06/09/2024
1225

CHÚA NHẬT 23 THƯỜNG NIÊN NĂM B
Lời Chúa:  Is 35, 4-7a; 2Gc 2, 1-5; Mc 7,31-37
------------------------------

Mục lục

1. Đấng giải phóng  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hãy Mở Ra  (Lm. Thái Nguyên)

3. Mở trí mở lòng  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

4. Đừng giả điếc làm ngơ (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

5. Đức Kitô Đấng Thiên Sai (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Quang)

6. Nghe và nói  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

7. Con người hôm nay đang rất cần Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

8. Chìa khóa tâm linh (Trầm Thiên Thu)

9. Chân trời mới  (Lm. Vũ Đình Tường)

10. Vì Chúa yêu con  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

11. Hãy Mở Ra.  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

12. Chúa Giêsu cho người điếc được nghe  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

13. Épphatha: Xin mở tai mở miệng và mở lòng trí con (Lm. Đan Vinh)

14. Đức Giêsu, Đấng chữa lành (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)


 

.

ĐẤNG GIẢI PHÓNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Kinh Thánh trình bày với chúng ta Thiên Chúa vừa là Đấng Sáng tạo, vừa là Đấng Giải phóng. Là Đấng Sáng tạo, Ngài làm cho vạn vật từ hư vô trở thành hiện hữu; là Đấng Giải phóng, Ngài dẫn đưa con người tới bến bờ của tự do. Như thế, người tin Chúa luôn cảm thấy vinh dự và tự hào, vì được Chúa dựng nên, đồng thời cũng được Ngài cứu thoát. Lịch sử dân tộc Do Thái đã chứng minh điều này.

Bài Sách thánh thứ nhất trích ngôn sứ Isaia. Tác giả mời gọi chúng ta hãy can đảm và đừng sợ. Đừng sợ! bởi vì Thiên Chúa sắp can thiệp. Ngài sắp đem lại cho dân Ngài chiến thắng. Đoạn sách này được viết trong bối cảnh dân Do Thái còn đang lưu đày tại Babylon, vào thế kỷ thứ sáu trước Công nguyên. Nơi lưu đày tha hương đất khách, ngày đêm họ tha thiết khẩn cầu Thiên Chúa cứu giúp, giải phóng và đưa họ về quê cha đất tổ. Chính lúc họ đang âu sầu khổ cực, Chúa nói với họ qua ngôn sứ Isaia: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: can đảm lên đừng sợ! đã đến thời Thiên Chúa cứu thoát“. Với giọng văn hùng hồn mạnh mẽ, vị Ngôn sứ diễn tả ngày Chúa can thiệp bằng những hình ảnh rất vui tươi sinh động: người mù sẽ nhìn thấy, kẻ què sẽ đi được, người điếc sẽ nghe thấy và người câm sẽ reo hò. Ước vọng nóng bỏng của người mù là có thể nhìn, của người què là đi được, của người câm là có thể nói, của người điếc là có thể nghe. Qua hình ảnh diễn tả, vị Ngôn sứ muốn khẳng định rằng, vào ngày Thiên Chúa can thiệp, con người sẽ đạt được tất cả những gì mong muốn chờ đợi. Thiên Chúa sẽ bù đắp cho họ nỗi thống khổ họ đã phải chịu trong quá khứ và ban cho họ tràn đầy niềm vui. Sau gần 40 năm lưu đày tại Babylon, Chúa đã dùng Vua Kirô người Ba Tư để trả tự do cho người Do Thái vào năm 538. Kirô là vị vua giải phóng dân Israen khỏi cảnh lưu đày. Ông được coi như sứ giả Chúa gửi đến. Từ đây, cảnh lưu đày chấm dứt. Vua Kirô cũng là người cho phép dân Do Thái hồi hương, tái thiết Đền thờ và quê hương xứ sở. Sau những tháng ngày xa quê, họ trở về trong niềm vui vỡ òa. Lời tiên báo của ngôn sứ Isaia đã được thực hiện. Người Do Thái hát vang bài ca: “Khi Chúa dẫn tù nhân Sion trở về, ta tưởng như trong mơ…” (Tv 126,1).

Với nhãn quan Kitô giáo, cuộc trở về của người Do Thái từ kiếp lưu đày là hình bóng cho cuộc giải phóng con người mà Thiên Chúa sẽ thực hiện. Đức Giêsu, Ngôi Lời nhập thể, đã đến giải thoát nhân loại khỏi ách nô lệ của tội lỗi và dẫn đưa họ về với Chúa Cha. Người hứa ban cho họ tự do đích thực, không còn bị tội lỗi chi phối và điều khiển. Người tin vào Chúa Giêsu sẽ không còn là nô lệ của tội lỗi, nhưng được mặc lấy sự thánh thiện. Những dấu chỉ Thiên sai đã xuất hiện vào thời Chúa Giêsu. Thánh Mác-cô đã ghi lại một phép lạ Chúa chữa người vừa câm vừa điếc. Nhờ tác động của Chúa, “tai anh ta mở ra và lưỡi như hết bị buộc lại”. Kiểu nói của Mác-cô muốn diễn tả người bị câm điếc cũng giống như một tù nhân. Anh ta bị nhốt kín nên giờ được mở ra, bị xiềng xích gông cùm nên giờ được tháo cởi. Nói tóm lại, anh được giải phóng khỏi cảnh tù tội và được đưa trở lại hội nhập với cuộc sống bình thường. Thánh Mác-cô cũng là một tác giả hay nói đến việc Chúa Giêsu cấm người ta loan tin, sau mỗi khi Người làm phép lạ. Đây là lối trình bày có chủ ý, vì thánh Sử muốn liên hệ đến những “trào lưu thiên sai” thời bấy giờ, muốn chủ trương một đấng thiên sai theo kiểu trần tục, mang màu sắc chính trị. Chính vì thế, Chúa Giêsu không muốn người ta đồn thổi về Người như một vị anh hùng của thời đại theo nhãn giới trần gian.

Đức Giêsu Kitô đã đến trần gian để giải phóng con người khỏi quyền lực tà thần. Quả thật, con người được Thiên Chúa sáng tạo có ý chí và tự do, nhưng con người cũng bị cầm buộc bởi biết bao thứ quyền lực: tiền bạc vật chất, đam mê dục vọng, ghen ghét hận thù, ích kỷ vô tâm. Con người vừa bị giam cầm bởi những quyền lực bên ngoài, vừa bị giam cầm bởi những khuynh hướng bên trong, tức là do chính bản thân mình. Chúa Giêsu giúp chúng ta thoát khỏi những ràng buộc đó để trở nên những con người tự do, không còn bị lệ thuộc, để rồi chúng ta toàn tâm toàn ý phụng sự Thiên Chúa trong tình con thảo thân thương.

Hình ảnh Thiên Chúa là Đấng Giải phóng hướng chúng ta về niềm hy vọng. Quả vậy, trong cuộc sống hôm nay, đối diện với sự dữ, thiên tai, chiến tranh, bạo lực, nhất là đại dịch Covid-19, nhiều người cảm thấy hoang mang. Nhiều người khác lại phàn nàn kêu trách Chúa trước thảm hoạ mà nhân loại đang phải gánh chịu. Là những người tín hữu, chúng ta tin rằng Chúa không dửng dưng trước nỗi thống khổ của con người. Chúng ta tin rằng Ngài sẽ can thiệp để cứu giúp chúng ta. Nếu trong Phúc âm, nhiều lần Chúa Giêsu đã chữa lành người liệt, người mù, người câm, người bị quỷ ám và thậm chí đã cho người chết được sống lại, thì chúng ta tin rằng người không bỏ rơi chúng ta trong hoạn nạn đau thương. Sứ điệp của Lời Chúa là sứ điệp của niềm hy vọng. Đời sống người Kitô hữu cũng được ghi dấu bởi niềm hy vọng vào quyền năng của Thiên Chúa. Ngài là Cha yêu thương và là Đấng Giải phóng con người.

Ephata – Hãy mở ra! Đó là lệnh truyền kèm theo phép lạ để chữa người điếc và ngọng. Chúng ta cũng cần cầu xin Chúa quyền năng mở tai chúng ta để lắng nghe Lời Chúa, mở mắt chúng ta để nhận ra những nhu cầu và nỗi thống khổ nơi anh chị em xung quanh. Bằng một lối hành văn rất đơn sơ cụ thể, Thánh Giacôbê, trong bài đọc II, đã giáo huấn chúng ta bằng những ví dụ cụ thể, cho thấy ở đời này, chúng ta có khuynh hướng trọng người giàu, khinh người nghèo. Một người giàu có thì được đón tiếp trọng vọng, trong khi một người nghèo khó thì được đón tiếp miễn cưỡng và hững hờ. Hậu quả của quan niệm đầy thành kiến đó là một thứ bác ái bằng môi miệng. Theo thánh Giacôbê, điều nguy hại là thái độ phân biệt này tồn tại ngay trong các buổi hội họp của cộng đoàn hoặc trong các cử hành phụng vụ. Thánh nhân mời gọi chúng ta hãy nhận ra nơi những anh chị em nghèo sự phong phú giàu có của Đức tin. Lý do để sống bình đẳng còn dựa trên ơn gọi chung của mọi tín hữu, đó là ơn gọi thừa hưởng vương quốc vĩnh cửu mà Chúa đã hứa ban cho những ai yêu mến Người. Như vậy, giữa cuộc sống còn nhiều thiếu thốn và khổ cực, tình liên đới của người Kitô hữu với anh chị em mình sẽ góp phần diễn tả lòng thương xót của Chúa, góp phần loan báo Tin Mừng của Người.

Cuộc sống này bao la và vô cùng phong phú. Có những điều chúng ta không thể cảm nhận bằng con mắt giác quan, nhưng còn bằng lý trí, bằng con tim và nhất là bằng Đức tin. Xin cho chúng ta có con mắt tâm hồn sáng suốt. Con mắt tâm hồn trong sáng sẽ giúp chúng ta nhận ra đâu là con đường chính trực; đôi chân nhiệt thành sẽ giúp chúng ta ra khỏi vỏ bọc ích kỷ của mình để đến với tha nhân; đôi tai tinh thông sẽ giúp ta lắng nghe và thực hành Lời Chúa; môi miệng chân thành sẽ giúp ta nói những lời thân thiện. Xin Chúa mở miệng chúng ta để chúng ta biết ca ngợi Chúa và dùng lời nói nối kết tình hiệp thông. Như thế, chúng ta đã thực sự được Thiên Chúa giải phóng và trở nên con người tự do, sự tự do của những ai tin tưởng phó thác nơi Ngài.

Chúng ta hãy tâm niệm lời dạy của Đức Thánh Cha Phanxicô: “Không bao giờ được chán nản, đừng mất niềm tin, đừng bao giờ để cho niềm hy vọng của các con bị dập tắt. Thực trạng có thể thay đổi, con người có thể thay đổi. Các con hãy tìm cách là những người đầu tiên mang lại điều tốt lành, đừng học thói quen làm điều ác, nhưng đánh bại nó bằng điều tốt lành.”

Về mục lục

HÃY MỞ RA

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Bệnh nhân được Chúa Giêsu chữa lành có lẽ bị điếc ngay từ nhỏ. Vì điếc, không thể nghe người khác nói để bắt chước, nên dần dần bị ngọng. Vì ngọng nên nói chẳng ai hiểu, và vì điếc nên cũng chẳng hiểu ai. Đây là hai khiếm khuyết song đôi: điếc và ngọng, khiến cho bệnh nhân rất cô đơn, buồn khổ. Biết được nỗi đau của những người câm điếc ta mới thấy quý đôi tai và miệng lưỡi của mình, là một quà tặng lớn lao mà Thiên Chúa đã ban cho mỗi người chúng ta.

Thật phúc cho anh chàng khuyết tật gặp được Đức Giêsu, Ngài kéo riêng anh ra ngoài, sau vài cử chỉ lạ thường, Ngài liền phán: “Epphatha!” – Hãy mở ra! Tức thì tai và lưỡi anh ta được mở ra, anh ta nghe và nói được rõ ràng. Dân chúng kinh ngạc và thán phục nói rằng:“Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”. Biến cố này đã ứng nghiệm lời Ngôn Sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sõi sàng” (Is 35,3-7).

Về mặt tâm linh, chúng ta cũng dễ mắc phải hai khuyết tật ngọng và điếc, không phải do bẩm sinh nhưng do sự xói mòn đức tin và lòng mến trong tâm hồn. Ta không bị câm, vẫn nói được, nhưng lại câm nín trước những bất công và bạo ngược. Nhiều khi ta cũng nói thao thao bất tuyệt, nhưng toàn những điều ta muốn nói chứ không phải điều người khác muốn nghe. Ta ước ao được người khác hiểu mình, nhưng lại không quan tâm tìm hiểu người khác. Ta thấy như có điều gì trói buộc mình, khiến ta ngần ngại, sợ sệt, tránh né… Cũng có khi ta bị ngọng hay câm vì đã có những thương tổn bởi sự châm chọc, khinh miệt, phủ nhận… khiến ta mặc cảm, mất tự tin và co cụm lại. Ngoài những thương tâm do sự vô tâm trong cách hành xử của người khác, thì ít nhiều còn do sự cọ xát quan điểm, lối sống, nhưng thực ra, hệ lụy của vấn đề hệ tại ở tâm hồn ta trước mọi tác động của tha nhân.

Nếu bệnh ngọng làm người khác không hiểu ta, thì bệnh điếc làm ta không hiểu người khác. Chúng ta bị điếc khi để mình mất khả năng lắng nghe người khác, hay chỉ nghe điều mình muốn nghe. Chúng ta bị điếc khi nghe người khác với thái độ bất ưng, coi thường, ác cảm. Chúng ta bị điếc khi lắng nghe mà không nhận thức được đúng-sai, hư-thực, hay-dở… nên điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở nơi người nghe phải suy nghĩ và quyết định ra sao. Nắm được tâm lý của con người nên hãng bảo hiểm Prudential mới chọn khẩu hiệu : “Luôn luôn lắng nghe, luôn luôn thấu hiểu”.

Chỉ nghe bằng tai thôi thì không đủ, mà phải lắng nghe với cả trái tim. Chỉ có trái tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu đầy đủ, hiểu chính xác những thông điệp mà người nói muốn truyền đạt. Hơn nữa, không phải thông tin nào cũng nên nghe, mà chỉ chọn chọn lựa những thông tin bổ ích và hữu dụng; không gây phương hại trong đối nhân xử thế, mà cũng không làm vẫn đục tâm hồn. Cha Mark Link nói: “Chúng ta không thể luôn tin vào những gì nghe bằng đôi tai, nhưng luôn có thể tin vào những gì thấy bằng con tim của mình”.

Có những đam mê, dục vọng và ghen ghét như những sợi dây trói buộc lưỡi ta, làm ta bị câm nín, ngọng nghịu. Có những kiêu căng, ích kỷ và thành kiến như bức tường ngăn chặn làm tai ta điếc lác. Thế giới ngày càng thiếu cảm thông và đối thoại vì có nhiều người bị câm điếc về mặt tinh thần. Bệnh này làm người ta thành những con người đơn độc, thành những hòn đảo mù khơi, không còn khả năng cho đi và lãnh nhận, để rồi tàn lụi dần trong sự hoang vu trống rỗng của đời mình.

Qua phép lạ này, Đức Giêsu không chỉ phá đổ bức tường câm điếc cho người bệnh, đem lại cho anh ta một đời sống bình thường, và có khả năng thiết lập tương giao với mọi người, mà còn cho ta thấy Ngài đã phá đổ bước tường giữa Do Thái và dân ngoại, giữa con người với con người, và đặc biệt là bức tường giữa con người với Thiên Chúa.

Hôm nay, Đức Giêsu cũng muốn kéo riêng ta ra với Ngài và thì thầm lên tiếng: “Epphatha” – Hãy mở ra! Hãy đón nhận lời quyền năng và và tình thương của Ngài, để ta đừng câm điếc trước Thiên Chúa và tha nhân. Đón nhận ân huệ này, Chúa mời gọi ta cũng hãy có những thái độ sống tốt nhất để giúp người khác ra khỏi sự câm điếc của họ.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Điếc và ngọng thể chất ai cũng biết,
điếc và ngọng tâm linh khó mà lường,
đây là bệnh ít nhiều ai cũng vướng,
khiến cuộc đời có những nỗi bi thương.

Trong cuộc sống có thể nhiều thứ điếc,
điếc vì đã có định kiến với ai,
nên khi nghe là tìm cách chê bai,
khiến tương giao lại trở thành ngang trái.

Điếc vì không muốn sống hiệp thông,
vì tự mình đã đóng kín cửa lòng,
hoặc đã đánh mất niềm hy vọng,
không nghe được tiếng Chúa bên trong.

Cuộc sống cũng có nhiều thứ ngọng,
vì ích kỷ đã làm cho cứng đọng,
vì tham lam và cố chấp tự kiêu,
nên lời lẽ nói ra không ai hiểu.

Ngọng vì luôn lo âu và sợ sệt,
sợ khinh chê và thua thiệt ở đời,
sợ xui rủi và tai ương đưa tới,
nên co ro mà nói chẳng nên lời.

Có thứ ngọng phát xuất từ lười biếng,
lo an thân tránh mọi chuyện thế trần,
không còn ý thức sống lòng nhân,
làm cho tinh thần mình xa lạc.

Xin mở tai con để lắng nghe Lời Chúa,
lời trần tình lời sự sống trường sinh,
xin mở miệng con để chúc tụng tôn vinh,
vì đời con là công trình của Chúa.

Xin cho con dám lắng nghe hết mọi điều,
cho dù tha nhân nói bằng nhiều kiểu,
con vẫn nói bằng ngôn ngữ của tình yêu. Amen.

Về mục lục

MỞ TRÍ MỞ LÒNG

Lm. Jos DĐH.

Bức tranh, bức tượng, dù có sinh đẹp tới đâu cũng chẳng ai gọi là người, đó là sự thật. Người anh chị em chúng ta diện mạo không dễ nhìn, rầu rĩ buồn nhiều hơn là vui, phát âm không rõ ràng, cũng chẳng ai nói đó là bức tượng. Giá trị bức tranh đẹp hay sự sống động của bức tượng hết sức chuẩn, cũng chỉ là tác phẩm “vô hồn”. Nói khác đi, dù bạn là danh hoạ đại tài, là điêu khắc gia bậc nhất thiên hạ, cũng không thể cài đặt vào tác phẩm “độc nhất vô nhị” của mình thứ tình yêu biết nói biết cười. Ngôn ngữ, khối óc, con tim, là đặc ân ta đang có để diễn tả, để minh chứng, ta là “tác phẩm” đặc biệt hơn muôn loại muôn vật. Chúng ta chỉ thực sự đặc biệt, khi đã được mở trí lòng, nhận lãnh, chia sẻ, sống đúng sống đẹp trước các tương quan gia đình, xã hội.

Cũng nên đặt vấn đề, tại sao lại có chuyện đưa kẻ câm điếc đến gặp Đức Giêsu, mà không phải là mang đến thầy thuốc chuyên nghiệp, hay một thầy tư tế nào khác ? Có phải gia đình người thân của anh chàng câm điếc nhận ra Đức Giêsu là vị Thầy quyền năng, hay chỉ là việc làm tự nhiên: có bệnh vái tứ phương ? Bậc khôn ngoan luôn nhắc con cháu rằng: hiểu mình, hiểu bạn, sau đó hãy mở kho tàng của mình ra cho đời. Số thân nhân hôm đó, chúng ta hôm nay, đã tự biết mình, tự hiểu bạn, đã nghe, đã thấm nhuần đạo lý yêu thương được bao nhiêu, hay ai bảo sao ta làm vậy: Đức Giêsu hình như là thầy thuốc giỏi ? Vâng, Đức Giêsu không từ chối đám đông đến cùng Ngài, không dập tắt hy vọng của những ai muốn được chữa trị vết thương thể xác, tâm hồn. Mở trí, mở lòng, mở đường, dẫn mọi người đến ơn cứu độ sẽ mãi mãi là sứ mạng Đức Giêsu, Ngài sẽ thực hiện cho nhân loại qua các thời đại.

“Hãy mở ra”, chính là mệnh lệnh Đức Giêsu quyền năng nói với kẻ câm điếc hôm xưa, còn hôm nay thì sao ? Hiện tại ta có câm điếc, có khổ đau bệnh tật, có nhu cầu cần được cứu chữa không, tất nhiên hàng ngày chúng ta vẫn kêu cầu Đức Giêsu, Đấng là Thầy là Thiên Chúa cứu độ. Qua hình ảnh người mù xem thấy, và số đông nhân loại lòng đầy thán phục Đức Giêsu, đang khích lệ chúng ta: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”. Phải mở lòng, mở trí, người ta mới nghe được, nói được, làm được, đó là điều cần thiết cho bản thân, gia đình xã hội. Thực ra, Đức Giêsu dư biết thao thức của kẻ điếc là nghe được, ước muốn của người câm là nói được. Tình yêu của Đức Giêsu còn biết đến người nghèo đói, người đau khổ, cần được giải thoát, ai cũng mơ ước được mở lòng, mở trí, do đó, mỗi người đều phải nỗ lực, bày tỏ niềm tin của mình.

Cha ông chúng ta hết sức chí lý, khi để lại những kinh nghiệm thật quý báu: kẻ bần cùng nhất trên đời này, không phải là người không có một đồng xu dính túi, nhưng là kẻ không có nổi một ước mơ đẹp. Bạn và tôi chẳng nghèo, chẳng câm điếc, nhưng không có nghĩa là không cần tình yêu thương, không cần được thông suốt, ít ra cũng có một mơ ước: sống tốt, sống đẹp, trước những điều kiện mình đang sở hữu. Đức Giêsu mở miệng, mở tai kẻ câm điếc, chắc không phải vì anh ta giầu, không phải vì anh ta là ân nhân, đúng hơn anh là người đau khổ, là đối tượng của Thiên Chúa yêu thương. Đức Giêsu sẽ còn tiếp tục mở tâm trí, mở cõi lòng, hay mở mắt tâm hồn từng người trong chúng ta, và đưa dẫn chúng ta đến tận cùng của hạnh phúc, vì đó là sứ mạng của Ngài.

Niềm vui của người câm điếc năm xưa là nghe được, nói được, nhưng hạnh phúc của anh ta sẽ không dừng lại ở đó, mà phải thực hành điều tốt nhất, gọi là sống đức yêu thương. Đức Giêsu chắc chắn sẽ không hỏi, hỡi người anh em, ai đã mở tai, mở miệng lưỡi cho anh ? Có chăng, Ngài sẽ nói, anh đã nghe được, nói được, anh hãy làm điều cần thiết, hầu có hạnh phúc thật, đang chờ anh ở phía trước. Đức Giêsu không hỏi, trí lòng anh chị em đã được mở khi nào, nhưng Ngài sẽ nói anh chị em có tin Ta vẫn đồng hành, mở cánh cửa tình yêu, rồi sẽ chờ để mở cửa nước trời cho anh chị em không ? Đúng như câu thành ngữ: chữ tín là chìa khoá của thành công, hành động bác ái phải là kết quả ta đã nhận lãnh.

Các chuyên gia có đưa ra một nhận định khá thú vị: hầu hết các loài hoa có mầu trắng đều rất thơm, hoa có mầu sắc rực rỡ thường không thơm. Những ai nơi cuộc sống, vượt thắng được khó khăn phức tạp, lại là người dễ thực thành đức yêu thương nhiều hơn cả. Tình yêu thương của Đức Giêsu không dừng lại việc mở miệng lưỡi, mở tai cho người câm điếc, Ngài sẽ còn mở rộng con tim khối óc của từng người qua các thời đại, khi chúng ta tin và bày tỏ niềm tin của mình. Tất cả mọi người sinh ra trên đời đều được yêu thương, do chúng ta không phải là con ro-bốt vô cảm, nên tình yêu thương phải lớn lên theo thời gian. Mỗi chúng ta không phải là bức tranh, không phải là bức tượng vô tri vô giác. Người hạnh phúc không phải là người có mọi thứ tốt đẹp nhất, mà là người biết lắng nghe, biết nói chính xác, và biết hành động yêu thương đúng với ơn ban của Đấng đã mở trí mở lòng cho bạn. Amen.

Về mục lục

ĐỪNG GIẢ ĐIẾC LÀM NGƠ

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Có câu chuyện vui kể rằng: Thưa bác sĩ, xin ông cứu chồng tôi ngay. Anh ấy bị điếc.

– Lâu chưa?

– Mới hôm nay thôi ạ.

– Sao bà biết đích xác thế?

– Hôm nay, khi tôi nói về tiền chợ, tiền điện, tiền nước, tiền ship hàng với xấp hóa đơn tiền, đáng lẽ mặt chồng tôi phải tái đi khiếp hãi, thế mà anh ấy vẫn tủm tỉm cười ngớ ngẩn trông tội tội là.Không nói gì, người như mất trí luôn rồi .. .

Ở đời, đôi khi có những người giỏi giả điếc để có thể trốn tránh giải quyết vấn đề, hay có thể là trốn tránh sự thật. Điều ấy ta có thể thấy trong những vùng phong tỏa, hay cách ly vì đại dịch rất nhiều lời kêu cứu vì đói, vì người thân đau bệnh, nhưng đầy tuyệt vọng. Họ kêu cầu giảm tiền điện, giảm tiền nước , giảm các loại cước phí phục vụ nhu cầu đời sống nhưng dường như cho tới nay nhưng tiếng kêu than ấy chưa thực sự đáp ứng được nguyện vọng của người nghèo khó, hay đang bị ảnh hưởng bởi dịch bệnh. Và chắc chắn, còn rất nhiều những tiếng kêu vô vọng của những người bất hạnh nhưng chỉ nhận được sự phớt lờ giả điếc của tha nhân.

Xem ra người điếc thì đáng tội nghiệp, còn người giả điếc thì đáng khinh. Cái điếc nào cũng cần chữa trị. Điếc thể lý cần chữa trị để họ có thể hiểu tha nhân và hòa nhập với cộng đồng. Điếc tâm hồn lại càng cần được chữa trị bóc trần lớp băng đá của ích kỷ để giúp tâm hồn họ biết cảm thông và chạnh lòng thương xót anh em. Đây là loại giả điếc làm ngơ để mặc kệ những lời kêu cứu của người khổ đau đang kêu cầu họ.

Bài tin mừng hôm nay nói về một người câm điếc từ thuở mới sinh. Cuộc đời câm điếc đã giới hạn mọi giao tế của anh. Anh không thể nghe người khác tâm sự, và anh cũng không thể thổ lộ hết nỗi lòng của mình cho tha nhân. Một con người sinh ra mà không thể hiểu và thông cảm với tha nhân là một đau khổ triền miên. Có lẽ anh đã sống trong đau khổ thầm lặng và cả những người thân của anh cũng khổ đau như anh.

Thế giới hôm nay vẫn còn đó những con người bị câm điếc do bẩm sinh, do môi trường tác động. Nhưng cái điếc đáng sợ vẫn là loại điếc tâm hồn biểu lộ ra cách sống giả điếc làm ngơ. Câm điếc tâm hồn khiến họ mất tương quan nghĩa thiết với Thiên Chúa và với tha nhân. Họ không còn nghe được tiếng Chúa và tiếng của tha nhân. Họ không nghe được sự thật và không nói được sự thật. Họ không nghe được tiếng nói của lương tri và không nói được tiếng nói của con tim. Họ là những người cần được khôi phục khả năng để hiểu, để cảm thông và để sống tình liên đới với Chúa và mọi người.

Chúng ta hãy dâng lên Chúa tất cả anh chị em đang gặp khó khăn về giao tiếp của thể lý hay tâm hồn. Xin Chúa hãy chữa lành cho tất cả mọi người. Xin Chúa Giê-su hôm nay, cũng nói với từng người: “Ephata”. Hãy mở ra.

Hãy mở tai ra để lắng nghe lời anh em. Hãy mở tai ra để lắng nghe lời Chúa. Hãy phá đi bức tường định kiến. Hãy phá đi bức tường ích kỷ. Hãy phá đi bức tường ích kỷ để chia sẻ giúp đỡ những anh em đang gặp hoạn nạn,bất hạnh vì đại dịch.

Hãy mở miệng lưỡi ra để đi đến với anh em và đi đến với Chúa.. Hãy cắt đứt sợi dây ích kỷ để ta quan tâm tới nhu cầu của anh em. Hãy cắt đứt sợi dây sợ sệt để ta mạnh dạn nói những lời sự thật. Hãy cắt đứt sợi dây lười biếng để ta nói lên những lời tốt đẹp, những lời ca ngợi tình thương của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy chữa bệnh điếc và bệnh ngọng trong tâm hồn con. Amen.

Về mục lục

ĐỨC KITÔ ĐẤNG THIÊN SAI

Lm. Phêrô Nguyễn văn Quang

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Đau yếu, bệnh tật, nghèo đói là nỗi khốn khổ của kiếp người. Nó gắn liền với đời người vốn là hữu hạn. Khi lâm bệnh, con người cảm nghiệm sự bất lực, giới hạn và sự hữu hạn của mình. Bệnh tật có thể làm cho con người xao xuyến, đôi khi đưa tới tuyệt vọng và hối thúc con người tìm kiếm Thiên Chúa và quay về với Ngài. Chính vì thế, sứ điệp phụng vụ Lời Chúa hôm nay chứng tỏ ơn cứu độ của Thiên Chúa được thể hiện nơi Đức Kitô – Đấng Thiên sai: “Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được”.

Thưa anh chị em, dân Israel xưa đã gặp phải nỗi khốn khổ khi bị lưu đày ở Babilon. Thế nhưng, Thiên Chúa không bỏ rơi dân tộc Ngài đã tuyển chọn. Chính Thiên Chúa sẽ giải thoát họ khỏi cảnh lưu đày và Đấng Thiên Sai sẽ đến để chữa lành mọi bệnh tật hồn xác cho như ngôn sứ Isaia loan báo: bấy giờ mắt người mù sẽ sáng lên, tai người điếc sẽ mở ra. Bấy giờ người què sẽ nhảy nhót như nai, người câm sẽ nói được và mọi người sẽ nhìn thấy ơn cứu độ của Thiên Chúa. Bởi, sự đui mù, câm điếc, què quặt … không chỉ là bệnh của thể xác nhưng còn mang ý nghĩa tâm hồn: mù vì không thấy những hành động cứu rỗi và uy quyền của Thiên Chúa; điếc vì không nghe Lời Chúa phán; què vì không đi trên đường Chúa vạch ra, không sống theo ý Chúa; câm vì không cất tiếng ca tụng, cảm tạ Thiên Chúa, nay Thiên Chúa sẽ cứu chữa họ. Đây là những dấu chỉ giải thoát của thời kỳ Đấng cứu độ, là lúc mà chính Thiên Chúa đến để cứu giúp con người. Tin Mừng hôm nay thuật lại việc Chúa Giêsu chữa lành một người câm và điếc, chứng tỏ Người là Con Thiên Chúa. Qua Người, chính Thiên Chúa đã đến cứu độ con người, bằng cách phục hồi khả năng tương giao của họ, để họ có thể nghe và hiểu Lời Chúa, nhờ đó mà được sống sung mãn. Đối với các thánh ký Tân ước, sự quan trọng của các phép lạ không ở chỗ chữa lành các bệnh thân xác, nhưng là ơn cứu rỗi, là chữa lành những bệnh tâm hồn và Chúa Giêsu làm phép lạ như dấu chỉ minh chứng Người là Đấng Cứu Thế. Người đến ở với con người, tiếp xúc với con người để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của bệnh tật, làm cho con người được hạnh phúc thực sự, được tham dự vào sự sống của Thiên Chúa. Tất cả những việc Người làm họ đầy lòng thán phục mà rằng: “Người làm mọi sự tốt đẹp, Người làm cho kẻ điếc nghe được và người câm nói được!”.

Có câu chuyện kể rằng, Napoleon Hill có đứa con trai Blair bị khuyết tật thiếu đôi tai. Chuẩn đoán về trường hợp này, các bác sĩ cho biết, đứa trẻ có thể bị câm điếc suốt đời. Nghe những điều đó, Napoleon như chết lặng, nhưng ông đang cố tìm mọi cách để Blair có thể học nghe và nói. Quả thật, niềm tin của ông đã giúp ông thực hiện được điều đó.

Kính thưa quý ông bà anh chị em,

Ơn cứu độ là sự gặp gỡ thực sự với Đấng Cứu Thế, đến để giải thoát con người khỏi những ràng buộc của tội lỗi, mà bệnh tật là dấu hiệu của nó. Con người cần phải gặp gỡ thực sự với Chúa Giêsu Con Thiên Chúa để đón nhận quyền năng cứu độ của Người. Người chính là Đấng Cứu Thế của chúng ta. Người có quyền năng cứu rỗi chúng ta không những bệnh tật phần xác nhưng cả tinh thần và linh hồn. Thánh Giacôbê cũng lên tiếng kêu gọi chúng ta không được đối xử thiên vị và có thành kiến với người nghèo, phải thương giúp người nghèo khổ bệnh tật hồn xác theo gương Đấng Cứu Thế.

Nguyện xin Chúa chữa đôi tai tâm hồn chúng ta để chúng ta lắng nghe Lời Chúa; chữa miệng lưỡi chúng ta để chúng ta chúc tụng và cao rao tình thương của Chúa. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng ta để chúng ta vững bước đi theo Chúa, nhất là trong những lúc khốn khổ, đau yếu. Amen.

Về mục lục

NGHE VÀ NÓI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Lưỡi và tai là hai cơ quan truyền thông của con người. Ai bị điếc và câm thì mất hai phương tiện quan trọng đó. Nghe và nói như hai cánh cửa mở ra thông giao với thế giới bên ngoài. Lưỡi như có sợi giây buộc lại, tai như cánh cửa bị khóa kín, những người câm điếc bị tách khỏi thế giới chung quanh vì không hiểu được người khác, và người khác không hiểu được họ.

Có dịp đến thăm Trung tâm Khiếm thính Lái Thiêu, Thuận An, Bình Dương hay Trung tâm Khiến thị Ánh Sáng tại Lagi, Bình Thuận, sẽ thấy câm điếc và mù loà thật là khổ sở !  Cảm thông với những người câm điếc, người mù loà, chúng ta mới thấy quý cái tai cái miệng và đôi mắt của mình. Lúc ấy mình sẽ nhận ra rằng, nghe nói và thấy là ân huệ và là quà tặng lớn lao Thiên Chúa ban.

Trang Tin mừng hôm nay kể câu chuyện Chúa Giêsu chữa lành một người vừa điếc vừa ngọng: “họ đem đến cho Người một kẻ vừa điếc vừa ngọng, và xin Người đặt tay trên anh”. Mọi lần Đức Giêsu chỉ đặt tay, hoặc nói một lời, thậm chí người ta chỉ cần sờ vào áo Người là xong. Lần này thì “Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông”, rồi làm nhiều động tác: đặt ngón tay vào lỗ tai, lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh ta, ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói “Epphata” nghĩa là “hãy mở ra”. Kết quả: “lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng”. Anh này được chữa cả cả tai và lưỡi một lượt. Tại sao Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông? Tại sao Người làm nhiều động tác hơn mọi khi?

Chúa Giêsu đem người điếc ra khỏi đám đông. Đây là sự quan tâm thật dịu dàng. Người điếc luôn ngượng nghịu lúng túng. Theo một vài phương diện thì điếc còn khó chịu hơn đui. Người điếc biết mình không nghe được, nên trong đám đông khi có người tức tối hét vào tai, cố nói cho nghe, người điếc càng cảm thấy thất vọng hơn. Chúa tỏ sự ân cần, trân trọng vì biết người điếc đang gặp khó khăn trong đời sống. Người chạm vào tai, vào lưỡi. Người ngước mắt lên trời để chứng tỏ rằng chỉ có Thiên Chúa mới giúp được cho loài người, “một cử chỉ cầu nguyện và khẩn nài quen thuộc cho thấy quyền năng của Đức Giêsu từ đâu mà có”, rên một tiếng như than thở với Thiên Chúa, “một lời mời gọi sức mạnh thần linh đến để chiến thắng quyền lực sự dữ” (chú giải của Fiches Dominicales), rồi phán một lời như lời tạo dựng. Lời nói và cử chỉ của Chúa Giêsu hiệu lực ngay tức thì: đôi tai của người câm mở ra, lưỡi của anh như được tháo cởi, anh bắt đầu nói rõ ràng.

Dân chúng ca tụng: “Ngài làm được mọi sự tốt đẹp. Ngài làm cho người điếc được nghe, người câm được nói”. Lời thán phục đó vang vọng lại lời Ngôn sứ Isaia: “Đấng Thiên Sai sắp đến cứu thoát anh em. Lúc đó mắt người mù sẽ mở ra, tai người điếc sẽ nghe được. Lúc đó, chân người què sẽ nhảy như nai và lưỡi người câm sẽ nói sỏi sàng” (Is 35,3-7). Dân chúng nhận ra Đấng Thiên Sai đã đến và Ngài đang thực hiện lời tiên tri Isaia trước mắt họ. Giữa đám đông chứng kiến phép lạ lại có những người giả điếc, giả câm trước Lời Chúa. Họ cố chấp không đón nhận sự thật. Đó là những người Pharisiêu: “Họ có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe!”. Họ đang điếc trước công lý, câm trước sự thật, mù trước phép lạ đang diễn ra. Vẫn có đó nhiều người như những Pharisiêu mọi thời mọi nơi, họ nghe rõ, nghe đúng, nhưng làm như không nghe, không biết. Biểu hiện nơi những người này là không dám nói, có nói thì nói không đúng hay nói kiểu nói ngọng. Bài đọc thứ nhất cho ta chìa khóa tìm ra nguyên nhân của căn bệnh này đó là sự sợ hãi, thiếu can đảm. Thiên Chúa truyền cho ngôn sứ Isaia: “Hãy nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ!”. Chúa Giêsu đã nhiều lần nhắn nhủ các môn đệ rằng: hãy can đảm lên, đừng sợ! Khi sống lại, Đấng Phục lặp đi lặp lại nhiều lần “đừng sợ” với các môn đệ. Sợ khổ, sợ bị thua thiệt, sợ bị bách hại…là những cái sợ khiến nhiều người hành xử như chẳng thấy, chẳng nghe và họ đã không dám mở miệng. Họ cần được mở tai, mở mắt, mở miệng lưỡi để đón nhận Lời Chúa, để tin vào Ngài.

Tất cả mọi thứ khuyết tật đều có thể xảy ra nơi thân xác con người. Có những người dị tật, người mù, kẻ đui, người điếc, kẻ thiếu tay, người thiếu chân, tứ chi bất thường, đa số khi sinh ra họ đã mang thân phận như thế. Hầu như những khiếm khuyết tự bẩm sinh rất khó có thể chữa lành. Khoa học kỹ thuật có thể can thiệp để chữa lành một phần qua các cuộc giải phẫu. Cách tốt nhất mà khoa học có thể giúp là sáng chế những dụng cụ thích hợp để những người bị dị tật hay khiếm khuyết có thể tự xử dụng để bước vào đời.

Câm và điếc là tật nguyền của lưỡi và tai. Lưỡi không thể nói và tai không thể nghe. Không nói được và không nghe được khiến cho người câm điếc không hiểu được thế giới chung quanh họ, và thế giới chung quanh cũng bị ngăn cách với người câm điếc. Đó là câm điếc thể lý.

Trong nhân gian, còn có nhiều bệnh câm điếc khác. Câm điếc vì khác biệt ngôn ngữ và văn hóa. Câm điếc vì hiểu lầm, vì định kiến.Câm điếc vì bịt tai không muốn nghe và ngậm môi vì giận dữ. Câm điếc trước sự thật, giả câm giả điếc không dám làm chứng cho chân lý. Câm điếc khi không nghe được những nỗi niềm ray rứt của người khác. Câm điếc khi dửng dưng trước những đau khổ của những người bệnh hoạn, tật nguyền, của trẻ thơ bơ vơ.Nhưng còn có một loại câm điếc khác to lớn hơn, nguy hiểm hơn, đó là câm điếc tâm linh. Khi bị câm điếc tâm linh, ta không nghe được Lời Chúa nói với ta trong tâm hồn, hay dạy dỗ ta qua Tin Mừng. Không dám mở miệng để ngợi khen Chúa và làm chứng cho Ngài. Đó là lúc ta bỏ ngoài tai lời của Chúa nói với ta về sự thật, về chân lý, về yêu thương và hòa giải. Khi bị câm điếc tâm linh, ta ngoan cố ở lỳ trong tội lỗi, ta cố tình ở lỳ trong cái chết của tâm hồn, không thèm nghe lời mời gọi hối cải thúc dục của Chúa Thánh Thần. Nếu câm điếc thể lý đáng buồn và đáng sợ, thì câm điếc tâm linh còn đáng buồn và đáng sợ gấp bội. Câm điếc tâm linh làm ta lìa xa Chúa, đánh mất Ơn Thánh Sủng, dẫn đưa ta đến cái chết đời đời. (từ R. Veritas)

Nhiều người không câm điếc về thể lý nhưng lại câm điếc tinh thần, câm điếc tâm linh. Có người giả điếc giả câm để khỏi nghe lời giáo huấn của cha mẹ hay đấng bậc bề trên, để khỏi phải thực thi điều hay lẽ phải, thậm chí còn giả mù để khỏi thấy những nhọc nhằn của tha nhân, hay tội lỗi của chính mình.

Người ta bị câm điếc tinh thần khi tự đánh mất khả năng lắng nghe những người xung quanh mình, không còn lắng nghe tiếng nói của lương tâm để làm lành lánh dữ.Người ta bị câm điếc tinh thần khi đóng lòng mình lại, không còn nghe nỗi đau của những người khốn khổ. Người ta bị câm điếc khi đánh giá người khác theo tiêu chuẩn bên ngoài, vật chất, trọng người giàu mà coi thường người nghèo như được nói ở bài đọc II. Đó là một thứ câm điếc tinh thần mà Chúa đã cảnh báo: “Các anh có mắt mà như mù, có tai mà như điếc“.

Người ta bị câm điếc tâm linh khi không nghe tiếng Chúa để nói những lời sự thật, lời yêu thương, lời hòa giải. Nhiều lúc người ta chỉ nói những lời độc hại, gây chia rẽ và đau khổ cho nhau. Người đời thường hay đổ thừa mọi điều là do “cái lưỡi không xương nhiều đường lắt léo”. Nhưng cái lưỡi chỉ có thể làm nên những chuyện xấu xa nếu nó được hỗ trợ của cái tai không biết phân biệt tốt xấu, thật giả.

Người bình thường luôn có đôi tai thính, cái miệng đẹp. Cần phải nói và nghe bằng con tim. Mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa, lời anh em, đừng “nghe tai này lọt qua tai khác”, đừng nghe “như nước đổ lá khoai”. Mở miệng lưỡi ra để nói Lời Chúa, lời yêu thương đem lại niềm vui hạnh phúc. Mở trái tim để lắng nghe những nỗi niềm và đau khổ của những người xung quanh. Mở tai ra để lắng nghe Lời Chúa và lời anh em, mở rộng tâm hồn ra để đón nhận Chúa và đón nhận anh em. Mở miệng ra để nói lên sự thật, nói những lời xây dựng thay vì phá đổ, lời tha thứ thay vì oán thù, lời yêu thương thay vì ghen ghét, lời hòa giải thay vì phân ly. Có như vậy, chúng ta sẽ trở thành những người có khả năng đối thoại thân tình với Chúa và với anh em.

Khi phục hồi người câm điếc trong khả năng nghe và nói, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, con người không chỉ sống bằng cơm bánh, mà còn bằng Lời Chúa nữa; con người chỉ có thể sống thực, sống trọn phẩm giá con người, khi biết mở rộng tâm hồn đón nhận và sống Lời Hằng Sống của Chúa. Hãy “cởi mở đón nhận Lời và Hành động của Đấng Cứu Thế”, và “đừng sợ hãi khi phải ‘công bố’ chúng với thế giới”. (x. J. Hervieux, Tin Mừng Máccô, Centurion, tr.107).

Lạy Chúa Giêsu, mỗi khi tham dự thánh lễ, con đều thực hiện một cử chỉ thật quen thuộc, đó là sau khi nghe bài Phúc Âm, con đọc: “Lạy Chúa vinh danh Chúa”, và làm dấu thánh giá trên trán, trên môi, trên ngực, xin Chúa cho con biết mở trí, mở lòng, mở trái tim với niềm tin yêu. Xin Chúa mở trí khôn con, mở miệng lưỡi con, mở trái tim con, để con được hiểu, cảm nhận và nói lời của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã cho người điếc nghe được và người câm nói được, xin cho con biết mở tai để lắng nghe lời Chúa và mở miệng để loan truyền Tin Mừng. Xin cho con luôn nói những lời yêu thương, cam đảm nói lời sự thật, chân thành nói lời xây dựng, xin cho con biết quan tâm nhiều hơn để lắng nghe để thấu hiểu và cộng tác với mọi người sống tinh thần Phúc Âm.Amen.

Về mục lục

CON NGƯỜI HÔM NAY ĐANG RẤT CẦN CHÚA

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Đặt mình vào hoàn cảnh của dân Israel và của chính người câm điếc trong Tin Mừng Marcô hôm nay, chúng ta sẽ cảm nghiệm được niềm vui có Chúa. Có Chúa mọi sự sẽ trở nên tốt lành, người bệnh được chữa lành.

Lâm cảnh cùng quẫn

Israel được Chúa chọn là dân riêng, vì thế mà được Chúa yêu thương, chăm sóc giữ gìn như con người mắt Chúa. Vậy mà họ đã phản bội lại tình yêu ấy, đi thờ ngẫu tượng, sống bê tha, luân lý suy đồi. Lời Chúa qua các ngôn sứ nhắc nhở đều vô ích, nên lưu đày là ‘liều thuốc mạnh’ Chúa phải dùng để sửa trị dân. Họ phải chịu cảnh cùng cực cả về thể xác lẫn tinh thần. Họ phải đi bộ cả ngàn cây số, cuộc sống sống thiếu thốn, đức tin bị thử thách, khiến họ đặt ra những câu hỏi: Có Thiên Chúa hay không? Nếu có thì tại sao Ngài lại để đất nước, thành thánh Giêrusalem và Đền thờ bị phá hủy? Hay là Thiên Chúa yếu hơn thần Marduk? Thiên Chúa có còn nhớ lời hứa nữa hay không?

Khi lâm cảnh cùng cực họ mới nhận ra cái giá phải trả do tội lỗi gây ra. Tội xúc phạm đến Thiên Chúa đã đẩy họ ra khỏi vòng tay yêu thương, hạnh phúc tiêu tan, họ lâm vào cảnh nước mất nhà tan, lối tận đường cùng trong cảnh lưu đày.

Sống hy vọng vào Chúa

Nhà cửa và thành trì của họ bị tàn phá. Đền thờ bị phá đổ tan hoang. Họ bị cướp bóc và đuổi ra khỏi nhà. Họ phải sống trong thân phận tù đày nơi đất kẻ thù. Thời huy hoàng không còn nữa. Họ phải sống cảnh lưu đày, tương lai mù mịt. Không ai có sức cứu họ thoát khỏi cảnh khổ cực này. Và giả như họ có thoát được cảnh lưu đày, thì làm sao có thể vượt qua được sa mạc khô cằn để về nước, mà có thoát chạy về nước thì ở đó cũng chẳng còn gì.

Trong lúc dân Israel đang bị giam cầm, khó lòng thoát khỏi quân Babylon đánh thì Isai tuyên sấm: “Can đảm lên, đừng sợ! Này đây Thiên Chúa các người đến để phục thù. Chính Người sẽ đến và cứu thoát các người” (Is 35, 4). Những lời trên mới đẹp làm sao, vì nó chứa đầy tình thương của Thiên Chúa đối với dân đang lâm cảnh nước mất nhà tan, chẳng thể nhìn, nghe không được và lê bước cũng không xong. Tin vui Chúa đến làm cho người mù nhìn thấy được, người điếc sẽ nghe được, người què nhảy nhót như nai, người câm nói được (x. Is 35, 4-7). Những lời trên thắp sáng niềm tin và hy vọng cho dân Chúa.

Effatà – Hãy mở ra” (Mc 7, 34). Chúa Giêsu là hiện thân của Thiên Chúa Cha, đến để hoàn tất lời hứa. Lời Chúa Giêsu hô to sau hơi thở dài trước mặt người câm điếc, với bàn tay đưa ra đụng vào tai và lưỡi anh ấy, “tức thì tai anh ta mở ra, và lưỡi anh ta được tháo gỡ, và anh nói được rõ ràng” (Mc 7, 37).

Từ việc chữa lành người câm điếc “mở ra” cho cho thế giới chúng ta một sự khởi đầu với các quan năng nghe Lời Chúa và cất lời ca tụng những điều kỳ diệu của Chúa. Chúa đã làm người để con người bị câm điếc bên trong do tội lỗi có khả năng nghe tiếng Chúa, tiếng của tình yêu nói với con tim, và dạy con người học nói thứ ngôn ngữ của tình yêu, và thông truyền cho nhau những công trình tốt đẹp Chúa đã làm.

Thế giới đang cần Chúa chữa

Ngày nay nhiều người mất khả năng nghe lời Chúa và tiếng nói của đồng loại. Có người mất khả năng nói ngôn ngữ của tình yêu, hòa bình và xây dựng với chính mình cũng như tha nhân. Có người mù không nhìn thấy những điều kỳ diệu của Đấng Sáng Tạo mà ca tụng Chúa, cũng như không thấy được sự tốt đẹp nơi tha nhân.

Isaia loan báo, sẽ đến ngày Thiên Chúa đến đem lại niềm vui khi mở mắt người mù, mở tai người điếc, cho người què đi được và người câm nói được. Tin Mừng cho thấy, Chúa Giêsu đã thực hiện lời Isaia tiên báo năm xưa là chữa lành cho người câm điếc để anh nghe và nói được. Hành động Chúa kéo anh ta ra khỏi đám đông hỗn độn gồm cả dân ngoại lẫn dân Do Thái để anh thuộc về Chúa chứ không còn thuộc về loài người nữa. Chúa Giêsu đặt tay vào tai anh và bôi nước miếng vào lưỡi anh chứng tỏ Chúa không chỉ đụng chạm đến tai, đến miệng của anh, mà Chúa còn chạm đến trọn con người, gồm trái tim và tâm hồn anh nữa. Chúa Giêsu không chỉ chữa anh khỏi câm, ngọng, Chúa còn mở tai, mở mắt tâm hồn để anh có thể nhận ra Người là Thiên Chúa quyền năng và lắng nghe Lời của Chúa.

Ngày nay, có quá nhiều tiếng ồn bên ngoài và cả bên trong ta, như âm thanh của tiền bạc, danh vọng và các thú vui, làm giảm khả năng nghe, nhìn và nói về Thiên Chúa, lời Chúa không thấm vào tâm hồn chúng ta được. Nhiều người mất khả năng lắng nghe nhau bởi họ không muốn nghe người khác hay họ nói nhiều hơn nghe. Nguy hiểm hơn là tình trạng câm điếc trong tâm hồn đang xảy ra nơi chúng ta, khiến ta không nhận ra sự hiện diện của Thiên Chúa, không nhìn thấy những việc tốt đẹp Chúa làm trong đời ta. Có người điếc vì làm ngơ trước lời kêu cứu của anh chị em đang gặp khổ đau. Có người câm vì sợ hãi không dám nói lên sự thật và không dám bênh vực sự thật. Có nhiều người vì quyền lợi, địa vị hoặc vì một thứ bổng lộc nào đó của xã hội, mà chấp nhận biến mình thành kẻ câm, điếc hoặc mù lòa.

Lạy Chúa, xin đến chạm vào tai, môi miệng và mắt con, để con nghe được tiếng Chúa, thấy được tha nhân và ca tụng Chúa đến muôn thủa muôn đời. Amen.

Về mục lục

CHÌA KHÓA TÂM LINH

Trầm Thiên Thu

Khẩu hiệu của trường nữ sinh Công giáo SJB (St. Jean Baptiste High School – Trường Trung Học Thánh Gioan Tẩy Giả), GP New York, thật tuyệt vời: “Parare Domino plebem perfectam – Chuẩn bị cho Thiên Chúa một dân tộc hoàn hảo.” Đó là loại chìa khóa chuyên biệt để “mở” tương lai. Ước gì nền giáo dục của Việt Nam cũng biết “mở ra” hướng tốt lành như vậy!

Trong thời gian nguy kịch vì dịch cúm Tàu hiện nay tại Việt Nam nói chung, cách riêng theo thứ tự là Saigon, Bình Dương và Đồng Nai, lời nhắc nhở của Thánh Marguerite Marie Alacoque (1647-1690, người được Chúa Giêsu mặc khải Thánh Tâm) thực sự cần thiết để mỗi chúng ta cố gắng tích cực hơn: “Một linh hồn công chính có thể xin được ơn tha thứ cho cả ngàn tội nhân.” Đó là điều đẹp lòng Chúa và sẽ được Ngài tha thứ như Ngài đã thay đổi số phận của dân thành Ninivê xưa.

Cái gì bị khóa thì phải được mở. Nhiều dục vọng sinh ra tai họa, thế là “bị khóa.” Con người quá bận rộn nên đánh mất trái tim và hủy diệt tấm lòng. Đó là một cách Thiên Chúa cảnh báo con người, phải dừng lại để được mở ra. Đại dịch hiện nay cho thấy tình trạng sống của con người đang bị khóa chặt, cần phải hồi tâm để được Thiên Chúa mở khóa.

Đơn giản và dễ hiểu: Mở ra ngược với đóng vào, khép lại. Chỉ những gì bị đóng mới cần được mở. “Vừng ơi, mở ra!” là câu thần chú đã được Kasim sử dụng để mở cửa hang trong truyện “Nghìn Lẻ Một Đêm” – truyện cổ dân gian của Ai Cập và Ba Tư, nói về Ali Baba và bốn mươi tên cướp. Kasim là anh của Ali Baba, giàu có và tham lam, nhưng không mở được cửa hang nếu niệm các câu thần chú khác. Ổ khóa nào thì phải dùng chìa khóa đó.

Có nhiều dạng khóa và cần được mở: Mắt mù, miệng câm, tai điếc,… Thậm chí đôi khi tim cũng cần được mở – chẳng hạn, mở van tim vì bị hẹp. Các cơ phận rất cần mở để cơ thể hoạt động bình thường, đúng chức năng. Tuy nhiên, tâm linh còn cần được mở hơn: Mở ra với Thiên Chúa, với tha nhân, với đức tin, với đức khôn ngoan, với việc thiện, với đức ái, với lòng thương xót,…

Thật thú vị với nhận xét của đại nhân Khổng Tử: “Đạo làm quân tử có bốn điều đúng: Mạnh dạn khi làm điều nghĩa, nhũn nhặn khi nghe lời can gián, lo nghĩ khi nhận bổng lộc, và cẩn thận đối với việc sửa mình; đời có bốn cái lo: Lo đức ít mà được sủng ái nhiều, lo công lập được ít mà được hưởng nhiều bổng lộc.” Câu nói này thực sự khiến chúng ta phải quan ngại, bởi vì đôi khi mình đang “bị khóa” mà cứ tưởng đang “mở rộng.”

Qua trình thuật Is 35:4-7a, ngôn sứ Isaia cho biết: Sau khi xử tội Êđôm và Giêrusalem toàn thắng, Thiên Chúa sai ngôn sứ Isaia nói với những kẻ nhát gan: “Can đảm lên, đừng sợ! Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em.” Thiên Chúa ra tay cứu thoát những bần dân khốn khổ vì họ bị thế lực trần gian đàn áp, ức hiếp.

Thiên Chúa mở khóa cho họ: Mắt người mù được thấy, tai người điếc được nghe, người què nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm reo hò. Mọi sự hoàn toàn khác hẳn, thế cờ đảo ngược: Kẻ yếu nên mạnh, chuyển bại thành thắng. Con người biến đổi, thiên nhiên cũng nên khác: Nước vọt lên trong sa mạc, khe suối tuôn ra giữa vùng đất hoang vu, miền nóng bỏng biến thành ao hồ, đất khô cằn có mạch nước trào ra. Mọi thứ đều được chính Thiên Chúa “mở ra” một cách kỳ diệu.

Là con người yếu đuối, ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về tình trạng bị ma quỷ “khóa chặt” khi phạm tội – tức là bị nó xiềng xích, và rồi lại có kinh nghiệm được Thiên Chúa mở ra khi thành tâm sám hối, không chỉ vài lần mà rất nhiều lần. Vì thế, chúng ta phải luôn tự nhủ: “Ca tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi!” (Tv 146:2) Dù cho hoàn cảnh có thế nào thì Thiên Chúa vẫn mãi là nơi ẩn náu và sức mạnh của các tín hữu: “Muôn dân náo động, muôn nước chuyển lay, tiếng Người vang lên là trái đất rã rời. Chính Chúa Tể càn khôn ở cùng ta luôn mãi, Thiên Chúa nhà Giacóp là thành bảo vệ ta.” (Tv 146:7-8)

Chỉ là hòn đá vô tri vô giác mà Thiên Chúa còn làm cho trở nên con cái của Tổ phụ Ápraham thì mọi thứ khác chỉ là “chuyện nhỏ” đối với Ngài. Vô tri bất mộ. Càng trải nghiệm về Ngài thì người ta càng được mở ra, can đảm công khai mời gọi người khác: “Đến mà xem công trình của Chúa, Đấng gieo kinh hãi trên mặt địa cầu. Người chấm dứt chiến tranh trên toàn cõi thế, cung tên bẻ gẫy, gươm giáo đập tan, còn khiên thuẫn thì quăng vào lửa.” (Tv 146:9-10) Quân IS dù có tàn ác và đe dọa dân lành thì cũng chẳng đáng gì, Thiên Chúa chưa ra tay vì Ngài kiên nhẫn chờ họ hoán cải để được hưởng tình thương xót.

Không chỉ là lời khuyên mà còn là mệnh lệnh khi Thánh Giacôbê dạy chúng ta “phải kính trọng người nghèo.” Cái nghèo ở đây không chỉ nghèo về vật chất mà cả về tâm linh nữa. Người nghèo khổ là đối tượng của Lòng Chúa Thương Xót, Ngài luôn chạnh lòng trắc ẩn và ra tay cứu giúp họ bất cứ lúc nào.

Thánh Giacôbê lịch sự nhắn nhủ: “Thưa anh em, anh em đã tin vào Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, là Chúa vinh quang, thì đừng đối xử thiên tư.” (Gc 2:1) Rồi Thánh Giacôbê đặt vấn đề: “Giả như có một người bước vào nơi anh em hội họp, tay đeo nhẫn vàng, áo quần lộng lẫy, đồng thời có một người nghèo khó, ăn mặc tồi tàn, cũng bước vào, mà anh em kính cẩn nhìn người ăn mặc lộng lẫy và nói: ‘Xin mời ông ngồi vào chỗ danh dự này,’ còn với người nghèo, anh em lại nói: ‘Đứng đó!’ hoặc ‘Ngồi dưới bệ chân tôi đây!’ thì anh em đã chẳng tỏ ra KỲ THỊ và trở thành những THẨM PHÁN ĐẦY TÀ TÂM đó sao?” (Gc 2:2-4) Chắc hẳn lời thật như vậy đang “chạm” vào tự ái của mỗi chúng ta. Cái mà người ta vẫn gọi là bình đẳng thì có thể lại không hề bình đẳng, chẳng hạn trong hệ lụy giàu – nghèo.

Thực tế đời thường cho chúng ta thấy cách cư xử đối lập với Thiên Chúa, không chỉ ở giáo dân, mà cả nơi người mệnh danh là mục tử. Sự thật chứ không hư cấu, không bịa đặt. Họ chỉ thích “chiên béo” và thân thiết với các giáo dân có “máu mặt” hoặc khá giả mà thôi.

Được biết rằng linh mục H. (xứ B., hạt T., Gp X.) nhận một phong bì tiền xin lễ từ một người trong ban hành giáo, linh mục này liền xé phong bì, và nói với giọng gắt gỏng: “Xin lễ có một trăm ngàn sao? Từ nay ông đừng nhận phong bì xin lễ của ai nữa nhé!” Linh mục này thường xuyên “gần gũi” với những người có máu mặt trong xứ. Thật đáng buồn biết bao! Rồi giáo dân sẽ là những con chiên như thế nào khi họ cứ phải chứng kiến các động thái như vậy? Một linh mục trẻ khác (chưa được ba năm), hằng tháng gởi tiền vào ngân hàng, người ta nói là “sướng quá,” linh mục này nói một câu xanh rờn: “Vì tôi là linh mục mà!” Một câu nói xem chừng rất ư bình thường nhưng lại chứa đầy vẻ cao ngạo. Đáng trách hay đáng thương với “máu” Biệt Phái như vậy?

Quả thật, cứ cái “thói” phân biệt đối xử và kỳ thị như họ thì người nghèo không bao giờ được vào Thiên Đàng, bởi vì họ “mở toang” với người giàu có, sang trọng, chức quyền,… nhưng lại “khép chặt” với người hèn mọn, yếu đuối, nghèo khổ,… Nhưng may thay, bởi vì Thiên Chúa hoàn toàn đối lập với họ, Ngài phê bình nặng nề và rõ ràng, luôn nói thẳng nói thật chứ “không vị nể ai.” (1 Pr 1:17) Kẻ nào lộng hành, ỷ thế cậy quyền, mạo nhận mình hơn người khác, chắc chắn Thiên Chúa sẽ “khóa” đối với họ. Ngài không thể “mở” với những kẻ đối lập với Ngài.

Trong xã hội Việt Nam, chúng ta thường nghe nói: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi.” Không sai chút nào! Có lẽ ngày xưa Thánh Giacôbê cũng thấy trái tai gai mắt nên mới tiếp tục nhắn nhủ: “Anh em thân mến của tôi, anh em hãy nghe đây: nào Thiên Chúa đã CHẲNG CHỌN NHỮNG KẺ NGHÈO KHÓ trước mặt người đời để họ trở nên NGƯỜI GIÀU ĐỨC TIN và THỪA HƯỞNG VƯƠNG QUỐC Người đã hứa cho những ai yêu mến Người hay sao?” (Gc 2:5) Cách đặt vấn đề rất khó trả lời. Ai mạnh mẽ trả lời thì mới xứng đáng là môn đệ của Thầy Chí Thánh Giêsu, nếu không thì chỉ là “đồ giả.” Mà “đồ giả” thì Chúa Giêsu rất ghét. (xem Mt 23:13-33; Lc 6:24-26; Mt 11:21-24; Lc 10:13-15; Mt 18:7; Mc 9:42-48; Lc 17:1-2; Pl 3:2; Kh 22:15; Mt 23:33)

Chịu khó đọc lại mấy đoạn Kinh Thánh vừa nêu, chắc chắn chúng ta sẽ cảm thấy mình bị điếc và ngọng. Tại sao? Bởi vì lỗ tai lùng bùng và cổ họng ú ớ chẳng thành lời.

Việc Đức Giêsu chữa lành người vừa điếc vừa ngọng được tường thuật trong Mc 7:31-37. Hôm đó, Ngài rời vùng Tia để đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Ngài, và xin Ngài đặt tay trên anh ta. Ngài kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Kể ra thì Chúa Giêsu cũng chơi “sốc” thật. Thế nhưng đó là cách thức của Ngài, dùng động thái bề ngoài để người ta dễ hiểu mà thôi.

Rồi Ngài ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Épphatha! – Εφφαθα – Hãy mở ra!” Lập tức tai anh ta MỞ RA, lưỡi như HẾT BỊ BUỘC LẠI. Anh ta nói được rõ ràng. Nhưng Ngài cấm họ kể cho người khác biết. Tuy nhiên, phàm nhân vốn hiếu kỳ nên thường thích làm ngược lại. Thật vậy, Chúa Giêsu càng cấm họ thì họ lại càng đồn ra. Mà cũng không nên trách họ, vì họ hết sức kinh ngạc khi chính họ “mục kích sở thị” tỏ tường chứ chẳng phải nghe ai nói lại, thế nên họ bàn tán với nhau: “Ông ấy làm VIỆC GI CUNG TỐT DẸP cả: ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được.” Lạ quá mà, không thể không cho người khác biết.

Thành tâm và thành tín, Thánh Vịnh gia cầu xin: “Lạy Chúa Trời, xin MỞ miệng con, cho con cất tiếng ngợi khen Ngài.” (Tv 51:17) Xin được mở miệng để chúc tụng và tạ ơn Thiên Chúa chứ không để mỉa mai hoặc nguyền rủa người khác. Đó cũng là một dạng khiêm nhường. Nhưng cũng nên lưu ý cách triết lý của Lev Tolstoy (người Nga): “Khi bạn ý thức được mình là người khiêm tốn nghĩa là bạn không còn khiêm tốn nữa.” Ước gì mỗi chúng ta luôn biết cầu nguyện với tất cả lòng thành tín!

Yêu thương là chìa khóa vạn năng có thể mở mọi loại khóa. Thánh Vincent de Paul khuyên: “Hãy rộng mở lòng nhân ái cho tha nhân, để không một ai túng thiếu nào gặp được chúng ta mà không được giúp đỡ. Hỏi thử chúng ta sẽ hy vọng vào đâu nếu như Thiên Chúa cũng rút lại lòng nhân ái của Người dành cho chúng ta?”

Lạy Thiên Chúa toàn năng, xin mở khóa đời chúng con và làm cho cửa lòng chúng con không bao giờ khóa chặt trước đau khổ của tha nhân, nhất là trong lúc tù túng vì dịch bệnh hiện nay. Xin siết chặt sợi tình yêu và sợi thương xót của Ngài để chúng con trở nên khí cụ bình an của Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

CHÂN TRỜI MỚI

Lm Vũđình Tường

Một Chân Trời Mới vừa được mở ra cho người câm điếc thành Sidon. Anh nhận được lòng thông cảm của nhiều người và chính lòng thông cảm của đám đông dẫn anh gặp Đức Kitô. Ngài ban cho anh ơn nghe được và nói được. Mở tai, mở lưỡi anh, Đức Kitô cho mọi người biết tình yêu Chúa không giới hạn cho những ai muốn gặp Chúa, kể cả dân ngoại.

Đức Kitô đến thành Sidon, là một trong mười thành có tên chung là Thập tỉnh. Vào vùng của dân ngoại, ngạc nhiên thay dân làng đem đến cho Ngài một người vừa câm, vừa điếc. Bởi câm điếc nên anh coi như bị cắt đứt khỏi mọi sinh hoạt trong làng. Đức Kitô giúp anh trở thành một thành viên sống động trong làng. Có lẽ anh bị câm điếc từ thuở mới sinh. Bởi anh vừa câm, vừa điếc, nên anh không thể sinh hoạt chung với cộng đoàn. Do đó có thể anh không hề biết Đức Kitô là ai và cũng không biết Ngài đã đến làng anh đang cư ngụ.

Không phải cha mẹ anh, cũng không phải họ hàng mà chính là số dân làng có lòng từ tâm, dẫn anh đến gặp Đức Kitô. Không chắc họ có phải là bạn của anh không, nhưng chắc chắn họ là những người biết, và thông cảm với nỗi khổ anh đang gánh chịu. Những người này chắc chắn biết về Đức Kitô, hoặc có thể họ đã từng chứng kiến phép lạ Đức Kitô thực hiện. Bởi biết quyền lực Ngài nên họ dẫn anh câm điếc đến mong Ngài thương cứu anh ta. Đức Kitô thương mến anh, làm vui lòng đám người dẫn anh đến gặp Ngài. Đức Kitô mở tai anh để anh nghe rõ ràng. Ngài mở lưỡi anh để anh nói tỏ tường.

Nhờ lòng từ tâm của đám đông, dẫn anh câm điếc đến Đức Kitô và Ngài ban cho anh sự sống. Nếu không có lòng từ tâm đó, anh suốt đời chịu câm điếc và chết với tật nguyền từ thuở sinh thời đó. Chúng ta chú í đến cách chữa trị tật câm điếc của anh. Bình thường Đức Kitô chỉ cần phán một lời là bệnh tật biến mất khỏi người bệnh. Lần này Đức Kitô vừa ra lệnh cho bệnh tật biến mất, vừa có những động tác khác thường.

Thứ nhất, Đức Kitô tách anh ra khỏi đám đông dân làng. Hầu hết dân ngoại tin dị đoan và tin bói toán. Tách anh ra khỏi đám đông cách nào đó giảm tin đồn dị đoan. Những người chứng kiến Đức Kitô chữa lành anh là môn đệ Ngài, cộng thêm những người tin vào Ngài, dẫn anh câm điếc đến gặp Ngài.

Thứ hai, bởi anh vừa câm vừa điếc nên thay vì ra lệnh, Đức Kitô đối thoại với anh bằng cử chỉ thân thiện, nhân lành. Đức Kitô sờ vào tai anh ta, ngón tay Ngài đụng lưỡi anh và ra lệnh ‘Mở Ra’, và anh nghe được rõ ràng; nói rõ ràng. Không cần phải đoán cũng biết anh nói lên lời tạ ơn, ca tụng Thiên Chúa. Lời nói đầu đời của anh chắc chắn là tuyên xưng đức tin. Lần đầu trong đời anh nói được và nói được rõ ràng, mạch lạc. Câu nói lại là câu nói tin tưởng, phó thác, cậy trông và tạ ơn Đức Kitô. Anh không cần tập nói; trái lại anh nói rõ ràng, mạch lạc. Điều này chỉ một mình Thiên Chúa có thể thực hiện.

Thứ ba, Đức Kitô tách anh ra khỏi đám đông để anh không bị phân tâm khi Đức Kitô chữa cho anh, mà hoàn toàn chú tâm vào Ngài. Như thế nói lên sự liên kết chặt chẽ, đặt trọng tâm vào Đức Kitô. Điều này không phải anh sạch phần thể xác, mà tận trong tâm hồn anh được hoàn toàn sạch trong. Đối với người khác, anh khỏi tật nguyền phần xác. Đối với môn đệ Đức Kitô và người có lòng tin vào Ngài, anh được sạch cả thể xác, lẫn tâm hồn. Chữa bệnh câm điếc cho anh, người chứng kiến được tăng đức tin, niềm tin sâu đặm hơn.

Thứ tư, Phúc âm tuần trước xác định. Dơ bẩn tâm hồn làm chết linh hồn. Đức Kitô không sợ bẩn về thân xác, Ngài dùng ngón tay chạm vào tai, vào lưỡi người câm điếc; điều này cho biết Ngài không sợ dơ bẩn bên ngoài mà chú tâm đến dơ bẩn trong tâm hồn. Dơ bẩn tâm hồn chính là tội. Quan niệm xưa cho biết tội và tật nguyền chung vai sát cánh. Hết tật nguyền là sạch tội, và sạch tội con người khoẻ mạnh, tinh thần trong sáng, tâm tư an bình.
Trước Khi gặp Đức Kitô anh câm điếc không nói được một chữ, sau khi gặp Ngài anh nói rõ ràng, mạch lạc. Đức Kitô ban cho anh nhiều hơn mọi người mong đợi.

Anh bị câm về tinh thần, bị điếc về tâm linh. Đức Kitô chạm vào anh: tâm linh anh trong sáng, tội anh biến mất; anh ca vang lời ca tụng Thiên Chúa. Tâm linh anh sống động. anh không còn câm điếc về tâm linh nữa.

Chữa lành anh câm điếc đám đông nhận biết Đức Kitô có quyền trên cả thần câm lẫn thần điếc. Điều từ trước tới nay chưa hề xảy ra. Ngoài Thiên Chúa ra, không ai có thể mở tai người điếc, mở lưỡi người câm bằng dùng bùn tất và nước miếng. Không dâng lời ca tụng Chúa chính là câm điếc tâm linh.

Về mục lục

VÌ CHÚA YÊU CON

Bông hồng nhỏ

Khi Thầy Giêsu bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh thì người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Người và xin Người đặt tay trên anh (x. Mc 7, 31-32). Tất cả mọi người đều chờ đợi điều kỳ diệu sẽ xảy ra. Đặc biệt là người đang bị bệnh.

Cả đám đông vây quanh Thầy Giêsu, hồi hộp chờ đợi, tò mò về những gì Người sẽ làm cho anh. Anh đứng đó, chăm chú nhìn Người và kiên nhẫn chờ đợi. Anh không thể nói với Người điều mình muốn và cũng không nghe được lời Người nói. Tất cả điều anh có thể làm là diễn tả điều mình muốn qua ánh mắt. Ánh mắt tha thiết ấy đang gửi gắm niềm tin và hy vọng vào Thầy Giêsu. Người cũng trìu mến nhìn anh. Ánh mắt của Người xoáy sâu vào tâm hồn anh như muốn nói: Con cứ an tâm và vững lòng. Có lẽ, chỉ có anh mới cảm nhận được tất cả những gì ánh mắt ấy đang nhắn nhủ anh. Người không để anh lạc lõng giữa đám đông nhưng lại kéo riêng anh ra khỏi đám đông. Anh để Người nắm lấy tay kéo đi mà không hề cưỡng lại. Anh bước từng bước đầy tin tưởng đi theo Người. Chỉ còn Thầy Giêsu và anh, diện đối diện. Người đứng trước mặt anh, đưa ngón tay đặt vào tai anh, rồi lại lấy nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Anh hiểu, Người đang muốn chữa cho anh.

Thấy Người ngước mắt lên trời, anh cũng nhìn theo chăm chú. Người rên một tiếng và nói: “Épphatha, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức, anh thấy tai mình mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh nói được rõ ràng” (x. Mc , 34-35). Anh reo mừng hân hoan, hạnh phúc vì được chữa lành. Điều đã từng trói buộc anh thì nay đã được tháo cởi, điều đã ngăn cản anh lắng nghe người khác thì nay đã hoàn toàn được mở ra. Anh không còn cô độc trong thế giới của riêng mình nhưng được bình an sống giữa mọi người. Những khiếm khuyết về thể lý nơi anh đã được ban lại cách nhưng không. Hơn nữa, tâm hồn anh đã mở ra với cuộc đời. Từ đây, anh có thể nghe người khác nói và nói được như bao người.

Đến với Chúa, đã bao lần ta cũng mang tâm thế của một người đang bị trói buộc cần được giải thoát. Ta có sẵn sàng để Chúa Giêsu lôi kéo, dẫn ta đi riêng ra một chốn, chỉ mình ta với Người không? Ở nơi đó, ta chỉ còn chăm chú ngắm nhìn Người, chờ đợi Người hành động. Người sẽ làm cho ta những gì Người muốn và đó cũng là điều mà ta muốn. Đôi khi cách thức Người thực hiện quả là khó hiểu nhưng ta hãy noi gương anh chàng trong bài Tin Mừng hôm nay, cứ bước từng bước theo Chúa, đến nơi Người muốn và để Người hành động cho ta tất cả những gì Người dự định.

Lạy Chúa Giêsu! Chỉ mình Chúa mới thấu biết tình trạng tâm hồn con, chỉ có Chúa mới biết điều gì là cần thiết cho con lúc này, và chỉ có Chúa mới yêu con như con là. Cảm tạ Chúa đã không ngừng lôi kéo con ra khỏi “những đám đông” vây quanh con để dẫn con đi riêng ra với Chúa. Chính Chúa đã cho con biết điều con thực sự cần là gì và hạnh phúc lớn nhất của con chính là được nghe thấy Lời Chúa nói với con, được Chúa nhìn bằng ánh mắt trìu mến, dù cho con chỉ là một kẻ tội lỗi. Xin cho con luôn biết tìm đến Chúa vì yêu Chúa, vì chính Chúa đã không ngừng tìm kiếm và giải thoát con vì yêu con. Amen.

Về mục lục

HÃY MỞ RA.

Thiên San

Bước chân của Thầy Giêsu không ngừng nghỉ. Người cùng các môn đệ rảo bước từ làng này qua làng nọ, từ vùng này đến vùng kia. Dường như đôi chân cùng nhịp đập với con tim. Tim còn đập là còn bước đi, tim còn đập là còn yêu thương. Trái tim và đôi chân không ngừng nghỉ để yêu thương con người. Bài Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về việc Người mở miệng lưỡi, mở đôi tai cho một người vừa điếc vừa câm (x. Mc 7, 31-37).

Người bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xiđôn, đến biển hồ Galilê vào miền Thập Tỉnh. Tại đây, người ta đã đem đến cho Người một người vừa điếc vừa ngọng. Đoạn Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh, nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. Người ngước mắt lên trời, thở dài và nói: “Ép-pha-tha, nghĩa là hãy mở ra!” (x. Mc 7, 33-34). Những người đến với Đức Giêsu được chữa lành có một điểm chung, đó là đức tin. Thường những người bệnh đến với Đức Giêsu đều được chữa lành nhờ tin. Điều đó cũng xảy đến với bệnh nhân này. Tai anh ta được mở ra và lưỡi như hết buộc lại. Anh nghe được và nói được.

Câu chuyện thánh Máccô kể cho chúng ta nghe hôm nay thật cảm động. Từ một người nghèo về thể lý, không thể nghe và nói, anh ta được trở nên giàu có. Cuộc đời anh bước sang một trang mới, đầy màu sắc tươi sáng. Còn gì vui hơn khi được nghe và được nói. Từ nay, anh có thể dùng miệng lưỡi để ca tụng Đấng đã yêu thương anh, gửi trao bao lời thân thương đến mọi người, dùng đôi tai để lắng nghe những giai điệu của cuộc sống. Anh có thể tận hưởng bao điều tốt đẹp mà có thể trước đây anh không có cơ hội biết đến. Đức Giêsu chính là Đấng đã giúp anh bước sang trang mới của cuộc đời. Có biết bao người đã có được cơ hội như anh. Không chỉ anh, mà cả những người chứng kiến sự việc ngày hôm ấy đều thấy rằng: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả” Mc 7,37). Họ đồng thanh ca tụng Chúa.

Đức Giêsu cũng đã đến với cuộc đời mỗi người chúng ta. Người muốn kéo chúng ta ra khỏi đám đông, khỏi những ồn ào của cuộc sống. Có thể, trong chúng ta tuy không bị khiếm khuyết về thể lý như anh thanh niên trong câu chuyện trên, nhưng tâm hồn chúng ta cũng đang bị trói buộc bởi nhiều điều.  Đó có thể là những nỗi đau trong quá khứ, hiểu lầm, hận thù, tranh chấp, áp lực, những khủng hoảng… Chúng làm cho chúng ta bị “điếc và câm”. “Điếc” vì chúng ta không còn khả năng lắng nghe tiếng Chúa đang thì thầm với mình, không đủ kiên nhẫn để lắng nghe nhau. “Câm” vì bao hận thù, đau thương đang chèn ứ ở cổ họng, khiến chúng ta không thể mở lời với nhau, với cuộc sống. Chúng ta có tai mà không thể nghe, có miệng mà không thể ca hát. Nỗi đau và những mất mát, hận thù, bận rộn trong cuộc đời đã làm cho chúng ta bị tê liệt, bị trói buộc.

“Ep-pha-tha: hãy mở ra”. Đức Giêsu cũng đang cố gắng giúp chúng ta thực hiện điều đó. Không chỉ kéo chúng ta ra khỏi đám đông, Ngài còn mời gọi chúng ta cộng tác trong cách chữa trị “hơi lạ” của Ngài. Có thể chúng ta sẽ cảm thấy hơi ghê khi thấy Ngài “nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh” (Mc 7,33). Thiết nghĩ, Đức Giêsu cũng đang dùng cách chữa trị “hơi lạ” đó đối với chúng ta. Thường chúng ta có xu hướng trốn tránh những điều làm chúng ta đau, những con người làm ta tổn thương. Người mời gọi chúng ta đối diện với những đau thương đó, cùng Ngài gỡ những nút thắt đang trói buộc ta. Có thể, theo cái nhìn của con người, có lúc, chúng ta không đón nhận được cách chữa trị của Thầy Giêsu. Tuy vậy, Ngài vẫn luôn kiên nhẫn với từng người trong chúng ta.

 Có những khi Chúa cũng phải thở dài vì sự cố chấp, không cộng tác của chúng ta. Nhưng Chúa vẫn rất thương yêu chúng ta. Bởi chúng ta là những người nghèo của Chúa, những người được hứa cho hưởng vương quốc của Ngài nhờ đức tin và lòng yêu mến (x.Gc 2,5). Chính Ngài đã đến cứu với chúng ta, giúp chúng ta bước sang trang mới của cuộc đời, và giúp ta trở nên giàu có trong niềm tin yêu. Chúng ta hãy can đảm lên – đừng sợ, hãy dùng miệng lưỡi mà ca tụng Chúa, dùng đôi tai để lắng nghe và làm theo điều Người dạy bảo và hãy mở lòng đón nhận tình yêu của Chúa.

Về mục lục

CHÚA GIÊSU CHO NGƯỞI ĐIẾC ĐƯỢC NGHE

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Thánh Augustinô sinh năm 354 tại Algeria, Bắc Phi, được ơn trở về với Chúa và lãnh bí tích Thánh tẩy năm 33 tuổi; sau nầy ngài được cử làm giám mục và được tuyên phong là tiến sĩ Hội thánh.

Mặc dù thánh Augustinô là người sáng tai, nghe rõ mọi chuyện trong đời; thế nhưng, trong cuốn “Tự thú”, thánh Augustinô thú nhận rằng đôi tai của ngài bị điếc trước những lời khôn ngoan của Chúa trong thời gian dài. Ngài viết: “Con yêu Chúa quá muộn! Nầy Chúa vẫn ở trong con mà con cứ tìm Chúa bên ngoài… Chúa gọi con. Chúa la to và đã phá tan sự điếc lác của con…”

Cho đến gần 33 tuổi, chứng điếc tâm linh của thánh Augustinô mới được khai mở để đón nghe Lời dạy của Chúa và từ đó, cuộc đời của ngài được cải thiện tuyệt vời.

Thứ điếc đáng sợ nhất

Điếc tai không đáng sợ vì người điếc có thể học hỏi, tiếp nhận thông tin bằng mắt qua việc đọc sách báo, xem phim ảnh hoặc qua ngôn ngữ ký hiệu dành cho người câm điếc… và nhờ đó, họ có thể thông biết nhiều điều, nắm bắt nhiều lời dạy hữu ích, quán triệt được những điều khôn ngoan…

Có một thứ điếc đáng sợ và tai hại hơn nhiều, đó là “điếc-điều-khôn-ngoan”, đây là thứ điếc có chọn lọc: điếc trước điều hay lẽ phải và sáng trước những điều xấu xa. Thứ điếc nầy thường xô đẩy người ta vào tội lỗi.

Cụ thể là:

Có nhiều học sinh điếc đặc trước những lời giáo huấn của thầy cô nhưng rất sáng tai trước những quyến rũ của bạn bè hư hỏng.

Có người chồng rất sáng tai trước những lời rủ rê của bạn bè đàng điếm mà điếc đặc trước những lời can gián của vợ con.

Có người điếc lác đối với những Lời ban sự sống của Thiên Chúa mà sáng tai trước những lời đưa đến hư vong do Sa-tan mời gọi…

Thứ điếc nầy vô cùng tai hại vì làm cho con người suy thoái về đạo đức, đánh mất phẩm chất cao đẹp của mình và dễ sa vào con đường tội lỗi.

Điếc tai là chứng rất khó chữa trị, và chứng “điếc-điều-khôn-ngoan” cũng rất khó chữa lành.

Tất cả những người điếc tai đều khát khao mãnh liệt được chữa lành để có thể giao tiếp với mọi người chung quanh cách thoải mái và họ không ngại tốn kém cho việc chữa trị.

Tiếc thay, có nhiều người mắc chứng “điếc-điều-khôn-ngoan,” vì không nhận ra nguy hại của chứng bệnh đang mang, nên không cần điều trị, không muốn chữa lành và thế là họ phải bị điếc lâu dài và phải gánh chịu những hậu quả của nó.

Tìm đâu ra vị lương y có thể cứu người ta khỏi thứ điếc tai hại nầy?

Chúa Giê-su cho người điếc được nghe

Hôm ấy, Đức Giê-su bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đôn, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su để xin Ngài cứu chữa… Chúa kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông… Ngài ngước mắt lên trời, kêu một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: hãy mở ra! Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng (Mác-cô 7, 31-35).

Và khi Gioan Tẩy giả sai các môn đệ đến gặp Chúa Giê-su để tìm hiểu sứ mạng của Ngài thì Chúa Giê-su cho biết Ngài là đấng được sai đến để làm cho “người mù được thấy, người què đi được, người phong hủi được khỏi, người điếc được nghe…” (Mt 11, 5).

Như thế, Chúa Giê-su là Đấng mở tai cho muôn người khỏi điếc. Hãy đến với Ngài để được chữa lành.

Lạy Chúa Giê-su,

Từ lúc Augustinô được Chúa mở tai để nghe lời Chúa, cuộc đời của ngài được cải thiện tuyệt vời, được làm con Chúa trong gia đình Giáo hội, sau đó trở thành linh mục, giám mục và tiến sĩ Hội thánh.

Xin cho chúng con cũng khao khát được sáng tai trước lời Chúa dạy như thánh Augustinô, nhờ đó, lời Chúa sẽ thấm nhập vào tâm hồn chúng con và giúp chúng con cải thiện cuộc sống như ngài. Amen.

Về mục lục

ÉPPHATHA: XIN MỞ TAI MỞ MIỆNG VÀ MỞ LÒNG TRÍ CON

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mc 7,31-37

(31) Đức Giê-su lại bỏ vùng Tia, đi qua ngả Xi-đon, đến biển hồ Ga-li-lê vào miền Thập Tỉnh. (32) Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng đến với Đức Giê-su, và xin Người đặt tay trên anh. (C 33) Người kéo riêng anh ta ra khỏi đám đông, đặt ngón tay vào lỗ tai anh ta, và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh. (34) Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha!”, nghĩa là: “Hãy mở ra!” (35) Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng. (36) Đức Giê-su truyền bảo họ không được kể chuyện đó với ai cả. Nhưng người càng truyền bảo họ, họ lại càng đồn ra. (37) Họ hết sức kinh ngạc, và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả: Ông làm cho kẻ điếc nghe được, và kẻ câm nói được”.

  1. Ý CHÍNH:

Duy chỉ có Tin Mừng Mác-cô thuật lại việc Đức Giê-su chữa lành một người bị câm điếc. Người thực hiện phép lạ này tại miền Thập Tỉnh, nơi cư dân hầu hết là dân ngoại. Người đã chữa bệnh câm điếc cho anh như sau: đặt ngón tay vào tai anh ta, bôi nước miếng vào lưỡi anh ta, ngước mắt lên trời cầu nguyện, rên lên một tiếng và nói “Ép-pha-tha!”-“Hãy mở ra!” Lập tức bệnh nhân được chữa lành: tai anh ta đã mở ra để nghe được và lưỡi anh ta đã được tháo cởi sợi dây ràng buộc để nói được rõ ràng.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 31-32: + Bỏ vùng Tia: Tia là một thành phố thuộc nước Phê-ni-xi-a, phía Bắc nước Do Thái, có bang giao với nước Do Thái ngay từ thời vua Đa-vít và Sa-lo-mon (x.1 V 9,11-12). Khi Đức Giê-su ra giảng đạo, một số người vùng Tia đã tìm đến gặp Người (x. Mc 3,8). + Qua ngả Xiđon: Thành Xi-đon nằm bên bờ Địa Trung Hải giữa Tia và Bây-rút. Thời xưa thành này là thủ đô của dân Xi-đon và đã bị các ngôn sứ lên án (x. Ed 32,30). Thời Tân ước, Đức Giê-su tỏ ra khoan dung với các thành thuộc dân ngoại này (x. Mt 11,21-22). + Đến biển hồ Ga-li-lê: Còn được gọi là Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-át. Đây là biển hồ hình quả trám, có chiều dài 21 cây số và chiều ngang 12 cây số, mực nước thấp hơn mặt biển Địa Trung Hải, và có chỗ sâu tới 40 mét. Biển hồ này thường có sóng to gió lớn, và khá nhiều cá. + Vào miền Thập Tỉnh (gọi là Đê-ca-bô-lơ): Là vùng đất phía Đông biển hồ Ga-li-lê, gồm mười thành chịu ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp. Tin Mừng Nhất Lãm thường hay nhắc đến miền Thập Tỉnh này (x. Mt 4,25; Mc 1,28). + Người ta đem một người vừa điếc vừa ngọng: Hai thứ bệnh câm và điếc luôn đi đôi với nhau. Chính vì điếc không nghe được âm thanh hay lời nói, nên bệnh nhân bị câm không thể nói được, chỉ phát ra một số âm thanh vô nghĩa. Người câm điếc thường bị thiệt thòi vì không có khả năng giao tiếp với tha nhân. + Xin Người đặt tay trên anh: Xin đặt tay là xin chúc lành theo phong tục Do Thái (x. St 48,14-15). Đây cũng chính là cử chỉ Đức Giê-su thường làm như: đặt tay chúc lành cho trẻ em (x. Mc 10,16), đặt tay chữa bệnh (x. Mc 6,5).

– C 33-35: + Kéo riêng ra khỏi đám đông: Cũng như khi chữa con gái ông Gia-ia mới chết được sống lại (x. Mc 5,37) hoặc khi chữa một người mù thành Bét-sai-đa (x. Mc 8,23). Ở đây, Người tách riêng kẻ bị câm điếc ra khỏi đám đông. Điều này chứng tỏ sự tế nhị và cảm thông trước thái độ ngượng ngùng của bệnh nhân, khi anh ta phải ra đứng trước đám đông đang muốn xem Đức Giê-su chữa bệnh. Đàng khác, việc can thiệp của Thiên Chúa thường được thực hiện cách kín đáo, giống như ngôn sứ Sa-mu-en đã được Đức Chúa sai đến nhà Giê-sê ở Be-lem để bí mật xức dầu phong một người con của Giê-sê làm vua, thay thế vua Sa-un bị truất phế (x. 1 Sm 16,1-13); Ông Giê-hu cũng được xức dầu phong vương cách kín đáo như vậy (x. 2 V 9,2-6). + Đặt ngón tay vào lỗ tai anh, nhổ nước miếng bôi vào lưỡi anh. Rồi người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: “Hãy mở ra!” …Đức Giê-su làm hai động tác để chữa bệnh: Một là “đặt ngón tay vào tai và lấy nước miếng bôi vào lưỡi anh” (c.33); Hai là “ngước mắt lên trời” cầu nguyện, rên một tiếng (thở dài) và nói “Ép-pha-tha” nghĩa là “Hãy mở ra!” (c. 34). Hai động tác này mang tính bí tích và lập tức phát sinh công hiệu làm cho tai người điếc mở ra để nghe được, lưỡi bệnh nhân được tháo cởi và nói được rõ ràng. Qua phép lạ chữa lành người câm điếc nghe được, và người mù được sáng mắt (x. Mc 8,22-26), Mác-cô muốn chứng minh Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai. Vì Người thực hiện dấu chỉ của thời Thiên Sai đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo như sau: “Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò…” (Is 35,5-6).

– C 36-37: + Không được kể chuyện đó với ai cả…Khi chữa người câm điếc (x. Mc 7,36), chữa người phong cùi (x. Mc 1,44), phục sinh con gái ông Gia-ia (x. Mc 5.43), chữa lành người mù thành Bết-xai-đa (x. Mc 8,26)… Đức Giê-su đều truyền cho họ phải im lặng. Sở dĩ Người không muốn họ nói ra những phép lạ đó, vì đây là “Bí mật Thiên Sai”. Người muốn tránh cho dân Do Thái khỏi hiểu lầm về sứ mệnh Thiên Sai của Người. Sứ mệnh được Chúa Cha trao phó là thiết lập một Nước Trời thiêng liêng vĩnh cửu, đang khi dân chúng Do thái lại đang trông mong một Đấng Thiên Sai trần thế, đến để lãnh đạo dân Do thái chống lại đế quốc Rô-ma, đánh đuổi quân Rô-ma ra khỏi bờ cõi. Để thi hành sứ mệnh Thiên Sai  theo thánh ý Thiên Chúa, Đức Giê-su cần có thời gian rao giảng cho dân Do Thái hiểu rõ về vai trò và sứ mệnh thiêng liêng của Người. Do đó, khi làm các phép lạ cứu nhân độ thế, Người không muốn gây ồn ào, dễ thúc đẩy phong trào Thiên Sai quá khích, làm cớ cho quân Rô-ma kéo đến đàn áp, như đã từng xảy ra trước đó. + Nhưng họ lại càng đồn ra. Họ hết sức kinh ngạc và nói: “Ông ấy làm việc gì cũng tốt đẹp cả”: Những người được Đức Giê-su chữa lành đã không giữ kín được những ơn mà họ đã nhận được. Vì họ thật sự thán phục những việc tốt lành Đức Giê-su đã làm. Việc chữa bệnh này giống như việc tái tạo một con người mới, con người được giải thoát khỏi ách nô lệ của ma quỷ và tội lỗi… tương tự việc Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật thuở ban đầu đã được Sách Thánh tường thuật: “Thiên Chúa thấy mọi sự Người đã làm ra quả là rất tốt đẹp!” (St 1,31).

4.CÂU HỎI:

1) Bạn biết gì về biển hồ Ga-li-lê? 2) Bệnh điếc và ngọng là bệnh gì? 3) Việc đặt tay của Đức Giê-su trên bệnh nhân điếc và ngọng có ý nghĩa thế nào? 3) Tại sao Đức Giê-su phải tách riêng bệnh nhân ra khỏi đám đông? 4) Đặt tay vào lỗ tai và bôi nước miếng vào lưỡi của người bệnh là hai động tác mang tính gì? 5) Qua phép lạ Đức Giê-su chữa bệnh câm điếc, Mác-cô muốn chứng minh Đức Giê-su là ai? Tại sao? 6) Những phép lạ Đức Giê-su thực hiện, nhưng không muốn người bệnh nói ra cho người khác biết, là những phép lạ nào? Tại sao Chúa lại muốn người ta im lặng? 7) Trong thực tế dân chúng có im lặng không? Tại sao?

II. SỐNG LỜI CHÚA

  1. LỜI CHÚA: Rồi Người ngước mắt lên trời, rên một tiếng và nói: “Ép-pha-tha”, nghĩa là: “Hãy mở ra!” Lập tức tai anh ta mở ra, lưỡi như hết bị buộc lại. Anh ta nói được rõ ràng (Mc 7,34).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) CÓ KIẾN THỨC LÀ DO ĐÃ THƯỜNG XUYÊN ĐỌC 3 CUỐN SÁCH 

Một ông già kia nổi tiếng là người có kiến thức rộng. Tuy trình độ văn hóa mới hết bậc phổ thông, nhưng ông lại có vốn kiến thức sâu rộng về nhiều lãnh vực như về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, triết lý và thần học… Tiếng đồn về ông già có kiến thức rộng ngày càng lan đi xa và nhiều người đã tìm đến thăm ông để xin giải đáp thắc mắc và hỏi ý kiến về các vấn đề gặp phải trong cuộc sống. Họ đã được ông tận tình giải đáp và cho biết ý kiến. Ngày nọ, một vị giáo sư đại học cũng đến thăm. Sau buổi đàm đạo lâu giờ, vị giáo sư kia đã hỏi ông cụ nguyên nhân khiến ông có sự hiểu biết rộng rãi và đúng đắn như vậy, đồng thời xin ông giới thiệu một số cuốn sách mà ông đã đọc. Nhưng thật bất ngờ: Ông cụ đã trả lời như sau: “Thưa ngài, thực sự tôi chẳng có thì giờ và cũng chẳng có khả năng để đọc các quyển sách cao siêu về khoa học, triết lý hay thần học… Hằng ngày tôi chỉ đọc có 3 cuốn sách mà bất cứ ai cũng có thể đọc được:

– Cuốn sách thứ nhất là những công trình lạ lùng kỳ diệu mà Thiên Chúa đã và đang làm trong vũ trụ thiên nhiên. Nhờ đó, tôi có dịp dâng lời ngợi khen cảm tạ Người.

– Cuốn sách thứ hai là những sự kiện xảy ra trong cuộc sống hằng ngày của tôi. Nhờ đó, tôi có dịp hồi tâm sám hối các tội đã phạm, cảm tạ về những ơn lành Chúa ban và cầu xin Người ban các ơn lành hồn xác, nhất là ban ơn cứu độ.

– Cuốn sách thứ ba là Lời Chúa trong Kinh Thánh. Mỗi ngày tôi luôn dành ra một thời gian vào lúc sáng sớm để đọc một đoạn Lời Chúa, rồi suy niệm và cầu xin Chúa giúp thực hành. Mỗi lần dự thánh lễ, tôi luôn để tâm lắng nghe Lời Chúa qua các bài đọc, nhất là bài giảng của vị chủ tế để làm theo.

2) KHÔNG BIẾT THÁNH KINH LÀ KHÔNG BIẾT ĐỨC KI-TÔ:

Hồi ấy, HI-Ê-RÔ-NI-MÔ (342-420) là một văn sĩ lỗi lạc về văn chương cổ điển nhưng lại không có kiến thức bao nhiêu về Thiên Chúa. Ngài say mê đọc các tác phẩm của Xi-xê-rông. Một hôm, ngài được Chúa Giê-su hiện ra và hỏi:

– Này Hi-ê-rô-ni-mô, anh là môn đệ của ai?

– Thưa, con là môn đệ của Chúa.

– Không phải, anh là môn đệ của Xi-xê-rông.

Từ đó, Hi-ê-rô-ni-mô đã giác ngộ và chuyên tâm tìm hiểu Thánh Kinh. Ngài được Chúa thôi thúc đi tới thánh địa Pa-lét-tin, vào ẩn tu trong hang đá Be-lem nơi Chúa sinh ra để chuyên tâm phiên dịch Sách Thánh, suy niệm Lời Chúa và sống trong không gian mà xưa chính Chúa Giê-su đã sống. Sau này Ngài đã khẳng định: ”Ai không biết Thánh Kinh là không biết Đức Ki-tô”. Bản dịch Vulgata (Phổ thông) của ngài đã được công đồng Tri-đen-ti-nô (thế kỷ 16) công nhận là phù hợp với đức tin và là bản dịch chính thức của Hội thánh Công giáo.

3) GƯƠNG CẦU NGUYỆN CỦA MỘT BÉ GÁI GIÚP VIÊN BÁC SĨ MỞ LÒNG TIN YÊU CHÚA.

Một bé gái nọ có thói quen đọc kinh mỗi tối trước khi đi ngủ. Ngày nọ, em bị bệnh nặng được cha mẹ đưa vào cấp cứu trong bệnh viện. Các bác sĩ chẩn đoán em bị sưng ruột thừa cần cấp thời giải phẫu. Trước khi gây mê cho em, bác sĩ cho biết là em sắp bước vào một giấc ngủ dài. Nghe nói sắp đi ngủ, cô bé ngây thơ đã xin bác sĩ cho em được cầu nguyện theo thói quen mỗi tối. Thế là trước mặt mọi người, em bé đã quỳ gối cầu nguyện hết sức chân thành, và kết thúc lời cầu như sau: “Xin Chúa chữa lành con. Xin Chúa cũng chúc lành và xuống muôn ơn cho các bác sĩ chữa bệnh cho con”. Cầu nguyện xong, em đã nằm xuống để bác sĩ tiến hành công việc giải phẫu…

Ngày hôm sau tỉnh dậy, câu nói đầu tiên của em là hỏi bác sĩ phẫu thuật đang trực bên giường:

– Cháu có được khỏi bệnh không bác sĩ?

Viên bác sĩ nhìn vào mắt em và trả lòi với sự xúc động:

– Cháu hãy tin cậy phó thác cho Chúa định liệu nhé. Bác chưa biết kết quả giải phẫu ra sao. Nhưng có điều bác tin chắc, là chính cháu đã chữa lành cho bác đây! Vì từ lâu, bác đã không còn đến nhà thờ, không còn cầu nguyện với Chúa. Thế nhưng, hôm qua khi chứng kiến cháu cầu nguyện, bác đã rất xúc động. Chính Chúa đã đánh động bác qua lời cầu nguyện của cháu. Sáng nay, bác đã đến nhà thờ xưng tội rước lễ. Chúa đã nhận lời cầu xin của cháu cho bác rồi đó ! ».

Chính nhờ biết mở mắt để nhìn và mở tai để nghe lời cầu nguyện sốt sắng của bé gái, mà một viên bác sĩ khô khan nguội lạnh đã mở lòng đón nhận ơn cứu độ của Chúa. Đúng như lời Chúa Giê-su đã phán: «Cũng vậy, ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời » (Mt 5,16).

4) CẦN MỞ TAY ĐỂ THỰC HIỆN NHỮNG ĐIỀU TỐT THAY CHO KẺ KHÁC:

Mặc Tử ở nước Lỗ sang nước Tề thăm nhà bạn cũ. Người bạn cũ trách Mặc Tử: “Bây giờ thiên hạ còn ai biết đến việc nghĩa, quan lớn cũng như quan bé, mạnh ai nấy sống, lấy cái công làm cái tư, ông tự khổ thân một mình làm việc nghĩa làm chi cho nhọc xác?”.

Mặc Tử trả lời: “Tôi hỏi ông, nhà có mười đứa con, một đứa cày, chín đứa ngồi ăn, thì chẳng phải đứa đang cày phải chịu khó cày chăm chỉ hơn hay sao? Bởi vì đứa cày thì ít, mà đứa ăn thì nhiều. Thiên hạ bây giờ không ai chịu làm việc nghĩa, lẽ ra ông phải khuyên tôi cần làm việc nghĩa nhiều hơn mới phải chứ, sao lại ngăn cản tôi?”.

Mỗi người chúng ta cũng cần mở lòng ra để làm thêm nhiều điều tốt điều thiện, cho dù chung quanh chúng ta có nhiều người làm điều xấu điều ác hoặc khoanh tay không làm gì cả.

  1. THẢO LUẬNTuần này bạn sẽ làm gì để nghe được Lời Chúa, khám phá ra ý Chúa dạy và mau mắn xin vâng ý Chúa?
  2. SUY NIỆM:

 Bài Tin Mừng hôm nay kể chuyện Đức Giê-su chữa lành một người bị bệnh điếc và ngọng. Phép lạ không chỉ đề cập đến việc chữa lành bệnh câm điếc về thể xác, mà còn đề cập đến thứ bệnh câm điếc tinh thần. Đức Giê-su đã mở tai người điếc để anh không những nghe được lời nói của tha nhân, mà còn nghe được Lời Chúa phán dạy. Đức Giê-su cũng không những mở miệng người câm để anh có thể nói chuyện với người chung quanh, mà còn để anh có thể tuyên xưng đức tin vào Người. Hôm nay chúng ta hãy xin Đức Giê-su mở miệng chúng ta để ca tụng tình thương và quyền năng của Chúa và hăng say loan báo tình thương của Chúa cho mọi người:

1) Xin Chúa mở mắt tâm hồn chúng ta: Đúng như ông lão nhà quê lại có kiến thức uyên bác đã nói: Thiên Chúa đã làm biết bao việc lạ lùng chung quanh ta mà mọi người đều có thể nhìn xem, lắng nghe và suy nghĩ về những điều kỳ diệu ấy”. Nếu chúng ta không hiểu được ý Chúa là do đã không biết mở mắt để nhìn xem, mở tai để lắng nghe, mở lòng để đón nhận, mở trí khôn để khám phá và thi hành thánh ý Người.

“Ép-pha-ta”: Xin Chúa giúp mỗi người chúng con biết mở mắt tâm hồn bằng cách mở tai mở lòng, mở trí để đón nhận Lời Chúa và tích cực chia sẻ tình thương của Chúa với mọi người chung quanh.

2) Xin Chúa mở miệng lưỡi chúng ta: Trong Tin Mừng hôm nay, Đức Giê-su đã chữa một người vừa ngọng (câm), vừa điếc. Người câm ngọng đã gặp khó khăn khi giao tiếp, vì không thể nói cho người khác hiểu được ý mình. Về tinh thần, nhiều người trong chúng ta đã mất sự tự tin, ăn nói ngọng nghịu và đành giữ im lặng, vì trong quá khứ có lần đã bị kẻ khác miệt thị khinh thường… Vì chúng ta đã bị đe dọa nên không dám nói ra những suy nghĩ trung thực của mình.

“Ép-pha-tha”: Xin Chúa hãy mở miệng lưỡi con ra, để làm chứng cho sự thật, để giới thiệu Chúa là Tình Thương cho tha nhân, để an ủi những người đau khổ do bị tai nạn, bị ngược đãi bất công, hay đang phải chịu đựng những điều trái ý cực lòng.

3) Xin Chúa mở đôi tai chúng ta: Người điếc hoặc bị lãng tai vì không nghe được những lời người khác nói. Lắng nghe là điều tối quan trọng trong giao tiếp hằng ngày. Chúng ta thường chỉ muốn nghe điều mình thích, hoặc chỉ muốn hiểu những điều người khác nói theo ý riêng mình, nên đã gây ra biết bao hiểu lầm tranh cãi, làm mất tình đoàn kết nội bộ. Nghe bằng tai chưa đủ, chúng ta còn cần nghe bằng trái tim yêu thương. Nhờ đó chúng ta mới hiểu đúng và đủ ý nghĩa chứa đựng trong những lời người khác nói.

“Ép-pha-tha”: Xin Chúa hãy mở đôi tai chúng con để lắng nghe và cảm thông với những nỗi đau của tha nhân và sẵn sàng đáp ứng các nhu cầu chính đáng của họ với hết khả năng cùa mình.

4) Xin Chúa mở lòng trí chúng ta: Thế giới hôm nay đang thiếu sự cảm thông và đối thoại, vì quá nhiều người đang bị bệnh câm điếc tinh thần, khiến họ trở thành một hòn đảo giữa đại dương  bao la. Bệnh câm điếc tinh thần cũng làm cho con người trở thành ích kỷ, sống khép kín vì tâm hồn bị sơ cứng, khi không trao tặng được cho ai cái gì và cũng không muốn đón nhận điều gì của ai. Cuối cùng con người sẽ chết trong sự nghèo nàn vì thiếu hiểu biết và không tình thương.

“Ép-pha-tha”: Xin Chúa mở tai mở miệng và mở lòng, để chúng con dễ dàng thưa chuyện với Chúa và giao lưu với tha nhân, để được biến đổi nên người mới có tình người hơn. Nhờ đó, chúng con sẽ làm cho gia đình, khu xóm và xã hội trở thành thiên đàng yêu thương theo thánh ý Chúa.

5) Xin Chúa chữa lành bệnh câm điếc tinh thần của chúng ta:

– Không ai muốn mình bị bệnh điếc, nhưng thực tế lại không ít người mắc chứng bệnh này. Chúng ta sẽ bị điếc khi mất khả năng lắng nghe kẻ khác, khi nghe người khác nói nhưng lại chỉ muốn hiểu theo ý riêng của mình. Chúng ta sẽ bị điếc khi lắng nghe mà không phân biệt được đúng sai, hay dở. Vậy điều quan trọng không nằm ở nơi người nói, mà ở chỗ người nghe suy nghĩ và quyết định ra sao. Vì thế, chỉ nghe bằng tai chưa đủ, mà còn phải nghe với cả con tim yêu thương, chân thành và quảng đại mới có thể hiểu được chính xác những điều người nói muốn truyền đạt.

– Một cử chỉ quen thuộc mà mỗi lần dự thánh lễ chúng ta đều làm là khi nghe chủ tế đọc bài Tin Mừng. Khi ấy chúng ta vẽ dấu thánh giá trên trán, trên miệng và trên ngực kèm theo lời đọc: “Lạy Chúa, vinh danh Chúa”. Cử chỉ này đồng nghĩa với lời cầu nguyện: “Lạy Chúa xin hãy mở trí khôn con, mở miệng lưỡi con, mở trái tim con ra để con có thể hiểu biết, cảm nhận, và rao giảng Chúa cho tha nhân”. Ước gì mỗi lần làm dấu thánh giá như vậy, chúng ta sẽ mở trí, mở lòng, mở miệng để được ơn Chúa chữa lành căn bệnh câm điếc tinh thần.

– Nghe và nói là hai phương tiện truyền thông luôn đi đôi với nhau. Con người sống trong xã hội là phải sẵn sàng tiếp nhận chân lý qua việc trao đổi đối thoại. Nếu chỉ biết sống ích kỷ khép kín thì sẽ dễ đi tới chỗ suy nghĩ cố chấp hẹp hòi và hành động sai trái có hại cho tha nhân.

– Trong gia đình mà vợ chồng không biết lắng nghe nhau, mạnh ai nấy phát ngôn, hoặc ông nói gà bà nói vịt, thì làm sao gia đình có hạnh phúc? Biết lắng nghe và đối thoại cởi mở chân thành sẽ giúp hai vợ chồng cảm thông với nhau, bữa ăn gia đình sẽ tránh được cảnh “cơm không lành, canh không ngọt” ! Tình thương giữa cha mẹ và con cái cũng sẽ nên đậm đà thắm thiết.

– Ở trường học cũng thế, giữa học sinh và thầy cô giáo, giữa các bạn trẻ, cũng phải biết nghe nhau. Ngoài ra chúng ta còn phải biết lắng nghe tiếng than của những người nghèo khổ cô đơn bệnh tật… Đối với người già cả, liều thuốc hiệu nghiệm chữa bệnh buồn chán và món quà quý giá nhất mà họ ưa thích là được ai đó sẵn lòng lắng nghe và chia sẻ vui buồn với họ…

  1. LỜI CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. “Ép-pha-tha!”, Xin hãy mở lòng trí con, để con trở thành tay chân cho những người tàn tật, thành đôi mắt cho kẻ đui mù. Để con biến thành tai nghe cho những người bị điếc, trở nên miệng lưỡi cho những kẻ ngọng câm. Để con trở thành tiếng kêu oan cho những kẻ bị áp bức…

Lạy Chúa, xin giúp con thực thi đức ái giữa đời thường: Sẵn sàng mở hầu bao để chia sẻ cơm bánh vật chất cho kẻ đói ăn, đem nước uống cho những kẻ đang khát; Để con trao thuốc men cho người bị ốm đau, chia sẻ áo lành cho những người rách rưới, mang mền đắp cho những kẻ lạnh run, chỗ trú thân cho những kẻ không nhà… Nhất là để con chia sẻ tình thương của Chúa, sẵn sàng tha thứ vô điều kiện và chủ động giơ tay ra trước để làm hòa với những ai đang thù ghét con.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục

ĐỨC GIÊSU, ĐẤNG CHỮA LÀNH

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

1/ Đức Giê-su, Đấng chữa lành

Trong Tin mừng (Mc 7, 31-37) của Chúa nhật 23 thường niên B hôm nay, chúng ta bắt gặp hình ảnh một người vừa bị ngọng vừa bị điếc được người ta đem đến để nhờ Đức Giê-su đặt tay chữa lành. Cái thiệt thòi của anh ta là không thể lắng nghe khi gặp gỡ mọi người và không thể nói rõ được khi đối diện với những người chung quanh. Đây là một nỗi khổ. Đây là một nỗi đau về thể lý. Anh ta chắc là đã vất vả chạy thầy chạy thuốc nhưng xem ra bất lực. Hôm nay, nơi vùng dân ngoại này, anh ta và mọi người nghe biết và đón gặp được Đức Giê-su, Đấng có uy quyền trong lời giảng cũng như việc làm để mong rằng sẽ được cứu chữa. Hình ảnh Đức Giê-su đã được tiên báo gần cả ngàn năm qua ngôn sứ Isaia trong bài đọc I: “Thiên Chúa của anh em đây rồi; sắp tới ngày báo phục, ngày Thiên Chúa thưởng công, phạt tội. Chính Người sẽ đến cứu anh em. Bấy giờ mắt người mù mở ra, tai người điếc nghe được. Bấy giờ kẻ què sẽ nhảy nhót như nai, miệng lưỡi người câm sẽ reo hò.” (Is 35, 4-6). Đúng vậy, Đức Giê-su đã xuất hiện để thực hiện những lời tiên báo về Ngài. Nơi nào Ngài hiện diện là nơi đó được thi ân giáng phúc. Ngài hiện diện là kẻ điếc được nghe, kẻ câm nói được, kẻ què được đi, kẻ đui mù được sáng, kẻ bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, và ngay cả kẻ chết đều được hồi sinh.

Quả thật, sau lời mời gọi đặt tay cho người vừa bị ngọng vừa bị điếc, Đức Giê-su đã không ngần ngại để thi thố quyền năng của Thiên Chúa. Ngài kéo riêng anh ta ra như muốn diễn ta sự gặp gỡ thân mật giữa Ngài với anh ta. Đồng thời, Đức Giê-su cũng muốn anh ta không bị đám đông quấy rầy và muốn giúp anh dễ dàng đón nhận sự chữa lành này cách nhẹ nhàng mà không ồn áo náo động. Đức Giê-su ‘đặt ngón tay vào lỗ tai và nhổ nước miếng mà bôi vào lưỡi anh ta’(Mc 7, 32-33). Đây là ngôn ngữ cử điệu nhằm giúp anh ta sẽ được cứu chữa. Rồi Đức Giê-su ‘ngước mắt lên trời’ (c.34) như muốn nói rằng quyền năng đến từ trên cao. Anh sẽ được chữa lành là bởi từ trên cao chứ không phải con người. Thật vậy, điều con người không thể thì đối với Thiên Chúa mọi sự đều có thể. (x.Lc 1,37)

Chúng ta thấy Đức Giê-su ‘thở dài’ (c.34) như diễn tả lòng thương xót cũng như sự rung động của Ngài trước hoàn cảnh này. Vì Ngài là hiện thân lòng thương xót của Thiên Chúa, nên trong mọi nơi mọi lúc và đối với mọi người, Ngài đã không ngừng ban ơn và chúc phúc. Điều đặc biệt là Đức Giê-su đã dùng lời để chữa lành như những lần khác, khi Ngài nói: “Ep-pha-ta”, nghĩa là: hãy mở ra (c.34)! Từ lời phán của Đức Giê-su lưỡi được giải phóng khỏi sự ràng cột đã từng khiến nó không thể nói năng rành mạch. Tai của anh đã nghe rõ ràng. Anh như đã trở nên con người bình thường nhờ quyền năng của Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su Ki-tô. Quả thật, phép lạ không do bởi những cử chỉ của Đức Giê-su nhưng thực ra bởi ‘Lời’ được phán ra.

Tuy nhiên, chúng ta nên hiểu rằng việc Đức Giê-su vừa làm không chủ ý đến việc chữa lành thân xác mà hệ tại ở việc chữa lành bệnh thiêng liêng, bệnh tâm hồn hay bệnh đức tin. Vì thế, nhiều lần trong Tin mừng, trước khi chữa lành bệnh thể lý cho ai, Đức Giêsu thường nói: Đức tin con đã chữa lành con.(x.Lc 8,48; Mt 9,22; ) Quả thật, Đức tin mới là quan trọng. Một khi đức tin được củng cố mạnh mẽ thì thân xác sẽ được khoẻ mạnh và an toàn.

Qua việc chữa lành của Đức Giê-su đối với người vừa bị ngọng vừa bị điếc, chúng ta được mời gọi nhận biết về một vị Thiên Chúa tình yêu và tràn đầy lòng nhân ái đối với con người, nhất là đối với những hoàn cảnh khổ đau, bệnh tật, nghèo đói, bị loại ra khỏi lề xã hội,…Trong bối cảnh mọi người đang phải hoang mang lo sợ bởi đại dịch Covid-19 trên toàn thế giới, nhất là tại Việt nam chúng ta: nhiều người đã bị nhiễm bệnh, hàng triệu người đã phải tử vong, dường như chúng ta đã cảm thấy mỏi mệt và bất lực hoàn toàn trước sự hoành hành của con Vi-rút nhỏ bẻ này. Tiền tài danh vọng cũng đã thất bại trước nó. Quyền cao chức trọng sở hữu và chạy theo nó bấy lâu, nay cũng tiêu tan và cũng chẳng thể làm được gì trước sự tấn công của Covid. Nhưng dưới nhãn quan đức tin, là những người tin vào Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa, Ngài là Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta, chúng ta được mời gọi hãy tin tưởng vào quyền năng chữa lành của Ngài. Nơi Ngài, qua Ngài và trong Ngài, chúng ta sẽ được bình an và tràn đầy hạnh phúc nếu chúng ta tin. Ngoài Người ra, không ai có thể đem lại ơn cứu độ cho con người.(x.Cv 4,12). Thật vậy, dù sống dù chết, dù bệnh thể lý hay tâm hồn, chúng ta chỉ thật sự được giải thoát nơi danh Đức Giê-su.

Mỗi chúng ta đang đối diện đủ thứ bệnh tật không phải ngọng và điếc về thể lý nhưng ‘ngọng và điếc’ về mặt tâm hồn đang cần đến sự chữa lành của Đức Giê-su. Quả thật, đối với Covd-19, chúng ta có thể tiêm vắc-xin để phòng ngừa, nhưng đối với căn bệnh “covid tâm hồn” là vô cảm, là ích kỷ, là tham lam, là hận thù, là trộm cắp, là giết người, là ngoại tình, là cờ bạc, là rượu chè, là nói hành nói xấu, là bất hoà bất thuận,…chúng ta cần phải tiêm ‘Vắc-xin’ Lời Chúa, ‘Vắc-xin’ Mình Máu Thánh Chúa để loại trừ và giải thoát. Tuy nhiên, không chỉ dừng lại việc đón nhận chữa lành cho mình mà không màng tới anh chị em chung quanh.

2/ Chúng ta được mời gọi chữa lành cho nhau

Người ta thường nói ‘có đi có lại mới toại lòng nhau’. Câu nói đó có thể cũng đang mời gọi chúng ta hướng về một nghĩa thiêng liêng giữa ta với Thiên Chúa. Vì chúng ta được Thiên Chúa dựng nên từ hư không, được dựng nên giống hình ảnh của Ngài, nên chúng ta cũng giống Ngài trong nghĩa cử yêu thương như Ngài đã yêu thương chúng ta. Ai yêu mến thì ở lại trong Thiên Chúa và Thiên Chúa ở lại trong người ấy. (x. 1Ga 4,16)

Vì thế, như Đức Giê-su đã luôn luôn thao thức và hướng đến việc chữa lành những mảnh đời đau khổ và bất hạnh, cụ thể trong bài Tin mừng của Chúa nhật hôm nay. Ngài đã chạnh lòng thương và chữa lành họ khi gặp gỡ. Đến lượt chúng ta, những người đã được chữa lành mỗi ngày bằng Lời Chúa và Mình Máu Thánh Chúa, chúng ta cũng không thể không yêu thương, chữa lành và quan tâm đến anh chị em chúng ta bằng những lời nói yêu thương, bằng những hành động bác ái, bằng những cử chỉ tôn trọng và chân thành.

Nơi bài đọc II (Gc 2, 1-5), Thánh Gia-cô-bê Tông đồ mời gọi chúng ta đừng sống thiên tư, thiên vị và kỳ thị anh chị em đồng loại, nhưng hãy có thái độ bao dung và thứ tha cũng như công bằng bác ái. Đây là thái độ sống cần đối với các ki-tô hữu chúng ta. Chúng ta không thể nói yêu mến Thiên Chúa mà lại không yêu thương anh chị em của mình. Vì như Gioan Tông đồ đã nói: “Các con thân mến, chúng ta hãy yêu mến Thiên Chúa, vì Người đã thương yêu chúng ta trước. Nếu ai nói mình yêu mến Thiên Chúa mà lại ghét anh em mình, thì là người nói dối. Vì người anh em mình xem thấy mà không thương yêu họ được, thì làm sao yêu mến Thiên Chúa là Ðấng mình không thấy được?” (1 Ga 4,19).

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...