01/05/2023
447

CHÚA NHẬT 4 A PHỤC SINH

Lời Chúa: Cv 2:14a, 36-41; 1Pr 2:20b-25; Ga 10:1-10
------------------------------------

Mục lục

  1. Hãy Tin Ta (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2. Khi con đau khổ Chúa ẵm con lên  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  3. Quản lý kiên trung (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  4. Đấng giải thoát tôi (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  5. Trong Chúa, con luôn được sống (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
  6. Sống và sống dồi dào (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
  7. Chúa Giêsu, vị mục tử nhân lành  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  8. Cảnh cổng  (Lm. Vũ Đình Tường)
  9. Chân dung mục tử nhân lành (Jorathe Nắng Tím)
  10. Tin tưởng và can đảm đáp lại tiếng Chúa gọi mời (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
  11. Mục tử tốt lành hy sinh mạng sống vì đoàn chiên (Lm. Jos Đỗ Đức Trí)
  12. Sức sống  (Trầm Thiên Thu)
  13. Có một tương quan thật lạ lùng  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
  14. Suy niệm chú giải Lời Chúa-CN Chúa Chiên Lành_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

HÃY TIN TA

Tuần 4 phục sinh-A: Ga 10, 1-10

Lm. Jos. DĐH. GP. Xuân Lộc

Ba cái vui thì trẻ, ba cái bẽ thì già. Cậy dựa vào bậc vĩ nhân nào để sống vui vẻ hồn nhiên, để ta quên đi khái niệm: già lão, tủi buồn ? Các đấng bậc rất tinh tế khi nói rằng: đừng tiếc nuối những gì là quá khứ, bởi thời gian sẽ không quay lại, hãy vui với hiện tại, dẫu biết rằng cuộc sống không phải là mơ ! Con người qua các thời đại đang phải chiến đấu với chính mình: giữa tốt và xấu, thật và giả, giầu có và nghèo hèn, giữa ghen ghét và yêu thương. Ai cũng có tự do tìm kiếm hạnh phúc, loại trừ khổ đau và những buồn chán vu vơ. Ai là người hoàn hảo, đáng tin cậy, dù ta hiểu: trong muôn vàn loại hoa, “lương thiện” là hoa đẹp nhất, trong tỉ tỉ gói quà, “tình yêu thương” là món quà quý giá nhất. Hãy lạc quan, yêu mình, yêu người, vì trong niềm tin có sức mạnh xua tan bất kỳ sự hoài nghi nào cản bước ta tiến tới hạnh phúc.

Để nhắc nhớ vẻ đẹp thuở ban đầu Thiên Chúa tạo dựng, Đức Giêsu đưa ra hình ảnh mục tử và đoàn chiên, nhằm nói lên tính khăng khít giữa mục tử tốt lành và chiên ngoan hiền được dẫn dắt chở che. Chỉ có Một Chủ Chiên và một đoàn chiên duy nhất, chỉ có Một Thiên Chúa toàn năng và một đoàn con hạnh phúc sống trong vương quốc tình yêu Đấng tạo thành. Đức Giêsu nói đến vị trí quan trọng của “cánh cửa”: cửa để bảo vệ chiên, cửa ngăn ngừa thú dữ xâm nhập, cửa còn nói đến tính kỷ luật của người chăn chiên nghiêm túc và đoàn chiên ra vào có trật tự. Tình yêu thật phải là sự hoà hợp giữa lý trí và con tim, là phải theo đúng tuần tự: hiểu, biết, và sống. Cửa chuồng chiên vững chắc, mục tử tốt lành, chiên ngoan hiền, là kết quả của một tình yêu, hãy tin Ta, “Ta là cửa chuồng chiên”.

Hãy tin Ta: “ai qua cửa mà vào, kẻ ấy là người chăn chiên. Kẻ ấy sẽ được người giữ cửa mở cho, và chiên nghe theo tiếng kẻ ấy”. Nếu bạn cứ đi trong đêm tối, dù không phải là kẻ xấu, nhưng cũng đâu có lý do gì để ngăn cản chó đừng sủa ? Nếu là mục tử tốt, liệu có ai chấp nhận bạn leo trèo vào cửa khác, trong khi cửa chuồng chiên luôn rộng mở ! Nếu nghĩ mình thông minh, luôn sống có tình có nghĩa, hẳn bạn cũng chẳng phải lăn tăn, tại sao mọi người quay lưng, dửng dưng với việc bạn đang làm ? Nếu làm chuyện xấu xa tồi tệ, mâu thuẫn với những gì bạn nói, thì cũng đừng trách ai xếp bạn vào hàng trộm cướp, đang làm hại đến xã hội, phá huỷ công trình tốt đẹp của Thiên Chúa. Hãy tin Ta: “thật, Ta bảo thật các ngươi, Ta là cửa chuồng chiên, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi, người ấy sẽ ra vào và tìm được hạnh phúc”.

Hãy tin Ta: cửa chuồng chiên không phải vì “rộng hay hẹp”, không phải chỉ tiếp đón kẻ giầu người tài, tuy cửa không thông thoáng dễ dãi, nhưng cửa đón tiếp mọi đối tượng và sẽ đưa các bạn tới hạnh phúc thật. Hãy tin Ta: “Ta đến để cho chúng được sống và sống dồi dào”. Vì chưng, một người có niềm tin, bằng chín mươi chín người chỉ có hứng thú. Hãy tin Ta, chẳng ai nói thành công là cánh cửa mở ra hạnh phúc, cũng không thể hiểu hạnh phúc là chìa khoá dẫn đến cánh cửa thành công, đúng hơn, bằng niềm tin, “cánh cửa Giêsu” sẽ đưa tới sự sống đời đời. Hãy tin Ta, hãy cùng Ta, sống sứ mạng người mục tử chăn dắt chiên, dù là linh mục tu sĩ, dù là ông bà, cha mẹ, hãy sống tình liên đới hiệp thông với Mục Tử Giêsu, hầu tất cả sẽ được gọi là “mục tử tốt lành”.

Hãy tin Ta, khi có mục tử tốt lành, tự khắc có chiên ngoan hiền, khi có “cánh cửa Giêsu”, kẻ chăn chiên và đoàn chiên sẽ tự tin đi ra đi vào trong bình an và tình yêu. Người xưa cho ta kinh nghiệm: cái gì mua được bằng tiền thì cứ mạnh dạn mua, đừng đắn đo hơn thiệt, hãy để dành tâm lực cho những thứ mà bạn sẽ phải mua bằng con tim và lý trí. “Cánh cửa Giêsu”, kẻ chăn chiên thuộc về Giêsu, đoàn chiên của Mục Tử Giêsu, tất cả sẽ nên một, khi hiệp nhất trong tình yêu Ba Ngôi. Thực ra, người hạnh phúc đâu phải là người có những thứ tốt đẹp nhất trong tay, mà là người biết liên đới hiệp thông để sống tốt những gì mình đang có. Hãy tin Ta, “Ta là cửa chuồng chiên”, đừng bao giờ lơ là sự hiện hiện chở che của Ta và giáo hội, đừng sống trong quá khứ, đừng mơ về tương lai, hãy thực tế về tình yêu thương ở giây phút hiện tại.

Hãy tin Ta, “Ta là cửa chuồng chiên, ai qua Ta mà vào, thì sẽ được cứu rỗi”. Hôm nay, chúa nhật đặc biệt cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ, mỗi chi thể của Đức Kitô, chúng ta chắp tay nguyện xin chắc là chưa đủ, gởi vào nhà thờ một chút tiền, hẳn cũng chưa đẹp ! Mỗi người phải biết và hiểu vị trí của mình trong đoàn chiên của Mục Tử Giêsu: nhà phải có cửa, các thành viên gia đình phải có người đứng đầu, người tín hữu phải được hướng dẫn chăm sóc đúng chuẩn. Sinh ra làm người phát xuất từ tình yêu Chúa tạo thành, cha mẹ ông bà chăm sóc cộng tác với tình yêu Chúa, trưởng thành và đạt tới niềm vui ơn cứu độ, nhờ tình yêu Đấng cứu độ, Vị mục tử Giêsu. Hãy tin Ta, tình yêu lớn lên nhờ cho đi, tình yêu thương mỗi người đang cho đi, chính là tình yêu duy nhất mà các bạn giữ lại được và tồn tại mãi trong tình yêu Vị mục tử Giêsu. Amen.

Về mục lục

KHI CON ĐAU KHỔ CHÚA ẴM CON LÊN

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Mỗi khi nhìn thấy những đau khổ của tha nhân hay những bất hạnh xảy ra chung quanh, trong tâm hồn tôi lại phảng phất lời bài hát Dấu chân của Đức Cố Giám mục Giuse Vũ Duy Thống với giai điệu mượt mà:

“Bao nhiêu dấu chân qua, bấy nhiêu niềm cảm tạ.
Đôi khi có những bước phôi pha, mà hình bên bóng chẳng rời xa.
Hôm nao thấy dấu chân đôi: Đó là Chúa đi bên tôi.
Hôm nào còn một dấu chân thôi: Là bởi vì Chúa ẵm tôi lên rồi”.

Lời bài hát dựa trên một giấc mơ kể rằng: Có một chàng trai ngày nào cũng đi dạo bộ với Chúa Giêsu trên bãi biển rất êm ả và bình yên. Chàng thích thú vì những dấu chân song hành như hai người bạn. Đến một ngày sóng to gió lớn, chàng lại chỉ thấy có một dấu chân. Trong hoảng hốt và sợ hãi, chàng hỏi Chúa đi đâu lúc cuộc đời đầy biến động. Chúa trả lời: “Chính những lúc ấy Ta đang bồng bế con trên tay”.

Suy nghĩ của chàng thanh niên cũng là suy nghĩ của nhiều người chúng ta. Khi đau khổ dường như chỉ thấy dấu chân của mình lê thê bước, nhưng đâu hiểu rằng dấu chân ấy là chính Chúa đang nỗ lực dìu chúng ta qua khổ nạn.

Nhìn vào lịch sử cứu độ chúng ta thấy có rất nhiều vị thánh đã được Thầy Giê-su dìu qua khó khăn những đoạn đường đắng cay của cuộc đời. Chúng ta thử đồng hoá mình với những nhân vật trong Tin mừng để thấy Chúa sẽ không bỏ rơi chúng ta bao giờ. Nhất là  trong những lúc bị hiểu lầm, bị kết án, bị khổ đau bởi nghèo đói và bệnh tật

Hãy nhìn xem một Madalena bị xã hội lên án, ruồng bỏ…lại được ngồi dưới chân Chúa. Một Giakêu bị xếp vào hạng người bất chính, lại được Chúa đồng bàn ăn uống…

Hãy nhìn xem người bất toại đã quá nửa đời người nằm ăn xin ở Betsaida hay người phụ nữ bị băng huyết đã quá khổ bởi bệnh tật, và biết bao người phong hủi sống lấy lất bên ngoài xã hội, thế mà Chúa đã đến và giải cứu họ.

Hãy nhìn xem những người bị ma quỷ khống chế đến nỗi chẳng còn là người, sống lây lất, điên rồ thế mà Chúa đã cho họ trở về trong tự do của con người.

Dường như Chúa không bỏ rơi một ai đang đau khổ, điều cần là sự kiên nhẫn trong lời cầu nguyện và luôn xác tín sự hiện diện của Chúa trong đời sẽ giúp chúng ta vượt qua mọi khó khăn, thử thách trong cuộc sống đầy gian truân.

Lời Chúa hôm nay, Chúa Giêsu sánh ví tình thương của mình như tình thương của người mục tử dành cho đàn chiên. Người mục tử tốt lành đầy yêu thương luôn gắn bó với đàn chiên, luôn sẵn sàng hy sinh cả mạng sống mình vì lợi ích đàn chiên. Ngài chính là vị mục tử mà bài đáp ca đã ca ngợi rằng: Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏxanh tuơi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính. Lạy Chúa, dầu qua thung lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có chúa ở cùng con”.

Người mục tử không bỏ đàn chiên mà hết lòng ra tay cứu giúp. Ngài vẫn tiếp tục cúi xuống băng bó từng vết thương và cõng trên vai và đưa về ràn trong tình yêu bao bọc của Ngài.

Giữa khủng hoảnh Covid 19 nhân loại cảm tưởng như đang đơn độc đối phó với sự dữ, khiến chúng ta cảm thấy mệt mỏi và sợ hãi. Nhưng hãy tin vào Thiên Chúa. Ngài im lặng cũng có lý do. Giống như cha mẹ khi thấy con cái khổ đau, tuy không nói ra nhưng vẫn tìm cách để cho con cái bớt khổ đau. Thiên Chúa chúng ta tốt lành, chắc Ngài cũng khổ nhiều khi nhân loại chìm trong khổ sầu. Ngài cũng đang nói với chúng ta giữa cơn gian nguy này, hãy để lòng mình trong thinh lặng sẽ nghe được tiếng sáo của người mục tử đang gọi đàn. Hãy về hợp đoàn. Hãy đến với lòng thương xót của Chúa để tìm sự bình an giữa trăm bề sự dữ. Hãy để Thiên Chúa lo liệu mọi sự cho chúng ta và hãy an tâm phó thác nơi Ngài. Amen

Về mục lục

QUẢN LÝ KIÊN TRUNG

Lm. Jos. DĐH.

Sinh ra làm người, bất cứ ở thời đại nào, giai cấp, mầu da, ốm yếu, hay mạnh khoẻ, tất cả đều là kết quả của yêu thương, dù ta có đón nhận sự thật đó không, thì tâm tư sâu thẳm vẫn tra hỏi ta. Đấng bậc sinh thành có phải là người quản lý không, khi các ngài vừa uốn nắn rèn luyện dạy dỗ con cháu như vị thầy, vừa hầu hạ chăm sóc chúng như một tôi tớ trung thành ? Là con là cháu, hẳn không ai lại hỏi: có thật ông bà là bố là mẹ tôi không ? Là con chiên ngoan hiền, sẽ không có tình trạng tách đoàn đi hoang, nghi ngờ hoặc bất phục tùng chủ chiên. Là người tín hữu, không ai lại lăn tăn về cội nguồn của mình, nhưng mỗi người đều phải trả lời: tôi đang sống tình hiệp thông với Vị Mục tử Giêsu như thế nào trong hoàn cảnh hôm nay ?

Trong bóng tối, ta không thể phân biệt được kẻ xấu người tốt, nhưng ngay cả giây phút nguy hiểm đến tính mạng, ta vẫn có tự do để làm việc tốt, trở thành người hữu ích. Ý thức sứ mạng người mục tử chăn dắt đoàn chiên Chúa Cha giao phó, Đức Giêsu mời gọi mỗi người hãy cùng Ngài lưu tâm đến vị trí của mình đối với cộng đồng xã hội, vì Thiên Chúa sẽ hỏi: bạn đang sống vô tư, vô lo, hay vô tâm trước gia đình nhân loại. Để mở rộng tầm nhìn, đi sát gần hơn về trách nhiệm và bổn phận của mỗi người, Đức Giêsu đã thật rõ ràng khi cho biết: “Tôi là cửa cho chiên ra vào ; ai qua Tôi mà vào thì sẽ được cứu”. Thực tế thì rất nhiều điều ta không thể hình dung, tưởng nghĩ ra được, cần phải người có chuyên môn, có kinh nghiệm, họ nói và không sợ sai lạc: bí quyết lớn nhất của thành công là thành thật.

Để nói lên tầm quan trọng của người đứng đầu, cha ông chúng ta đã kết nối tinh thần với trách nhiệm hết sức tế nhị: con dại cái mang, tội quy về trưởng. Người trẻ lại có những mơ ước đầy ẩn ý: hy sinh đời bố, củng cố đời con. Đúng, ở đời người ta chú trọng nhiều đến số lượng hơn là chất lượng, quan tâm đến quyền lợi hơn là nghĩa vụ, nghĩ đến thụ hưởng hơn là đầu tư. Dù truyền thống là dân du mục, người Do-thái vẫn thích có một Đức Giêsu chỉ mãi là cửa chuồng chiên, là người bảo vệ họ, hơn là ngôn sứ. Dù là người kitô hữu, nhưng ai cũng mơ ước được vinh quang, được hồng phúc của Đấng Phục sinh, mấy ai muốn theo Đức Giêsu chịu đau khổ, chịu chết treo thập giá vì đường tình yêu.

Hôm nay đây, Vị Mục tử Giêsu nói đến vị trí “cửa chuồng chiên”, xem ra có vẻ khó hiểu hoặc không mấy áp đặt, nếu như Chúa nói đến cửa quyền lực, cửa hạnh phúc ở trần thế này, hẳn người Do-thái và chúng ta nữa, sẽ dễ dàng và thích thú hơn khi tin theo Ông Giêsu. Rất nhiều người đổ lỗi vì bản chất yếu đuối, nên tôi thích cánh cửa thông thoáng, thích cánh cửa mang vác được nhiều của cải vật chất, do đó tôi sợ cánh cửa chật hẹp, quy củ, sợ cánh cửa có mùi đau khổ thập giá Đức Kitô ! Cũng trong ý tưởng đó, người ta muốn được quản lý tài sản, được quyền chi tiêu tự do, được thống trị đoàn chiên, mấy ai muốn theo Đức Giêsu, để được gọi là người quản lý trung kiên trong đoàn chiên gò bó kỷ luật ! Người quản lý theo tinh thần Mục tử Giêsu, sẽ mãi mãi là người phục vụ, là người vệ sĩ trong tình hiệp thông nên một với Giêsu.

Quy luật ở đời: tất cả những ai muốn vào nhà, đều phải qua cửa, vì họ không thể chui, hoặc không thể bay. Tất cả những ai muốn gia nhập đoàn chiên của Đức Kitô tiến đến đồng cỏ hạnh phúc, đều phải có khởi đầu qua cánh cửa Giêsu. Ngày hôm nay, khái niệm về làm con quan chức, làm con sếp, làm con đại gia, nhiều người thích, và nhiều người vẫn thắc mắc, tại sao Đức Giêsu không nói tôi là vị tướng tài giỏi, tôi là người giầu tiền lắm của ? Chắc chắn phải khôn ngoan và dồi dào kinh nghiệm, các đấng bậc mới có những lời tâm huyết với thế hệ con cháu: mỹ phẩm tốt nhất là nụ cười, nữ trang quý nhất là sự khiêm tốn, và trang phục đẹp nhất là sự tư tin. Theo Mục tử Giêsu, sẽ không phải là để tận hưởng vinh hoa phú quý ở đời này, nhưng sự hiệp nhất nên một trong đoàn chiên Giêsu, người ta sẽ thấy bình an, tự tin, khi mỗi người đang xây dựng và thể hiện sự trung thành với sứ mạng riêng của mình.

Chúa nhật 4 phục sinh hôm nay, Giáo hội dành đặc biệt cho việc cầu nguyện cho ơn gọi linh mục tu sĩ, còn Vị mục tử Giêsu vẫn đang giải thích cho nhân loại về ý nghĩa của cánh cửa hạnh phúc. Và Đấng phục sinh sẽ còn tiếp tục minh chứng về tình yêu trong tư cách là “cửa chuồng chiên”. Tìm kiếm hạnh phúc thật, thao thức được ở trong đoàn chiên mà Chủ Chiên Giêsu hướng dẫn, chỉ đạo, đó là mơ ước đúng, đẹp. Người ta chỉ có thể đến với “cánh cửa Giêsu”. Khi dám buông bỏ những ham muốn tiền tài địa vị thế trần, người ta chỉ có thể gặp được sự sống thật, hạnh phúc thật, khi có ước muốn làm chiên ngoan, từng bước, từng bước, sống tốt, sống đúng, sống đẹp, trọng trách người quản lý của mình. Amen.

Về mục lục

ĐẤNG GIẢI THOÁT TÔI

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Ưu tư trong cuộc đời người tín hữu sống trong ràng buộc giữa trần thế, làm sao để sống tự do trong ân sủng?. “Sống trong thế gian mà không thuộc về thế gian” như lời cầu nguyện của Chúa Giêsu với Chúa Cha trong lời nguyện hiến tế chương 17 phúc âm Thánh Gioan. Xin chia sẻ nhân đọc sách của linh mục Anselm Grun, tu sỹ dòng Biển Đức, trong cuốn  “Chinh phục sự tự do nội tâm” với bức thư gửi tín hữu Titô của Thánh Phaolô mô tả sự tự do trong ba chiều kích: chừng mực, công chính, và lòng đạo là ba khái niệm trong triết học Hy lạp.

Chừng mực.

Sống chừng mực giống như nước, mềm mại, khoan dung và cũng cần có lúc như thác lũ… Như thế, đôi khi cũng sai lầm nếu mềm mỏng quá, nếu nghiêm khắc quá, người xưa thường nói: “biết đâu là vừa!”.

Chừng mực có nhiều khía cạnh trong cuộc sống, trong nhân cách, trong giao tiếp, trong hành sự. Chừng mực theo từ ngữ triết học Hy Lạp là thông minh, hiểu biết, liêm chính, đạo hạnh, hiểu biết đúng về thực tại.

Bugental là nhà tâm lý trị liệu cho rằng: “nhiều người cố gắng vô ích để trở thành điều họ tưởng phải là”. Cố gắng để trở nên như ai đó hoặc như con người như mình mong muốn điều ấy được ví như người mộng du, thiếu thực tại. Thánh Phaolô nói về sống chừng mực cơ bản trong thư gửi cho Titô : tiết độ, đàng hoàng, điềm đạm, lành mạnh về đức tin, đức mến, sự kiên nhẫn…lời nói lành mạnh, đoan trang trong cách ăn mặc (Xem  Titô 2). Sống chừng mực là trở về với cách sống đơn giản, chân thành, yêu thương, nhận biết Chúa đang sống cùng. Nghĩa là nhờ Chúa dạy bảo đường lành, biết sống như Chúa mong muốn, với Chúa như người bạn, vừa ở trong vừa là người đồng hành.

Công chính.

Theo người Do Thái, người công chính là người sống chu toàn lề luật của Chúa được chỉ bảo trong sách thánh và biết tôn trọng chính mình. Thánh Phaolô chỉ dẫn trong thư gửi Titô: “Nhưng khi lòng từ hậu ái nhân của Thiên Chúa, Ðấng cứu thoát ta đã hiển linh,  thì Người đã cứu ta, không phải do tự các việc ta làm trong đàng công chính, nhưng là chiếu theo lòng thương xót của Người, nhờ phép rửa tái sinh và sự canh tân đổi mới của Thánh Thần, Người đã đổ xuống trên ta một cách dồi dào phong phú nhờ Ðức Yêsu Kitô, Cứu Chúa của ta, ngõ hầu khi đã được giải án tuyên công nhờ ơn Ngài, chiếu theo hi vọng, ta được thừa hưởng cơ nghiệp sự sống đời đời.”  (Titô 3, 4 – 7).

Không do chúng ta làm các việc trong đàng công chính, nghĩa là không được ngộ nhận nhờ những việc làm đó mà mình được cứu rỗi. Đó cũng là cách sống đúng với mình, không phải ảo tưởng, cố gắng là trước mặt người khác. Đời tu theo cha Alselm Grun một số tu sỹ đã làm mọi việc thiêng liêng, đạo đức, như là lấy sự kiêng nể và sự tôn trọng của bề trên, anh chị em và cả Thiên Chúa nữa, đáp lại sự chờ mong của mình. Điều đánh mất của đời sống như thế là mất chính mình, mất đi niềm vui đích thực nơi Chúa.

Lòng đạo

Lòng đạo theo từ ngữ Hy lạp là: “cúi mình trước nhan Chúa”. Vâng phục thánh ý Người.

Theo Bugental có một từ làm thao thức không nguôi trong lòng mỗi người là ”Thiên Chúa”. Gặp gỡ Thiên Chúa mỗi ngày là một gặp gỡ sâu thẳm trong tâm hồn. Thánh vịnh 138 Đavit đã thưa lên “Chúa biết tất cả về con”. Cái biết làm đảo lộn cuộc đời như Tin mừng Thánh Gioan gợi lên là sự sống sung mãn, dồi dào nơi Chúa: “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10).

Tất cả mọi việc làm của con người tùy thuộc vào Thiên Chúa, Thánh phaolô nói việc lành phúc đức là bản chất của người Kitô hữu “Hiển linh vinh quang của Thiên Chúa lớn lao và là Cứu Chúa của ta, Ðức Yêsu Kitô, Ðấng đã thí mình vì ta để chuộc ta khỏi mọi tội ác và tẩy rửa lấy cho mình một dân làm sở hữu nhiệt thành với việc lành phúc đức.” (Tito 2, 13 – 14).

Thật sự sống ơn giải thoát là nơi Chúa, Thánh Phaolô đã reo lên: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Ðức Kitô? Phải chăng là gian truân, bĩ cực, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo ư”?  Như đã viết: Vì Người chúng tôi bị sát phạt suốt ngày, chúng tôi bị kể như chiên lò sát.  Nhưng trên các điều ấy hết thảy, chúng ta toàn thắng, nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta. (Rm 8, 35 – 37)

Về mục lục

TRONG CHÚA, CON LUÔN ĐƯỢC SỐNG

Bông hồng nhỏ

          Đã là người, ai cũng có tai để nghe. Nhưng nghe và lắng nghe thì khác nhau. Để lắng nghe thật sự, chúng ta không chỉ cần có một đôi tai có thính lực, nhưng hơn hết chúng ta phải có một con tim tràn đầy tình yêu và có cái nhìn của Chúa.

Chúa Giêsu đã nói: “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi, tôi biết chúng và chúng theo tôi” (Ga 10, 27). Chúa Giêsu đã tự ví mình như một người mục tử, người mục tử nhân lành đã hy sinh tính mạng vì đoàn chiên. Là người mục tử, Chúa Giêsu luôn đi bước trước để diễn tả tình yêu dịu hiền dành cho đoàn chiên. Chúng ta là những con chiên thuộc đoàn chiên của Chúa. Mỗi ngày, chúng ta được Người dưỡng nuôi bằng chính Mình và Máu thánh của Người. Người vẫn lên tiếng nơi cõi sâu thẳm của tâm hồn chúng ta. Lời Người vẫn làm rung động trái tim chúng ta, chất vấn lương tâm chúng ta cả trước và sau những chọn lựa. Chúng ta có nghe được lời của Người không? Có những lúc, chúng ta mải mê đi tìm một đồng cỏ khác mà kẻ thù đã khéo bày vẽ cho chúng ta. Chúng ta tự tách mình ra khỏi đoàn chiên và chúng ta đã bị lạc. Chúa Giêsu đang tìm kiếm chúng ta. Người đã thấy chúng ta đang bị mắc kẹt trong bụi rậm của những đam mê xấu, bị trói buộc bằng những ham muốn trần tục. Người lên tiếng gọi chúng ta. Hãy lắng nghe lời Người đang thổn thức, hãy để Người chạm vào những vết thương đang rỉ máu của chúng ta, và can đảm để Người cởi trói cho chúng ta, kéo chúng ta ra khỏi những cạm bẫy của tội lỗi. Người sẽ chữa lành cho chúng ta.

          Chúa Giêsu biết rõ từng người trong chúng ta. Người biết chúng ta đang ở trong tình trạng nào và đang đói khát điều gì. Cái biết của Người làm cho chúng ta được lớn lên, đó là một sự hiểu biết phát sinh sự sống. Chúng ta đã biết Người như thế nào? Chúng ta có ngày càng thêm hiểu biết và yêu mến Người không? Chúng ta nhận biết tiếng nói của Người ra sao? Chúa Giêsu không đến với chúng ta bằng xương bằng thịt như cách Người đã ở giữa các môn đệ ngày xưa. Ngày hôm nay, Người vẫn đến với chúng ta ngang qua người anh chị em. Đức Cha Pierre Lambert de la Motte- Đấng sáng lập dòng nữ Mến Thánh Giá, trong bức tâm thư gửi các nữ tu của Ngài, đã nhắn nhủ: “Nhưng điều hết sức quan trọng là phải thực hành mọi việc thay cho Chúa Giêsu Kitô, Người muốn đích thân làm những việc đó mà không thể được, nên dùng một số người do Người tuyển chọn và ban đầy tinh thần của Người là tinh thần trung gian, để tiếp nối cuộc đời lữ thứ và hy sinh của Người cho đến tận thế”. Ai trong chúng ta cũng có thể trở thành trung gian Chúa Giêsu dùng để đến với người khác và yêu thương họ như chính Người đã yêu thương. Người đã chẳng dạy chúng ta rằng: “Hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em. Điều Thầy truyền dạy anh em là hãy yêu thương nhau” (Ga 15, 12.17). Đó là giới răn mới của Chúa Giêsu đã truyền dạy cho người môn đệ. Là chiên thuộc một đoàn chiên duy nhất được quy tụ bằng chính giá máu của Con Thiên Chúa, chúng ta hãy cùng nhau lắng nghe lời yêu thương của Chúa mỗi ngày và cùng giúp nhau nhận ra tiếng nói của Người nơi nội tâm mình và ngang qua những vị trung gian Chúa dùng.

Lạy Chúa Giêsu là mục tử nhân lành! Cảm tạ Chúa đã luôn yêu thuơng con và cho con được ở trong đoàn chiên của Chúa. Mỗi ngày, xin Chúa hãy mở tai con cho con nghe lời của Chúa. Xin hãy mở đôi mắt con để con nhận ra Chúa nơi người anh chị em. Xin hãy biến đổi tâm hồn con, cho con được Chúa chạm vào và để con được sống bằng chính sự sống của Chúa. Amen.

Về mục lục

SỐNG VÀ SỐNG DỒI DÀO

Anna Cỏ may

 “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống, và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Mỗi người chúng ta có nhiều khát vọng cho chính mình. Nhưng khát vọng sâu xa nhất mà dường như ai cũng đi tìm cho mình là được sống và sống hạnh phúc. Trước khát vọng ấy, không ít người lên đường đi tìm lối đường để sống hay những phương thức để sống. Có người tìm cuộc sống hạnh phúc dựa trên danh vọng tiền tài, cũng có người tìm cuộc sống bằng cách trộm cướp, bạo lực. Cứ như thế, chúng ta cứ mãi đi tìm mà không tìm thấy hạnh phúc đích thật. Bởi vì, những gì ta kiếm tìm chỉ ở bên ngoài cuộc sống, mà những cái bên ngoài không bao giờ đem lại cho ta cảm giác no thỏa và bền vững bên trong tâm hồn. Chỉ khi chúng ta có bình an trong lòng, lúc đó chúng ta mới cảm nhận được mình được sống và đang sống hạnh phúc. Khi chúng ta cứ mãi đi tìm, thì đã có một Đấng đang đứng ngay bên, hay đang đi cùng chúng ta, Ngài sẵn sàng ban cho chúng ta tất cả những điều chúng ta khát. Ngài đã nói: “Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Chúa Giêsu đã vâng lời Chúa Cha bằng việc tự hạ mình làm thân phận con người. Ngài không đến trong địa vị giàu sang nhưng đến trong một gia đình nghèo. Ngài đón nhận những con người mà Chúa Cha trao ban trở thành chính mình. Ngài ôm ấp họ vào lòng và bao bọc họ. Ngài thánh hiến chính mình để cứu họ khỏi tội lỗi (x.Ga 17,1-19). Ngài dùng nhiều cách để cho họ nhận ra và cảm nếm tình yêu của Chúa Cha và của Ngài dành cho họ thế nào. Khi đứng trước nhóm người Pharisêu, Chúa Giêsu đã lấy những hình ảnh thực đang diễn ra trong cuộc sống thường ngày để nói với họ Ngài là ai. Ngài ví mình là ông chủ và con người là đoàn chiên. Là ông chủ, Ngài xây cho đoàn chiên ngôi nhà có người giữ cửa là các thiên thần và chỉ có một lối ra vào đó là Ngài. Ai trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai qua cửa ấy mà vào là người tốt lành. Ngài tiếp tục ví mình là người chăn chiên. Người chăn chiên biết rõ từng con và rất quan tâm, nhạy bén với tiếng kêu cứu của chúng; là người luôn đi đằng trước quan sát mọi sự xung quanh và dẫn đoàn chiên đến đồng cỏ xanh có suối mát trong lành. Ngài không những là Đấng đem lại sự sống cho thân xác đoàn chiên mà còn đem lại cuộc sống thần linh cho đoàn chiên. Ngài nói: “Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ” (Ga 10, 9). Ngài là cửa cho đoàn chiên bước đến với Chúa Cha. Vì không ai đến với Chúa Cha mà không qua Ngài (x.Ga 14, 6). Ngài là Đấng Bảo Trợ cho chúng ta trước mặt Chúa Cha (x.1Ga 2,1). Nhưng có mấy ai nhận ra Ngài!

Ngày hôm nay, chúng ta càng không thể nhận ra Ngài vì chúng ta không thấy việc Ngài xuống thế và phục sinh. Chúng ta lại là con người đầy yếu đuối dễ bị cuốn hút vào những gì là trước mắt hơn. Điều đó càng cho chúng ta thấy lời Chúa nói rất đúng: “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,19). Lòng tin vào Chúa không phải là hão huyền nhưng có căn cứ là dựa trên các tông đồ là những người đã làm chứng cho Chúa Phục Sinh bằng cuộc sống và cái chết của mình sau khi Chúa Giêsu về trời. Theo dòng lịch sử, lòng tin được tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Các vị mục tử là những người tiếp nối Thầy mình để chăm sóc linh hồn chúng ta. Các ngài là những con người đã được Chúa chọn và cắt đặt để bảo vệ và coi sóc đoàn chiên. Là con chiên thuộc về  đoàn chiên của Chúa, chúng ta hãy lắng nghe và mau mắn đi theo chủ chăn của mình, dầu rằng vị chủ chăn hiện tại vẫn còn nhiều bất toàn. Vì vậy, các ngài cần sự cộng tác và sự nâng đỡ của đoàn chiên, vì các ngài vẫn mang thân phận con người. Chúa Giêsu yêu chúng ta, Ngài không mong chúng ta đền đáp nhưng để cứu độ chúng ta Ngài cần chúng ta cộng tác. Đó là một khám phá mà thánh Augutinô đã chia sẻ. Bởi vậy, chúng ta hãy cộng tác và lắng nghe các vị mục tử đang dẫn dắt mình, cùng thêm lời cầu nguyện cho các ngài để các ngài luôn biết lắng nghe và mau mắn làm theo thánh ý Chúa.

Lạy Chúa, chúng con là những con chiên đã được Chúa quy tụ về đoàn chiên duy nhất của Chúa. Xin cho chúng con nhận ra tiếng Ngài và mau mắn vâng nghe qua sự dẫn dắt của các vị mục tử đang hiện diện với chúng con. Xin Chúa cũng ban Thánh Thần Tình Yêu trên các ngài, để các ngài luôn yêu thương đoàn chiên của mình và dẫn dắt đoàn chiên đi đúng con đường Chúa muốn. Amen.

Về mục lục

CHÚA GIÊSU, VỊ MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Hôm nay, toàn thể Giáo Hội cử hành Chúa Nhật IV Phục Sinh, được gọi là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, để cầu nguyện cho ơn thiên triệu. Hình ảnh người mục tử và đoàn chiên là hình ảnh nổi bật trong thánh lễ này.

Đối với người Việt Nam, hình ảnh mục tử và đoàn chiên thì khá xa lạ, nhưng đối với người Do Thái, hình ảnh này rất gần gũi, quen thuộc và quan trọng. Bởi vì, người Do Thái sống bằng nghề chăn nuôi, nuôi chiên cừu. Người mục tử có một tầm quan trọng trong lịch sử của họ. Vì thế, về mặt xã hội, họ dùng hình ảnh người mục tử để áp dụng cho những vị vua của mình. Về mặt tôn giáo, người Do Thái áp dụng hình ảnh để diễn tả tương quan giữa Thiên Chúa và dân Người. Thiên Chúa là mục tử chăn dắt đoàn chiên dân Người.

Trong Cựu Ước, Thánh Vịnh 23 diễn tả: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì, trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi (Tv 23,1-2).

Trong Tân Ước, hình ảnh lý tưởng về người mục tử tốt lành được thể hiện một cách đầy đủ và cụ thể nơi Đức Giêsu. Chính Người đã tự giới thiệu mình: “Tôi chính là mục tử nhân lành. Tôi biết chiên của tôi và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14). Đức Giêsu chính là vị mục tử nhân lành và chúng ta là đoàn chiên của Người.

Tuy nhiên, dựa vào đâu để chúng ta nhận ra Đức Giêsu là mục tử nhân lành?

Kinh Thánh cung cấp cho chúng ta ít nhất là ba tiêu chuẩn sau đây về người mục tử nhân lành, phân biệt với người chăn thuê.

Tiêu chuẩn thứ nhất: đó là người mục tử tốt lành là người “biết” đoàn chiên của mình. Theo Kinh Thánh, cái biết ở đây không phải chỉ là cái biết thuần lý trí, vô cảm, nhưng là đi vào tương quan gần gũi, mật thiết và hết lòng yêu mến đoàn chiên. Người mục tử sống gần gũi giữa đoàn chiên, lăn lộn với đoàn chiên, biết từng con chiên, con béo hay con gầy, con khỏe hay con bệnh tật, người mục tử đều biết rõ từng hoàn cảnh của mỗi con chiên. Trái lại, người chăn thuê thì không “biết chiên” của mình, là người chỉ làm việc vì tiền công, không phải vì yêu mến đoàn chiên.

Tiêu chuẩn thứ hai, người mục tử đích thực là người chăm sóc, đi trước và bảo vệ đoàn chiên khỏi sự tấn công của lũ sói, dẫu phải đối diện với nguy cơ phải bỏ mạng; còn người chăn thuê là người chỉ làm việc vì tiền công, không phải vì lòng yêu mến đoàn chiên, và thường họ chẳng có yêu mến gì đoàn chiên.

Tiêu chuẩn thứ ba, tiêu chuẩn cao nhất của người mục tử tốt lành là dám hiến dâng mạng sống mình vì đoàn chiên. Còn người chăn thuê chỉ tìm kiếm lợi tức và trục lợi từ đoàn chiên mà không dám hy sinh gì vì đoàn chiên.

Các bài đọc hôm nay là những lời chứng hùng hồn về người mục tử nhân lành đó. Trong bài đọc I, trích sách Công Vụ, Thánh Phêrô được tràn đầy Thánh Thần, đã có một bài giảng xuất thần về Người mục tử nhân lành: “Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô” (Cv 2,36). Bài giảng này đã đánh động và làm cho 3000 người trở lại.

Một cách tuyệt vời trong bài đọc II, thánh Phêrô nói về mẫu gương của vị mục tử nhân lành: “Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình” (1 Pr 2,22-23).

Như vậy, Đức Giêsu chính là vị mục tử đã hiến dâng mạng sống mình vì đoàn chiên, Người đã chấp nhận chết trên thập giá vì tội lỗi chúng ta, và sau ba ngày Người phục sinh vinh hiển để cứu độ chúng ta. Đấng Phục Sinh là Đức Chúa và là Đấng Cứu Độ loài người. Bởi lẽ, Người đã chiến thắng sự dữ, đã đập tan xiềng xích tội lỗi và là người đầu tiên đi vào sự sống mới của Thiên Chúa. Sự phục sinh của Đức Kitô là nền tảng cho sự sống vĩnh cửu của chúng ta. Đức Giêsu chính là vị mục tử dẫn con người tới sự sống mới này. Người đến để chiên được sống và sống dồi dào.

Nhưng khi cử hành Chúa Nhật Chúa Chiên Lành trong Mùa Phục Sinh, Giáo Hội muốn nói với chúng ta điều gì đó hơn nữa. Đấng Phục Sinh chính là vị mục tử nhân lành, Người không chỉ hiến mình cho chúng ta một lần mà thôi, nhưng Người còn tiếp tục hiến mình cho chúng ta nơi bí tích Thánh Thể. Vì Đấng Phục Sinh chính là Chúa Giêsu Thánh Thể. Nơi Thánh Thể, như là mục tử, Người tiếp tục hiến mình thành của ăn nuôi sống linh hồn chúng ta.

Như thế, khi cử hành thánh lễ này, Giáo Hội mời gọi chúng ta suy niệm và sống ba bài học sau đây:

1) Đấng Phục Sinh tiếp tục hiện diện với chúng ta qua bí tích Thánh Thể để nuôi sống chúng ta là đoàn chiên của Người. Vì thế, chúng ta được mời gọi hãy đến tham dự thánh lễ, nơi đó Chúa nuôi dưỡng chúng ta qua bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Thánh Thể.

2) Chúa Giêsu chia sẻ sứ vụ mục tử của mình cho Đức Giáo Hoàng, các giám mục và các linh mục. “Chiên của tôi thì nghe tiếng tôi” (Ga 10,27). Chúng ta là đoàn chiên của Chúa, chúng ta được mời gọi lắng nghe tiếng nói của Huấn Quyền, của Đức Giám Mục và các linh mục hướng dẫn, ngõ hầu chúng ta cũng lắng nghe tiếng Chúa trong Giáo Hội của Người.

3) Ngày hôm nay, các linh mục phải đối diện với nhiều áp lực và thách đố trong sứ vụ mục tử của mình, chúng ta được mời gọi cầu nguyện cho các linh mục, cộng tác tích cực với cha xứ để xây dựng giáo xứ của mình phát triển không ngừng. Cách riêng, hôm nay là ngày cầu nguyện cho ơn thiên triệu, chúng ta sốt sắng cầu nguyện cho Giáo Hội có nhiều ơn gọi tu trì và nhất là biết cổ võ ơn thiên triệu bằng sự giúp đỡ của mình cho công cuộc đào tạo ơn gọi linh mục. Amen!

Về mục lục

CÁNH CỔNG

Lm Vũđình Tường

Trước khi ra khỏi nhà bắt đầu ngày làm việc, chúng ta đi qua nhiều cửa, nào là cửa phòng ngủ, cửa phòng tắm, cửa tủ lạnh và cửa cuối cùng là cửa cổng. Cửa cổng là cửa đầu tiên, khởi đầu cho một ngày làm việc; cửa cổng cũng là cửa cuối cùng chấm dứt một ngày làm việc. Câu nói ‘Thiên Chúa là khởi nguyên và là cùng đích’, hay dùng mẫu tự trong ngôn ngữ Hy Lạp là alpha và omega, hai mẫu tự đầu tiên và cuối cùng để diễn tả ‘bắt đầu và kết thúc’, diễn tả một công việc, hay một ngày từ sáng tinh sương cho đến khi mặt trời khuất bóng. Nó còn dùng diễn tả đời con người, từ lúc sinh ra cho đến khi sinh vào cõi trường sinh. Áp dụng câu nói này vào đức tin thì Thiên Chúa là nguồn gốc, nguồn mạch sự sống của mỗi người Kitô hữu. Ta khởi đầu sự sống từ Thiên Chúa và kết thúc cuộc đời cũng trong Thiên Chúa. Ngài là cánh cổng đời ta từ khởi sự cho đến hoàn thành; Ngài cho ta sinh vào đời, và Ngài cho ta sinh vào cuộc sống mới.

Cửa cổng còn là hàng rào ngăn cách giữa riêng tư và chung. Bên trong cánh cổng thuộc về đất tư, bên ngoài cánh cổng dành chung cho mọi người. Nơi nào cũng có luật lệ riêng của nó và vì thế đời sống nơi dó khác biệt. Đức Kitô cho biết Ngài là Đấng chăn chiên nhân lành và đồng thời Ngài còn là cánh cửa chuồng chiên. Hình ảnh cánh cổng chuồng chiên nêu rõ một số đặc tính của cánh cổng. Cánh cổng không di chuyển, đứng trụ, chịu nắng nóng ban ngày, chịu lạnh ban đêm, chịu gió bão, mưa phùn, mưa đá. Mùa nắng cũng như mùa lạnh, trưa hè cũng như đêm đông, cánh cửa hấng chịu tất cả. Đứng vững cho đến khi mục rã, thì thay cánh cổng mới. Ngày cũng như đêm, cánh cổng ngăn chặn thú hoang và ngay cả trộm cắp. Tất cả không được tự nhiên ra vào mà phải phấn đấu vượt qua, phải chui rúc, phải phá bỏ hàng rào đó mới có thể vượt qua. Cánh cổng không những bảo vệ vật dụng trong nhà mà còn bảo vệ tất cả những gì bên trong cánh cổng. Đức Kitô tự nhận Ngài là cửa chuồng chiên, nhận diện chiên ra vào hàng ngày, nhận biết chúng và chúng nhận biết Ngài. Chủ chuồng chiên là người đầu tiên mở cổng mỗi sáng. Nếu có kẻ thù rình rập thì cũng là người đầu tiên phải đối phó. Chủ cánh cổng cũng là người ra sau cùng trước khi khoá cổng. Chủ chuồng chiên làm chủ đàn chiên, coi sóc, bảo vệ, mang lại an toàn cho đàn chiên và là người cuối cùng khoá cổng sau khi đàn chiên vào chuồng. Hình ảnh cánh cổng là hình ảnh mang í nghĩa bảo vệ, che chở, giữ an toàn. Cánh cổng phân chia giữa thiện và ác, giữa ngày và đêm.
Có sự khác biệt giữa người chăn chiên thuê và người làm chủ đàn chiên. Người chăn thuê đặt an toàn của họ trên đàn chiên, nếu cần phải trốn tránh, họ sẵn sàng bỏ rơi đàn chiên cho đến khi an toàn mới lộ diện. Đấng chăn chiên nhân lành coi sự an toàn, sự sống của đàn chiên như chính sự sống mình. Ngài không bỏ chạy khi gặp nguy hiểm, nhưng đứng ra đối diện với sự dữ, bảo vệ đàn chiên và sẵn sàng chiến đấu cho sự an toàn của đàn chiên. Ngài nghe tiếng chiên và chiên nhận biết tiếng Ngài. Ngài dẫn đàn chiên đến nơi có cỏ non, tươi, có suối nước trong, có bóng mát cho chiên nghỉ buổi trưa hè, có nơi tránh tuyết lạnh mùa đông. Chiên lạc Ngài tìm vác về, chiên thương tích Ngài vỗ về, băng bó và chiên ốm đau được chăm sóc chu đáo. Đấng chăn chiên lành coi sóc chiên cả ngày lẫn đêm. Ban ngày Ngài cho chiên ra để chúng chạy nhảy, để chúng ăn no, tắm mát cùng với những chiên khác; đêm đến Ngài coi sóc bảo vệ, trông chừng để chiên có giấc ngủ ngon. Trong chuồng chiên luôn có bình an, tình cảm đầm ấm chiên dành cho nhau; trong chuồng chiên không có tranh chấp, không có hận thù và không có đau khổ về vật chất cũng như tinh thần. Đó là nơi an bình, thanh thản, vui tươi, cuộc sống hài hoà, không phải lo lắng, cũng không sợ tai ương bởi Chủ Nhân lành lo tất cả mọi sự cho chiên.

Đức Kitô, Đấng chăn chiên nhân lành, coi sóc đàn chiên của Ngài, coi sóc Giáo Hội Ngài, nơi trần thế. Ngài hiện diện, kề bên, ngày cũng như đêm, luôn đồng hành với chiên trong mọi tình huống, mọi khó khăn của cuộc sống. Đau khổ, ốm đau, bệnh tật, bách hại, tù đầy nơi trần thế bởi vì đàn chiên và Giáo Hội Chúa đang trên đường lữ hành, đang trên đường về miền ‘Đất Hứa’. Cho đến khi nào vào chuồng chiên lúc đó mới thực sự có cuộc sống an bình. Nơi nước trời vắng bóng sự chết; nơi đó không còn chiến tranh; nơi đó bệnh tật bị tiêu diệt tận gốc rễ; nơi đó tràn đầy ánh sáng, bình an, hạnh phúc ngập tràn. Điều này đến vào cuối ngày, đến vào cuối đời người. Mỗi người trong chúng ta, xin học từ Đấng chăn chiên lành sống tinh thần vị tha, bác ái yêu thương, bắt đầu từ gia đình và thể hiện nơi cộng đoàn đức tin mình đang sống và lan tràn ra ngoài xa hội.

Về mục lục

CHÂN DUNG MỤC TỬ NHÂN LÀNH

Jorathe Nắng Tím

Hai hình ảnh không thể thiếu về người chăn chiên được Đức Giêsu mô tả trong Tin Mừng Gioan về Mục Tử nhân lành là “Tiếng gọi chiên”, và “Cửa cho chiên ra vào” (Ga 10,7), để làm nổi bật sứ vụ của người chăn chiên là “gọi tên từng con và dẫn chúng ra” đến đồng cỏ xanh, suối nước trong “để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10,3.10).

Quan sát người chăn chiên với đoàn chiên của anh: Anh không ngớt gọi từng con, và nhắc nhớ, khuyến khích, động viên chúng. Làm như chúng hiểu anh nói gì, dặn dò gì, nên khi người lạ nói, người lạ lên tiếng thay anh, chúng không hiểu và ngơ ngác nhìn nhau tỏ vẻ nghi ngờ, sợ hãi, vì “chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ” (Ga 10,4-5).

Khi ra vào chuồng, đoàn chiên cũng chờ tiếng nói của mục tử, và tuyệt đối không ra khỏi chuồng khi không có mặt người chăn giữ chúng, vì chúng sợ bị kẻ trộm bắt đi. Chúng cũng không liều lĩnh trốn khỏi chuồng đi lang thang một mình trong rừng, vì biết có nhiều sói dữ rình rập, chực chờ vồ lấy chúng, và ăn thịt (x.Ga 10,12).

Với hình ảnh “tiếng nói của mục tử”, Đức Giêsu nhắc đến sứ vụ của Ngài là Ngôi Lời của Thiên Chúa, là Tiếng Nói của Thiên Chúa với nhân loại, cũng như toàn bộ Cựu Ước là lịch sử “Thiên Chúa nói với con người”, và con người tin vào Ngài nhờ lắng nghe tiếng Ngài.

Như thế, Thiên Chúa đã là người đi bước trước đến với con người bằng “mở lời” nói với con người, như trực tiếp nói với Ápraham, Môsê, và gián tiếp qua các ngôn sứ nói với dân Ngài trong Cựu Ước. Cũng vậy, trong Tân Ước, Thiên Chúa đã sai sứ thần Gabrien mở lời với Đức Maria ở ngày Truyền Tin, và chính Đức Giêsu đã trực tiếp mở lời kêu gọi các môn đệ bên bờ hồ Galilê: “Các anh hãy theo tôi!” (Mt 4,19).

Thiên Chúa luôn mở lời trước, đề nghị trước, mời gọi trước, và dành cho con người toàn quyền trả lời đồng ý hay không đồng ý, chấp thuận hay khước từ, với tất cả tự do được Thiên Chúa tuyệt đối tôn trọng. Đó là lý do có rất nhiều người đã được Đức Gêsu “mở lời” mời làm môn đệ, nhiều người được gọi theo Ngài, nhưng con số đáp trả rất ít, số người trả lời tích cực không nhiều, như thánh Gioan đã viết: “Ngôi Lời là Thiên Chúa” (Ga 1,1) “Ngôi Lời là ánh sáng thật, ánh sáng đến thế gian, và chiếu soi mọi người. Người ở giữa thế gian, và thế gian đã nhờ Người mà có, nhưng lại không nhận biết Người. Người đã đến nhà mình, nhưng người nhà chẳng chịu đón nhận” (Ga 1,10-11).

Tiếp đến, Đức Giêsu chọn hình ảnh Cửa chuồng chiên, bên cạnh hình ảnh Tiếng Gọi khi nói về người mục tử nhân lành, vì đoàn chiên cần chuồng để được an toàn, cần nơi có cửa nẻo khép kín, có hàng rào ngăn chặn để người lạ, kẻ trộm, sói dữ không thể đột nhập, xâm phạm, phá hoại, cắn giết. Và chỉ khi được ở trong chuồng có cửa khép cẩn thận, có chủ chăn trông nom, đoàn chiên mới thoải mái, bình an.

Là Cửa, người chăn chiên vừa thi hành trách nhiệm gìn giữ, che chở, vừa thực hiện bổn phận giải phóng, khi tập cho đoàn chiên trưởng thành với ý thức tự do, vì chuồng chiên không là trại giam, và người gác cửa chuồng chiên không làm công việc của công an gác cổng nhà tù, bởi chiên có quyền đi ra đi vào: đi vào để ngủ nghỉ an toàn, để khỏi bị mưa ướt, sương lạnh, để kẻ trộm và sói dữ không lợi dụng sơ hở, trống trải mà “giết hại, phá hủy”, cướp đi mạng sống, đồng thời đi ra để “gặp được đồng cỏ” (Ga 10,9), hầu được “sống và sống dồi dào” (Ga 10,9-10).

Thực vậy, Đức Giêsu nhận mình là Mục Tử nhân lành: mục tử biết nói với chiên, và chiên lắng nghe tiếng Mục Tử (x. Ga 10,3). Nói điều này, Đức Giêsu nhấn mạnh tầm quan trọng của tiếng nói, bởi không tiếng nói giữa mục tử và đoàn chiên, không trao đổi giữa chúa chiên và con chiên, không đối thoại giữa người chăn dắt và đám đông được chăn dắt, thì không thể có đoàn chiên đúng nghiã, không thể có chuồng chiên an bình, không đấu đá, và không thể có đoàn thể chiên, cộng đoàn chiên “được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Nhưng ai phải nói với ai, và ai giữ phần quyết định thành – bại trong đối thoại, để “mục tử nghe được tiếng chiên, và chiên nghe biết tiếng mục tử”, mà không ngược lại: chủ chiên và chiên, cả hai không ai chịu nghe ai”?

Hỏi tức trả lời, vì chủ chiên là người nói trước, người mở lời, và trách nhiệm đầu tiên của mục tử là nói với đoàn chiên, nên nếu mục tử không nói, không muốn nói, không biết nói gì, hoặc nói mà chiên không hiểu, thì qủa thực đối thoại không đạt chuẩn thành công. Tệ hơn, nếu chủ chiên chỉ nói những gì mình muốn, những gì có lợi cho riêng mình, nói những chuyện không thuộc phận vụ phải nói, nói những chuyện không liên quan đến hạnh phúc của đoàn chiên, không đáp ứng nhu cầu sống của đoàn chiên, không giải quyết những vấn đề thiết thực của đoàn chiên, thì coi như tương quan chủ chiên – đoàn chiên bị tắc nghẽn, đóng băng. Nhưng còn tệ hơn gấp bội, nếu chủ chăn dùng quyền “mở lời, nói trước” của mình mà độc thoại, độc diễn, độc chiếm micrô để “thánh tướng” khoe khoang thành tích, đánh bóng “cái tôi”, mỉa mai, chỉ trích những con chiên không ngoan ngùy, dễ bảo, “mắng vốn mắng lời” người này người nọ, bôi bác, hạ nhục đám này, trách móc, thĩa bãi xa gần phe nhóm kia làm cho chuồng chiên mất bình an, đoàn chiên  chia rẽ, hoang mang, hoảng lọan.

Cũng thế, nếu đoàn chiên thấy cửa chuồng ngày càng giống cổng nhà giam, cửa sắt trại tù, thì chúng sẽ không hớn hở nối đuôi nhau chạy vào chuồng để được nghỉ ngơi, thư giãn. Trái lại, nếu mặt người giữ cửa hung bạo, dữ dằn, lại nóng giận “đằng đằng sát khí”, dò xét, đe dọa thì chiên sẽ nói nhỏ với nhau và cùng tìm đường chuồn, không về chuồng nữa để thoát thân, bảo toàn mạng sống, dù đời lang bạt sẽ nhiều rủi ro, và cuộc sống “không cửa không nhà” hứa hẹn nhiều vất vả, nhọc nhằn.

Vì thế, Đức Giêsu không chỉ mô tả “suông và hời hợt” hình ảnh Tiếng Nói và Cửa chuồng chiên, mà không căn dặn các môn đệ điều phải làm để là Tiếng Nói của chủ chiên đích thực, và Cửa bảo đảm an toàn và hạnh phúc của đoàn chiên. Trái lại, Ngài đã dậy các môn đệ là những mục tử nối bước chân chăn chiên của Ngài bài học quan trọng như bửu bối để trở nên mục tử nhân lành như Ngài. Bài học, bửu bối đó chính là Tình Yêu sẵn sàng hiến mạng sống của chủ chiên cho đoàn chiên mình chăn dắt.   

Vâng, Đức Giêsu đã lấy chính mạng sống để bảo đảm cho Tiếng Nói đích thực và Cửa an toàn của Mục Tử nhân lành, bởi “không tình yêu nào lớn hơn tình yêu của người hiến mạng sống mình cho người mình yêu” (Ga 15,13), khi qủa quyết: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mang sống mình cho đoàn chiên” (Ga 10,11).

Vì yêu đến sẵn sàng hiến mạng, nên sẽ không có mục tử từ chối nói với đoàn chiên của mình, vì Mục Tử nhân lành là người yêu thương chiên, “biết chiên” (Ga 10,14) và “gọi tên từng con” (Ga 10,3); sẽ không có mục tử độc thoại, khống chế, áp đặt, bắt chiên phải gục đầu, nhắm mắt nghe mà không được đối thoại, vì mục tử nhân lành là người có đủ tư cách để nói: “Tôi biết chiên của tôi, và chiên của tôi biết tôi” (Ga 10,14), bởi biết nhờ trao đổi, trao đổi để hiểu biết nhau hơn; sẽ không có chủ chăn không biết cách nói, hoăc không biết nói gì, vì khi yêu thương đoàn chiên đến độ “tự ý hy sinh mạng sống mình”, trong khi “mạng sống của mình không ai lấy đi được” (Ga 10,18), thì nội dung Tiếng Nói của mục tử sẽ là tình yêu mãnh liệt của chủ chiên nhân lành dành cho đoàn chiên, và chính trái tim đầy “tình yêu chiên” sẽ chỉ cho người chăn chiên cách nói hay nhất, cách nói dễ thương nhất, cách nói ân tình cha con nhất, cách nói thuyết phục nhất, cách nói tuyệt vời của Chúa Thánh Thần có sức biến đổi trái tim, đổi mới cuộc đời của đoàn chiên, để chiên không phải thiếu gì, nhưng được thỏa thuê no đầy, thảnh thơi, hạnh phúc bên bờ suối trong, trên đồng cỏ xanh rì.

Thực vậy, chỉ với tình yêu “sẵn sàng hiến mạng sống mình cho đoàn chiên”, người chăn chiên mới chu toàn được sứ vụ là Tiếng Nói và Cửa cho đoàn chiên. Cũng với tình yêu mãnh liệt và liều lĩnh là dâng hiến cả mạng sống, mục tử mới có thể trở thành mục tử nhân lành, người chăn dắt nhân hậu, và khi đó, không cần phải có tài hùng biện, hay “thôi miên”, lôi cuốn, cũng chẳng cần văn chương hoa mỹ, với những ngôn từ có cánh, mục tử nhân lành vẫn đánh động tâm hồn đám chiên ghẻ lở, ngang ngược; vẫn đưa về chuồng những chiên lầm đường lạc lối trót nghe lời dụ dỗ ngon ngọt của sói rừng; vẫn được đoàn chiên chăm chú lắng nghe, nhất là mãi mãi được đoàn chiên yêu thương, tín nhiệm, để  trao đổi tâm tư, trút bỏ tâm sự, cởi mở cõi lòng với chủ chăn, cho Tin Mừng Cứu Độ của Thiên Chúa được đón nhận, như người đàn bà Samari ngoại đạo đã trân trọng nghe và chân thành nói với Đức Giêsu bên bờ giếng Giacóp. Nhờ vậy, bà đã nhận ra Ngài là Mục Tử nhân lành, là Đấng Thiên Chúa sai đến trong thế gian để yêu thương và cứu độ mọi người, không trừ ai.

Về mục lục

TIN TƯỞNG VÀ CAN ĐẢM ĐÁP LẠI TIẾNG CHÚA GỌI MỜI

Lm. An-tôn Nguyễn Văn Độ

Chúa nhật thứ IV Phục Sinh, Chúa nhật Chúa Chiên Lành. Lời Chúa mời gọi chúng ta chiêm ngắm Chúa Giêsu, Vị Mục Tử Tối Cao đã hy sinh mạng sống vì đoàn chiên, đồng thời cầu nguyện cho những người đã được Chúa gọi để nhân Danh Chúa chăn dắt đàn chiên Chúa. Chúng ta cũng không quên cầu nguyện cho có nhiều người trẻ quảng đại dâng mình cho Chúa.

Chúa là mục tử

Hình ảnh người “Mục tử” hay người chăn chiên là một hình ảnh rất quen thuộc của nền văn minh nông nghiệp còn trong trạng thái thô sơ của thời du mục vùng Trung Đông, được dùng để diễn tả mối tương quan thân mật dễ mến dễ thương giữa Thiên Chúa với dân.

Cựu Ước thường gọi Chúa là mục tử, còn dân Chúa là chiên (St 49, 24 – 31 ; Gr 31, 10 ; Mk 7,14 v.v …). Chúa không những là Đấng dẫn dắt dân, tìm kiếm những người tội lỗi, chữa lành những kẻ bị thương lòng, mà còn là Đấng lấy mạng sống mình để bảo vệ dân, trao ban sự sống cho dân. “Đức Chúa phán: Chiên thất lạc, Ta sẽ tìm kiếm. Chiên tản mác, Ta sẽ lùa về. Chiên xây xát, Ta sẽ băng bó. Chiên bệnh hoạn, Ta sẽ bổ sức ” (Ez 34, 16). Những người được chọn để lãnh đạo dân Chúa như Abraham, Môisen, Đavít đều là những người chăn chiên.

Chúa chăm sóc chiên Chúa như thế nào? “Như người mục tử chăm nom đàn chiên của mình vào ngày nó ở giữa chiên phiêu bạt thế nào, cũng vậy Ta sẽ chăm nom chiên của Ta. Ta sẽ kéo chúng ra khỏi nơi chúng tán loại, vào ngày mây mù đen tối. Ta sẽ đem chúng ra khỏi các dân. Ta sẽ thâu họp chúng lại từ các xứ. Ta sẽ dẫn chúng về lại thửa đất của chúng. Và Ta sẽ chăn nuôi chúng trên núi Israel ” (Ez 34, 13-14).

Chúa tập hợp những con chiên yếu kém không thể đi được ; vác chúng trên vai, ôm chúng vào lòng ; như người mẹ bồng ẵm con thơ. Chúa cũng muốn những người nhân danh Chúa chăm sóc đoàn chiên, noi gương Chúa chăm sóc dân Chúa : “Như mục tử, Người chăn đàn chiên của Người, cánh tay Người thâu họp chúng lại; Người bồng chiên con và dìu đi cừu mẹ nuôi con” (Is 40,11). Mục tử nào không làm tròn trách nhiệm, Chúa sẽ quở trách và đòi lại chiên.

Đức Chúa phán thế này: Này Ta chống lại các mục tử, Ta sẽ đòi lại chiên Ta nơi tay chúng ” (Ez 34, 10). Hỏi các mục tử đã làm gì để Thiên Chúa nổi giận và đòi lại chiên vậy? Qua miệng ngôn sứ Ezêkiel, Thiên Chúa còn nói mạnh hơn nữa : “Ta sẽ không để chúng chăn chiên Ta nữa. Các mục tử sẽ không còn được chăn nuôi lấy mình chúng nữa. Ta sẽ giựt lấy chiên khỏi mõm chúng, khiến chiên Ta không còn là mồi ngon cho chúng ăn thịt nữa ” (Ez 34, 10). À thì ra, các mục tử chỉ để ý đến lợi ích của mình, không dám xả thân để cứu chiên, nay Chúa đòi lại chiên và Ngài tuyên bố : “Chính Ta sẽ tìm kiếm chiên của Ta, và Ta sẽ chăm nom đến chúng ” (Ez 34, 10).

Mục tử Giêsu thí mạng sống vì chiên

Hình ảnh Chúa Giêsu Mục Tử nhân lành được người ta khắc vẽ với vẻ dịu dàng, trìu mến của người chăn chiên, vác chiên trên vai, tìm kiếm con chiên lạc, ôm chúng vào lòng, đưa chiên về với đàn của chúng thật là đẹp. Quả thật, Chúa Giêsu Mục Tử đã yêu thương loài người, tức chiên bằng một tình yêu thí mạng, chết cho đoàn chiên. Người nuôi dưỡng chúng ta bằng những Lời Hằng Sống, bằng chính thịt máu mình nơi Bí tích Mình Thánh. Người giang cánh ta trên thập giá để thâu họp “con cái Thiên Chúa tản mác về lại làm một” (Ga 11,52). Nguy hiểm, Người không chạy trốn như lính đánh thuê, Người chết, nhưng cái chết của Người toàn thắng để cho chiên được sống đời đời.

Cầu cho các mục tử

Chúa Giêsu muốn các tông đồ và con người ở mọi thời tiếp bước theo Chúa trong đời thánh hiến, đến lượt mình, cũng xả thân bảo vệ đàn chiên, đưa các con chiên lạc trở về. Chúa mong ước các mục tử với ơn Chúa trợ giúp sẽ hoàn thành trách nhiệm dẫn dắt đoàn chiên đến đồng cỏ Nước Trời.

Chúa nhật này, chúng ta hãy cầu nguyện cho các mục tử thân yêu : nâng đỡ, cám ơn và khuyến khích các ngài ! Cầu cho Giáo hội Việt Nam có thêm nhiều linh mục lành thánh. Ý chỉ này cũng thật khẩn thiết cho Giáo hội hoàn vũ.

Chúng ta hướng về các y bác sĩ, nhất là các linh mục của Chúa tại Ý và nhiều nơi trên thế giới đã qua đời vì đàn chiên của mình. Ý thức mình là những người đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, dấu chỉ sự gần gũi của Chúa, hành động trong cương vị của Chúa, nhiều linh mục đang chạy đua trên tuyến đầu chống dịch Covid 19. Sự hiện diện của các ngài xoa dịu nỗi đau, an ủi và chữa lành nhiều tâm hồn. Vì thế, hơn bao giờ hết, các linh lục là những người cùng với các y bác sĩ chữa lành cho những ai nhiễm phải con virus này.  Xin cầu nguyện thật nhiều cho các ngài.

Cầu cho ơn thiên triệu

Chủ đề ngày thế giới cầu cho ơn kêu gọi năm nay là : “Những lời của ơn gọi “. Đức Phanxicô lấy lại 4 từ : đau khổ, biết ơn, can đảm và ngợi khen trong thư gửi các linh mục ngày 04 tháng 8 năm 2019, năm 2019, nhân kỷ niệm 160 năm ngày mất của Thánh Gioan Vianney. lấy lại 4 từ : đau khổ, biết ơn, can đảm và ngợi khen.

Trên hết, mọi ơn gọi đều phát sinh từ ánh mắt yêu thương mà Chúa đối với con người; vì phát xuất từ trên cao, nên ơn gọi cũng là lời đáp trả trước tiếng gọi cao vời của Chúa, chúng ta phải biết ơn Chúa.

Chọn lựa nào cũng có khó khăn. Ơn gọi cũng thế, chúng ta phải can đảm vượt qua, Chúa Giêsu nói với các môn đệ : “Thầy đây, đừng sợ!” Chúa cũng nói với chúng ta : “Can đảm lên! Đừng sợ!”

Trên hành trình theo Chúa, phiền muộn, đôi lúc làm ta không thể nhận ra vẻ đẹp của ơn gọi . Lo lắng quá về trách nhiệm khiến chúng ta thấy mệt mỏi trên hành trình ơn gọiChúa gọi ai thì trao nhiệm vụ cho người ấy; cố gắng hoàn thành là dĩ nhiên. Nhưng nếu để mình bị ám ảnh bởi những trách nhiệm, người ta sẽ không nhận ra sự hiện diện, đồng hành và ánh mắt nhân từ của Chúa.

Để vượt qua sự mệt mỏi, sợ hãi, cô đơn, sự bất an và lo lắng… cần phải tin tưởng rằng, Chúa sẽ đưa tay cứu giúp. Có Chúa trong hành trình ơn gọi, chúng ta sẽ bình an. Chúa luôn động viên ta: “Cứ yên tâm, đừng sợ!” Chúa ban cho chúng ta sự nhiệt huyết với niềm vui và lòng hăng say để sống ơn gọi của mình.

Lời cuối của sứ điệp, Đức Thánh Cha  mời gọi chúng ta noi gương Mẹ Maria cất lời ngợi khen Chúa với lòng biết ơn, biến đời ta thành một bài ca tán tạ hồng ân Thiên Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp người trẻ chúng con biết thưa xin vâng với Chúa như Mẹ để làm môn đệ Chúa. Amen.

Về mục lục

MỤC TỬ TỐT LÀNH HY SINH MẠNG SỐNG VÌ ĐOÀN CHIÊN

Lm.Jos Đỗ Đức Trí

Cả thế giới xúc động khi nhìn tấm hình Đức Thánh Cha Phanxicô vào ngày Chúa nhật 22/3. Ngài đứng từ ban công đền thờ thánh Phêrô, nhìn xuống quảng trường với nỗi đau buồn hiện trên gương mặt. Trước mặt Ngài là một quảng trường trống vắng, không một bóng người hành hương. Cả đoàn chiên của Ngài đã phải tan tác vì chạy dịch Coronavirus. Càng xúc động hơn nữa, vào chiều Thứ Sáu 27/3, dưới cơn mưa làm ướt đẫm quảng trường, một mình Ngài, vị giáo hoàng 84 tuổi, chỉ còn lại một lá phổi, bước đi những bước nặng nề vì trách nhiệm, Ngài đem Thánh Thể Chúa ban phép lành và cầu xin bình an cho cả thế giới. Hình ảnh thật xúc động, khiến cho các tờ báo lớn của thế giới phải chạy hành tựa: “Cả trời cao cũng phải đổ nước mắt.” Lúc đó dường như cả thế giới ngước mắt hướng nhìn về Đức Giáo Hoàng với tất cả niềm hy vọng. Ngài biết Ngài đang mang một sứ mạng lịch sử để cứu nguy cho cả nhân loại, dẫn dắt đoàn chiên Chúa đã trao cho Ngài vượt qua thử thách: “Con hãy chăn dắt các chiên con chiên mẹ của Thầy.”

Lời của Chúa hôm nay đang được diễn tả cách sống động và cụ thể qua hình ảnh của Đức Giáo Hoàng Phanxicô mà chúng ta đang chứng kiến việc Ngài đã và đang làm cho Giáo Hội, cho thế giới, cách đặc biệt trong những tháng vừa qua. Cả thế giới đang bị bầy sói Coronavirus tấn công khiến cho nhân loại bị tan tác, sợ hãi, đoàn chiên bị hoang mang tản loạn. Lãnh nhận sứ mạng từ vị Mục tử Giêsu, kế vị Thánh Phêrô, Đức Giáo Hoàng có nhiệm vụ củng cố đức tin cho anh em và bênh vực bảo vệ đoàn chiên khỏi sói dữ tấn công.

Chúa Giêsu cho thấy sự khác biệt giữa mục tử thật và kẻ chăn thuê: “Người chăn thuê không phải là mục tử và vì chiên không thuộc về hắn, nên khi thấy sói đến nó bỏ chiên mà trốn. Sói sẽ vồ lấy chiên và làm cho chiên tản loạn.” Đức Thánh Cha Phanxicô đã không sợ hãi đại dịch đang bao vây thành Vatican, cho dù sức khoẻ của Ngài không tốt. Ngài vẫn làm việc và liên tục đưa ra những hướng dẫn cho Giáo Hội, Ngài làm mọi cách để nâng đỡ đời sống đức tin cho dân Chúa. Trước đó, vị giám mục giám quản giáo phận Roma tuyên bố đóng cửa các nhà thờ, Đức Thánh Cha đã phải can thiệp và nhắc cho mọi người rằng: “Đừng để cho con virus sợ hãi tấn công chúng ta. Người tín hữu lúc này cần được đến với Chúa Giêsu Thánh Thể để cầu nguyện, để được nâng đỡ.” Vì thế, các cửa nhà thờ lại được mở ra, trở thành nơi trú ẩn trong đời sống đức tin cho các tín hữu. Đức Thánh Cha đi bộ đến Đền thờ Đức Bà Cả, Ngài phó dâng nhân loại cho Đức Mẹ. Ngài đưa ra sáng kiến ngày cầu nguyện, giờ cầu nguyện chung của cả Giáo Hội cầu cho thế giới. Đặc biệt là vào ngày 27/3 Ngài đã ban phép lành cho thành Roma và thế giới để cầu xin ơn bằng an. Đây là phép lành thông thường Ngài chỉ thực hiện vào hai dịp trọng đại trong năm là lễ Giáng Sinh và Phục Sinh. Nhìn hình ảnh vị đại diện Chúa Kitô, người kế vị thánh Phêrô một mình bước những bước chân già nua mệt mỏi trên các bậc đá trơn trượt, khiến cho cả thế giới chạnh lòng. Người ta có thể cảm nhận được sự đau khổ trong lòng của Ngài qua ánh mắt. Ngài đã bước đến chân tượng Chúa chịu nạn để ôm lấy Chúa và cầu nguyện cho Giáo Hội. Trong bài giảng trước đó, Đức Thánh Cha kêu gọi con cái trong Giáo Hội “đừng sợ” nhưng hãy chạy đến với Chúa Giêsu và kêu với Ngài: “Thầy ơi! Xin cứu chúng con với, chúng con chết mất.” Ngài quả quyết rằng: Chúa vẫn hiện diện trên con tàu Giáo Hội. Ngài đang ngồi ở đàng lái để điều khiển con tàu Giáo Hội. Ngài chỉ đang ngủ một chút thôi, hãy đến đánh thức Người dậy. Chúa sẽ ra lệnh cho sóng gió yên lặng.

Bài đọc một, Sách Công Vụ cho thấy một hình ảnh Phêrô thi hành nhiệm vụ chủ chăn mà Chúa trao phó. Nếu như những ngày trước đây, chúng ta thấy một Simon Phêrô bồng bột, hèn nhát trong cuộc thương khó của Chúa, thì nay Phêrô hiên ngang mạnh dạn trong vai trò là thủ lãnh Giáo Hội, là người anh trong số Mười Hai, là người tiên phong trên hành trình truyền giáo. Mới cách đây không lâu, Phêrô và các trông đồ còn nhút nhát, sợ hãi, ẩn nấp trong căn nhà Tiệc ly, thì hôm nay với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các ông đã mạnh dạn đứng dậy, bước ra với thế giới. Phêrô đã thể hiện vai trò chủ chăn, người được Chúa Giêsu trao phó sứ mạng chăm sóc đoàn chiên Chúa, ông đã nói với dân chúng rằng: “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo lên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Kitô. Nghe vậy, họ đau đớn trong lòng và hỏi ông Phêrô và các tông đồ: Thưa các ông, vậy chúng tôi phải làm gì? Ông Phêrô đáp: Anh em hãy sám hối và chịu phép rửa nhân danh Đức Giêsu Kitô để được ơn tha tội. Và anh em sẽ nhận được ân huệ là Chúa Thánh Thần.”

Những lời giảng ngắn gọn của Phêrô trong hoàn cảnh này, như là luồng điện chạm vào trái tim, tâm hồn của người Do Thái. Họ hối hận về hành vi và đời sống của họ và ăn năn sám hối. Trong những tháng vừa qua chúng ta cũng đang thấy điều này đang được thực hiện qua vị Đại diện Chúa Kitô ở trần gian. Có những lúc các vị chủ chăn đưa ra những lời khích lệ động viên an ủi, nhằm xoa dịu nỗi đau đớn hoảng loạn của nhân loại. Nhưng cũng có nhiều lần Ngài chỉ cho thấy những lối sống sai trái, những cám dỗ nguy hiểm đang kéo nhiều người xa lìa Thiên Chúa. Ngài cũng mời gọi con cái Giáo Hội cùng sám hối quay trở lại với đòi hỏi của Tin Mừng, sống theo con đường của Chúa Kitô để được ơn giải thoát.

Trở về với con đường của Đức Kitô và Tin Mừng, tức là trở lại với đúng vị trí và ơn gọi của mình là con của Giáo Hội, là đoàn dân của Chúa, đặt mình dưới sự hướng dẫn của Mục Tử Giêsu. Đi theo con đường của Đức Kitô, chắc chắn không phải là con đường thênh thang rộng rãi, nhưng là con đường hẹp. Con đường này đòi chúng ta phải chấp nhận hy sinh và từ bỏ, hy sinh cái tôi, tự ái và những cái riêng, từ bỏ những hành lý cồng kềnh khiến chúng ta mệt mỏi trong cuộc sống. Thánh Phêrô còn nhấn mạnh: “Anh em thân mến, nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, thì đó là ơn Thiên Chúa ban. Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế.”

Thưa quý OBACE cử hành ngày lễ Chúa Chiên Lành hôm nay, chúng ta tạ ơn Chúa vì Chúa đã thương chọn chúng ta và cho chúng ta được làm con chiên dưới sự hướng dẫn chăm sóc của Ngài. Chính Chúa Giêsu là mục tử của chúng ta; Ngài đã dùng lời của Ngài dạy dỗ chúng ta và dùng tình thương, sự tha thứ để chữa lành và nâng đỡ chúng ta. Vị mục tử Giêsu đã hy sinh mạng sống để bảo vệ chúng ta khỏi tay sói dữ là ma quỷ, Ngài cứu chuộc và còn dâng tặng cả máu thịt mình làm của ăn của uống nuôi sống đoàn chiên. Xin cho chúng ta luôn tin tưởng yêu mến và sống gắn bó hết mình với vị mục tử Giêsu.

Vị mục tử Giêsu còn tiếp tục hướng dẫn chúng ta qua các vị chủ chăn được Chúa tuyển chọn và trao phó cho việc thay mặt Chúa củng cố đức tin, chăm sóc hướng dẫn chúng ta trong thời đại mới này. Giáo Hội chính là đoàn chiên của Chúa. Sống trong Giáo Hội, chúng ta được hưởng sự chăm sóc yêu thương và được nuôi dưỡng bằng các bí tích cũng như các ân sủng của Chúa trao cho Giáo Hội. Vì thế, chúng ta được mời gọi trở thành những con chiên ngoan, sẵn sàng lắng nghe và tin tưởng bước theo sự hướng dẫn dạy bảo của Hội Thánh. Đừng bao giờ để mình thành những con chiên xa đàn, dẫn đến lạc đàn, vì sự kiêu căng tự ái hay vì những trái ý, nhưng khiêm tốn đón nhận, cộng tác và có trách nhiệm với cộng đoàn Giáo Hội vì lợi ích chung.

Qua bí tích Rửa tội Chúa cũng cho mỗi người được tham dự vào chức năng mục tử của Chúa Giêsu. Vì vậy, mỗi chúng ta được mời gọi trở nên mục tử đích thật, hy sinh vì đoàn chiên, chăm lo cho đoàn chiên nhỏ bé của mình trong gia đình, nơi cộng đoàn. Chúng ta cũng phải học theo gương mục tử Giêsu để dám hy sinh cả mạng sống vì những người Chúa trao cho mình. Dùng đời sống gương sáng và những lời dạy bảo để hướng dẫn con cái đi theo con đường của Chúa Kitô. Kiên nhẫn tìm kiếm và tha thứ khi con cái sai lạc, yêu thương đón nhận và bao dung để mở đường cho con cái quay về. Đừng bao giờ dựng hàng rào hay ngăn cản lối về của con cái hoặc của anh chị em mình.

Chúng ta tiếp tục cầu nguyện cho các vị chủ chăn của chúng ta: Đức Giáo Hoàng, các giám mục và các linh mục là những người đang mang trên vai trách nhiệm chăm sóc bảo vệ và hướng dẫn đoàn chiên Giáo Hội. Các Ngài cũng là những con người giới hạn, yếu đuối cả thể xác, tinh thần nên rất cần lời cầu nguyện và sự cảm thông của chúng ta. Xin cho chúng ta chu toàn sứ vụ vừa là con chiên ngoan của Chúa, vừa là con chiên trưởng thành trong Giáo Hội và đồng thời cũng là chủ chiên trong gia đình mình. Amen.

Về mục lục

SỨC SỐNG

Trầm Thiên Thu

Mục Tử Thật Hy Sinh Mạng Sống

Người Làm Thuê Bỏ Mặc Đàn Chiên

Đó là “bí quyết” chính Chúa Giêsu đã “bật mí” để có thể phân biệt người thật và việc thật, hoặc người giả và việc ảo, và được Thánh sử Gioan đã ghi lại. (Ga 10:11-12)

Ngày xưa, khi thấy đám đông lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt, Chúa Giêsu đã chạnh lòng thương họ và nói với các môn đệ: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về.” (Mt 9:37-38)

Với lòng thương xót vô tận, Ngài không muốn ai phải sống èo uột, mà chỉ muốn mọi người được sống dồi dào, sống viên mãn, sống đúng nhân vị và nhân phẩm của con người, đồng thời cũng được hưởng nhân quyền và sự tự do đích thực. Ngài không chỉ muốn chúng ta được hạnh phúc đời sau mà còn được hạnh phúc ngay đời này.

Nếu chúng ta muốn được hạnh phúc như vậy thì chắc chắn phải “đi qua” Đức Giêsu Kitô – Đấng chịu chết và phục sinh. Thật vậy, Đức Giêsu Kitô là Con Đường duy nhất dẫn đến Chúa Cha (Ga 14:6) và là Nguồn Sống Viên Mãn. (Ga 10:10) Ngài không chỉ nuôi sống chúng ta bằng ân sủng mà đặc biệt là chính Mình Máu Ngài để chúng ta được sống dồi dào, vì Ngài là Thiên Chúa của người sống chứ không là Thiên Chúa của người chết. (Mt 22:32; Mc 12:27; Lc 20:38) Đó là vấn đề thực sự quan trọng.

Tuy nhiên, nếu muốn được sống viên mãn thì mỗi “cành nho” chúng ta phải nối kết với Cây Nho Thật để được truyền nhựa-yêu-thương. (Ga 15:1-17) Cây có nhiều nhựa thì có nhiều sức sống, con người cũng vậy, đặc biệt là sự sống tâm linh, sự sống từ Thiên Chúa, sự sống dồi dào thực sự.

Người ta sẽ biến đổi hoàn toàn để trở thành một con người mới khi được tái sinh bởi Đức Giêsu Kitô. Ngày xưa, sau khi Chúa Giêsu phục sinh, ông Phêrô đứng chung với Nhóm Mười Một lớn tiếng nói với tất cả những người đang cư ngụ tại Giêrusalem, và họ lắng nghe ông nói: “Toàn thể nhà Israel phải biết chắc điều này: Đức Giêsu mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Kitô.” (Cv 2:36) Nghe thế, họ đau đớn trong lòng, rồi họ hỏi ông Phêrô và các tông đồ khác: “Thưa các anh, vậy chúng tôi phải làm gì?” (Cv 2:37) Biết hỏi như vậy là dấu hiệu tốt lành, vì chứng tỏ tâm hồn đã thực sự sám hối lỗi lầm, khao khát điều tốt và ước muốn hướng thiện. Chắc chắn ước muốn thì sẽ được, như người Pháp có câu: “Vouloir, c’est pouvoir.”

Ông Phêrô nghe họ hỏi vậy thì đáp: “Anh em hãy SÁM HỐI, và mỗi người hãy CHỊU PHÉP RỬA nhân danh Đức Giêsu Kitô, để được ơn tha tội; và anh em sẽ nhận được ân huệ là Thánh Thần. Thật vậy, đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em, cũng như cho con cháu anh em và tất cả những người ở xa, tất cả những người mà Chúa là Thiên Chúa chúng ta sẽ kêu gọi.” (Cv 2:38-39) Ông Phêrô còn dùng nhiều lời khác để long trọng làm chứng và khuyên nhủ họ. Rồi ông nói: “Anh em hãy TRÁNH XA thế hệ gian tà này để được cứu độ.” (Cv 2:40) Những ai đã đón nhận lời ông thì đều xin được lãnh nhận phép rửa, muốn được tái sinh để hy vọng được vào Nước Trời. (Ga 3:5) Ngay trong ngày hôm ấy, có thêm khoảng ba ngàn người theo đạo. Cây đức tin có sức sống thật mạnh.

Khoa học tiến bộ, ngày nay có phương tiện định vị toàn cầu giúp người ta định hướng, nhưng vẫn có thể lạc lối, chắc chắn chỉ có Chúa Giêsu mới chính là “định vị kế” chuẩn mực nhất. Người nào nhận biết được như vậy thì luôn an vui tín thác vào Thiên Chúa quan phòng và xác định: “Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn gì. Trong đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ. Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức cho tôi. Người dẫn tôi trên đường ngay nẻo chính vì danh dự của Người.” (Tv 23:1-3) Thực sự an bình, thanh thản.

Đồng thời người đó cũng luôn an tâm vững chí, và hạnh phúc thân thưa: “Lạy Chúa, dầu qua lũng âm u con sợ gì nguy khốn, vì có Chúa ở cùng. Côn trượng Ngài bảo vệ, con vững dạ an tâm. Chúa dọn sẵn cho con bữa tiệc ngay trước mặt quân thù. Đầu con, Chúa xức đượm dầu thơm, ly rượu con đầy tràn chan chứa. Lòng nhân hậu và tình thương Chúa ấp ủ tôi suốt cả cuộc đời, và tôi được ở đền Người những ngày tháng, những năm dài triền miên.” (Tv 23:4-6) Thật vậy, ai tuân giữ lời dạy của Đức Kitô thì không bao giờ phải chết. (Ga 8:51) Điều Chúa hứa sẽ luôn chính xác tuyệt đối, chẳng bao giờ sai chút nào.

Tín nhân không xa lạ với lòng nhân hậu và tình thương của Chúa, vì đó chính là Lòng Thương Xót mà ngày nay đang rất phổ biến khắp nơi trên thế giới, từ thành thị tới thôn quê, từ người già tới người trẻ, bởi vì không ai lại không là tội nhân, và vì thế mà bất cứ ai cũng cần đến Lòng Chúa Thương Xót. Hằng ngày, khi cầu nguyện bằng Kinh Mân Côi, chúng ta nhiều lần kêu xin: “Lạy Chúa Giêsu, xin tha tội chúng con, xin cứu chúng con cho khỏi hỏa ngục, xin đem các linh hồn lên Thiên Đàng, nhất là những linh hồn cần đến Lòng Chúa Thương Xót hơn.” Đó là lời nguyện Đức Mẹ dạy ba trẻ tại Fátima. Thế nhưng cũng rất có thể vì quen quá hóa nhàm, và rồi chúng ta không thực sự chú ý hoặc không cảm nhận lời cầu tha thiết như vậy. Linh hồn nào cũng cần được Thiên Chúa thương xót, dù người đó còn sống hay đã qua đời.

Theo bản tính phàm nhân, con người có thất tình (hỉ, nộ, ai, lạc, ái, ố, dục). Đời sống tâm linh được lồng trong đời thường, và cũng có những cảm xúc khác nhau. Do đó, chúng ta luôn phải cố gắng không ngừng, sơ sảy một chút là té nhào ngay. Đôi khi còn có những điều trái tai, gai mắt, và chúng ta phải nỗ lực vượt qua chính mình. Thánh Phêrô đặt vấn đề: “Nếu có tội mà anh em bị đánh đập và đành chịu thì nào có vẻ vang gì? Nếu làm việc lành và phải khổ mà anh em vẫn kiên tâm chịu đựng, đó là ơn Thiên Chúa ban.” (1 Pr 2:20) Thật thế sao? Hãy nghe Thánh Phêrô giải thích: “Anh em được Thiên Chúa gọi để sống như thế. Thật vậy, Đức Kitô đã chịu đau khổ vì anh em, để lại một gương mẫu cho anh em dõi bước theo Người. Người không hề phạm tội; chẳng ai thấy miệng Người nói một lời gian dối. Bị nguyền rủa, Người không nguyền rủa lại, chịu đau khổ mà chẳng ngăm đe; nhưng một bề phó thác cho Đấng xét xử công bình.” (1 Pr 2:21-23) Đó là sống theo Thánh Ý Thiên Chúa.

Là Nguồn Sống nhưng Chúa Giêsu đã chịu bị giết chết, không phải Ngài đáng bị như vậy, mà Ngài chịu thay chúng ta, Ngài chịu chết để chúng ta có cơ hội sửa sai và có thể phục sinh vinh quang như Ngài: “Tội lỗi của chúng ta, chính Người đã mang vào thân thể mà đưa lên cây thập giá, để một khi đã chết đối với tội, chúng ta sống cuộc đời công chính. Vì Người phải mang những vết thương mà anh em đã được chữa lành. Quả thật, trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về với Vị Mục Tử, Đấng chăm sóc linh hồn anh em.” (1 Pr 2:24-25) Chúa Giêsu chết vì tội lỗi của chúng ta, Ngài cũng muốn chúng ta phải dám chết cho tội lỗi của mình – và của người khác, nhờ đó mà được sống lại và có sức sống của Đấng Phục Sinh Giêsu Kitô.

Chúa Giêsu là ai và là gì? Chính Ngài xác định Ngài là Con Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống, (Ga 14:6) đồng thời Ngài còn là Cửa, (Ga 10:9) chính Cửa này dẫn vào Nguồn Sống Viên Mãn của Thiên Chúa: “Thật, tôi bảo thật các ông: Ai không đi qua cửa mà vào ràn chiên, nhưng trèo qua lối khác mà vào, người ấy là kẻ trộm, kẻ cướp. Còn ai đi qua cửa mà vào, người ấy là mục tử. Người giữ cửa mở cho anh ta vào, và chiên nghe tiếng của anh; anh gọi tên từng con, rồi dẫn chúng ra. Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên đi theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh. Chúng sẽ không theo người lạ, nhưng sẽ chạy trốn, vì chúng không nhận biết tiếng người lạ.” (Ga 10:1-5) Nghe nói vậy, người ta không hiểu Chúa Giêsu nói gì. Tại sao? Bởi vì hiểu theo ý loài người và muốn hiểu theo ý riêng mình.

Điều đó không chỉ khó hiểu đối với nhóm Pharisêu hồi đó, mà còn khó hiểu đối với cả chúng ta ngày nay, thậm chí có khi chúng ta còn không muốn hiểu. Thật vậy, những lời Chúa Giêsu nói nghe không thấy có gì “gay gắt,” nhưng thực ra hiểu rồi thì mới cảm thấy “đụng chạm” và “nhức óc” lắm, vì Ngài muốn nhấn mạnh đến tính chất nhân lành cần thiết của Mục Tử, nghĩa là người đó phải thể hiện lòng thương xót và dám thí mạng vì đoàn chiên.

Trong cơn đại dịch Corona, nhiều linh mục đã xả thân nơi tuyến đầu để cứu giúp những người không may bị nhiễm bệnh dịch, mặc dù có thể nguy hiểm tới tính mạng của mình. Đó là tấm gương sáng của những người theo Thầy Chí Thánh Giêsu.

Đề cập lòng trắc ẩn, chắc hẳn không thể quên tấm gương sáng chói của Thánh tử đạo Maximilian Maria Kolbe, linh mục Dòng Phanxicô. Ngài sinh ngày 08-01-1894, tử đạo ngày 14-08-1941 tại trại tập trung Auschwitz của Đức Quốc Xã hồi thế chiến II. Ngài được mệnh danh là vị tử đạo bác ái, vì ngài đã chạnh lòng thương xót mà dám chết thay cho một tử tù còn vợ con. Ngài được Thánh GH Gioan Phaolô II tuyên thánh ngày 10-10-1982, được tôn phong là bổn mạng của những người nghiện ma túy, các tù nhân chính trị, các gia đình, các ký giả, và phong trào bảo vệ sự sống. Thánh GH Gioan Phaolô II đã tôn ngài làm “Thánh Bổn Mạng của Thế Kỷ Khó Khăn Chúng Ta.” Thánh Maximilian đã nỗ lực thúc đẩy phong trào tận hiến và phó thác cho Đức Mẹ, do đó ngài được mệnh danh là Tông Đồ Tận Hiến cho Đức Mẹ. Chính cái chết của ngài là đỉnh điểm của sự sống hoàn toàn tận hiến cho Đức Mẹ, ngài được gọi là “Gã Khờ của Đức Mẹ,” vì ngài đã làm mọi thứ vì Đức Mẹ. Thật tuyệt vời!

Chúa Giêsu là Mục Tử Nhân Lành đích thực, Ngài yêu thương mọi người, và Ngài chỉ muốn mọi người “đừng yêu thương nơi đầu môi chót lưỡi, nhưng phải yêu thương cách chân thật và bằng việc làm,” (1 Ga 3:18) nhất là những người được lãnh nhận tác vụ linh mục, họ cũng PHẢI là những mục tử nhân hậu, PHẢI biết phục vụ chứ không hưởng thụ. (Mt 20:28) Tuy nhiên, thời nào cũng vẫn thấy có những người thích dùng quyền và ra lệnh hơn là khiêm nhường phục vụ vì yêu thương. Con sâu làm rầu nồi canh. Có lần Đức Phanxicô đã cảnh báo các giám mục: “Mục tử có nguy cơ bị mê hoặc bởi viễn tượng nghề nghiệp, bởi cám dỗ về tiền bạc, và những thoả hiệp theo tinh thần thế gian.” Lần khác ngài còn nhấn mạnh rằng giám mục là người được chọn để PHỤC VỤ một Giáo Hội duy nhất, vì thế KHÔNG ĐƯỢC tìm kiếm một việc gì khác ngoài việc phục vụ Giáo Hội, và ngài đã nói thẳng: “Nếu tìm kiếm một việc gì khác thì chính giám mục đó đang ngoại tình.” Tấm gương mờ của “giám mục xa hoa” Franz Peter Tebartz van Elst (người Đức) còn đó, và rồi ông đã bị đình chỉ nhiệm vụ hồi tháng 10-2013. Chắc hẳn Mục Tử Giêsu buồn lắm!

Gương có nhiều loại – to hoặc nhỏ, sáng hoặc mờ. Một loại “gương lạ” là ĐGM Sebastianappan Singaroyan, 68 tuổi, GP Salem, bang Tamil Nadu, Ấn Độ. Sau 19 năm thi hành sứ vụ giám mục, ngài từ chức giám mục để làm cha phó tại một họ đạo nghèo, và ngày 09-03-2020, ĐTC Phanxicô đã chấp nhận. Ngài là một người nổi tiếng là “giám mục của dân” qua cách sống thanh bần và gần gũi với mọi người.

Khi đề cập vấn đề “nhạy cảm” như vậy, có những người cảm thấy “nhột” (chính họ nhột hoặc nhột dùm), nhưng phải nhột như vậy mới có thể “qua cơn mê” mà kịp thức giấc. Chúng ta chỉ tâng bốc nhau bằng những lời khen sáo rỗng để lấy lòng nhau thì chẳng lợi ích gì, thay vì dìu nhau vào miền ánh sáng thì lại đưa nhau vào con đường mê lầm. Dám nhìn thẳng vào sự thật mới là người yêu sự thật, và nhờ đó mới có thể thành nhân. Sợ sự thật hoặc tránh sự thật là đồng lõa với sự giả dối, đừng biện hộ vì thế này hoặc thế nọ, và cũng đừng ảo tưởng “chiếc bánh vẽ” nào đó.

Thật chí lý với nhận định của đại nhân Tuân Tử: “Người chê ta mà chê đúng thì là thầy ta, người khen ta mà khen đúng thì là bạn ta, những kẻ nịnh bợ ta chính là kẻ thù của ta vậy.” [Xin được “mở ngoặc” nhỏ: Câu nói này thường thấy người ta sai sót cho là của Khổng Tử.]

Tương tự, khi đọc Lời Chúa thì người ta chỉ thích đọc những câu “vừa ý mình,” tránh những câu “chói tai” càng nhiều càng tốt. Người ta nói rất mạnh khi gặp đoạn Kinh Thánh không “đụng chạm” tới mình, nhưng lại “bẻ lái” khi gặp đoạn Kinh Thánh “hóc búa,” vì có những câu “va chạm” mạnh quá, thế nên họ cảm thấy… “nhột” và rất ngại ngùng, cứ lùng bùng lỗ tai.

Chúa Giêsu luôn thẳng thắn, dù lời Ngài nói ra có thể “mất cả xảo long.” Nhưng không thể khác được. Cũng vậy đối với Kinh Thánh – Lời Chúa. Có lúc Lời Chúa làm cho chúng ta vui mừng phấn khởi, nhưng có lúc lại khiến chúng ta xấu hổ, đau lòng. Nhưng ai dám chịu nỗi đau đó thì mới khả dĩ “bừng cơn mê” mà sớm thành nhân và nên hoàn thiện. Chỉ có thuốc đắng mới khả dĩ chữa lành bệnh tật – cả bệnh của thân xác và tật của tâm hồn.

Mục Tử Giêsu xác định: “Tôi là cửa cho chiên ra vào. Mọi kẻ đến trước tôi đều là trộm cướp, nhưng chiên đã không nghe họ. Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ. Kẻ trộm chỉ đến để ăn trộm, giết hại và phá huỷ. Phần tôi, tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10:7-10) Mục Tử Nhân Lành là vậy, luôn sống và hành động vì người khác, vì đoàn chiên. Ai không là chủ chiên nhân hậu như Đức Giêsu Kitô thì chỉ là “thợ chiên” (chăn thuê) mà thôi. Đi qua Cửa đó sẽ phải chịu “đau nhức” lắm. Bức tượng càng đẹp thì càng chịu đục đẽo và chà xát nhiều.

Liên quan sự viên mãn, Thánh Phaolô có mơ ước và cũng là lời kêu gọi: “Xin cho anh em, nhờ lòng tin, được Đức Kitô ngự trong tâm hồn; xin cho anh em được bén rễ sâu và xây dựng vững chắc trên đức ái, để cùng toàn thể dân thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết tình thương của Đức Kitô, là tình thương vượt quá sự hiểu biết. Như vậy anh em sẽ được đầy tràn tất cả sự viên mãn của Thiên Chúa.” (Ep 3:17-19) Trong lời kinh hòa bình, Thánh nghèo khó Phanxicô Assisi đã nguyện ước thực tế mà sâu sắc: “Xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.” Và ngài tin chắc: “Chính lúc chết đi là khi vui sống muôn đời.” Đó chính là sức sống mãnh liệt của những người thực sự tin Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa Ngôi Hai, Đấng nhập thể làm người, là Con Chiên hiến tế và đã từ cõi chết sống lại vinh quang.

Trong Việt ngữ, mẫu tự kép CH được phát âm là “chờ” – bắt đầu cả hai chữ Chủ Chiên. Ý nghĩa thật thâm thúy: CHỜ và CHO. Ai chờ và chờ ai? Chờ gì và cho gì? Và CH còn bắt đầu chữ CHẾT – Chịu Chết. Chúa Giêsu đã sống các mẫu tự kép CH như vậy.

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin ban cho chúng con sự sống của Ngài, để chúng con đủ sức mạnh mà hành động vì chân lý đích thực, và mỗi người sống như một “Kitô khác” chứ không “khác Kitô.” Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

CÓ MỘT TƯƠNG QUAN THẬT LẠ LÙNG

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

 Khi giới thiệu một nhân vật quan trọng cho công chúng thì người ta sẽ nêu lên tước vị, vai trò hay học vị cao nhất của người đó để cho mọi người nể trọng, chẳng hạn: Đây là ngài tổng thống… Đây là giáo sư tiến sĩ… Đây là khoa học gia nổi tiếng…

Thế mà qua đoạn Tin mừng được trích đọc hôm nay, Chúa Giê-su tự giới thiệu Ngài bằng một danh hiệu thật lạ kỳ và đáng kinh ngạc. Ngài nói: “Tôi là cửa chuồng chiên!” (Ga 10,7).

Vì sao Chúa Giê-su lại tự giới thiệu mình với một vai trò quá đỗi tầm thường như thế?

Xưa kia, tại Do-thái, để canh giữ đoàn chiên ban đêm, người chăn chọn một bãi đất trống ngoài đồng rồi rào dậu chung quanh, chỉ chừa một lối hẹp cho chiên ra vào mà không có cửa. Ban đêm, sau khi đã lùa chiên vào ràn, người chăn nằm ngay lối ra vào chật hẹp đó thay cho cánh cửa. Thế là chiên bên trong không thể ra bên ngoài được vì đã có người chăn chặn lối, kẻ trộm bên ngoài cũng không vào trong ràn bắt chiên được vì người chăn đã chắn lối đi. Như thế, người chăn trở thành một “cánh cửa sống” bảo vệ an toàn cho đoàn chiên.

Qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su tự xưng mình là “cửa chuồng chiên” như thế đó.

Thân thế của Chúa Giê-su

Chúa Giê-su, Đấng xưng mình là người chăn chiên, là cửa chuồng chiên… lại có thân thế rất diệu kỳ.

Ngài chính là Ngôi Lời, tức là Thiên Chúa ngôi hai, đã hiện hữu từ lúc vũ trụ chưa được tác thành, như Tin mừng Gioan cho biết: “Từ khởi đầu đã có Ngôi Lời… Ngôi Lời là Thiên Chúa.”

Ngài cũng chính là Đấng tạo dựng nên vũ trụ càn khôn: “Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành và không có Ngài thì chẳng có gì được tạo thành” (Ga 1, 1-3).

Thế mà, vì loài người chúng ta và để cứu rỗi chúng ta, “Ngôi Lời đã trở nên người phàm và cư ngụ giữa chúng ta” (Ga 1,14).

Ngài cư ngụ giữa chúng ta để làm gì?

– Để chia vui với người vui như Ngài đã tham dự tiệc cưới tại Ca-na và làm phép lạ đầu tay cho nước hóa nên nhiều rượu ngon cho mọi người vui hưởng;

– Để khóc với người khóc như Ngài đã khóc thương trước mồ La-da-rô khi thấy cô Maria nức nở khóc thương em mình đã chết;

– Để cảm thông với vô vàn đau đớn, khốn khổ của nhân loại, của những người bệnh hoạn tật nguyền… Vì thế, Ngài đã làm cho người mù được thấy, người què được đi, người câm được nói, người phong hủi được lành sạch…

Thế là Ngài đã tạo nên một tương quan rất đặc biệt, rất độc đáo với con người.

Tương quan đó thế nào?

– Ngài là Đấng Tạo hóa, đã dựng nên muôn loài muôn vật trong vũ trụ bao la vô biên vô tận, so với Ngài, con người chẳng là gì cả. Vậy mà Ngài vẫn trân trọng chúng ta, yêu quý chúng ta, quan tâm chăm sóc từng người chúng ta.

– Ngài là Chúa tể trời đất, là vua hoàn vũ cao sang phép tắc, quyền năng vô lượng, còn chúng ta chỉ là thần dân nhỏ bé; nhưng Ngài vẫn quý mến chúng ta, không xem chúng ta như người dân đen vô danh tiểu tốt.

Vậy thì tương quan giữa Ngài với chúng ta như thế nào?

Thưa, đó là tương quan bạn bè! Ngài trở nên bạn hữu của chúng ta, Ngài thân ái gọi chúng ta là bạn, như lời Ngài nói:  “Thầy không gọi các con là tôi tớ… nhưng Thầy gọi các con là bạn hữu…” (Ga 15,15).

Và qua Tin mừng hôm nay, Chúa Giê-su xác lập thêm một tương quan mới giữa Ngài với chúng ta, đó là tương quan giữa người chăn và đoàn chiên. Như người chăn chiên tốt, Ngài thấu hiểu từng con chiên một, gọi đích danh từng con trong đoàn, Ngài đi trước dẫn chiên theo sau và sẵn sàng hy sinh mạng sống để bảo vệ đoàn chiên.

Và đặc biệt hơn nữa, Ngài tự ví mình như cánh cửa chuồng chiên.

– Cánh cửa này đóng lại vào ban đêm để bảo vệ chiên khỏi tay trộm cướp, khỏi nanh vuốt của thú rừng;

– Cánh cửa này mở ra vào ban ngày để đưa chiên đến đồng cỏ xanh, đến nguồn suối mát… vì mục đích Ngài đến trần gian là “để cho chiên Ngài được sống và sống dồi dào” (Ga 10,10).

Lạy Chúa Giê-su,

Chúa hạ mình xuống thật thấp để nâng chúng con lên thật cao; Chúa chấp nhận làm người để nâng loài người lên hàng con Thiên Chúa; Chúa tự xóa mình đi, gác bỏ vinh quang, quyền lực qua một bên để hóa thân làm người phàm yếu đuối, để đồng cam cộng khổ với chúng con, để nên bạn bè thân thiết, chia vui sẻ buồn với chúng con và thậm chí còn trở thành cánh cửa chuồng chiên để che chắn, bảo vệ chúng con là đoàn chiên của Chúa.

Xin cho chúng con hiểu cho thấu tình thương sâu đậm Chúa dành cho chúng con và sống sao cho xứng với tình yêu đó.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT CHÚA CHIÊN LÀNH_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Theo chu trình ba năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật Chúa Chiên Lành, Chúa Nhật cầu cho Ơn Thiên Triệu.

Cv 2: 14, 36-41

Chúng ta tiếp tục đọc bài diễn từ thánh Phê-rô công bố cho đám đông đến Giê-ru-sa-lem mừng lễ Ngũ Tuần. Thánh nhân khuyên họ hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô. Đó phải là con đường đi vào ràn chiên của Đức Giê-su Ki-tô.

 1Pr 2: 20-25                                                     

Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phê-rô, trong đó thánh nhân an ủi các tín hữu đang phải chịu đau khổ và cho họ biết rằng Đức Ki-tô là vị Mục Tử của họ.

Ga 10: 1-10

Dụ ngôn Đấng Chăn Chiên nhân lành được trích từ Tin Mừng Gioan và được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ. Đoạn Tin Mừng được trích dẫn hôm nay là phần đầu của dụ ngôn “Người Mục Tử nhân lành”.

BÀI ĐỌC I (Cv 2: 14a, 36-41)

Bản văn này là phần kết của bài diễn từ mà thánh Phê-rô công bố ở Giê-ru-sa-lem, vào đúng ngày lễ Ngũ Tuần, qua đó thánh nhân đang ngỏ lời với đám đông dân chúng đến mừng lễ.

Trong phần trước đó, thánh nhân công bố ý nghĩa cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Giê-su và ân ban dồi dào của Chúa Thánh Thần, Đấng nội tâm hóa sứ điệp của Đức Ki-tô và thúc đẩy các tín hữu dấn bước theo Đức Giê-su.

  1. Đức Giê-su là Đức Chúa và là Đấng Ki-tô

Trong phần kết này, khởi đi từ nhân tính của Đức Giê-su, thánh nhân công bố tước vị Đức Chúa và Đấng Ki-tô của Đức Giê-su: “Thưa toàn thể nhà Ít-ra-en, xin biết chắc cho điều này: Đức Giê-su mà anh em đã treo trên thập giá, Thiên Chúa đã đặt Người làm Đức Chúa và làm Đấng Ki-tô”. Tước hiệu “Đức Chúa” (“kupios”) là tước hiệu mà bản Bảy Mươi dùng để dịch danh xưng của chính Thiên Chúa là “A-đô-nai”. Thánh Phê-rô ban cho Đức Giê-su tước hiệu này, như vậy thánh nhân không ngần ngại định vị Đức Giê-su vào trong lãnh vực thần linh. Vả lại, sách Công Vụ ban tước hiệu Đức Chúa lúc thì cho Thiên Chúa (Đức Chúa Cha), lúc thì cho Đức Giê-su (Đức Chúa Giê-su), để nhấn mạnh tính duy nhất của Cha và Con.

Lời công bố này đã tác động mạnh mẽ đến tâm hồn những người đang hiện diện khiến họ đi đến một quyết định cụ thể: “Thưa quý ông, vậy chúng tôi phải làm gì?”. Thế nên, thánh Phê-rô trả lời với một đòi hỏi kép: hoán cải tận căn: “Anh em hãy đoạn tuyệt với thế hệ gian tà này” và lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”. Đây là phương thức đầu tiên để trở thành người Ki-tô hữu.

  1. Hoán cải và lãnh nhận phép Thánh Tẩy nhân danh Đức Giê-su Ki-tô

Như thường gặp thấy trong Kinh Thánh, tên gọi của một người chính là con người mang tên ấy. Ai lãnh nhận phép Thánh Tẩy “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô”, tức là tuyên xưng đức tin của mình vào Chúa Giê-su Ki-tô, người ấy được sáp nhập vào con người của Đấng Phục Sinh, thuộc vào Đức Ki-tô, trở nên một với Ngài. Thánh Phê-rô nghĩ đến ý nghĩa phép Thánh Tẩy chứ không đến chính nghi thức. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Lu-ca không bao giờ dùng danh từ “phép rửa” để chỉ phép Thánh Tẩy Kitô giáo, bởi vì thuật ngữ này luôn luôn quy chiếu đến phép rửa của Gioan Tẩy Giả. Thánh Lu-ca dành riêng cho phép Thánh Tẩy Ki-tô giáo động từ “rửa”, thường nhất ở thể thụ động thần linh.

Có lẽ công thức Ba Ngôi “nhân danh Cha và Con và Thánh Thần” đã chưa được sử dụng cách phổ quát ngay. Công thức Ba Ngôi được thánh Mát-thêu trích dẫn (Mt 28: 19) rõ ràng được thánh Phao-lô nêu lên ở 1Cr 6: 11: “Anh em đã được tẩy rửa, được thánh hóa, được nên công chính nhờ danh Chúa Giê-su Ki-tô và nhờ Thần Khí của Thiên Chúa chúng ta”. Cuối thế kỷ thứ nhất, sách Đi-đa-khê hay “Giáo Huấn của nhóm Mười Hai” (sưu tập giáo lý và phụng vụ) chỉ biết công thức Ba Ngôi. Tuy nhiên, ở đây thánh Phê-rô kể ra liền ngay ân sủng Thánh Thần như thực hiện lời Thiên Chúa hứa. Thế nên, Ba Ngôi hiện diện rồi.

  1. Ơn cứu độ phổ quát

Thánh nhân ngỏ lời trước tiên với người Do thái: “Vì đó là điều Thiên Chúa đã hứa cho anh em” (nghĩa là ân sủng Thánh Thần như lời hứa ban cho dân Ngài vào thời Mê-si-a), nhưng ngay liền sau đó, thánh nhân ngỏ lời với lương dân: “và tất cả những người ở chốn xa xăm”. Quả thật, cách nói này thường được dùng để chỉ lương dân đối lập với dân Chúa chọn, dân ở “gần” Thiên Chúa, như Is 57: 19: “Bình an cho những ai ở xa (lương dân) như cho những ai ở gần (dân Chúa chọn)”. Đang khi xuất thần ở trong Đền Thờ, thánh Phao-lô nghe tiếng Chúa bảo ông: “Hãy đi, vì Thầy đã sai anh đến với các dân ngoại ở phương xa”  (Cv 22: 21).

Thánh Lu-ca kết thúc bài bài trình thuật này khi nhấn mạnh rằng Ki-tô giáo phát triển rất nhanh như thánh nhân thường làm: “Và hôm ấy đã có thêm được ba ngàn người theo đạo” .

BÀI ĐỌC II (1Pr 2: 20-25)

Phụng vụ hôm nay chọn đoạn trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, vì câu cuối của đoạn trích này vang dội Tin Mừng hôm nay về Người Mục Tử nhân lành: “Vì trước kia anh em chẳng khác nào những con chiên lạc, nhưng nay đã quay về cùng Vị Mục Tử chăm sóc linh hồn anh em”.

  1. Ý hướng

Trong đoạn trích này, thánh Phê-rô đưa ra những lời khuyên cho những người Ki-tô hữu thuộc nhiều tầng lớp xã hội khác nhau. Những lời khuyên này cốt yếu được gửi đến cho “những tôi tớ”“những gia nhân”. Bản văn phụng vụ dịch khá khái quát: “anh em”, vì những lời khuyên bảo này có giá trị đối với tất cả những ai đang chịu đau khổ.

Việc thánh Phê-rô chú ý đến những người bé mọn này chứng thực Ki-tô giáo được đón nhận rộng rãi ở giữa những thành phần xã hội bị ngược đãi nhất. Cũng như thánh Phao-lô trong thư gửi tín hữu Ê-phê-xô, thánh Phê-rô không nhằm đặt lại tận căn những cơ cấu xã hội vào thời đại của ngài: thánh nhân chỉ nhắm đến việc biến đổi bên trong. Sống những giá trị Ki-tô giáo trong điều kiện mà người ta đang sống đó là cách thức biến đổi những mối tương quan giữa người với người. Một cách khái quát, thư nhắm đến ý nghĩa này: cách ăn nếp ở của những người Ki-tô hữu phải khiến cho lương dân suy nghĩ, soi sáng họ, khiến họ thay đổi cách hành xử của mình. Lúc đó, sức mạnh giải phóng của Đức Ki-tô thay đổi cơ cấu xã hội và biến toàn thể nhân loại thành một cộng đoàn huynh đệ và bình đẳng.

  1. Người Công Chính phải chịu đau khổ

Để an ủi những người bé mọn này phải chịu nhiều đau khổ bất công, thánh Phê-rô nhắc nhở họ, hãy theo gương Đức Giê-su, hãy lấy Ân báo Oán. Thánh nhân không ngần ngại nói về ơn gọi của người Ki-tô hữu đó là chấp nhận đau khổ: “Anh em được Chúa gọi để sống như thế”, ám chỉ đến lời mời gọi của Đức Giê-su: “Nếu ai muốn theo Ta, hãy vác lấy thập giá mình…”.

Đức Ki-tô đã không giải quyết những đau khổ, nhưng Ngài đã đảm nhận, đón nhận chúng vào nơi chính bản thân mình và biến đổi chúng bằng cách cho chúng một ý nghĩa. Để giải thích cuộc Tử Nạn mà Đức Giê-su phải chịu dựa trên sấm ngôn của ngôn sứ I-sai-a đệ nhị về Người Tôi Trung Đau Khổ, thánh Phê-rô trích dẫn khá tự do bài ca thứ ba (Is 50: 5-8) và bài ca thứ tư (Is 53: 4-7), và áp dụng vào Đức Ki-tô, Đấng “mang trong thân xác mình tội lỗi của chúng ta mà đưa lên thập giá…”.

Vì thế, câu cuối của đoạn văn này minh họa một chủ để quan trọng của bức thư: thành quả tinh thần của sự đau khổ mà người công chính phải chịu và mối phúc của những người bị bách hại. Những người Ki-tô hữu đang phải sống những gian nan thử thách, họ chắc chắn thuộc vào đoàn chiên của Vị Mục Tử chân thật, Ngài đang “chăn dắt họ”.

TIN MỪNG (Ga 10: 1-10)

Trong cả ba chu trình Năm Phụng Vụ, Chúa Nhật IV Phục Sinh là Chúa Nhật “Chúa Chiên Lành.”  Dụ ngôn “Vị Mục Tử nhân lành” được chia thành ba phần theo chu trình ba năm Phụng Vụ: năm A: Ga 10: 1-10, Ga 10: 11-18 vào năm B: Ga 10: 11-18, và năm C: Ga 10: 27-30.

  1. Hình ảnh “người mục tử”trong Kinh Thánh

Hình ảnh “người mục tử và đàn chiên” chạy xuyên suốt Kinh Thánh, từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tự nguồn gốc, dân Ít-ra-en vốn là dân du mục. Vào thời Đức Giê-su, một thành phần vẫn còn sống nghề chăn chiên. Các tác giả thánh vịnh đã có chủ ý phóng chiếu trên Thiên Chúa của mình những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng, như Tv 23:

“Chúa là mục tử chăn dắt tôi, tôi chẳng thiếu thốn chi.

Trên đồng cỏ xanh tươi, Người cho tôi nằm nghỉ.

Người đưa tôi tới dòng nước trong lành và bổ sức tôi…”

hay Tv 78:

“Còn dân Chúa, Người dẫn đi như thể đàn cừu,

đem họ vào sa mạc chẳng khác bầy chiên,

đưa họ đi an toàn, chẳng có chi phải sợ…”  (Tv 78: 51-52).

Các ngôn sứ đã phác họa Đấng Mê-si-a theo những nét đặc trưng của vị mục tử lý tưởng này; nhất là ngôn sứ Ê-dê-ki-en mô tả một viễn cảnh thật táo bạo. Vị ngôn sứ, nhân danh Thiên Chúa, gay gắt lên án các vị lãnh đạo thời ông. Họ là những mục tử vô trách nhiệm, là quân trộm cướp, chỉ biết lo cho mình mà không quan tâm đến đoàn chiên. Vì vậy, Thiên Chúa sẽ tước đi khỏi họ quyền chăn dắt đoàn chiên của Người. Chính Người sẽ đích thân chăm sóc chiên của Người. Cuối cùng, Người sẽ cho xuất hiện một vị Mục Tử Nhân Lành theo dung mạo vua Đa-vít, sống chết vì đàn chiên (Ed 34). Dụ ngôn của Đức Giê-su được đặt vào truyền thống của dụ ngôn Ê-dê-ki-en, vì thế, khi tuyên bố mình là Mục Tử Nhân Lành, Đức Giê-su đòi hỏi cho mình tước hiệu Mê-si-a.

Trong Tin Mừng Gioan, Diễn Từ: “Người Mục Tử đích thật” đặt liền ngay sau câu chuyện người mù từ thuở mới sinh được sáng mắt. Những kiểu nói được lập đi lập lại: “Thật, tôi bảo thật các ông” loan báo sự phối hợp của hai câu chuyện này và chỉ cho thấy sự liên tục của tư tưởng và tuyến phát triển của lập luận. Mối liên kết này soi sáng những lời nói của Đức Giê-su. Qua những hình ảnh biểu tượng: người mục tử, ràn chiên, cửa chuồng chiên, Đức Giê-su muốn mặc khải cho chúng ta những khía cạnh mầu nhiệm của con người Ngài, vén mở cho chúng ta thoáng thấy những mối tâm giao mới giữa Thiên Chúa và con người mà Ngài đến thiết lập, và giúp chúng ta nắm bắt một cách sâu xa tấm lòng trìu mến của Thiên Chúa.

  1. Người Mục Tử đích thật

Phần thứ nhất đặt sự tương phản giữa người mục tử và quân trộm cướp. Bức tranh này rất quen thuộc với miền Pa-lét-tinh. Ràn chiên là một thửa đất giữa đồng được rào chung quanh và có người canh giữ để chiên khỏi bị quân trộm cướp đến giết hại. Khi chiều xuống, những người mục tử gửi đàn chiên của mình vào chung một ràn chiên. Sáng sớm, người chăn chiên đến tìm đàn chiên của mình, anh chỉ cần lên tiếng gọi: chiên nào thuộc người chăn chiên thì nhận ra tiếng của anh và chạy đến với anh; chúng không theo người lạ.

Qua hình ảnh đó, Chúa Giê-su khẳng định mối tâm giao giữa người chăn chiên và đàn chiên: “Anh gọi tên từng con một”. Đối với Đức Giê-su, không có đám đông vô danh; Ngài nhận biết và yêu mến từng con chiên. Đáp lại, đàn chiên quen hơi bén tiếng với người chăn chiên của mình: “Khi đã cho chiên ra hết, anh ta đi trước và chiên theo sau, vì chúng nhận biết tiếng của anh”. Qua mối tâm giao hỗ tương này, Chúa Giê-su đối lập thái độ của Ngài với thái độ của nhóm Pha-ri-sêu: họ đã loại bỏ một cách tàn nhẫn anh mù được sáng mắt, như thế họ đã hành xử như mục tử gian ác. Trái lại, Đức Giê-su không chỉ tiếp đón anh, nhưng sau khi đã cho con mắt xác thịt của anh được thấy, Ngài còn dẫn dắt anh đến niềm tin, đã khai lòng mở trí cho anh đón nhận ánh sáng, vì Ngài là mục tử đích thật.

  1. Cửa chuồng chiên

“Đức Giê-su kể cho họ nghe dụ ngôn đó. Nhưng họ không hiểu Người có ý nói gì”. Vì thế, Chúa Giê-su tiếp tục nói với họ khi giới thiệu Ngài là “cửa chuồng chiên”. Tuy nhiên, chúng ta cần nhận ra nét tinh tế của bản văn ở đây. Đức Giê-su không nói: “Tôi là cửa chuồng chiên”, nhưng “Tôi là cửa cho chiên ra vào”. Đây là một nét biệt phân quan trọng: Đức Giê-su không là cửa của một nơi chốn, nhưng Ngài là lối đi cho chiên ra vào, như vậy, Ngài khẳng định mình là Đấng trung gian duy nhất. Ngài là cửa duy nhất, qua đó chiên có thể vào nơi trú ẩn an toàn mỗi khi chiều xuống, để rồi khi bình minh đến, đàn chiên ra đi đến đồng cỏ xanh tươi: “Ai qua tôi mà vào, thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ được ra vào và tìm được lương thực nuôi mình”. Cuối cùng, khi phác họa chân dung người mục tử lý tưởng, Đức Giê-su mời gọi tất cả những ai tiếp tục sự nghiệp dẫn dắt dân Ngài hãy bước theo mẫu gương này. Vì thế, Chúa Nhật IV Phục Sinh này cũng được gọi “Chúa Nhật Ơn Thiên Triệu”.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...