05/10/2024
627

CHÚA NHẬT 27 THƯỜNG NIÊN NĂM B

Lời Chúa: St 2,18-24; Dt 2,9-11; Mc 10,2-16
------------------------------

Mục lục

1. Hôn nhân bình đẳng và bền vững  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích (Jorathe Nắng Tím)

3. Nên một huyết nhục (Lm. Thái Nguyên)

4. Không được phân ly (Lm. Vũ Đình Tường)

5. Thủy chung  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

6. Hôn nhân một vợ một chồng trong ý định của Thiên Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

7. Kê tình  (Trầm Thiên Thu)

8. Khi ta yêu thương  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

9. Hôn nhân, sự chúc lành của Thiên Chúa (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

10. Tìm về ý định của Thiên Chúa  (Lm. Ngọc Dũng, SDB)

11. Làm cha với sự hy sinh trưởng thành (Lm. Dương Trung Tín)


 

HÔN NHÂN BÌNH ĐẲNG VÀ BỀN VỮNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Khi nhận định về tình trạng hôn nhân và gia đình hôm nay, hầu hết những nhà nghiên cứu và những người có trách nhiệm đều có một cái nhìn tiêu cực. Quả vậy, trong cơn bão hưởng thụ và với quan niệm mang danh “tự do” gia đình truyền thống Việt Nam đang đứng trước nhiều nguy cơ: ly dị, phá thai, đồng tính, sống chung không đám cưới. Có những người được mệnh danh là “người của công chúng” mà kết hôn đến 5 lần. Điều đáng lo ngại là những người này lại lập luận đó là chuyện bình thường. Nguy hiểm hơn nữa, tình trạng thay vợ thay chồng như thay áo lại được quần chúng xã hội chấp nhận dễ dàng!

Khi nói đến những khó khăn trong đời sống hôn nhân, nhiều bạn trẻ lập luận: thời ông bà chúng ta ngày xưa rất dễ dàng, bởi các cụ không mấy khi ra khỏi làng, những nhu cầu vật chất của các cụ không nhiều, lại không có những hình thức giải trí và giao lưu như ngày nay, nên các cụ có thể sống với nhau trọn đời. Đối với nhữung người này, đời sống vợ chồng sống chung thuỷ đã trở thành câu chuyện cổ tích. Lối lập luận này chỉ là một nguỵ biện. Bởi lẽ thời nào cũng thế, đời sống hôn nhân luôn đầy những sóng gió bão táp. Thời ngày xưa thì bão táp mang khuôn mặt của thời xưa. Bí quyết để chung thuỷ trong hôn nhân luôn là sự khiêm nhường, bao dung, thiện chí và tôn trọng lẫn nhau.

Trong Tin Mừng hôm nay, những người Biệt phái muốn gài bẫy Chúa Giêsu. Họ muốn đưa Ngài vào một “thế khó” khi đưa ra vấn nạn về ly dị. Điều này cho thấy thời nào cũng có những tranh chấp bất đồng trong đời sống hôn nhân. Không chỉ những người Biệt phái đặt ra vấn nạn này, mà cả những môn đệ cũng làm như vậy. Như thế, xem ra các ông không hiểu lời giải thích của Chúa với những người Biệt phái, cho nên các ông mới hỏi Người khi về đến nhà. Với các môn đệ, Chúa nói một cách ngắn gọn nhưng dứt khoát: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ người khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình“. Theo giáo huấn của Chúa Giêsu, không có sự phân biệt về trách nhiệm giữa người nam và người nữ. Nền tảng để nhận xét trách nhiệm luân lý của một hành vi không phân biệt người đó là vợ hay là chồng, nhưng tất cả đều như nhau.

Từ một vài thập niên trở lại đây, có những tổ chức, phong trào đòi quyền bình đẳng cho người phụ nữ. Vấn đề này đã được nêu từ thời Cựu ước. Bài đọc I trích sách Sáng thế, là cuốn sách đầu tiên của Bộ Kinh Thánh, đã nói lên điều này. Sự bình đẳng nam nữ trước hết là trong công trình sáng tạo. Thiên Chúa dựng nên con người có nam có nữ. Tác giả trình bày việc Thiên Chúa lấy chiếc xương sườn của ông Ađam – người đàn ông đầu tiên – để tạo nên bà Evà. Cách diễn tả này muốn khẳng định sự bình đẳng giữa cặp vợ chồng đầu tiên này. “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi!”. Câu cảm thán của Ađam như một tiếng kêu vui mừng hân hoan vì từ nay có người trợ tá, đồng thời cũng nói lên sự bình đẳng ngang hàng.

Bình đẳng và bền vững, đó là hai yếu tính của hôn nhân nói chung, nhất là đối với hôn nhân Công giáo. Bởi lẽ, Bí tích hôn nhân là mối giây ràng buộc thiêng liêng gắn bó hai người, một nam và một nữ, đến nỗi họ trở nên một xác thịt. Đây là ý định của Thiên Chúa từ khởi đầu của lịch sử. Đức Giêsu nhắc lại giáo huấn này, đồng thời khẳng định, nếu ông Môisen có cấp giấy ly dị cho một số trường hợp là vì sự yếu đuối và cứng lòng của con người.

Là thân phận tạo vật, con người không thể nhân danh tự do để làm bất kỳ những gì mình muốn. Giáo huấn của Kinh Thánh khẳng định với chúng ta: hãy làm những gì Chúa muốn, để được hạnh phúc lâu bền. Thiên Chúa là Đấng thấu hiểu nỗi lòng, cùng với những khó khăn của mỗi chúng ta, Thiên Chúa không phải là một ý tưởng hay một ngẫu tượng, nhưng là Đấng Tạo thành và là Cha giàu lòng thương xót. Qua mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể, Thiên Chúa đã trở nên gần gũi đối với con người, để đồng hành, lắng nghe, nâng đỡ và an ủi họ. Chính Đức Giêsu đã sống kiếp phàm nhân, đã thấu hiểu nỗi đau của con người trong cuộc đời nhân thế. Thiên Chúa không chỉ cho chúng ta những điều răn và những huấn lệnh, nhưng còn cho chúng ta chính Con Một của Ngài, tức là Ngài ban chính mình Ngài cho chúng ta. Tác giả thư Do Thái (Bài đọc II) đã diễn tả điều ấy.

Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly“. Trước tình trạng người ta thay vợ thay chồng như thay áo hôm nay, Giáo Hội vẫn rao giảng giáo huấn của Chúa, bởi vì đây là Thiên Luật, tức là luật của Thiên Chúa, bền vững vĩnh cửu. Giáo Hội có bổn phận khẳng định rằng, con người phải phụng sự Thiên Chúa, chứ không được phép bắt Thiên Chúa phải phụng sự mình. Những ai muốn đạt được hạnh phúc đích thực đời này và đời sau, phải tuân giữ những gì Chúa đã truyền dạy. Nếu họ chưa gia nhập Giáo Hội, ít là họ phải sống theo lương tâm, vì lương tâm cũng là lề luật của Thiên Chúa in vào tâm khảm của con người, nhằm giúp con người nên hoàn thiện.

Sách Giáo lý của Giáo Hội Công giáo nêu rõ: “Chủ trương sống phóng túng phát xuất từ quan niệm sai lạc về sự tự do của con người. Muốn có tự do đích thực, điều tiên quyết là con người phải được giáo dục về luật luân lý. Phải đòi hỏi những người có trách nhiệm giáo dục dạy cho người trẻ biết tôn trọng sự thật, các phẩm chất của trái tim và phẩm giá luân lý và thiêng liêng của con người” (số 2526). Theo giáo huấn trên đây, một xã hội lành mạnh phải khởi đi từ ý thức của những thành viên trong xã hội đó. Giáo dục nhân bản và giới tính là điều kiện căn bản giúp con người hiểu và sống tự do, nhờ đó họ trưởng thành và cùng cộng tác xây dựng một cuộc sống nhân ái và hoà bình.

Qua cuộc sống trần thế, Chúa Giêsu diễn tả mối tương quan giữa Thiên Chúa và con người. Đó không phải là mối tương quan nô lệ hay cưỡng ép, nhưng là tự do và sự phó thác, với xác tín rằng Thiên Chúa luôn muốn những điều tốt đẹp cho những ai tin cậy nơi Ngài.

Nên giống như trẻ em, đồng thời đón nhận Nước Trời với tâm hồn trẻ thơ, đó là bí quyết để nên hoàn thiện. Thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu đã cảm nhận được điều này. Tâm tình trẻ thơ đã làm cho Bà trở thành một đấng thánh và là mẫu mực cho những ai muốn nên giống Chúa Giêsu.

Nên giống như trẻ thơ, đó cũng là một điều kiện để trở nên môn đệ Đức Giêsu. Chúng ta nhớ lại, cũng trong Tin Mừng Thánh Máccô (x Mc 9,35-37), trong lúc các môn đệ tranh cãi xem ai là người lớn nhất, Chúa Giêsu đã đặt một em nhỏ vào giữa các ông, đồng thời Người cho thấy Người đồng hoá với các em nhỏ này. Không những thế, “ai đón tiếp em nhỏ này là đón tiếp Thày, ai đón tiếp Thày là đón tiếp Đấng đã sai Thày“. Tinh thần trẻ thơ không phải là sự ngây thơ ấu trĩ, nhưng đó là sự tin tưởng hoàn toàn, sự vâng lời tín thác, sự đơn sơ khó nghèo và lắng nghe chân thành.

Gia đình là nền tảng của xã hội và của Giáo Hội. Gia đình cũng là trường học đầu tiên, nơi con người được rèn luyện và hình thành nhân cách. Chúng ta cùng cầu nguyện cho mọi người ý thức được sự thánh thiêng của gia đình và giá trị của hôn nhân, để một khi gia đình bền vững, tương lai xã hội và Giáo Hội sẽ tốt đẹp và tươi sáng.

Về mục lục

THIÊN CHÚA LÀ NGUỒN GỐC VÀ CÙNG ĐÍCH

Jorathe Nắng Tím

Tin Mừng hôm nay xoay quanh Nguồn Gốc của con người, Liên Đới giữa người nam và người nữ, để hướng về Thiên Chúa là Cùng Đích của tất cả mọi thụ tạo.

Về nguồn gốc con người, Tin Mừng khẳng định: “Ngay lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ” (Mc 10, 6), và sách Sáng Thế đã mô tả nguồn gốc ấy, như trong bài đọc thứ nhất (x. St 2,18-24).

Nhưng nguồn gốc của con người chỉ có giá trị và ý nghiã khi con người nhận biết chính Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người mới thực là nguồn gốc ơn cứu độ của họ, như thánh Phaolô đã quả quyết: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hóa đều do một nguồn gốc” (Dt 2, 10-11).

Như thế, con người không chỉ được tạo dựng để sống như cỏ cây, nhưng còn để được thông dự  vinh quang đời đời  của Thiên Chúa, vì Thiên Chúa là Nguồn Gốc và Cùng Đích của con người: Nguồn Gốc từ đó con người được tạo dựng, Cùng Đích con người phải đạt tới, tiến về, bởi con người là con cái của Thiên Chúa mang hình ảnh của Ngài, nên chỉ hạnh phúc, thoả lòng khi được về với Ngài, ở với Ngài.

Vì thế, cuộc sống con người sẽ chỉ có ý nghĩa đích thực khi con người biết mình là con Thiên Chúa, được Cha trên Trời sinh ra, và sẽ về Trời với Cha mình. Ý nghĩa này không thể gặp được ở đời sống của người vô thần khi họ chủ trương con người chỉ là kết qủa của một “bùng nổ tự nhiên”, con nguời chết là hết, con người sống chết như thực vật, động vật không linh hồn, không Nguồn Gốc, Cùng Đích không hy vọng sự sống đời sau.

Cũng theo Tin Mừng, sự liên đới giữa con người, đặc biệt giữa người nữ và người nam trong hôn nhân được đặt trên nền tảng Thiên Chúa là Nguồn Gốc, Cùng Đích của con người, và Đức Giêsu là Đấng đảm bảo tương quan Cha Con giữa con người với Thiên Chúa. Nói cách khác, liên đới giữa con người với con người, cũng như tương quan hiệp nhất giữa người nữ và người nam trong bậc sống hôn nhân, gia đình được bảo đảm bởi Giao Ước giữa Thiên Chúa và con người đã được Đức Giêsu thực hiện bằng chính máu Ngài, máu của Con Thiên Chúa làm người đã chết như con người để đem lại ơn cứu độ cho con người. Nhờ thế, con người được trở thành con của Thiên Chúa Cha, và anh em của Đức Giêsu như Tin Mừng Máccô ghi lại: “Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em.” (Mc 10, 11).

Thực vậy, một khi Thiên Chúa được chân nhận là Nguồn Gốc và Cùng Đích của con người, thì đời sống của mỗi người sẽ là những bước chân tiến dần về Thiên Chúa được ơn phù trợ của Ngài hướng dẫn, che chở. Trên con đường của đời sống có Thiên Chúa là Nguồn Gốc và Cùng Đích ấy, mọi liên đới, tương quan giữa người với người, giữa vợ với chồng, giữa cha mẹ, con cái, tất thảy đều quy hướng về Giao Ước yêu thương giữa Thiên Chúa với con người là Đức Giêsu, Thiên Chúa làm người. Với Đức Giêsu và trong Đức Giêsu, con người chắc chắn  không mất hướng đi, không lạc lối trên đường về với Thiên Chúa là Cùng Đích, và trong liên đới với nhau, con người mới không đánh mất chính mình và đánh mất nhau.

Nhưng để đi vào Giao Ước liên đới, và hiệp nhất ấy, mỗi người được mời gọi vượt qua với Đức Giêsu, như Ngài đã vượt qua thử thách, đau khổ để đến vinh quang, vượt qua sự chết để đến phục sinh, bởi không hiệp nhất nào không đòi từ  bỏ chính mình, không liên đới mật thiết nào không đòi những tháo gỡ, cởi bỏ không ít những gì thuộc về mình, không tương quan ân tình nào không đòi hỏi hy sinh, và đó chính là lý do Đức Giêsu nhắc bảo những người sống đời hôn nhân, là dấu chỉ  rõ nhất của Giao Ước Hiệp Nhất phải biết từ bỏ: “Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình” (Mc 10,8). Nhắc nhủ người đàn ông cũng là khuyên bảo người đàn bà, vì cả hai đều phải từ bỏ rất nhiều để có thể gắn bó, “trở thành một xương một thịt” (Mc 10,8).

Xin Chúa ban cho chúng ta ơn xác tín chân lý căn bản, đó là “Chính Chúa là Nguồn Gốc và Cùng Đích của đời chúng ta”, và niềm Hy Vọng vào Thánh Giá của Đức Giêsu là nguồn Tình Yêu, bởi trên Thánh Giá, tình yêu đã trở nên cao cả khi sẵn sàng hiến dâng mạng sống cho người mình yêu; cũng trên Thánh Giá, tình yêu đã trở nên mạnh mẽ vô địch khi chiến thắng sự chết, để chúng ta có thể kiên trì ở lại trong tình yêu của Chúa và của nhau.

Về mục lục

NÊN MỘT HUYẾT NHỤC

Lm. Thái Nguyên

Trong xã hội và Do Thái giáo thời Đức Giêsu, người phụ nữ không có quyền bình đẳng với nam giới, vì vợ là một thứ tài sản thuộc sở hữu của người chồng. Chỉ người vợ mới phạm tội ngoại tình đối với chồng, và chỉ người chồng mới có quyền ly dị vợ. Đức Giêsu không chấp nhận như thế, vì “Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ”, nghĩa là có sự bình đẳng giữa đôi bên, và hôn nhân là một khế ước cam kết trọn đời, vì vợ chồng sẽ trở nên một huyết nhục.

Buồn thay, số vụ ly hôn nơi Kitô hữu ngày càng gia tăng đáng kể, và để lại một hậu quả khốn đốn cho thế hệ tương lai. Ở đây, chúng ta có thể lấy làm lạ tại sao việc ly dị đã được luật Môsê cho phép (Đnl 24,1) mà người Pharisêu còn “hỏi thử” Chúa Giêsu có chấp nhận hay không. Nếu đã cho phép thì cứ theo luật mà thực hành, hà tất phải đặt vấn đề? Khoa chú giải Thánh Kinh cho biết trong nội bộ phái Pharisêu bấy giờ quả thực đang có tranh cãi kịch liệt về vấn đề này. Phải chăng tự thâm tâm người ta vẫn ray rứt khi họ “phân ly những gì Thiên Chúa đã kết hợp”? Chúa Giêsu cho biết hiện trạng của luật Môsê chỉ là một sự nhân nhượng, vì “lòng chai dạ đá” của họ. Ngài nhắc lại nguyên lý đã có ngay từ đầu: “Sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân ly”, để dứt khoát xoá bỏ quan điểm mập mờ cũng như lối thực hành phóng khoáng của luật cũ, đồng thời cho thấy hôn nhân là điều cao quí và thánh thiện.

Hôn nhân Kitô giáo còn có một ý nghĩa siêu vượt, đó là sự phản chiếu tình yêu thần diệu giữa Chúa Kitô và Hội Thánh Ngài. Thánh Phaolô đã ân cần nhắc nhở:“Người làm chồng hãy yêu thương vợ, như chính Đức Kitô yêu thương Hội thánh và hiến mình vì Hội Thánh”. (Ep 5, 25). Tình yêu là hy sinh, không hy sinh thì chẳng có tình yêu, hoặc đó chỉ là tình yêu trá hình và vị kỷ.

Cốt lõi của tình yêu còn là lòng trung thành: trung thành khi thịnh vượng cũng như lúc gian nan; khi mạnh khỏe cũng như lúc đau yếu; khi buồn chán và thất vọng về nhau; khi yếu đuối và vấp ngã; khi đổ vỡ quá lớn tưởng như không sao hàn gắn được… Nhưng không có gì là không giải quyết được trong đời sống vợ chồng: chỉ cần bớt một chút ích kỷ tự ái, thêm một chút khiêm hạ yêu thương; bớt một chút tự do đam mê, thêm một chút hy sinh tha thứ, thì có thể trung thành với nhau, và đem lại cho nhau an vui và hạnh phúc.

Hôn nhân là quà tặng của Thiên Chúa cho con người, nhưng con người phải góp phần để gìn giữ và tô điểm thêm luôn. Chính Chúa đã thiết lập giao ước hôn nhân thì chính Ngài cũng ban ơn để vợ chồng có thể “yêu thương và kính trọng nhau suốt đời”. Đó là yếu tố cơ bản để các Kitô hữu có thể tân Phúc-Âm-hoá gia đình mình và đồng thời góp phần Phúc-Âm-hoá các gia đình lương dân.

Để thực hành lời cam kết trong bí tích hôn nhân, vợ chồng cần có thời giờ ngồi lại với nhau để trao đổi những khúc mắc trong cuộc sống hằng ngày. Va chạm với nhau trong đời sống vợ chồng là điều không thể tránh khỏi, nhưng va chạm là điều cần thiết để hiểu nhau hơn, để nhìn thấy sự thật, để biết sửa sai, đưa tới hòa hợp và yêu thương nhau hơn, chứ không phải tìm cách để hơn thua khiến cho nghĩa vợ tình chồng ngày càng thêm sứt mẻ và khó mà hàn gắn.

Cần tìm hiểu lý do sâu xa của vấn đề và đặt mình trong tình cảnh của nhau, để có sự đồng cảm và thương mến nhau hơn sau những lần va chạm và sứt mẻ. Vợ chồng cần ngồi lại với nhau và với Chúa trong giờ kinh tối trong bầu khí giao hòa và nối kết lại yêu thương, xóa bỏ mọi thành kiến và nghi kỵ, để tiếp tục làm mới lại tình yêu ban đầu của mình, với tâm tình tha thiết cầu nguyện cho nhau. Vợ chồng biết sống trung thành với Chúa thì càng biết sống trung thành với nhau. Lòng yêu mến Chúa và quyết tâm xây dựng một gia đình tốt đẹp là động lực để vợ chồng dám vượt qua tất cả để sống cho nhau, vì nhau. Đó là điều kiện thiết yếu để đem lại bình an và hạnh phúc cho gia đình trong cuộc sống xã hội ngày càng có những phức tạp.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Chúng con cảm tạ Chúa sao cho vừa,
về ơn gọi Chúa ban cho tình yêu đôi lứa,
để nâng đỡ nhau trên đường hoàn thiện,
đạt tới thiên đường mơ ước ở cõi Thiên.

Hôn nhân đâu phải là chuyện tình cao hứng,
mà là dấu chứng của tình trời với đất
là khế ước để yêu thương và hợp nhất,
mà Thiên Chúa đã tác hợp cho con người.

Tình yêu vợ chồng có nhiều hoan lạc,
nhưng cũng kèm theo bao thử thách,
và xem ra hạnh phúc thật mong manh,
biết bao nhiêu ước hẹn đã không thành.

Nhưng con tin trong gia đình Kitô hữu,
dù tình yêu có khi nhạt nhòa như nước lã,
thì Chúa Giêsu vẫn làm lại thật đậm đà,
biến nước thành rượu như tiệc cưới Cana.

Ước chi mọi gia đình Kitô hữu,
phản ảnh tình yêu Đức Kitô và Hội Thánh,
như thể bức tranh luôn tươi sáng rạng ngời,
để đem lại cho các gia đình cuộc sống mới,
cuộc sống trọn đời vẹn thuỷ chung,
cuộc sống tín trung đẹp mãi đến vô cùng.

Xin cho các bạn đang hướng đến hôn nhân,
chuẩn bị cho mình một hành trang tinh thần,
biết siêng cầu nguyện và tìm hiểu học hành,
biết lãnh trách nhiệm và sống trưởng thành,
để xây dựng một Hội Thánh tại gia,
theo mô mẫu của gia đình thánh Cả.

Xin Thánh Thần luôn soi đường dẫn lối,
để gia đình nên hình ảnh Chúa Ba Ngôi. Amen.

Về mục lục

KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY

Lm Vũđình Tường

Kết hợp hôn nhân giữa một người nam và một người nữ được hiểu là hôn nhân. Mối liên kết bền vững, thánh thiện này Thiên Chúa thiết lập cho toàn thể nhân loại. Ngày nay đã bớt nhiều nhưng chưa hết hẳn cảnh coi thường nàng dâu. Hôn nhân bị lạm dụng khi người ta mang phong tục, văn hoá ra bào chữa cho việc đúng ra không nên làm. Đối xử tàn tệ, tàn nhẫn với nàng dâu, dưới bất cứ hình thức nào, cũng hoàn toàn trái nghịch í Thiên Chúa khi Ngài tạo dựng mối liên kết thánh trong hôn nhân. Thiếu tôn trọng người phối ngẫu, thiếu bình đẳng trong hôn nhân, lợi dụng thân xác người khác là sai, trái, nghịch í định của Thiên Chúa trong chương trình tạo dựng xã hội nhân loại.

Li dị vì bất cứ lí do gì, trước khi li dị thực sự xảy ra, người ta đã li dị trong tâm hồn. Thiên Chúa liên kết hôn nhân, con người mai táng hôn nhân. Nhóm Pharisiêu thử Đức Kitô khi họ hỏi Ngài cho biết í kiến về li dị. Đức Kitô bảo họ, từ nguyên thủy Thiên Chúa tạo dựng hôn nhân. Mối liên kết vĩnh cửu này không hề thay đổi, và sẽ không bao giờ thay đổi. Họ đáp lại Ngài. Vậy tại sao tổ phụ Môisen cho phép li dị trong trường hợp ngoại tình (Mc 10:4). Đức Kitô vạch rõ cho họ biết,

‘Chính vì các ông lòng chai, dạ đá nên Môisen mới viết điều răn đó cho các ông’ Mc 10:5
Lí luận luật pháp cho li d ị. Điều này hợp pháp nhưng không hợp lí. Luật pháp không liên kết hôn nhân. Đôi tân hôn liên kết hôn nhân. Làm thế nào luật pháp có thể cho phép điều nó không liên kết.

Rõ ràng Môisen không hỗ trợ việc li dị, mà chính là do sức ép của một số cá nhân có thế lực, buộc Môisen làm điều ông không muốn. Có lẽ Môisen muốn giữ hoà khí chung trong cộng đồng nên đành chấp nhận thoả mãn yêu sách của một số, để tránh chia rẽ, đổ vỡ trong hành trình về Đất Hứa.

Mối liên kết hôn nhân vừa thánh thiện vừa bền vững. Thánh thiện bởi do lòng thành cầu xin Chúa thánh hiến mối tình của hai người. Bền vững bởi hai người ở tuổi trưởng thành, cả hai đều chân thành, tự do tuyên thề sẽ sống chung, nâng đỡ, hỗ trợ trong mọi hoàn cảnh vui buồn của cuộc sống.
Li dị chính là:
a/ Đòi tháo bỏ mối liên kết thánh thiện, bền vững.
b/ Từ chối đón nhận điều thánh thiện, tốt lành.
c/Không chấp nhận tính bền vững liên kết trong hôn nhân.
d/Phản lại điều chính họ đã tự do, long trọng tuyên.
e/Chối bỏ chính lời mình thề hứa.
f/Sống trái với í định khởi đầu của Thiên Chúa trong hôn nhân.
g/Chấp nhận sai, trái, nhưng từ chối, trốn tránh hậu quả của sai lầm. Sai đây có thể là sai trong chọn lựa, cũng có thể do lơ là, sai trong việc không chăm sóc, nuôi mối tình cao đẹp của hai người.

Đức Kitô hướng dẫn thêm cho các tông đồ về hôn nhân. Ngài nói,
‘Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình, và ai bỏ chồng để lấy chồng khác, thì cũng phạm tội ngoại tình’ Mc 10:12

Cả hai cùng chung trách nhiệm nói lên, vợ chồng bình đẳng về trách nhiệm, cũng như bình dẳng về quyền lợi, không ai hơn ai. Tình trạng chồng ‘chúa’, vợ ‘tôi’ là hình thức lạm dụng, trái nghịch với giáo huấn Chúa ban. Bởi chung trách nhiệm nên chung quyền lợi.
Những gì Thiên Chúa kêu gọi con người thực hiện, Thiên Chúa ban cho con người ân sủng, và khả năng thực hiện điều Chúa mong muốn. Từ chối ơn Chúa, từ chối ân sủng Ngài, nghi ngờ khả năng của bạn. Không gì tồn tại.

Nhiều cuộc hôn nhân tổ chức mừng lễ bạc, lễ vàng, kim cương kỉ niệm ngày cưới cho thấy họ sống trung thành trong hôn nhân, cố gắng giữ trọn lời thề nguyền. Cuộc sống hôn nhân của họ cũng có niềm vui, nỗi buồn, có thuận buồm xuôi gió, có chao đảo, có chung í, có bất đồng, có hãnh diện, có ê chề. Trong hoàn cảnh như thế, cả hai cùng hỗ trợ nhau, biết ca tụng, ngưỡng mộ khi thành công. Khi thất bại không cắn cấu, chì chiết, nhưng ân cần nâng đỡ, ủi an, làm cho sầu khổ vơi đi, cùng ước mơ một ngày mai tươi sáng.

Không phải sắc đẹp, danh giá, thế lực, bảo lãnh di dân, cầm giữ hôn nhân; tình yêu chân thành giúp hôn nhân bền vững. Tình yêu chân thành cần được nuôi dưỡng, chăm sóc, bảo vệ bằng nguồn tình yêu không bao giờ cạn là tình yêu Chúa. Cuộc sống hôn nhân gia đình trở nên thánh thiện, bền vững.

Khi có tranh biện quyền riêng hay trách nhiệm cá nhân. Đó là dấu chỉ của rạn nứt. Chậm chạp, chần chờ sửa chữa là cửa ngõ đến đến cửa toà.

Tất cả là nạn nhân, đôi hôn nhân, gia đình, thân nhân. Con cái dù vô tội cũng là nạn nhân không phải do lỗi của chúng mà của cha mẹ chúng. Đức Kitô đặt trẻ nhỏ vào hôn nhân cho biết xáo trộn, đổ vỡ gia đình biến con cái thành nạn nhân.

Không phải luật thành văn bảo vệ hôn nhân, mà chính là luật không thành văn. Luật đó ở trong tim. Tình yêu có sức mạnh vượt thắng mọi nghịch cảnh trong đời. Hãy dâng mối tình của bạn cho Thiên Chúa, xin sống giữ trọn lời thề.

Về mục lục

THỦY CHUNG

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Các bài đọc trong Thánh Lễ Chúa Nhật XXVII TN B dường như xoáy trọng tâm vào đời sống hôn nhân mà chủ đề chính là sự chung thuỷ trong nghĩa tình phu phụ. Tuy nhiên điều ta cần ngạc nhiên đó là sau khi tường thuật việc Chúa Giêsu khẳng định về sự chung thuỷ vợ chồng, đạo nhất phu nhất phụ thì Tin Mừng Maccô lại kể tiếp chuyện Chúa Giêsu chúc lành cho các trẻ em, dù cho các Tông đồ phản đối kịch liệt. Đồng thời Chúa Giêsu cũng nhân sự kiện ấy để dạy cho các môn đệ và chúng ta hôm nay về cách thế vào Nước Trời là hãy nên giống như trẻ thơ.

Hình ảnh trẻ thơ trong vòng tay bố mẹ hay các bé đang chập chững tập đi của tuổi lên hai, lên ba không chỉ gợi cho chúng ta nét đơn sơ trong sáng mà đặc biệt cho chúng ta thấy một sự tin tưởng vào tình yêu. Trong vòng tay mẹ, bé không hề hãi sợ. Trong bàn tay của bố, trẻ vững tin tiến bước. Trẻ thơ chính là kết quả của tình yêu đôi lứa, là hoa trái của đời sống hôn nhân. Cái hình ảnh đẹp này hẳn phải được dệt xây trong một mái gia đình mà ở đó nghĩa tình vợ chồng mãi sắt son và chung thuỷ.

Người ta không thể cho cái gì mà mình không có. Làm sao có được những người con an bình trong vòng tay bố mẹ khi mà sự thuỷ chung trong hôn nhân không được đặt lên hàng đầu? Các thống kê xã hội cho chúng ta con số về trẻ hư hỏng thì đại đa số là xuất từ hoàn cảnh gia đình không ấm êm hoặc bị chia đàn xẻ nghé.

Không khi nào hơn lúc này, những nhà xã hội học, các nhà đạo đức học, những người đứng đầu các tôn giáo, các quốc gia lại quan tâm cách đặc biệt về sự bền vững trong hôn nhân gia đình. Gia đình là tế bào của xã hội, là cộng đồng cơ bản của Hội Thánh. Vai trò của gia đình luôn có tầm quan trọng mà không có tổ chức hay đoàn thể nào có thể thay thế cách hữu hiệu. Một xã hội mà đời sống hôn nhân thiếu bền vững, thì có thể nói là đang trên đà băng hoại. Chính vì thế thông điệp gìn giữ sự thuỷ chung trong hôn nhân luôn mang tính thời sự và cấp thiết.

Làm sao để gìn giữ sự chung thuỷ trong nghĩa tình phu thê giữa một xã hội đầy biến động và chóng đổi thay như hôm nay? Một trong những cách thế gìn giữ sự thủy chung, trước sau như một của đời hôn nhân, đó là nhìn vào trẻ thơ. Một sinh linh luôn sống trong sự tín thác vào tình yêu. Không chỉ biết xây dựng lòng tin vào tình yêu của nhau mà còn hướng tâm trí của mình về hoa trái của tình yêu, đó là một trong những cách thế tuyệt vời để gìn giữ mối dây liên kết bất khả phân ly giữa vợ chồng. Điều gì Thiên Chúa đã liên kết thì con người không được phân ly. Họ không còn phải là hai nhưng là một xương một thịt. Cái sự nên một xương một thịt này được hiện thực hóa nơi chính người con, một kết quả hữu hình của tình yêu đôi lứa. Nói đến điều này chúng ta mới hiểu được tình trạng dù không phải là “đáng buồn” theo nghĩa luân lý nhưng vẫn kém vui theo nghĩa tâm lý của những cặp vợ chồng đang lâm vào tình cảnh hiếm muộn.

Văn hào Saint Exupéry từng nói:“yêu nhau không phải là ngồi nhìn nhau nhưng là cùng nhau nhìn về một hướng”. Dĩ nhiên giữa vợ chồng có nhiều cái hướng nhắm, thế nhưng không có hướng nhắm nào quan trọng cho bằng những đứa con. “Có vàng, vàng chẳng hay phô. Có con, con nói trầm trồ mẹ nghe”. Câu ngạn ngữ tuy mộc mạc, nhưng tượng hình và đượm nghĩa. “Ba thương con, vì con giống mẹ. Mẹ thương con, vì con giống ba…” Một ca từ không chỉ thi vị mà còn đủ ý tình. Chính qua đứa con mà người cha thêm khắng khít với người mẹ và người mẹ càng gắn bó với người cha và nghĩa tình hôn nhân ngày thêm bền chặt. Khi cùng nhìn về một hướng thì người ta sẽ biết nỗ lực vượt qua những dị biệt, để rồi có sự hiệp thông, hiệp nhất cách vững bền.

Với truyền thống Á đông, để làm người thì cần rèn luyện các nhân đức nền tảng là nhân, nghĩa, lễ, trí, tín. Dù được xếp vào hàng thứ năm, nhưng “chữ tín” như là điều kiện đủ, hầu giúp cho các đức nhân, nghĩa, lễ, trí được chính hiệu. Cần khẳng định rằng chữ tín phải được gìn giữ trước hết ngay trong đời sống hôn nhân gia đình. Trong cuộc thi “hoa hậu áo dài” lần đầu được tổ chức tại Việt Nam năm 1989, chính nhờ câu trả lời trong phần thi ứng xử đã đưa cô Maria Nguyễn Thị Kiều Khanh, một nữ tín hữu giáo xứ Vườn Xoài, giáo phận Sài Gòn, lên ngôi hoa hậu. Các thí sinh vào vòng chung kết đều được ban giám khảo hỏi câu: em yêu cái gì nhất và em ghét cái gì nhất? Kiều Khanh đã vượt qua các bạn bằng câu trả lời: “điều em ghét nhất là sự phản bội”.

Quả thật, khi sự bất trung, bất tín xuất hiện và lan tràn như chuyện cơm bữa, trở thành chuyện thường tình, thì mọi mối tương quan giữa các cá nhân cũng như tập thể chắc chắn bị gãy vỡ. Nay ký kết hôn ước, mai đường ai nấy đi thì còn gì là hôn nhân! Nay ký hợp đồng, mai lại tùy tiện hủy bỏ thì còn gì là thương mại, bán mua! Nay ký hiệp ước, mai lại đơn phương rút, hủy thì còn gì là quan hệ đối tác! Tuy nhiên, cũng cần chân nhận rằng “nhân bất thập toàn”. Phận người thì khó tránh khỏi những sai lầm đáng trách hoặc có thể lượng thứ. Hội Đồng Giám Mục Việt Nam đã nhận định: “Chúa Giêsu một đàng đưa ra lý tưởng rất cao cả về đời sống hôn nhân và gia đình; đàng khác Người chạnh lòng thương những người đau khổ trong đời sống hôn nhân như trường hợp người phụ nữ xứ Samaria hoặc người nữ phạm tội ngoại tình” (Thư Mục Vụ 2018). Không kể các trường hợp cố tình và cố chấp, thì để gìn giữ sự thủy chung thì phía người lỗi phạm cần có sự khiêm nhu, chân thành nhìn nhận sai sót và phía còn lại cần có sự quảng đại, bao dung, tha thứ.

Xin nhớ rằng sẽ không bao giờ là muộn đối với người khiêm nhu, chân thành muốn bắt đầu lại như “thưở ban đầu đầy lưu luyến ấy” (x.Kh 2,4). Bí tích Thánh Thể, tòa cáo giải là những phương thế Chúa tạo cho chúng ta cơ hội lại bắt đầu. Ước gì mỗi người chúng ta biết trao cho nhau những cơ dịp thuận lợi để giúp nhau lại bắt đầu sống tình thủy chung và giữ chữ tín trong đời sống gia đình và xã hội, giữa chúng ta với nhau và với Thiên Chúa.

Về mục lục

HÔN NHÂN MỘT VỢ MỘT CHỒNG

TRONG Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Để con người hạnh phúc

Lần giở lại những chương đầu của sách Sáng Thế chúng ta sẽ khám phá ra ý định tuyệt vời của Thiên Chúa khi tạo dựng Evà cho Adong là để con người hạnh phúc. Thiên Chúa đã tạo dựng Adong, thấy Adong ở một mình không tốt. Thiên Chúa khiến cho Adong ngủ say, và khi ông đang ngủ, Ngài lấy một xương sườn của ông, và đắp thịt lại làm thành người đàn bà, rồi dẫn đến Adong, Adong thấy Evà, mắt ông sáng lên, tim ông thổn thức, lòng ông dâng trào hạnh phúc và ông kêu lên: “Wa, đây xương bởi xương tôi và thịt bởi thịt tôi” (x. St 2,18-23).

Adong và Evà được Thiên Chúa tạo dựng và thiết lập thành vợ thành chồng thật là đẹp. Đẹp về cách mai mối: Tạo dựng Evà xong, Thiên Chúa dẫn Evà đến mai mối với Adong. Chu đáo về cách chuẩn bị cho một gia đình mới: Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ông bà cả một gia nghiệp, chim trời cá nước, thú vật ngoài đồng, ruộng vườn canh tác. Chính Thiên Chúa đứng ra tổ chức và cử hành hôn phối cho Adong và bà Evà. Có mặt trời chiếu sáng ban ngày, mặt trăng chiếu sáng ban đêm, khách sạn với muôn triệu vì sao là những thứ Thiên Chúa đã chuẩn bị. Hôn lễ bắt đầu, Thiên Chúa dẫn Evà đến với Adong, Adong vui vẻ hạnh phúc không chỉ nhận Evà làm vợ mà còn nhận: Đây là xương tôi, đây là thịt tôi nữa (x. St 2, 24). Nhận nhau xong rồi, Thiên Chúa tuyên phán: “Sự gì Thiên Chúa kết hợp loài người không được phân ly” (Mc 19, 6). Hôn nhân một vợ một chồng trong ý định của Thiên Chúa thật tuyệt vời. Đúng là, đẹp thay cái thủa ban đầu.

Sự cứng lòng của các ngươi

Tình yêu của Adong và Evà, tình vợ tình chồng dành cho nhau là một thứ tình phát xuất từ tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Thiên Chúa đã chia sẻ tình này cho con người. Ngài đã cho con người biết về dự án yêu thương này: “Chúng ta hãy tạo dựng con người giống hình ảnh chúng ta” (St 1,26). Do đó, khi đáp lại tiếng gọi con tim của nhau trong ơn gọi hôn nhân là con người chia sẻ thứ tình yêu cao cả của Thiên Chúa cho nhau. Luật một vợ một chồng không phải do con người đặt ra để áp đặt trên con người. Đây là luật của Thiên Chúa, mà những gì Thiên Chúa làm thì tốt đẹp, mang lại hạnh phúc cho mọi loài thụ tạo trong đó có con người.

Có không ít người trong cũng như ngoài Giáo Hội Công giáo cho rằng, Giáo Hội khe khắt, đòi hỏi, không bắt kịp trào lưu tư tưởng của con người thời đại. Họ đặt ra các vấn nạn: làm gì mà phải chung thủy? Tại sao phải sống chết với một người, nhất là người ấy gây sầu khổ cho mình? Thiên hạ ly dị đầy đường có chết chóc ai đâu? Tại sao mình lại không thử một lần để may ra đổi đời thay mệnh? Đúng là tình trạng ly dị hiện nay không còn được coi là trọng tội đối với đời sống hôn nhân; nó đã được chấp thuận và hợp pháp hóa tại nhiều quốc gia trên thế giới. Nói như vậy không có nghĩa là luật “một vợ một chồng” trở nên lạc hậu và Thiên Chúa cũng đã lỗi thời! Điều mà Giáo Hội gọi là “Ơn Gọi Hôn Nhân”, chung thủy, một vợ, một chồng mới là cái làm cho đời sống hôn nhân trở nên hạnh phúc. Ly dị không phải là giải pháp cuối cùng và tốt nhất cho đời sống hôn nhân. Chính Chúa Giêsu đã xác định với những người Do Thái khi họ hỏi Người về vấn đề ly dị. Trước biện chứng của người biệt phái về việc Môisê cho phép làm giấy tờ ly dị và họ ly dị, Người đã trả lời : “…lúc khởi đầu cuộc sáng tạo, Thiên Chúa đã dựng nên một người nam và một người nữ. Bởi đó người nam sẽ lìa cha mẹ để luyến ái vợ mình, và hai người sẽ nên một huyết nhục. Như thế, họ không còn là hai mà là một huyết nhục. Vậy sự gì Thiên Chúa đã kết hợp, loài người không được phân rẽ” (Mc 10,…..). Môisê chỉ làm điều chẳng đừng mà Thiên Chúa làm ngơ cho phép xảy ra theo sự cứng lòng của con người. Tại sao vậy? Thưa: Vì Thiên Chúa muốn hạnh phúc cho con người.

Hôn nhân ngày hôm nay

Con người và thế giới hiện đại của chúng ta đang thay đổi nhanh chóng về nhiều mặt: văn hóa, xã hội, kỹ thuật, cũng như thông tin điện toán toàn cầu… Sự thay đổi ấy tác động trực tiếp đến lễ nghĩa gia phong, tôn giáo, nhất là các gia đình, đặc biết các cặp hôn nhân trẻ.

Hơn bao giờ hết, gia đình trên thế giới đang bị đe dọa đến tận nền tảng như: nạn ly dị lan tràn, chấp nhận sống chung mà không hôn phối, khước từ con cái hoặc hủy diệt con cái từ trong trứng nước. Kết hôn giữa người cùng giới tính, một số quốc gia chấp thuận. Đức Giáo Hoàng danh dự Bênêđíctô XVI nhận định rằng, việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng giới ở nhiều quốc gia là “sự bóp méo lương tâm” con người, là “mâu thuẫn với tất cả các nền văn hóa của nhân loại đã tiếp nối nhau cho đến nay, và do đó biểu thị một cuộc cách mạng văn hóa chống đối toàn bộ truyền thống của nhân loại cho đến tận ngày nay”. Để duy trì nòi giống phải là sự kết hợp giữa người nam và người nữ từ nguyên thủy cho đến hôm nay.

Đức Bênêđíctô XVI lưu ý rằng dường như ngày nay con người không còn tin tưởng vào việc sinh sản từ quan hệ luyến ái phu phụ “mà là lên kế hoạch và sản sinh ra con người một cách hợp lý”. Do đó, con người không còn là một ân sủng để đón nhận mà là “một sản phẩm do chúng ta lập kế hoạch”. Ngài đặt câu hỏi: Con người là ai? Liệu có một Đấng Sáng tạo hay không, và phải chăng tất cả chúng ta chỉ là những sản phẩm do chính con người sản xuất ra?

Là người tín hữu ai cũng biết: đơn hôn và vĩnh hôn là hai đặc tính trong hôn nhân Công giáo. Đơn hôn nghĩa là hôn nhân chỉ giữa một người nam và một người nữ. Vĩnh hôn có nghĩa là đã kết hôn thành sự và đã hoàn hợp thì hai người bị ràng buộc, phải chung thuỷ với nhau với nhau cho đến chết. Đặc tính vĩnh hôn loại trừ ly dị. Giao ước Hôn nhân bắt đầu bằng lời hứa thuỷ chung cho đến chết. Một Giao ước mang tính Bí tích, lấy Chúa ra mà thề, lấy cộng đoàn Giáo hội ra để làm chứng.

Chúng ta hãy cầu xin cho các cặp hôn nhân ngày hôm nay trung thành với giao ước hôn nhân, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào hay gặp gian lao thử thách nào vẫn mãi mãi bền chặt, thủy chung và son sắt.  Amen.

Về mục lục

KÊ TÌNH

Trầm Thiên Thu

Thật chí lý khi ca dao Việt Nam đưa ra nhận định về tình yêu thương trong mối quan hệ phu thê: “Yêu nhau trăm sự chẳng nề – Một trăm chỗ lệch cũng kê cho bằng.”

Quan trọng là biết cách “kê” cho hết chênh vênh, bập bênh. Chắc chắn phải khéo léo lắm. Vợ chồng là hai con người hoàn toàn khác nhau về mọi thứ, cái mà người ta gọi là “giống nhau” hoặc “hợp nhau” cũng chỉ mang tính tương đối. Không bao giờ có hai chiếc lá giống nhau, chắc chắn cũng chẳng bao giờ có hai con người giống nhau – dù là song sinh. Chỉ là bề ngoài, hai người sinh đôi cũng vẫn có điểm khác để có thể nhận biết ai là anh (chị) và ai là em. Đối với người Công giáo, cách “kê” tuyệt vời nhất là khiêm nhường, tha thứ, nhịn nhục,…

Bất kỳ phàm nhân nào cũng có một gia đình, cho nên chẳng ai lạ gì, thế nhưng để cho “vuông tròn” một gia đình đúng nghĩa thì lại là chuyện không hề đơn giản. Vả lại, ngày nay người ta không còn đề cao vai trò gia đình, vì thế mà tỷ lệ ly thân và ly hôn đang ở mức báo động đỏ! Tình yêu – hôn nhân – gia đình là ba vấn đề, nhưng không thể tách rời nhau. Có tình yêu chân thành thì mới dẫn tới hôn nhân tốt lành, nhờ đó mà có một gia đình an bình.

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã truyền Mười Điều Răn cho ông Môsê. Đó là rường cột vững chắc của Đạo Chúa. Trong đó có điều răn thứ tư đề cập gia đình – tế bào gốc của xã hội và Giáo Hội. Gia đình như chiếc kiềng ba chân: Cha – Mẹ – Con. Ba “chân” này giúp giữ vững “chiếc kiềng” gia đình, trong đó có hai mối quan hệ chính: Phu thê, Mẫu tử hoặc Phụ tử. Đó là gia đình nền tảng. Gia đình còn hàm ý “đại gia đình” – bao gồm mọi thành phần trong Giáo Hội.

“Thảo kính cha mẹ” là điều răn thứ tư, được truyền cho con cái trong mối quan hệ với cha mẹ, vì mối quan hệ này phổ biến nhất. Ngĩa vụ đối với cha mẹ được đề cập chi tiết trong Hc 3:1-16, với câu kết này: “Ai bỏ rơi cha mình thì khác nào kẻ lộng ngôn, ai chọc giận mẹ mình sẽ bị Đức Chúa nguyền rủa.” Chương 7 của sách Huấn Ca có những lời khuyên về các vấn đề khác liên quan gia đình và xã hội. Gia đình thực sự quan trọng vì mọi sự bắt đầu từ đó – đặc biệt là các nhân đức. Tuy nhiên, có điều cần phải lưu ý: “Lòng nhân ái bắt đầu từ gia đình, nhưng không nên kết thúc luôn ở đó.” (Thomas Fuller, 1608-1661, sử gia Anh quốc)

Điều răn thứ tư không chỉ quan tâm mối quan hệ thân thuộc giữa các thành viên gia đình và dòng tộc, mà còn đòi hỏi lòng kính trọng, yêu thương, biết ơn tổ tiên và những người lớn tuổi. Tuy nhiên, điều răn này còn mang tầm vóc rộng lớn hơn: trách nhiệm của học sinh đối với thầy cô giáo, nhân viên đối với chủ nhân, người dưới đối với người trên, công dân đối với tổ quốc và những người lãnh đạo. Nghĩa vụ đa dạng, không hề đơn giản.

Thật vậy, Giáo lý Công giáo (số 2199) cho biết: “Điều răn này bao gồm nhiệm vụ của cha mẹ, người hướng dẫn, người dạy dỗ, người lãnh đạo, quan tòa, người lãnh đạo, người có quyền trên người khác hoặc cộng đồng.” Từ hệ lụy gia đình dẫn tới các hệ lụy khác, vì xã hội là một tổng thể mang tính liên đới.

Gia đình rất quan trọng, dù đó là gia đình nhỏ hay to, giàu hay nghèo, thế nên người ta gọi gia đình là “Tổ Ấm” và là “tế bào gốc” của xã hội và Giáo Hội – Nhiệm Thể Đức Kitô. Khi xuống thế làm người, chính Chúa Giêsu cũng có một gia đình, và Ngài rất yêu quý gia đình.

Khởi đầu một gia đình là khởi đầu đời sống hôn nhân chân chính. Sau khi tạo dựng con người đầu tiên trên thế gian, Thiên Chúa đã xác định: “Con người ở một mình thì không tốt.” (St 2:18a) Thế nên Ngài quyết định: “Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó.” (St 2:18b) Và gia đình đầu tiên đã được tạo dựng. Ađam nghĩa là “con người” và Êva là “mẹ của chúng sinh” chứ không là tên gọi như chúng ta ngày nay.

Trình thuật St 2:19-22 cho biết rằng Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, tên nó sẽ là thế. Con người được Thiên Chúa trao quyền đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng. Thiên Chúa đã biết trước “nỗi niềm” của con người như vậy, Ngài biết con người sẽ “khắc khoải” vì cảm thấy trống vắng, thiếu thốn tình cảm. Và rồi Ngài cho một giấc ngủ mê ập xuống trên con người, và con người thiếp đi. Lúc đó, Ngài rút một cái xương sườn của con người ra, và lắp thịt thế vào. Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút ra từ con người, làm thành một phụ nữ và dẫn đến “ra mắt” con người. Chua choa, vừa lạ vừa đẹp!

Nhìn thấy “sinh vật lạ,” giống mình mà vẫn khác mình, chắc là lúc đó con người bối rối lắm. Chuyện đời xưa nay là thế. Con người thích thú và nói: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra.” (St 2:23) Việt ngữ gọi “sinh vật lạ” đó là nàng, là em, là phụ nữ, là nội tướng, là vợ,… Kinh Thánh xác định: “Bởi thế, người đàn ông lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai thành một xương một thịt.” (St 2:24) Nam châm khác dấu thì hút nhau mạnh lắm, đến nỗi “bỏ” cha mẹ mà theo nhau kia mà. Vì là xương thịt của nhau nên vợ chồng ngày xưa gọi nhau là “mình ơi!” Việt ngữ thật là độc đáo!

Nhưng đó mới chỉ là khởi đầu, vấn đề quan trọng là về lâu về dài. Ngày cưới là ngày hạnh phúc nhất, nụ cười tươi nhất, y phục đẹp nhất, nhưng đó chỉ là bề nổi của tảng băng chìm. Chuyện vợ chồng là chuyện ăn đời ở kiếp chứ không chỉ vài tháng hoặc vài năm, trong khi vốn dĩ “đời là bể khổ.” Cái khó là chỗ đó. Lâu ngày dày kén, liệu vợ chồng còn có thể cười với nhau và cười với người khác hay không?

Chuyện cũ mà không bao giờ xưa. Vào giữa năm 2015, có một phiên tòa ly hôn kỳ lạ và hy hữu tại Đăk Mil, Đăk Nông. Phiên tòa này phân xử chuyện ly hôn của hai vợ chồng Đặng Văn Đó (sn 1985) và Phạm Thị Lụa (sn 1987), người dân ở Đăk Rla (Đăk Mil, Đăk Nông) quá đỗi bất ngờ. Tại sao? Đôi uyên ương ấy đã từng yêu nhau tới gần 5 năm, cố gắng vượt qua sự ngăn cấm của hai bên gia đình để có thể được ở bên nhau. Thế nhưng, ở với nhau chưa đủ “ấm hơi” đã vội dẫn nhau ra tòa ly dị. Nguyên nhân là việc tranh giành giữ của hồi môn và thùng tiền cưới, mâu thuẫn xảy ra ngay trong đêm tân hôn chỉ vì… tiền. Thảo nào người ta gọi là tiền tệ!

Hạnh phúc không thể tự dưng mà có hoặc “ngẫu nhiên” như trái sung rụng, mà nó phải được vun xới bằng hy sinh, mồ hôi, nước mắt, và từ hai phía. Cây cảnh chỉ có thể tươi đẹp nếu nó được chăm sóc, vun tưới. Hạnh phúc gia đình cũng vậy. Hạnh phúc kỳ diệu ở ngay bên chúng ta chứ không cần tìm kiếm ở nơi nào xa lắc xa lơ: “Hạnh phúc thay bạn nào kính sợ Chúa, ăn ở theo đường lối của Người. Công khó tay bạn làm, bạn được an hưởng, bạn quả là lắm phúc nhiều may!” (Tv 128:2) Hạnh phúc vô hình mà thực tế, đừng ảo tưởng mà đứng núi này trông núi kia! Nam nữ đến với nhau vì hạnh phúc của nhau – vừa vị kỷ vừa vị tha. Đó là hạnh phúc chung – của chính mình và của người bạn đời.

Sự thật không mơ hồ, mà rất minh nhiên: “Hiền thê bạn trong cửa trong nhà khác nào cây nho đầy hoa trái; và bầy con tựa những cây ô-liu mơn mởn, xúm xít tại bàn ăn. Đó chính là PHÚC LỘC Chúa dành cho kẻ kính sợ Người.” (Tv 128:3-4) Đó là ước mơ không của riêng ai, nhưng khó là mỗi thành viên trong gia đình đều phải cố gắng để có thể biến ước mơ đó thành sự thật ngay trên cõi đời này. Thánh Vịnh gia cầu chúc: “Xin Chúa từ Sion xuống cho bạn muôn vàn ơn phúc. Ước chi trong suốt cả cuộc đời bạn được thấy Giêrusalem phồn thịnh, được sống lâu bên đàn con cháu.” (Tv 128:5-6)

Có được hạnh phúc gia đình không phải dễ, chúng ta sẽ chẳng làm nên trò trống gì nếu thiếu ơn Chúa. Ơn Chúa luôn dồi dào, nhưng vấn đề là chúng ta có thành tâm đón nhận hay không. Chúa Giêsu đã từng cầu nguyện cho chúng ta: “Xin Cha lấy sự thật mà thánh hiến họ. Lời Cha là sự thật.” (Ga 17:17) Chính sự thật sẽ tạo nên hạnh phúc gia đình, vì chỉ có sự thật mới giải thoát chúng ta. (x. Ga 8:32)

Có câu chuyện về Con Muỗi và Ba Giọt Máu thế này: Người chồng hết lòng thương yêu vợ, nhưng người vợ lại có thói trăng hoa, cứ nhân tình nhân ngãi với người kia, kẻ nọ. Một hôm, bỗng dưng người vợ lăn ra chết.

Người chồng buồn rầu, ôm xác vợ và bỏ xứ ra đi. Một hôm, anh ta gặp một đạo sĩ và cầu xin cứu sống vợ. Chạnh lòng thương cảm, đạo sĩ bảo người chồng chích vào ngón tay rồi nhỏ ba giọt máu lên xác vợ. Người chồng làm theo và người vợ hồi sinh.

Hai vợ chồng cùng nhau trở về quê cũ. Người chồng tưởng rằng người vợ hồi tâm và sẽ sống đời với mình, nhưng ngựa quen đường cũ, người vợ bỏ đi theo một tay lái thương giàu có. Hết lời khuyên can không được, người chồng nói: “Nàng có thể ra đi nhưng xin trả lại tôi ba giọt máu.” Người vợ chích ngón tay lấy máu hoàn trả. Nhưng lạ thay, máu vừa chảy ra thì nàng cũng tắt thở.

Chết đi, nàng hóa thân thành con muỗi, tìm người để lấy lại ba giọt máu, và mong được hồi sinh. Nàng bay tới đâu cũng bị xua đuổi, nên luôn miệng vo ve than vãn. Do đó, chỉ có Muỗi Cái mới hút máu động vật.

Duy trì tiếng cười trong gia đình là duy trì hạnh phúc, chắc chắn Thiên Chúa sẽ chúc lành và hứa ban Nước Trời mai sau. Cố gắng chu toàn bổn phận hằng ngày cũng là cách “tử đạo liên lỉ.” Có vẻ đơn giản vậy chứ không hề dễ dàng! Thánh Phaolô cho biết: “Con người đã bị thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, chúng ta lại thấy được Thiên Chúa ban vinh quang danh dự làm mũ triều thiên, bởi vì đã cam chịu tử hình. Con người đó, chính là Đức Giêsu. Thật vậy, Đức Giêsu đã phải nếm sự chết, là để cho mọi người được cứu độ, nhờ ơn Thiên Chúa.” (Dt 2:9) Gia đình nhỏ có hạnh phúc thì gia đình lớn mới có hạnh phúc.

Tất cả chúng ta, không phân biệt gì, đều là thành viên trong Đại Gia Đình của Thiên Chúa. Gia đình nhỏ cần có hạnh phúc để vui sống và phát triển, gia đình lớn cũng vậy. Thánh Phaolô xác định: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ. Thật vậy, Đấng thánh hoá là Đức Giêsu, và những ai được thánh hoá đều do một nguồn gốc. Vì thế, Người đã không hổ thẹn gọi họ là anh em.” (Dt 2:10-11) Chúng ta chỉ là tội nhân mà được Thiên Chúa nhận là huynh đệ thì quả là trên cả tuyệt vời rồi!

Gia đình được mệnh danh là tổ ấm, nhưng gia đình không có hạnh phúc thì chỉ là tổ lạnh và bất hạnh. Gia đình thiếu hạnh phúc sẽ dẫn đến cảnh vợ chồng ly thân hoặc ly hôn. Dù là dạng “ly” nào cũng là “chia ly,” dạng nào cũng tệ hại vì gây bất hạnh – cho chính hai vợ chồng, nhất là bất hạnh cho con cái, vì chúng sẽ bị ảnh hưởng xấu về tâm sinh lý.

Theo trình thuật Mc 10:2-12, có mấy người Pharisêu đến gần Đức Giêsu và hỏi người chồng có được phép rẫy vợ hay không. Họ hỏi thế là để thử Ngài thôi, tâm địa của họ thế nào thì còn ai lạ gì nữa! Chúa Giêsu “đi guốc” trong bụng họ nên Ngài trả lời họ bằng một câu hỏi: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ nói rằng ông Môsê đã cho phép chồng viết giấy ly dị mà rẫy vợ. Ngài nói: “Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ LÌA cha mẹ mà GẮN BÓ với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, SỰ GÌ THIÊN CHÚA ĐÃ PHỐI HỢP, LOÀI NGƯỜI KHÔNG ĐƯỢC PHÂN LY.”

Có nhiều dạng ơn gọi. Hôn nhân là một ơn gọi. Vợ chồng được mời gọi diễn tả tình yêu phối ngẫu qua 3 chữ T: Thân mật, Thủy chung và Thanh tịnh (khiết tịnh). Với 3 chữ T đó, cả vợ và chồng đều phải tự nhủ: “Tôi Trung Thành.” Đó không chỉ là lời hứa với nhau mà chính là hứa với Thiên Chúa: “Anh/em nhận em/anh làm vợ/chồng, và hứa sẽ giữ lòng chung thủy với em/anh, khi thịnh vượng cũng như lúc gian lao, khi bệnh hoạn cũng như lúc mạnh khỏe, để yêu thương và tôn trọng em/anh mọi ngày suốt đời anh/em.” Lời đó không là lời hứa bình thường theo nghi thức, mà là lời “thề độc,” vày không ai có thể “giải” được.

Hôm đó, khi về đến nhà, các môn đệ hỏi Chúa Giêsu về vấn đề phu thê. Ngài cho biết: “Ai rẫy vợ mà cưới vợ khác là phạm tội ngoại tình đối với vợ mình; và ai bỏ chồng để lấy chồng khác thì cũng phạm tội ngoại tình.” Tội lỗi có tính liên đới, hệ lụy, và các “cấu trúc tội” cũng có căn nguyên trong trách nhiệm của tội cá nhân. Có “chiều kích xã hội” vì nó nằm trong cách thức chúng ta có thể phạm tội. Đó không chỉ là hành động trực tiếp của mình, mà còn gián tiếp liên lụy các tội do người khác phạm trực tiếp.

Tình trạng đó gọi là liên lụy tội lỗi. Các thánh nói gì về tội lỗi? Thánh Piô Năm Dấu khuyên: “Hãy tiến bước một cách đơn sơ trên đường lối Chúa, và đừng làm khốn khổ trí lòng mình. Hãy học cho biết gớm ghét tội lỗi, nhưng hãy gớm ghét một cách điềm tĩnh.” Thánh Cyril, người Giêrusalem, phân tích: “Tội lỗi là sự dữ đáng kinh sợ, nhưng với người biết sám hối thì rất dễ chữa lành.” Thánh Moses, người Ethiopia, cho biết: “Thiên Chúa sẽ KHÔNG nhậm lời chúng ta cầu nguyện nếu chúng ta KHÔNG nhận mình là tội nhân. Chúng ta thực thi điều ấy khi chúng ta suy xét về tội lỗi của chính mình, chứ không suy xét tội lỗi của tha nhân.” Lòng thương xót của Chúa vẫn bao la, chỉ cần tội nhân thành tâm sám hối mà thôi. Hãy đứng dậy ngay, đừng bao giờ thất vọng!

Điều cần chú ý: Chúng ta đang sống thời cuối, thời mà ma quỷ tấn công mạnh về các giá trị gia đình. Thánh Piô Năm Dấu nhắc nhở: “Hãy yêu mến Đức Mẹ và hãy lần chuỗi Mân Côi, vì chuỗi Mân Côi là vũ khí chống lại sự dữ trong thế giới ngày nay. Mọi ân sủng đều được Thiên Chúa trao ban qua Đức Mẹ.”

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con nhận thức và ý thức về giá trị gia đình, nhờ vậy mà nỗ lực tuân giữ Luật Ngài truyền là bảo vệ gia đình, nhân phẩm và luân lý. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

KHI TA YÊU THƯƠNG

Bông hồng nhỏ

Con người gắn bó với nhau bởi hai chữ tình yêu. Có tình yêu, người ta sẽ cùng nhau vượt qua muôn vàn trở ngại, muôn nỗi đau thương và cả biết bao khó khăn sóng gió gặp trên đời. Để có thể yêu nhau và cùng nhau đi hết cả đời trong mối tình phu thê, người ta phải làm gì? Nếu hết yêu nhau thì chỉ còn cách đường ai nấy đi hay sao? Hôm nay, khi các người Pharisêu hỏi Thầy Giêsu: “Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không?” họ hỏi thế chỉ để thử Người, Người đã khẳng khái tuyên bố: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 9).

Thầy Giêsu biết rõ tâm địa của họ nên hỏi lại: “Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì?” Họ trả lời: “Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ” (Mc 10, 3-4). Rõ ràng, họ đã biết luật dạy nhưng vẫn dò hỏi ý của Người. Người chỉ cho họ thấy rằng, ông Môsê làm thế chỉ vì bất đắc dĩ, vì dân chúng kêu ca phàn nàn, vì họ cứng lòng cứng dạ mà ông đành phải nhượng bộ. Thầy Giêsu nói rõ quan điểm của mình, chỉ cho dân chúng thấy rằng khởi đầu công trình tạo dựng ý định của Thiên Chúa là tạo dựng con người có nam có nữ để họ gắn bó nên một với nhau trong tình yêu (x. Mc 10, 6-8). Khi hai người yêu nhau, đến với nhau để nên vợ nên chồng, họ được Thiên Chúa chúc phúc. Tình yêu của họ diễn tả tình yêu mà Thiên Chúa dành cho dân người. Đó là một tình yêu luôn dâng hiến, duy nhất và bất khả phân ly. Đó cũng thực sự là một cam kết vĩnh viễn, một tình yêu chung thủy đến cùng. “Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10,9).

Ta tự hỏi: “Điều gì đã giúp bố mẹ của ta có thể gắn bó với nhau cả đời, yêu thương nhau cả đời?” Các ngài đã luôn sống đức tin của mình, tình yêu của các ngài không được diễn tả qua những lời mật ngọt nhưng là sự chân thành và bằng khả năng cho đi, dâng hiến và bằng sự tự hạ, bằng những hy sinh âm thầm mà liên lỉ, và bằng những dấu chỉ của sự thánh thiện. Các ngài có xảy ra mâu thuẫn và cãi cọ không? Có, rất nhiều và cả những tổn thương. Nhưng giữa các ngài luôn có sự kính mến Thiên Chúa. Các ngài ý thức rõ giao ước mà mình đã ký với nhau trước mặt Chúa và Hội thánh. Các ngài đã dâng lên Chúa những biến cố xảy ra trong đời, những hiểu nhầm hay cả những đau thương, những nỗi lo toan mà các ngài phải trải qua. Tình yêu mà các ngài dành cho nhau được đan dệt qua muôn thăng trầm của cuộc sống, được đặt trọn trong đức tin và lòng kính sợ Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô đã nói trong tông huấn Gaudete Et Exsultate rằng: “Bạn được gọi sống đời thánh hiến? Hãy nên thánh bằng việc vui tươi sống trọn lời cam kết của bạn. Bạn kết hôn? Hãy nên thánh bằng việc yêu thương và chăm sóc vợ hay chồng của bạn, như Đức Kitô yêu thương và chăm sóc Hội thánh” (số 14). Và đây là lời Thầy Giêsu đã dạy: “Anh em hãy yêu thương nhau như Thầy đã yêu thương anh em” (Ga 13, 34). Yêu thương đến nỗi hy sinh cả tính mạng mình vì người mình yêu.

Tình yêu đích thực không dừng lại ở sự ngưỡng mộ người mình yêu, không chỉ là những lời nói ngọt ngào êm ái nhưng là khả năng cho đi chính bản thân mình, khả năng bắt chước lối sống của Thầy Giêsu. Chỉ khi nhìn lên Đức Kitô trên thập giá, được Ngài lôi cuốn và thúc đẩy, ta mới dần học được cách yêu như Ngài, và chỉ khi ta thực sự đụng chạm đến vết thương của Người nơi những nỗi đau khổ của những người anh chị em, khi ta săn sóc, phục vụ họ, tâm trí ta luôn đau đáu một nỗi niềm là mang lại cho người ta yêu thương niềm hạnh phúc. Mỗi lần ta bỏ đi ý riêng, không còn chỉ nghĩ đến nhu cầu và quyền lợi của mình, ta đang dần cho phép Thiên Chúa làm trên ta những điều kỳ diệu, những dấu chỉ của tình yêu dâng hiến. Chính lúc ấy, Đức Kitô đang chi phối và làm chủ đời ta, đang yêu thương trong ta.

Lạy Thiên Chúa tình yêu! Chúa đã chẳng bao giờ từ chối con, chẳng bao giờ quay mặt làm ngơ trước nỗi thống khổ của con. Con cảm tạ Chúa đã luôn đốt lên trong con ngọn lửa của Thánh Thần tình yêu, ngọn lửa thiêu rụi đi sự cứng cỏi nơi con, thiêu rụi sự khô khan và cả lớp vỏ của sự ích kỷ. Chúa làm cho con biết cất bước ra khỏi mình, đôi lúc chỉ để làm một việc hy sinh rất nhỏ mọn nhưng con tin, để làm được một việc bé mọn đó, con cũng đã phải cậy nhờ đến ơn Chúa. Nếu không có Chúa, tình yêu trong con sẽ dần héo mòn và có thể chết đi nếu Chúa không trợ giúp và làm cho sống. Xin Chúa cho tất cả chúng con biết để cho Thánh Thần tình yêu của Chúa hướng dẫn, để khi yêu thương nhau, tình yêu của chúng con phản ánh rõ nét hơn tình yêu của Chúa. Amen.

Về mục lục

HÔN NHÂN, SỰ CHÚC LÀNH CỦA THIÊN CHÚA

Thiên San

Trong số những người đến nghe Đức Giêsu giảng dạy, có không ít người đến vì yêu mến, lòng ham thích, sự tò mò, hay được chữa lành nhưng cũng không thiếu những người đến chỉ để gài bẫy, để thử Người. Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về việc những người Pharisêu đến gặp Đức Giêsu để thử Người. Họ hỏi Người về vấn đề li dị (x.Mc 10, 2-16). Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta thấy, từ ban đầu, hôn nhân đã được Thiên Chúa chúc lành.

Chuyện dựng vợ gả chồng là chuyện rất thường tình của con người. Khi đôi bạn trải qua việc tìm hiểu, yêu thương nhau và đi đến việc muốn làm bạn đời của nhau, họ cùng nhau đăng ký kết hôn, chịu phép bí tích Hôn phối đối với những ai thuộc về đạo Công Giáo. Việc kết hôn mới chỉ là bước khởi đầu của đời sống hôn nhân, còn việc làm sao để duy trì tình yêu, hạnh phúc trong đời sống gia đình là cả một hành trình dài đến khi nhắm mắt lìa đời. Hôn nhân Công Giáo mời gọi đôi bạn chung thủy với nhau suốt đời, một vợ một chồng. Tuy nhiên, để gìn giữ hạnh phúc ấy và để chung thủy với nhau trọn đời không phải là điều dễ dàng. Bởi đó, chúng ta thấy nhan nhản các câu chuyện về việc ly dị của các cặp vợ chồng. Việc li dị không phải chỉ mới xuất hiện gần đây, nhưng vào thời Đức Giêsu đã có.

Đức Giêsu cho chúng ta một trả lời thích đáng bằng việc dẫn chúng ta trở về nguồn gốc của tạo dựng. Thuở ban đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng con người có nam có nữ, người nam sẽ lìa cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình cả hai thành một xương một thịt (x.St 2, 24). Khi trả lời sự chất vấn của những kinh sư, Đức Giêsu còn nhấn mạnh cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sự nên một ấy khi nói: “ Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 9). Thiết nghĩ, việc kết hôn của người nam và người nữ không còn là chuyện của con người nhưng là một điều luật tốt đẹpThiên Chúa dành tặng cho con người. “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy cái xương sườn đã rút từ con người ra, làm thành một người đàn bà và dẫn đến với con người” (St 2, 22). Đó là cuộc hôn nhân đầu tiên của nguyên tổ con người, được Thiên Chúa chúc phúc. Từ đó, Thiên Chúa chúc phúc cho tất cả các cặp vợ chồng, mời gọi họ chung thủy với nhau.

Lần mở lại sách Sáng Thế, chúng ta sẽ đọc thấy cuộc hôn nhân tốt đẹp giữa Ixaac và Rêbêca. Theo lời của gia đình cô Rêbêca thì đó là cuộc hôn nhân do Thiên Chúa xe định: “Việc này Đức Chúa đã xe định, chúng tôi không thể nói thuận hay không thuận nữa. Rêbêca đang đứng trước mặt ông đây, ông cứ đưa nó về. Nó sẽ thành vợ của con trai chủ ông, như Đức Chúa đã phán” ( St 24, 50). Đối với người Công Giáo, việc kết hôn không chỉ đơn thuần theo luật đời, phải đăng ký kết hôn nhưng cao trọng hơn đó là một bí tích. Họ cùng nhau cử hành bí tích Hôn Phối trước sự chúc lành của Thiên Chúa và sự chứng kiến của cộng đoàn. Đôi vợ chồng được cộng tác với Thiên Chúa trong công trình tạo dựng khi sinh thành và dưỡng dục con cái. “Vậy sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly” (Mc 10, 9). Đó là điều luật Thiên Chúa ban cho con người qua Đức Giêsu. Nhưng đời sống hôn nhân gặp nhiều khó khăn, việc chung thủy trọn đời là một thách đố lớn cho các cặp vợ chồng. Chung thủy nghĩa là bên nhau trọn đời, yêu thương, tôn trọng, tha thứ và đón nhận, cùng chia sẻ trách nhiệm sinh thành và dưỡng dục con cái theo giáo huấn của Chúa. Khi không thể chu toàn những đòi hỏi này, không ít các đôi vợ chồng đã quyết định chia tay. Khi chọn giải pháp li dị, vô hình dung con người đã vi phạm điều luật của Thiên Chúa.

Chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, Thiên Chúa đã làm một việc thích đáng là cho Đức Giêsu trải qua nhiều đau khổ, cam chịu tử hình, trở thành vị lãnh đạo thập toàn và để cho muôn người được ơn cứu độ (x. Dt 2, 10). Qua đời sống hôn nhân, chúng ta được mời gọi noi gương Đức Giêsu, vị lãnh đạo thập toàn, can đảm vượt qua mọi khó khăn, thách đố trong đời sống hôn nhân để cùng nhau đạt đến nguồn ơn cứu độ. Khi trung thành tuân giữ lời cam kết trong đời sống hôn nhân, chúng ta đang cùng giúp nhau đạt đến ơn cứu độ trong bậc sống của mình. Đời sống hôn nhân là lời cam kết thánh thiêng, bởi nó được Thiên Chúc chúc lành, thánh hóa. Đó cũng là cách Thiên Chúa mời gọi vợ và chồng diễn tả tình yêu cao trọng giữa Đức Kitô và Hội Thánh.

Về mục lục

TÌM VỀ Ý ĐỊNH CỦA THIÊN CHÚA

Lm. Ngọc Dũng

Chúng ta thường nói những người có nhà cao cửa rộng, công việc ổn định và có gia đình êm ấm là hạnh phúc. Nói theo cách khác, những ai thực hiện được giấc mơ của mình là hạnh phúc. Tuy nhiên, những hạnh phúc của con người luôn có giới hạn. Không ai trong chúng ta được hạnh phúc luôn mãi: Hôm nay cười, ngày mai sẽ có buồn phiền, vì ngày nào có sự khốn khó của ngày đó (x. Mt 6:34). Lời Đáp Ca hôm nay trình bày cho chúng ta một loại người luôn hạnh phúc, không chỉ ở đời này mà cả đời sau, đó là những người kính sợ Thiên Chúa: “Hạnh phúc thay những người kính sợ Chúa.” Kính sợ Thiên Chúa làm cho chúng ta cẩn thận hơn trong từng quyết định và thái độ sống của mình; làm cho chúng ta hiền dịu, tế nhị, thông cảm và nhất là khiêm nhường hơn trong tương quan của chúng ta với Chúa và với nhau. Sách Châm Ngôn dạy chúng ta rằng: Kính sợ Thiên Chúa là đầu mối mọi khôn ngoan (x. Cn 9:10). Chúng ta hãy tìm hạnh phúc trường cửu trong việc “kính sợ và làm theo ý Thiên Chúa,” hơn là hạnh phúc chóng qua trong việc “sợ hãi và làm vui lòng con người.”

Trong bài đọc 1 hôm nay, chúng ta thấy sự khác biệt trong việc sáng tạo người nam người nữ giữa hai trình thuật sáng tạo Tư Tế và Yawist. Trong trình thuật sáng tạo Tư Tế [chúng ta nghe trong bài đọc 1 hôm qua], người nam và người nữ được sáng tạo cùng lúc theo hình ảnh và giống Thiên Chúa (St 1:26-27). Còn trong trình thuật sáng tạo Yawist, người nam được sáng tạo trước và người nữ được sáng tạo từ “cạnh sườn” của người nam. Sự khác biệt này không có ý nói đến sự bất đồng của các tác giả Sách Thánh trong việc thuật lại sáng tạo con người của Thiên Chúa. Sự khác biệt này nói lên sứ điệp Tin Mừng mà từng tác giả muốn truyền tải cho người nghe của mình trong những khoảng không gian và thời gian hoàn toàn khác biệt: trình thuật sáng tạo Yawist cho những người Do Thái thời Solomon [thời an bình thịnh vượng], còn trình thuật Tư Tế cho những người Do Thái trong thời lưu đày [thời kỳ sống giữa dân thờ ngẫu tượng và bị cám dỗ bỏ quên Thiên Chúa qua việc không giữ luật ngày sabát]. Tuy nhiên, cả hai trình thuật có cùng một sứ điệp, đó là: Con người là tạo vật tuyệt hảo nhất mà Thiên Chúa đã sáng tạo nên và “muốn trong chính nó.” Như thế, con người “nợ” Thiên Chúa sự sống của mình và vì vậy con người luôn “lệ thuộc” Ngài trong mọi sự. Điều này cho thấy, sứ điệp Tin Mừng của Thiên Chúa siêu vượt thời gian và không gian. Nó không bao giờ thay đổi, nhưng có khả năng diễn tả chính mình cách mới mẻ cho con người qua mọi thời đại. Nếu con người biết lắng nghe và mở rộng tâm hồn để đón nhận lời Chúa trong hoàn cảnh sống cá biệt của mình, thì con người sẽ được biến đổi.

Tuy nhiên, điều quan trọng nhất trong trình thuật sáng tạo Yawist về con người nằm ở câu: “Con người ở một mình thì không tốt. Ta sẽ làm cho nó một trợ tá tương xứng với nó” (St 2:18). Con người ở một mình không tốt. Con người cần một trợ tá. Nhưng con người không thể tìm thấy bất kỳ trợ tá nào trong các tạo vật khác: “Đức Chúa là Thiên Chúa lấy đất nặn ra mọi dã thú, mọi chim trời, và dẫn đến với con người, xem con người gọi chúng là gì: hễ con người gọi mỗi sinh vật là gì, thì tên nó sẽ là thế. Con người đặt tên cho mọi súc vật, mọi chim trời và mọi dã thú, nhưng con người không tìm được cho mình một trợ tá tương xứng” (St 2:19-20). Cuối cùng con người chỉ tìm thấy trợ tá tương xứng nơi người nữ, một nhân vị khác giống với mình: “Phen này, đây là xương bởi xương tôi, thịt bởi thịt tôi! Nàng sẽ được gọi là đàn bà, vì đã được rút từ đàn ông ra” (St 2:23). Thiên Chúa muốn nói gì qua điều này? Ngài muốn nói rằng: Con người là một hữu thể có tính xã hội. Con người cần người khác để trợ giúp mình. Tuy nhiên, trợ tá tương xứng để trợ giúp con người không phải là những tạo vật “vô hồn,” nhưng là những “nhân vị được sinh động bởi linh hồn bất tử.” Nhưng trong cuộc sống thường ngày, chúng ta chứng kiến nhiều người trong chúng ta yêu “sự vật” hay “công việc” của mình hơn những người anh chị em. Chúng ta xem những “con vật” hay “sự vật” như “bạn đồng hành” không thể thiếu. Nhiều khi chúng ta nổi giận với anh chị em của mình khi họ làm “tổn thương” con vật hoặc công việc chúng ta yêu thích. Khi làm như thế, chúng ta đã hạ phẩm giá của anh chị em mình xuống thấp hơn giá trị của một “con vật” hay “sự vật.” Tóm lại, chúng ta chỉ tìm thấy những trợ tá tương xứng nơi những con người và sự cô đơn của chúng ta không thể bị phá huỷ bằng tương quan chúng ta có với “con vật” hoặc “sự vật,” nhưng chỉ bằng tương quan lành mạnh với anh chị em và nhất là tương quan với Thiên Chúa.

Hai chữ “con người” thường được chúng ta dùng để bào chữa cho những yếu đuối và lỗi phạm. Khi một ai làm điều gì sai, thì cách bào chữa nhanh nhất và tốt nhất để lấy sự cảm thông của người khác đó là, “vì tôi là người.” Nhưng chúng ta hãy biết rằng: Ơn gọi “làm người” là điều cao đẹp nhất mà không tạo vật nào có thể có được, ngay cả các thiên thần, vì không có tạo vật nào được gọi là “hình ảnh của Thiên Chúa,” cũng không có tạo vật nào được gọi là “con Thiên Chúa” như con người. Chính Chúa Giêsu “trở thành người” để cứu chuộc chúng ta. Trong bài đọc 1 hôm nay, tác giả thư gởi Do Thái mượn lời Thánh Vịnh để nói lên sự cao trọng của con người như sau: “Phàm nhân là chi mà Chúa cần nhớ đến? Con người là gì mà Chúa phải thăm nom? Chúa đã làm cho con người thua kém các thiên thần trong một thời gian ngắn, ban vinh quang, danh dự làm mũ triều thiên, đặt muôn loài, muôn sự dưới chân con người, bắt chúng phải phục quyền con người” (Tv 8:4-8; Dt 2:6-8). Một triết gia nói rằng: “Làm người là điều cao trọng nhất mà một hữu thể có thể là.” Như vậy, hãy sống cho thật là người, vì chỉ có những ai sống thật sự là “con người” thì mới có khả năng nên giống “Con Người” [Đức Kitô]. Thư gởi Do Thái khẳng định rằng: Làm “người” – “anh [chị] em” của Chúa Giêsu – chính là vinh quang của con người: “Quả thế, Thiên Chúa là nguồn gốc và cùng đích mọi loài, chính vì muốn đưa muôn vàn con cái đến vinh quang, nên Người đã làm một việc thích đáng, là cho Đức Giêsu” (Dt 2:10).

Thư gởi Do Thái hôm nay nói cho chúng ta biết về giá trị của gian khổ, điều mà không ai trong chúng ta muốn. Ai cũng muốn có một cuộc sống an nhàn và sung túc. Theo tự nhiên, đau khổ là một điều không ai muốn! Theo triết học và thần học, đau khổ được xem như là “sự dữ.” Nhà phật nói: “Đời là bể khổ.” Tuy nhiên, dù không muốn gian khổ, ai trong chúng ta ta cũng có gian khổ của riêng mình. Chúa Giêsu khẳng định điều này rằng: “Ngày nào có sự khốn khó của ngày đó.” Theo cái nhìn Kitô giáo, đau khổ có giá trị riêng của nó: đau khổ là thầy dạy tốt nhất trên con đường nhân đức. Chính Chúa Giêsu cũng phải trải qua đau khổ dù Ngài là con Thiên Chúa. Đau khổ chỉ được hiểu từ mầu nhiệm của tự hạ và đỉnh cao là thập giá. Qua đau khổ Chúa Giêsu “trải qua gian khổ mà trở thành vị lãnh đạo thập toàn, dẫn đưa họ tới nguồn ơn cứu độ” (Dt 2:10).

Cuộc tranh luận của Chúa Giêsu với mấy người Pharisêu hôm nay nằm trong bối cảnh của việc Chúa Giêsu dạy các môn đệ của Ngài về những thách đố để trở nên môn đệ chân chính của Ngài. Lời dạy của Chúa Giêsu trong bài Tin Mừng hôm nay phản ánh chính quan điểm của Chúa Giêsu về đời sống hôn nhân và quan điểm của Ngài hoàn toàn khác với quan điểm về hôn nhân tìm thấy trong Cựu Ước và các tôn giáo khác. Để hiểu lời dạy của Chúa Giêsu về hôn nhân tốt hơn, chúng ta có thể sắp xếp lại cuộc đối thoại giữa Chúa Giêsu và mấy người Pharisêu như một bản kịch như sau:

Người dẫn: Khi ấy, Đức Giêsu, đi tới miền Giuđê và vùng bên kia sông Giođan. Đông đảo dân chúng lại tuôn đến với Người. Và như thường lệ, Người lại dạy dỗ họ (Mc 10:1). Trong khi Đức Giêsu đang giảng dạy, có mấy người Pharisêu đến hỏi ý kiến của Ngài về đời sống hôn nhân.

Mấy người Pharisêu: Thưa Thầy, chồng có được phép rẫy vợ không? (Mc 10:2).

 Chúa Giêsu: Thế ông Môsê đã truyền dạy các ông điều gì? (Mc 10:3).

Mấy người Pharisêu: Ông Môsê đã cho phép viết giấy ly dị mà rẫy vợ (Mc 10:4).

Chúa Giêsu: Chính vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Môsê mới viết điều răn đó cho các ông. Còn lúc khởi đầu công trình tạo dựng, Thiên Chúa đã làm nên con người có nam có nữ; vì thế, người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mà gắn bó với vợ mình, và cả hai sẽ thành một xương một thịt. Như vậy, họ không còn là hai, nhưng chỉ là một xương một thịt. Vậy, sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, loài người không được phân ly (Mc 10:5-9).

Chúng ta thấy trong cuộc đối thoại này điều Chúa Giêsu quở trách những người Pharisêu trong chương 7 về việc họ lấy truyền thống cha ông để biện minh cho những việc làm sai trái của họ và không thi hành luật của Thiên Chúa. Cụ thể hơn, mấy người Pharisêu nại vào “phép” của ông Môsê để rẫy vợ, còn Chúa Giêsu thì đưa họ [và chúng ta] về với ý định ban đầu của Thiên Chúa khi Ngài sáng tạo người nam và người nữ. Ngài muốn tình yêu của họ phản chiếu cách trung thực tình yêu của Ngài, là tình yêu vô điều kiện và trung thành, là tình yêu làm cho Cha, Con và Thánh Thần nên một. Chính vì lẽ đó mà “họ không còn là hai [như Cha, Con, Thánh Thần không còn là ba], nhưng chỉ là một xương một thịt [nhưng chỉ là một Chúa].” Như vậy, trong ý định của Thiên Chúa, không có việc rẫy nhau. Chúng ta có thể rút ra điều gì ở đây? Nơi nào con người sống theo “ý định ban đầu” của Thiên Chúa [dù trong đời sống hôn nhân hay đời sống thánh hiến], nơi đó có hiệp nhất, có một lòng một trí; còn nơi nào con người sống theo “ý định nhất thời của mình,” nơi đó chỉ có chia rẽ và nước mắt.

Hai chi tiết cuối cùng của bài Tin Mừng hôm nay mà chúng ta đã quen thuộc là: (1) Động lực đến đối thoại với Chúa Giêsu của mấy người Pharisêu là “để thử Người” (Mc 10:2); (2) Chúa Giêsu giải thích mọi sự cho các môn đệ khi họ “ở trong nhà” với Ngài: “Khi về đến nhà, các môn đệ lại hỏi Người về điều ấy” (Mc 10:10). Khi đặt hai chi tiết này với nhau, chúng nhắc nhở chúng ta về sự cần thiết phải “ở một mình với Chúa,” nhưng với một động lực đúng nếu chúng ta muốn biết và hiểu đường lối và mệnh lệnh của Ngài: “Lạy Chúa, trên đường mệnh lệnh Chúa, xin dẫn con đi.”

Sau lời giảng dạy về đời sống vợ chồng, lời dạy về con cái của Tin Mừng hôm nay đi theo sau là hợp lý. Khi Chúa Giêsu nói với các môn đệ về việc trở nên giống trẻ em, Chúa Giêsu không đơn giản nói đến việc trở nên theo thể lý. Ngài có ý nhắm đến bình diện “tương quan.” Chúng ta phải chân nhận rằng, đối với trẻ em, mối tương quan quan trọng nhất đối với chúng là tương quan với bố mẹ. Không có mối tương quan nào quan trọng hơn mối tương quan này! Nhưng khi lớn lên, chúng có những mối tương quan khác [bạn bè, vợ chồng, đồng nghiệp] và những mối tương quan này đôi khi làm cho tương quan với bố mẹ trở nên thứ yếu.

Khi đặt những lời Chúa Giêsu nói cho các môn đệ trong bối cảnh tương quan như trên, chúng ta hiểu rõ hơn điều Ngài muốn ám chỉ trong câu: “Cứ để trẻ em đến với Thầy, đừng ngăn cấm chúng, vì Nước Thiên Chúa là của những ai giống như chúng. Thầy bảo thật anh em: Ai không đón nhận Nước Thiên Chúa với tâm hồn một trẻ em, thì sẽ chẳng được vào” (Mc 10:14-15). Điều Chúa Giêsu muốn nói ở đây là: Trong Nước Thiên Chúa, chỉ có một mối tương quan là quan trọng: Thiên Chúa là Cha, còn tất cả chúng ta là con cái của Ngài và là anh chị em của nhau. Còn nhìn từ khía cạnh Kitô học, trong những lời trên của Chúa Giêsu, Ngài muốn các môn đệ phải học ở Ngài, vì Ngài luôn sống tinh thần “trẻ thơ” [là Con] với Chúa Cha. Theo văn hoá thời đó của người Do Thái, trẻ em thường được trình bày để làm ví dụ cho những hành vi “không hợp lý” theo lẽ con người và cần phải được dạy dỗ. Đây chính là điều cần thiết mà Chúa Giêsu đề ra để được vào Nước Thiên Chúa: Ai muốn vào Nước Thiên Chúa thì cần phải từ bỏ lối lý luận hợp lý của con người để được Thiên Chúa dạy dỗ cho lối lý luận của Ngài.

Tuy nhiên, đoạn Tin Mừng này không có ý nói về trẻ nhỏ, nhưng nói về Nước Thiên Chúa và những ai sẽ được vào. Một cách tổng quát, chỉ những ai nhận ra và đón nhận Nước Thiên Chúa như một món quà nhưng không với thái độ ngạc nhiên và hạnh phúc của trẻ nhỏ mới được vào; Nước Thiên Chúa chỉ dành cho những ai không cậy dựa vào quyền lực hoặc địa vị của mình như trẻ nhỏ là những người không có quyền lực và địa vị, bởi vì Nước Thiên Chúa siêu việt trên mọi quyền lực và địa vị của con người.

Câu đầu tiên và câu kết thúc của đoạn Tin Mừng hôm nay giống nhau. Cả hai nói về việc Chúa Giêsu đặt tay chúc lành cho trẻ em: “Khi ấy, người ta dẫn trẻ em đến với Đức Giêsu, để Người đặt tay trên chúng” (Mc 10:13) và “Rồi Người ôm lấy các trẻ em và đặt tay chúc lành cho chúng” (Mc 10:16). [Theo tư tưởng của người Do Thái, “trẻ em” bao gồm những em từ khi mới lọt lòng mẹ cho đến 12 tuổi]. Khi để hai câu này với nhau, chúng ta khám phá ra vẻ đẹp của chúng, đó là sự “hợp tác” giữa chúng ta với Chúa Giêsu để mang lại ơn lành cho người khác. Một cách cụ thể, về phần mình, chúng ta “dẫn người khác đến với Chúa Giêsu và xin Ngài chúc lành cho họ”; về phần Ngài, Chúa Giêsu “ôm lấy họ và đặt tay chúc lành cho họ.” Không có sự “hợp tác” nào đẹp cho bằng sự hợp tác này vì nó không nhắm đến lợi ích cá nhân của mình, nhưng luôn nhắm đến lợi ích của người khác. Đây chính là dấu chỉ của Nước Thiên Chúa vì “Vì Nước Thiên Chúa không phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14:17).

Về mục lục

LÀM CHA VỚI SỰ HY SINH TRƯỞNG THÀNH

Lm. Bosco Dương Trung Tín

“Người đàn ông sẽ lìa cha mẹ mình mà gắn bó với vợ mình”(x. Mc 10,7)

     Đó là khi người đàn ông cưới vợ và người phụ nữ lấy chồng. Họ kết hôn với nhau và thành lập một gia đình mới. Nơi đó sẽ sinh ra những người con. Lúc đó người đàn ông sẽ được làm cha và người phụ nữ sẽ được làm mẹ. Trong Năm Thánh Giu-se, chúng ta sẽ nói về người cha Giu-se trong tông thư “Bằng trái tim người Cha” của Đức Giáo Hoàng Phan-xi-cô, số 7 , Thánh Cả Giu-se là “Một người cha trong bóng tối” như sau:

    “Trong mối liên hệ của ngài với Chúa Giêsu, Thánh Giuse là hình bóng trần gian của Chúa Cha trên trời: ngài trông nom và bảo vệ Chúa Giê-su, không bao giờ để Người đi theo con đường riêng của mình. Chúng ta có thể nghĩ đến những lời của Môsê nói với Israel: “Trong hoang địa… các ngươi đã thấy Chúa là Thiên Chúa của các ngươi cưu mang các ngươi như thế nào, giống như người bồng đứa con, suốt chặng đường các ngươi đi qua” (Đnl 1:31). Cùng một cách tương tự, Thánh Giuse hành động như một người cha trong suốt cuộc đời của Người”.

“Các người cha không được sinh ra, nhưng được tạo ra. Một người đàn ông không trở thành một người cha chỉ đơn giản bằng cách đem một đứa con vào thế giới, mà bằng cách nhận trách nhiệm chăm sóc đứa con đó. Bất cứ khi nào một người đàn ông nhận trách nhiệm đối với cuộc sống của một người khác, cách nào đó, họ đã trở thành cha của người đó”.

   Ca dao Việt Nam có câu: “Sinh con rồi mới sinh Cha,

 Sinh cháu giữ nhà rồi mới sinh Ông”.

Có nghĩa là khi một đứa con được sinh ra, thì mới sinh chức vụ người Cha; khi sinh ra cháu rồi, mới sinh ra chức vị của người ông. Chữ “Sinh” trong “sinh con, sinh cháu” là sinh đẻ. Còn chữ “Sinh” trong “Sinh Cha, Sinh Ông” là sinh chức vị.(Theo NoName.448; ngày 22/3/2016).

    Theo tôi nên dùng chữ “Xưng” cho rõ:

“Sinh con rồi mới xưng Cha,

Sinh cháu giữ nhà rồi mới xưng ông”.

“Xưng” là xưng hô, là gọi. Khi đứa con được sinh ra thì người chồng được gọi là “Cha”; khi đứa cháu được sinh ra thì bố của người cha đó được xưng, được gọi là “Ông”. Theo Đức Phan-xi-cô, thì người cha không được “sinh ra” mà được “tạo ra”. Người cha đó không chỉ đơn thuần là sinh ra một đứa con mà quan trọng là có trách nhiệm săn sóc và nuôi dưỡng cho đứa con đó nên người. Ngoài ra, khi lãnh trách nhiệm săn sóc và nuôi dưỡng một người nào đó, thì có thể nói người đó đã là “người cha” đối với người đó rồi vậy. Điều này ta có thể nói về người cha “tinh thần”; người cha “thiêng liêng”.

Đặc biệt trong Giáo Hội, các Linh Mục được gọi là “Cha”, người Cha tinh thần, người Cha thiêng liêng, người Cha trong đức tin. Vì các Linh Mục đã sinh ra các tín hữu qua bí tích rửa tội và còn săn sóc, nuôi dưỡng người tín hữu cho đến khi lìa đời; cho đến khi “Chúa Ki-tô được hình thành” nơi người tín hữu bằng Lời Chúa, Thánh Thể và các bí tích.

“Làm cha đòi hỏi phải dẫn nhập con cái vào cuộc sống và thực tại. Không phải kìm hãm chúng, quá bảo vệ hay chiếm hữu, mà là làm chúng có khả năng tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới. Có lẽ vì lý do này, Thánh Giuse theo truyền thống được gọi là một người cha “khiết tịnh nhất”. Tước hiệu này không chỉ đơn giản là một dấu chỉ tình âu yếm, mà là một tổng kết cho thái độ đối lập với tính chiếm hữu. Khiết tịnh là tự do thoát khỏi tính chiếm hữu về mọi lĩnh vực đời sống ta. Chỉ khi khiết tịnh, tình yêu mới là đích thực. Một tình yêu chiếm hữu cuối cùng trở nên nguy hiểm: nó cầm tù, giới hạn và khiến người ta khốn khổ. Chính Thiên Chúa đã yêu nhân loại bằng một tình yêu khiết tịnh; Người để chúng ta tự do, thậm chí đi lạc và chống lại chính Người. Luận lý học của tình yêu luôn là luận lý học của tự do, và Thánh Giuse biết yêu một cách tự do phi thường. Ngài không bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự. Ngài không nghĩ về mình, mà tập chú vào cuộc đời của Đức Maria và Chúa Giêsu”.

Qua đó, những người làm CHA cũng thế, đừng bao giờ biến mình thành trung tâm của mọi sự, nhưng hãy tập chú vào cuộc đời của vợ mình và những đứa con; làm sao cho vợ mình được yên vui, hạnh phúc; làm sao cho con của mình có khả năng tự quyết định, tận hưởng tự do và khám phá những khả năng mới của chúng.

 “Thánh Giuse tìm thấy hạnh phúc không chỉ ở sự hy sinh bản thân mà ở sự tự hiến. Nơi ngài, chúng ta không bao giờ thấy sự thất vọng mà chỉ thấy sự tin tưởng. Sự im lặng kiên nhẫn của ngài là khúc dạo đầu cho những biểu thức cụ thể của sự tin tưởng. Thế giới của chúng ta ngày nay cần những người cha. Nó không cần các bạo chúa, những kẻ thống trị người khác như một phương tiện để thỏa mãn các nhu cầu của chính họ. Nó bác bỏ những ai lẫn lộn thẩm quyền với chủ nghĩa độc đoán, phục vụ với nô dịch, thảo luận với áp chế, bác ái với não trạng phúc lợi, quyền lực với hủy diệt. Mỗi ơn gọi đích thực đều phát sinh từ việc tự hiến chính mình, vốn là hoa trái của sự hy sinh trưởng thành”.

    Một người cha trưởng thành là một người cha có thẩm quyền chứ không độc đoán; một người cha phục vụ chứ không nô dịch; một người cha biết thảo luận chứ không áp chế; một người cha yêu thương chứ không vụ lợi; một người cha có quyền lực để xây dựng chứ không để hủy diệt.

   “Khi những người cha từ chối sống cuộc sống của con cái họ vì chúng, những viễn cảnh mới và bất ngờ sẽ mở ra. Mọi đứa con đều mang trong mình một mầu nhiệm độc đáo chỉ có thể đưa ra ánh sáng với sự giúp đỡ của một người cha biết tôn trọng quyền tự do của đứa con đó. Một người cha biết nhận ra rằng mình là một người cha và một nhà giáo dục hơn cả chính ở thời điểm ông trở nên “vô dụng”, lúc ông thấy con mình đã trở nên độc lập và có thể bước đi trên nẻo đường cuộc sống mà không cần người kèm cặp. Khi ông trở nên giống như Thánh Giuse, người luôn biết rằng đứa con của ngài không phải là của ngài mà chỉ đơn thuần được giao cho ngài chăm sóc”.

    Nghĩa là người cha đó không bắt con cái mình sống cuộc sống của mình mà để cho chúng sống cuộc sống của chúng. Cuộc sống của mình khác; cuộc sống của con cái khác. Nó khác về tuổi tác; nó khác về thời đại; nó khác về tư duy. Do đó, người cha cần phải tôn trọng cuộc sống riêng tư và tư duy của con cái. Lý do là “Những đứa con của ông không phải là của ông mà chỉ đơn thuần chúng được giao cho ông chăm sóc” mà thôi.

   “Trong mỗi lần thực thi thiên chức làm cha của mình, chúng ta nên luôn nhớ rằng điều đó không liên quan gì đến việc chiếm hữu, nhưng đúng hơn là một “dấu hiệu” chỉ tình phụ tử lớn hơn. Một cách nào đó, tất cả chúng ta đều giống như thánh Giuse: một cái bóng của Chúa Cha trên trời, Đấng “làm cho mặt trời mọc trên kẻ dữ và người lành, và làm mưa cho kẻ công chính và kẻ bất chính” (Mt 5:45). Và là một chiếc bóng theo Con của Người”.

    Đến đây, chúng ta mới thấy từ “bóng” mà Đức Phan-xi-cô nói có ý nghĩa gì. Bóng đây là “hình bóng”, hình bóng của Cha Trên Trời, chứ không là bóng tối. Những người làm cha thi hành thiên chức làm cha của mình là thi hành “tình phụ tử”; là thực hành “tình phụ tử” của Cha Trên Trời. Nên phải nói là Thánh Cả Giu-se là hình bóng của Cha Trên Trời mới chính xác.

   Vậy, hỡi những người làm Cha trong gia đình, hãy noi gương thánh Cả Giu-se khi thực thi thiên chức làm Cha của mình. Các bà mẹ cũng hãy gắn bó với những người cha và cùng thực thi thiên chức làm mẹ của mình đối với con cái như vậy. Các Linh Mục hãy làm Cha đối với các tín hữu “trong Chúa Ki-tô qua Tin Mừng”. Nói tóm là “Bất kể ơn gọi của chúng ta là gì, dù kết hôn, độc thân hay trinh khiết, việc hiến mình của chúng ta sẽ không thành toàn nếu nó chỉ dừng lại ở sự hy sinh”. Sự hy sinh này phải là sự hy sinh trưởng thành. Có như thế, sự tự hiến của người Cha mới trở thành một dấu hiệu của vẻ đẹp và niềm vui của tình yêu. Nếu không thì“việc tự hiến sẽ có nguy cơ trở thành biểu thức của bất hạnh, buồn bã và thất vọng” đấy.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...