn khi đón nhận mặc khải ấy. Tin Mừng kể lại, khi nghe Thầy nhắc đến Chúa Cha, các ngài đã xin Thầy tỏ cho biết Chúa Cha. Các ông không hiểu được tại sao Thầy lại nói: Thầy và Chúa Cha là một, Chúa Cha ở trong Thầy và Thầy ở trong Chúa Cha.

Sau khi sống lại, và đặc biệt là trong lễ Ngũ Tuần, Đức Giêsu Phục sinh đã ban Thánh Thần cho các Tông đồ. Chúa Giêsu không chỉ mạc khải cho ta về sự hiện diện của Ba Ngôi mà còn mạc khải cho ta biết về sự nên một trong tình yêu của Ba Ngôi. Ngài cũng cho chúng ta biết về mỗi dây liên kết của Ngài với mỗi người chúng ta khi nói rằng: “Thầy là cây nho, anh em là cành. Ai ở lại trong Thầy và Thầy ở lại trong người ấy, thì người ấy sinh nhiều hoa trái, vì không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15, 5). Khi được nên một với Đức Giêsu, chúng ta cũng được nên một với Ba Ngôi. Bởi Ba Ngôi luôn hiện diện và nên một với nhau trong tình yêu.

Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã ban Đức Giêsu Kitô cho chúng con. Xin cho chúng con biết bước đi trong ánh sáng tình yêu của Chúa nhờ sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Xin Chúa giúp chúng con biết sống tâm tình con thảo đối với Chúa khi tin nhận rằng: “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ (Ga 3, 17). Xin cho chúng con được sống trong tình yêu và sự nên một của Ba Ngôi. Amen.

Về mục lục

DÒNG SÔNG YÊU THƯƠNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Trong chu kỳ của một năm phụng vụ, thông thường, Giáo Hội hướng dẫn chúng ta để hiểu biết và nhận ra những gì Chúa đã làm vì yêu thương chúng ta. Chúa Nhật hôm nay là lễ Chúa Ba Ngôi, phụng vụ hướng chúng ta đến một chủ đích hoàn toàn khác biệt: đó là chúng ta tìm hiểu xem Thiên Chúa mà chúng ta tôn thờ là ai và bản chất của Ngài là thế nào. Các bài đọc Lời  Chúa tìm cách đưa ra câu trả lời: Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Chúa Ba Ngôi. Ba Ngôi tách biệt nhưng chỉ là một Chúa. Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chúa Cha là Đấng Sáng tạo, Chúa Con là Đấng Cứu chuộc, Chúa Thánh Thần là Đấng Thánh hóa. Như thế, mỗi người chúng ta đều là công trình của Ba Ngôi Thiên Chúa, tức là được Chúa ban cho hiện hữu làm người, được Chúa cứu chuộc và hôm nay đang được Chúa thánh hóa hướng dẫn, để nhờ Chúa mà chúng ta đạt tới mức hoàn hảo, tức là thánh thiện.

Nói đến Chúa Ba Ngôi, chúng ta thường nghĩ ngay đến một đề tài cao siêu, khó hiểu. Đối với nhiều người tín hữu, xem ra Chúa Ba Ngôi không có liên quan gì nhiều đến đời sống của họ. Thực ra, mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi tuy vượt trí khôn của con người, nhưng có mối liên hệ mật thiết với đời sống người Kitô hữu. Trọn vẹn đời sống của người tin Chúa được bao bọc trong mầu nhiệm này. Nói cách khác, Chúa Ba Ngôi là nguồn mạch và là đích điểm của cuộc đời chúng ta, có nghĩa nhờ Chúa Ba Ngôi mà chúng ta tồn tại hiện hữu, và rồi lý tưởng mà chúng ta đang cố gắng đạt tới trong tương lai là hạnh phúc thiên đàng cũng là Chúa Ba Ngôi. Bởi lẽ, hạnh phúc thiên đàng là được sống trong Chúa Ba Ngôi, nơi có hạnh phúc viễn mãn tràn trề.

Giáo Hội dạy chúng ta: Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một trong “ba mầu nhiệm Cả”, cùng với hai mầu nhiệm kia là mầu nhiệm Nhập thể và mầu nhiệm Cứu độ. Danh xưng “mầu nhiệm Cả” nói lên tầm quan trọng và cốt lõi Đức tin Kitô giáo. Mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi là một đặc tính làm cho Đức tin Kitô giáo của chúng ta khác với Đạo Do Thái và Đạo Hồi, là hai tôn giáo  cũng được gọi là “độc thần” như chúng ta. Do Thái giáo, Kitô giáo và Hồi giáo đều cùng tôn thờ Thiên Chúa của Abraham, Thiên Chúa của Isaac và Thiên Chúa của Giacóp, tức là Thiên Chúa đã can thiệp vào lịch sử qua các vị tổ phụ này. Tuy vậy, chỉ có Đức tin Kitô giáo mới diễn tả Thiên Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Chính Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta điều ấy. Trong giáo huấn của Người, Người dạy chúng ta nhận biết Chúa Cha và sống tình con thảo với Người. Đức Giêsu cũng nhận mình là Đấng Thiên Sai, tức là được Chúa Cha sai đến trần gian để thực hiện thánh ý của Ngài. Đức Giêsu cũng nói về Chúa Thánh Thần là Đấng bảo trợ, Đấng ban sức mạnh và soi sáng các tín hữu để họ can đảm tuyên xưng Đức tin và thực hành những gì Người đã dạy. Tổng hợp những gì Chúa Giêsu đã dạy, Giáo Hội tuyên xưng: Thiên Chúa chúng ta tôn thờ là Thiên Chúa Ba Ngôi.

Nói đến Chúa Ba Ngôi là chúng ta đề cập tới một lãnh vực thuần thuý trừu tượng thiêng liêng. Để có thể hiểu được phần nào, chúng ta phải dùng phương pháp “loại suy”, tức là so sánh với những thực tại trong cuộc sống thường ngày. Hình ảnh dòng sông là một trong số nhiều hình ảnh được dùng để suy tư về Chúa Ba Ngôi. Hình ảnh này diễn đạt ân sủng phong phú của Thiên Chúa Ba Ngôi, đồng thời cho thấy đời sống nội tâm của người tín hữu trong Chúa Ba Ngôi là điều cần thiết như thế nào.

Con sông mang dòng nước phù sa đến tưới cho các cánh đồng, làm cho cây cối được tươi tốt và đơm bông kết trái. Dòng sông cũng mang sự sống đến cho con người và mọi loài. Chúng ta thử tưởng tượng nếu một ngày nào đó mình không có nước thì cuộc sống sẽ ra sao? Thiên Chúa Cha chính là cội nguồn của dòng sông, và Người đổ vào dòng sông nguồn nước phù sa mầu mỡ là tình yêu và ân sủng của Người. Chúa Giêsu chính là dòng sông chứa đựng nguồn nước tình yêu và ân sủng ấy. Và Chúa Thánh Thần là sức đẩy để nguồn nước tình yêu chảy đến các tâm hồn. Như con cá sẽ không sống được nếu nó nhảy ra khỏi dòng sông, vũ trụ này sẽ không thể tồn tại nếu tách rời khởi tình yêu quan phòng và sáng tạo của Thiên Chúa. Như cây cối sẽ không thể tươi tốt và đơm bông kết trái, nếu nó không hút lấy sự sống từ dòng sông mang lại, con người sẽ không có sự sống nếu khước từ Thiên Chúa. Càng ở xa dòng sông, cánh đồng càng dễ nứt nẻ và khô cháy. Cũng vậy, con người sẽ không thể sống được nếu tách ra khỏi dòng sông tình yêu và ân sủng của Thiên Chúa Ba Ngôi.

Lễ Chúa Ba Ngôi nhắc chúng ta về sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài trong vũ trụ và trong đời sống chúng ta. Chính Thiên Chúa đã khẳng định và tình yêu thương của Ngài, khi Ngài xưng danh với ông Môisen: “Đức Chúa, Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và lòng thành tín!”. Suốt bề dày lịch sử nhân loại, Thiên Chúa vẫn luôn tỏ lòng từ bi và thương xót con người, mặc dù họ nhiều lần lầm lỗi và bội phản. Đức Giêsu đã đến trần gian để mạc khải cho chúng ta rõ hơn về Thiên Chúa. Vì yêu thương nhân loại, Chúa Cha đã sai Con của Ngài đến trần gian. Ai tin vào Con Thiên Chúa, sẽ tìm được bình an và sẽ được cứu độ. Như thế, Chúa Giêsu được trao phó sứ mạng quảng diễn hình ảnh từ bi nhân hậu của Chúa Cha, để hết thảy mọi người đều có thể thân thưa với Chúa Cha với tình con thảo: “Lạy Cha chúng con ở trên trời…”.

Khi thiện chí sống tình con thảo với Thiên Chúa và khi chuyên cần thực thi giáo huấn của Chúa Giêsu, người tín hữu như cây được tưới mát bằng dòng suối yêu thương là Chúa Ba Ngôi. Hơn thế nữa, họ được hòa mình vào dòng chảy yêu thương của Chúa Ba Ngôi, để chia sẻ sức sống thiêng liêng và tận hưởng hạnh phúc tuyệt vời Chúa ban cho người công chính. Như thế, khi trọn tình yêu mến và hiệp thông với Chúa Ba Ngôi, dù còn sống nơi trần gian, chúng ta đã được nếm trước vinh quang nước trời. Bởi lẽ hạnh phúc đời đời là gì, nếu không phải là được hòa mình vào hạnh phúc của chính Ba Ngôi Thiên Chúa, để tận hưởng tình yêu viên mãn và bất tận nơi thiên quốc?

Sống trong Chúa Ba Ngôi, đòi hỏi người tín hữu phải có Đức tin và niềm xác tín. Bởi lẽ Thiên Chúa là Đấng Vô Hình, chúng ta chỉ có thể cảm nhận Ngài bẳng trái tim và lý trí, tức là bằng tình yêu mến và cậy trông. Làm thế nào để thể hiện tình yêu mến và cậy trông nơi Chúa Ba Ngôi? Thánh Phaolô khuyên chúng ta: “Anh em hãy gắng nên hoàn thiện. Hãy khuyến khích nhau. Hãy đồng tâm nhất trí và ăn ở thuận hòa. Như vậy, Thiên Chúa là nguồn yêu thương, sẽ ở trong anh em” (Bài đọc II). Thì ra, Thiên Chúa cao sang là thế, lại hiện diện trong tâm hồn chúng ta là những con người nhỏ bé tầm thường. Để được Ngài hiện diện, chúng ta chẳng phải khó nhọc tìm kiếm đâu xa, hoặc chẳng phải làm những gì to tát, nhưng đơn giản là sống hiền hòa với anh chị em mình. Thiên Chúa ngự trong tâm hồn những người công chính và gắng tâm chu toàn luật yêu thương, vì “đâu có tình yêu thương, ở đó có Đức Chúa Trời”, như lời của một bài thánh ca chúng ta vẫn thường hát.

Khi suy tư về mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi, chúng ta không quên nói đến việc làm dấu thánh giá. Chúng ta làm dấu thánh giá nhiều lần trong ngày: khi thức dậy, trước khi ra khỏi nhà, trước khi lái xe, trước khi ăn cơm, trước và sau khi cầu nguyện, buổi tối trước khi đi ngủ…Dấu thánh giá đơn sơ là thế, nhưng lại là một nghi thức quan trọng. Tuy vậy, không ít người vẫn chưa hiểu ý nghĩa của nghi thức làm dấu thánh giá: Đây là lời tuyên xưng Đức tin vào Chúa Ba Ngôi, là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh thần. Đây cũng là cầu nguyện để xin Chúa ban cho chúng ta những ơn lành, nhất là biết sống ơn gọi của người Kitô hữu. Dấu thánh giá được phác họa trên thân mình, nhắc cho chúng ta niềm xác tín vào tình thương của Chúa, thể hiện qua cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu. Đây cũng là lời kinh của lòng trông cậy, với niềm xác tín Chúa Ba Ngôi là nguồn suối yêu thương sẽ đổ chan hòa ơn thánh cho những ai yêu mến Ngài. Sau cùng, dấu thánh giá cũng nhắc nhở chúng ta: người Kitô hữu bất kể làm điều gì, bất cứ ở đâu, phải luôn luôn nhân danh Ba Ngôi Thiên Chúa. Nói cách khác, trong mọi hoàn cảnh, chúng ta phải hướng về Chúa, ý thức về những lời mình nói, những việc mình làm, để những lời nói và việc làm ấy không còn là nhân danh cá nhân, nhưng là nhân danh Chúa Ba Ngôi. Hiểu và sống như thế, chúng ta sẽ thấm đượm chất men Tin Mừng trong mọi hành vi cử chỉ và lời nói của chúng ta.

Xin Chúa cho chúng ta được sống trong dòng sông ân sủng của Ba Ngôi Thiên Chúa, nhờ vậy, đời sống chúng ta sẽ luôn tìm thấy an bình. Sống trong dòng sông này, chúng ta sẽ “như trẻ thơ nép mình lòng mẹ, trong con, hồn lặng lẽ an vui” (Tv 131,2).

Về mục lục

MÓN QUÀ GIÊSU

Lm. Jos. DĐH.

Có những món quà được trao ban mà người nhận chỉ việc sử dụng, không phải lăn tăn, cân đo suy nghĩ, đó là tiền của vật chất, nay còn mai hết. Có những món quà mang giá trị cao, đến độ người nhận luôn xem đó như bảo vật, tài sản thiêng liêng, không thể mua bán, trao đổi, vì đó là công sức đầu tư, là sự hy sinh của bậc sinh thành dành cho con cháu, là tình yêu thương vô bờ bến. Phận làm con ai chẳng mong được cha mẹ yêu thương, như trẻ thơ mong “mẹ về chợ”: có quà bánh. Trong tình bạn, có ai lại không mong muốn được chia sẻ, được cảm thông, được giúp nhau, dù tình ấy chưa phải là bạn tâm giao, tri kỷ. Xã hội thời nào cũng vậy: yêu ai yêu cả đường đi, ghét ai, ghét cả tông ti họ hàng. Dù ta không tham tiền không mê của cải vật chất, không màng danh lợi thú, nhưng vẫn thích được cha mẹ, thầy dạy, tặng quà, nhất là món quà yêu thương.

Trong gia đình, vợ chồng con cháu mỗi người mỗi tính, mỗi sở thích, nhưng các thành viên đều khao khát có được bình an, niềm vui, đó là tình yêu thương, là gia đình có tôn ti trật tự, có trên có dưới, có hiệp nhất trong bầu khí thuận hòa. Xã hội có giai cấp: giầu nghèo, tri thức, bình dân, món “quà Giêsu” ban chung cho nhân loại thật đều và đủ cho mỗi người: “Thiên Chúa không sai Con của Người đến để luận phạt, …”. Món quà Đức Giêsu sẽ không phải là cao siêu hay trừu tượng, vì mắt nhìn thấy, tai nghe được, và trí lòng đủ cảm nhận về ân ban đó: “Thiên Chúa đã yêu thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài, để tất cả những ai tin vào Con Ngài thì được sống”. Qua sự hiện diện của Đức Giêsu, nhân loại sẽ được nghe lời giáo huấn về tình yêu của Thiên Chúa, về hoạt động phong phú trong Đức Kitô Đấng cứu độ, hiểu, tin, và sống niềm tin, vẫn là sự tự do mỗi người đón nhận món quà Thiên Chúa ban tốt nhất và đẹp nhất.

Hiện diện trong ngôi thánh đường này, có thể ta chưa hiểu tâm tính, sở thích của nhau, nhưng chúng ta đang tuyên xưng một đức tin, đang hiệp nhất cầu nguyện với nhau và cho nhau. Nếu như bằng trí khôn của mình, người ta biết nên làm việc lành, tránh xa điều xấu, bằng tình cảm tự nhiên người ta biết yêu kẻ yêu mình. Đức Giêsu hôm nay, Ngài hướng chúng ta đến niềm tin, trong một đức tin, một đức ái kitô, người ta sẽ hiểu Thiên Chúa yêu người thánh thiện, yêu cả người tội lỗi. Tin Đức Giêsu và ở trong Đức Giêsu, người ta được mạc khải cho biết Một Thiên Chúa Ba Ngôi quyền năng, nhưng là Thiên Chúa yêu thương.

Quà tặng Thiên Chúa ban là Đức Giêsu, quà tặng Giêsu sẽ thiết thực hay trừu tượng là tùy mỗi người lãnh nhận. Một em bé sẽ thích được bánh kẹo, hơn là được vòng vàng, thích được cái nhìn thiện cảm, hơn là lời hứa khó hiểu về chuyện tương lai ở xa. Với người có niềm tin thì ơn Chúa, tình yêu Chúa, cần thiết hơn, vì có Chúa là có tất cả, có Đức Giêsu trong đời là có đau khổ thập giá, là có bình an ở đời này và hạnh phúc ở đời sau. Làm sao nhân loại có thể cảm nhận đúng, đủ, Đức Giêsu là Con Một Thiên Chúa, nếu Ngài không đến trong thân phận làm người, làm Thầy, và làm Đấng cứu độ. Làm sao ta có thể tin Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, nếu như Ngài từ chối vâng phục thánh ý Chúa Cha chịu hiến tế trên Bàn thờ thập giá ? Làm sao ai có thể hiểu Đức Giêsu là quà tặng, nếu người ấy chưa một lần gặp, chưa hiểu, chưa tin, và chưa mộ mến Ngài và Đại gia đình của Ngài ?

Người ta có kể cầu chuyện về món quà đặc biệt như sau: có một ông thầy tổ chức ngày tổng kết giáo lý cho các em lễ sinh. Các em từng người lên rút món quà cho riêng mình. Có em nhận được cái lược, em khác nhận được chiếc gương soi, em khác nhận được cây bút, em khác nhận được cuốn sách, tất cả đều vui… riêng có một em, sau khi rút trúng món quà, em không vui và ném ngay vào thùng rác. Ông thầy lấy làm ngạc nhiên, và hỏi cho biết lý do, em trả lời tại sao ai cũng có quà, mà quà của em chỉ là trái chuối ? Thầy ân cần giải thích, và thầy sẽ cùng em khám phá món quà mà em vừa bỏ vào thùng rác nhé. Và rồi thầy trò mau chóng phát hiện trong trái chuối có cái bấm móng tay. Quà Giêsu thì nhân loại đều có, còn đón nhận và làm cho món quà trở nên ý nghĩa cho mình, trở nên nguồn an vui hạnh phúc đời đời có phải là tùy mỗi người chúng ta không ?

Theo lý lẽ tự nhiên, không ai đón nhận món quà giá trị mà lại mang cất vào tủ, không ai dám nói món quà Giêsu là tất cả, nếu người đó không đối thoại, không sống những gì họ đã nghe, đã thấy, đã gặp. Món quà Giêsu được ban cho nhân loại, ban cho người bình dân tri thức, ban cho cả người ở gần ở xa, dù là đạo gốc đạo theo. Ai cũng có tự do, có cơ hội, để nhận món quà Giêsu và cùng tuyên xưng mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Đối tượng nhận quà Giêsu hữu hiệu hơn cả là ai ? chắc không phải là người tài giỏi, nhưng là người biết khiêm tốn để lắng nghe, để biết sống niềm tin theo sứ vụ và ơn ban riêng của mình. Chỉ thế thôi, đơn giản vậy thôi, tin Đức Giêsu và sống niềm tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, là chúng ta đang hiệp thông sống mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi. Amen.

Về mục lục

KINH NGUYỆN TRONG THIÊN CHÚA BA NGÔI

Lm Giuse Hoàng Kim Toan 

Đời sống cầu nguyện thuộc về con người, nhưng sẽ chẳng biết thế nào cầu nguyện cho đúng nghĩa. Con người đầy giới hạn, bởi con người chỉ có thể cầu nguyện với hoặc dâng lên, mà chẳng thể nào cầu nguyện ở trong Thiên Chúa được. Đời sống cầu nguyện của người Kitô hữu có một chiều kích rất đặc biệt, đó là cầu nguyện trong Thiên Chúa Ba Ngôi.

Ngay từ lúc đầu để bắt đầu giờ kinh, người Kitô hữu đã bắt đầu bằng dấu thánh giá “Nhân Danh Cha Và Con Và Thánh Thần”. Ý nghĩa của giờ kinh nguyện đưa người Kitô hữu vào mầu nhiệm tuyên xưng đức tin. Đây là khởi điểm đời sống cầu nguyện khác với các tôn giáo khác.

Cầu nguyện của người Kitô hữu không cầu nguyện với đấng xa lạ hoặc như với đấng vô hình mà cầu nguyện trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu cũng ở trong người Kitô hữu. Đấng hiện diện ở trong con người nên con người không cầu nguyện với đấng ở bên ngoài. Chính Chúa Giêsu dạy người Kitô hữu cầu nguyện “Lời kinh Lạy Cha” và cũng là Đấng ngự bên Chúa Cha cầu nguyện cùng Chúa Cha cho con người: “ Con không xin Cha cất họ khỏi thế gian, nhưng xin Cha gìn giữ họ khỏi ác thần.” (Ga 17, 15).

Chúa Giêsu cầu nguyện cho con người khi về cùng Chúa Cha trong bản tính Ngôi hai Thiên Chúa, như nhà thần học Romano Guardini nói “Trong Ba Ngôi Thiên Chúa có một con người”. Con người ấy chính là Chúa Giêsu, Người đã sống thân phận của con người, cảm thương đến những nỗi đau khổ, bệnh tật, yếu đuối, muộn phiền của con người. Thánh Phêrô trong thư của ngài cũng bày tỏ: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành.” (1 Pr 2,24)

Con người chúng ta cũng chẳng biết sao cầu nguyện cho phải lẽ, người Kitô hữu nhờ đến Chúa Thánh Thần trợ giúp, Thánh Phaolô viết: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: “Áp-ba, Cha ơi! “Vậy anh em không còn phải là nô lệ nữa, nhưng là con, mà đã là con thì cũng là người thừa kế, nhờ Thiên Chúa.” (Gal 4, 6 – 7).

Khi thưa lên Abba, Cha ơi!, người Kitô hữu được gọi Thiên Chúa là Cha, nghĩa là được sinh lại trong Chúa Giêsu Kitô, nhờ Chúa Thánh Thần. Người con ở trong nhà của Cha, người con được thừa hưởng những gì của người con. Cầu nguyện giờ đây không chỉ là cầu xin mà còn với tâm tình tạ ơn của những người con trong Chúa Giêsu nhờ Chúa Thánh Thần. Lòng cảm mến dạt dào được thôi thúc bằng ngọn lửa yêu mến của Chúa Thánh Thần thắp lên trong lòng người Kitô hữu.

Cầu nguyện trong Thiên Chúa Ba Ngôi, người Kitô hữu nghiệm thấy bình an và hoan hỷ trong Thiên Chúa như cảm mến của Mẹ Maria: “linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi vui mừng trong Đấng cứu chuộc tôi” (Lc 1, 46 – 47).

Kinh nguyện trọng tâm nhất của người Kitô hữu là trong Thánh Lễ với cử hành trong Thiên Chúa Ba Ngôi. Chúa Thánh Thần quy tụ, Chúa Thánh Thần chuẩn bị tâm hồn, xưng thú tội lỗi, lắng nghe Lời Chúa Giêsu, áp dụng trong cuộc sống mỗi ngày để trở thành hy lễ trong Chúa Giêsu dâng lên Chúa Cha. Sau cùng hiệp với Chúa Giêsu “Chính nhờ Người, với Người và trong Người mà mọi danh dự và vinh quang đều quy về Chúa là Cha toàn năng trong sự hiệp nhất với Chúa Thánh Thần đến muôn đời muôn thuở”.

Người Kitô hữu cầu nguyện trong Thiên Chúa Ba Ngôi “sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian” (Ga 17, 16), được hưởng nếm Nước Trời, sống trong Chúa và “Chúa sống trong con” (Gal 2, 20) ngay tại thế là niềm vinh phúc. Chúng con tạ ơn Chúa, Chúa ở trong con.

Về mục lục

THIÊN CHÚA LÀ TÌNH YÊU

Bông hồng nhỏ

Biết mình được yêu quả là điều hạnh phúc. Ai trong chúng ta cũng mong muốn mình được yêu thương. Chẳng ai muốn bị người khác ghét bỏ. Được người phàm yêu thương đã là một hạnh phúc. Được Thiên Chúa yêu thương lại là một hạnh phúc vô cùng tuyệt vời, không thể diễn tả hết được. Niềm hạnh phúc được Thiên Chúa ở gần, được nhận biết Ngài và được Ngài yêu thương sẽ mãi là một niềm hạnh phúc tuyệt vời, và niềm hạnh phúc ấy cứ lớn dần thêm mãi khi ta biết mở lòng đón nhận tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Đó là ơn ban của Thiên Chúa.

Trong cuộc trò chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu đã khẳng định rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16). Thánh Gioan trong một lá thư cũng đã khẳng định: “Thiên Chúa là tình yêu: ai ở lại trong tình yêu thì ở lại trong Thiên Chúa, và Thiên Chúa ở lại trong người ấy” (1 Ga 4, 16). Nếu ta biết mở lòng đón nhận tình yêu của Thiên Chúa thì ta cũng được đón nhận sự hiện diện của chính Thiên Chúa, Người vui thích cư ngụ trong những tâm hồn yêu mến Người; Được ở lại trong tình yêu của Thiên Chúa, tâm hồn ta sẽ đầy tràn hoan hỷ và bình an. Nếu ta sống trong tình yêu của Thiên Chúa thì khi đến với người khác, ta sẽ trao ban cho họ chính Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đang cư ngụ trong tâm hồn ta. Thiên Chúa muốn dùng ta làm khí cụ bình an của Chúa, trở thành món quà tình yêu hữu hình của Thiên Chúa cho mọi người.

 Đứng trước tình yêu bao la của Thiên Chúa, ai cũng sẽ cảm thấy mình thật bất xứng. Người là Đấng cao cả vô song, là Đấng rạng ngời thánh thiện; còn ta là thân cát bụi yếu hèn, thân mang đầy tội lỗi. Thế nhưng, Thiên Chúa vẫn tỏ lòng thương xót ta. “Người đã yêu ta đến nỗi đã ban Con Một”, đó là món quà quý giá nhất mà ta được nhận lãnh. Người trao ban Con Một là trao ban chính bản thân Người. Chúa Cha và Chúa Con là một. Chúa Thánh Thần là tình yêu giữa Chúa Cha và Chúa Con. Thánh Phaolô cho biết: “Nếu miệng bạn tuyên xưng Đức Giêsu là Chúa, và lòng bạn tin rằng Thiên Chúa đã làm cho Người sống lại từ cõi chết, thì bạn sẽ được cứu độ (Rm 10, 9). Ta không thể chỉ tuyên xưng đức tin ngoài môi miệng nhưng còn phải diễn tả bằng hành động. Như Thiên Chúa đã yêu thương ta trước thì ta cũng hãy yêu thương anh chị em mình. Khi ta yêu thương người anh chị em của mình bằng tình thương của Chúa, yêu thương như Chúa Giêsu đã yêu thương ta, chính lúc đó ta được gọi là con cái Chúa. Tình yêu của Người là tình yêu tha thứ đến cùng. “Anh em thân mến, chúng ta hãy yêu thương nhau, vì tình yêu bắt nguồn từ Thiên Chúa. Phàm ai yêu thương thì đã được Thiên Chúa sinh ra, và người ấy biết Thiên Chúa” (1 Ga 4, 7), và  “Phàm ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn, đều là con cái Thiên Chúa (Rm 8, 14). Trong cuộc sống, ta có để cho mình được Thần Khí của Đức Kitô hướng dẫn hay ta đã chặn không cho Thần Khí đến đổi mới tâm hồn ta? Đã bao lần, ta đã ngăn cản sự hoạt động của Ngài trong tâm hồn ta. Đó là khi ta cố tình ở lại trong tội, ở lại trong mặc cảm tội lỗi vì nghĩ rằng mình không xứng đáng được yêu thương. Càng nhận biết mình được yêu thương ta lại càng cảm thấy mình thật đáng chê trách. Tại sao ta từ chối tha thứ cho chính mình? Phải chăng ta không tin tưởng vào lòng thương xót hải hà của Thiên Chúa, Đấng đã trao nộp chính Con Một của mình vì yêu thương chúng ta, để Người mang lấy tội lỗi của chính ta mà đưa lên cây thập giá? Nhận biết mình tội lỗi là một điều tốt nhưng hãy đặt hy vọng vào Chúa Giêsu Kitô, để từ nơi ta vấp ngã, chính Người sẽ nâng ta lên. Hãy mở lòng ra cho Thần Khí Chúa đến biến đổi tâm hồn ta, Người là Thần Khí sự sống, Người sẽ lấy khỏi mình ta trái tim chai đá mà đặt vào một quả tim biết yêu thương (x. Ed 36, 26). Hãy đón nhận tình yêu của Thiên Chúa, không phải vì ta xứng đáng nhưng vì Thiên Chúa là Đấng xót thương. Hãy luôn nhớ rằng, Thiên Chúa yêu ta, Chúa Giêsu yêu ta và Thánh Thần hằng đốt lên trong lòng ta ngọn lửa yêu mến.

Lạy Thiên Chúa Ba Ngôi Chí Thánh! Xin cho con luôn sống yêu thương và mở lòng đón nhận tình yêu của Chúa, để con được lớn lên trong tình yêu, sống vui tươi và hạnh phúc. Để nhờ đó, con biết mang tình yêu của Chúa đến cho những người con gặp gỡ. Amen.

Về mục lục

TUY BA LÀ MỘT

Anna Cỏ May

Là người kitô hữu, chúng ta thường được nghe và ghi nhớ rằng chỉ có một Thiên Chúa nhưng có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Ba Ngôi hoạt động khác nhau nhưng là Một Thiên Chúa. Sự hoạt động của Ba Ngôi là hiệp nhất liên kết trong nhau. Chúa Giêsu nói với ông Nicôđêmô rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Chúa Cha yêu thế gian nên đã trao ban Con Một xuống thế làm người để cứu muôn người. Chúa Con sống tâm tình con thảo đã vâng lời Chúa Cha thực hiện ý định tình yêu đó. Ngoài ra, Chúa Con mặc lấy tâm tư của Chúa Cha khi xuống thế làm người là làm cho muôn người nên một trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa (x.Ga 17,11b).

Để chuẩn bị cho Con Một xuống thế gian, Chúa Cha đã sai thiên thần đến gặp trinh nữ tên là Maria, với lời hứa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên bà và quyền năng tối cao sẽ rợp bóng trên bà (x.Lc 1,35). Lúc sống ở trần gian, mọi hoạt động của Chúa Con đều có sự hiện diện của Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Tại sông Giođan, khi chịu phép rửa, Chúa Con vừa ở dưới nước lên thì có Thánh Thần ngự đến và có tiếng từ đám mây phán: “Đây là con yêu dấu của Ta, Ta hài lòng về Người” (Mt 3,16-17). Cũng trên một ngọn núi cao, Chúa Con biến hình, y phục Người trở nên trắng tinh chói lòa. Ngài đàm đạo với ông Môsê và ông Êlia. Sau đó, có tiếng từ đám mây phán: “Đây là con Ta, người đã được ta tuyển chọn, hãy vâng nghe lời Người” (Lc 9,35). Và tất cả những lời Chúa Con nói là lời xuất phát từ Chúa Cha (x.Ga 14,24).  Trước lúc về trời, Chúa Con xin Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ khác đến với mọi người. Đấng sẽ dạy cho họ mọi điều và sẽ làm cho họ nhớ lại những điều Chúa Con đã nói (x.Ga 14,26). Như vậy cả Ba Ngôi tuy hoạt động khác nhau nhưng cùng hoạt động cho và trong nhau, hiệp nhất với nhau để đem lại ơn cứu độ cho con người. Mọi người nhận biết Chúa Cha nhờ Chúa Con (x.Mt 11,7) và Chúa Con được mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần (x.Ga 16,14). Như vậy, dấu chỉ sự hiện diện của Ba Ngôi chính là tình yêu.

Nhờ ân sủng của Bí tích Rửa tội và cử chỉ làm dấu “nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, chúng ta được mời gọi tham dự vào sự sống của Ba Ngôi diễm phúc. Liệu chúng ta có ý thức mỗi khi làm dấu Thánh Giá không? Trong lời chào đầu lễ, linh mục đọc: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần ở cùng tất cả anh chị em” (x.2Cr 13,13). Chúng ta có sẵn sàng đón nhận ân sủng ấy không? Trong ngày lễ Ba Ngôi Thiên Chúa, chúng ta cùng nhau mau chạy đến với Ba Ngôi Thiên Chúa và sốt sắng chuẩn bị tâm hồn để lãnh nhận ân sủng tình yêu của Thiên Chúa, Đấng hằng khao khát chờ đợi mọi người đến và sống cuộc sống trong gia đình Ba Ngôi Thiên Chúa. Một cuộc sống chỉ có tình yêu. Nhờ đó, chúng ta mới biết cách yêu người khác và xây dựng gia đình hay cộng đoàn của mình nên giống với gia đình Thiên Chúa.

Lạy Ba Ngôi Thiên Chúa chí thánh và toàn thiện, xin cho chúng con hằng tin và tôn thờ Ba Ngôi Thiên Chúa uy quyền và vinh hiển trong cuộc sống hằng ngày. Nhờ đó, chúng con thuộc về và được sống trong gia đình của Thiên Chúa ngay từ ở đời này. Amen.

Về mục lục

VỊ THIÊN CHÚA YÊU THƯƠNG VÀ GẦN GŨI

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giêsu Kitô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Thánh Thần” (2 Cr 13, 13).

Đây là lời chào mà thánh Phaolô đã gửi tới các Kitô hữu ở Côrintô trong bài đọc II của đại lễ Ba Ngôi chí thánh. Một lời chào chúc chứa đựng niềm tin Ba Ngôi. Tôi muốn gửi tới mọi người chúng ta chính lời cầu chúc ấy. Quả thật, trong đó Ba Ngôi Thiên Chúa được nói tới, đó là Chúa Cha (Thiên Chúa), Chúa Con (Đức Giêsu Kitô) và Chúa Thánh Thần.

Đời sống Kitô hữu được diễn ra trong tình yêu quan phòng và sự hiện diện của Ba Ngôi. Từ lúc khởi đầu cuộc sống, chúng ta được rửa tội “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần, ” và khi kết thúc cuộc đời, chúng ta cũng ra đi trong lời cầu nguyện: “Con ra đi nhân danh Chúa Cha, Đấng đã tạo dựng nên con, và Chúa Con, Đấng đã cứu chuộc con và Chúa Thánh Thần, Đấng thánh hóa con.”

Ba Ngôi là cung lòng mà trong đó chúng ta được tác thành, bởi vì Thiên Chúa đã chọn ta trước khi tạo thành vũ trụ để chúng ta được trở nên con cái Người theo hình ảnh của Chúa Con (x. Ep 1, 4), Ba Ngôi là quê hương để tất cả chúng ta phải trở về; Ba Ngôi là “đại dương bình an” mà từ đó tất cả mọi sự phát xuất và đổ về.

Vì thế, Ba Ngôi không phải là một mầu nhiệm xa lạ và không mấy quan trọng đối với đời sống mỗi ngày của chúng ta. Ngược lại, Ba Ngôi là vị Thiên Chúa rất “gần gũi” với mỗi người chúng ta. Quả thật, Ba Ngôi không phải ở ngoài chúng ta, nhưng ở trong chúng ta. Ba Ngôi “cư ngụ trong chúng ta” (x. Ga 14, 23), bởi vì chúng ta là đền thờ của Ba Ngôi.

Vậy tại sao người Kitô hữu tin vào Chúa Ba Ngôi? Tại sao chúng ta lại phải tin rằng có một Thiên Chúa nhưng có ba ngôi vị? Ngày nay, có nhiều người thích gạt sang một bên mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, để có thể đối thoại tốt hơn với Do Thái Giáo và Hồi Giáo là những người tuyên xưng đức tin vào một Thiên Chúa duy nhất.

Câu trả lời là: các Kitô hữu tin rằng Thiên Chúa là có Ba Ngôi, bởi vì chúng ta được Chúa Giêsu mạc khải rằng “Thiên Chúa là tình yêu” (x. 1 Ga 4, 8). Đây là mạc khải đến từ Thiên Chúa nên buộc chúng ta phải đón nhận và tin vào Ba Ngôi. Chứ không phải là một phát minh của con người. Thiên Chúa của Kitô giáo không phải là một khái niệm, một ý tưởng như các nhà triết gia đã hình dung và trình bày, nhưng là một Thiên Chúa có Ba Ngôi Vị rõ ràng, phân biệt nhưng hiệp nhất với nhau như một cộng đoàn. Đức Giêsu đến mạc khải cho chúng ta biết về Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần.

Bởi vì, Thiên Chúa là tình yêu. Kinh Thánh nói như thế. Rõ ràng nếu là tình yêu, Thiên Chúa phải có ai đó để yêu. Không có tình yêu nếu không có ai đó để yêu và được yêu. Nếu Thiên Chúa chỉ yêu mình thì không thể định nghĩa Thiên Chúa là tình yêu. Bởi vì yêu mình thì không phải là tình yêu, nhưng là sự ích kỷ hay ái kỷ (narcissism). Tình yêu đích thực thì luôn hướng về người khác.

Và đây là câu trả lời của mạc khải Kitô giáo và Giáo Hội đã đón nhận và giải thích. Thiên Chúa là tình yêu trước khi có thời gian, vũ trụ và loài người, bởi vì từ đời đời Chúa Cha đã có Chúa Con, Ngôi Lời, Đấng mà Người hằng yêu mến bằng một tình yêu vô biên, đó là Chúa Thánh Thần. Trong tình yêu thần linh luôn có ba thực tại hay ba đối tượng: Đấng yêu thương, Đấng được yêu và là Tình Yêu hiệp nhất các Ngôi Vị nên một.

Thiên Chúa Kitô giáo là “một” và là “ba” nhờ sự hiệp thông của tình yêu. Trong tình yêu, các Ngôi Vị hòa hợp với nhau trong hiệp nhất và khác biệt; tình yêu tạo nên sự hiệp nhất trong khác biệt: hiệp nhất về ý hướng, tư tưởng, ước muốn; khác biệt về chủ thể, tính cách, vai trò hay theo phạm vi nhân loại, khác biệt giới tính.
Thần học dùng hạn từ “bản tính” (natura) để chỉ sự hiệp nhất của Thiên Chúa và hạn từ “ngôi vị” (persona) để chỉ về sự phân biệt trong Thiên Chúa. Vì thế, chúng ta có thể nói rằng Thiên Chúa chúng ta là một Thiên Chúa duy nhất trong Ba Ngôi Vị. Giáo huấn Kitô giáo không phải là một sự biến dạng, hay một sự hòa trộn giữa độc thần và đa thần. Ngược lại, đây là một bước tiến mới mẻ mà chỉ có Thiên Chúa mới có thể làm cho chúng ta biết về Người.

Mặt khác, giáo huấn này giúp chúng ta chống lại sự mâu thuẫn sâu xa của chủ nghĩa vô thần hiện đại. Theo Karl Mark và nói chung theo tất cả những người vô thần hiện đại, Thiên Chúa không là gì khác ngoài sự phỏng chiếu của con người. Như một nhà tư tưởng vô thần nọ cho rằng: không phải Thiên Chúa đã tạo dựng con người theo hình ảnh mình, nhưng chính con người đã tạo dựng Thiên Chúa theo hình ảnh con người. Giống như hình ảnh của một người bị thay đổi khi soi mình trên mặt nước của một dòng sông.

Có lẽ họ có lý khi nói những điều này, bởi lẽ, con người hôm nay đã tạo ra vị thiên chúa theo ý muốn và sở thích của mình. Nhưng đây không phải là Thiên Chúa của Kitô giáo. Con người không nghĩ ra mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. Con người cũng không thể phóng chiếu hình ảnh mình thành Thiên Chúa Ba Ngôi. Nhưng đây là giáo huấn được Chúa Giêsu mạc khải cho con người biết. Nên tự thân mầu nhiệm này là liều thuốc giải độc tốt nhất cho chủ nghĩa vô thần hiện đại.

Chúng ta rút ra một số bài học áp dụng từ việc chiêm ngắm mầu nhiệm này. Trước hết, Ba Ngôi là khuôn mẫu cho mỗi cộng đoàn nhận loại, bắt đầu từ cộng đoàn nhỏ bé và cơ bản, là gia đình, rồi tới cộng đoàn lớn hơn là Giáo Hội hoàn vũ. Chúng ta thấy có điều rất đặc biệt mà một gia đình có thể học từ khuôn mẫu Chúa Ba Ngôi. Nếu chúng ta chăm chú đọc Tân Ước, nơi mà Ba Ngôi được mạc khải, chúng ta thấy một quy luật sống. Mỗi Ngôi Vị trong Ba Ngôi thần linh không hề nói về mình nhưng là nói về Ngôi khác, không lôi kéo sự chú ý về mình, nhưng là hướng về Ngôi Vị khác.

Quả thế, trong Tin Mừng, mỗi lần Thiên Chúa Cha nói thường là để mạc khải điều gì đó về Chúa Con: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người” (Mc 9, 7b); hoặc: “Ta đã tôn vinh danh Ta, Ta sẽ còn tôn vinh nữa!” (Ga 12, 28). Đến lượt mình, Chúa Giêsu không làm gì khác ngoài việc nói về Chúa Cha. Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi ngự trong lòng các tín hữu, Người không bắt đầu với việc tôn xưng danh của mình. Tên của Người trong tiếng Do Thái là Ruah. Nhưng Người không dạy chúng ta xưng rằng: Ruah! Ngược lại Người dạy chúng ta thưa “Ápba – Cha ơi, ” đó là tên của Chúa Cha và Người dạy chúng ta cầu xin Maranatha, đó là một lời cầu xin trực tiếp tới Chúa Kitô để nói rằng “Lạy Chúa, xin hãy đến!”

Từ những suy nghĩ này, chúng ta có thể áp dụng cách sống đó vào trong đời sống gia đình. Người cha không còn lo lắng nhiều để khẳng định quyền bính của mình, người mẹ cũng thế. Người mẹ trước khi dạy cho người con thơ mình gọi mẹ ơi, thì hãy dạy cho nó gọi cha ơi. Đó là quy luật của tình yêu! Đức Maria đã sống như thế để hoàn thiện chính mình. Khi lo lắng cho Chúa Giêsu, sau khi tìm thấy con mình trong đền thờ, Mẹ nói với Chúa: “Cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con” (Lc 2, 48b). Ngài đã đặt nỗi lo lắng của chồng trước nỗi lo lắng của mình. “Cha con và mẹ” chứ không phải “mẹ và cha con.”

Xem ra đây là một điều rất nhỏ bé nhưng nếu chúng ta áp dụng, nó có thể thay đổi rất nhiều đời sống của các gia đình và các cộng đoàn! Chúng trở thành sự phản chiếu về Ba Ngôi trên trái đất, khi mà lề tình yêu hướng dẫn mọi sự. Khi mỗi người hướng về người khác, tôn trọng và coi người khác hơn mình, cũng như biết hiến mình phục vụ người khác. Khi đó những thiên đàng nhỏ trên trái đất sẽ xuất hiện.

Ba Ngôi đồng hành với chúng ta trong suốt cuộc sống. Có một dấu chỉ nhắc nhở chúng ta về sự hiện diện này và giúp chúng ta đặt mình liên hệ với Ba Ngôi đó là dấu thánh giá. Khi ghi dấu thánh giá trên mình, chúng ta tưởng nhớ cuộc khổ nạn và cái chết của Chúa Kitô, chúng ta đọc: “Nhân danh Cha, và Con và Thánh Thần, ” chúng ta tuyên xưng Ba Ngôi. Chúng ta phải khám phá vẻ đẹp và sự hiệu quả của cử chỉ nhỏ bé này. Mỗi lần chúng ta làm dấu thánh giá sốt sắng, có ý thức, chúng ta phó thác cho Ba Ngôi, cầu xin Ba Ngôi bảo vệ chúng ta để chống lại những kẻ thù bên trong và bên ngoài, chúng ta làm sống động niềm tin. Những phép lạ và nhiều ơn lành thường xảy ra với việc làm dấu thánh giá. Và nhiều người làm dấu thánh giá để ca ngợi và tạ ơn Thiên Chúa như các cầu thủ bóng đá thường làm.

Như thế, thật là đẹp đẽ và ý nghĩa khi thấy một người cha hay một người mẹ dạy cho con mình làm dấu thánh giá. Đó là dấu sẽ bảo vệ và gìn giữ con cái khỏi mọi nguy hiểm trong cuộc sống hằng ngày. Chúng ta hãy kết thúc và hãy làm dấu thánh giá để tuyên xưng Ba Ngôi: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. Amen!”

Về mục lục

CHÚA BA NGÔI NỐI KẾT TIN YÊU

Lm. Nguyễn Xuân Trường

Đạo Công Giáo tin một Thiên Chúa duy nhất nhưng lại có 3 ngôi: Cha, Con và Thánh Thần. Chúa Ba Ngôi là một màu nhiệm mặc dù rất cao siêu, nhưng cũng rất gần gũi. Gần gũi vì người Công Giáo từ trẻ tới già ngày nào cũng nhiều lần làm dấu thánh giá, đó là lúc chúng ta tuyên xưng màu nhiệm Chúa Ba Ngôi không chỉ bằng lời nói, mà còn bằng cả cử chỉ vẽ hình thánh giá lên chính thân thể chúng ta: Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần.

Màu nhiệm Chúa Ba Ngôi gần gũi nữa bởi vì đã kết nối Thiên Chúa với con người, kết nối trời cao với đất thấp như lời Phúc Âm công bố: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban tặng Con Một, để ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời.” Thế nên, tin Chúa Ba Ngôi là sống mối liên hệ yêu thương gần gũi mật thiết với Chúa.

Thiên Chúa là tình yêu. Tình yêu ấy không chỉ nội tại trong 3 ngôi Thiên Chúa, nhưng tình yêu ấy đã mở rộng ra với nhân loại, với vũ trụ. Vì quá yêu thương nhân loại nên Chúa đã tặng ban Con Một, đó là món quà vĩ đại nhất, quý giá nhất. Và Con Chúa lại trao ban cả mạng sống để cứu độ nhân loại. Sự trao ban trọn vẹn của Thiên Chúa đã làm nên định luật của tình yêu, đó là: yêu nhau luôn muốn tặng quà cho nhau. Khi yêu hết mình thì trao tặng tất cả.

Quà tặng được trao ban thì cũng rất cần có người đón nhận. Thiên Chúa đã rộng lòng ban tặng Con của Ngài cho chúng ta. Và chúng ta cần mở lòng ra để đón nhận Ngài vào lòng dạ mình, vào cuộc đời mình, vào gia đình mình. Được như thế, Chúa sẽ biến đổi chúng ta trở thành quà tặng đem niềm vui hạnh phúc cho nhau. Và điều kỳ diệu của tình yêu là khi tặng quà người ta không thấy mất mà lại thấy được chan chứa niềm vui hạnh phúc.

Như thế, tin yêu Chúa Ba Ngôi là chúng ta hân hoan sống mối liên hệ yêu thương thân thiết với Chúa và với nhau, để trở nên quà tặng dâng lên Chúa và trao cho nhau. Amen.

Về mục lục

BA NGÔI THIÊN CHÚA NGỌN LỬA TÌNH YÊU

 Lm Jos Tạ duy Tuyền

Xã hội chúng ta đang sống đó là xã hội tự cách ly giữa người với người. Chẳng cần đại dịch thì con người cũng đã cách ly nhau bởi giầu và nghèo. Quan và dân. Trí thức và dân quê. Nước phát triển và nước chậm phát triển. Tư bản và xã hội . . . Xã hội mà kỳ thị, phân loại thì tình yêu cũng tính toán, đôi khi chẳng còn tình người mà chỉ còn tranh giành, đấu đá và loại trừ.

Đây là xã hội mà Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolo II nói là “văn hoá sự chết”. Người ta có thể giết chết bào thai để bảo vệ quyền lợi “người lớn”. Người ta có thể phá hủy môi sinh để gia tăng lợi tức. Người ta có thể nín sinh để được thong thả hơn. Người ta có thể hạ sát đồng loại như những anh đồ tể giết lợn chẳng chút run tay. Và rồi con người đã phải trả giá quá đắt khi môi trường sống đã bị con người phá huỷ gây nên dịch bệnh, thiên tai và lũ lụt… Và biết bao băng đảng giang hồ bảo kê, đòi nợ gây nên bao hoang mang cho người dân. Đây là dấu chỉ cho một xã hội đói khát tình yêu chân thật, vì dường như mọi tương quan giữa con ngừơi đều đặt lợi nhuận lên trên hàng đầu.

Ở những nước phát triển người ta đề cao đời sống cá nhân hơn là cộng đoàn. Ngay trong gia đình nhưng chẳng mấy khi gặp nhau. Mỗi người mỗi việc. Mỗi người một phòng khi về nhà. Thế nên, không còn cảm thông, không còn liên hệ. Mỗi người đang tình nguyện trở thành một đảo hoang xa cách, mỗi người một phòng và không ai được vào với danh nghĩa là tôn trọng quyền “riêng tư”.

Lịch sử con người đã chứng minh nếu con người sống riêng lẻ sẽ bị huỷ diệt vì  sự dữ luôn rình chờ xung quanh. Loài người thuở hồng hoang luôn sống theo bộ tộc để bảo vệ lẫn nhau. Rất may cho loài người  từ khi tìm ra lửa đã giúp con người ra khỏi chốn riêng tư để mỗi đêm quây quần với nhau bên ánh lửa. Họ chia nhau trong nom lửa, giữ lửa để nhờ ánh lửa xua tan sự dữ mang lại bình an cho con người.

Trong đức tin ky-tô giáo còn mời gọi chúng ta tiếp nhận ánh lửa từ trời để phá tan bóng tối sự dữ cho nhân gian. Ánh lửa ấy xuất phát từ chính Thiên Chúa là gốc rễ Tình Yêu như Kinh Thánh đã tỏ lộ. Chúa Ba Ngôi là Cha, và Con và Thánh Thần biểu hiện thành một cộng đồng tình yêu, đã chia sẻ sự sống ấy qua công trình sáng tạo vũ trụ và con người. Sự sống của vạn vật đều xuất phát từ Ba Ngôi Thiên Chúa nên cần phải quy hướng về Ngài để Ngài che chở bao bọc, và gìn giữ khỏi mọi hiểm nguy.

Lễ Chúa Ba Ngôi mời gọi người tín hữu hãy ra khỏi chính mình để hiệp nhất với nhau bên ngọn lửa tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa. Vì căn bản của tình yêu là  ra khỏi chính mình, là cho đi, là hy sinh quên mình. Thiên Chúa đã thể hiện tình yêu ấy nơi Chúa Giêsu. Vì thế, đón nhận Chúa Giêsu là lãnh được chất lửa này làm sinh lực chuyển lửa. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời.” (Gioan 3:16)

Tin vào tình yêu của Chúa thì hãy để Chúa bao bọc chở che con người chúng ta bằng tình yêu quan phòng của Ngài. Đồng thời, hãy tiếp tục san sẻ tình yêu ấy cho những người lân cận của mình. Thế giới hôm nay đang lạnh giá vì thiếu tình yêu và sự sum vầy. Con người tự cách ly nhau nên luôn bị cái lạnh đe doạ sự sống. Người cần tình thương chưa hẳn là người ăn xin  ngoài đường phố mà là những người đang ở trong nhà mình, có thể là chính mình nữa, vì vẫn có thể lạnh vì cô đơn và bị loại trừ.

Thế nên, hãy ra khỏi cái tôi ích kỷ của mình để sống trong sự hiệp nhất với cộng đoàn. Và hãy ra khỏi chính mình để sống yêu thương người bên cạnh của chúng ta. Vì:

Dẫu xây chín bậc phù đồ

Chẳng bằng làm phúc cứu cho một người.

Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống hiệp nhất với nhau trong tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa và xin cho chúng ta biết gìn giữ ngọn lửa yêu thương của Thiên Chúa để toả sáng tình yêu và hy vọng cho thế gian.  Amen

Về mục lục

TÌNH YÊU THIÊN CHÚA VÔ BIÊN

 Lm Trần Ngà

Người đời có nhiều cách cho:

Cho của thừa

Khi có nhóm từ thiện đến gõ cửa xin quà cho người nghèo, chị A mang ra nhiều áo quần cũ cả ba năm nay không đụng tới để làm quà tặng. Cho như thế là cho thứ dư thừa; chỉ có chút ít tình thương trong hành vi đó.

Cho thứ cần dùng

Ông B là người cao tuổi, góa vợ, không con, gia thế thanh bần, kiếm sống qua ngày bằng cách bán vé số dạo. Thế nhưng vì thấy đứa bé nhà hàng xóm quá nghèo, phải cuốc bộ đến trường mỗi ngày cả chục cây số, ông trút hết tiền dành dụm để dưỡng già, đem mua xe đạp điện tặng cho đứa bé, với hy vọng nó sẽ đỡ vất vả, nắng nôi.

Cần phải có nhiều tình yêu thương hơn mới có thể thực hiện được nghĩa cử cao đẹp nầy.

Cho thứ tối cần

Trong những ngày qua, báo chí Việt Nam đưa tin nam phi công người Anh, 43 tuổi, không còn cha mẹ, chưa lập gia đình, bị nhiễm Covid-19 rất nặng. Hội đồng y khoa tham gia điều trị cho biết anh hiện đang trong tình trạng nguy kịch, phổi không hoạt động và cần phải cấy ghép phổi thì mới có cơ may sống sót.

Khi tin này được loan đi, tính đến ngày 20 tháng 5 năm 2020, có đến 50 người Việt Nam có sức khỏe tốt, tình nguyện hiến một phần lá phổi của mình để cứu mạng sống anh.

Dám để cho bác sĩ cắt bớt một phần phổi của mình để hiến tặng người không quen biết nhằm cứu sống anh ta, là một nghĩa cử hào hiệp và rất giàu tình yêu thương. Phải có tình thương rất lớn lao mới có thể thực hiện được hành vi tốt lành và cao đẹp này.

Trao ban là thước đo của tình yêu: Ai cho nhiều, chứng tỏ người đó yêu mến nhiều; ai cho ít, chứng tỏ yêu mến ít ; ai đem những gì rất cần thiết cho bản thân mình để tặng ban cho người khác, thì tình yêu của người đó quả là lớn lao.

Thiên Chúa yêu thương con người vô hạn vì đã trao ban Con Một cho thế gian

Loài người đã phạm tội và chiếu theo luật thì phải gánh lấy hậu quả của tội là chịu án phạt đời đời trong hỏa ngục.

Nhưng nếu để cho loài người phải sa hỏa ngục đời đời vì tội lỗi của họ thì tội nghiệp cho loài người quá đỗi và Thiên Chúa cũng đau xót vô cùng.

Do đó, Thiên Chúa Cha quyết định cho Con Một của Ngài xuống thế làm người, không phải để lên án hay xét xử thế gian, không phải để trừng trị người phạm tội, nhưng là để cứu muôn người khỏi chết và cho họ được sống đời đời.

Chính Chúa Giê-su đã xác nhận điều này khi nói với ông Ni-cô-đê-mô: “Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để cứu độ thế gian” (Ga 3, 17).

Để cứu muôn người khỏi phải sa hỏa ngục đời đời, Chúa Giê-su phải mang lấy tội lỗi của họ vào thân và một khi đã mang lấy tội lỗi loài người, Chúa Giê-su phải gánh chịu những hậu quả do những tội lỗi đó gây ra. Vì thế, Ngài phải chịu phạt và chịu chết thay cho muôn người.

Thế là, nhờ Chúa Giê-su chịu khổ nạn mà con người được tha thứ, nhờ Ngài chịu chết mà muôn người được cứu sống.

Thiên Chúa Cha đã yêu thế gian đến nỗi đã cho Con Một Ngài chịu chết đau thương để đền tội cho muôn dân, để cho ta được thoát khỏi án phạt đời đời trong hỏa ngục và được sống hạnh phúc hoan lạc trên thiên đàng. Điều này chứng tỏ tình thương Chúa dành cho chúng ta quả là vô bờ vô bến.

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa là Đấng tạo hóa quyền năng, vô cùng lớn lao, cao cả, là Đấng thánh thiện, tốt lành không thể nào tả xiết; còn chúng con là loại thụ tạo hèn kém, bé nhỏ, chẳng đáng gì trước mặt Chúa.

Thế mà vì yêu thương chúng con, Đấng vô cùng cao cả đã hiến thân chết thay cho loài người bé mọn. Thương đến mức chịu chết thay cho người khác là tình thương vô bờ, vô biên…

Xin cho chúng con nhận ra tình thương cao vời đó, để quyết tâm sống đẹp lòng Chúa và cố gắng đền đáp phần nào tình Chúa yêu thương chúng con.

Về mục lục

GIA ĐÌNH CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Bosco Dương Trung Tín

  “Cầu chúc toàn thể anh em được đầy tràn ân sủng của Chúa Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Thiên Chúa và ơn hiệp thông của Thánh Thần” (2Cor 13,13).

   Hôm nay cùng với toàn thể Giáo Hội, chúng ta mừng kính lễ Chúa Ba Ngôi.

  Trong Giáo Hội, Thiên Chúa Ba Ngôi là một tín điều, có nghĩa là toàn thể các tín hữu công giáo đều phải tin. Vậy tín điều Thiên Chúa Ba Ngôi là gì?

   Theo sách Giáo Lý Công Giáo thì “Ba Ngôi là một. Chúng ta không tuyên xưng ba Thiên Chúa, nhưng một Thiên Chúa duy nhất có BA NGÔI: Ba Ngôi đồng bản thể. Các Ngôi Vị Thiên Chúa không chia nhau một thiên tính duy nhất, nhưng mỗi vị đều là Thiên Chúa trọn vẹn. Chúa Cha là gì thì Chúa Con là thế ấy. Chúa Con là gì thì Chúa Cha là thế ấy và Chúa Cha và Chúa Con là gì thì Chúa Thánh Thần là thế ấy. Nghĩa là một Thiên Chúa duy nhất theo bản tính. Mỗi Ngôi Vị là thực tại đó nghĩa là bản thể, yếu tính, bản tính đó” (x.GLCG, số 253).

   Đó là Đức Tin Công Giáo của chúng ta. “Đức Tin Công Giáo hệ tại điều này: Thờ kính Một Chúa Ba Ngôi và Ba Ngôi Một Chúa mà không lẫn lộn giữa các Ngôi Vị, không chia cắt bản thể. Vì Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần khác biệt nhau, nhưng Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần có cùng một thiên tính, một vinh quang, một uy quyền vĩnh cửu” (x.GLCG, số 266).

    Nói tóm, Thiên Chúa của chúng ta là Cha, Con và Thánh Thần. Nếu nói Thiên Chúa của chúng ta là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần, thì nói rõ ràng ràng Cha là CHÚA. Con cũng là CHÚA và THánh Thần cũng là CHÚA, nhưng dễ làm cho chúng ta hiểu lầm là có 3 CHÚA.

   Không. Đức tin của người Công Giáo chúng ta là chỉ có Một CHÚA, nhưng là BA NGÔI. Ba Ngôi khác biệt nhau nhưng không tách biệt. Khác biệt nhau về NGÔI VỊ, nhưng không tách biệt nhau về THIÊN TÍNH.

   Ngày xưa, khi làm dấu, người Công Giáo chúng ta đọc: “Nhân danh Cha và Con và Thánh Thần. A-men”. Biểu thức này không thấy từ CHÚA. Bây giờ thì “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần. A-men”. Biểu thức này lại dễ gây hiểu lầm là có 3 CHÚA.

   Để khỏi hiểu lầm và đầy đủ, chúng ta có thể đọc thế này chăng? “Nhân danh Thiên Chúa là Cha và Con và Thánh Thần. A-men”. Hay “Nhân danh Thiên Chúa là Ngôi Cha, Ngôi Con và Ngôi Thánh Thần. A-men”. (Một suy tư cá nhân tôi).

   Trong tiếng la-tinh : “In nómine Patris, et Fí-li-i et Spí-ri-tus Sancti. Amen”.

   Trong tiếng Pháp : “Au Nom du Père et du Fils et du Saint-Esprit. A-men”.

  Trong tiếng Anh : “In the name of the Father, and of the Son and of the Holy Spirit. A-men”.

  Trong tiếng Tay ban nha : “En el nombre del Padre y del Hijo y del Espiritu Santo. Amén.

  Trong tiếng Nhật : “Chichi to Ko to Seirei no mi Na ni yotte. A-men”.

  Chúng ta thấy trong các ngôn ngữ nước ngoài không có từ CHÚA hay Thiên Chúa hoặc Ngôi. Ngay cả trong tiếng La- tinh, cũng không thấy.

   Theo thánh Phao-lô, Cha là Thiên Chúa, Thiên Chúa của tình thương. Con là Thiên Chúa, Thiên Chúa của ân sủng và Thánh Thần là Thiên Chúa, Thiên Chúa của sự hiệp nhất. Có thể nói đó là “gia đình” của Thiên Chúa.  Cũng như trong một gia đình, có BỐ, Mẹ và Con cái vậy.

   Mỗi người tín hữu Công Giáo chúng ta : Nhờ ân sủng bí tích Thanh Tẩy “Nhân danh Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần”, chúng ta được mời gọi chia sẻ sự sống của Ba Ngôi diễm phúc, ở trần thế này trong bóng tối của đức tin và sau khi chết trong ánh sáng vĩnh cửu.(x. GLCG, số 265).

   Vậy, hôm nay trong khi mừng kính lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta hãy tin và tuyên xưng tín điều Một Chúa Ba Ngôi. Đồng thời, ca ngợi, tôn vinh và thờ lạy Một Thiên Chúa Ba Ngôi mà thôi. Có như thế, từ bây giờ và mãi mãi, chúng ta sẽ sống trong tình thương của Thiên Chúa Cha, trong ân sủng của Chúa Con và trong sự hiệp nhất của Chúa Thánh Thần.

Về mục lục

THIÊN CHÚA LÀ CHÚA YÊU THƯƠNG

Lm.Jos Đỗ Đức Trí

Có lẽ trên thế gian này, khi so sánh tình yêu thương của Thiên Chúa đối với nhân loại thì không có hình ảnh nào có thể diễn tả hết, ngoài hình ảnh của cha mẹ dành cho con cái. Mặc dù tình yêu của cha mẹ dành cho con cái cũng còn rất nhiều giới hạn, nhưng tình yêu đó vẫn là một tình yêu lớn lao, quảng đại không tính toán. Nhiều người khi thấy những sự bất công trong cuộc sống, đã đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa không tiêu diệt hết sự ác trên thế giới này? Tại sao Thiên Chúa không trừng phát người gian ác? Những câu hỏi như thế chỉ có thể trả lời là: Vì Thiên Chúa là Cha, Ngài yêu thương những kẻ đau khổ và còn yêu cả kẻ gây ra đau khổ cho người khác, vì họ cũng là con của Ngài. Người khác lại đặt câu hỏi: Tại sao Thiên Chúa lại để dịch bệnh kéo dài như thế mà Thiên Chúa vẫn không ra tay ngăn chặn? Thiên Chúa vẫn đang cùng với các y bác sĩ và những người có trách nhiệm ngăn chặn đại dịch, Thiên Chúa còn cho thấy qua đại dịch này, mọi người có thể nhìn thấy được những tấm gương hy sinh quên mình vì các bệnh nhân.
Chúng ta biết rằng màu nhiệm Một Thiên Chúa duy nhất có Ba Ngôi: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần là màu nhiệm chính yếu trong đạo của chúng ta. Với trí khôn nhỏ bé, hạn hẹp của con người, chúng ta sẽ mãi mãi chẳng bao giờ có thể hiểu hết về màu nhiệm Thiên Chúa. Và nếu, chúng ta có thể hiểu hết về Thiên Chúa, thì Thiên Chúa sẽ không còn phải là Thiên Chúa vô biên vô hạn nữa. Mừng lễ Chúa Ba Ngôi hôm nay, giáo Hội không giải thích về màu nhiệm này, nhưng qua các bài đọc, Lời Chúa cho chúng ta thấy rằng: Thiên Chúa là Cha nhân hậu, Ngài chậm giận và giàu lòng thương xót đối với mọi người mọi loài.
Sách Xuất hành đã kể lại rằng: Ông Mose đã trung thành vâng theo lệnh Chúa, dẫn dắt dân Israel ra khỏi đất Aicập. Ông chính là Người được nhìn thấy Thiên Chúa qua hình ảnh bụi gai bốc cháy, ông nhiều lần được trò chuyện với Thiên Chúa qua đám mây, nhưng chưa bao giờ ông được nhìn thấy mặt Thiên Chúa. Vì thế, ông bày tỏ khao khát của ông, cũng là khao khát của thụ tạo: Lạy Chúa Tôi đã tin Chúa theo Chúa, đã trung thành với lệnh truyền của Thiên Chúa, tôi chỉ còn khao khát một điều làm tôi mãn nguyện, đó là cho tôi được nhìn thấy mặt của Chúa. Thiên Chúa đã đáp lại lời khẩn xin của Mose, Ngài đặt ông vào một hốc đá, ngài lấy tay che mặt ông, và đi ngang qua ông. Khi Thiên Chúa bỏ tay ra thì Mose chỉ nhìn thấy phía sau lưng của Thiên Chúa. Lúc Thiên Chúa ngự xuống trên đám mây và đi ngang qua ông, Thiên Chúa đã xưng danh Người là: Đức Chúa! Thiên Chúa nhân hậu và từ bi, hay nén giận, giàu nhân nghĩa và lòng thành tín. Ông Mose nghe thấy thế thì sấp mình xuống đất mà thờ lạy.
Thiên Chúa không để cho con người nhìn thấy dung nhan Ngài, nhưng lại cho thấy trái tim và tấm lòng của Ngài đối với con người. Thiên Chúa không muốn con người suy luận về Ngài bằng trí óc, nhưng đón nhận Ngài bằng việc nhìn thấy những điều tốt lành Ngài đã thực hiện và suy phục Ngài bằng trái tim yêu mến và thái độ tôn thờ. Điều Thiên Chúa mong chờ nơi con người, là đáp lại tình thương của Thiên Chúa bằng việc hoàn toàn suy phục, tin tưởng và trung thành để cho Ngài dẫn dắt. Qua dòng lịch sử, Thiên Chúa luôn cho thấy, Ngài là một vị Thiên Chúa luôn trunh thành với lời đã hứa, luôn yêu thương chăm lo cho con người như cha mẹ yêu thương con cái và gần gũi thân thiết với con người như người thầy, người bạn.
Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu, Đấng từ nơi Thiên Chúa Cha mà đến, đã nói cho chúng ta biết về Thiên Chúa. Qua câu chuyện với ông Nicôđêmô, Chúa Giêsu nói với ông rằng: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời. Với khẳng định này, Chúa Giêsu cũng không mô tả về Thiên Chúa, nhưng chỉ cho thấy hành động yêu thương của Thiên Chúa là Cha, Ngài không tiếc gì với nhân loại. Khi thấy con người sai đường lạc lối, đi vào chỗ chết, Thiên Chúa không nỡ thấy con người phải đau khổ trong sự chết dưới bàn tay ma quỷ, Ngài đã trao tặng chính Con Một của Ngài cho nhân loại. Người Con ấy là Chúa Giêsu, là hiện thân tình yêu của Thiên Chúa đến ở với nhân loại, yêu thương và phục vụ nhân loại và cuối cùng là chấp nhận cái chết trong thân phận con người để cứu chuộc nhân loại.
Chúa Giêsu đến trần gian với nhân loại, Ngài đã thể hiện tình yêu của Thiên Chúa như một một người thầy, người bạn. Ngài đã chia sẻ đến tận cùng thân phận con người với nhân loại: cùng vui, cùng buồn, cùng chịu đau khổ, nếm mùi thành công và thất bại, được yêu thương và bị loại trừ, cuối cùng Ngài chết vì nhân loại và chết thay cho nhân loại. Ngài yêu con người đến tận cùng bằng việc chấp nhận cái chết thập giá, biến cây thập giá trở thành biểu tượng của tình yêu đến cùng mà Chúa Giêsu dành cho nhân loại. Hơn nữa, Chúa Giêsu đã chỗi dậy từ cõi chết để đem lại cho nhân loại sự sống mới của Ngài. Từ đây, nhân loại nhờ tin vào Chúa Giêsu sẽ không phải chết đời đời, nhưng được chia sẻ vào sự sống của Chúa Giêsu thông ban. Sau khi hoàn tất sứ mạng cứu độ, Ngài được vinh thăng về trời để tiếp tục dùng quyền năng để bảo vệ và yêu thương nhân loại.
Thiên Chúa không thể ngừng tuôn đổ tình yêu của Ngài cho con người, Ngài lại tiếp tục ban Chúa Thánh Thần đến với nhân loại và ở cùng nhân loại cho đến ngày tân thế. Chúa Thánh Thần là Đấng Ban Sự Sống đã đến với thế giới và hoạt động cách mạnh mẽ trong Giáo Hội. Ngài giúp cho mỗi người nhớ lại những gì Chúa Giêsu đã dạy và ban sức mạnh giúp họ có thể bước theo lời răn dạy của Chúa Giêsu. Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội, Ngài là vị Thầy Khôn Ngoan, Ngài soi sáng và hướng dẫn Giáo Hội cũng như các tín hữu vượt qua những lúc thăng trầm và thử thách. Ngài như ngọn gió thổi vào cánh buồm của con thuyền giáo Hội, đưa Giáo Hội lên đường ra khơi để loan báo Tin Mừng của Chúa Giêsu cho thế giới.
Mừng lễ Thiên Chúa Ba Ngôi, chúng ta xin Chúa gia tăng đức tin để chúng ta xác tín cách chắc chắn và phó thác cuộc đời chúng ta cho Thiên Chúa là Cha, Con và Thánh Thần. Chúng ta tạ ơn Thiên Chúa Cha vì công trình tạo dựng, cách riêng Ngài đã tạo dựng và mời gọi chúng ta bước vào thế gian này, để được nhận biết Chúa là Cha và được sự yêu thương của Ngài. Chúng ta cảm tạ Chúa Giêsu Kitô vì công trình cứu chuộc Ngài đã thực hiện vì yêu thương nhân loại. Tạ ơn Đức Giêsu vì Ngài chính là Thiên Chúa đã đến để đồng lao cộng khổ với con người, dùng cái chết và sự phục sinh để cứu chuộc con người. Chúng ta cảm tạ Chúa Thánh Thần vì nguồn ơn dồi dào ta đã lãnh nhận được từ Thánh Thần: Ơn Sức mạnh, ơn Khôn Ngoan, ơn Hiểu Biết… và đầy tràn các ơn khác nữa mà Chúa Thánh Thần đã ban tặng để hương dẫn dạy dỗ chúng ta.
Mừng lễ Chúa Ba Ngôi, chúng ta được mời gọi sống và tuyên xưng màu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi trong đời sống thương ngày và gia đình. Mỗi khi chúng ta làm dấu thánh giá trên mình là chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi, vì thế, xin cho chúng ta làm dấu thánh giá với sự sốt sắng, ý thức và mạnh dạn tuyên xưng Thiên Chúa của chúng ta trước mặt người đời. Khi chúng ta sống đức tin, đức cậy, đức mến một cách trọn vẹn và chăm chỉ, là chúng ta tuyên xưng Thiên Chúa Ba Ngôi đang sống và đang hoạt động trong cuộc đời chúng ta.
Thiên Chúa Ba Ngôi không phải là lý thuyết tôn giáo hay thần học, mà thực sự là vị Thiên Chúa đang hoạt động trong cuộc đời và gia đình chúng ta. Chính gia đình mỗi người được tạo dựng và thiết lập theo hình ảnh của Thiên Chúa Ba Ngôi. Khi chúng ta sống và thể hiện tình yêu thương hiệp thông, xây dựng gia đình thành một cộng đoàn đạo đức hạnh phúc là chúng ta đang diễn tả màu nhiện Ba Ngôi Thiên Chúa cách sống động và cụ thể bằng đời sống. Nơi gia đình mỗi thành viên luôn nghĩ đến nhau, yêu thương nhau, quan tâm và hi sinh cho nhau là chúng ta đang thể hiện những đặc tính nơi màu nhiệm Thiên Chúa.
Xin Thiên Chúa Ba Ngôi là Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần luôn ở trong các gia đình và chúc lành cho các gia đình và mỗi người chúng ta. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT LỄ CHÚA BA NGÔI_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Chúa Nhật đầu tiên sau lễ Ngũ Tuần được liên kết khá sớm với việc cử hành lễ Chúa Ba Ngôi. Lễ tôn vinh Mầu Nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi được cử hành vào thế kỷ thứ bảy. Lễ này dần dần được xem như một ngày lễ đặc biệt trong lịch phụng vụ. Kể từ thế kỷ thứ mười, có khá nhiều nhà thờ cử hành thánh lễ này một cách long trọng. Vào năm 1334, Đức Giáo Hoàng Gioan XXII chuẩn nhận việc cử hành này ở Rô-ma và mở rộng đến Giáo hội hoàn vũ.

Xh 34: 4-6, 8-9

Bài Đọc I là đoạn trích dẫn nổi tiếng từ sách Xuất Hành, trong đó Thiên Chúa mặc khải cho ông Mô-sê Danh của Ngài: “Đức Chúa”, và định nghĩa chính mình: “Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”.

2Cr 13: 11-13

Đây là Phần Kết thư thứ hai của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô. Phần Kết này chứa đựng một trong những công thức Chúa Ba Ngôi chính xác nhất của toàn bộ Tân Ước.

Ga 3: 16-18

Đoạn trích Tin Mừng Gioan hôm nay gợi lên tình yêu của Chúa Cha, Đấng trao ban Con của Ngài cho nhân loại để họ được sống đời đời. Ở nơi sự tuôn tràn tình yêu hiệp thông giữa Chúa Cha và Chúa Con trên toàn thể nhân loại, Giáo Hội nhận ra cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần.

BÀI ĐỌC I (Xh 34: 4-6, 8-9)

Sách Xuất Hành thuật lại cuộc ra khỏi đất Ai-cập và thời kỳ đầu tiên dân Do thái hành trình trong hoang địa. Biến cố này được định vị có lẽ vào thế kỷ 13 tCn. Nhưng bài trình thuật cũng ghi lại kinh nghiệm tôn giáo của một dân tộc, kinh nghiệm duy nhất mà vị lãnh đạo của dân, ông Mô-sê, người mà Thiên Chúa đã mặc khải Danh Ngài, được thụ hưởng trước tiên.

Sách Xuất Hành tường thuật đến ba lần mặc khải Danh Thiên Chúa này, và mỗi một lần, từ những nguồn khác nhau. Người ta biết rằng ba chứng liệu cốt yếu làm nên nền tảng của sách Xuất Hành cũng như Ngũ Thư: chứng liệu Gia-vít (Thiên Chúa được gọi Gia-vê), chứng liệu Ê-lô-hít (Thiên Chúa được gọi Ê-lô-him) và chứng liệu Tư Tế (Thiên Chúa cũng được gọi Ê-lô-him).

Thiên Chúa mặc khải Danh Ngài cho ông Mô-sê lần thứ nhất vào lúc Ngài trao phó cho ông sứ mạng giải phóng dân Do thái khỏi ách Ai-cập, theo trình thuật Ê-lô-hít (Xh 3: 14-15); lần thứ hai sau cuộc thất bại của ông Mô-sê khi hội kiến với Pha-ra-on, theo trình thuật Tư Tế (Xh 6: 2-5); lần thứ ba ở nơi bản văn mà chúng ta đọc vào Lễ Ba Ngôi hôm nay, theo trình thuật Gia-vít. Tác giả chỉ long trọng nhắc lại Danh Thiên Chúa là “Gia-vê”, bởi vì ông đã luôn luôn gọi Thiên Chúa dưới danh xưng này trước đây rồi, nhưng ông mang đến cho mặc khải cảm động này những phẩm tính của chính Hữu Thể thần linh, Ngài là một vị Chúa rất mực yêu thương, hay tha thứ và giàu lòng nhân hậu.

  1. Thần Hiển trên núi

“Khi ấy, ông Mô-sê dậy sớm và lên núi Xi-nai theo lệnh Chúa đã truyền cho ông; ông mang hai bia đá trong tay”. Trước đây, ông Mô-sê đã lên núi Xi-nai và đã lãnh nhận ở đó hai tấm bia đá ghi khắc Lề Luật rồi. Nhưng trong lúc xuống núi, ông đã đau đớn đến sửng sốt khi nhìn thấy cảnh tượng dân Do thái múa hát chung quanh “con bê bằng vàng” và xưng tụng nó như vị thần linh đã giải thoát mình khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập. Tức giận, ông đã ném vỡ hai tấm bia Lề Luật (Xh 32: 19).

Chương 34, mà bài trình thuật hôm nay được trích dẫn, mô tả việc tái lập Giao Ước. Những chi tiết của bài trình thuật này mang dấu ấn của tác giả Gia-vít. Cũng chính tác giả này trong sách Sáng Thế trình bày Đức Chúa “đi dạo với hai ông bà nguyên tổ trong vườn lúc gió chiều hiu hiu thổi” (St 3: 8). Cũng chính ông trong bài trình thuật hôm nay mô tả “Chúa ngự xuống trong đám mây”, đám mây chiếu sáng này vừa báo hiệu nhưng đồng thời vừa che phủ sự hiện diện của Thiên Chúa. Qua hình ảnh này, tác giả diễn tả sự gần gũi thân tình của Thiên Chúa, nhưng đồng thời sự siêu việt khôn tả của Ngài. Và cũng chính ông trong bài trình thuật hôm nay mô tả Thiên Chúa “đứng đó với ông Mô-sê” theo cùng cung cách thân mật như Ngài đã đứng gần bên A-đam và nói chuyện với ông. Hoạt cảnh của cuộc Thần Hiển vừa giản dị vừa uy nghi hùng vĩ.

  1. Danh Thiên Chúa

“Người xưng danh Người là Gia-vê”. Danh Thiên Chúa là “Gia-vê” được diễn tả bởi bốn phụ âm thánh: YHWH. Danh này khá bí ẩn đến nổi người ta có thể kết luận rằngThiên Chúa không thực sự trao ban Danh Ngài. Lại càng không nữa, vì theo não trạng Sê-mít, tên chính là người mang tên ấy, biết tên của một vị thần linh, chính là có quyền điều khiển vị thần linh mang tên đó theo ý muốn của mình. Thiên Chúa không thể trao phó chính mình vào trong tay con người. Như thế, danh bí ẩn này muốn nói rằng Thiên Chúa là một mầu nhiệm khôn tả. Dù thế nào, Thiên Chúa định vị mình như Hữu Thể siêu việt, độc lập tuyệt đối, không hư vô như các ngẫu tượng, Ngài tự hữu.

Vào thế kỷ thứ tư trước Công Nguyên, dân Do thái có thói quen không xướng danh Gia-vê để tôn kính Thiên Chúa. Danh này được thay thế bằng một tước hiệu cao quý khác theo tiếng Do thái: “Adonai”, hay theo tiếng Hy lạp: “Kurios”. Bản dịch của nhóm Các Giờ Kinh Phụng Vụ, vì muốn gìn giữ sự tôn kính danh Thiên Chúa theo văn hóa dân Do thái, đã thay thế danh Thiên Chúa này bằng danh xưng “Đức Chúa”.

  1. Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín

Dù danh Thiên Chúa được hiểu như thế nào, thì Thiên Chúa cũng tự giới thiệu mình cho ông Mô-sê ngay liền sau đó: “Đức Chúa! Đức Chúa! Thiên Chúa từ bi nhân hậu, nhẫn nại, giàu ân nghĩa và thành tín”. Trong ngữ cảnh trực tiếp, qua lời giới thiệu này, Thiên Chúa muốn nói với ông Môsê là Ngài tha thứ cho dân Ngài tội bội giáo mà việc thờ lạy con bê vàng là chứng cớ hiển nhiên. Trong ngữ cảnh chung của Kinh Thánh, mặc khải này được ghi khắc như cải chính hình ảnh của một Thiên Chúa đáng sợ và thù hằn. Mặc khải này loan báo những sứ điệp của các đại ngôn sứ và giáo huấn của sách Đệ Nhị Luật về lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Mặc khải này đánh dấu một trong những đỉnh cao của Cựu Ước.

  1. Lời cầu bầu của ông Mô-sê

Ông Mô-sê là người trung gian giữa Thiên Chúa chí thánh và một dân tội lỗi. Trước nỗi xao xuyến của ông Mô-sê về tội lỗi của dân mình, Thiên Chúa đáp trả bằng cách nêu ra lòng từ bi nhân hậu của Ngài. Như được yên lòng, ông Mô-sê tin tưởng nhưng khiêm hạ nói lên lời cầu bầu của mình.

Lời cầu bầu này thật có ‎ý nghĩa trong bối cảnh vừa mới xảy ra trước đây: dân Do thái, khốn khổ vì khát, đã than trách và ngờ vực: “Có Đức Chúa ở giữa chúng tôi không?” (Xh 17: 7) và những kẻ dựng tượng bò vàng là muốn “có một vị thần minh mà họ thấy được dẫn đầu họ” (Xh 32: 23). Vì thế, phải chăng Thiên Chúa của dân Ít-ra-en quá siêu việt đến nỗi phải thay thế Ngài bằng một ngẫu tượng vật chất để mà dân có thể cảm nghiệm được sự hiện diện của Thiên Chúa? Vì thế, ông Mô-sê bạo dạn khẩn nguyện cùng Chúa: “Lạy Chúa, nếu quả tôi được nghĩa với Chúa, thì dám xin Chúa cùng đi đường với chúng tôi. Dân này là một dân cứng cổ, nhưng xin tha thứ tội tình lầm lỗi chúng tôi, và nhận chúng tôi làm dân riêng của Ngài”. Đó là tất cả ‎ý nghĩa của Giao Ước Xi-nai. Đó cũng sẽ là Giao Ước Mới.

BÀI ĐỌC II (2Cr 13: 11-13)

Thư thứ hai của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô có lẽ được viết vào cuối năm 56 hay 57. Đoạn trích dẫn hôm nay là Phần Kết thúc của thư này.

  1. Những lời khích lệ

Thánh Phao-lô thông thường kết thúc các thư của mình với những lời khích lệ. Cũng vậy, trong lời kết của bức thư này, thánh nhân mời gọi họ hãy vui mừng và nỗ lực hoàn thiện bản thân mình, tiếp đó hãy đồng tâm nhất trí với nhau và ăn ở hòa thuận. Lời khuyên bảo này ám chỉ cách kín đáo đến những chia rẽ trước đây của cộng đoàn Cô-rin-tô, giờ đây mọi việc đã qua rồi.

“Anh em hãy hôn chào nhau một cách thánh thiện”. Đó là dấu chỉ của tình bạn. Lời khuyên của thánh nhân thường đem lại cho nụ hôn huynh đệ này tất cả ý nghĩa của nó (x. 1Th 5: 26; 1Cr 16: 20; Rm 16: 16). Tiếp đó, “Tất cả tín hữu ở đây gửi lời chào anh em”. Các tín hữu này là cộng đồng Ki-tô hữu mà thánh Phao-lô viết bức thư này gửi cho họ khi thánh nhân ở Trô-a hay đúng hơn, ở Ma-xê-đô-ni-a.

  1. Lời chúc kết thư

Lời chúc kết thư được diễn tả bởi biểu thức Ba Ngôi, một trong những biểu thức Ba Ngôi rõ nét nhất trong toàn bộ Tân Ước: “Xin chúc toàn thể anh em được đầy ân sủng của Đức Giê-su Ki-tô, đầy tình thương của Chúa Cha, và ơn hiệp thông của Chúa Thánh Thần.” Lời cầu chúc này có thể bắt nguồn phụng vụ, điều này làm chứng cho tính cổ xưa của nó.

Kể từ cuộc canh tân phụng vụ, chính với lời chào này mà linh mục tiếp đón các tín hữu ở đầu Thánh Lễ: “Nguyện xin ân sủng của Đức Giê-su Kitô, Chúa chúng ta, tình yêu của Chúa Cha, và ơn thông hiệp của Chúa Thánh Thần ở cùng anh em”. Biểu thức cổ xưa đơn giản là biểu thức mà vị linh mục công bố khi làm dấu Thánh Giá: “Nhân danh Cha, và Con, và Thánh Thần”. Biểu thức này cũng là Ba Ngôi nhưng không nhất thiết đón tiếp Cộng Đoàn.

TIN MỪNG (Ga 3: 16-18)

Đoạn trích Tin Mừng Gioan vào Lễ Ba Ngôi hôm nay là phần cuối cuộc đối thoại của Đức Giê-su với ông Ni-cô-đê-mô, một người Biệt Phái có thế giá đến gặp gỡ Đức Giê-su vào ban đêm.

  1. Tiến trình đức tin

Thiết tưởng chúng ta nên nhắc lại phần đầu. Ông Ni-cô đê-mô là một người Biệt Phái thế giá có thiện cảm với Đức Giê-su. Ông đến gặp gỡ Đức Giê-su để được hiểu thêm nữa về Ngài, nhưng lại đến vào ban đêm vì ông sợ giai cấp lãnh Do thái dị nghị về mình. Trong cuộc gặp gỡ đó, Đức Giê-su không úp mở nói thẳng với ông về những khó khăn để tin. Chúng ta lưu ‎ý‎ rằng thánh Gioan không bao giờ dùng danh từ “niềm tin” theo cách trừu tượng và ở trạng thái tỉnh, nhưng luôn luôn dùng động từ “tin”, hàm chứa một chuyển động đầy tính năng động gắn bó keo sơn bền chặc: phải tái sinh “từ trên cao” và đặt mình dưới hơi thở của Thần Khí (3: 7); phải nhận ra nguồn gốc thần linh của “Con Người” và chấp nhận “sự siêu thăng của Ngài” trên thập giá (3: 13-14). Một tiến trình đức tin như thế được Thần Khí dẫn đưa vào trong mầu nhiệm tình yêu.

  1. Tình yêu của Chúa Cha

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Người”. Việc khai triển ở đây phải chăng vẫn còn thuộc vào bài diễn từ của Đức Giê-su hay trình bày những suy tư cá nhân của tác giả Tin Mừng? Giả thuyết thứ hai xem ra đúng hơn. Chủ đề và từ ngữ gần với Tựa Ngôn của sách Tin Mừng cũng như thư thứ nhất của thánh Gioan.

Từ ngữ “thế gian” trong Tin Mừng Gioan thường có ‎ý nghĩa tiêu cực để chỉ những con cái của bóng tối tìm cách chống lại chương trình cứu độ của Thiên Chúa; nhưng rõ ràng đó không là trường hợp của đoạn Tin Mừng hôm nay. Ở đây, thế gian chỉ toàn thể nhân loại mà Thiên Chúa yêu thương đến mức đã sai Con của Ngài đến“để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Đây là lời khẳng định về tình yêu bao la của Thiên Chúa đối với nhân loại và chiều kích phổ quát của ơn cứu độ.

Tình yêu bao la của Chúa Cha đối với nhân loại được nhấn mạnh qua cách diễn tả: “Ngài đã ban Con Một của Ngài”. Thánh Gioan là tác giả Tin Mừng duy nhất dùng danh xưng “Con Một” (hai lần trong Tựa Ngôn Tin Mừng 1: 16 và 18, hai lần trong đọan văn này: 3: 16, 18, và được lặp lại trong thư thứ nhất: 1Ga 4: 6.). Danh xưng này gợi ra tức khắc I-xa-ác, người con một rất mực thiết thân của ông Áp-ra-ham. Trong câu chuyện của sách Sáng Thế (22: 1-14), chính người cha đã đích thân dẫn đứa con duy nhất của mình đến cái chết (St 22: 1-14), trong đó, nỗi đau thầm lặng của người cha chỉ gợi ý. Cũng như trong bài trình thuật Tin Mừng hôm nay, thánh Gioan chỉ nói bóng gió nỗi đau tận đáy lòng của Chúa Cha, Đấng trao nộp Con Một của Ngài vào tay con người cho đến tận cái chết, như lời khẳng định của thánh Phao-lô: “Đến như chính Con Một, Thiên Chúa cũng chẳng tiếc, nhưng đã trao nộp vì hết thảy chúng ta” (Rm 8: 32), và sau này Giáo Phụ Ô-ri-giê-nê nhận định: “Cuộc Tử Nạn của Chúa Cha là cuộc tử nạn của tình yêu”.

  1. Đấng Cứu Độ chứ không là vị Thẩm Phán

“Thiên Chúa sai Con của Ngài đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Ngài, mà được cứu độ”. Truyền thống Do thái dự kiến rằng Đấng Thiên Sai đến là Đấng Thiên Sai-Thẩm Phán, tức là kỷ nguyên thiên sai khai mở thời Chung Thẩm. Chính thánh Gioan Tẩy Giả đã mạnh mẽ nhắc lại điều này: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa… Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẩm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (Mt 3: 10 và 12).

Thần học Tin Mừng Gioan thì hoàn toàn khác. Một mặt, thánh k‎ý đặt ưu tiên hành động cứu độ của Đức Giê-su; mặt khác, nội tâm hóa việc xét xử. Đức Kitô đã đến với tư cách là Đấng Cứu Độ chứ không là Thẩm Phán: Ngài dẫn đưa con người đến “sự sống đời đời”. Sự sống đời đời, theo Tin Mừng Gioan, không chỉ là cuộc sống tương lai trong một thế giới sắp đến, nhưng còn được dự phần vào sự sống Thiên Chúa ngay từ thế giới hiện nay.

  1. Chiều kích nội tâm của việc xét xử

Ý định Thiên Chúa cứu độ con người không thể nào được thực hiện nếu không có sự đồng thuận của con người. Chính họ phải chọn lựa: “Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi”.

Lời cảnh báo được gửi đến với hết mọi người, nhưng mạch văn của chương 3 này, như mạch văn của chương 2, hướng tư tưởng về tấm thảm kịch của sự chọn lựa được đặt ra cho nhóm Biệt Phái cũng như cho mọi người Do thái khi đối mặt với sự hiện diện của Đức Giê-su, giáo huấn của Người và những dấu chỉ mà Người ban làm chứng Ngài được Chúa Cha sai đến. Nếu cương quyết không chịu tin, nhất mực từ chối ánh sáng, thái độ này sẽ kết án những ai chọn lựa như vậy. Sợi chỉ đỏ xuyên suốt Tin Mừng thứ tư được dệt nên bằng sự căng thẳng này.

  1. Khía cạnh Ba Ngôi

Chúng ta có thể ngạc nhiên về việc chọn lựa bản văn này vào Lễ Thiên Chúa Ba Ngôi. Ngôi thứ nhất (Chúa Cha) và Ngôi thứ hai (Chúa Con) được nêu tên ở đây, nhưng Ngôi thứ ba (Chúa Thánh Thần) xem ra không thấy nói đến. Thật ra, tác giả Tin Mừng tô thật đậm tình yêu của Chúa Cha và tình yêu của Chúa Con tuôn tràn trên nhân loại. Chính ở nơi tình yêu tròn đầy giữa Cha và Con mà Giáo Hội nhận ra cách thức diễn tả Chúa Thánh Thần, “Đấng nhiệm xuất từ Cha và Con”. Chúa Thánh Thần là Đấng thông truyền và khuếch trương Tình Yêu của Chúa Cha và Chúa Con đối với nhân loại.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...