CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN – B
Lời Chúa: Dnl 4,1-2.6-8; Gc1,17-18.21b.22-27; Mc 7,1-8a.14-15.21-23
--------------------------------
1. Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến (Gm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Hãy sống chân thật (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
3. Tẩy rửa con tim (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)
4. Cội nguồn của tội ác (Lm. Inhaxiô Trần Ngà)
5. Giữ luật với lòng mến Chúa (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)
6. Luật phàm nhân và luật Thiên Chúa (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
7. Hình thức (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
8. Kẻ giả hình (Lm. Nguyễn Thái)
9. Lề luật và truyền thống (Lm. Đinh Lập Liễm)
10. Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật 22 TN_B (Jorathe Nắng)
11. Suy niệm Chúa Nhật 22 TN_B (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)
12. Thờ phượng Chúa hết lòng (Phó tế Đaminh Nguyễn Bình An)
13. Sạch và đẹp (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
14. Tâm hồn thanh khiết (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
15. Tuân giữ giới răn và thực hành lời Chúa (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)
16. Con tim bệnh tật (Lm. Vũ Đình Tường)
17. Suy niệm chú giải Lời Chúa – Chúa Nhật 22 TN_B (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
18. Bác ái trong lề luật (Anna, Tập sinh MTG.Thủ Đức)
19. Chỉ nghe suông là lừa dối chính mình (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
20. Tôn kính bằng đầu môi chót lưỡi (JM. Lam Thy, ĐVD)
21. Tuân giữ giới răn lề luật của Chúa (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
22. Thiện căn hệ tại lòng ta (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
23. Ai là người Pharisieu? (Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh, MD)
24. Chúa Nhật 22 Thường niên_B (Lm. Antôn)
TÂM BẤT BIẾN GIỮA DÒNG ĐỜI VẠN BIẾN
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Một người khi được hỏi: Trên đời sợ gì nhất? đã trả lời: sợ nhất là con người. Con người vừa cao cả vừa thấp hèn, vừa đáng kính vừa đáng sợ. Con người là tác nhân làm nên những kỳ vĩ, nhưng cũng là lý do gây nên bao đau khổ. Trí thông minh của con người có thể đem lại những kỳ tích giúp thăng tiến và phát triển, đồng thời cũng có thể gây tai họa hủy diệt chết chóc hoàng loạt. Con người vừa là điểm kết nối yêu thương, vừa là nguyên nhân gây chia rẽ bất hòa. Chính vì vậy mà con người trở nên “đáng sợ” nhất. Nhiều khi người ta đem hình ảnh ma quỷ ra để đe dọa người khác. Tuy vậy trong thực tế, chưa bao giờ thấy ma quỷ hiện hình giết người, mà chỉ có những người đang sống giết nhau một cách dã man. Lòng đố kỵ, tham lam đã khiến con người đoạt mạng sống của đồng loại một cách không thương tiếc, để lại những hậu quả khôn lường. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhận ra đâu là nguồn gốc của tội lỗi. Tội lỗi không phải là điều gì từ bên ngoài, nhưng xuất phát từ trong chúng ta. Chính con người là nguyên nhân gây ra tội lỗi và đau khổ cho bản thân và cho đồng loại. Trong kinh “Cải tội bảy mối” chúng ta thấy những “mối tội đầu” đều đến từ tà ý và ích kỷ của con người: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, lười biếng việc đạo đức. “Tâm bình thế giới bình”. Tập luyện để có được tâm hồn bình an, đó là điều kiện quan trọng để góp phần xây đắp an bình trong cuộc sống và trong xã hội.
Vào thời Chúa Giêsu, một số lớn những kinh sư và người biệt phái thường chú trọng tới những thủ tục bề ngoài mà coi thường tinh thần của lề luật và lãng quên đức bác ái. Chúa đã nhắc lại giáo huấn của ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.Rồi Chúa kết luận: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”. Kinh sư và biệt phái là những người học hành uyên thâm, họ có uy tín trong các cộng đoàn Do Thái, và có vị trí quan trọng trong các buổi hội họp. Chính những “bậc vị vọng” ấy đang bị Chúa kết án nặng nề và coi họ như những kẻ đạo đức giả. Họ lạm dụng khái niệm thánh thiêng và trần tục, và đã tự đặt ra rất nhiều quy định rườm rà và tỉ mỉ. Những quy định này, thay vì giúp cho con người nên thánh, lại đặt trên vai họ những gánh nặng không kham nổi. Những công việc bình thường hằng ngày như rửa tay, rửa chén, rửa bát, họ đã biến thành những nghi thức tôn giáo để kết tội người dân. Chúa Giêsu đã phê phán quan niệm ấy, và mời gọi họ chú trọng đến nhân vị, tức là chính con người. Bởi lẽ, những quy định, luật lệ được thiết lập là phục vụ con người và giúp họ hướng thượng và nên trọn lành.
Cũng giống như những kinh sư và người biệt phái ngày xưa, nhiều khi chúng ta chỉ chú trọng tới những gì là “xã giao”, “lễ nghi”, “thủ tục” mà quên đi mục đích quan trọng của lề luật, đó là giúp ta nên thánh trước mặt Chúa và trước mặt anh chị em. Vì quá chú trọng đến những thủ tục và truyền thống, nhiều khi những tương giao của chúng ta trở nên giả hình, gượng ép, thậm chí là giả dối.
Niềm tự hào của dân tộc Do Thái ngày xưa, cũng là niềm vinh dự của người Kitô hữu hôm nay, đó là được Chúa luôn hiện diện giữa cộng đoàn những người tin vào Người. Ông Môisen nhắc người Do Thái đừng quên điều ấy. Giáo Hội hôm nay cũng nhắc chúng ta như vậy. Trải qua những sóng gió trong cuộc lữ hành sa mạc, trên đường về Đất Hứa, người Do Thái càng nhận ra quyền năng của Chúa cũng như tình yêu thương Ngài dành cho họ. Trước tình thương ấy, Ông Môisen đã dặn dò: “Anh em phải giữ và đem ra thực hành những mệnh lệnh của Đức Chúa, vì nhờ đó mà anh em em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh”. Nhờ tin vào Chúa mà dân tộc Do Thái trở nên vĩ đại. Hôm nay, Giáo Hội của Chúa như cây nho vươn cành ra khắp thế giới, bao phủ địa cầu và đang sinh hoa kết trái, trở thành một vương quốc vĩ đại của Thiên Chúa.
Biết bao lần chúng ta tham dự các nghi thức phụng vụ mà tâm hồn chúng ta xa Chúa. Có nhiều khi chúng ta giống như những người kinh sư và người biệt phái, chỉ chú trọng đến những nghi thức bề ngoài mà coi nhẹ tâm tình cầu nguyện, là điều cốt lõi để làm thành việc tôn thờ đích thực. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Hãy khiêm tốn đón nhận Lời được gieo vào lòng chúng ta… Hãy đem Lời ấy ra thực hành chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Bài đọc II). Đối với thánh nhân, lòng đạo đức thật phải sinh ra hoa trái là lòng bác ái và dấn thân phục vụ người nghèo, giúp họ tìm được niềm vui trong cuộc sống.
Vì tội lỗi đến từ con người. Nếu mỗi chúng ta chú tâm đến việc canh tân đổi mới cuộc đời, cuộc đời này sẽ bớt đi những mâu thuẫn hận thù và bạo lực. Với tư cách là Kitô hữu, hãy thắp sắng cuộc đời bằng những nhân đức và bằng tình yêu thương, để rồi cuộc sống chan hòa và thấm đượm tinh thần Tin Mừng yêu thương. Trái tim an bình và thánh thiện là điều kiện không thể thiếu để kiến tạo hòa bình xung quanh chúng ta.
Sống không giận, không hờn, không oán trách
Sống mỉm cười với thử thách chông gai
Sống vươn lên cho kịp ánh ban mai
Sống chan hòa với những người chung sống
Sống là động mà không xao động
Sống là thương mà chẳng vấn vương
Sống hiên ngang danh lợi ta coi thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến (Sưu tầm).
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đôi khi tôi vẫn tự hỏi: tại sao Thiên Chúa tạo dựng con người có trí tuệ thông minh, có thể biết mọi sự nhưng Ngài lại không cho con người biết được lòng nhau? Có đôi khi ta vẫn nghe ai đó nói rằng “Tôi đi guốc trong bụng anh đấy!”, nhưng chỉ là “suy bụng ta ra bụng người” chứ chẳng ai đi guốc được trong bụng nhau! Vì con người là một diễn viên tài ba có thể che dấu sự thật về mình.
Thế nên, người đời mới chua cay nói rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”. Con người dường như luôn có bí mật để dấu mọi người. Có khi cả tội lỗi mà chẳng ai nhận ra.
Có một người đàn ông khi hấp hối hỏi vợ:
– Em yêu, trước khi chết, anh muốn biết sự thật và sẵn sàng tha thứ cho em. Thằng thứ tư có phải là con anh không?
– Tất nhiên nó là con anh. Em xin thề!
Người đàn ông lộ vẻ sung sướng và trút hơi thở cuối cùng. Người vợ vừa vuốt mắt cho chồng vừa thở phào:
– May là ông ấy không hỏi mình về ba đứa đầu…
Quả thực giữa muôn loài trong thế gian chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn . . . Chỉ có con người mới có kiểu nói vậy mà không phải vậy nên rất khó biết lòng nhau.
Hôm nay Chúa Giê-su khẳng định: “không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế”. Điều này dường như Chúa muốn nói tội xuất phát từ bên trong. Tội chỉ là hành vi làm điều gì đó có lỗi mà từ trong tâm hồn con người đã nuôi dưỡng. Có khi tội cũng chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng trong tâm hồn những điều bất chính hay những điều ngược với đức ái Ky-tô.
Hôm nay nhân việc các kinh sư trách các môn đệ Chúa không rửa tay trước khi ăn. Đối với người Do Thái việc rửa tay là luật mà họ phải tuân giữ để chứng tỏ mình sạch trước mặt mọi người. Nhưng Đức Giê-su đã cho họ biết thế nào là sạch, thế nào là dơ. Cá có zòi rửa sạch nhưng bên trong đã hư thối. Sạch dơ đều phải dựa vào cái bên trong. Thế nên, cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ. Từ lòng mà sinh ra các tội: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, lăng loàn , . . .
Đức Giê-su không phản đối việc rửa tay trước khi ăn, Người chỉ phản đối thói vụ hình thức, vì họ quá quan trọng cái bên ngoài mà quên làm sạch bên trong. Làm người cần có tấm lòng như Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết rằng: “sống trên đời cần có một tấm lòng”. Một tấm lòng chân thành, biết trao yêu thương. Khi tạo dựng con người Thiên Chúa cũng truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31). Một trái tim biết yêu thương, một tấm lòng chân thành yêu thương nhau. Con người phải để gió cuốn đi tấm lòng yêu thương chân thành đến với tha nhân.
Người ky-tô chúng ta đang sống trong mọi thế giới mà sự lừa dối lên ngôi đến mức cảnh báo ở khắp mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Thế giới hôm nay người ta cũng đề cao hình thức nên cũng cố đánh bóng mình bằng nhà cửa, xe cộ, phương tiện đắt tiền để khoe mẽ, để tạo niềm tin cho đối tác nhưng có mấy ai thực sự là sở hữu riêng mà không phải vay mượn.
Một xã hội nặng hình thức và lừa dối cần lắm một đời sống chứng nhân cho sự chân thành và lòng quảng đại không điều kiện của người tín hữu chúng ta. Thiên Chúa biết rõ mọi sự hãy sống dưới cái nhìn của Chúa. Thế nên, hãy sống chân thành với nhau. Vợ chồng đừng che dấu nhau điều gì nhưng luôn cởi mở thân tình. Bạn bè cần sống chân thành để gìn giữ niềm tin cho nhau. Đối tác cần sống thật để cho mối quan hệ làm ăn bền vững . . .
Người Ky-tô hữu mỗi khi đưa tay để đón nhận tình thương và sự thanh sạch của Thiên Chúa nên cũng cần phải thanh sạch từ ngoài đến tâm hồn không hoen ố vấn đục bởi tội lỗi, bởi toan tính thấp hèn. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh sạch trong tâm hồn và chân thành trong đời sống của mình. Amen
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, từ khám phá này tới khám phá kia : có những câu chuyện xem ra nực cười nhưng cũng dở mếu dở khóc bởi vì những lố bịch của người Biệt phái, của những Tư tế, Pharisêu luôn gây cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Chẳng hạn như việc rửa tay trước bữa ăn, hay việc đóng thuế thập phân, việc lên Đền thờ cầu nguyện, tất cả những sự việc ấy đều được các Biệt phái, Ký lục, Tư tế vv…làm ra to chuyện, coi là quá quan trọng. Việc rửa tay trước bữa ăn là việc vệ sinh bình thường, tuy nhiên khi Chúa Giêsu đang ở Galilêa, họ đã cất công từ Giêrusalem tới gặp Chúa hơn 170 cây số để hỏi Ngài chỉ có một việc là tại sao các môn đệ của Chúa không rửa tay trước bữa ăn.Điều này chứng tỏ người Do Thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy…
Người Pharisêu có tập tục, truyền thống rất kỹ về việc rửa tay trước bữa ăn. Họ sẽ không ăn bất cứ thức ăn nào khi chưa rửa tay.Thực ra, tục rửa tay đã có từ lâu dành riêng cho các Tư tế khi họ làm việc thờ phượng trong Đền thờ, rửa tay để tảy hết các ô uế, tạp khí, uế nhơ để các Tư tế xứng đáng làm việc tôn giáo, thờ phượng, tôn vinh Chúa. Sau này, người Do Thái cũng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện. Với sự suy nghĩ như thế, họ cũng rửa tay trước các bữa ăn vì đối với người Do Thái khi ra đường, ra chợ, tới nơi công cộng, con người ra ô uế. Phải rửa tay vì không rửa tay đồ ăn bị ô uế lây, đồ ăn ô uế sẽ khiên con người ô uế. Chúa Giêsu quả quyết :” Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế “. Người Do Thái, đặc biệt những Ký lục và Pharisêu đã biến việc giữ những tập tục tiền nhân trở nên gánh nặng, họ chỉ giữ bề ngoài, ai giữ luật, ai giữ tập tục họ cho người đó là đạo đức, công chính, thánh thiện, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn ai không giữ thì họ cho là phạm tội vv…
Do đó, Chúa Giêsu mới vạch mặt thói giả hình của họ bởi vì họ chỉ giữ những gì là bề ngoài, như người Pharisêu đã quá chú trọng cái bề ngoài mà quên đi cốt lõi của lề luật là tình yêu. Chúa khiển trách, lên án người Pharisêu và Luật sĩ vì gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, và duy trì truyền thống của phàm nhân. Truyền thống của người phàm là truyền thống chỉ mang hình thức, giả hình, chiếu lệ.Họ giữ bề ngoài mà bề trong đầy tham lam, gian dối.Họ rửa tay trước bữa ăn mà quên đi việc tẩy rửa tâm hồn.Rửa tay để an tâm vì đã sạch tay. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn bởi vì theo Chúa Giêsu nói thì sự xấu, sự dơ dáy không phải từ bên ngoài vào mà từ bên trong xuất phát ra. Chính Chúa Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim, từ trong tâm hồn. Chính những ý định xấu ấy dẫn con người đến hận thù, ghen ghét, chia rẽ, liều lĩnh, gây ra tội lỗi. Giữ những tập tục, truyền thống người phàm mà quên đi giữ giới răn, lề luật của Thiên Chúa thì không thể nào chấp nhận được. Tất cả những việc chúng ta làm nếu không phải vì Chúa, vì tha nhân, vì tình yêu Thiên Chúa, thì quả thực không có ý nghĩa gì. Lời Chúa
Hôm nay cảnh tỉnh mỗi người chúng ta rằng truyền thống, luật lệ và nghi lễ không phải là cốt yếu của lề luật của Chúa. Cốt lõi của lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn và thương yêu người thân cận, yêu thương ngay cả kẻ thù như chính mình. Thánh Phaolô quả thực đã có lý khi nói dù chúng ta có là gì mà thiếu đức bác ái cũng chỉ như tiếng thanh la, não bạt chập cheng…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết thanh tẩy con tim, tẩy uế tâm hồn để lời nói, việc làm của chúng con luôn rập theo ý của Chúa. Xin cho chúng con biết lăng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống của chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao người Pharisêu và Ký lục lại rửa tay trước bữa ăn ?
2.Những người Do Thái bắt chước rửa tay trước bữa ăn để làm gì ?
3.Cốt yếu của lề luật là gì ?
4.Truyền thống, lề luật và nghi thức có phải là cốt yếu để trở nên thánh không ?
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu, đám đông hô vang: “Hủy bỏ bom đạn giết người!”
Sau đó, trong nhóm tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: “Làm gì có bom đạn giết người! Bom đạn có giết ai bao giờ đâu? Chỉ có những người ác chế ra bom đạn, rồi ném bom lên đầu người khác mới gây nên thảm họa giết người.”
Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: “Đả đảo những kẻ giết người!”
Nhưng rồi lại có người bàn thêm: “Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có việc giết người chứ! Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào ai lại đi giết người!”
Ý kiến nầy được xem là chí lý.
Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: “Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng ghen tị! Đả đảo sự hận thù!” (dựa theo Cha Anthony de Mello)
Chính những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi xấu xa trong cuộc đời và trên thế giới. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con người là thứ phải truy diệt trước hết.
Vì chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giê-su cứ lo rửa ráy bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ chú mục vào việc rửa tay trước khi dùng bữa, cho rằng đó là việc quan trọng hàng đầu và trách móc các môn đệ Chúa Giê-su đã bỏ qua tập tục đó.
Nhân cơ hội nầy, Chúa Giê-su dạy cho các ông một bài học: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mác-cô 7, 14-15. 21-23)
Sự kiện sau đây được thuật lại trong sách Sa-mu-en tỏ cho chúng ta thấy mầm mống ganh tị bên trong là động cơ phát sinh ra tội ác bên ngoài:
Thời ấy, Gô-li-át, một kiện tướng của quân Phi-li-tinh, một người khổng lồ có sức mạnh vô địch, khiêu chiến với quân Ít-ra-en. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en, không ai dám đương đầu với tên khổng lồ ấy.
May thay, Đa-vít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Quân Ít-ra-en bấy giờ thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, đánh tan quân địch không còn manh giáp.
Sau đó, phụ nữ từ các thành Ít-ra-en tuôn ra các ngã đường chào mừng vua Sa-un chiến thắng và ca tụng Đa-vít như vị anh hùng kiệt xuất: “Vua Sa-un giết được một ngàn, còn Đa-vít giết được hàng vạn” (Samuen I, 18, 6-8).
Lời ca tụng đó làm cho lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un khiến nhà vua tìm mọi cách tiêu diệt Đa-vít và đem quân truy lùng tận những hang núi sâu, mưu toan tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.
Đúng là những gì xấu xa trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con người là điều mà người ta phải quan tâm tiêu diệt trước hết.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con mỗi ngày biết dành thời gian thinh lặng để nhìn sâu vào tận đáy lòng mình, nhờ đó, chúng con có thể phát hiện ra những ham muốn xấu xa, những kiêu căng và ghen tị, những tham lam và thù ghét đang âm ỉ trong lòng mình. Chính những thứ đó mới là nguyên nhân gây nên biết bao tội ác, tạo nên mọi điều xấu xa trong xã hội loài người.
Xin giúp chúng con kiên quyết nhổ bỏ những dục vọng xấu xa đen tối khỏi tâm hồn mình ngay từ hôm nay, để mai đây chúng con khỏi bị chúng điều khiển, chi phối và xô đẩy vào vũng lầy tội lỗi.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ Lời Chúa thường niên B năm tuần vừa qua bị gián đoạn bởi chương 6 Tin Mừng Gioan xen vào, hôm nay chúng ta trở lại với chương 7 Tin Mừng Macô, Chúa Giêsu giúp các môn đệ cũng như người đương thời đào sâu ý niệm về sự trong sạch và những luật lệ liên quan. Về vấn đề này, thư thánh Giacôbê trong bài đọc II cũng soi sáng cho chúng ta khi ngài viết : « Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này» (Gc 1,27 ).
Đạo trong sạch
Từ thế kỷ thứ II, người Do thái đưa ra luật cấm không được giao du và ăn uống với dân ngoại, để khỏi bị ô uế. Người Pharisiêu cho rằng tôn giáo của họ phát xuất từ Thiên Chúa, tẩy sạch là một nghi lễ công cộng, “vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước” (Mc 7), thế nên họ chướng tai gai mắt khi thấy môn đệ Chúa Giêsu “dùng bữa với bàn tay không trong sạch” (Mc 7,3). Người Do thái chỉ ăn sau khi đã rửa tay (x. Mc 7,3), các tập tục của họ gắn bó với “truyền thống” (Mc 7,4), thể hiện lòng trung thành với “Thiên Chúa, Đấng ở gần họ” (x. Dnl 4, 7) như Môise đã nói.
Cần phải ghi nhận rằng, Chúa Giêsu không đến để hủy bỏ Lề Luật. Nhưng dạy người ta chống lại thói đạo đức giả hình, vụ hình thức, quan trọng hóa luật lệ của con tim với nghi lễ bên ngoài. Người lên án việc làm khiến người ta xa rời Thiên Chúa, và nghĩ rằng thực hành tỉ mỉ của các quy tắc Luật định là vinh quang ; mặt khác, theo Chúa Giêsu, sự trong sạch không tùy thuộc vào lễ nghi thanh tẩy, nhưng tùy thuộc vào tấm lòng.
Lòng trong sạch
Khi tuyên bố : “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế ” (Mc 7), cái đó không chạm tới lòng người ta, nhưng vào trong bụng và kết thúc trong cống rãnh. Theo Chúa Giêsu, điều gì làm cho chúng ta ô uế : ” Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế“.
Những gì là nhơ bẩn, ô uế, hay những ý định và hành động xấu xa không đến từ bên ngoài, mà đến từ lòng dạ xấu xa và xa rời Thiên Chúa. Thiên Chúa không hiện diện khi lòng người rời xa Chúa.
Tôn giáo được Chúa Giêsu thiết lập không giảm thiểu vào các nghi lễ bên ngoài, gồm một mớ những học thuyết và đạo đức giả ; đây là sự mặc khải về khuôn mặt của Thiên Chúa trong nhân loại nơi con người Chúa Giêsu. Việc thực hành đạo dù lớn hay nhỏ, chỉ có ý nghĩa và có giá trị khi được sinh ra từ tình yêu, được tháp tùng bởi tình yêu và được tiêu thụ trong tình yêu.
Yêu thương là chu toàn Luật Chúa
Tập tục của tiền nhân người Do thái thích giữ với lòng đạo đức ấy lại trái với Luật Môise. Đó là lý do tại sao Êsai nói : “Bạc của ngươi hóa thành ten chì, rượu đã trá pha nước lã“ (Is 1,22), cho thấy người xưa kết hợp sống giới luật của Chúa với một truyền thống nhạt nhòa, nghĩa là họ đã thiết lập một luật biến chất trái với Luật Chúa. Chúa Giêsu trách họ : Tại sao các ông phạm đến lệnh truyền của Thiên Chúa nhân lệ truyền của các ông? (Mt 15,3) Họ bỏ qua những điều cần thiết, thêm vào những khoản phụ và giải thích theo lối khác, việc họ làm lột tẩy họ là những kẻ đạo đức giả hình.
Họ cương quyết bảo vệ các tập tục, nhưng không tuân thủ Luật Chúa. Thậm chí họ đổ lỗi cho Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabát khi chữa bệnh, điều mà Luật không cấm. Tuy nhiên, họ không nhận lỗi về mình đã vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa, luật của họ thiếu hẳng tình yêu. Tình yêu này, trên thực tế, là điều răn thứ nhất và trọng nhất, và thứ hai là tình yêu của người lân cận.
Thánh Phaolô cũng nói : Yêu mến là chu toàn cả Lề luật (Rm 13,10) và khi tất cả chỉ còn lại Tin, Cậy, Mến. Ấy là bộ ba! Nhưng trong bộ ba ấy, Mến lớn hơn cả! ( 1Cor 13,13). Và giả như tôi được ơn tiên tri, và biết mọi sự nhiệm mầu, toàn cả trí tri; và giả như tôi được tất cả lòng tin, khiến chuyển được đồi núi, mà tôi lại không có lòng mến, thì tôi vẫn là không! (1Co 13,2). Nếu không có bác ái thì tất cả chỉ là không.
Chính bác ai mang lại sự hoàn hảo cho con người, vì ai yêu mến Thiên Chúa là hoàn hảo trong thế giới hiện tại và tương lai. Vì chúng ta sẽ không bao giờ ngừng yêu mến Thiên Chúa, nhưng hơn thế nữa sẽ chiêm ngắm và yêu mến Ngài đồng thời thương tha nhân.
.
LUẬT PHÀM NHÂN VÀ LUẬT THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Chúa Giêsu đứng về phía người nghèo và những người cô thế cô thân. Chính vì vậy, Chúa luôn chỉ rõ đâu là điều quan trọng, hình thức hay nội dung, bề ngoài hay bên trong nội tâm, rửa tay hay rửa cõi lòng. Luật phàm nhân hay luật Thiên Chúa?
Đứng về phía con người
Thời Chúa Giêsu, xứ Palestine có những nét tương phản: Giữa đa số người nghèo và số ít thành phần người Do Thái thống trị thông đồng với Đế quốc Roma kiếm chác thu lợi. Có những phong trào cách tân, xa rời tôn giáo truyền thống.
Chúa Giêsu Đấng giải thoát, Người là Đấng hoàn toàn tự do với lề luật, cung cách tiếp cận với những người tội lỗi và bị bỏ rơi giữa xã hội. Không theo những xét đoán nghiêm khắc của nhóm biệt phái, những lên án của thượng tế và luật sĩ.
Người hướng tới một điều duy nhất: “Sự thật sẽ giải thoát” (Ga 8, 32). Theo não trạng người Do Thái hiểu sự thật nghĩa là trung tín. Khi Chúa nói rửa nội tậm chứ đừng rửa chén đĩa bên ngoài, được hiểu là cần trung tín trong lời nói cũng như việc làm, chứ đừng chỉ nói mà không làm. “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23, 3)
Luật Của Chúa
Luật của Chúa là luật của tự do đích thực, không bị kiềm hãm trong tội lỗi và sự dữ. Lề luật trọn hảo và toàn thiện, trợ giúp con người biết sống yêu thương nhau, không thù hận, oán ghét, giành giật, khinh khi, ngạo mạn. Một lề luật cởi trói hoàn toàn khỏi những điều xấu xa..
Chúa Giêu đã thực hiện giới luật ấy trọn vẹn để cho con người được thấy. Người đi đến với người nghèo khổ, đau bệnh. Người đồng bàn với người tội lỗi, thu thuế. Người tiếp xúc với phụ nữ đúng với phảm vị của họ được tôn trọng, trao cho họ lời loan báo Chúa phục sinh…
Chúa không lệ thuộc vào lời nói ra vào của người khác, không in trí một điều xấu nào nơi người Chúa gặp gỡ. Tự do trong mọi hành động và giao tiếp bình đẳng với mọi người, trả lại quyền tự do cho con người. Chúa muốn thiết lập sự công bằng trên trái đất cho mọi người. Thái độ đó nói lên, mọi người trên trái đất này đều có quyền sống, bình đẳng, sở hữu, và tự do như nhau. Đó là điều cơ bản cho mọi bản tuyên ngôn độc lập cho nhiều quốc gia.
Chúa Giê su không phải là một chính trị gia, cũng chẳng phải là vị lãnh đạo trần thế nào, mà cũng không dựa trên quyền bính thế gian nào. Chỉ có một điều Chúa Giêsu nhân danh, đó là Nước Chúa ngự đến, Ý Chúa cha được thực hiện trên trần gian này.
Luật Thiên Chúa luôn là một luật của tự do. Con người được tự do đáp lại lời gọi của Thiên Chúa, thực hiện Lời Chúa Giêsu giảng dạy, đi theo lối đường của Chúa. Sống tự do là con cái Chúa cũng giúp cho mọi người sống trong tự do đó. Cuối cùng luật của tự do là luật yêu thương như Chúa yêu thương.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiền nhân tập tục thực thi,
Rửa tay rửa chén, trước khi dự phần.
Bàn tay tinh sạch bụi trần,
Xác thân tắm rửa, tinh thần thảnh thơi.
Mấy Thầy Biệt Phái gọi mời,
Thực hành tập tục, trong đời sống đây.
Phê bình môn đệ điều này,
Tay dơ không sạch, ăn ngay tiệc mời.
Không theo luật lệ ở đời,
Bàn tay dơ dáy, mọi nơi nhúng vào.
Giả hình môi miệng cao rao,
Tôn thờ Thiên Chúa, trên cao hững hờ.
Tấm lòng trống rỗng lật lờ,
Miệng ngoài giả dối, tôn thờ thần ma.
Sự gì ô uế xuất ra,
Bên trong tâm trí, thật là gớm ghê.
Luật lệ trong tôn giáo là để giúp chúng ta nên trọn lành. Luật không phải là gánh nặng hay sự lừa dối. Giáo hội kêu mời chúng ta giữ đạo và tôn thờ Chúa với cả tấm lòng và trái tim chứ không phải giữ đạo bằng môi miệng. Chúa muốn lòng nhân lành, chứ không muốn của lễ. Tâm đức và ý hướng là cốt lõi của việc giữ đạo. Chúa hiểu rõ nội tâm của chúng ta.
Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu đối chất với các thầy Biệt phái về việc tuân giữ lề luật. Các Biệt phái chú ý chu toàn từng chi tiết nhỏ của luật như rửa tay, rửa chân, tắm rửa, lau chén bát… Họ giữ luật vì luật. Họ thờ kính Chúa qua các hình thức bên ngoài như may dài tua áo, giang tay cầu nguyện nơi phố xá. Họ làm thế cốt để khoe khoang. Lòng của họ thì trống rỗng. Chúng ta gọi đó là giả hình.
Các nhà lãnh đạo Do Thái cảm thấy bực dọc và gai mắt khi nhìn thấy các môn đệ của Chúa ăn uống mà không chịu rửa tay trước. Chúa Giêsu phản đối sự câu nệ của họ. Họ đồng hóa tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài. Chỉ khi chúng ta thi hành các công việc với lòng yêu mến Chúa thì việc làm của chúng ta mới có giá trị. Điều quan trọng không phải việc chúng ta làm mà chính là tình yêu thúc đẩy chúng ta thực hiện.
Truyện kể một vị Rabbi bị bắt tù ở Roma. Ông được phụng dưỡng tối thiểu, có cơm và có nước. Nhìn thấy vị Rabbi xanh xao yếu ớt. Bác sĩ khám nói rằng ông bị thiếu nước. Các người cai ngục bối rối. Không hiểu sao, vì họ vẫn cung cấp nước đầy đủ. Họ quan sát và phát giác ra Rabbi đã dùng nước uống để rửa tay theo nghi thức.
Thi hành lề luật trong đức ái. Lề luật sẽ dẫn chúng ta vào con đường chính trực. Có nhiều người coi chu toàn lề luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn không đáng kể. Chúa Giêsu đi vào nội tâm của con người. Chúa nhìn đến một tôn giáo rộng lớn hơn, một tôn giáo sống tinh thần bác ái. Tình yêu là tâm điểm.
Trong thánh lễ hay khi cầu nguyện, chúng ta cố gắng tham dự một cách tích cực. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa với trái tim nồng cháy. Tin tưởng Chúa là Cha luôn thương mến chúng ta. Chúa không phải là tượng gỗ không hồn mà là Thiên Chúa hằng sống, cảm nhận và yêu thương.
.
Lm. Nguyễn Thái
Trong nỗ lực làm sạch sẽ thành phố Los Angeles chuẩn bị cho ngày thế vận hội Olympic Games, và để gây ấn tượng tốt đẹp cho thành phố lớn nhất nhì thế giới này, vấn đề được đặt ra là phải giải quyết thế nào đối với những người vô gia cư nghề nghiệp và những kẻ say sưa đi lang thang trong thành phố. Những người này không thể bị đuổi ra khỏi thành phố hay nhốt vào những trại tập trung. Có một hãng sản xuất quần áo địa phương đã có sáng kiến tặng 350 bộ tuxedo của đàn ông và áo dạ tiệc của phụ nữ để họ ăn mặc ngoài đường phố trong suốt 2 tuần lễ. Với biện pháp này, người ta hy vọng sẽ giấu được một góc cạnh xấu xa dơ bẩn của đời sống trong thành phố.
Đây chính là sự giả hình mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 7: 1-8; 14-15; 21-23. Ngài đã nói với những người Biệt Phái và Luật sĩ, những chuyên viên về luật pháp, những người đã tố cáo các môn đệ của Chúa Giêsu là không giữ những phong tục, nghi thức bề ngoài: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’” (Is 7: 6-7).
Trong cuốn “Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh” do Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X dịch thuật đã định nghĩa sự giả hình dựa trên hai yếu tố: sự câu nệ hình thức và cứng lòng.
William Barclay đã chia sẻ một câu chuyện liên quan đến vấn đề câu nệ hình thức như sau: Một vị Rabbi Do Thái cao niên bị giam trong một nhà tù của người La Mã. Mỗi ngày ông đều nhận một khẩu phần ăn uống. Sau một thời gian, vị rabbi trở nên yếu ớt, gầy còm xuống ký rõ rệt. Những nhân viên cai tù thắc mắc muốn biết ông có bệnh gì không, nên cho mời một bác sĩ đến khám. Bác sĩ chuẩn đoán là bệnh nhân bị mất nước trầm trọng. Những nhân viên coi tù không thể hiểu được tại sao lại có thể xảy ra như vậy được. Họ tin là phần nước uống của vị rabbi đã được cung cấp đầy đủ. Những người canh gác bèn được lệnh phải canh chừng kỹ lưỡng xem vị rabbi đã làm gì với phần nước của ông; khi đó thắc mắc mới được giải tỏa: Những người canh gác đã trông thấy vị rabbi cử hành nghi thức tôn giáo rửa tay trước khi cầu nguyện và ăn. Do đó, ông ta còn rất ít nước để uống.
Nhiều người cũng lầm lẫn nghi thức, phong tục, và tập quán bề ngoài với sự thánh thiện (2 Tm 3:5). Chúng ta có một loạt danh sách các kinh phải đọc, những việc phải làm: lần hạt Mân Côi, đọc kinh Truyền Tin, tuần Chín Ngày, đeo Thánh Giá, đi Chặng Đàng Thánh Giá v.v… Chúng ta sẽ sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ có cách duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa là giữ những nghi thức này; hay là sẽ phạm tội nặng nếu không tuân giữ. Nhưng Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực chính là sự liên hệ yêu thương và mật thiết với Ngài (Ga 4:23). Sự liên hệ này mang lại cho chúng ta niềm vui và sự sẵn sàng hy sinh phục vụ Ngài.
Qua những lời của tiên tri Isaia, Chúa Giêsu đã tố cáo sự giả hình trong tất cả mọi hình thức vì người giả hình chỉ sống bề ngoài mà không thực lòng (Rm 12:9). Họ giống như những người vô gia cư ăn mặc tuxedo đi lang thang trong thành phố Los Angeles. Sự giả hình không gì khác hơn là một sự dối trá trong hành động. Họ đánh lừa người khác bằng những thái độ tôn giáo bề ngoài để chiếm được lòng quý mến.
Những người giả hình là những người “tâm ngôn bất nhất”. Họ không thực hành điều họ giảng dạy. Họ tuyên xưng thờ kính Thiên Chúa, nhưng chỉ ngoài môi miệng. Họ dạy và giải thích lề luật, nhưng không hiểu tinh thần của luật. Trong nhiều trường hợp, chính họ cũng không tin những điều họ nói và làm. Họ thường giả bộ tốt lành với những người khác. Trong ý nghĩa này một người giả hình thường hành động để đề cao chính họ. Những việc ăn chay, cầu nguyện, bố thí… được họ đánh tráo nhằm đề cao họ (Mt 6:2,5,16). Họ không bao giờ nhìn thấy điều tốt đẹp nơi những người khác, nhưng luôn luôn bới móc tìm kiếm những khuyết điểm để phê bình chỉ trích. Và sau cùng mọi sự sẽ tập trung vào chính họ (Mt 23:1-36).
Đức Ông Arthur Tonne kể câu chuyện sau đây về một linh mục đã kêu gọi sự giúp đỡ khẩn trương vào giờ sáng sớm. Sau khi dâng Thánh Lễ, từ nhà thờ trở về nhà xứ, ngài bị một tên ăn cướp dí dao đằng sau lưng: “Tiền hay mất mạng!” Khi nhìn thấy cái cổ trắng của chiếc áo đen, nó ra lệnh cho ngài phải vứt cái ví xuống đất. Sau đó, vị linh mục cảm thấy nhẹ nhõm lấy một điếu thuốc lá ra hút và mời tên cướp một điếu. Nó bèn từ chối mà rằng: “Cám ơn cha. Vì là Mùa Chay nên tôi tạm bỏ hút thuốc.”
“Sự câu nệ hình thức thì có thể sửa đổi được, nhưng sự giả hình thì gần như sự ‘cứng lòng’… Các ‘mồ mả tô vôi.’ Họ muốn lường gạt người khác. Họ tưởng mình công chính” (Lc 18:9; 20:20) (Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh).
Thế kỷ vừa qua, Đức Giáo Hoàng Piô XII (1939 – 1958) đã cảnh giác loài người cứng lòng, đang huênh hoang về nền khoa học kỹ thuật của mình: “Tội của thế kỷ này là tội đánh mất cảm giác về tội lỗi.” Đức Gioan Phaolô II đã lớn tiếng nói rằng: “Chủ nghĩa trần tục hóa -secularism – chủ trương không có Thiên Chúa cũng không có tội lỗi. Tâm lý học chống lại những cảm giác tội lỗi. Xã hội học quy trách tất cả trách nhiệm cho xã hội và nghĩ mình là nạn nhân. Nhân chủng học đổ lỗi cho môi trường. Cả những nhóm thần học mới lên diễn đàn giải thích rằng không có tội.”
Không những thời đại văn minh khoa học ngày nay đã đánh mất cảm giác về tội, mà còn đề cao một số tội lên hàng nhân đức. Tội tà dâm được coi là sinh hoạt tính dục trước hôn nhân. Phá thai được coi như quyền của phụ nữ. Sự thụ thai được coi như một con bệnh có thể điều trị được. Trong cuốn “Final Exit”, cuốn sách được báo The New York Times coi là sách bán chạy nhất, xuất bản lần đầu 40 ngàn cuốn, bán sạch trong một thời gian rất ngắn, Derek Humphry đã hướng dẫn những cách thức để một người có thể tự tử bằng 18 cách khác nhau. Ông Humphry quan niệm rằng tự tử là một hành động cao quý, có thể chấp nhận được!
Những người chủ trương trên là ai? Họ có thể là những người mang danh Kitô hữu, nhưng chẳng bao giờ biết đến bản chất của Kitô giáo là gì. Họ được rửa tội nhưng chẳng bao giờ giữ đạo. Thế nhưng hằng năm đến ngày Lễ Tro cả trăm ngàn người lũ lượt đứng sắp hàng để lãnh tro trên trán. Họ là những thành phần trí thức như bác sĩ, y tá, các giáo sư đại học, các thương gia, kỹ sư, chuyên viên v.v… trong các hãng lớn đang bôn ba với tiền bạc, đứng sắp hàng dài ngoài phi trường chờ đợi lãnh tro. Xức tro là gì mà những con người văn minh trí thức ngày nay lại biến nó trở thành như bản chất thiết yếu của tôn giáo vậy? Họ nghĩ rằng không cần phải giữ điều gì cả, chỉ cần lãnh tro một năm một lần, hay đến nhà thờ vào dịp lễ Giáng Sinh hay Phục Sinh. Đối với họ thế là đủ, thế là tròn việc giữ đạo!
Một người không phải là Kitô hữu, đã biết tự vấn lương tâm mình bằng một danh sách của 7 trọng tội. Đó là sự giàu có mà không làm việc, hưởng khoái lạc mà không có lương tâm, làm thương mại mà không có luân lý, khoa học mà không có sự khiêm tốn, thờ phượng mà không có hy sinh, có kiến thức mà không có lễ phép, làm chính trị mà không có nguyên tắc. Chúng ta đã phạm những tội nào? Tôn giáo không phải chỉ là những nghi lễ. Đời sống tinh thần không phải chỉ là giữ những luật lệ. Và những hình thức bề ngoài chưa hẳn là sự thánh thiện (Mt 7:15; 24:4).
Có hai vị tu sĩ nọ, một trẻ và một già, đang thả bộ xuống phố vào một ngày mưa tầm tã. Nước mưa ngập lụt phố phường. Họ gặp một cô gái trẻ đẹp ăn mặc tơ lụa gấm vóc. Cô muốn băng qua khúc đường lầy lội để về nhà phía bên kia đường. Vị tu sĩ trẻ bèn trạnh lòng thương: “Này cô, tôi giúp cô một tay nhé!” Với cánh tay khỏe mạnh của mình, người tu sĩ trẻ đã ẵm cô gái trẻ băng ngang khúc đường lầy lội. Rồi hai vị tu sĩ bước đi trong sự “thinh lặng đáng sợ” cho đến khi họ trở về đến tu viện. Vị tu sĩ cao niên không thể nào chịu đựng nổi bèn lên tiếng: “Các nhà tu hành không nên gần gũi những phụ nữ trẻ, nhất là những người đẹp như cô gái này! Tại sao thầy lại làm như vậy?” Thầy dòng trẻ trả lời: “Thưa thầy, em đã bỏ cô gái ở dưới phố rồi, nhưng thầy, thầy lại mang cô ấy về đến nhà dòng này.”
Chúng ta thấy có hai khuynh hướng trái nghịch nhau trong đời sống thiêng liêng Kitô hữu, tạm gọi là THOÁT TỤC và VÀO ĐỜI. Tinh thần “thoát tục” hay xa tránh cõi trần nhấn mạnh vào lòng đạo đức qua việc tuân giữ những luật lệ tôn giáo nghiêm nhặt, và tránh xa khỏi những người được coi là tội lỗi hoặc không đứng đắn vì sợ sẽ bị lây nhiễm.
Còn tinh thần “vào đời” lại nhấn mạnh đến sự liên đới chặt chẽ với những người đáng thương, những người thường bị coi như là xấu xa trần tục. Với tinh thần “vào đời”, nhập thế, người tín hữu không xa tránh, nhưng dang rộng cánh tay tới những người đang cần giúp đỡ.
Đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu cốt ở sự quân bình, và dung hòa hai khuynh hướng này như Thánh Giacôbê Tông Đồ đã nhắn nhủ trong bài đọc II: “Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế của thế gian” (Gc 1:27).
.
Lm. Đinh Lập Liễm
Thèm Lòng Chứ Ai Thèm Thịt.
Trong Cựu Ước, bộ luật có tới 613 khoản, nhưng những khoản luật đó chỉ nói trên nguyên tắc, còn trong áp dụng thực hành người ta còn thêm vào những lời cắt nghĩa mà ta gọi là truyền thống hay truyền khẩu. Như vậy có hai thứ luật.
Luật quan trọng hơn là Lề luật thành văn, căn cứ trên sách Torah (Ngũ Kinh), nghĩa là 5 cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Maisen. Thật ra, Ngũ kinh hàm chứa một ít qui tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Trong một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu Lề luật, dưới biệt hiệu là Luật sĩ (Kinh sư). Nhóm người này thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng hơn, với nhiều chi tiết hơn. Do đó, họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn lề luật, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống. Chúng vẫn được gọi là Luật truyền khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa.
Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay, và phải rửa theo một nghi thức nhất định. Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “dơ”, được ghi thành luật của Maisen trong sách Lêvi, được thêm vào nhiều chi tiết và qui định rõ ràng qua truyền thống.
Vào thời Đức Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những lệnh truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Kinh. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi vì nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống, nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xẩy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: tuân giữ những nghi thức này thì được kể là làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn không giữ chúng đồng nghĩa với phạm tội. Nói tóm lại, tuân giữ những nghi thức bên ngoài này được đồng hóa, được đánh giá là đạo đức, là biết phụng sự Chúa.
Có một thầy tiến sĩ luật Do Thái bị đi tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu, nhằm mục đích kéo dài cuộc sống cho qua ngày. Thời gian trôi qua, thầy luật sĩ yếu dần. Cuối cùng, người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông bị thiếu nước. Các sĩ quan cai ngục không hiểu nổi tại sao ông ta lại có thể thiếu nước. Bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn tương đối đủ cho một cơ thể. Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát thầy luật sĩ một cách kỹ lưỡng hơn, xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng, người ta khám phá ra: Thầy luật sĩ ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn uống. Như thế ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
Thực ra, việc rửa tay không phải chỉ nhằm việc vệ sinh thân thể nhưng là việc vệ sinh tâm hồn. Rửa tay là có ý rửa cho linh hồn mình được sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Trong Thánh Lễ, khi chủ tế rửa tay với chút nước thì đọc: ”Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con phạm xin Ngài thanh tẩy” (Ps 51:3-4). Nhưng tiếc thay, nhiều người Do Thái chỉ chú trọng rửa tay là rửa tay theo truyền thống mà không để ý đến việc thanh tẩy tâm hồn mình. Vì thế, nhà thần học William Barclay nói: ”Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ một cách chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác.”
Chúng ta phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các luật sĩ Do Thái: họ giữ luật Maisen cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của Lề Luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do Thái Giáo.
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều (Mk 7:17-23). Cái đó ở trong nội tâm chứ không phải ở bên ngoài.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: ”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Đối với lòng nhiệt thành giả tạo có vẻ quá hình thức này, Đức Giêsu trách cứ họ hai điều: một là giả hình, hai là làm đảo lộn giá trị. Họ giả hình vì cũng như thời tiên tri Isaia, người ta không nghĩ đến sự hối cải trong các tâm hồn, mà chỉ bận tâm đến việc thực hiện mấy việc bên ngoài: ”Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người” (Is 29,13). Hơn nữa, Thiên Chúa là chân lý tuyệt đối, có nghĩa là sự gian dối không có chỗ nơi Ngài, không được Ngài ưa thích và ủng hộ. Trái lại, Thiên Chúa lên án cách sống giả hình, sai lạc với sự thật. Thiên Chúa không khinh chê người yếu đuối, tội lỗi, nhưng khinh chê những người đạo đức giả (Lc 16:15). Thiên Chúa yêu thương, tha thứ cho những yếu đuối, tội lỗi, nhưng Thiên Chúa không thể chấp nhận kẻ sống giả hình.
Nếu chỉ có những hành động bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước mặt Chúa. Còn những người luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen mà ta gọi là “việc đạo đức”, những hình thức do con người sáng tạo…thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “Sư Máy.” Vị Sư Máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật Giáo khác nhau tại Nhật. Như tác giả bài báo ghi nhận, những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Họ chỉ giữ tập tục của tiền nhân là những tập tục của con người đặt ra. Các tiền nhân của người Do Thái đặt ra nhiều tập tục tỉ mỉ mà các biệt phái và luật sĩ tuân giữ rất nhiệm nhặt. Biệt phái là những người Do Thái rất sùng đạo, nhưng sùng đạo cách giả hình, vụ hình thức, vì họ chỉ chú trọng đến những hình thức bên ngoài như nhiệm nhặt gìn giữ các tục lệ của tiền nhân, chuộng hình thức bên ngoài mà không có tinh thần bên trong.
Chúa khiển trách họ: ”Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người, vì các ngươi bỏ qua các giới răn của Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người” (Mk 7:6-9). Chúa khiển trách họ là người làm đảo lộn giá trị vì họ chỉ chú ý đến việc tuân giữ các tập tục của tiền nhân mà lại bỏ qua những giới răn căn bản của Chúa. Họ coi trọng việc thuộc về con người hơn việc thuộc về Thiên Chúa.
Nhân dịp các luật sĩ chê trách các Tông Đồ không rửa tay khi dùng bữa, Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học: cái xấu xa không phải từ ngoài mà vào mà ở trong mà ra. Ngài nói: ”Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mk 7:20-23). Do đó, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay việc dữ.
Theo lời Chúa dạy, chúng ta thấy yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bề ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác; hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm quyền hành nhằm thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người “tình ngay mà lý gian”, hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều (JKN).
.
SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 22 TN_B
Jorathe Nắng
Tin Mừng Máccô cho chúng ta thấy Đức Giêsu là người thầy luôn bênh vực môn đệ của mình khi các ông không làm theo những gì Luật Môsê quy định. Ngài đã làm như thế không phải một lần, nhưng rất nhiều lần. Vì thế mâu thuẫn giữa Ngài và các Biệt Phái, Kinh Sư Do Thái ngày càng căng thẳng.
Các ông Biệt Phái và Kinh Sư là giai cấp lãnh đạo, được trọng vọng trong xã hội tôn giáo Do Thái, và tất nhiên họ phải bảo vệ Luật Môsê một cách triệt để, nếu không nói là cực đoan, vì chỉ có Luật Môsê mới đảm bảo hữu hiệu vị thế và lợi thế của họ. Chính vì thế, bất cứ ai vi phạm Luật Môsê đều bị họ lên án, không kể gì Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai.
Thực ra Đức Giêsu không chủ trương, cũng không kích động các tông đồ chống lại Luật Môsê và Truyền Thống của cha ông; trái lại Ngài công nhận và tuân giữ. Nhưng Ngài muốn đặt lại cho xã hội tôn giáo lúc bấy giờ, cũng như cho các ông Biệt Phái, Kinh Sư Do Thái ý nghiã, mục đích của Truyền Thống, Lề Luật :
1. Truyền Thống, Lề Luật phải phục vụ hạnh phúc của con người:
Điểm thiết yếu Đức Giêsu đặt ra cho các ông Biệt Phái, Luật Sĩ là mục đích của Truyền Thống, Lề Luật. Nếu Truyền Thống, Lề Luật không đem lại hạnh phúc cho con người, không làm cho con người được sống xứng danh con người, không tạo điều kiện để nhân phẩm được bảo vệ và phát triển, không xây dựng đời sống con người ngày càng trở nên tốt đẹp, thoải mái hơn, nhất là không phát huy tình huynh đệ, tương trợ giữa người với người thì Truyền Thống, Lề Luật ấy không đáng được tồn tại, gìn giữ.
Có rất nhiều Truyền Thống, Lề Luật không góp phần xây dựng đời sống con người, không tạo điều kiện cho cuộc đời đáng sống hơn, nhưng nghiền nát, xóa bỏ con người và làm cuộc sống trở nên ngột ngạt, nặng nề. Dưới áp lực này, con người và hạnh phúc của con người không còn là mục tiêu phục vụ của Truyền Thống, nhưng Truyền Thống là ông chủ khắc nghiệt của con người, mà mọi ý muốn của ông chủ khó tính phải được đầy tớ là con người thoả mãn, đáp ứng chính xác, trọn vẹn, từng chi tiết. Cuộc sống làm người và hạnh phúc của xã hội loài người không còn là đích điểm của Lề Luật, nhưng Lề Luật truy sát, khống chế xã hội và biến những con người sống trong xã hội đó thành những tù nhân bất hạnh.
Chủ nghiã vị luật, nghiã là chủ nghiã thượng tôn Lề Luật, thần tượng Lề Luật, coi Lề Luật là chân lý tuyệt đối, uy lực tuyệt đối, phán quyết tuyệt đối và cho Lề Luật quyền sinh sát trên con người là chủ nghiã cực kỳ phi nhân, vì hoàn toàn loại bỏ con người, phủ nhận chỗ đứng không thể thay thế, hoán nhượng của con người, và sẵn sàng nhẫn tâm khước từ hạnh phúc của con người để mù quáng phục vụ một hệ thống Lề Luật, một cơ chế Truyền Thống lạnh lùng, vô cảm, xa rời nhu cầu và khắc khoải đích thực của con người.
Con người ở trong cơ cấu vị luật, cơ chế suy tôn Truyền Thống ấy sẽ chỉ còn là những thân phận nô lệ của Lề Luật, tôi đòi của Truyền Thống, bởi chủ nghiã và khuynh hướng vị luật cực đoan, mù quáng này thường nhân danh con người để củng cố Lề Luật, Truyền Thống, khi con người vừa được gọi tên, tuyên dương là công chính, đạo đức theo tiêu chuẩn đánh giá của Truyền Thống, Lề Luật, vừa bị Truyền Thống, Lề Luật phủ nhận, quật ngã, chà đạp.
Đức Giêsu chống lại chủ nghiã vị luật này, vì con người bị xúc phạm, nhân phẩm bị tổn thương, hạnh phúc bị chối bỏ. Với Ngài, con người là quan trọng hơn hết dưới mắt Thiên Chúa, và Lề Luật, Truyền Thống, tuy cần thiết nhưng phải nhắm đến hạnh phúc của con người:
Sau khi chữa lành một người bất toại đã ba mươi tám năm bên hồ nước tại Bétdatha, “hôm đó là ngày sabát, người Do Thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh” : “Hôm nay la ngày sabát, anh không được phép vác chõng!” Nhưng anh đáp: “Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi : Anh hãy vác chõng mà đi”!.. “Do đó, người Do Thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày sabát” (Ga 5, 9-10.16).
Luật Môsê quy định cả đến vác chõng về nhà, sau khi được chữa lành cũng không được làm trong ngày sabát. Tinh thần vị luật quá đáng khi nghiêm cấm làm việc trong ngày sabát đã bị Đức Giêsu chống lại khi Ngài qủa quyết : “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17) trước đám đông người Do Thái đang phẫn nộ lên án Ngài vì Ngài đã chữa bệnh này sabát, trái với Lề Luật.
Đức Giêsu cũng cho những người Do Thái thời đó hiểu rằng : việc tốt lành, thiện hảo là điều Thiên Chúa mong ước con người thực hiện cho nhau, nên Luật ngày sabát không thể ngăn cấm những việc làm bác ái, tương trợ , khi Ngài đặt cho họ câu hỏi: “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi”? (Mc 3, 4), khi Ngài chữa người bị bại tay trong ngày sabát.
Nhưng rõ nét hơn là khi Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua một cánh đồng lúa.
“Dọc đường, các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Người Pharisiêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sabát!” (Mt 12,1-2). Sau khi trưng dẫn cho người Pharisiêu câu chuyện vua Đavít đã cho phép các thuộc hạ vì đói được ăn bánh đã cung tiến Thiên Chúa, bánh mà chỉ các tư tế mới được ăn và là điều Lề Luật nghiêm cấm, Đức Giêsu đã khẳng định : “Con người làm chủ ngày sabát” (Mt 12,8), chứ không phải ngày sabát làm chủ con người. Điều đó có nghiã Lề Luật được làm nên để phục vụ con người, để con người được sống trong trật tự, an bình, hạnh phúc, chứ không để khống chế, áp đảo, giam hãm, hủy diệt con người.
Tóm lại, Đức Giêsu không chủ trương hủy bỏ Lề Luật, nhưng Lề Luật, Truyền Thống chỉ có giá trị khi phục vụ con người, giúp con người sống tốt, sống đẹp, sống hạnh phúc. Lề Luật là phương tiện để con người trưởng thành trong đức ái, huynh đệ. Lề Luật cần cho xã hội, với điều kiện Lề Luật không vi phạm, làm tổn thuơng con người trong xã hội ấy. Vì thế, Lề Luật phải luôn giữ được tính nhân văn, để luôn luôn có thể khéo léo uyển chuyển trong những trường hợp cần thiết hầu giữ được ý nghiã, mục đích của Lề Luật là phục vụ con người, thăng tiến đời sống con người và mưu cầu hạnh phúc đích thực cho con người.
2. Tinh thần vị Truyền Thống, Lề Luật có thể làm phân liệt nhân cách :
Khi dùng lời của ngôn sứ Isaia để nói với những người Pharisiêu: “Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dậy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mc 7,6-7) , Đức Giêsu đã nói lên nguy cơ phân liệt nhân cách, nói cách khác,nguy cơ giả hình ngay tự bản thân của người sống tinh thần vị luật cách mù quáng, cực đoan.
Thực vậy, một khi quá đóng khung vào hệ thống rườm rà, trói buộc và mang tính trình diễn hời hợt bên ngoài của Truyền Thống, Lề Luật, người ta sẽ dễ dàng và mau chóng bỏ quên những gì chân thực từ trái tim, những sự thật đáng trân trọng của tâm hồn, những rung cảm trung thực của tấm lòng, những tốt đẹp khó tìm thấy của tim óc. Bị cuốn hút vào chủ nghiã duy Lề Luật, người ta sẽ chỉ chăm chú soi từng nét chữ trong Lề Luật, cẩn thận giữ từng dấu phẩy của quy tắc, nghiêm khắc với từng chi tiết vụn vặt, cỏn con của Truyền Thống, mà quên đi chính con người của mình và anh em. Tình trạng phân liệt giữa bên ngoài và bên trong, giữa hành động và ý nghĩ, giữa đòi hỏi của Lề Luật và thao thức vi tha thầm kín làm nên mâu thuẫn nội tại rất căng thẳng. Để làm dịu căng thẳng của mâu thuẫn nội tại này, người ta bắt buộc phải giả dối, sống nhiều mặt, và đó là hiện tượng giả hình mà Đức Giêsu đã nhiều lần lên án (x. Mt 23).
Cũng vì giả hình mà môi miệng bai bải yêu mến Chúa, lải nhải các điều răn, nhưng tâm hồn thì trống vắng, trái tim thì lạnh nhạt.Cũng vì giả hình mà bên ngoài thì cung kính lễ nghi, nhưng bên trong thì thờ ơ, chai đá. Cũng vì giả hình mà chu chắm tuân giữ truyền thống, nhưng lại “khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa” (Mc 7,9).Chính Đức Giêsu đã công khai lên tiếng : “Như thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà hủy bỏ lờI Thiên Chúa” (Mc 7, 13).
Thực vậy, Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta: điều làm chúng ta bất hạnh, và ngăn cản chúng ta hiến thân cho nhau, chính là chúng ta sống giả dối và giả hình là thứ giả dối đã đi vào chiều sâu của bản ngã. Chính Đức Giêsu đã muốn xua đuổi vi trùng giả hình này ra khỏi đời sống chúng ta khi Ngài phân tích sự thật bên trong và bên ngoài của con người:
– Bên ngoài là vùng của những gì được biểu lộ, trình diễn; cũng là vùng của mặt nạ, những mặt nạ mà chúng ta muốn đeo cho mình, những hình ảnh mà chúng ta mơ ước và tự phóng các hình ảnh lý tưởng ấy qua lời nói, việc làm của chúng ta.
– Bên trong là vùng của sự thật, vùng của chính hiệu, chính gốc, vùng ở đó con người thật của chúng ta được xuất hiện “nguyên con” trước mặt Thiên Chúa, là nơi hạt giống Lời Thiên Chúa được gieo vãi. Bên trong còn là nơi của những quyết định, chọn lựa. Nhưng bên trong cũng là sào huyệt của ganh ghét, hận thù, ích kỷ, tham vọng thống trị, ham muốn sở hữu : “Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác tang, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7, 20-23).
Vâng, mâu thuẫn giữa bên ngoài và bên trong, giữa sự thật chúng ta là và những điều chúng ta mơ ước, giữa những gì chúng ta có và những điều chúng ta khát khao và tự khoác lên mình là sự thật không thể chối cãi.Vì thế, giả hình là cám dỗ nặng nề và liên lỷ của mỗi người, vì ai cũng cần một dáng vẻ ăn khách, một nhân thân hấp dẫn, một quá khứ thành tích, một hiện tại vinh quang, một tương lai hứa hẹn để sống được với đời nhiều tranh giành, đấu đá. Chúng ta cũng dễ rơi vào giả hình, vì thường xuyên chúng ta cũng cần giả hình với chính mình, khi mình chẳng có gì để có thể tự tuyên dương, tự biện minh, tự bào chữa. Đó là thảm cảnh rất bi đát của đời sống con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể giải phóng chúng ta ra khỏi.
Thiên Chúa giải phóng chúng ta khỏi tình trạng phân liệt vì giả hình, khi chúng ta nhận ra: sẽ không có sự thật toàn diện, bao lâu con người không lắng nghe Thiên Chúa hằng sống và chân thực; sẽ không có tình yêu đích thực, bao lâu tình yêu của chúng ta không gắn kết vào chính Chúa là nguồn Tình Yêu; sẽ không có đời sống chính hiệu, nguyên gốc Tự Do, bao lâu chúng ta không để Thiên Chúa hành động và dẫn dắt định mệnh đời chúng ta. Được dựng nên cho Thiên Chúa, chúng ta không thể hạnh phúc nếu không thuộc về Ngài, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới làm cho chúng ta thực sự tự do, khi giao hoà trong chúng ta nhũng gì bên ngoài với những gì bên trong, những gì được trình ra bề ngoài và những gì được giữ kín ở trong.Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể lấy khỏi chúng ta những mặt nạ mà không làm chúng ta thất vọng; cũng chỉ một mình Ngài mới có thể chữa lành căn bệnh ảo tưởng, giả hình trong chúng ta và làm cho chúng ta trở nên những tạo vật mới có đủ khả năng và nhiệt huyết để yêu mến. Chính Ngài đã vạch cho chúng ta con đường, tuy hẹp, nhưng là con đường chân thật dẫn đến Hạnh Phúc thật (x. Mt 5,1-12).
Để kết luận, chúng ta cần lưu ý sự cần thiết của Truyền Thống, Lề Luật, nhưng đồng thời cũng cẩn trọng trước cám dỗ của chủ nghiã vị Truyền Thống, vị Lề Luật, nghiã là chỉ biết Lề Luật, chỉ tôn thờ Lề Luật, mà không quan tâm đến con người và ích lợi nhân sinh cũng như thiêng liêng của con người. Vì Lề Luật có thể trở thành nguyên nhân của tình trạng giả hình, phân liệt nhân cách, nhất là miệng ca tụng Chúa, nhưng lòng thì xa Chúa ngàn dặm.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức chúng ta được gọi vào đời để “yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người”, nên con người trong tất cả chọn lựa phải được yêu mến vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa .Thế nên, cho dù là Lề Luật nào đi nữa, chúng ta cũng không thể bỏ quên hay làm tổn thương con người, là hình ảnh sống động của Thiên Chúa yêu thương.
.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Ðoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một câu chuyện nhỏ, chuyện những người Biệt Phái và luật sĩ thắc mắc về việc các môn đệ của Chúa không rửa tay theo tập tục của tiền nhân trước khi ăn. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu đã muốn cho mọi người hiểu rằng cuộc sống có những việc còn quan trọng hơn những việc có tính cách tập tục và bên ngoài đó. Và cũng nhân câu chuyện này Chúa còn nói thêm về việc phải sống như thế nào mới là cuộc sống đẹp lòng Chúa và mang lại cho cuộc sống đó nhiều ý nghĩa hơn. Chúng ta tự hỏi Chúa muốn cuộc sống phải như thế nào?
I. Điều Chúa muốn chắc chắn không phải là cuộc sống sống giả tạo, cuộc sống không có sự ăn khớp giữa bên ngoài với bên trong của một con người.
Trong một chương trình buổi tối trên một kênh truyền hình Hoa Kỳ, một cô gái điếm đã được mời đến phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của những phóng viên. Cô trang điểm diêm dúa và mặc một chiếc váy cực ngắn. Cô đã tỏ ra không những bình tĩnh, mà còn khiêu khích trước những câu hỏi của phóng viên.
Chợt có một phóng viên nhìn thầy trên cổ của cô có đeo một sợi dây chuyền vàng với một cây Thánh giá thật đẹp, anh ta liền thay đổi một đề tài. Anh ta hỏi cô: “Tôi thấy cô đeo Thánh giá trên cổ, hẳn cô là người có Tôn giáo”.
Khán giả thấy rõ sự bối rối xuất hiện trên khuôn mặt cô, vì đây là vấn đề mà cô chưa bao giờ nghĩ tới. Sau một hồi do dự, cô trả lời: “Tôi không theo đạo nào cả”.
Người phóng viên hỏi dồn: “Vậy tại sao cô lại mang Thánh giá trên người?”.
Cô thinh lặng cúi xuống sàn nhà một hồi lâu, rồi trả lời: “Lúc nhỏ tôi có đạo, nhưng đó là chuyện xưa rồi”.
Một con người không còn tin Chúa nhưng vẫn đeo Thánh Giá của Chúa. Rõ ràng đó là việc không hợp lý tí nào. Cuộc sống như thế đáng cho mọi người gọi là cuộc sống giả hình. Và một cuộc sống với những phẩm chất giả tạo như thế nhất định sẽ chẳng đem lại niềm vui nào cho những người sống cuộc sống đó. Chính vì thế mà trong bài tin mừng hôm nay Chúa đã kịch kiệt lên án cuộc sống như thế. “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”(Mc 7,7)
Ngày xưa thì như thế còn hôm nay thì sao?
Chắc anh chị em đã thấy ngày hôm nay người ta nói nhiều tới căn bệnh thành tích, căn bệnh phát sinh từ cuộc sống hình thức giả tạo mà ra. Bao nhiêu hệ lụy xấu xa đã phát sinh từ căn bệnh này thì mọi người chúng ta đã biết. Sống như thế có khác gì ngày xưa và nếu cứ sống mãi như thế thì chắc chắn cuộc sống của chúng ta sẽ không thể tốt đẹp mà ngược lại nó sẽ là một cuộc sống gây nên nhiều đau khổ.
Rồi nhìn vào cuộc sống của thế giới hôm nay chúng ta thấy cũng chẳng kém gì. Đây là những nhận được Internet truyền đi khắp nơi như một hệ lụy của những lối sống mà con người hôm nay đang sống. Bên ngoài thì xem ra thật tốt nhưng nội dung thì có nhiều phải suy nghĩ. Tác giả gọi những nhận xét này là: “Những nghịch lý của thời đại chúng ta”
Chúng ta có những tòa nhà cao hơn, nhưng tư cách những người cư ngụ trong đó thì lại nhỏ hơn. Những con đường cao tốc rộng hơn, nhưng quan điểm của con người thì lại hẹp hòi hơn.
Chúng ta nói quá nhiều, yêu quá ít và ghét quá thường xuyên.
Chúng ta đã đi lên mặt trăng và quay trở về, nhưng lại cảm thấy phiền hà khi băng qua đường để gặp một người hàng xóm mới dọn đến.
Chúng ta làm trong sạch không khí, nhưng lại gây ô nhiễm tâm hồn của nhau.
Chúng ta viết lách nhiều hơn, nhưng học hành thì ít hơn.
Chúng ta dự tính nhiều hơn, nhưng thực hiện ít hơn. Chúng ta chỉ biết vội vã, mà không biết chờ đợi.
Chúng ta có thu nhập cao hơn, nhưng đạo đức thì lại thấp hơn.
Chúng ta trở nên thừa về số lượng, nhưng lại quá thiếu về chất lượng.
Đây là thời cơ có tới hai nguồn thu nhập từ cả hai vợ chồng trong gia đình, nhưng ly dị thì nhiều hơn; Thời của những căn nhà sang trọng, nhưng tổ ấm thì tan vỡ nhiều hơn.
Vâng nếu cuộc sống chỉ là như thế thì thật là tủi nhục cho Thiên Chúa khi Chúa đã cho chúng ta được làm người .
II. Vậy chúng ta phải sống như thế nào mới đẹp lòng Chúa?
Xin muợn một câu chuyện để trả lời. Chuyện kể rằng có hai nhà sư, một già một trẻ, cùng nhau đi xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một cô thiếu nữ rất đẹp đứng bên bờ một vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua nhưng không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư già liền bế thiếu nữ lên và đi qua vũng nước và bỏ cô ở phía bên kia. Rồi hai người tiếp tục cuộc hành trình. Trở về gần đến chùa, nhà sư trẻ trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?”. Nhà sư già trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, còn anh, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh hoạ rõ nét ý hai lối thể hiện cuộc sống của mình: Một lối sống đạo theo hình thức và một lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn cứ yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do thái xưa cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những luật lệ theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Đối Với họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch.
Đức Giêsu đã trách họ là giả hình. Họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám, xấu xa.
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phao-lô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoang. Giá như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tính đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi đến chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,1-3).
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con biết bỏ đi những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người.
Vì con biết rằng với tất cả tâm tình, con mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa con đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
.
Phó Tế Đaminh Maria Nguyễn Bình An
Dân Do Thái có rất nhiều luật. Luật quy định tỉ mỉ từ đời sống tâm linh như cách thờ phượng Thiên Chúa tới những việc làm cụ thể hàng ngày như tập tục rửa tay trước bữa ăn… Họ giữ rất nghiêm chỉnh các luật lệ này đến nỗi họ nhiều khi chỉ vì luật, và những hình thức bên ngoài mà quên đi ý nghĩa sâu xa của những luật lệ ấy. Chúa Giêsu trong Tin Mừng tuần này chê trách người Do Thái chuộng bề ngoài hơn bề trong: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, mà lòng chúng rời xa Ta” (Mt 15,8). Đức Giêsu không lên án những người giữ luật vì đây là những luật chính đáng được lưu truyền trong dân. Ngài chỉ chê trách những người coi trọng luật bên ngoài mà bỏ quên cốt lõi, ý nghĩa đích thực của những luật đó. Những người này có thể nghĩ rằng giữ đạo là trung thành với một số các điều luật được truyền lại, ngay cả nhiều khi những luật này không cần thiết. Trong khi căn bản của lời rao giảng của Đức Giêsu chỉ gồm tóm trong hai điều duy nhất: Mến Chúa, Yêu Người. Mọi chuyện chúng ta làm, mọi luật lệ chúng ta giữ cần phải quy hướng và thể hiện hai mục đích này.
Lời Chúa hôm nay không phải chỉ nói cho người Do Thái nhưng cũng đang nhắc nhở mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta có thể cũng chỉ vì hình thức bên ngoài. Chúng ta nghĩ rằng thờ phượng Chúa hết lòng là tới nhà thờ dự lễ hàng ngày, sáng tối kinh nguyện hoặc đóng góp xây dựng cộng đoàn, hay rộng tay giúp đỡ người nghèo khổ. Điều này đúng nếu khi chúng ta làm với một ý thức bên trong. Tôi tới nhà thờ không phải để cho người khác biết tôi siêng năng, đạo đức, nhưng thật sự tôi tới để thờ phượng, cám tạ Chúa vì mọi ơn lành Chúa ban xuống cho tôi và gia đình. Tôi rộng tay chia sẻ của cải của tôi có cho những người vô gia cư, già yếu, cô đơn, nghèo khổ, vì họ là anh em tôi, là hình ảnh của Thiên Chúa… Hành động của chúng ta đi kèm với ý thức bên trong hỗ trợ, thì việc làm ấy không bị Chúa chê trách là chỉ kính thờ Chúa bằng môi miệng, bằng hình thức bên ngoài.
Câu truyện “Để Người Ta Không Thể Nói” trong Hạt Giống Âm Thầm (trang 296) làm cho tôi xúc động. Chúng ta thề hứa với Chúa bao nhiêu lần là sẽ tha cho người khác khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…” Tuy nhiên, khi nhìn vào xã hội hiện nay, lời kinh chúng ta đọc có lẽ chỉ trên môi miệng, và có lẽ Chúa cũng nói với chúng ta y chang như Ngài nói với người Do Thái…
Hai thanh niên điệu một tên sát nhân đã giết cha mình ra trước tòa án. Với đầy đủ bằng chứng nên tên sát nhân lãnh án tử hình. Tội nhân không khiếu nại nhưng chỉ xin hoãn hành quyết ba ngày để hắn về lo liệu cho một thiếu nữ, mà hắn đã được trao phó cho săn sóc từ nhỏ. Mọi người bối rối, nhưng một bàn tay giơ lên với giọng quả quyết: “Tôi xin bảo đảm cho anh này. Nếu sau ba ngày anh không lại, tôi sẽ chịu tội thay”. Tên tử tội được phép ra về. Sau đúng ba ngày, trong khi mọi người đang nôn nóng chờ đợi giờ hành quyết thì tên tử tội hiên ngang bước đến và dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết xong công việc. Giờ đây, theo đúng lời cam kết, tôi trở lại đây để xin chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết, để người ta không thể nói, chữ tín không còn trên mặt đất này nữa.”
Sau lời phát biểu của tên tử tội, người đàn ông đứng ra bảo lãnh cũng tiến ra tuyên bố: “Phần tôi, sở dĩ đứng ra bảo lãnh cho người này là vì tôi không muốn để người ta có thể nói: lòng quảng đại không còn có mặt trên mặt đất này nữa”.
Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên im lặng. Dường như ai cũng được mời gọi để thể hiện những gì là cao quý nhất trong thẳm sâu tâm hồn. Và rồi hai người thanh niên bước lên trước quan tòa và nói: “Thưa ngài, chúng tôi xin được tha thứ cho kẻ đã giết hại cha chúng tôi, để người ta không thể nói: lòng tha thứ không còn hiện diện trên mặt đất này nữa”.
Hôm nay Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta cách chúng ta sống đạo. Bạn và tôi, chúng ta chắc phải dừng lại đôi phút để xét lại xem, chúng ta thật sự sống đạo như thế nào?
.
Lm. Jos. DĐH.
Xuất phát bởi tình yêu gia đình, dòng tộc, người xưa để lại nhiều kinh nghiệm cao quý: đói cho sạch, rách cho thơm ; tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Sạch và đẹp, tiếng tốt danh thơm, không phải chúng được đề cao vì “mỹ từ”, hoặc được tán dương bởi nét đẹp mờ mờ ảo ảo, đúng hơn, nơi thẳm sâu tâm hồn, con người luôn được thôi thúc bởi tính thiện toàn, sự sạch đẹp. Vì tình bạn, kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, thiếu nữ vì tiết hạnh, không quản ngại hy sinh mạng sống mình. Sạch đẹp thu hút con người qua muôn thế hệ, nhưng làm sao để người ta không nhầm lẫn giữa “cái chính và cái phụ”, không làm đảo lộn giá trị đạo đức xã hội, tôn giáo ?
Khởi đi từ quan niệm sạch đẹp quá tuỳ tiện, phóng khoáng, đến độ khắt khe, các luật sĩ biệt phái xưa kia đã tỏ thái độ khinh bỉ người anh em của mình, chỉ vì họ không rửa tay trước khi ăn. Vấn đề sạch dơ, đẹp xấu, sẽ không dừng lại ở khía cạnh vệ sinh, hay tính thẩm mỹ hài hoà, đi xa và sâu rộng hơn, sạch đẹp, chuẩn mực, đáng được ghi nhận phải là sạch đẹp toàn diện: cả hình thức và nội dung. Với cái nhìn hời hợt về thanh sạch bên ngoài, hoặc đầy ô-uế tội lỗi bên trong, nếu không đủ khách quan, thiếu tình yêu và lòng quảng đại, việc lượng định cũng chỉ là hình thức máy móc, vô giá trị. Người ta sẽ sai lầm khi xem tập tục tiền nhân và giới luật yêu thương là một, hoặc nghĩ rằng của lễ dâng cúng cho đền thờ có thể thay cho việc thảo kính cha mẹ ông bà.
Tục ngữ có câu: sạch sẽ là mẹ con người ; sạch đẹp và linh thiêng hơn, các ngài còn nói: tâm trong sạch là một cái gối êm, không làm việc thẹn lòng, đâu sợ quỷ ma gọi cửa. Sạch bên ngoài, bên trong, đều đáng trân trọng, dơ bẩn tay chân, dơ bẩn tâm hồn, đều cần được tẩy rửa cho sạch đẹp. Đức Giêsu có ý nhắc nhớ đừng ai nhầm lẫn bằng môi miệng, bằng lý thuyết, có thể thay thế cho việc sống đạo. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho các luật sĩ biệt phái lý do tại sao các môn đệ không rửa tay, nhưng gián tiếp cho thấy sự thanh sạch tâm hồn cần thiết hơn việc rửa tay chân, biết và sống thánh ý của Chúa quan trọng hơn là chỉ giữ tập tục tiền nhân.
Đức Giêsu không bình luận về sự thanh sạch hay dơ bẩn, nhưng Ngài lên án những ai tin thờ Chúa bằng môi miệng mà lòng xa cách Chúa, có tình yêu trong việc sống giới luật, quan trọng hơn việc dâng mọi của lễ toàn thiêu. Sạch tay chân, trang điểm cho khuôn mặt xinh đẹp, chỉ là tâm lý giúp người ta tự tin khi đi ăn tiệc, nhưng sạch tâm hồn mới là phương thế hữu hiệu, bình an, hạnh phúc nhất, khi tham dự bàn tiệc thiên quốc. Kinh nghiệm cho thấy, không phải sạch sẽ là do một ngày tắm nhiều lần, không phải xinh đẹp là do “quần là áo lượt”, mang trên mình trang sức đắt tiền. Sạch và đẹp, đúng và chuẩn, chỉ là mơ ước, là khẩu hiệu, khi người ta chưa tập luyện, chưa được biến đổi, hoặc chưa có thời gian thực hành đức ái.
Cái nhìn thông suốt của tiền nhân cho rằng: nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm, nơi ăn chốn ở, cơ hội để học, để hiểu và để sống, cùng với một chuỗi thời gian trải nghiệm: bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người. Thực ra thì điểm căn bản của việc sống đạo không hệ tại chúng ta đọc bao nhiêu câu kinh, đi bao nhiêu thánh lễ, bố thí chia sẻ cho anh chị em chúng ta nhiều hay ít tiền của, đúng và đẹp ở chỗ lời nói việc làm của chúng ta có bày tỏ được lòng mến hay không ? Nếu như ngày hôm nay, người ta lên án những ai làm việc như con “rô-bốt” hay chỉ như con “búp-bê” không biết yêu, không cảm xúc, là bởi vì họ quá lệ thuộc vào hình thức bên ngoài mà quên đi ý nghĩa của hành động tin và yêu.
Truyền thống có đạo, có đức, sống thảo sống hiếu, được xem là gia đình lắm phúc nhiều lộc, nhưng chưa đặt để tình yêu vào cuộc sống, nào có khác gì ta chỉ là con rối vô cảm, vô hồn ? Đức Giêsu xưa kia chắc chắn không chối bỏ nét đẹp phong phú của gia đình, cũng không phủ nhận sự thanh sạch, Ngài có ý nhắc “sạch đẹp tâm hồn” phải là ưu tiên. Đừng chú trọng đến tập tục loài người mà bỏ qua giới luật yêu thương, đừng lẫn lộn ý muốn của con người với thánh ý của Chúa. Xưa kia cũng vì chú trọng đến “môn đăng hộ đối” mà xảy ra việc ép duyên ; xã hội hiện đại hôm nay lại không thiếu cảnh con cái đặt đâu cha mẹ phải đồng ý ! Cả hai quan niệm ấy đều không đẹp mà cũng chẳng gọi là đúng, nếu hôn nhân không đến trong tự do và yêu thương.
Tục ngữ có câu: muốn chắc ở nhà gạch, muốn sạch quét chổi cùn. Tự bản chất của con người thích sạch đẹp, vẫn ý thức mình cần phải được xây dựng trên nền đá vững chắc, đó là sự thật. Hướng đến sự sạch đẹp toàn diện và bền vững, Chúa Giêsu đã gọi là đồ giả hình, đã nhắc lại lời Isaia: “dân này thờ kính ta bằng môi miệng, còn lòng chúng lại xa Ta”. Lời đó có làm chúng ta hôm nay giật mình không, nếu chúng ta sống đạo mà không được xây dựng bằng tình yêu thương ? Đồng ý rằng: danh thơm là lẽ sống của kẻ sĩ, nhưng kẻ sĩ không thể im lặng cất giấu triết lý sống của mình. Người kitô hữu không thể sống đạo loáng thoáng hời hợt, lời nói việc làm cần minh bạch rõ ràng ; nếu rửa tay cho sạch thì cũng nên suy xét xem đã tẩy rửa tội lỗi chưa, hầu có một tâm hồn sạch đẹp, xứng hợp với tình yêu và ơn cứu độ của Đức Kitô. Amen.
.
Bông Hồng Nhỏ
Hai cô bé rủ nhau chơi đồ hàng, lấy vỏ trứng làm nồi và tập tành nấu cơm. Người cha đi làm về thấy gạo vương vãi trên sàn nhà bếp liền gọi hai cô con gái vào. Nghe cha hỏi cả hai cô bé đều lo lắng và cúi gầm mặt xuống, đôi mắt ngắn lệ chờ khóc. Cô em lí nhí thưa:
- Dạ thưa cha, chị lấy gạo làm đổ ra nhà, không phải con.
Cứ thế cô em đổ lỗi cho chị. Thấy chị bị cha phạt quỳ, cô em hối hận vì đã đổ lỗi hết cho chị mình. Lòng muốn thú tội với cha nhưng lại sợ bị phạt, dù còn nhỏ nhưng cô bé đã thấy hối hận lắm. Lời các chị giáo lý viên từ đâu vang lên bên tai: “ Các em, ai nói dối sẽ làm cho Chúa buồn lòng.” Một lúc sau, cô em thưa với cha:
- Là con lấy gạo làm đổ ra nhà, không phải chị ấy làm, cha ạ!
- Hạt gạo là hạt cơm. Lần sau các con đừng lấy chơi nữa.
Chẳng những không phạt mà cha còn tha tội cho hai chị em.
Từ trong tâm hồn con người, tiếng nói lương tâm giúp cho biết làm lành lánh dữ. Hôm nay, Thầy Giêsu lên án thói đạo đức giả và chỉ cho dân chúng biết cái gì mới làm cho con người ra ô uế.
Những đồ ăn thức uống khi được đưa vào cơ thể con người giúp nuôi dưỡng thân xác khoẻ mạnh, nhưng cũng có thể làm thiệt hại sức khoẻ. Khi muốn ăn thịt gà, bạn có thể mua ở chợ nếu bạn có tiền, hay bạn sẽ làm thịt con gà mà bạn nuôi. Nhưng nếu bạn không có tiền, bạn cũng chẳng nuôi gà, mà bạn lại rất thèm được ăn thịt gà . Lúc đó bạn sẽ làm gì? Từ ước muốn được ăn thịt gà đó, thịt gà không phải là của làm cho bạn ra ô uế nhưng điều làm cho bạn ra ô uế là khi bạn đi ăn trộm con gà của hàng xóm để làm thịt. Muốn ăn thịt gà cũng không phải là điều xấu xa, nhưng chính việc bạn ăn trộm đã làm cho bạn thành kẻ xấu. Thầy Giêsu đã tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch (x.Mc7,19b). Trước khi tiến đến hành động trộm gà, chẳng hẳn lương tâm của bạn cũng mách bảo cho bạn biết điều đó là sai, điều quan trọng là bạn nghe theo tiếng lương tâm mách bảo hay chiều theo thói mê ăn uống.
Thầy Giêsu khẳng định: “Từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam… Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7,21-23)
Làm thế nào để có một tâm hồn trong sạch, một lương tâm ngay thẳng? Ta hãy lắng nghe lời ca của Thánh vịnh 18 câu 8: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn”. Lòng ai khao khát Chúa, Chúa sẽ cho gặp và Chúa sẽ dạy dỗ họ sống theo nẻo chính đường ngay. Các người Pharisêu và một số kinh sư giữ luật tỉ mỉ, nắm giữ truyền thống của các tiền nhân nhưng lại bị Thầy Giêsu khiển trách: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc7,8). Những khi ca tụng tán dương Thiên Chúa, liệu ta có đặt trọn tâm hồn và lòng trí của ta hướng về Chúa hay ta chỉ “tôn kính Chúa trên môi miệng mà lòng trí lại cách xa Chúa” (x. Mc 7,6b). Trong thinh lặng của tâm hồn, ta hãy để cho Lời Chúa chất vấn ta, để thấy được thái độ ta dành cho Chúa và can đảm ra khỏi con người cũ.
Lạy Thiên Chúa chí thánh! Xin cho con biết yêu luật Chúa truyền và can đảm sống điều Chúa dạy, để mỗi ngày, tâm hồn con trở nên thanh khiết, bình an. Xin cho những lời ca tụng Chúa được kéo dài trong cuộc sống của con, để dầu sống giữa cảnh thăng trầm, lòng con vẫn trung thành, gắn bó với Chúa cách chân thực. Amen.
.
TUÂN GIỮ GIỚI RĂN VÀ THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Ông Mô-sê trong Cựu Ước và Chúa Giê-su trong Tân Ước đều có chung một sứ mệnh: kêu gọi người ta tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa và hãy thực hành những điều Người phán dạy. Ông Mô-sê là người truyền lại cho dân Ít-ra-en mười giới răn do Thiên Chúa ban trên núi Xi-nai. Còn Chúa Giê-su là Mô-sê Mới thì ban cho chúng ta lề luật của Tin Mừng được tóm lại trong hai điều mến Chúa và yêu người. Tuy nhiên, giống như dân Ít-ra-en đã nhiều lần không trung thành trong việc tuân giữ Mười giới răn, chúng ta là các Ki-tô hữu nhiều lần không để cho lời Chúa trở thành hành động trong cuộc sống chúng ta. Đây là một vấn đề quan trọng, nên Phụng vụ Lời Chúa dành nguyên một Chúa Nhật để đặc biệt nhắn nhủ chúng ta hãy tích cực sống lời Chúa; đó cũng chính là cách tốt nhất để chúng ta tôn kính và phụng thờ Thiên Chúa.
Trước hết chúng ta hãy trở lại với thời dân Ít-ra-en trên đường chinh phục Đất Hứa. Từ Ai-cập trở về Đất Hứa, dân Chúa đã phải trải qua biết bao khó khăn, cộng thêm những cuộc chiến đấu để khắc phục những dân họ đi qua. Tới đâu họ cũng đạt chiến thắng nhờ luôn phụng thờ Thiên Chúa và tuân giữ những mệnh lệnh của Người. Đúng vậy, vì họ trung thành sống những giới răn Thiên Chúa ban, nên đã được Người luôn ở cùng và giúp đỡ họ “được sống và được vào chiếm hữu miền đất Đức Chúa ban cho họ” . Ý thức mạnh mẽ điều ấy, ông Mô-sê là người lãnh đạo đã luôn nhắc nhở dân chúng hãy tiếp tục trung thành giữ Lề Luật và các thánh chỉ của Thiên Chúa, để chỉ có họ “mới là một dân khôn ngoan và thông minh” được thiên hạ ngưỡng mộ! Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan và quyền năng nên Lề Luật và thánh chỉ của Người sẽ làm cho dân của Người thành một dân khôn ngoan, thông minh và vĩ đại, đó là điều dĩ nhiên rồi. Vì sức mạnh và uy thế của Lề Luật Chúa đã rõ ràng như vậy, nên ông Mô-sê nghiêm ngặt ra lệnh cho dân Ít-ra-en “đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em”. Dù dân Ít-ra-en có nghe lời ông Mô-sê cũng như ông Giô-suê sau này hay không, thì sứ điệp rõ ràng vẫn là nếu họ tuân giữ giới răn và thánh chỉ của Đức Chúa, họ “sẽ được sống và được vào chiếm hữu miền đất Người ban cho họ”.
Nếu ông Mô-sê của Cựu Ước đã nghiêm cấm dân Ít-ra-en không được thêm bớt gì vào những giới răn và thánh chỉ của Thiên Chúa, thì Chúa Giê-su, Mô-sê của Tân Ước, cũng không ngừng tố cáo giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái đã làm sai lạc ý nghĩa thi hành Lề Luật Thiên Chúa. Đáng lẽ những người Pha-ri-sêu và kinh sư là những người cầm cân nảy mực phải là gương mẫu cho việc tuân giữ Luật Chúa, thì họ lại biến dân Chúa thành một dân “tôn kính Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Người”. Không những họ thêm bớt vào giới luật của Thiên Chúa, mà họ còn đặt ra những “giới luật phàm nhân” để biến thành những gánh nặng chất lên vai dân chúng nữa! Nhân việc người Pha-ri-sêu chỉ trích các môn đệ Chúa vì các ông không rửa tay trước khi ăn nên đã trở thành ô uế, Chúa Giê-su đưa ra một nhận định để ám chỉ sự ô uế không phải hệ ở việc rửa tay, mà sự ô uế đã nằm sẵn trong tâm hồn những người Pha-ri-sêu kia rồi. Đó là “những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”. Việc Chúa Giê-su tố cáo nhóm Pha-ri-sêu được tóm tắt trong nhận định này: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”.
Đây chắc chắn là lời tố cáo không chỉ dành riêng cho nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư, nhưng cũng nhắm vào chúng ta hôm nay nữa. Trong lối sống Ki-tô hữu, biết bao lần chúng ta đã gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa để tuân theo những truyền thống của loài người. Do đó, thánh tông đồ Gia-cô-bê đã kêu gọi chúng ta “hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”. Phải, chúng ta lừa dối chính mình khi gạt bỏ và coi thường luật Chúa để sống theo lề luật xấu xa của thế gian. Thí dụ chúng ta coi thường sự sống Chúa ban mà phá thai, bởi vì phá thai đã được luật pháp bảo vệ! Lời Chúa là đèn soi đường chúng ta đi. Vì thế tuân giữ lời Chúa là cách để chúng ta đi trong ánh sáng mà đến với Chúa và anh chị em. Thánh Gia-cô-bê còn cho chúng ta những ví dụ cụ thể thế nào là thi hành lời Chúa để chúng ta “không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha”. Vài việc làm cụ thể được ngài đề nghị, là “thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian”. Nói khác đi, vì Chúa dạy chúng ta hãy sống yêu thương và bác ái, cho nên thăm viếng người nghèo khó chính là thi hành lời Chúa dạy.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Hôm nay chúng ta sẽ làm gì để thực sự “tôn kính” Thiên Chúa, không phải bằng môi miệng, những bằng việc làm cụ thể? Chúng ta sẽ làm gì để loại bỏ “những ý định xấu” như tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo… mà Chúa Giê-su đã kể ra? Như dân Chúa đã trung thành giữ các giới răn Thiên Chúa, chúng ta hãy trung thành giữ giới luật yêu thương Chúa Giê-su đã truyền dạy chúng ta.
.
Lm Vũdình Tường
Bệnh và tật đi chung với nhau. Không biết bệnh gây nên tật hay tật sinh bệnh hay cả hai. Điều không thể chối cãi là tật xấu chính là nguồn gốc gây bệnh. Xấu nhiều bệnh nặng, xấu ít bệnh nhẹ hơn. Xấu nhiều mau phát sinh bệnh; xấu ít bệnh đến chậm hơn. Tất cả đều là mầm mống gây bệnh và làm gây bệnh. Lây bệnh là do thiếu vệ sinh hoặc ăn phải thực phẩm nhiễm trùng. Thực tế là cơ thể con người có sức chịu đựng giới hạn. Đi quá mức giới hạn nó ngã quị. Tâm trí con người cũng không khác mấy. Nó cũng cần cho ăn, nuôi dưỡng tâm trí bằng thực phẩm lành mạnh nó mạnh khoẻ, điều xấu, sách báo xấu, hình ảnh xấu, môi trường xấu tạo nên một tâm lí què quặt, bệnh tâm lí phát sinh từ đó. Thực tế này cũng đúng, gây tai hại cho tâm linh con người. Điều xảy ra cho tâm linh tai hại nhất con người lại coi nhẹ nhất bởi bệnh tâm linh không gây nhức nhối thân xác nên nhiều người lơ đi, coi như không có bệnh. Bệnh tâm linh phát sinh do coi thường giáo huấn của Đức Kitô. Giáo huấn của Ngài là thần khí và sự thật. Thiếu tôn trọng sự thật bởi coi nhẹ giáo huấn của Đức Kitô. Nhóm Biệt Phái và Pharisiêu gây xích mích với Đức Kitô khi họ gây sự với môn đệ Ngài. Họ đặt vấn đề
‘Sao môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa’ Mk 7,5
Đặt vấn đề vì các môn đệ nhưng thực ra họ chủ trương chất vấn chính Đức Kitô vì Ngài là đầu của các môn đệ. Biết rõ thâm í họ Đức Kitô dùng ngôn từ của tiên tri Isaiah đáp lại họ
Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta c. 6b
Câu đáp trên nhắc cho họ biết hai điều quan trọng. Thứ nhất, miệng lưỡi giảo hoạt, ngọt ngào nơi miệng không phải là tâm tình thật, không đến từ con tim chân thành, yêu mến. Đức Kitô cũng nhắc cho biết là không phải những gì đến từ ngoài làm cho tâm hồn ra ô uế mà chính là những gì phát xuất từ sâu thẳm làm cho tâm hồn ra ô uế. c.15. Con tim được hiểu là trung tâm điểm của con người, từ nơi đó tâm tình tốt xấu phát sinh. Sự lành, sự dữ đều từ đó mà ra. Sự lành đến từ con tim chân thành, mạnh khoẻ, sự dữ đến từ con tim bị băng hoại, hướng dẫn bởi tâm tình tội lỗi.
Thứ hai, các môn đệ về từ phố chợ và họ không rửa tay khi ăn trưa. Phố chợ là nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khó thường tụ họp mong nhận được của bố thí. Vì thế khi liên kết phố chợ với những thành phần cần nâng đỡ Đức Kitô cách nào đó chuyển đề tài từ nói suông hay nói về sự trong sạch, chuyển sang hành động thi ân, bác ái, lòng thương xót Ngài dành cho muôn dân. Một cách nào đó Đức Kitô cho họ biết nói suông hay giữ truyền thống tiền nhân không tốt hơn hành động bác ái, mến Chúa yêu người như giáo huấn của Ngài.
Hơn nữa chú trọng nhiều đến việc tẩy uế, rửa ráy bề ngoài mà để bên trong dơ bẩn thì có ích chi. Nó chỉ che mắt được người vô tình, xem qua loa mà không thể nào giữ cho phẩm chất chứa đựng bên trong sạch sẽ được. Vì thế giữ cho con tim trong sáng quan trọng hơn cả. Thay vì chú trọng đến việc lành, thánh thiện thì nhóm Biệt Phái lại chia rẽ cộng đoàn của họ khi họ phân biệt thành phần trong sạch và thành phần ô uế dựa vào cách họ giữ lề luật tẩy uế. Không phải việc đạo đức làm trọn lề luật mà chính là kính mến Chúa và thực thi bác ái, yêu thương là con đường Đức Kitô hướng dẫn. Không luật xã hội nào hay truyền thống tiền nhân nào có khả năng giúp cho con tim trong sáng. Rất nhiều luật xã hội và truyền thống gây gánh nặng cho người nghèo, kẻ thế cô. Con tim trong sáng, con tim đầy lòng yêu mến cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, bằng giáo huấn yêu thương của Đức Kitô. Giáo huấn này đòi tuân giữ không phải bằng môi miệng mà chính là thực thi bằng hành động bác ái, yêu thương, tha thứ, đến mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt kẻ nghèo khó, goá bụa cần nâng đỡ. Đi theo con đường Đức Kitô đi là phỏng theo lối sống của Ngài. Tin theo Đức Kitô không phải giữ cho thân thể, tay chân sạch sẽ, mà chính là tay chân lấm bùn phục vụ của một thân thể có con tim sạch sẽ, trong sáng. Chúng ta xin ơn nhận biết điều tốt lành, mở tâm hồn đón nhận món quà yêu thương Chúa ban và phân phát món quà đó cho tha nhân. Đón nhận càng nhiều tình yêu Chúa ta càng trở nên trong sáng, bởi trong sáng nên gần Chúa hơn và càng gần Chúa ta càng cảm thấy mình tự do, không bị ràng buộc bởi vật chất trần thế.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 22 TN_B
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII này đều hướng về một đề tài chung: những huấn lệnh của Thiên Chúa là quy luật sống cho mỗi người tín hữu.
Đnl 4: 1-2, 6-8
Lề Luật diễn tả sự khôn ngoan và thánh thiện của Thiên Chúa; mỗi người phải lắng nghe và sống.
Gc 1: 17-18, 21b-22, 27
Người tín hữu không chỉ đón nhận Lời Chúa nhưng còn phải thực hành Lời Chúa trong đời sống nữa.
Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23
Người ta không được thay thế những huấn lệnh của Thiên Chúa bằng những quy tắc phàm nhân, bởi vì những quy tắc phàm nhân xem việc tuân giữ bên ngoài là quan trọng, thì những huấn lệnh Thiên Chúa biến đổi con người từ bên trong.
BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 1-2, 6-8)
Tác phẩm này chủ yếu được cấu thành bởi diễn từ của ông Mô-sê, được đặt vào trong bối cảnh hư cấu ở đó ông Mô-sê ngỏ lời với dân Do thái trước khi họ tiến vào Đất hứa, để cảnh giác họ coi chừng những nguy hiểm đang rình rập họ khi sống ở giữa môi trường ngoại giáo và khẩn khoản kêu mời họ trung thành tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa. Thật ra, con cái Ít-ra-en đã định cư ở đất Ca-na-an từ lâu rồi; họ đã để cho mình bị quyến rủ bởi việc phụng thờ các thần linh của dân bản địa rồi; họ cũng đã để cho mình bị tiêm nhiểm bởi lối sống duy vật, dễ dãi, thậm chí xa đọa.
Bối cảnh hư cấu này cho phép trình bày một bài giáo lý đích thật về Giao Ước, được đặt dưới sự bảo lãnh của ông Mô-sê và mặc lấy cung giọng khuyên bảo khẩn thiết.
- Lề Luật là nguồn sống
“Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe…”. Biểu thức này thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật, thường nhất được dùng một cách tuyệt đối, không có túc từ: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en” (Đnl 5: 1; 6: 4; 9: 1; 20: 3; 27: 9). Kinh nguyện hằng ngày của người Do thái bắt đầu với lời mời gọi này: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”, được mượn ở Đnl 6: 4-9.
“Như vậy, anh em sẽ được sống”. Điều mà bản văn Đệ Nhị Luật này nhắm đến là cuộc sống của dân Ít-ra-en với tư cách dân Giao Ước. Không tuân giữ Lề Luật đồng nghĩa với việc vi phạm Giao Ước, tức là đánh mất những phúc lộc mà Thiên Chúa hứa ban. Vì thế, tiếp liền ngay sau những lời này là: “Như vậy, anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, là Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em”. Việc thực hành các huấn lệnh gắn liền với niềm xác tín rằng Thiên Chúa đảm bảo cho họ một cuộc sống trường thọ và thịnh vượng. Vào thời điểm này, những viễn cảnh vẫn còn bị giới hạn trong chân trời trần thế; những hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được dự kiến.
Đối với dân Ít-ra-en, việc tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa là vấn đề sống chết. “Thế phải chọn lựa” này được đặt ra nhiều lần một cách nghiêm túc: “Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh anh em, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng ở giữa anh em, là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nổi cơn thịnh nộ với anh em và tiêu diệt anh em” (Đnl 6: 14-15) hay còn: “Nhưng nếu chẳng may anh em quên lãng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong” (Đnl 8: 19).
Những hoàn cảnh lịch sử đã đem lại cho thế chọn lựa này tính cách bi thảm. Quả thật, có thể nghĩ rằng sách Đệ Nhị Luật, trong cấu trúc đầu tiên của nó, được các tư tế của vương quốc phương Bắc soạn thảo. Với tư cách những chứng nhân về những tội bất trung của dân Ít-ra-en, họ đã đưa ra lời mời gọi như cơ hội cuối cùng. Ấy vậy, vào năm 721 trước Công Nguyên vương quốc phương Bắc bị các đạo quân Át-sua triệt hạ. Vài tư tế trốn thoát được lánh nạn sang vương quốc phương Nam và đem theo bản văn của mình. Bản văn này được cất dấu trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem vào triều đại Mơ-na-sê, vị vua vô đạo (687-642 tCn.), bị quên lãng một thời gian dài và sau cùng được khám phá vào lúc trùng tu Đền Thờ. Lúc đó, nó được dùng làm nền tảng cho cuộc cải cách tôn giáo của vua Giô-si-gia-hu (622 tCn.). Bản văn này đã được duyệt xét lại và bổ túc. Đây là điều mà người ta gọi ấn bản thứ hai của sách Đệ Nhị Luật.
Những huấn lệnh Tin Mừng cũng xuất hiện như những quy luật sống. Đức Giê-su sử dụng hầu như cùng những từ ngữ như ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật, nhưng Ngài cho từ “sống” ý nghĩa tròn đầy của nó, vượt quá không gian và thời gian của cuộc sống trần thế này, khi nói với chàng thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19: 16-17).
- Lề Luật bất khả xâm phạm
“Anh em đừng thêm gì…cũng đừng bớt gì…”. Lời căn dặn kép này nói lên nỗi bận lòng của nhà lập pháp. Biểu thức này được gặp thấy trong Bộ Luật của vua Hammourabi ở Ba-by-lon vào thế kỷ XVIII tCN, cũng như trong những hiệp ước giữa các dân tộc. Người ta cũng gặp thấy biểu thức này trong Tân Ước, như câu sau cùng của sách Khải Huyền: “Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách này! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sấm ngôn này, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và thành được mô tả trong sách này” (Kh 22: 18-19).
Thật ra ông Mô-sê không là người công bố tính bất khả xâm phạm của Lề Luật, ông chỉ là người trung gian truyền đạt những huấn lệnh của Thiên Chúa.
- Lề Luật là lẽ khôn ngoan
Lề Luật là lẽ khôn ngoan cho mỗi người, vì nó là kim chỉ nam cho cuộc sống đức hạnh (đây là ý nghĩa của từ Híp-ri To-ra để chỉ Lề Luật).
Trong toàn bộ đoạn văn này, tác giả đặt trên môi miệng của ông Mô-sê ngôn từ của một bậc hiền nhân; văn phong rất gần với sách Châm Ngôn và sách Ba-rúc: lời mời gọi để tâm suy niệm lẽ khôn ngoan được diễn tả bằng những ngôn từ tương tự: “Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en, những mệnh lệnh tặng ban sự sống, hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan. Đức khôn ngoan là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật, Luật tồn tại cho đến muôn đời. Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống; còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết” (Br 3: 9; 4: 1).
- Nhờ Lề Luật, dân Ít-ra-en được xem là một dân tộc vĩ đại:
“Khi nghe nói về tất cả những chỉ thị đó, họ sẽ bảo rằng: Dân tộc vĩ đại này chỉ có thể là một dân khôn ngoan và thông minh”. Sứ mạng phổ quát của dân Ít-ra-en không là nỗi bận lòng ưu tiên của sách Đệ Nhị Luật, sách đặt trọng tâm vào Giao Ước. Vì thế, sứ mạng phổ quát này rất hiếm kể ra trong tác phẩm này. Chính nhờ tính siêu việt của Lề Luật mà dân tộc này trở nên một dân mẫu mực và dân tộc nhỏ bé này được gọi là “một dân tộc vĩ đại”. Chúng ta gặp lại ở đây văn phong nồng nàn và cường điệu, nét đặc trưng của vài đoạn văn Đệ Nhị Luật. Dân Ít-ra-en bé nhỏ so với các đế quốc to lớn chung quanh, mặc dầu thế, được gọi “một dân tộc vĩ đại” vì Lề Luật đảm bảo cho nó tính ưu việt tinh thần trên mọi dân nước.
- Nhờ Lề Luật, Thiên Chúa ở gần dân
“Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người”. Lời khẳng định này đáp trả cho câu hỏi đầy xao xuyến của dân Ít-ra-en. Các thần linh ngoại giáo được đúc tượng vẽ hình xem ra ở gần với các tín đồ hơn vị Thiên Chúa phi vật chất, không hình không ảnh của dân Ít-ra-en, đến mức Ngài không cho phép bất cứ hình tượng nào được đúc hoặc vẽ để tôn kính Ngài. Thật ra, Thiên Chúa của Ít-ra-en rất gần với những ai kêu cầu Ngài. Hiệu quả của lời cầu nguyện đó là làm cho Thiên Chúa hiện diện ở trong lòng của mỗi người tín hữu.
Vả lại, trọng tâm của sách Đệ Nhị Luật là ý tưởng về một Thiên Chúa yêu thương dân Ngài và vui thích ở giữa họ, một vị Thiên Chúa mà họ phải “yêu mến hết lòng hết dạ”. Nói cho cùng, luật của Thiên Chúa không áp đặt từ bên ngoài vì “Lời rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành”, lời này chúng ta đọc thấy ở Đnl 30: 14, một bản văn loan báo giáo huấn Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Gc 1: 17-18, 21-22, 27)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thánh Gia-cô-bê trong suốt năm Chúa Nhật. Chung chung, tác giả của bức thư này được cho là thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Đức Giê-su. Thánh nhân là người lãnh đạo đầu tiên của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem; vì thế, ngài không phải là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại, ở đầu thư, tác giả không giới thiệu mình là Tông Đồ: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô” (Gc 1: 1). Để phân biệt hai vị thánh tiên khởi có cùng tên Gia-cô-bê này, người ta đặt biệt danh cho Gia-cô-bê Tông Đồ là “Gia-cô-bê Tiền”, và Gia-cô-bê anh em họ của Đức Giê-su là “Gia-cô-bê Hậu”. Chính Gia-cô-bê Hậu mà Đức Giê-su đã hiện ra sau khi Ngài sống lại, theo thánh Phao-lô (1Cr 15: 6-7) và thánh nhân đã bị ném đá vào năm 62 do sự xúi dục của vị Thượng Tế đương nhiệm vào thời đó.
Thư được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, sống rải rác trong thế giới Hy lạp-Rô ma (2: 2). Chung chung, người ta nghĩ rằng bức thư được viết vào khoảng giữa năm 58 và 62.
Những lời khuyên trong thư cấu thành nền tảng giáo lý theo cung giọng cổ xưa: không có bất kỳ ám chỉ nào đến việc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân. Giáo huấn được định vị vào truyền thống của các sách minh triết Cựu Ước, được sứ điệp Tin Mừng đổi mới và soi sáng.
- Chúa Cha, nguồn mạch của mọi ân huệ tốt lành
Thánh Gia-cô-bê bắt đầu gợi lên nguồn mạch đầu tiên của cuộc sống Ki-tô giáo: mọi ân huệ đều xuất phát từ “Chúa Cha, Đấng tạo dựng muôn tinh tú”, ám chỉ đến công trình tạo dựng: trước hết là ánh sáng, đoạn các vầng sáng lớn nhỏ, trong chương thứ nhất của sách Sáng Thế; nhưng chắc chắn cũng phải được hiểu theo nghĩa của những ánh sáng tâm linh.
“Nơi Người không hề có sự đổi thay, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng”. Những từ ngữ được sử dụng ở đây khiến chúng ta nghĩ đến sự xoay vần của các tinh tú. Người xưa đồng hóa sự bền vững với chân lý, sự chuyển động với sự sai lạc. Tác giả bảo đảm tấm lòng của Thiên Chúa là muôn đời bền vững, không hề “vật đổi sao dời”.
- Người Ki-tô hữu được sinh ra từ Thiên Chúa
“Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thụ tạo của Người”. Các Ki tô hữu được sinh vào cuộc sống đầy ánh sáng nhờ Lời chân lý, ân huệ tuyệt vời nhất của Chúa Cha, tức Chúa Con, là Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế, họ trở thành “của đầu mùa trong các loài thọ tạo của Người”.
Phải chăng tác giả muốn nói rằng các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân muốn ngỏ lời hình thành nên một sự khởi đầu của nhân loại mới? Hay đúng hơn, phải chăng nên hiểu: theo ý muốn của Chúa Cha, những người Ki-tô hữu được xem như là hiến lễ đầu tiên của toàn thể nhân loại? Diễn ngữ “của đầu mùa”gợi lên ý tưởng thánh hiến cho Thiên Chúa.
- Đức tin năng động
Từ lời nhắc nhở đạo lý ngắn gọn về ơn gọi Ki-tô hữu, thánh Gia-cô-bê rút ra những kết luận thực tiễn: quan trọng là phải có một đức tin tích cực và, đặc biệt, phải quan tâm đến những người nghèo, hai lời khuyên được lập đi lập lại như điệp khúc xuyên suốt thư này.
Thật có ý nghĩa biết bao khi tác giả viện dẫn việc giúp đỡ cô nhi quả phụ như là mẫu gương, đây là lời căn dặn truyền thống Cựu Ước (Xh 22: 21; Đnl 14: 29; 16: 11; 24: 19; Tv 68: 6; 14: 6, 9; Is 1: 7; Gr 7: 6; vân vân). Như vậy, thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh sự liên tục từ luân lý Mô-sê đến luân lý Tin Mừng. Luân lý Tân Ước không hủy bỏ nhưng kiện toàn luân lý Cựu Ước. Đây là sự ghi nhận căn bản của bức thư này. Hành xử như vậy chính là “giữ mình khỏi mọi vết nhơ của thế gian”, cách nói này vang dội Tin Mừng Mác-cô được trích dẫn hôm nay về sự thanh sạch trong lòng.
TIN MỪNG (Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23)
Chúng ta lại tiếp tục đọc Tin Mừng Mác-cô, bị gián đoạn để nhường chỗ cho diễn từ “Bánh Hằng Sống” được trích từ Tin Mừng Gioan. Thánh Mác-cô tường thuật cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với những người Biệt Phái và một số kinh sư liên quan đến việc tuân giữ truyền thống các tiền nhân.
- Sự thanh sạch và ô uế theo Do thái giáo
Khi quan sát thấy vài môn đệ của Chúa Giê-su không rửa tay trước khi dùng bữa, những người Biệt Phái và kinh sư phàn nàn với Ngài tại sao các môn đệ của Ngài đã không tuân giữ truyền thống tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa.
Vấn đề họ nêu lên ở đây không là việc vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự (Lv 11-15; x. 19: 23-25; 20: 7; Đnl 14: 3-21; 19; 5: 1-4). Khái niệm thanh sạch và ô uế chiếm một chỗ quan trọng trong Do thái giáo. Khác với nhị nguyên thuyết của Hy-lạp, Do thái giáo quan niệm con người là một thực thể thống nhất, vì thế, cái thanh sạch hay ô uế bên ngoài là dấu chỉ cho thấy cái thanh sạch hay ô uế bên trong. Vì thế, chẳng lạ gì khi sách Lê-vi trong bộ Cựu Ước quy định những gì thanh sạch và những gì không thanh sạch.
Thật ra, mọi dân tộc đều đã phân biệt những cử chỉ thanh sạch và không thanh sạch để thiết lập ranh giới giữa phàm tục và thánh thiêng. Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết mật thiết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này, kẻ ấy cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, chúng ta thấy: người ta không thể dụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được đụng chạm đến tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế, cũng như vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen uế về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở về đời sống thông thường (R. de Vaux).
Sau cuộc lưu đày, người Do thái đã mất đi nền độc lập quốc gia nên họ càng gắn bó hơn nữa vào chủ nghĩa đặc thù của dân tộc mình và đã tăng thêm những nghi thức cho phép họ phân biệt mình chừng nào có thể với thế giới ngoại giáo. Qua những nét đặc thù này, họ nhấn mạnh phẩm chất của dân tộc mình là dân được Thiên Chúa chọn và tách riêng khỏi mọi dân tộc khác, vì thế họ không được sống như dân ngoại.
Thánh Mác-cô chen vào cuộc tranh luận lời giải thích dài dòng để giúp người đọc hiểu những tập tục tiền nhân mà người Do thái tuân giữ hằng ngày (7: 3-4). Điều này để lộ căn tính của độc giả, họ không là người Ki-tô hữu gốc Do thái nhưng là người Ki-tô hữu gốc lương dân.
- Sự thanh sạch và ô uế theo Chúa Giê-su
Chẳng cần quanh co, Chúa Giê-su vạch trần thói sống đạo giả hình của họ. Đây là lời tố cáo rất nghiêm khắc. “Giả hình” là từ vựng kịch nghệ được dùng để chỉ những diễn viên mang mặt nạ theo nhân vật mà mình diễn. Giả hình là người mà ngôn hành bất nhất, bộ điệu cử chỉ bên ngoài không đi đôi với tâm tình bên trong, cuộc đời chỉ là trò diễn kịch bên ngoài để che dấu con người thật bên trong.
Vì những đối thủ của Ngài là những người am tường Kinh Thánh, Chúa Giê-su viện dẫn lời ngôn sứ I-sai-a để áp dụng vào lối sống đạo của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư chỉ phụng sự Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không thật lòng với Ngài. Họ tuân giữ các nghi thức thanh tẩy bên ngoài mà bỏ qua các huấn lệnh của Thiên Chúa. Để minh chứng cho lời kết án của mình, Chúa Giê-su liền trưng ra một ví dụ súc tích về các lời khấn hứa (7: 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị lạm dụng nhiều nhất. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám Pha-ri-sêu đã bẻ cong một điểm then chốt của Lời Thiên Chúa: sự giúp đỡ cha mẹ trong Thập Giới để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho Đền Thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng hủy bỏ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giê-su không giới hạn cuộc tranh luận chỉ với những người này, nhưng còn mở rộng cuộc tranh luận tới quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách có hiệu quả hơn: “Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo..”. Trước hết Ngài tuyên bố rằng “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được”: Đức Giê-su xem ra loại bỏ luật Cựu Ước liên quan đến sự ô uế bên ngoài và những quy định về thức ăn đồ uống (x. Lv 11; Đnl 14), luật này không chỉ chiếm nhiều phân đoạn của bộ Ngũ Thư nhưng cũng đã trực tiếp làm bận lòng những người trong cuộc sống thường ngày của mình.
Sau khi đã phê phán lối sống đạo giả hình, chỉ biết tuân giữ cái bên ngoài, Chúa Giê-su tập trung vào “cái bên trong”. Chính cái gì xuất phát từ trong lòng con người mới làm cho con người ra ô uế, tức là chính từ tà tâm mà mọi ý đồ đen tối nham hiểm xuất ra. Việc phân biệt con người giữa cái bên ngoài và cái bên trong xem ra rất mới mẽ đối với truyền thống Do thái giáo.
- Ý nghĩa của cuộc tranh luận này
Bản văn này chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt. Điểm nhấn thần học mà tác giả nhắm đến là luật Cựu Ước trong mối tương quan với Đức Giê-su. Ngài loại bỏ truyền thống Pha-ri-sêu chung quanh việc tuân giữ luật nghi thức như rửa tay, lên án việc lấy giáo huấn phàm nhân thay thế huấn lệnh của Thiên Chúa bằng cách sử dụng luật như cách thức trốn tránh bổn phận của mình (thực hành luật co-ban), và Ngài hủy bỏ luật thức ăn của Cựu Ước. Hậu ý của cuộc tranh luận này đòi hỏi Ki-tô học mặc nhiên, Đức Giê-su là người có thẩm quyền giải thích luật Cựu Ước.
Ngoài ra, đoạn văn này đã được tác giả Mác-cô đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giê-su bên đất dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giê-su đã loại bỏ sự phân biệt giữa “thanh sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1: 15).
Đức Giê-su bắt đầu hủy bỏ ranh giới giữa những thức ăn thanh sạch và những thức ăn ô uế, cuộc cách mạng này sẽ được các Tông Đồ (x. Cv 10: 10) và thánh Phao-lô (x. 1Cr 6: 12 và 10: 12-20) tiếp tục. Việc mở ra cho thế giới lương dân đòi buộc phải trả bằng giá này và còn hơn nữa việc nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su không ngừng công bố.
.
Anna Cỏ May
Trong các trường học, nơi các công ty, xí nghiệp hay những quán vui chơi… luôn có những nội quy yêu cầu dành cho mọi người khi đến học, làm việc hay vui chơi… Tất cả những nội quy ấy nhằm phục vụ và đem lại sự an toàn cho mọi người. Những người Pharisêu cũng đã sống và giữ luật tiền nhân, họ đã giữ luật ấy với tâm tình thái độ gì?
Sau những chuyến đi cùng với Thầy Giêsu, các môn đệ đã mệt mỏi và đói. Trong khi dùng bữa, tay các môn đệ còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thấy vậy, các người Pharisêu và các kinh sư đã hỏi Chúa Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (Mc 7,6). Họ trung thành giữ luật và muốn người khác cũng phải giữ luật như họ. Họ không còn một lý do nào khác hơn cho việc giữ luật. Và dường như không có sự tự do của con người trong những luật ấy. Một khi có ai đến nơi đó sống, điều phải giữ luật tiền nhân.
Đứng trước câu hỏi của nhóm Pharisêu và các kinh sư, Chúa đã lấy những lời của Ngôn sứ Isaia mà nói với họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng lại xa ta” (Mc 7,6). Đối với Chúa, họ đã gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì những truyền thống của con người.
Bấy giờ Chúa gọi đám đông lại, mà nói cho họ hay về những điều gây ra sự ô uế thật sự và xuất phát từ đâu, Ngài nói: “ Không có cái gì từ bên ngoài vào vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,15). Vậy cái từ bên ngoài là gì? Đó là đồ ăn, nước uống… Tất cả những thứ đó vào bụng rồi bị thải ra ngoài, nó đâu vào tấm lòng của con người hay vào trong lương tâm. Những thứ ấy chỉ nuôi thân xác mà thôi. Cái bên trong thật nguy hiểm, đó chính là những suy nghĩ, ý định xấu như: gian dối, kiêu ngạo, ngông cuồng…”(x. Mc 7,21-23). Đó là những thứ dẫn mọi người đến chỗ ô uế, ô uế cả thân xác lẫn linh hồn. Bởi vì suy nghĩ, ý định xấu sẽ đưa ta đến hành động xấu. Mặt khác, thân phận chúng ta rất yếu đuối, dễ theo điều xấu hơn điều tốt.
Thiên Chúa yêu thương con người bằng tấm lòng của người cha nhân hậu. Chúa muốn nhắn nhủ với con cái của Ngài là tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa bằng trái tim tình yêu, bằng tấm lòng bác ái và không lệ thuộc vào các lề luật. Lời mời gọi ấy còn tha thiết hơn trong bối cảnh xã hội hiện nay. Một xã hội đang dửng dưng, vô cảm trước mạng sống con người.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con những lề luật yêu thương qua các Bí tích, các điều răn và các mối phúc. Chúa cho chúng con được sinh ra và lớn lên trong cái nôi của Gíáo hội. Xin cho chúng con biết sống trong tâm tình biết ơn,và một tinh thần sống và tuân giữ lề luật trong tình bác ái yêu thương. Nhờ đó danh Cha được rạng ngời và chúng con cùng mọi người được ơn cứu độ. Amen.
CHỈ NGHE SUÔNG LÀ LỪA DỐI CHÍNH MÌNH
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em. Lời đó có sức cứu độ linh hồn anh em” (Gc 1,21b).
Thánh Gia-cô-bê khuyên chúng ta rằng: chúng ta hãy khiêm tốn đón nhận Lời Chúa gieo vào lòng chúng ta. Vì sao ? Vì Lời Chúa đó có sức cứu độ linh hồn chúng ta. Ngài còn nói rõ hơn rằng: “Thiên Chúa đã tự ý dùng Lời Chân Lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (x. Gc 1,18).
Lời Chân Lý chính là Lời Chúa; chính là Lời Tin Mừng mà Đức Giê-su đã rao giảng và đã được ghi lại trong các sách Phúc Âm. Lời Chúa là Chân Lý cho người tín hữu chúng ta. Lời Chúa đó mới có sức cứu độ linh hồn chúng ta mà thôi.
Cũng nhờ nhờ Lời Chúa đó mà chúng ta được sinh ra trong phép Rửa Tội, để ta trở nên thọ tạo mới; ta trở nên con Thiên Chúa và đem lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Bởi đó mà ta phải có lòng khiêm tốn như Đức Ma-ri-a để có thể nhận lãnh Lời Chúa; để Lời Chúa được gieo vào lòng chúng ta. Trong biến cố Truyền Tin, Đức Ma-ri-a đã nói: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (x.Lc 1,38).
Lời Chúa không phải như lời người phàm, Lời Chúa vượt lên trên sự hiểu biết và sự khôn ngoan của con người chúng ta. Có khi chúng ta khó chấp nhận, vì cách suy nghĩ của chúng ta không hợp với cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Một ví dụ điển hình như trường hợp một trinh nữ mà sinh con;Một người nữ chưa ăn ở với người nam mà có thai thì không thể chấp nhận được và cũng không thể lý giải được. Điều này chính đức Ma-ri-a đã thưa với Thiên Thần chứ không phải chúng ta bây giờ. Nhưng “Đó là Lời Chúa”. Đức Ma-ri-a chỉ biết khiêm tốn và xin vâng.
Quả thực, phải có lòng khiêm tốn và lòng tin thì ta mới có thể đón nhận Lời Chúa được. Và nhờ Lời Chúa đó mà ta được cứu độ, nghĩa là làm cho ta nên thánh nên thiện. Thực thế trong bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy rõ điều đó.
Lời của tiền nhân; lời của người xưa, qua các câu ca dao, tục ngữ; đó là những đúc kết những kinh nghiệm mà các ngài để lại.Đó là những kinh nghiệm sống ở đời này, chứ không đem lại cho ta sự sống đời đời. Nào là phải rửa tay, rửa bình, rửa chén cho sạch trước khi ăn. Đó chỉ là phép vệ sinh trước khi ăn, chứ không làm cho ta nên thánh nên thiện được. Vì đồ ăn thức uống, nếu xấu, tức là hư thối hay tay chân ta vấy bẩn, có thể làm cho ta đau bụng hay “Tào Tháo đuổi” thôi, chứ không làm cho tâm hồn hay con người của ta nên tốt hay ra xấu xa được.
Chỉ có, “những gì từ bên trong, từ lòng người phát xuất ra những ý định xấu như: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngồng cuồng”, mới làm cho con người và tâm hồn ta xấu xa mà thôi.
Thế đấy, Lời Chúa và lời của con người khác xa nhau biết mấy; cách nghĩ của con người cũng “một trời một vực” với cách nghĩ của Thiên Chúa. Cho nên muốn được cứu độ, muốn nên thánh nên thiện ta phải nghe và thực hành Lời Chúa, chứ không có cách nào khác. Việc này phải có “hai thì” chứ “một thì” không được. Tức là NGHE và THỰC HÀNH.
Nếu ta chỉ có nghe Lời Chúa không thôi, thì Lời Chúa chẳng sinh ích gì cho ta; chẳng làm cho ta nên thánh nên thiện được. Ta mà chỉ NGHE SUÔNG thì ta tự lừa dối chính mình. Thánh Gia-cô-bê nói: “Anh em hãy đem Lời đó là thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (x.Gc 1,22). Tại sao lại là lừa dối chính mình?
Vì ta cứ tưởng chỉ được rửa tội, chỉ nghe Lời Chúa; ta chỉ đi đọc kinh, dâng lễ hằng ngày hay hàng tuần là chắc mẻm ta được cứu độ; ta sẽ nên thánh nên thiện; ta sẽ được lên thiên đàng. Điều này không đúng. Chúa đâu có nói như vậy bao giờ. Cứ tìm trong các sách Phúc Âm, không có chỗ nào Đức Giê-su nói như thế cả. Chắc chắn 100%.
Giáo Hội, có lúc cũng đã nói như thế và có khi Linh mục cũng đã giảng như thế. Nói như thế và giảng như thế thì không đúng với ý Chúa, không đúng với Phúc Âm rồi. Nói như thế và giảng như thế là mị dân, là nói dối. Giáo Hội đã có lúc sai lầm và các Linh mục giảng, có hồi cũng đã sai lầm. Cũng vì tiền, vì của; vì danh, vì lợi mà đã bóp méo Lời Chúa; nói dối, nói láo.
Ngày xưa khi Giáo Hội cần tiền để xây Đền Thờ, đã mại thánh và nói rằng: “Khi một đồng tiền bỏ vào thùng kêu một tiếng keng, là có một linh hồn lên thiên đàng”. Nếu thế thì những tay nhà giàu lên thiên đàng thẳng cẳng hết rồi. Thế nhưng Đức Giê-su lại nói: “Người giàu có khó vào thiên đàng. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào thiên đàng”(x. Mt19, 23-24). Vậy thì ta tin ai đây ? Ai đúng ai sai ? Chúa sai hay Giáo Hội sai?
Nói đúng ra Chúa không sai và Giáo Hội cũng không sai, chỉ có những con người lãnh đạo Giáo Hội, các Giáo Hoàng; các Giám Mục, các Linh Mục là sai thôi, vì các ngài cũng là những con người. Nên ta phải tin vào Chúa và thực hành Lời Chúa là chắc ăn nhất. Giáo Hội: Giáo Hoàng, Giám Mục hay Linh Mục mà giảng Lời Chúa; giúp ta sống Lời Chúa thì ta hãy theo và thực hành, nếu không ta cũng sẽ bị lừa dối và lừa dối chính mình.
Những ai có nhiệm vụ giảng Lời Chúa, cũng phải coi lại lời giảng của mình, xem có đi ngược lại với Lời Chúa nói không? Ta có giảng Lời Chúa hay là giảng “lời ta”. Ta mà giảng lời ta thì ta phải lãnh trách nhiệm nặng nề trước mặt Chúa lắm đấy. Vì ta đã bóp méo Lời Chúa; ta đã uốn cong Lời Chúa, mà nói sai, nói bậy; đã lừa dối các tín hữu; không làm cho đức tin của họ mạnh lên; ta không được vào thiên đàng mà còn kéo cả họ xuống với ta nữa thì khốn cho ta biết chừng nào. Ta phải là người đầy tớ trung thành của Chúa và trung thực rao giảng Lời Chúa.
Quả thực, nếu ta lười biếng không thực hành Lời Chúa, ta chỉ nghe suông, nói suông thì ta tự lừa dối chính mình. Ta cứ đinh ninh rằng, ta đã được rửa tội; ta là Linh mục, hằng ngày, hàng tuần dâng lễ, nghe Lời Chúa; rước Mình Thánh Chúa; lần hạt mân côi, là ta chắc ăn được lên thiên đàng. Nếu đến khi chết, ta lên gặp Chúa, Chúa không cho ta vào thiên đàng, vì ta chưa nên thánh nên thiện. Lúc đó thì “hỡi ôi!!!”; “công cốc, công cò”. Mà ta có cố gắng sống Lời Chúa gì đâu; tại ta nghĩ, tại ta tự lừa dối mình đấy chứ.
Vậy ta phải thức tỉnh ngay hôm nay; nếu trước ta đã nghĩ như thế thì ngay bây giờ, ta phải bỏ ngay những ý nghĩ đó đi; phải làm lại ngay; phải đổi hướng ngay; ta đã trật hướng, đã đi sai đường rồi. Ta phải nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống của mình ngay kẻo không kịp. Ta phải lấy lòng khiêm tốn và đức tin để đón nhận Lời Chúa gieo vào lòng ta, để ta càng ngày càng nên thánh nên thiện. Ta sẽ an tâm và cố gắng và như thế ta mới nắm chắc sẽ có chiếc vé vào thiên đàng. Đừng có lười lĩnh mà lừa dối chính mình; cũng đừng để ai lừa dối mình, kẻo ta mất cả chì lẫn chài; mất cả đời này lẫn đời sau đấy.
TÔN KÍNH BẰNG ĐẦU MÔI CHÓT LƯỠI
JM. Lam Thy
Do Thái giáo có những luật lệ rất khắt khe: không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước; không được ăn thịt heo, thịt thú chết ngạt; không được đụng vào xác chết, chạm vào người phong cùi; không được ngồi chung bàn với dân ngoại, không được vào nhà những người bị coi là tội lỗi v.v… Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Đối với người Pha-ri-sêu, ai đụng vào, sờ vào hay ăn những đồ cấm kỵ là trở nên ô uế. Nếu chỉ nhìn trên bình diện đời sống trần tục thì nói chung những luật lệ đó là tốt đẹp; ngoại trừ tục “không được đụng vào xác chết, chạm vào người phong cùi; không được ngồi chung bàn với dân ngoại, không được vào nhà những người bị coi là tội lỗi” nằm trong vấn đề giao tiếp, đối xử trong cộng đồng, thì không thể chấp nhận được.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXII/TN-B – Mc 7, 1-8a.14-15.21-23) trình thuật một nhóm người Pha-ri-sêu và một số kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến. Họ thấy vài môn đệ của Đức Giê-su dùng bữa mà chưa rửa tay; họ liền hỏi Người: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Vấn đề đặt ra ở đây là động cơ thúc đẩy bọn người Pha-ri-sêu căn vặn Đức Ki-tô. Họ không nói đến vấn đề vệ sinh ăn uống, mà là muốn đặt vấn đề giới luật để gài bẫy đối tượng mà họ đố kỵ, ganh ghét. Hiểu quá rõ về tâm lý đó, nên Đức Ki-tô đã nói thẳng: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân’. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” (Mc 7, 6-8).
Đức Giê-su còn nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 15), Để ý một chút sẽ thấy Đức Ki-tô dùng tiếng ô uế (Từ nguyên: Ô: vẩn, đục; Uế: bẩn thỉu – Ô uế: nhơ nhớp, dơ bẩn – Vd: Cuộc đời ô uế của gái mại dâm) là có ý nói đến cả cuộc sống của con người chớ không chỉ là việc ăn uống (Nếu thức ăn do bàn tay không sạch sẽ đưa vào trong cơ thể sẽ khiến cho cơ thể đau yếu, bệnh tật, chớ không phải làm cho con người ra ô uế). Người còn giải thích rõ hơn: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 20-23). Rõ ràng Đức Ki-tô đã cho họ thấy rằng động lực thúc đẩy con người trở thành ô uế là từ nội tâm tư tưởng.
Rửa tay trước khi ăn là ăn cơm bánh để nuôi dưỡng thể xác. Nhưng điều Chúa muốn nói đến ở đây là ăn của ăn thiêng liêng, mà với của ăn tâm linh thì điều tất yếu là phải rửa sạch mọi vết nhơ của cõi lòng. Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những hình thức bên ngoài, thì lại thường coi nhẹ cái cốt lõi bên trong lề luật. Đức Giê-su đã lên án điều ấy: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.” (Mt 23, 23-24). Đức Giê-su đã phê bình đám kinh sư chỉ câu nệ vào Lề Luật nơi những điều phụ thuộc, còn điều quan trọng thì không màng tới. Người nhấn mạnh: “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ”. Rõ ràng là Người không những chỉ nhắc nhở phải lưu tâm tới điều trọng yếu trong Lề Luật, mà còn nhắc nhở không được bỏ qua những điều thứ yếu.
Một cách cụ thể thì việc giữ luật không câu nệ theo hình thức bên ngoài, hoặc những tiểu tiết, những điều phụ thuộc, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều, là cái quan trọng nhất trong luật, là cốt tủy của lề luật. Cái đó chính là tuân giữ tinh thần chủ yếu của lề luật bằng cả tấm lòng. Nói cách khác, đó là “Đạo Tại Tâm” vậy. Khi nói “Đạo Tại Tâm”, thường thì cần phải phân biệt nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng: Theo nghĩa chiểu tự thì “Đạo” chỉ có nghĩa là con đường, nhưng theo nghĩa thiêng liêng thì Đạo mang màu sắc tôn giáo. Gộp chung cả 2 nghĩa thì Đạo chính là đường đi nước bước của một tôn giáo. Vậy “Đạo Tại Tâm” là muốn nói đến tinh thần, đường hướng của một tôn giáo cốt ở trong lòng, ở nội tâm, chớ không chỉ ở hình thức bên ngoài (“Nhưng người Do Thái chính hiệu là người Do Thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi.” – Rm 2, 29). Nếu quá câu nệ vào hình thức bên ngoài mà trong lòng trống rỗng, không thành thật, thì đó chỉ là thứ “giả hình”, là “made in Pha-ri-sêu” mà thôi.
Nói như vậy cũng không có nghĩa là “Đạo Tại Tâm” chỉ giữ đạo ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài. Thực ra những lề luật của Ki-tô giáo đều là những quy tắc giúp tín hữu tuân giữ các giới luật của Thiên Chúa, mà giới luật của Thiên Chúa chỉ quy về một điều răn quan trong nhất là Tình Yêu: “Mến Chúa yêu người” (muốn mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” thì phải biết “yêu anh em như yêu chính mình”, đổi lại, chỉ những ai thực sự yêu người như yêu chính mình mới là thực lòng mến Chúa). Do đó, “Đạo Tại Tâm” phải là “sống đạo và thực hành các giới răn của Chúa” với tất cả tấm lòng, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn của Chúa, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật. Sống đạo thực sự là phải tuân giữ và thực hành “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật”, đồng thời “Các điều này (chủ yếu) vẫn cứ phải làm, mà các điều kia (phụ thuộc) thì không được bỏ” (ibid).
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay muốn nhắc nhở mọi tín hữu hãy tuân giữ các giới răn của Chúa và đem ra thực hành Lời Chúa như lời khuyên của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ khưyên các tín hữu hãy sống đạo bằng cách thực hành, đó là xa tránh tội lỗi và thực hành đức bác ái (“Anh em hãy tẩy trừ mọi điều ô uế, gian ác… Anh em hãy mau mắn lãnh nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, chứ đừng nghe suông… Hãy giữ lòng mình khỏi mọi ô uế ở đời này… Hãy thăm viếng cô nhi, quả phụ trong cơn quẫn bách…” – Gc 1, 17 -18.21-22.27). Chúa Giê-su chỉ phê phán bọn kinh sư Pha-ri-sêu giả hình (“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” – Mc 7, 6); Người không hề bác bỏ Lề Luật (“Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” – Mt 5, 18).
Ôi! Lạy Chúa! Nhìn lại mình, con thấy cách này cách khác con cũng chẳng hơn gì đám người Pha-ri-sêu chỉ câu nệ vào truyền thống, vào hình thức, mà quên đi cái cốt tuỷ bên trong là giới răn của Chúa. Quả thật, không ít lần con đã ”gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7, 8). Ôi! Lạy Chúa! “Xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin chỉ cho con nước bước của Ngài, xin hướng dẫn con trong Chân Lý, xin dạy bảo con những điều cao quý, vì Chúa là Đấng cứu độ con, là Đấng ngày đêm con cậy trông.” (“Xin chỉ cho con” – Hùng Lân – TCCĐ). Cúi xin Chúa đồng hành với con trong mọi tình huống để giúp con luôn chú trọng đến “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật” mà đem ra thực hành trong suốt đời con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
TUÂN GIỮ GIỚI RĂN LỀ LUẬT CỦA CHÚA
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Kỳ thi phổ thông quốc gia vừa qua đã để lại nhiều tai tiếng cho ngành giáo dục và xã hội. Nhiều thí sinh là con của các quan chức tại các tỉnh phía bắc có số điểm cao bất thường. Khi chấm điểm lại, người ta thấy có sự chênh lệch điểm đến không thể tin được, có những học sinh dưới trung bình được nâng thành điểm xuất sắc. Những người có liên quan tìm cách lấp liếm, quanh co chối bỏ trách nhiệm.
Thưa quý OBACE, xã hội ngày nay đang lan tràn sự gian dối, giả trá từ cấp cao nhất đến những những nhân viên thấp nhất. Người dân dường như không muốn nghe những bài tuyên giáo sáo rỗng, dối trá của những người lãnh đạo, báo đài, bởi vì sự dối trá đang làm mất lòng tin của người dân. Những người có trách nhiệm, họ nói một đàng lại làm một nẻo, ngôn hành bất nhất, khiến cho người dân mất lòng tin, xã hội trở nên rối ren, lộn xộn, vô luật pháp.
Xã hội Do Thái ngày xưa cũng rơi vào tình trạng rối ren như thế. Những người lãnh đạo chỉ lo vơ vét của cải cho bản thân và gia đình. Đời sống của họ trở nên bê bối, thành gương xấu cho người khác. Họ tùy tiện uốn nắn, thay thế lề luật của Thiên Chúa bằng các thói quen tập tục có lợi cho bản thân. Trách nhiệm chính của các nhà lãnh đạo là giảng dạy, hướng dẫn dân đi theo đúng giới răn lề luật của Chúa. Tuy nhiên, chính họ lại vi phạm lề luật và tìm cách thêm nhiều chi tiết vào luật để biện minh, che đậy cho sự sai trái của mình.
Tin Mừng hôm nay kể về cách hành xử của những người lãnh đạo Do Thái: Các người Pharisêu trách Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài không giữ tập tục thanh sạch, không thực hành nghi thức thanh tẩy chén bát và rửa tay trước khi vào bàn ăn. Họ cho rằng Chúa Giêsu và các môn đệ đã vi phạm tập tục của tiền nhân. Theo luật tinh sạch của người Do Thái: tất cả đồ ăn, đồ dùng hoặc khi ra ngoài trở về, họ phải thực hiện một nghi thức thanh tẩy: tắm rửa, thay quần áo, rảy nước trên đồ vật… Đây không phải là việc làm theo phép vệ sinh ngày nay, nhưng họ thanh tẩy vì cho rằng có thể dân ngoại hoặc người bị ô uế đã đụng chạm đến các đồ vật ấy.
Chúa Giêsu đã muốn đưa những người Pharisêu này trở lại với ý nghĩa nguyên thủy của việc thanh tẩy này. Ngài trích lời Isaia để nói với họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm”. Điều Thiên Chúa muốn nơi mỗi người không phải là những hình thức giả dối bên ngoài nhưng phải là tấm lòng thành. Chúa muốn mỗi người cần phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi ô uế hơn là những hình thức thanh tẩy bên ngoài. Chúa muốn mỗi người biết đặt ưu tiên cho việc chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống ngay thẳng công minh, chính trực, hơn là giữ các tập tục vô nghĩa. Nói như thế, Chúa không phủ nhận các giá trị tốt đẹp của tiền nhân, nhưng Chúa chê trách những người nại vào tập tục mà bỏ qua việc chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa hoặc giữ luật mà không hiểu ý nghĩa của luật.
Đàng khác, Chúa trách những luật sĩ và biệt phái vì họ đã làm ngơ trước lề luật của Thiên Chúa và dạy người khác làm theo luật của riêng mình. Ví dụ họ cho rằng những ai chỉ cần tuyên bố sẽ dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì người ấy không phải nuôi dưỡng báo hiếu cha mẹ nữa. Đây chắc chắn không phải là điều Thiên Chúa dạy. Thiên chúa đòi buộc mỗi người phải thảo kính cha mẹ. Ai không chu toàn là có lỗi với cha mẹ và có tội trước mặt Thiên Chúa. Nhưng vì muốn cho có nhiều người dâng cúng vào đền thờ mà các luật sĩ và thượng tế đã đặt ra luật như thế.
Chúa Giêsu gọi đám đông đến và nói cho mọi người một nguyên tắc căn bản: Đó là phải tôn trọng tiếng lương tâm trong sáng, nghe và làm theo tiếng nhắc bảo của lương tâm. Chúa Giêsu dùng cách so sánh cụ thể: “Không phải những cái từ bên ngoài vào trong con người có thể làm cho họ ra ô uế, mà chỉ những cái từ trong xuất ra mới có thể làm cho con người ra ô uế mà thôi”. Chúa Giêsu cũng giải thích thêm “cái bên trong” đó là: “tư tưởng xấu, tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng nó phát xuất từ trong tâm hồn và làm cho tâm hồn ô uế”. Đúng như vậy, tư tưởng sẽ chi phối hành động. Tư tưởng xấu xa mờ ám, thì dẫn đến hành động xấu xa gian dối; tư tưởng suy nghĩ quanh co thì hành động cũng quanh co không ngay thẳng; tư tưởng dâm ô thì từ lời nói đến hành động sẽ là những điều dâm ô.
Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng là mỗi người cần thanh tẩy, điều chỉnh suy nghĩ của mình trước; thanh tẩy từ trong tâm hồn. Thay đổi được suy nghĩ, sẽ thay đổi được hành động và đời sống. Suy nghĩ những điều tốt đẹp, tích cực thì sẽ hành động tích cực tốt đẹp cho người khác. Suy nghĩ những điều thánh thiện, thì cuộc sống và việc làm sẽ thánh thiện.
Ngày xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa cũng đã dùng ông Môsê để cánh báo về việc giữ giới răn lề luật của Thiên Chúa sao cho cho tinh ròng, đừng tự ý thêm hoặc bớt lề luật Chúa. Vì lề luật của Thiên Chúa là do ý muốn của Thiên Chúa. Ai tuân giữ cách vuông tròn, đó là người khôn ngoan và lề luật của Chúa sẽ gìn giữ người ấy. Hơn nữa, Môsê còn kêu gọi mọi người hãy luôn cảm thấy tự hào vì không có dân tộc nào được Thiên Chúa ưu ái ban lề luật của Ngài như Chúa đã ban cho dân Do Thái. Tuy nhiên, những lời căn dặn của Môsê đã không được người Do thái lưu ý. Họ tìm cách sửa luật Chúa theo ý muốn và theo lợi ích riêng của mình, biến việc giữ luật chỉ còn là hình thức bên ngoài không còn ý nghĩa ban đầu. Sau nhiều thế kỷ, người Do thái đã thêm vào lề luật của Chúa nhiều chi tiết và nhiều các thứ luật khác khiến cho đa số người dân không thể phân biệt đâu là giới răn của Chúa đâu là luật của các thượng tế, luật sĩ.
Thưa quý OBACE, không chỉ những người Do thái ngày xưa, mà chúng ta hôm nay cũng bị tình trạng như thế. Nhiều người trong chúng ta tin Chúa, theo Chúa nhưng không muốn giữ lề luật của Thiên chúa. Nhiều người cho rằng luật Chúa ngày nay con người không thể giữ được. Vì vậy, họ tìm cách xén gọt luật Chúa cho vừa với ý của mình. Nhiều người khi bước vào cuộc sống hôn nhân, họ cam kết chu toàn luật Chúa và Giáo Hội. Họ công khai nói lên sự thuỷ chung và vĩnh viễn của hôn nhân công giáo. Thế nhưng, có nhiều người đã tìm cách phá vỡ mối dây hôn nhân, tìm cách hủy bỏ lời cam kết. Họ đưa ra rất nhiều lý do để biện mình cho lối sống, suy nghĩ và hành động sai trái của mình. Ngày nay có cả những phong trào nổi lên gây sức ép, nhằm phá hủy luật hôn nhân của Chúa để thay thế bằng luật của con người.
Sống trong một tổ chức nào cũng cần phải có lề luật để duy trì sự trật tự và giúp phát triển tổ chức đó. Cũng vậy, là thành viên trong gia đình Hội Thánh của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải chu toàn những lề luật của Hội Thánh. Vì Hội Thánh là của Chúa Kitô, do Chúa Kitô thiết lập để thi hành sứ mạng Chúa Kitô trao phó. Vậy mà, có những người đang tìm cách gây sức ép để Hội Thánh thay đổi lề luật của mình với lý luận: Luật do Hội Thánh đặt ra thì Hội Thánh có quyền thay đổi. Ví dụ như luật về hôn nhân gia đình, luật bảo vệ sự sống… Luật của Hội Thánh là do ý định của Thiên Chúa, nhằm xây dựng Hội Thánh. Vì thế, Hội Thánh không thể đi ngược với ý định của Chúa Kitô.
Trong một cộng đoàn nhỏ hơn là giáo xứ, gia đình cũng cần có những quy định phù hợp với lề luật của Thiên chúa nhằm bảo vệ, củng cố và phát triển cộng đoàn và gia đình. Vì thế, mỗi người đừng vì ý thích cá nhân, cũng đừng nhân danh tự do cá nhân hoặc quyền lợi nào đó mà coi thường luật Chúa và Giáo hội hoặc những quy định của cộng đoàn và gia đình. Vì tất cả những lề luật của Thiên chúa và Hội Thánh là nhằm giúp ta tiến triển và đạt tới đời sống thánh. Những quy định trong giáo xứ và gia đình là chuẩn mực, nhằm giúp ta hoàn thiện con người mình mà thôi.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra ý Chúa qua các giới răn lề luật của Chúa và giúp chúng ta thi hành, chu toàn luật Chúa cách vui tươi và tự do. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Hôm nay, Chúa Nhật XXII thường niên B, chúng ta tìm hiểu về Luật Chúa là luật đích thực của tôn giáo. Luật này được kiện toàn trong bí tích tình yêu và chỉ tồn tại trong tâm hồn tinh truyền và thánh thiện. Vì thế, các bài đọc hôm nay hướng dẫn chúng ta suy tư về cách thế tốt nhất để tuân giữ luật Chúa, nhờ đó chúng ta đạt tới ơn cứu độ.
Trong bài đọc I, Môsê nhắc nhở dân người về các huấn lệnh của Thiên Chúa và yêu cầu họ phải kiên tâm bền chí tuân giữ để được sống hạnh phúc. Ông cũng nghiêm túc lưu ý họ không được thêm hoặc bớt điều gì. Tuy nhiên, lời cảnh báo này đã không được thực hiện một cách nghiêm túc, bởi vì sau này những người Pharisêu đã biến 10 điều răn thành 613 khoản quy định tỉ mỉ.
Vì thế, họ đã làm cho cuộc sống trở nên khó khăn và phức tạp một cách thái quá đối với dân Chúa. Đó là lý do tại sao trong thư Galát chương 3, thánh Phaolô đã đối diện với trường hợp như thế nên ngài đã mạnh mẽ chống lại “lề luật.” Ngài không hoàn toàn lên án lề luật, nhưng lên án cách thức mà những người Pharisêu quan niệm, lạm dụng và trình bày lề luật. Ngài cho rằng tinh thần Lề Luật còn quan trọng hơn các chữ viết.
Cũng thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chống lại nhóm Biệt Phái vì sự giả hình của họ. Họ không bao giờ giữ luật mà họ đã đề ra cho dân. Đây là cách thức nguy hiểm của đời sống mà chúng ta (những linh mục, tu sĩ và những Pharisêu thời nay) phải cẩn thận xa tránh. Chúng ta không được sống một cuộc sống giả hình, cũng như làm cho cuộc sống trở nên phức tạp hơn cho người khác; hay đôi khi chúng ta chỉ thích bắt bẻ, chỉ trích và lên án người khác, nhưng lại không ý thức về giới hạn của mình.
Đặc biệt, trong khi nhóm Biệt Phái chỉ chú trọng đến hình thức và nệ luật bên ngoài, Chúa Giêsu chỉ cho thấy căn nguyên sâu xa nhất của mọi sự xấu xa và thiện hảo khi Người nói: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,15). Người mời gọi chúng ta phải kiểm điểm chính mình. Bởi lẽ, từ bên trong, nơi lòng chúng ta, những ý định xấu xa, ghen ghét, kiêu ngạo, những khuynh hướng đồi bại mà chúng ta lưu giữ trong lòng thực sự là những gì biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta là ai. Chúng là những tật xấu làm cho chúng ta trở nên xấu xa. Chúng ta phải loại trừ chúng trước khi chúng cắm rễ sâu và làm cho toàn bộ con người chúng ta ra hư hỏng. Chúng là những kẻ thù đích thực và ẩn mặt mà chúng ta phải chiến đấu và chiến thắng mỗi ngày.
Phẩm chất của đời sống chúng ta được đo lường nhờ phẩm chất của tâm trí chúng ta. Nếu tâm trí chúng ta bị phá hoại và bệnh hoạn, thân xác chúng ta sẽ bị bệnh hoạn gấp trăm lần, ngay cả khi chúng ta không ý thức điều đó. Như thế, điều quan trọng nhất mà Thiên Chúa cần nơi chúng ta là tâm hồn trong sạch như Chúa Kitô dạy chúng ta: “Phúc thay những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).
Cách thức tốt nhất để trung thành với huấn lệnh Thiên Chúa là để cho tâm hồn chúng ta được biến đổi nhờ Lời Chúa. Như thế, thay vì quá chú tâm đến những chữ viết của lề luật và sự trong sạch thể lý, chúng ta nên chú ý tới lời khuyên của Phaolô: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Thánh ý Thiên Chúa chính là luật Người. Luật Chúa phải thúc đẩy chúng ta yêu mến người khác và làm lành lánh dữ. Luật Chúa phải kêu gọi sự sám hối đích thực và ước muốn chân thành để tha thứ cho người khác. Luật Chúa giữ chúng ta vững vàng trong đức tin. Tắt một lời, luật Chúa phải thúc đẩy chúng ta chỉ theo đuổi điều tốt lành, phải đạo, cao thượng và thánh thiện.
Hôm nay, thánh Giacôbê Tông Đồ đòi hỏi chúng ta nơi bài đọc II: “Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em… Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành” (Gc 1,21-22).
Vì thế, cách tốt nhất để thực hiện điều này là chúng ta hãy có gắng sống đức tin của mình vào trong đời sống hằng ngày, hãy diễn tả nó qua cách thức chúng ta sống, yêu và hành xử với người khác. Cuối cùng, Thánh Vịnh Gia nhắc nhở chúng ta rằng người công chính sẽ sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa chúng ta thực hành Lời Chúa và các giới răn với một tâm hồn trong sạch và chân thành. Vì thế, chúng ta hãy khiêm tốm cầu nguyện như vua Đavít: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51,12). Amen!
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Chúng ta thường nói người Pharisieu là đạo đức giả! Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 7:1-8, 14-15, 21-23) giúp chúng ta hiểu nhiệm vụ của người Pharisieu trong Do Thái Giáo. Tại sao chúa Giesu và nhiều người lại ghét thái độ giả hình của người Phrisieu? Ai là Pharisieu trong thời Chúa Giesu và thời đại ngày nay?
Người Pharisieu muốn cho lề luật được sống động nên đã cố gắng làm cho lề luật thích hợp với mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Giáo lý của người Pharisieu thì không trái với giáo lý Kito giáo. Thời chúa Giesu, người Pharisieu thuộc phe “bảo thủ” trong Do Thái Giáo. Họ tỏ ra rất đạo đức, giữ luật Torah và Talmud thật khít khao. Họ là thủ lãnh phe đa số và được những tín đồ ngoan đạo, nhiệt thành nể trọng. Đối lập với phe này là phái Sa Đóc, đại diện phái “tự do” trong Do Thái Giáo. Người Sa Đóc thì bình dân và nổi tiềng trong phái thượng lưu xã hội nhưng là thiểu số. Pharisieu và Sa Đóc được nhắc tới trong tin mừng Mathieu (Mt 3:7-10), khi Gioan Tiền Hô kết án họ lúc họ đến xin chịu phép rửa: “ Loài rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp ráng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa trái xứng với lòng xám hối…. Tại sao Gioan lại mắng những người Pharisieu là rắn độc, là quân giả hình nhân đức?
Chúa Giesu cũng dùng những lời trách móc rất nặng để chửi những người Pharisieu. Trong Mathieu 16:6 Chúa đã cảnh giác các môn đệ: “Hãy để ý đến căn nguyên của dân Pharisieu và Sa Đóc.” Người môn đệ phải để ý đến cái gì? Có phải cái tính vô đạo đức của dân Pharisieu và Sa Đóc không?
GIỮ LỀ LUẬT THẬT KHẮT KHE
Thời chúa Giesu, người Pharisieu thường cổ động cách giữ luật thật khit khao và sống đạo hàng ngày thực sự trong lòng. Nhưng một số người chỉ giữ đạo bề ngoài và bị những Pharisieu khác đả kích. Tiên tri Isaiah cũng từng gọi họ là kẻ giả hình nhân đức. Chúa Giesu cũng phản đối việc cắt nghĩa luật của họ, nhưng Chúa không kết án chủ thuyết của họ hoặc tất cả những người Pharisieu.
Người Pharisieu “dựa vào chính họ, coi họ là người công chính.” Họ tin rằng bồn phận của họ là làm điều mà Thiên Chúa truyền và cấm điều Thiên Chúa cấm. Những điều làm được và gìn giữ được sẽ tiến dâng lên Thiên Chúa. Họ tự cho mình là người công chính, khinh miệt tất cả những ai không tuân giữ luật theo cách của họ. Họ không ngồi ăn với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi là những kẻ xấu. Họ xì xào nói xấu những người ngồi ăn với chúa Giesu. Thấy vậy Chúa bèn nói: “Người khỏe mạnh không cần bác sĩ mà là kẻ yếu đau bệnh hoạn. Ta đến không vì người công chính nhưng vì kẻ tội lỗi cần ăn năn thống hối” (Lc 5:31-32).
THỰC TÂM QUAN TRONG HƠN BỀ NGOÀI
Đoạn Tin Mừng hôm nay (Mc 7:1-8, 14-15, 21-23) cho biết những người Pharisieu và những nhà thông luật đến từ Jerusalem là để điều tra về Chúa Giesu. Chúa Giesu đã bãi bỏ cách thực hành nghi thức thanh tẩy và phân biệt thức ăn sạch và dơ theo truyền thống tôn giáo nên Chúa muốn thi hành luật một cách thông thoáng hơn. Thấy một số môn đệ ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay (Mc 7:2) mấy ông Pharisieu và thông luật bèn hạch hỏi chúa Giesu: “Tại sao các đệ tử của ông không giữ truyền thống của các tổ phụ, ngồi ăn với hai bàn tay dơ?” (c.5). Chúa Giesu đã không trả lời nhưng gọi mấy tên Pharisieu và nhà thông luật đó là “quân giả hình nhân đức” (c.6). Nhắc lời Isaiah, chúa Giesu lột mặt nạ họ. Các ông bám lấy nguyên tắc của người đời rồi tin tưởng vào truyền thống của các tổ phụ mà quên đi lề luật của Thiên Chúa (c.8). Chống lại cách hành đạo kiểu bề ngoài, theo thuyết thanh tẩy (Mc 7:2-5), hẹp hỏi của các Pharisieu, chỉ giữ các giới răn thờ phương bằng môi miệng (7:6-7), Chúa Giesu đã lấy luật của Thiên Chúa phản bác lại (7:8-13): “Các ông đã gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm….”
Chúa còn nêu lên sự tương phản giữa luật và cách cắt nghĩa luật của người Pharisieu. Thực vậy, Macco 7:14-15 đã để luật qua một bên mà vẫn tôn trọng thức ăn sạch và bần. Quan điểm của chúa Giesu rất rõ ràng, chính đa số các Pharisieu cũng công nhận cái tâm mình, lòng mình quan trọng hơn vẻ bề ngoài.
Ý NIỆM TỘI CỦA DÂN PHARISIEU
Chúa Giesu bác bỏ quan niệm tội của người Pharisieu và các nhà thông luật. Đối với chúa Giesu, tội từ tâm mà ra. Không biết phân biệt các loại thức ăn không phải là tội. Thái độ của Chúa về tội là quan niệm về ngày Sabbath. Giữ luật mà không có lòng trắc ẩn cảm thông và yêu thương thì thiếu lòng nhân đạo và không có tình người.
Chúng ta có thể hiểu dễ dàng sứ điệp của Chúa Giesu muốn nói với các Pharisieu và những nhà thông luật (c.1-8) cũng như đám đông: Tất cả các ngươi kể cả các môn đệ (c.21-23), hãy nghe ta đây, để mà hiều (c.14-15). Đây là tin vui cho tất cả mọi người, là Thiên Chúa không cứng ngắc theo sát luật. Người uyển chuyển, bởi vì qua đức Giesu Kito, Thiên Chúa Cha đã cho chúng ta một đời sống mới. Không nên quá lo lắng làm sao để vâng theo luật lệ và giữ mình thanh sạch.
Giữ mình thanh sạch là chúng ta tự do dùng bàn tay mình để phụng sự tha nhân. Chúng ta có thể bị dơ bẩn trở lại, nhưng Thiên Chúa cho chúng ta tự do giữ luật, lại ban cho chúng ta ân sủng. Đây cũng là một tin vui chúng ta phải chia sẻ khi chúng ta phụng sự những người có tâm hồn giữ luật, đám đông, và cả những môn đệ chúa Giesu ở chung quanh ta.
NGƯỜI PHARISIEU THỜI ĐẠI
Ai là Pharisieu và đệ tử của họ ở thời đại ngày nay? Pharisieu thời đại và đệ tử của họ là những người rất sùng đạo và giữ phẩm hạnh nhưng cũng hay ganh ghét. Họ cố gắng giữ luật Chúa nhưng lại hay phân bua khi thực hành đạo. Họ rất siêng năng đi lễ Chúa Nhật. Họ là những công dân làm việc chăm chỉ, bề ngoài tỏ ra rất ngay thẳng. Họ giữ mình tránh các tội ác và luôn luôn giảng giải về luân lý và luật lệ, nhưng lại có đặc điểm hay phân bì ganh tỵ.
Ngoài ra họ không tin là ơn cứu độ phụ thuộc vào hành động của chúa Kito. Họ cho rằng ơn cứu độ là do cố gắng của con người và những điều mà kẻ tội lỗi thêm vào công việc của chúa Kito.
Ngược lại, người Kito hữu thực sự là những người tin và tuyên xưng chúa Kito bị đóng đanh. Không có cách nào khác. Họ tin rằng hành động của chúa Kito là bảo đảm cho ơn cứu độ cho tất cả mọi người mà họ là một đại diện. Chỉ một điều đó làm nổi bật sự khác biệt giữa cứu độ và luận phạt. Họ biết rằng cố gắng của riêng họ tuyệt đối không can dự vào chuyện họ được chấp nhận trước mặt Thiên Chúa. Họ an nghỉ trong một chúa Kito mà thôi khi niềm tin duy nhất của họ là nhận biết công việc của chúa Kito nhờ ân sủng của Thiên Chúa làm bảo đảm cho ơn cứu độ. Chúa Giesu biểu lộ cho chúng ta biết ai là kẻ tội lỗi cần được chữa lành, ai không tự mình trở thành công chính, ai không có quyền hành Thiên Chúa, ai không đáng được làm bạn với Thiên Chúa, ai là người mà đức Giesu đến để kêu gọi họ thống hối.
ĐÔI LỜI KẾT- KHOAN DUNG HƠN LUẬN PHẠT
Đọc bài Tin Mừng hôm nay nói về lề luật, chúng ta nên coi lại Công Đồng Vatican II khai mạc ngày 11-10- 1962. Trong lời mở đầu, Đức Gioan XXIII nói rõ ràng ngài không kêu gọi Vatican II bào chữa cho những sai lầm hay làm sáng tỏ những điểm chính của giáo lý. Ngài nhấn mạnh, Giáo Hội ngày nay phải “ khoan dung hơn là luận phạt.”
Gioan XXIII khi được yêu cầu, đã từ chối nghe ý kiến của những người chung quanh là những vị “luôn luôn tiên đoán về tương lai xấu.” Ngài goi họ là những “tiên tri bi quan”, thiếu cảm quan về lịch sử mà lịch sử là “thầy dạy đời sống”. Ngài quả quyết, sự quan phòng của Thiên Chúa đã dẫn thế giới đi vào một trật tự mới tốt đẹp hơn trong tình liên đới giữa loài người với nhau. “Và tất cả mọi sự, ngay cả những khác biệt của con người, đều dẫn đưa tới điều thiện vĩ đại hơn của Giáo Hội.”
“Papa Roncalli” là con người, để ý đến niềm tin của mình hơn là hình ảnh của mình, đến những người chung quanh mình hơn là những ham muốn của mình. Với một nhiệt tình và viễn kiến truyền cảm, ngài nhấn mạnh Giáo Hội cần phải thích ứng với một xã hội đang thay đổi từng giờ và làm cho những sự thật thâm sâu nhất của Giáo Hội được sáng tỏ trong thế giới tân kỳ ngày nay. Ngài biết rằng luật mà không có tình thương, thiếu lòng trắc ẩn cảm thông thì không còn nhân tính.
Papa Giovanni được vị kế tiếp là Gioan Phaolo II phong chân phước năm 2000, và năm 2014 được vinh thăng hiển thánh cùng với Gioan Phaolo II bởi đức Phan Sinh. Xin ngài tác động lên tâm hồn những Pharisieu và Sa Đốc tân thời là những vị đang sống và sống khỏe trong Giáo Hội và thế giới ngày nay!
Lm. Antôn
Trong đời sống hằng ngày của mỗi người chúng ta bị ảnh hưởng không ít thì nhiều bởi môi trường và bởi tình cảnh. Những ảnh hưởng này rất cần thiết và hữu ích, chẳng hạn tại ngã tư đường đèn đỏ báo hiệu chúng ta biết phải dừng lại. Nếu không sẽ có thể đưa đến tai nạn lưu thông và hậu quả trầm trọng. Khi đi chợ hay đến những văn phòng, chúng ta phải xếp hàng chờ đợi. Khi tới một nơi công cộng hay nhà thờ không được xả rác. Nếu chúng ta ý thức được điều đó thì sẽ bị coi là người kém hiểu biết, hay kém văn minh, nhất là trong xã hội Hoa kỳ này. Ngoài ra chúng ta còn bị chi phối bởi luật lệ của quốc gia, phong tục gia đình, luân lý của xã hội và luật lệ trong tôn giáo. Như chúng ta đều biết, luật lệ cần thiết cho đời sống vì mục đích là bảo vệ những giá trị căn bản cho cá nhân, và bảo đảm cho chúng ta sự tự do và an toàn.
Những bài Kinh thánh tuần này nhắc nhở và giúp chúng ta hiểu sự khác biệt và hiệu quả đưa đến từ những gì chúng ta tiếp nhận từ bên ngoài vào, và những hành động và thái độ phát xuất ra từ trong con người chúng ta.
Bài đọc 1 nhắc nhở chúng ta về 10 điều răn của Thiên Chúa dạy, mục đích là hướng dẫn cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta tuân giữ và sống 10 điều răn Chúa dạy, chúng ta sẽ kết hợp mật thiết với Chúa và sống trong ơn sủng và bình an của Người.
Trong bài Tin mừng, chúng ta thấy Chúa cảnh cáo những người Biệt phái đã giữ những điều luật rất tỉ mĩ, cặn kẽ, nhưng không chú ý đến ý nghĩa và giá trị tinh thần hay mục đích của việc giữ luật. Họ giữ luật cặn kẽ cốt ý là tỏ ra mình là đạo đức trước mặt mọi người và để được người ta ca tụng. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã gọi họ là những người giả hình. Giả hình hay giữ luật lệ một cách hình thức bề ngoài đều bị Chúa Giêsu lên án và Chúa không ngại ngùng thẳng thắn tuyên bố rằng: “Dân này kính ta ngoài môi miệng nhưng lòng chúng thì xa ta. Nó sùng kính ta cách giả dối.” //
Thái độ đó của những người Biệt phái và luật sĩ ngày xưa có thể đang được tái diễn lại trong đời sống của người kitô hữu ngày nay, nhất là trong một xã hội chú trọng tới vật chất, tiền bạc và tự do cá nhân này. Đây là điều mà chúng ta phải lưu ý. Khi nói đến đời sống tôn giáo, thông thường chúng ta nghĩ ngay đến một số các luật lệ và nghi thức, và chúng ta cũng thường có khuynh hướng đánh giá mức độ đạo đức, thánh thiện qua sự tham dự các lễ nghi, qua việc giữ các luật lệ hay đọc kinh. Chính vì thế mỗi khi thấy người nào không giữ như chúng ta, chúng ta liền phê bình, chỉ trích và cho là “khô khan” hay không đạo đức. Đó cũng chính là quan niệm của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu, điển hình là khi thấy các môn đệ của Chúa Giêsu dùng bữa mà không rửa tay theo luật.
Nếu chỉ chú ý tới giữ những nghi thức, tuân theo lề luật hay đọc kinh mà quên đi việc phải sống hy sinh, bác ái, quảng đại như Lời Chúa dạy trong cuộc sống hàng ngày thì phải thành thật thú nhận rằng cũng là điều mà tôi và quí ông bà anh chị em thường rất dễ mắc phải. Thực ra, thì tất cả chúng ta chẳng ai muốn sống giả hình hay hình thức, nhưng vì giữ những hình thức đó xem ra dễ hơn là sống những đòi hỏi, luật lệ của Chúa dạy, hơn nữa vì sống trong xã hội này, chúng ta muốn sống đạo theo phương cách, đường lối, luật lệ của chính chúng ta. Do đó, chúng ta chỉ mới giữ đạo, chứ chưa sống đạo. Chúng ta chưa thật sự để Tin mừng của Chúa biến đổi cuộc sống của chúng ta, và cũng chính vì thế mà chúng ta vẫn còn phải nghe những nhận xét thật đau lòng của anh chị em chưa có đức tin, đó là: Tin đạo chứ không tin người có đạo. Họ không tin chúng ta vì chúng ta chưa thật sự sống điều chúng ta tin, hay đời sống của chúng ta không phản ảnh những gì chúng ta tin. Ngoài ra, nếu chỉ lo giữ những nghi thức bên ngoài, mà không có một tấm lòng chân thật bên trong, thì những nghi thức này sẽ còn dẫn chúng ta đến những thói xấu khác là kiêu căng, tự phụ, tự cao và dễ kết án người khác.
Chúng ta biết những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết, nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị và ơn ích, cần phải phát xuất từ tâm tình tốt bên trong. Bởi vì nội tâm trong con người là nguồn mạch, căn nguyên của mọi hành động, việc làm và lời nói, cho nên nội tâm có tốt thì những hành động, lời nói, việc làm phát xuất ra từ đó mới tốt, mới có giá trị.
Thật vậy, bài Tin mừng nhấn mạnh đến điểm quan trọng này: chính lòng con người là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay việc xấu. Đồng ý rằng chúng ta bị ảnh hưởng, chi phối, lôi cuốn, thúc đẩy của hoàn cảnh, nhưng thật ra thiện căn ở tại lòng của chúng ta. // Và cũng chính từ trong lòng này sinh ra 12 nết xấu mà Tin mừng kể ra là: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loan, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.
Cho nên câu mà chúng ta thường nghe nói: “không gì xấu bằng lòng người’’ chưa hẳn quá đáng. Ca dao tục ngữ của người Việt nam chúng ta cũng có câu nói về lòng dạ con người: “Sông sâu còn có thể dò, lòng người nham hiểm ai đo cho lường.”
Vì thế, chúng ta phải gieo vào cánh đồng tâm hồn con người chúng ta những hạt giống tư tưởng tốt lành, những luật lệ điều răn của Thiên Chúa, thì mới sinh ra những hoa trái là những việc tốt lành, thánh thiện và hữu ích cho chúng ta và tha nhân.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã dùng lời ngôn sứ Isaia để trách dân Do Thái rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Thế thì chúng ta tự hỏi: “Phải chăng chúng ta cũng đáng bị trách như thế không?” Xin Chúa giúp chúng ta từ bỏ những cách sống giả dối, hình thức bề ngoài. Vì chúng ta có thể giả hình, giả dối với người khác, nhưng không thể dấu được Thiên Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta có tâm hồn yêu mến và thành tâm lắng nghe và tuân giữ, sống luật Chúa dạy.
TÂM BẤT BIẾN GIỮA DÒNG ĐỜI VẠN BIẾN
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Một người khi được hỏi: Trên đời sợ gì nhất? đã trả lời: sợ nhất là con người. Con người vừa cao cả vừa thấp hèn, vừa đáng kính vừa đáng sợ. Con người là tác nhân làm nên những kỳ vĩ, nhưng cũng là lý do gây nên bao đau khổ. Trí thông minh của con người có thể đem lại những kỳ tích giúp thăng tiến và phát triển, đồng thời cũng có thể gây tai họa hủy diệt chết chóc hoàng loạt. Con người vừa là điểm kết nối yêu thương, vừa là nguyên nhân gây chia rẽ bất hòa. Chính vì vậy mà con người trở nên “đáng sợ” nhất. Nhiều khi người ta đem hình ảnh ma quỷ ra để đe dọa người khác. Tuy vậy trong thực tế, chưa bao giờ thấy ma quỷ hiện hình giết người, mà chỉ có những người đang sống giết nhau một cách dã man. Lòng đố kỵ, tham lam đã khiến con người đoạt mạng sống của đồng loại một cách không thương tiếc, để lại những hậu quả khôn lường. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhận ra đâu là nguồn gốc của tội lỗi. Tội lỗi không phải là điều gì từ bên ngoài, nhưng xuất phát từ trong chúng ta. Chính con người là nguyên nhân gây ra tội lỗi và đau khổ cho bản thân và cho đồng loại. Trong kinh “Cải tội bảy mối” chúng ta thấy những “mối tội đầu” đều đến từ tà ý và ích kỷ của con người: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, lười biếng việc đạo đức. “Tâm bình thế giới bình”. Tập luyện để có được tâm hồn bình an, đó là điều kiện quan trọng để góp phần xây đắp an bình trong cuộc sống và trong xã hội.
Vào thời Chúa Giêsu, một số lớn những kinh sư và người biệt phái thường chú trọng tới những thủ tục bề ngoài mà coi thường tinh thần của lề luật và lãng quên đức bác ái. Chúa đã nhắc lại giáo huấn của ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.Rồi Chúa kết luận: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”. Kinh sư và biệt phái là những người học hành uyên thâm, họ có uy tín trong các cộng đoàn Do Thái, và có vị trí quan trọng trong các buổi hội họp. Chính những “bậc vị vọng” ấy đang bị Chúa kết án nặng nề và coi họ như những kẻ đạo đức giả. Họ lạm dụng khái niệm thánh thiêng và trần tục, và đã tự đặt ra rất nhiều quy định rườm rà và tỉ mỉ. Những quy định này, thay vì giúp cho con người nên thánh, lại đặt trên vai họ những gánh nặng không kham nổi. Những công việc bình thường hằng ngày như rửa tay, rửa chén, rửa bát, họ đã biến thành những nghi thức tôn giáo để kết tội người dân. Chúa Giêsu đã phê phán quan niệm ấy, và mời gọi họ chú trọng đến nhân vị, tức là chính con người. Bởi lẽ, những quy định, luật lệ được thiết lập là phục vụ con người và giúp họ hướng thượng và nên trọn lành.
Cũng giống như những kinh sư và người biệt phái ngày xưa, nhiều khi chúng ta chỉ chú trọng tới những gì là “xã giao”, “lễ nghi”, “thủ tục” mà quên đi mục đích quan trọng của lề luật, đó là giúp ta nên thánh trước mặt Chúa và trước mặt anh chị em. Vì quá chú trọng đến những thủ tục và truyền thống, nhiều khi những tương giao của chúng ta trở nên giả hình, gượng ép, thậm chí là giả dối.
Niềm tự hào của dân tộc Do Thái ngày xưa, cũng là niềm vinh dự của người Kitô hữu hôm nay, đó là được Chúa luôn hiện diện giữa cộng đoàn những người tin vào Người. Ông Môisen nhắc người Do Thái đừng quên điều ấy. Giáo Hội hôm nay cũng nhắc chúng ta như vậy. Trải qua những sóng gió trong cuộc lữ hành sa mạc, trên đường về Đất Hứa, người Do Thái càng nhận ra quyền năng của Chúa cũng như tình yêu thương Ngài dành cho họ. Trước tình thương ấy, Ông Môisen đã dặn dò: “Anh em phải giữ và đem ra thực hành những mệnh lệnh của Đức Chúa, vì nhờ đó mà anh em em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh”. Nhờ tin vào Chúa mà dân tộc Do Thái trở nên vĩ đại. Hôm nay, Giáo Hội của Chúa như cây nho vươn cành ra khắp thế giới, bao phủ địa cầu và đang sinh hoa kết trái, trở thành một vương quốc vĩ đại của Thiên Chúa.
Biết bao lần chúng ta tham dự các nghi thức phụng vụ mà tâm hồn chúng ta xa Chúa. Có nhiều khi chúng ta giống như những người kinh sư và người biệt phái, chỉ chú trọng đến những nghi thức bề ngoài mà coi nhẹ tâm tình cầu nguyện, là điều cốt lõi để làm thành việc tôn thờ đích thực. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Hãy khiêm tốn đón nhận Lời được gieo vào lòng chúng ta… Hãy đem Lời ấy ra thực hành chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Bài đọc II). Đối với thánh nhân, lòng đạo đức thật phải sinh ra hoa trái là lòng bác ái và dấn thân phục vụ người nghèo, giúp họ tìm được niềm vui trong cuộc sống.
Vì tội lỗi đến từ con người. Nếu mỗi chúng ta chú tâm đến việc canh tân đổi mới cuộc đời, cuộc đời này sẽ bớt đi những mâu thuẫn hận thù và bạo lực. Với tư cách là Kitô hữu, hãy thắp sắng cuộc đời bằng những nhân đức và bằng tình yêu thương, để rồi cuộc sống chan hòa và thấm đượm tinh thần Tin Mừng yêu thương. Trái tim an bình và thánh thiện là điều kiện không thể thiếu để kiến tạo hòa bình xung quanh chúng ta.
Sống không giận, không hờn, không oán trách
Sống mỉm cười với thử thách chông gai
Sống vươn lên cho kịp ánh ban mai
Sống chan hòa với những người chung sống
Sống là động mà không xao động
Sống là thương mà chẳng vấn vương
Sống hiên ngang danh lợi ta coi thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến (Sưu tầm).
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đôi khi tôi vẫn tự hỏi: tại sao Thiên Chúa tạo dựng con người có trí tuệ thông minh, có thể biết mọi sự nhưng Ngài lại không cho con người biết được lòng nhau? Có đôi khi ta vẫn nghe ai đó nói rằng “Tôi đi guốc trong bụng anh đấy!”, nhưng chỉ là “suy bụng ta ra bụng người” chứ chẳng ai đi guốc được trong bụng nhau! Vì con người là một diễn viên tài ba có thể che dấu sự thật về mình.
Thế nên, người đời mới chua cay nói rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”. Con người dường như luôn có bí mật để dấu mọi người. Có khi cả tội lỗi mà chẳng ai nhận ra.
Có một người đàn ông khi hấp hối hỏi vợ:
– Em yêu, trước khi chết, anh muốn biết sự thật và sẵn sàng tha thứ cho em. Thằng thứ tư có phải là con anh không?
– Tất nhiên nó là con anh. Em xin thề!
Người đàn ông lộ vẻ sung sướng và trút hơi thở cuối cùng. Người vợ vừa vuốt mắt cho chồng vừa thở phào:
– May là ông ấy không hỏi mình về ba đứa đầu…
Quả thực giữa muôn loài trong thế gian chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn . . . Chỉ có con người mới có kiểu nói vậy mà không phải vậy nên rất khó biết lòng nhau.
Hôm nay Chúa Giê-su khẳng định: “không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế”. Điều này dường như Chúa muốn nói tội xuất phát từ bên trong. Tội chỉ là hành vi làm điều gì đó có lỗi mà từ trong tâm hồn con người đã nuôi dưỡng. Có khi tội cũng chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng trong tâm hồn những điều bất chính hay những điều ngược với đức ái Ky-tô.
Hôm nay nhân việc các kinh sư trách các môn đệ Chúa không rửa tay trước khi ăn. Đối với người Do Thái việc rửa tay là luật mà họ phải tuân giữ để chứng tỏ mình sạch trước mặt mọi người. Nhưng Đức Giê-su đã cho họ biết thế nào là sạch, thế nào là dơ. Cá có zòi rửa sạch nhưng bên trong đã hư thối. Sạch dơ đều phải dựa vào cái bên trong. Thế nên, cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ. Từ lòng mà sinh ra các tội: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, lăng loàn , . . .
Đức Giê-su không phản đối việc rửa tay trước khi ăn, Người chỉ phản đối thói vụ hình thức, vì họ quá quan trọng cái bên ngoài mà quên làm sạch bên trong. Làm người cần có tấm lòng như Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết rằng: “sống trên đời cần có một tấm lòng”. Một tấm lòng chân thành, biết trao yêu thương. Khi tạo dựng con người Thiên Chúa cũng truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31). Một trái tim biết yêu thương, một tấm lòng chân thành yêu thương nhau. Con người phải để gió cuốn đi tấm lòng yêu thương chân thành đến với tha nhân.
Người ky-tô chúng ta đang sống trong mọi thế giới mà sự lừa dối lên ngôi đến mức cảnh báo ở khắp mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Thế giới hôm nay người ta cũng đề cao hình thức nên cũng cố đánh bóng mình bằng nhà cửa, xe cộ, phương tiện đắt tiền để khoe mẽ, để tạo niềm tin cho đối tác nhưng có mấy ai thực sự là sở hữu riêng mà không phải vay mượn.
Một xã hội nặng hình thức và lừa dối cần lắm một đời sống chứng nhân cho sự chân thành và lòng quảng đại không điều kiện của người tín hữu chúng ta. Thiên Chúa biết rõ mọi sự hãy sống dưới cái nhìn của Chúa. Thế nên, hãy sống chân thành với nhau. Vợ chồng đừng che dấu nhau điều gì nhưng luôn cởi mở thân tình. Bạn bè cần sống chân thành để gìn giữ niềm tin cho nhau. Đối tác cần sống thật để cho mối quan hệ làm ăn bền vững . . .
Người Ky-tô hữu mỗi khi đưa tay để đón nhận tình thương và sự thanh sạch của Thiên Chúa nên cũng cần phải thanh sạch từ ngoài đến tâm hồn không hoen ố vấn đục bởi tội lỗi, bởi toan tính thấp hèn. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh sạch trong tâm hồn và chân thành trong đời sống của mình. Amen
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, từ khám phá này tới khám phá kia : có những câu chuyện xem ra nực cười nhưng cũng dở mếu dở khóc bởi vì những lố bịch của người Biệt phái, của những Tư tế, Pharisêu luôn gây cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Chẳng hạn như việc rửa tay trước bữa ăn, hay việc đóng thuế thập phân, việc lên Đền thờ cầu nguyện, tất cả những sự việc ấy đều được các Biệt phái, Ký lục, Tư tế vv…làm ra to chuyện, coi là quá quan trọng. Việc rửa tay trước bữa ăn là việc vệ sinh bình thường, tuy nhiên khi Chúa Giêsu đang ở Galilêa, họ đã cất công từ Giêrusalem tới gặp Chúa hơn 170 cây số để hỏi Ngài chỉ có một việc là tại sao các môn đệ của Chúa không rửa tay trước bữa ăn.Điều này chứng tỏ người Do Thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy…
Người Pharisêu có tập tục, truyền thống rất kỹ về việc rửa tay trước bữa ăn. Họ sẽ không ăn bất cứ thức ăn nào khi chưa rửa tay.Thực ra, tục rửa tay đã có từ lâu dành riêng cho các Tư tế khi họ làm việc thờ phượng trong Đền thờ, rửa tay để tảy hết các ô uế, tạp khí, uế nhơ để các Tư tế xứng đáng làm việc tôn giáo, thờ phượng, tôn vinh Chúa. Sau này, người Do Thái cũng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện. Với sự suy nghĩ như thế, họ cũng rửa tay trước các bữa ăn vì đối với người Do Thái khi ra đường, ra chợ, tới nơi công cộng, con người ra ô uế. Phải rửa tay vì không rửa tay đồ ăn bị ô uế lây, đồ ăn ô uế sẽ khiên con người ô uế. Chúa Giêsu quả quyết :” Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế “. Người Do Thái, đặc biệt những Ký lục và Pharisêu đã biến việc giữ những tập tục tiền nhân trở nên gánh nặng, họ chỉ giữ bề ngoài, ai giữ luật, ai giữ tập tục họ cho người đó là đạo đức, công chính, thánh thiện, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn ai không giữ thì họ cho là phạm tội vv…
Do đó, Chúa Giêsu mới vạch mặt thói giả hình của họ bởi vì họ chỉ giữ những gì là bề ngoài, như người Pharisêu đã quá chú trọng cái bề ngoài mà quên đi cốt lõi của lề luật là tình yêu. Chúa khiển trách, lên án người Pharisêu và Luật sĩ vì gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, và duy trì truyền thống của phàm nhân. Truyền thống của người phàm là truyền thống chỉ mang hình thức, giả hình, chiếu lệ.Họ giữ bề ngoài mà bề trong đầy tham lam, gian dối.Họ rửa tay trước bữa ăn mà quên đi việc tẩy rửa tâm hồn.Rửa tay để an tâm vì đã sạch tay. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn bởi vì theo Chúa Giêsu nói thì sự xấu, sự dơ dáy không phải từ bên ngoài vào mà từ bên trong xuất phát ra. Chính Chúa Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim, từ trong tâm hồn. Chính những ý định xấu ấy dẫn con người đến hận thù, ghen ghét, chia rẽ, liều lĩnh, gây ra tội lỗi. Giữ những tập tục, truyền thống người phàm mà quên đi giữ giới răn, lề luật của Thiên Chúa thì không thể nào chấp nhận được. Tất cả những việc chúng ta làm nếu không phải vì Chúa, vì tha nhân, vì tình yêu Thiên Chúa, thì quả thực không có ý nghĩa gì. Lời Chúa
Hôm nay cảnh tỉnh mỗi người chúng ta rằng truyền thống, luật lệ và nghi lễ không phải là cốt yếu của lề luật của Chúa. Cốt lõi của lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn và thương yêu người thân cận, yêu thương ngay cả kẻ thù như chính mình. Thánh Phaolô quả thực đã có lý khi nói dù chúng ta có là gì mà thiếu đức bác ái cũng chỉ như tiếng thanh la, não bạt chập cheng…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết thanh tẩy con tim, tẩy uế tâm hồn để lời nói, việc làm của chúng con luôn rập theo ý của Chúa. Xin cho chúng con biết lăng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống của chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao người Pharisêu và Ký lục lại rửa tay trước bữa ăn ?
2.Những người Do Thái bắt chước rửa tay trước bữa ăn để làm gì ?
3.Cốt yếu của lề luật là gì ?
4.Truyền thống, lề luật và nghi thức có phải là cốt yếu để trở nên thánh không ?
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu, đám đông hô vang: “Hủy bỏ bom đạn giết người!”
Sau đó, trong nhóm tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: “Làm gì có bom đạn giết người! Bom đạn có giết ai bao giờ đâu? Chỉ có những người ác chế ra bom đạn, rồi ném bom lên đầu người khác mới gây nên thảm họa giết người.”
Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: “Đả đảo những kẻ giết người!”
Nhưng rồi lại có người bàn thêm: “Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có việc giết người chứ! Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào ai lại đi giết người!”
Ý kiến nầy được xem là chí lý.
Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: “Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng ghen tị! Đả đảo sự hận thù!” (dựa theo Cha Anthony de Mello)
Chính những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi xấu xa trong cuộc đời và trên thế giới. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con người là thứ phải truy diệt trước hết.
Vì chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giê-su cứ lo rửa ráy bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ chú mục vào việc rửa tay trước khi dùng bữa, cho rằng đó là việc quan trọng hàng đầu và trách móc các môn đệ Chúa Giê-su đã bỏ qua tập tục đó.
Nhân cơ hội nầy, Chúa Giê-su dạy cho các ông một bài học: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mác-cô 7, 14-15. 21-23)
Sự kiện sau đây được thuật lại trong sách Sa-mu-en tỏ cho chúng ta thấy mầm mống ganh tị bên trong là động cơ phát sinh ra tội ác bên ngoài:
Thời ấy, Gô-li-át, một kiện tướng của quân Phi-li-tinh, một người khổng lồ có sức mạnh vô địch, khiêu chiến với quân Ít-ra-en. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en, không ai dám đương đầu với tên khổng lồ ấy.
May thay, Đa-vít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Quân Ít-ra-en bấy giờ thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, đánh tan quân địch không còn manh giáp.
Sau đó, phụ nữ từ các thành Ít-ra-en tuôn ra các ngã đường chào mừng vua Sa-un chiến thắng và ca tụng Đa-vít như vị anh hùng kiệt xuất: “Vua Sa-un giết được một ngàn, còn Đa-vít giết được hàng vạn” (Samuen I, 18, 6-8).
Lời ca tụng đó làm cho lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un khiến nhà vua tìm mọi cách tiêu diệt Đa-vít và đem quân truy lùng tận những hang núi sâu, mưu toan tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.
Đúng là những gì xấu xa trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con người là điều mà người ta phải quan tâm tiêu diệt trước hết.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con mỗi ngày biết dành thời gian thinh lặng để nhìn sâu vào tận đáy lòng mình, nhờ đó, chúng con có thể phát hiện ra những ham muốn xấu xa, những kiêu căng và ghen tị, những tham lam và thù ghét đang âm ỉ trong lòng mình. Chính những thứ đó mới là nguyên nhân gây nên biết bao tội ác, tạo nên mọi điều xấu xa trong xã hội loài người.
Xin giúp chúng con kiên quyết nhổ bỏ những dục vọng xấu xa đen tối khỏi tâm hồn mình ngay từ hôm nay, để mai đây chúng con khỏi bị chúng điều khiển, chi phối và xô đẩy vào vũng lầy tội lỗi.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ Lời Chúa thường niên B năm tuần vừa qua bị gián đoạn bởi chương 6 Tin Mừng Gioan xen vào, hôm nay chúng ta trở lại với chương 7 Tin Mừng Macô, Chúa Giêsu giúp các môn đệ cũng như người đương thời đào sâu ý niệm về sự trong sạch và những luật lệ liên quan. Về vấn đề này, thư thánh Giacôbê trong bài đọc II cũng soi sáng cho chúng ta khi ngài viết : « Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này» (Gc 1,27 ).
Đạo trong sạch
Từ thế kỷ thứ II, người Do thái đưa ra luật cấm không được giao du và ăn uống với dân ngoại, để khỏi bị ô uế. Người Pharisiêu cho rằng tôn giáo của họ phát xuất từ Thiên Chúa, tẩy sạch là một nghi lễ công cộng, “vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước” (Mc 7), thế nên họ chướng tai gai mắt khi thấy môn đệ Chúa Giêsu “dùng bữa với bàn tay không trong sạch” (Mc 7,3). Người Do thái chỉ ăn sau khi đã rửa tay (x. Mc 7,3), các tập tục của họ gắn bó với “truyền thống” (Mc 7,4), thể hiện lòng trung thành với “Thiên Chúa, Đấng ở gần họ” (x. Dnl 4, 7) như Môise đã nói.
Cần phải ghi nhận rằng, Chúa Giêsu không đến để hủy bỏ Lề Luật. Nhưng dạy người ta chống lại thói đạo đức giả hình, vụ hình thức, quan trọng hóa luật lệ của con tim với nghi lễ bên ngoài. Người lên án việc làm khiến người ta xa rời Thiên Chúa, và nghĩ rằng thực hành tỉ mỉ của các quy tắc Luật định là vinh quang ; mặt khác, theo Chúa Giêsu, sự trong sạch không tùy thuộc vào lễ nghi thanh tẩy, nhưng tùy thuộc vào tấm lòng.
Lòng trong sạch
Khi tuyên bố : “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế ” (Mc 7), cái đó không chạm tới lòng người ta, nhưng vào trong bụng và kết thúc trong cống rãnh. Theo Chúa Giêsu, điều gì làm cho chúng ta ô uế : ” Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế“.
Những gì là nhơ bẩn, ô uế, hay những ý định và hành động xấu xa không đến từ bên ngoài, mà đến từ lòng dạ xấu xa và xa rời Thiên Chúa. Thiên Chúa không hiện diện khi lòng người rời xa Chúa.
Tôn giáo được Chúa Giêsu thiết lập không giảm thiểu vào các nghi lễ bên ngoài, gồm một mớ những học thuyết và đạo đức giả ; đây là sự mặc khải về khuôn mặt của Thiên Chúa trong nhân loại nơi con người Chúa Giêsu. Việc thực hành đạo dù lớn hay nhỏ, chỉ có ý nghĩa và có giá trị khi được sinh ra từ tình yêu, được tháp tùng bởi tình yêu và được tiêu thụ trong tình yêu.
Yêu thương là chu toàn Luật Chúa
Tập tục của tiền nhân người Do thái thích giữ với lòng đạo đức ấy lại trái với Luật Môise. Đó là lý do tại sao Êsai nói : “Bạc của ngươi hóa thành ten chì, rượu đã trá pha nước lã“ (Is 1,22), cho thấy người xưa kết hợp sống giới luật của Chúa với một truyền thống nhạt nhòa, nghĩa là họ đã thiết lập một luật biến chất trái với Luật Chúa. Chúa Giêsu trách họ : Tại sao các ông phạm đến lệnh truyền của Thiên Chúa nhân lệ truyền của các ông? (Mt 15,3) Họ bỏ qua những điều cần thiết, thêm vào những khoản phụ và giải thích theo lối khác, việc họ làm lột tẩy họ là những kẻ đạo đức giả hình.
Họ cương quyết bảo vệ các tập tục, nhưng không tuân thủ Luật Chúa. Thậm chí họ đổ lỗi cho Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabát khi chữa bệnh, điều mà Luật không cấm. Tuy nhiên, họ không nhận lỗi về mình đã vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa, luật của họ thiếu hẳng tình yêu. Tình yêu này, trên thực tế, là điều răn thứ nhất và trọng nhất, và thứ hai là tình yêu của người lân cận.
Thánh Phaolô cũng nói : Yêu mến là chu toàn cả Lề luật (Rm 13,10) và khi tất cả chỉ còn lại Tin, Cậy, Mến. Ấy là bộ ba! Nhưng trong bộ ba ấy, Mến lớn hơn cả! ( 1Cor 13,13). Và giả như tôi được ơn tiên tri, và biết mọi sự nhiệm mầu, toàn cả trí tri; và giả như tôi được tất cả lòng tin, khiến chuyển được đồi núi, mà tôi lại không có lòng mến, thì tôi vẫn là không! (1Co 13,2). Nếu không có bác ái thì tất cả chỉ là không.
Chính bác ai mang lại sự hoàn hảo cho con người, vì ai yêu mến Thiên Chúa là hoàn hảo trong thế giới hiện tại và tương lai. Vì chúng ta sẽ không bao giờ ngừng yêu mến Thiên Chúa, nhưng hơn thế nữa sẽ chiêm ngắm và yêu mến Ngài đồng thời thương tha nhân.
.
LUẬT PHÀM NHÂN VÀ LUẬT THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Chúa Giêsu đứng về phía người nghèo và những người cô thế cô thân. Chính vì vậy, Chúa luôn chỉ rõ đâu là điều quan trọng, hình thức hay nội dung, bề ngoài hay bên trong nội tâm, rửa tay hay rửa cõi lòng. Luật phàm nhân hay luật Thiên Chúa?
Đứng về phía con người
Thời Chúa Giêsu, xứ Palestine có những nét tương phản: Giữa đa số người nghèo và số ít thành phần người Do Thái thống trị thông đồng với Đế quốc Roma kiếm chác thu lợi. Có những phong trào cách tân, xa rời tôn giáo truyền thống.
Chúa Giêsu Đấng giải thoát, Người là Đấng hoàn toàn tự do với lề luật, cung cách tiếp cận với những người tội lỗi và bị bỏ rơi giữa xã hội. Không theo những xét đoán nghiêm khắc của nhóm biệt phái, những lên án của thượng tế và luật sĩ.
Người hướng tới một điều duy nhất: “Sự thật sẽ giải thoát” (Ga 8, 32). Theo não trạng người Do Thái hiểu sự thật nghĩa là trung tín. Khi Chúa nói rửa nội tậm chứ đừng rửa chén đĩa bên ngoài, được hiểu là cần trung tín trong lời nói cũng như việc làm, chứ đừng chỉ nói mà không làm. “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23, 3)
Luật Của Chúa
Luật của Chúa là luật của tự do đích thực, không bị kiềm hãm trong tội lỗi và sự dữ. Lề luật trọn hảo và toàn thiện, trợ giúp con người biết sống yêu thương nhau, không thù hận, oán ghét, giành giật, khinh khi, ngạo mạn. Một lề luật cởi trói hoàn toàn khỏi những điều xấu xa..
Chúa Giêu đã thực hiện giới luật ấy trọn vẹn để cho con người được thấy. Người đi đến với người nghèo khổ, đau bệnh. Người đồng bàn với người tội lỗi, thu thuế. Người tiếp xúc với phụ nữ đúng với phảm vị của họ được tôn trọng, trao cho họ lời loan báo Chúa phục sinh…
Chúa không lệ thuộc vào lời nói ra vào của người khác, không in trí một điều xấu nào nơi người Chúa gặp gỡ. Tự do trong mọi hành động và giao tiếp bình đẳng với mọi người, trả lại quyền tự do cho con người. Chúa muốn thiết lập sự công bằng trên trái đất cho mọi người. Thái độ đó nói lên, mọi người trên trái đất này đều có quyền sống, bình đẳng, sở hữu, và tự do như nhau. Đó là điều cơ bản cho mọi bản tuyên ngôn độc lập cho nhiều quốc gia.
Chúa Giê su không phải là một chính trị gia, cũng chẳng phải là vị lãnh đạo trần thế nào, mà cũng không dựa trên quyền bính thế gian nào. Chỉ có một điều Chúa Giêsu nhân danh, đó là Nước Chúa ngự đến, Ý Chúa cha được thực hiện trên trần gian này.
Luật Thiên Chúa luôn là một luật của tự do. Con người được tự do đáp lại lời gọi của Thiên Chúa, thực hiện Lời Chúa Giêsu giảng dạy, đi theo lối đường của Chúa. Sống tự do là con cái Chúa cũng giúp cho mọi người sống trong tự do đó. Cuối cùng luật của tự do là luật yêu thương như Chúa yêu thương.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiền nhân tập tục thực thi,
Rửa tay rửa chén, trước khi dự phần.
Bàn tay tinh sạch bụi trần,
Xác thân tắm rửa, tinh thần thảnh thơi.
Mấy Thầy Biệt Phái gọi mời,
Thực hành tập tục, trong đời sống đây.
Phê bình môn đệ điều này,
Tay dơ không sạch, ăn ngay tiệc mời.
Không theo luật lệ ở đời,
Bàn tay dơ dáy, mọi nơi nhúng vào.
Giả hình môi miệng cao rao,
Tôn thờ Thiên Chúa, trên cao hững hờ.
Tấm lòng trống rỗng lật lờ,
Miệng ngoài giả dối, tôn thờ thần ma.
Sự gì ô uế xuất ra,
Bên trong tâm trí, thật là gớm ghê.
Luật lệ trong tôn giáo là để giúp chúng ta nên trọn lành. Luật không phải là gánh nặng hay sự lừa dối. Giáo hội kêu mời chúng ta giữ đạo và tôn thờ Chúa với cả tấm lòng và trái tim chứ không phải giữ đạo bằng môi miệng. Chúa muốn lòng nhân lành, chứ không muốn của lễ. Tâm đức và ý hướng là cốt lõi của việc giữ đạo. Chúa hiểu rõ nội tâm của chúng ta.
Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu đối chất với các thầy Biệt phái về việc tuân giữ lề luật. Các Biệt phái chú ý chu toàn từng chi tiết nhỏ của luật như rửa tay, rửa chân, tắm rửa, lau chén bát… Họ giữ luật vì luật. Họ thờ kính Chúa qua các hình thức bên ngoài như may dài tua áo, giang tay cầu nguyện nơi phố xá. Họ làm thế cốt để khoe khoang. Lòng của họ thì trống rỗng. Chúng ta gọi đó là giả hình.
Các nhà lãnh đạo Do Thái cảm thấy bực dọc và gai mắt khi nhìn thấy các môn đệ của Chúa ăn uống mà không chịu rửa tay trước. Chúa Giêsu phản đối sự câu nệ của họ. Họ đồng hóa tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài. Chỉ khi chúng ta thi hành các công việc với lòng yêu mến Chúa thì việc làm của chúng ta mới có giá trị. Điều quan trọng không phải việc chúng ta làm mà chính là tình yêu thúc đẩy chúng ta thực hiện.
Truyện kể một vị Rabbi bị bắt tù ở Roma. Ông được phụng dưỡng tối thiểu, có cơm và có nước. Nhìn thấy vị Rabbi xanh xao yếu ớt. Bác sĩ khám nói rằng ông bị thiếu nước. Các người cai ngục bối rối. Không hiểu sao, vì họ vẫn cung cấp nước đầy đủ. Họ quan sát và phát giác ra Rabbi đã dùng nước uống để rửa tay theo nghi thức.
Thi hành lề luật trong đức ái. Lề luật sẽ dẫn chúng ta vào con đường chính trực. Có nhiều người coi chu toàn lề luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn không đáng kể. Chúa Giêsu đi vào nội tâm của con người. Chúa nhìn đến một tôn giáo rộng lớn hơn, một tôn giáo sống tinh thần bác ái. Tình yêu là tâm điểm.
Trong thánh lễ hay khi cầu nguyện, chúng ta cố gắng tham dự một cách tích cực. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa với trái tim nồng cháy. Tin tưởng Chúa là Cha luôn thương mến chúng ta. Chúa không phải là tượng gỗ không hồn mà là Thiên Chúa hằng sống, cảm nhận và yêu thương.
.
Lm. Nguyễn Thái
Trong nỗ lực làm sạch sẽ thành phố Los Angeles chuẩn bị cho ngày thế vận hội Olympic Games, và để gây ấn tượng tốt đẹp cho thành phố lớn nhất nhì thế giới này, vấn đề được đặt ra là phải giải quyết thế nào đối với những người vô gia cư nghề nghiệp và những kẻ say sưa đi lang thang trong thành phố. Những người này không thể bị đuổi ra khỏi thành phố hay nhốt vào những trại tập trung. Có một hãng sản xuất quần áo địa phương đã có sáng kiến tặng 350 bộ tuxedo của đàn ông và áo dạ tiệc của phụ nữ để họ ăn mặc ngoài đường phố trong suốt 2 tuần lễ. Với biện pháp này, người ta hy vọng sẽ giấu được một góc cạnh xấu xa dơ bẩn của đời sống trong thành phố.
Đây chính là sự giả hình mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 7: 1-8; 14-15; 21-23. Ngài đã nói với những người Biệt Phái và Luật sĩ, những chuyên viên về luật pháp, những người đã tố cáo các môn đệ của Chúa Giêsu là không giữ những phong tục, nghi thức bề ngoài: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’” (Is 7: 6-7).
Trong cuốn “Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh” do Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X dịch thuật đã định nghĩa sự giả hình dựa trên hai yếu tố: sự câu nệ hình thức và cứng lòng.
William Barclay đã chia sẻ một câu chuyện liên quan đến vấn đề câu nệ hình thức như sau: Một vị Rabbi Do Thái cao niên bị giam trong một nhà tù của người La Mã. Mỗi ngày ông đều nhận một khẩu phần ăn uống. Sau một thời gian, vị rabbi trở nên yếu ớt, gầy còm xuống ký rõ rệt. Những nhân viên cai tù thắc mắc muốn biết ông có bệnh gì không, nên cho mời một bác sĩ đến khám. Bác sĩ chuẩn đoán là bệnh nhân bị mất nước trầm trọng. Những nhân viên coi tù không thể hiểu được tại sao lại có thể xảy ra như vậy được. Họ tin là phần nước uống của vị rabbi đã được cung cấp đầy đủ. Những người canh gác bèn được lệnh phải canh chừng kỹ lưỡng xem vị rabbi đã làm gì với phần nước của ông; khi đó thắc mắc mới được giải tỏa: Những người canh gác đã trông thấy vị rabbi cử hành nghi thức tôn giáo rửa tay trước khi cầu nguyện và ăn. Do đó, ông ta còn rất ít nước để uống.
Nhiều người cũng lầm lẫn nghi thức, phong tục, và tập quán bề ngoài với sự thánh thiện (2 Tm 3:5). Chúng ta có một loạt danh sách các kinh phải đọc, những việc phải làm: lần hạt Mân Côi, đọc kinh Truyền Tin, tuần Chín Ngày, đeo Thánh Giá, đi Chặng Đàng Thánh Giá v.v… Chúng ta sẽ sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ có cách duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa là giữ những nghi thức này; hay là sẽ phạm tội nặng nếu không tuân giữ. Nhưng Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực chính là sự liên hệ yêu thương và mật thiết với Ngài (Ga 4:23). Sự liên hệ này mang lại cho chúng ta niềm vui và sự sẵn sàng hy sinh phục vụ Ngài.
Qua những lời của tiên tri Isaia, Chúa Giêsu đã tố cáo sự giả hình trong tất cả mọi hình thức vì người giả hình chỉ sống bề ngoài mà không thực lòng (Rm 12:9). Họ giống như những người vô gia cư ăn mặc tuxedo đi lang thang trong thành phố Los Angeles. Sự giả hình không gì khác hơn là một sự dối trá trong hành động. Họ đánh lừa người khác bằng những thái độ tôn giáo bề ngoài để chiếm được lòng quý mến.
Những người giả hình là những người “tâm ngôn bất nhất”. Họ không thực hành điều họ giảng dạy. Họ tuyên xưng thờ kính Thiên Chúa, nhưng chỉ ngoài môi miệng. Họ dạy và giải thích lề luật, nhưng không hiểu tinh thần của luật. Trong nhiều trường hợp, chính họ cũng không tin những điều họ nói và làm. Họ thường giả bộ tốt lành với những người khác. Trong ý nghĩa này một người giả hình thường hành động để đề cao chính họ. Những việc ăn chay, cầu nguyện, bố thí… được họ đánh tráo nhằm đề cao họ (Mt 6:2,5,16). Họ không bao giờ nhìn thấy điều tốt đẹp nơi những người khác, nhưng luôn luôn bới móc tìm kiếm những khuyết điểm để phê bình chỉ trích. Và sau cùng mọi sự sẽ tập trung vào chính họ (Mt 23:1-36).
Đức Ông Arthur Tonne kể câu chuyện sau đây về một linh mục đã kêu gọi sự giúp đỡ khẩn trương vào giờ sáng sớm. Sau khi dâng Thánh Lễ, từ nhà thờ trở về nhà xứ, ngài bị một tên ăn cướp dí dao đằng sau lưng: “Tiền hay mất mạng!” Khi nhìn thấy cái cổ trắng của chiếc áo đen, nó ra lệnh cho ngài phải vứt cái ví xuống đất. Sau đó, vị linh mục cảm thấy nhẹ nhõm lấy một điếu thuốc lá ra hút và mời tên cướp một điếu. Nó bèn từ chối mà rằng: “Cám ơn cha. Vì là Mùa Chay nên tôi tạm bỏ hút thuốc.”
“Sự câu nệ hình thức thì có thể sửa đổi được, nhưng sự giả hình thì gần như sự ‘cứng lòng’… Các ‘mồ mả tô vôi.’ Họ muốn lường gạt người khác. Họ tưởng mình công chính” (Lc 18:9; 20:20) (Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh).
Thế kỷ vừa qua, Đức Giáo Hoàng Piô XII (1939 – 1958) đã cảnh giác loài người cứng lòng, đang huênh hoang về nền khoa học kỹ thuật của mình: “Tội của thế kỷ này là tội đánh mất cảm giác về tội lỗi.” Đức Gioan Phaolô II đã lớn tiếng nói rằng: “Chủ nghĩa trần tục hóa -secularism – chủ trương không có Thiên Chúa cũng không có tội lỗi. Tâm lý học chống lại những cảm giác tội lỗi. Xã hội học quy trách tất cả trách nhiệm cho xã hội và nghĩ mình là nạn nhân. Nhân chủng học đổ lỗi cho môi trường. Cả những nhóm thần học mới lên diễn đàn giải thích rằng không có tội.”
Không những thời đại văn minh khoa học ngày nay đã đánh mất cảm giác về tội, mà còn đề cao một số tội lên hàng nhân đức. Tội tà dâm được coi là sinh hoạt tính dục trước hôn nhân. Phá thai được coi như quyền của phụ nữ. Sự thụ thai được coi như một con bệnh có thể điều trị được. Trong cuốn “Final Exit”, cuốn sách được báo The New York Times coi là sách bán chạy nhất, xuất bản lần đầu 40 ngàn cuốn, bán sạch trong một thời gian rất ngắn, Derek Humphry đã hướng dẫn những cách thức để một người có thể tự tử bằng 18 cách khác nhau. Ông Humphry quan niệm rằng tự tử là một hành động cao quý, có thể chấp nhận được!
Những người chủ trương trên là ai? Họ có thể là những người mang danh Kitô hữu, nhưng chẳng bao giờ biết đến bản chất của Kitô giáo là gì. Họ được rửa tội nhưng chẳng bao giờ giữ đạo. Thế nhưng hằng năm đến ngày Lễ Tro cả trăm ngàn người lũ lượt đứng sắp hàng để lãnh tro trên trán. Họ là những thành phần trí thức như bác sĩ, y tá, các giáo sư đại học, các thương gia, kỹ sư, chuyên viên v.v… trong các hãng lớn đang bôn ba với tiền bạc, đứng sắp hàng dài ngoài phi trường chờ đợi lãnh tro. Xức tro là gì mà những con người văn minh trí thức ngày nay lại biến nó trở thành như bản chất thiết yếu của tôn giáo vậy? Họ nghĩ rằng không cần phải giữ điều gì cả, chỉ cần lãnh tro một năm một lần, hay đến nhà thờ vào dịp lễ Giáng Sinh hay Phục Sinh. Đối với họ thế là đủ, thế là tròn việc giữ đạo!
Một người không phải là Kitô hữu, đã biết tự vấn lương tâm mình bằng một danh sách của 7 trọng tội. Đó là sự giàu có mà không làm việc, hưởng khoái lạc mà không có lương tâm, làm thương mại mà không có luân lý, khoa học mà không có sự khiêm tốn, thờ phượng mà không có hy sinh, có kiến thức mà không có lễ phép, làm chính trị mà không có nguyên tắc. Chúng ta đã phạm những tội nào? Tôn giáo không phải chỉ là những nghi lễ. Đời sống tinh thần không phải chỉ là giữ những luật lệ. Và những hình thức bề ngoài chưa hẳn là sự thánh thiện (Mt 7:15; 24:4).
Có hai vị tu sĩ nọ, một trẻ và một già, đang thả bộ xuống phố vào một ngày mưa tầm tã. Nước mưa ngập lụt phố phường. Họ gặp một cô gái trẻ đẹp ăn mặc tơ lụa gấm vóc. Cô muốn băng qua khúc đường lầy lội để về nhà phía bên kia đường. Vị tu sĩ trẻ bèn trạnh lòng thương: “Này cô, tôi giúp cô một tay nhé!” Với cánh tay khỏe mạnh của mình, người tu sĩ trẻ đã ẵm cô gái trẻ băng ngang khúc đường lầy lội. Rồi hai vị tu sĩ bước đi trong sự “thinh lặng đáng sợ” cho đến khi họ trở về đến tu viện. Vị tu sĩ cao niên không thể nào chịu đựng nổi bèn lên tiếng: “Các nhà tu hành không nên gần gũi những phụ nữ trẻ, nhất là những người đẹp như cô gái này! Tại sao thầy lại làm như vậy?” Thầy dòng trẻ trả lời: “Thưa thầy, em đã bỏ cô gái ở dưới phố rồi, nhưng thầy, thầy lại mang cô ấy về đến nhà dòng này.”
Chúng ta thấy có hai khuynh hướng trái nghịch nhau trong đời sống thiêng liêng Kitô hữu, tạm gọi là THOÁT TỤC và VÀO ĐỜI. Tinh thần “thoát tục” hay xa tránh cõi trần nhấn mạnh vào lòng đạo đức qua việc tuân giữ những luật lệ tôn giáo nghiêm nhặt, và tránh xa khỏi những người được coi là tội lỗi hoặc không đứng đắn vì sợ sẽ bị lây nhiễm.
Còn tinh thần “vào đời” lại nhấn mạnh đến sự liên đới chặt chẽ với những người đáng thương, những người thường bị coi như là xấu xa trần tục. Với tinh thần “vào đời”, nhập thế, người tín hữu không xa tránh, nhưng dang rộng cánh tay tới những người đang cần giúp đỡ.
Đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu cốt ở sự quân bình, và dung hòa hai khuynh hướng này như Thánh Giacôbê Tông Đồ đã nhắn nhủ trong bài đọc II: “Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế của thế gian” (Gc 1:27).
.
Lm. Đinh Lập Liễm
Thèm Lòng Chứ Ai Thèm Thịt.
Trong Cựu Ước, bộ luật có tới 613 khoản, nhưng những khoản luật đó chỉ nói trên nguyên tắc, còn trong áp dụng thực hành người ta còn thêm vào những lời cắt nghĩa mà ta gọi là truyền thống hay truyền khẩu. Như vậy có hai thứ luật.
Luật quan trọng hơn là Lề luật thành văn, căn cứ trên sách Torah (Ngũ Kinh), nghĩa là 5 cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Maisen. Thật ra, Ngũ kinh hàm chứa một ít qui tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Trong một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu Lề luật, dưới biệt hiệu là Luật sĩ (Kinh sư). Nhóm người này thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng hơn, với nhiều chi tiết hơn. Do đó, họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn lề luật, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống. Chúng vẫn được gọi là Luật truyền khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa.
Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay, và phải rửa theo một nghi thức nhất định. Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “dơ”, được ghi thành luật của Maisen trong sách Lêvi, được thêm vào nhiều chi tiết và qui định rõ ràng qua truyền thống.
Vào thời Đức Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những lệnh truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Kinh. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi vì nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống, nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xẩy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: tuân giữ những nghi thức này thì được kể là làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn không giữ chúng đồng nghĩa với phạm tội. Nói tóm lại, tuân giữ những nghi thức bên ngoài này được đồng hóa, được đánh giá là đạo đức, là biết phụng sự Chúa.
Có một thầy tiến sĩ luật Do Thái bị đi tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu, nhằm mục đích kéo dài cuộc sống cho qua ngày. Thời gian trôi qua, thầy luật sĩ yếu dần. Cuối cùng, người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông bị thiếu nước. Các sĩ quan cai ngục không hiểu nổi tại sao ông ta lại có thể thiếu nước. Bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn tương đối đủ cho một cơ thể. Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát thầy luật sĩ một cách kỹ lưỡng hơn, xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng, người ta khám phá ra: Thầy luật sĩ ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn uống. Như thế ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
Thực ra, việc rửa tay không phải chỉ nhằm việc vệ sinh thân thể nhưng là việc vệ sinh tâm hồn. Rửa tay là có ý rửa cho linh hồn mình được sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Trong Thánh Lễ, khi chủ tế rửa tay với chút nước thì đọc: ”Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con phạm xin Ngài thanh tẩy” (Ps 51:3-4). Nhưng tiếc thay, nhiều người Do Thái chỉ chú trọng rửa tay là rửa tay theo truyền thống mà không để ý đến việc thanh tẩy tâm hồn mình. Vì thế, nhà thần học William Barclay nói: ”Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ một cách chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác.”
Chúng ta phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các luật sĩ Do Thái: họ giữ luật Maisen cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của Lề Luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do Thái Giáo.
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều (Mk 7:17-23). Cái đó ở trong nội tâm chứ không phải ở bên ngoài.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: ”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Đối với lòng nhiệt thành giả tạo có vẻ quá hình thức này, Đức Giêsu trách cứ họ hai điều: một là giả hình, hai là làm đảo lộn giá trị. Họ giả hình vì cũng như thời tiên tri Isaia, người ta không nghĩ đến sự hối cải trong các tâm hồn, mà chỉ bận tâm đến việc thực hiện mấy việc bên ngoài: ”Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người” (Is 29,13). Hơn nữa, Thiên Chúa là chân lý tuyệt đối, có nghĩa là sự gian dối không có chỗ nơi Ngài, không được Ngài ưa thích và ủng hộ. Trái lại, Thiên Chúa lên án cách sống giả hình, sai lạc với sự thật. Thiên Chúa không khinh chê người yếu đuối, tội lỗi, nhưng khinh chê những người đạo đức giả (Lc 16:15). Thiên Chúa yêu thương, tha thứ cho những yếu đuối, tội lỗi, nhưng Thiên Chúa không thể chấp nhận kẻ sống giả hình.
Nếu chỉ có những hành động bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước mặt Chúa. Còn những người luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen mà ta gọi là “việc đạo đức”, những hình thức do con người sáng tạo…thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “Sư Máy.” Vị Sư Máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật Giáo khác nhau tại Nhật. Như tác giả bài báo ghi nhận, những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Họ chỉ giữ tập tục của tiền nhân là những tập tục của con người đặt ra. Các tiền nhân của người Do Thái đặt ra nhiều tập tục tỉ mỉ mà các biệt phái và luật sĩ tuân giữ rất nhiệm nhặt. Biệt phái là những người Do Thái rất sùng đạo, nhưng sùng đạo cách giả hình, vụ hình thức, vì họ chỉ chú trọng đến những hình thức bên ngoài như nhiệm nhặt gìn giữ các tục lệ của tiền nhân, chuộng hình thức bên ngoài mà không có tinh thần bên trong.
Chúa khiển trách họ: ”Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người, vì các ngươi bỏ qua các giới răn của Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người” (Mk 7:6-9). Chúa khiển trách họ là người làm đảo lộn giá trị vì họ chỉ chú ý đến việc tuân giữ các tập tục của tiền nhân mà lại bỏ qua những giới răn căn bản của Chúa. Họ coi trọng việc thuộc về con người hơn việc thuộc về Thiên Chúa.
Nhân dịp các luật sĩ chê trách các Tông Đồ không rửa tay khi dùng bữa, Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học: cái xấu xa không phải từ ngoài mà vào mà ở trong mà ra. Ngài nói: ”Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mk 7:20-23). Do đó, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay việc dữ.
Theo lời Chúa dạy, chúng ta thấy yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bề ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác; hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm quyền hành nhằm thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người “tình ngay mà lý gian”, hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều (JKN).
.
SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 22 TN_B
Jorathe Nắng
Tin Mừng Máccô cho chúng ta thấy Đức Giêsu là người thầy luôn bênh vực môn đệ của mình khi các ông không làm theo những gì Luật Môsê quy định. Ngài đã làm như thế không phải một lần, nhưng rất nhiều lần. Vì thế mâu thuẫn giữa Ngài và các Biệt Phái, Kinh Sư Do Thái ngày càng căng thẳng.
Các ông Biệt Phái và Kinh Sư là giai cấp lãnh đạo, được trọng vọng trong xã hội tôn giáo Do Thái, và tất nhiên họ phải bảo vệ Luật Môsê một cách triệt để, nếu không nói là cực đoan, vì chỉ có Luật Môsê mới đảm bảo hữu hiệu vị thế và lợi thế của họ. Chính vì thế, bất cứ ai vi phạm Luật Môsê đều bị họ lên án, không kể gì Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai.
Thực ra Đức Giêsu không chủ trương, cũng không kích động các tông đồ chống lại Luật Môsê và Truyền Thống của cha ông; trái lại Ngài công nhận và tuân giữ. Nhưng Ngài muốn đặt lại cho xã hội tôn giáo lúc bấy giờ, cũng như cho các ông Biệt Phái, Kinh Sư Do Thái ý nghiã, mục đích của Truyền Thống, Lề Luật :
1. Truyền Thống, Lề Luật phải phục vụ hạnh phúc của con người:
Điểm thiết yếu Đức Giêsu đặt ra cho các ông Biệt Phái, Luật Sĩ là mục đích của Truyền Thống, Lề Luật. Nếu Truyền Thống, Lề Luật không đem lại hạnh phúc cho con người, không làm cho con người được sống xứng danh con người, không tạo điều kiện để nhân phẩm được bảo vệ và phát triển, không xây dựng đời sống con người ngày càng trở nên tốt đẹp, thoải mái hơn, nhất là không phát huy tình huynh đệ, tương trợ giữa người với người thì Truyền Thống, Lề Luật ấy không đáng được tồn tại, gìn giữ.
Có rất nhiều Truyền Thống, Lề Luật không góp phần xây dựng đời sống con người, không tạo điều kiện cho cuộc đời đáng sống hơn, nhưng nghiền nát, xóa bỏ con người và làm cuộc sống trở nên ngột ngạt, nặng nề. Dưới áp lực này, con người và hạnh phúc của con người không còn là mục tiêu phục vụ của Truyền Thống, nhưng Truyền Thống là ông chủ khắc nghiệt của con người, mà mọi ý muốn của ông chủ khó tính phải được đầy tớ là con người thoả mãn, đáp ứng chính xác, trọn vẹn, từng chi tiết. Cuộc sống làm người và hạnh phúc của xã hội loài người không còn là đích điểm của Lề Luật, nhưng Lề Luật truy sát, khống chế xã hội và biến những con người sống trong xã hội đó thành những tù nhân bất hạnh.
Chủ nghiã vị luật, nghiã là chủ nghiã thượng tôn Lề Luật, thần tượng Lề Luật, coi Lề Luật là chân lý tuyệt đối, uy lực tuyệt đối, phán quyết tuyệt đối và cho Lề Luật quyền sinh sát trên con người là chủ nghiã cực kỳ phi nhân, vì hoàn toàn loại bỏ con người, phủ nhận chỗ đứng không thể thay thế, hoán nhượng của con người, và sẵn sàng nhẫn tâm khước từ hạnh phúc của con người để mù quáng phục vụ một hệ thống Lề Luật, một cơ chế Truyền Thống lạnh lùng, vô cảm, xa rời nhu cầu và khắc khoải đích thực của con người.
Con người ở trong cơ cấu vị luật, cơ chế suy tôn Truyền Thống ấy sẽ chỉ còn là những thân phận nô lệ của Lề Luật, tôi đòi của Truyền Thống, bởi chủ nghiã và khuynh hướng vị luật cực đoan, mù quáng này thường nhân danh con người để củng cố Lề Luật, Truyền Thống, khi con người vừa được gọi tên, tuyên dương là công chính, đạo đức theo tiêu chuẩn đánh giá của Truyền Thống, Lề Luật, vừa bị Truyền Thống, Lề Luật phủ nhận, quật ngã, chà đạp.
Đức Giêsu chống lại chủ nghiã vị luật này, vì con người bị xúc phạm, nhân phẩm bị tổn thương, hạnh phúc bị chối bỏ. Với Ngài, con người là quan trọng hơn hết dưới mắt Thiên Chúa, và Lề Luật, Truyền Thống, tuy cần thiết nhưng phải nhắm đến hạnh phúc của con người:
Sau khi chữa lành một người bất toại đã ba mươi tám năm bên hồ nước tại Bétdatha, “hôm đó là ngày sabát, người Do Thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh” : “Hôm nay la ngày sabát, anh không được phép vác chõng!” Nhưng anh đáp: “Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi : Anh hãy vác chõng mà đi”!.. “Do đó, người Do Thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày sabát” (Ga 5, 9-10.16).
Luật Môsê quy định cả đến vác chõng về nhà, sau khi được chữa lành cũng không được làm trong ngày sabát. Tinh thần vị luật quá đáng khi nghiêm cấm làm việc trong ngày sabát đã bị Đức Giêsu chống lại khi Ngài qủa quyết : “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17) trước đám đông người Do Thái đang phẫn nộ lên án Ngài vì Ngài đã chữa bệnh này sabát, trái với Lề Luật.
Đức Giêsu cũng cho những người Do Thái thời đó hiểu rằng : việc tốt lành, thiện hảo là điều Thiên Chúa mong ước con người thực hiện cho nhau, nên Luật ngày sabát không thể ngăn cấm những việc làm bác ái, tương trợ , khi Ngài đặt cho họ câu hỏi: “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi”? (Mc 3, 4), khi Ngài chữa người bị bại tay trong ngày sabát.
Nhưng rõ nét hơn là khi Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua một cánh đồng lúa.
“Dọc đường, các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Người Pharisiêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sabát!” (Mt 12,1-2). Sau khi trưng dẫn cho người Pharisiêu câu chuyện vua Đavít đã cho phép các thuộc hạ vì đói được ăn bánh đã cung tiến Thiên Chúa, bánh mà chỉ các tư tế mới được ăn và là điều Lề Luật nghiêm cấm, Đức Giêsu đã khẳng định : “Con người làm chủ ngày sabát” (Mt 12,8), chứ không phải ngày sabát làm chủ con người. Điều đó có nghiã Lề Luật được làm nên để phục vụ con người, để con người được sống trong trật tự, an bình, hạnh phúc, chứ không để khống chế, áp đảo, giam hãm, hủy diệt con người.
Tóm lại, Đức Giêsu không chủ trương hủy bỏ Lề Luật, nhưng Lề Luật, Truyền Thống chỉ có giá trị khi phục vụ con người, giúp con người sống tốt, sống đẹp, sống hạnh phúc. Lề Luật là phương tiện để con người trưởng thành trong đức ái, huynh đệ. Lề Luật cần cho xã hội, với điều kiện Lề Luật không vi phạm, làm tổn thuơng con người trong xã hội ấy. Vì thế, Lề Luật phải luôn giữ được tính nhân văn, để luôn luôn có thể khéo léo uyển chuyển trong những trường hợp cần thiết hầu giữ được ý nghiã, mục đích của Lề Luật là phục vụ con người, thăng tiến đời sống con người và mưu cầu hạnh phúc đích thực cho con người.
2. Tinh thần vị Truyền Thống, Lề Luật có thể làm phân liệt nhân cách :
Khi dùng lời của ngôn sứ Isaia để nói với những người Pharisiêu: “Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dậy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mc 7,6-7) , Đức Giêsu đã nói lên nguy cơ phân liệt nhân cách, nói cách khác,nguy cơ giả hình ngay tự bản thân của người sống tinh thần vị luật cách mù quáng, cực đoan.
Thực vậy, một khi quá đóng khung vào hệ thống rườm rà, trói buộc và mang tính trình diễn hời hợt bên ngoài của Truyền Thống, Lề Luật, người ta sẽ dễ dàng và mau chóng bỏ quên những gì chân thực từ trái tim, những sự thật đáng trân trọng của tâm hồn, những rung cảm trung thực của tấm lòng, những tốt đẹp khó tìm thấy của tim óc. Bị cuốn hút vào chủ nghiã duy Lề Luật, người ta sẽ chỉ chăm chú soi từng nét chữ trong Lề Luật, cẩn thận giữ từng dấu phẩy của quy tắc, nghiêm khắc với từng chi tiết vụn vặt, cỏn con của Truyền Thống, mà quên đi chính con người của mình và anh em. Tình trạng phân liệt giữa bên ngoài và bên trong, giữa hành động và ý nghĩ, giữa đòi hỏi của Lề Luật và thao thức vi tha thầm kín làm nên mâu thuẫn nội tại rất căng thẳng. Để làm dịu căng thẳng của mâu thuẫn nội tại này, người ta bắt buộc phải giả dối, sống nhiều mặt, và đó là hiện tượng giả hình mà Đức Giêsu đã nhiều lần lên án (x. Mt 23).
Cũng vì giả hình mà môi miệng bai bải yêu mến Chúa, lải nhải các điều răn, nhưng tâm hồn thì trống vắng, trái tim thì lạnh nhạt.Cũng vì giả hình mà bên ngoài thì cung kính lễ nghi, nhưng bên trong thì thờ ơ, chai đá. Cũng vì giả hình mà chu chắm tuân giữ truyền thống, nhưng lại “khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa” (Mc 7,9).Chính Đức Giêsu đã công khai lên tiếng : “Như thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà hủy bỏ lờI Thiên Chúa” (Mc 7, 13).
Thực vậy, Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta: điều làm chúng ta bất hạnh, và ngăn cản chúng ta hiến thân cho nhau, chính là chúng ta sống giả dối và giả hình là thứ giả dối đã đi vào chiều sâu của bản ngã. Chính Đức Giêsu đã muốn xua đuổi vi trùng giả hình này ra khỏi đời sống chúng ta khi Ngài phân tích sự thật bên trong và bên ngoài của con người:
– Bên ngoài là vùng của những gì được biểu lộ, trình diễn; cũng là vùng của mặt nạ, những mặt nạ mà chúng ta muốn đeo cho mình, những hình ảnh mà chúng ta mơ ước và tự phóng các hình ảnh lý tưởng ấy qua lời nói, việc làm của chúng ta.
– Bên trong là vùng của sự thật, vùng của chính hiệu, chính gốc, vùng ở đó con người thật của chúng ta được xuất hiện “nguyên con” trước mặt Thiên Chúa, là nơi hạt giống Lời Thiên Chúa được gieo vãi. Bên trong còn là nơi của những quyết định, chọn lựa. Nhưng bên trong cũng là sào huyệt của ganh ghét, hận thù, ích kỷ, tham vọng thống trị, ham muốn sở hữu : “Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác tang, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7, 20-23).
Vâng, mâu thuẫn giữa bên ngoài và bên trong, giữa sự thật chúng ta là và những điều chúng ta mơ ước, giữa những gì chúng ta có và những điều chúng ta khát khao và tự khoác lên mình là sự thật không thể chối cãi.Vì thế, giả hình là cám dỗ nặng nề và liên lỷ của mỗi người, vì ai cũng cần một dáng vẻ ăn khách, một nhân thân hấp dẫn, một quá khứ thành tích, một hiện tại vinh quang, một tương lai hứa hẹn để sống được với đời nhiều tranh giành, đấu đá. Chúng ta cũng dễ rơi vào giả hình, vì thường xuyên chúng ta cũng cần giả hình với chính mình, khi mình chẳng có gì để có thể tự tuyên dương, tự biện minh, tự bào chữa. Đó là thảm cảnh rất bi đát của đời sống con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể giải phóng chúng ta ra khỏi.
Thiên Chúa giải phóng chúng ta khỏi tình trạng phân liệt vì giả hình, khi chúng ta nhận ra: sẽ không có sự thật toàn diện, bao lâu con người không lắng nghe Thiên Chúa hằng sống và chân thực; sẽ không có tình yêu đích thực, bao lâu tình yêu của chúng ta không gắn kết vào chính Chúa là nguồn Tình Yêu; sẽ không có đời sống chính hiệu, nguyên gốc Tự Do, bao lâu chúng ta không để Thiên Chúa hành động và dẫn dắt định mệnh đời chúng ta. Được dựng nên cho Thiên Chúa, chúng ta không thể hạnh phúc nếu không thuộc về Ngài, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới làm cho chúng ta thực sự tự do, khi giao hoà trong chúng ta nhũng gì bên ngoài với những gì bên trong, những gì được trình ra bề ngoài và những gì được giữ kín ở trong.Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể lấy khỏi chúng ta những mặt nạ mà không làm chúng ta thất vọng; cũng chỉ một mình Ngài mới có thể chữa lành căn bệnh ảo tưởng, giả hình trong chúng ta và làm cho chúng ta trở nên những tạo vật mới có đủ khả năng và nhiệt huyết để yêu mến. Chính Ngài đã vạch cho chúng ta con đường, tuy hẹp, nhưng là con đường chân thật dẫn đến Hạnh Phúc thật (x. Mt 5,1-12).
Để kết luận, chúng ta cần lưu ý sự cần thiết của Truyền Thống, Lề Luật, nhưng đồng thời cũng cẩn trọng trước cám dỗ của chủ nghiã vị Truyền Thống, vị Lề Luật, nghiã là chỉ biết Lề Luật, chỉ tôn thờ Lề Luật, mà không quan tâm đến con người và ích lợi nhân sinh cũng như thiêng liêng của con người. Vì Lề Luật có thể trở thành nguyên nhân của tình trạng giả hình, phân liệt nhân cách, nhất là miệng ca tụng Chúa, nhưng lòng thì xa Chúa ngàn dặm.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức chúng ta được gọi vào đời để “yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người”, nên con người trong tất cả chọn lựa phải được yêu mến vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa .Thế nên, cho dù là Lề Luật nào đi nữa, chúng ta cũng không thể bỏ quên hay làm tổn thương con người, là hình ảnh sống động của Thiên Chúa yêu thương.
.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Ðoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một câu chuyện nhỏ, chuyện những người Biệt Phái và luật sĩ thắc mắc về việc các môn đệ của Chúa không rửa tay theo tập tục của tiền nhân trước khi ăn. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu đã muốn cho mọi người hiểu rằng cuộc sống có những việc còn quan trọng hơn những việc có tính cách tập tục và bên ngoài đó. Và cũng nhân câu chuyện này Chúa còn nói thêm về việc phải sống như thế nào mới là cuộc sống đẹp lòng Chúa và mang lại cho cuộc sống đó nhiều ý nghĩa hơn. Chúng ta tự hỏi Chúa muốn cuộc sống phải như thế nào?
I. Điều Chúa muốn chắc chắn không phải là cuộc sống sống giả tạo, cuộc sống không có sự ăn khớp giữa bên ngoài với bên trong của một con người.
Trong một chương trình buổi tối trên một kênh truyền hình Hoa Kỳ, một cô gái điếm đã được mời đến phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của những phóng viên. Cô trang điểm diêm dúa và mặc một chiếc váy cực ngắn. Cô đã tỏ ra không những bình tĩnh, mà còn khiêu khích trước những câu hỏi của phóng viên.
Chợt có một phóng viên nhìn thầy trên cổ của cô có đeo một sợi dây chuyền vàng với một cây Thánh giá thật đẹp, anh ta liền thay đổi một đề tài. Anh ta hỏi cô: “Tôi thấy cô đeo Thánh giá trên cổ, hẳn cô là người có Tôn giáo”.
Khán giả thấy rõ sự bối rối xuất hiện trên khuôn mặt cô, vì đây là vấn đề mà cô chưa bao giờ nghĩ tới. Sau một hồi do dự, cô trả lời: “Tôi không theo đạo nào cả”.
Người phóng viên hỏi dồn: “Vậy tại sao cô lại mang Thánh giá trên người?”.
Cô thinh lặng cúi xuống sàn nhà một hồi lâu, rồi trả lời: “Lúc nhỏ tôi có đạo, nhưng đó là chuyện xưa rồi”.
Một con người không còn tin Chúa nhưng vẫn đeo Thánh Giá của Chúa. Rõ ràng đó là việc không hợp lý tí nào. Cuộc sống như thế đáng cho mọi người gọi là cuộc sống giả hình. Và một cuộc sống với những phẩm chất giả tạo như thế nhất định sẽ chẳng đem lại niềm vui nào cho những người sống cuộc sống đó. Chính vì thế mà trong bài tin mừng hôm nay Chúa đã kịch kiệt lên án cuộc sống như thế. “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”(Mc 7,7)
Ngày xưa thì như thế còn hôm nay thì sao?
Chắc anh chị em đã thấy ngày hôm nay người ta nói nhiều tới căn bệnh thành tích, căn bệnh phát sinh từ cuộc sống hình thức giả tạo mà ra. Bao nhiêu hệ lụy xấu xa đã phát sinh từ căn bệnh này thì mọi người chúng ta đã biết. Sống như thế có khác gì ngày xưa và nếu cứ sống mãi như thế thì chắc chắn cuộc sống của chúng ta sẽ không thể tốt đẹp mà ngược lại nó sẽ là một cuộc sống gây nên nhiều đau khổ.
Rồi nhìn vào cuộc sống của thế giới hôm nay chúng ta thấy cũng chẳng kém gì. Đây là những nhận được Internet truyền đi khắp nơi như một hệ lụy của những lối sống mà con người hôm nay đang sống. Bên ngoài thì xem ra thật tốt nhưng nội dung thì có nhiều phải suy nghĩ. Tác giả gọi những nhận xét này là: “Những nghịch lý của thời đại chúng ta”
Chúng ta có những tòa nhà cao hơn, nhưng tư cách những người cư ngụ trong đó thì lại nhỏ hơn. Những con đường cao tốc rộng hơn, nhưng quan điểm của con người thì lại hẹp hòi hơn.
Chúng ta nói quá nhiều, yêu quá ít và ghét quá thường xuyên.
Chúng ta đã đi lên mặt trăng và quay trở về, nhưng lại cảm thấy phiền hà khi băng qua đường để gặp một người hàng xóm mới dọn đến.
Chúng ta làm trong sạch không khí, nhưng lại gây ô nhiễm tâm hồn của nhau.
Chúng ta viết lách nhiều hơn, nhưng học hành thì ít hơn.
Chúng ta dự tính nhiều hơn, nhưng thực hiện ít hơn. Chúng ta chỉ biết vội vã, mà không biết chờ đợi.
Chúng ta có thu nhập cao hơn, nhưng đạo đức thì lại thấp hơn.
Chúng ta trở nên thừa về số lượng, nhưng lại quá thiếu về chất lượng.
Đây là thời cơ có tới hai nguồn thu nhập từ cả hai vợ chồng trong gia đình, nhưng ly dị thì nhiều hơn; Thời của những căn nhà sang trọng, nhưng tổ ấm thì tan vỡ nhiều hơn.
Vâng nếu cuộc sống chỉ là như thế thì thật là tủi nhục cho Thiên Chúa khi Chúa đã cho chúng ta được làm người .
II. Vậy chúng ta phải sống như thế nào mới đẹp lòng Chúa?
Xin muợn một câu chuyện để trả lời. Chuyện kể rằng có hai nhà sư, một già một trẻ, cùng nhau đi xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một cô thiếu nữ rất đẹp đứng bên bờ một vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua nhưng không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư già liền bế thiếu nữ lên và đi qua vũng nước và bỏ cô ở phía bên kia. Rồi hai người tiếp tục cuộc hành trình. Trở về gần đến chùa, nhà sư trẻ trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?”. Nhà sư già trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, còn anh, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh hoạ rõ nét ý hai lối thể hiện cuộc sống của mình: Một lối sống đạo theo hình thức và một lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn cứ yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do thái xưa cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những luật lệ theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Đối Với họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch.
Đức Giêsu đã trách họ là giả hình. Họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám, xấu xa.
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phao-lô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoang. Giá như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tính đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi đến chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,1-3).
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con biết bỏ đi những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người.
Vì con biết rằng với tất cả tâm tình, con mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa con đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
.
Phó Tế Đaminh Maria Nguyễn Bình An
Dân Do Thái có rất nhiều luật. Luật quy định tỉ mỉ từ đời sống tâm linh như cách thờ phượng Thiên Chúa tới những việc làm cụ thể hàng ngày như tập tục rửa tay trước bữa ăn… Họ giữ rất nghiêm chỉnh các luật lệ này đến nỗi họ nhiều khi chỉ vì luật, và những hình thức bên ngoài mà quên đi ý nghĩa sâu xa của những luật lệ ấy. Chúa Giêsu trong Tin Mừng tuần này chê trách người Do Thái chuộng bề ngoài hơn bề trong: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, mà lòng chúng rời xa Ta” (Mt 15,8). Đức Giêsu không lên án những người giữ luật vì đây là những luật chính đáng được lưu truyền trong dân. Ngài chỉ chê trách những người coi trọng luật bên ngoài mà bỏ quên cốt lõi, ý nghĩa đích thực của những luật đó. Những người này có thể nghĩ rằng giữ đạo là trung thành với một số các điều luật được truyền lại, ngay cả nhiều khi những luật này không cần thiết. Trong khi căn bản của lời rao giảng của Đức Giêsu chỉ gồm tóm trong hai điều duy nhất: Mến Chúa, Yêu Người. Mọi chuyện chúng ta làm, mọi luật lệ chúng ta giữ cần phải quy hướng và thể hiện hai mục đích này.
Lời Chúa hôm nay không phải chỉ nói cho người Do Thái nhưng cũng đang nhắc nhở mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta có thể cũng chỉ vì hình thức bên ngoài. Chúng ta nghĩ rằng thờ phượng Chúa hết lòng là tới nhà thờ dự lễ hàng ngày, sáng tối kinh nguyện hoặc đóng góp xây dựng cộng đoàn, hay rộng tay giúp đỡ người nghèo khổ. Điều này đúng nếu khi chúng ta làm với một ý thức bên trong. Tôi tới nhà thờ không phải để cho người khác biết tôi siêng năng, đạo đức, nhưng thật sự tôi tới để thờ phượng, cám tạ Chúa vì mọi ơn lành Chúa ban xuống cho tôi và gia đình. Tôi rộng tay chia sẻ của cải của tôi có cho những người vô gia cư, già yếu, cô đơn, nghèo khổ, vì họ là anh em tôi, là hình ảnh của Thiên Chúa… Hành động của chúng ta đi kèm với ý thức bên trong hỗ trợ, thì việc làm ấy không bị Chúa chê trách là chỉ kính thờ Chúa bằng môi miệng, bằng hình thức bên ngoài.
Câu truyện “Để Người Ta Không Thể Nói” trong Hạt Giống Âm Thầm (trang 296) làm cho tôi xúc động. Chúng ta thề hứa với Chúa bao nhiêu lần là sẽ tha cho người khác khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…” Tuy nhiên, khi nhìn vào xã hội hiện nay, lời kinh chúng ta đọc có lẽ chỉ trên môi miệng, và có lẽ Chúa cũng nói với chúng ta y chang như Ngài nói với người Do Thái…
Hai thanh niên điệu một tên sát nhân đã giết cha mình ra trước tòa án. Với đầy đủ bằng chứng nên tên sát nhân lãnh án tử hình. Tội nhân không khiếu nại nhưng chỉ xin hoãn hành quyết ba ngày để hắn về lo liệu cho một thiếu nữ, mà hắn đã được trao phó cho săn sóc từ nhỏ. Mọi người bối rối, nhưng một bàn tay giơ lên với giọng quả quyết: “Tôi xin bảo đảm cho anh này. Nếu sau ba ngày anh không lại, tôi sẽ chịu tội thay”. Tên tử tội được phép ra về. Sau đúng ba ngày, trong khi mọi người đang nôn nóng chờ đợi giờ hành quyết thì tên tử tội hiên ngang bước đến và dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết xong công việc. Giờ đây, theo đúng lời cam kết, tôi trở lại đây để xin chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết, để người ta không thể nói, chữ tín không còn trên mặt đất này nữa.”
Sau lời phát biểu của tên tử tội, người đàn ông đứng ra bảo lãnh cũng tiến ra tuyên bố: “Phần tôi, sở dĩ đứng ra bảo lãnh cho người này là vì tôi không muốn để người ta có thể nói: lòng quảng đại không còn có mặt trên mặt đất này nữa”.
Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên im lặng. Dường như ai cũng được mời gọi để thể hiện những gì là cao quý nhất trong thẳm sâu tâm hồn. Và rồi hai người thanh niên bước lên trước quan tòa và nói: “Thưa ngài, chúng tôi xin được tha thứ cho kẻ đã giết hại cha chúng tôi, để người ta không thể nói: lòng tha thứ không còn hiện diện trên mặt đất này nữa”.
Hôm nay Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta cách chúng ta sống đạo. Bạn và tôi, chúng ta chắc phải dừng lại đôi phút để xét lại xem, chúng ta thật sự sống đạo như thế nào?
.
Lm. Jos. DĐH.
Xuất phát bởi tình yêu gia đình, dòng tộc, người xưa để lại nhiều kinh nghiệm cao quý: đói cho sạch, rách cho thơm ; tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Sạch và đẹp, tiếng tốt danh thơm, không phải chúng được đề cao vì “mỹ từ”, hoặc được tán dương bởi nét đẹp mờ mờ ảo ảo, đúng hơn, nơi thẳm sâu tâm hồn, con người luôn được thôi thúc bởi tính thiện toàn, sự sạch đẹp. Vì tình bạn, kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, thiếu nữ vì tiết hạnh, không quản ngại hy sinh mạng sống mình. Sạch đẹp thu hút con người qua muôn thế hệ, nhưng làm sao để người ta không nhầm lẫn giữa “cái chính và cái phụ”, không làm đảo lộn giá trị đạo đức xã hội, tôn giáo ?
Khởi đi từ quan niệm sạch đẹp quá tuỳ tiện, phóng khoáng, đến độ khắt khe, các luật sĩ biệt phái xưa kia đã tỏ thái độ khinh bỉ người anh em của mình, chỉ vì họ không rửa tay trước khi ăn. Vấn đề sạch dơ, đẹp xấu, sẽ không dừng lại ở khía cạnh vệ sinh, hay tính thẩm mỹ hài hoà, đi xa và sâu rộng hơn, sạch đẹp, chuẩn mực, đáng được ghi nhận phải là sạch đẹp toàn diện: cả hình thức và nội dung. Với cái nhìn hời hợt về thanh sạch bên ngoài, hoặc đầy ô-uế tội lỗi bên trong, nếu không đủ khách quan, thiếu tình yêu và lòng quảng đại, việc lượng định cũng chỉ là hình thức máy móc, vô giá trị. Người ta sẽ sai lầm khi xem tập tục tiền nhân và giới luật yêu thương là một, hoặc nghĩ rằng của lễ dâng cúng cho đền thờ có thể thay cho việc thảo kính cha mẹ ông bà.
Tục ngữ có câu: sạch sẽ là mẹ con người ; sạch đẹp và linh thiêng hơn, các ngài còn nói: tâm trong sạch là một cái gối êm, không làm việc thẹn lòng, đâu sợ quỷ ma gọi cửa. Sạch bên ngoài, bên trong, đều đáng trân trọng, dơ bẩn tay chân, dơ bẩn tâm hồn, đều cần được tẩy rửa cho sạch đẹp. Đức Giêsu có ý nhắc nhớ đừng ai nhầm lẫn bằng môi miệng, bằng lý thuyết, có thể thay thế cho việc sống đạo. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho các luật sĩ biệt phái lý do tại sao các môn đệ không rửa tay, nhưng gián tiếp cho thấy sự thanh sạch tâm hồn cần thiết hơn việc rửa tay chân, biết và sống thánh ý của Chúa quan trọng hơn là chỉ giữ tập tục tiền nhân.
Đức Giêsu không bình luận về sự thanh sạch hay dơ bẩn, nhưng Ngài lên án những ai tin thờ Chúa bằng môi miệng mà lòng xa cách Chúa, có tình yêu trong việc sống giới luật, quan trọng hơn việc dâng mọi của lễ toàn thiêu. Sạch tay chân, trang điểm cho khuôn mặt xinh đẹp, chỉ là tâm lý giúp người ta tự tin khi đi ăn tiệc, nhưng sạch tâm hồn mới là phương thế hữu hiệu, bình an, hạnh phúc nhất, khi tham dự bàn tiệc thiên quốc. Kinh nghiệm cho thấy, không phải sạch sẽ là do một ngày tắm nhiều lần, không phải xinh đẹp là do “quần là áo lượt”, mang trên mình trang sức đắt tiền. Sạch và đẹp, đúng và chuẩn, chỉ là mơ ước, là khẩu hiệu, khi người ta chưa tập luyện, chưa được biến đổi, hoặc chưa có thời gian thực hành đức ái.
Cái nhìn thông suốt của tiền nhân cho rằng: nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm, nơi ăn chốn ở, cơ hội để học, để hiểu và để sống, cùng với một chuỗi thời gian trải nghiệm: bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người. Thực ra thì điểm căn bản của việc sống đạo không hệ tại chúng ta đọc bao nhiêu câu kinh, đi bao nhiêu thánh lễ, bố thí chia sẻ cho anh chị em chúng ta nhiều hay ít tiền của, đúng và đẹp ở chỗ lời nói việc làm của chúng ta có bày tỏ được lòng mến hay không ? Nếu như ngày hôm nay, người ta lên án những ai làm việc như con “rô-bốt” hay chỉ như con “búp-bê” không biết yêu, không cảm xúc, là bởi vì họ quá lệ thuộc vào hình thức bên ngoài mà quên đi ý nghĩa của hành động tin và yêu.
Truyền thống có đạo, có đức, sống thảo sống hiếu, được xem là gia đình lắm phúc nhiều lộc, nhưng chưa đặt để tình yêu vào cuộc sống, nào có khác gì ta chỉ là con rối vô cảm, vô hồn ? Đức Giêsu xưa kia chắc chắn không chối bỏ nét đẹp phong phú của gia đình, cũng không phủ nhận sự thanh sạch, Ngài có ý nhắc “sạch đẹp tâm hồn” phải là ưu tiên. Đừng chú trọng đến tập tục loài người mà bỏ qua giới luật yêu thương, đừng lẫn lộn ý muốn của con người với thánh ý của Chúa. Xưa kia cũng vì chú trọng đến “môn đăng hộ đối” mà xảy ra việc ép duyên ; xã hội hiện đại hôm nay lại không thiếu cảnh con cái đặt đâu cha mẹ phải đồng ý ! Cả hai quan niệm ấy đều không đẹp mà cũng chẳng gọi là đúng, nếu hôn nhân không đến trong tự do và yêu thương.
Tục ngữ có câu: muốn chắc ở nhà gạch, muốn sạch quét chổi cùn. Tự bản chất của con người thích sạch đẹp, vẫn ý thức mình cần phải được xây dựng trên nền đá vững chắc, đó là sự thật. Hướng đến sự sạch đẹp toàn diện và bền vững, Chúa Giêsu đã gọi là đồ giả hình, đã nhắc lại lời Isaia: “dân này thờ kính ta bằng môi miệng, còn lòng chúng lại xa Ta”. Lời đó có làm chúng ta hôm nay giật mình không, nếu chúng ta sống đạo mà không được xây dựng bằng tình yêu thương ? Đồng ý rằng: danh thơm là lẽ sống của kẻ sĩ, nhưng kẻ sĩ không thể im lặng cất giấu triết lý sống của mình. Người kitô hữu không thể sống đạo loáng thoáng hời hợt, lời nói việc làm cần minh bạch rõ ràng ; nếu rửa tay cho sạch thì cũng nên suy xét xem đã tẩy rửa tội lỗi chưa, hầu có một tâm hồn sạch đẹp, xứng hợp với tình yêu và ơn cứu độ của Đức Kitô. Amen.
.
Bông Hồng Nhỏ
Hai cô bé rủ nhau chơi đồ hàng, lấy vỏ trứng làm nồi và tập tành nấu cơm. Người cha đi làm về thấy gạo vương vãi trên sàn nhà bếp liền gọi hai cô con gái vào. Nghe cha hỏi cả hai cô bé đều lo lắng và cúi gầm mặt xuống, đôi mắt ngắn lệ chờ khóc. Cô em lí nhí thưa:
- Dạ thưa cha, chị lấy gạo làm đổ ra nhà, không phải con.
Cứ thế cô em đổ lỗi cho chị. Thấy chị bị cha phạt quỳ, cô em hối hận vì đã đổ lỗi hết cho chị mình. Lòng muốn thú tội với cha nhưng lại sợ bị phạt, dù còn nhỏ nhưng cô bé đã thấy hối hận lắm. Lời các chị giáo lý viên từ đâu vang lên bên tai: “ Các em, ai nói dối sẽ làm cho Chúa buồn lòng.” Một lúc sau, cô em thưa với cha:
- Là con lấy gạo làm đổ ra nhà, không phải chị ấy làm, cha ạ!
- Hạt gạo là hạt cơm. Lần sau các con đừng lấy chơi nữa.
Chẳng những không phạt mà cha còn tha tội cho hai chị em.
Từ trong tâm hồn con người, tiếng nói lương tâm giúp cho biết làm lành lánh dữ. Hôm nay, Thầy Giêsu lên án thói đạo đức giả và chỉ cho dân chúng biết cái gì mới làm cho con người ra ô uế.
Những đồ ăn thức uống khi được đưa vào cơ thể con người giúp nuôi dưỡng thân xác khoẻ mạnh, nhưng cũng có thể làm thiệt hại sức khoẻ. Khi muốn ăn thịt gà, bạn có thể mua ở chợ nếu bạn có tiền, hay bạn sẽ làm thịt con gà mà bạn nuôi. Nhưng nếu bạn không có tiền, bạn cũng chẳng nuôi gà, mà bạn lại rất thèm được ăn thịt gà . Lúc đó bạn sẽ làm gì? Từ ước muốn được ăn thịt gà đó, thịt gà không phải là của làm cho bạn ra ô uế nhưng điều làm cho bạn ra ô uế là khi bạn đi ăn trộm con gà của hàng xóm để làm thịt. Muốn ăn thịt gà cũng không phải là điều xấu xa, nhưng chính việc bạn ăn trộm đã làm cho bạn thành kẻ xấu. Thầy Giêsu đã tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch (x.Mc7,19b). Trước khi tiến đến hành động trộm gà, chẳng hẳn lương tâm của bạn cũng mách bảo cho bạn biết điều đó là sai, điều quan trọng là bạn nghe theo tiếng lương tâm mách bảo hay chiều theo thói mê ăn uống.
Thầy Giêsu khẳng định: “Từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam… Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7,21-23)
Làm thế nào để có một tâm hồn trong sạch, một lương tâm ngay thẳng? Ta hãy lắng nghe lời ca của Thánh vịnh 18 câu 8: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn”. Lòng ai khao khát Chúa, Chúa sẽ cho gặp và Chúa sẽ dạy dỗ họ sống theo nẻo chính đường ngay. Các người Pharisêu và một số kinh sư giữ luật tỉ mỉ, nắm giữ truyền thống của các tiền nhân nhưng lại bị Thầy Giêsu khiển trách: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc7,8). Những khi ca tụng tán dương Thiên Chúa, liệu ta có đặt trọn tâm hồn và lòng trí của ta hướng về Chúa hay ta chỉ “tôn kính Chúa trên môi miệng mà lòng trí lại cách xa Chúa” (x. Mc 7,6b). Trong thinh lặng của tâm hồn, ta hãy để cho Lời Chúa chất vấn ta, để thấy được thái độ ta dành cho Chúa và can đảm ra khỏi con người cũ.
Lạy Thiên Chúa chí thánh! Xin cho con biết yêu luật Chúa truyền và can đảm sống điều Chúa dạy, để mỗi ngày, tâm hồn con trở nên thanh khiết, bình an. Xin cho những lời ca tụng Chúa được kéo dài trong cuộc sống của con, để dầu sống giữa cảnh thăng trầm, lòng con vẫn trung thành, gắn bó với Chúa cách chân thực. Amen.
.
TUÂN GIỮ GIỚI RĂN VÀ THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Ông Mô-sê trong Cựu Ước và Chúa Giê-su trong Tân Ước đều có chung một sứ mệnh: kêu gọi người ta tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa và hãy thực hành những điều Người phán dạy. Ông Mô-sê là người truyền lại cho dân Ít-ra-en mười giới răn do Thiên Chúa ban trên núi Xi-nai. Còn Chúa Giê-su là Mô-sê Mới thì ban cho chúng ta lề luật của Tin Mừng được tóm lại trong hai điều mến Chúa và yêu người. Tuy nhiên, giống như dân Ít-ra-en đã nhiều lần không trung thành trong việc tuân giữ Mười giới răn, chúng ta là các Ki-tô hữu nhiều lần không để cho lời Chúa trở thành hành động trong cuộc sống chúng ta. Đây là một vấn đề quan trọng, nên Phụng vụ Lời Chúa dành nguyên một Chúa Nhật để đặc biệt nhắn nhủ chúng ta hãy tích cực sống lời Chúa; đó cũng chính là cách tốt nhất để chúng ta tôn kính và phụng thờ Thiên Chúa.
Trước hết chúng ta hãy trở lại với thời dân Ít-ra-en trên đường chinh phục Đất Hứa. Từ Ai-cập trở về Đất Hứa, dân Chúa đã phải trải qua biết bao khó khăn, cộng thêm những cuộc chiến đấu để khắc phục những dân họ đi qua. Tới đâu họ cũng đạt chiến thắng nhờ luôn phụng thờ Thiên Chúa và tuân giữ những mệnh lệnh của Người. Đúng vậy, vì họ trung thành sống những giới răn Thiên Chúa ban, nên đã được Người luôn ở cùng và giúp đỡ họ “được sống và được vào chiếm hữu miền đất Đức Chúa ban cho họ” . Ý thức mạnh mẽ điều ấy, ông Mô-sê là người lãnh đạo đã luôn nhắc nhở dân chúng hãy tiếp tục trung thành giữ Lề Luật và các thánh chỉ của Thiên Chúa, để chỉ có họ “mới là một dân khôn ngoan và thông minh” được thiên hạ ngưỡng mộ! Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan và quyền năng nên Lề Luật và thánh chỉ của Người sẽ làm cho dân của Người thành một dân khôn ngoan, thông minh và vĩ đại, đó là điều dĩ nhiên rồi. Vì sức mạnh và uy thế của Lề Luật Chúa đã rõ ràng như vậy, nên ông Mô-sê nghiêm ngặt ra lệnh cho dân Ít-ra-en “đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em”. Dù dân Ít-ra-en có nghe lời ông Mô-sê cũng như ông Giô-suê sau này hay không, thì sứ điệp rõ ràng vẫn là nếu họ tuân giữ giới răn và thánh chỉ của Đức Chúa, họ “sẽ được sống và được vào chiếm hữu miền đất Người ban cho họ”.
Nếu ông Mô-sê của Cựu Ước đã nghiêm cấm dân Ít-ra-en không được thêm bớt gì vào những giới răn và thánh chỉ của Thiên Chúa, thì Chúa Giê-su, Mô-sê của Tân Ước, cũng không ngừng tố cáo giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái đã làm sai lạc ý nghĩa thi hành Lề Luật Thiên Chúa. Đáng lẽ những người Pha-ri-sêu và kinh sư là những người cầm cân nảy mực phải là gương mẫu cho việc tuân giữ Luật Chúa, thì họ lại biến dân Chúa thành một dân “tôn kính Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Người”. Không những họ thêm bớt vào giới luật của Thiên Chúa, mà họ còn đặt ra những “giới luật phàm nhân” để biến thành những gánh nặng chất lên vai dân chúng nữa! Nhân việc người Pha-ri-sêu chỉ trích các môn đệ Chúa vì các ông không rửa tay trước khi ăn nên đã trở thành ô uế, Chúa Giê-su đưa ra một nhận định để ám chỉ sự ô uế không phải hệ ở việc rửa tay, mà sự ô uế đã nằm sẵn trong tâm hồn những người Pha-ri-sêu kia rồi. Đó là “những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”. Việc Chúa Giê-su tố cáo nhóm Pha-ri-sêu được tóm tắt trong nhận định này: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”.
Đây chắc chắn là lời tố cáo không chỉ dành riêng cho nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư, nhưng cũng nhắm vào chúng ta hôm nay nữa. Trong lối sống Ki-tô hữu, biết bao lần chúng ta đã gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa để tuân theo những truyền thống của loài người. Do đó, thánh tông đồ Gia-cô-bê đã kêu gọi chúng ta “hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”. Phải, chúng ta lừa dối chính mình khi gạt bỏ và coi thường luật Chúa để sống theo lề luật xấu xa của thế gian. Thí dụ chúng ta coi thường sự sống Chúa ban mà phá thai, bởi vì phá thai đã được luật pháp bảo vệ! Lời Chúa là đèn soi đường chúng ta đi. Vì thế tuân giữ lời Chúa là cách để chúng ta đi trong ánh sáng mà đến với Chúa và anh chị em. Thánh Gia-cô-bê còn cho chúng ta những ví dụ cụ thể thế nào là thi hành lời Chúa để chúng ta “không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha”. Vài việc làm cụ thể được ngài đề nghị, là “thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian”. Nói khác đi, vì Chúa dạy chúng ta hãy sống yêu thương và bác ái, cho nên thăm viếng người nghèo khó chính là thi hành lời Chúa dạy.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Hôm nay chúng ta sẽ làm gì để thực sự “tôn kính” Thiên Chúa, không phải bằng môi miệng, những bằng việc làm cụ thể? Chúng ta sẽ làm gì để loại bỏ “những ý định xấu” như tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo… mà Chúa Giê-su đã kể ra? Như dân Chúa đã trung thành giữ các giới răn Thiên Chúa, chúng ta hãy trung thành giữ giới luật yêu thương Chúa Giê-su đã truyền dạy chúng ta.
.
Lm Vũdình Tường
Bệnh và tật đi chung với nhau. Không biết bệnh gây nên tật hay tật sinh bệnh hay cả hai. Điều không thể chối cãi là tật xấu chính là nguồn gốc gây bệnh. Xấu nhiều bệnh nặng, xấu ít bệnh nhẹ hơn. Xấu nhiều mau phát sinh bệnh; xấu ít bệnh đến chậm hơn. Tất cả đều là mầm mống gây bệnh và làm gây bệnh. Lây bệnh là do thiếu vệ sinh hoặc ăn phải thực phẩm nhiễm trùng. Thực tế là cơ thể con người có sức chịu đựng giới hạn. Đi quá mức giới hạn nó ngã quị. Tâm trí con người cũng không khác mấy. Nó cũng cần cho ăn, nuôi dưỡng tâm trí bằng thực phẩm lành mạnh nó mạnh khoẻ, điều xấu, sách báo xấu, hình ảnh xấu, môi trường xấu tạo nên một tâm lí què quặt, bệnh tâm lí phát sinh từ đó. Thực tế này cũng đúng, gây tai hại cho tâm linh con người. Điều xảy ra cho tâm linh tai hại nhất con người lại coi nhẹ nhất bởi bệnh tâm linh không gây nhức nhối thân xác nên nhiều người lơ đi, coi như không có bệnh. Bệnh tâm linh phát sinh do coi thường giáo huấn của Đức Kitô. Giáo huấn của Ngài là thần khí và sự thật. Thiếu tôn trọng sự thật bởi coi nhẹ giáo huấn của Đức Kitô. Nhóm Biệt Phái và Pharisiêu gây xích mích với Đức Kitô khi họ gây sự với môn đệ Ngài. Họ đặt vấn đề
‘Sao môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa’ Mk 7,5
Đặt vấn đề vì các môn đệ nhưng thực ra họ chủ trương chất vấn chính Đức Kitô vì Ngài là đầu của các môn đệ. Biết rõ thâm í họ Đức Kitô dùng ngôn từ của tiên tri Isaiah đáp lại họ
Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta c. 6b
Câu đáp trên nhắc cho họ biết hai điều quan trọng. Thứ nhất, miệng lưỡi giảo hoạt, ngọt ngào nơi miệng không phải là tâm tình thật, không đến từ con tim chân thành, yêu mến. Đức Kitô cũng nhắc cho biết là không phải những gì đến từ ngoài làm cho tâm hồn ra ô uế mà chính là những gì phát xuất từ sâu thẳm làm cho tâm hồn ra ô uế. c.15. Con tim được hiểu là trung tâm điểm của con người, từ nơi đó tâm tình tốt xấu phát sinh. Sự lành, sự dữ đều từ đó mà ra. Sự lành đến từ con tim chân thành, mạnh khoẻ, sự dữ đến từ con tim bị băng hoại, hướng dẫn bởi tâm tình tội lỗi.
Thứ hai, các môn đệ về từ phố chợ và họ không rửa tay khi ăn trưa. Phố chợ là nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khó thường tụ họp mong nhận được của bố thí. Vì thế khi liên kết phố chợ với những thành phần cần nâng đỡ Đức Kitô cách nào đó chuyển đề tài từ nói suông hay nói về sự trong sạch, chuyển sang hành động thi ân, bác ái, lòng thương xót Ngài dành cho muôn dân. Một cách nào đó Đức Kitô cho họ biết nói suông hay giữ truyền thống tiền nhân không tốt hơn hành động bác ái, mến Chúa yêu người như giáo huấn của Ngài.
Hơn nữa chú trọng nhiều đến việc tẩy uế, rửa ráy bề ngoài mà để bên trong dơ bẩn thì có ích chi. Nó chỉ che mắt được người vô tình, xem qua loa mà không thể nào giữ cho phẩm chất chứa đựng bên trong sạch sẽ được. Vì thế giữ cho con tim trong sáng quan trọng hơn cả. Thay vì chú trọng đến việc lành, thánh thiện thì nhóm Biệt Phái lại chia rẽ cộng đoàn của họ khi họ phân biệt thành phần trong sạch và thành phần ô uế dựa vào cách họ giữ lề luật tẩy uế. Không phải việc đạo đức làm trọn lề luật mà chính là kính mến Chúa và thực thi bác ái, yêu thương là con đường Đức Kitô hướng dẫn. Không luật xã hội nào hay truyền thống tiền nhân nào có khả năng giúp cho con tim trong sáng. Rất nhiều luật xã hội và truyền thống gây gánh nặng cho người nghèo, kẻ thế cô. Con tim trong sáng, con tim đầy lòng yêu mến cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, bằng giáo huấn yêu thương của Đức Kitô. Giáo huấn này đòi tuân giữ không phải bằng môi miệng mà chính là thực thi bằng hành động bác ái, yêu thương, tha thứ, đến mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt kẻ nghèo khó, goá bụa cần nâng đỡ. Đi theo con đường Đức Kitô đi là phỏng theo lối sống của Ngài. Tin theo Đức Kitô không phải giữ cho thân thể, tay chân sạch sẽ, mà chính là tay chân lấm bùn phục vụ của một thân thể có con tim sạch sẽ, trong sáng. Chúng ta xin ơn nhận biết điều tốt lành, mở tâm hồn đón nhận món quà yêu thương Chúa ban và phân phát món quà đó cho tha nhân. Đón nhận càng nhiều tình yêu Chúa ta càng trở nên trong sáng, bởi trong sáng nên gần Chúa hơn và càng gần Chúa ta càng cảm thấy mình tự do, không bị ràng buộc bởi vật chất trần thế.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 22 TN_B
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII này đều hướng về một đề tài chung: những huấn lệnh của Thiên Chúa là quy luật sống cho mỗi người tín hữu.
Đnl 4: 1-2, 6-8
Lề Luật diễn tả sự khôn ngoan và thánh thiện của Thiên Chúa; mỗi người phải lắng nghe và sống.
Gc 1: 17-18, 21b-22, 27
Người tín hữu không chỉ đón nhận Lời Chúa nhưng còn phải thực hành Lời Chúa trong đời sống nữa.
Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23
Người ta không được thay thế những huấn lệnh của Thiên Chúa bằng những quy tắc phàm nhân, bởi vì những quy tắc phàm nhân xem việc tuân giữ bên ngoài là quan trọng, thì những huấn lệnh Thiên Chúa biến đổi con người từ bên trong.
BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 1-2, 6-8)
Tác phẩm này chủ yếu được cấu thành bởi diễn từ của ông Mô-sê, được đặt vào trong bối cảnh hư cấu ở đó ông Mô-sê ngỏ lời với dân Do thái trước khi họ tiến vào Đất hứa, để cảnh giác họ coi chừng những nguy hiểm đang rình rập họ khi sống ở giữa môi trường ngoại giáo và khẩn khoản kêu mời họ trung thành tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa. Thật ra, con cái Ít-ra-en đã định cư ở đất Ca-na-an từ lâu rồi; họ đã để cho mình bị quyến rủ bởi việc phụng thờ các thần linh của dân bản địa rồi; họ cũng đã để cho mình bị tiêm nhiểm bởi lối sống duy vật, dễ dãi, thậm chí xa đọa.
Bối cảnh hư cấu này cho phép trình bày một bài giáo lý đích thật về Giao Ước, được đặt dưới sự bảo lãnh của ông Mô-sê và mặc lấy cung giọng khuyên bảo khẩn thiết.
- Lề Luật là nguồn sống
“Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe…”. Biểu thức này thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật, thường nhất được dùng một cách tuyệt đối, không có túc từ: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en” (Đnl 5: 1; 6: 4; 9: 1; 20: 3; 27: 9). Kinh nguyện hằng ngày của người Do thái bắt đầu với lời mời gọi này: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”, được mượn ở Đnl 6: 4-9.
“Như vậy, anh em sẽ được sống”. Điều mà bản văn Đệ Nhị Luật này nhắm đến là cuộc sống của dân Ít-ra-en với tư cách dân Giao Ước. Không tuân giữ Lề Luật đồng nghĩa với việc vi phạm Giao Ước, tức là đánh mất những phúc lộc mà Thiên Chúa hứa ban. Vì thế, tiếp liền ngay sau những lời này là: “Như vậy, anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, là Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em”. Việc thực hành các huấn lệnh gắn liền với niềm xác tín rằng Thiên Chúa đảm bảo cho họ một cuộc sống trường thọ và thịnh vượng. Vào thời điểm này, những viễn cảnh vẫn còn bị giới hạn trong chân trời trần thế; những hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được dự kiến.
Đối với dân Ít-ra-en, việc tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa là vấn đề sống chết. “Thế phải chọn lựa” này được đặt ra nhiều lần một cách nghiêm túc: “Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh anh em, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng ở giữa anh em, là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nổi cơn thịnh nộ với anh em và tiêu diệt anh em” (Đnl 6: 14-15) hay còn: “Nhưng nếu chẳng may anh em quên lãng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong” (Đnl 8: 19).
Những hoàn cảnh lịch sử đã đem lại cho thế chọn lựa này tính cách bi thảm. Quả thật, có thể nghĩ rằng sách Đệ Nhị Luật, trong cấu trúc đầu tiên của nó, được các tư tế của vương quốc phương Bắc soạn thảo. Với tư cách những chứng nhân về những tội bất trung của dân Ít-ra-en, họ đã đưa ra lời mời gọi như cơ hội cuối cùng. Ấy vậy, vào năm 721 trước Công Nguyên vương quốc phương Bắc bị các đạo quân Át-sua triệt hạ. Vài tư tế trốn thoát được lánh nạn sang vương quốc phương Nam và đem theo bản văn của mình. Bản văn này được cất dấu trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem vào triều đại Mơ-na-sê, vị vua vô đạo (687-642 tCn.), bị quên lãng một thời gian dài và sau cùng được khám phá vào lúc trùng tu Đền Thờ. Lúc đó, nó được dùng làm nền tảng cho cuộc cải cách tôn giáo của vua Giô-si-gia-hu (622 tCn.). Bản văn này đã được duyệt xét lại và bổ túc. Đây là điều mà người ta gọi ấn bản thứ hai của sách Đệ Nhị Luật.
Những huấn lệnh Tin Mừng cũng xuất hiện như những quy luật sống. Đức Giê-su sử dụng hầu như cùng những từ ngữ như ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật, nhưng Ngài cho từ “sống” ý nghĩa tròn đầy của nó, vượt quá không gian và thời gian của cuộc sống trần thế này, khi nói với chàng thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19: 16-17).
- Lề Luật bất khả xâm phạm
“Anh em đừng thêm gì…cũng đừng bớt gì…”. Lời căn dặn kép này nói lên nỗi bận lòng của nhà lập pháp. Biểu thức này được gặp thấy trong Bộ Luật của vua Hammourabi ở Ba-by-lon vào thế kỷ XVIII tCN, cũng như trong những hiệp ước giữa các dân tộc. Người ta cũng gặp thấy biểu thức này trong Tân Ước, như câu sau cùng của sách Khải Huyền: “Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách này! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sấm ngôn này, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và thành được mô tả trong sách này” (Kh 22: 18-19).
Thật ra ông Mô-sê không là người công bố tính bất khả xâm phạm của Lề Luật, ông chỉ là người trung gian truyền đạt những huấn lệnh của Thiên Chúa.
- Lề Luật là lẽ khôn ngoan
Lề Luật là lẽ khôn ngoan cho mỗi người, vì nó là kim chỉ nam cho cuộc sống đức hạnh (đây là ý nghĩa của từ Híp-ri To-ra để chỉ Lề Luật).
Trong toàn bộ đoạn văn này, tác giả đặt trên môi miệng của ông Mô-sê ngôn từ của một bậc hiền nhân; văn phong rất gần với sách Châm Ngôn và sách Ba-rúc: lời mời gọi để tâm suy niệm lẽ khôn ngoan được diễn tả bằng những ngôn từ tương tự: “Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en, những mệnh lệnh tặng ban sự sống, hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan. Đức khôn ngoan là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật, Luật tồn tại cho đến muôn đời. Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống; còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết” (Br 3: 9; 4: 1).
- Nhờ Lề Luật, dân Ít-ra-en được xem là một dân tộc vĩ đại:
“Khi nghe nói về tất cả những chỉ thị đó, họ sẽ bảo rằng: Dân tộc vĩ đại này chỉ có thể là một dân khôn ngoan và thông minh”. Sứ mạng phổ quát của dân Ít-ra-en không là nỗi bận lòng ưu tiên của sách Đệ Nhị Luật, sách đặt trọng tâm vào Giao Ước. Vì thế, sứ mạng phổ quát này rất hiếm kể ra trong tác phẩm này. Chính nhờ tính siêu việt của Lề Luật mà dân tộc này trở nên một dân mẫu mực và dân tộc nhỏ bé này được gọi là “một dân tộc vĩ đại”. Chúng ta gặp lại ở đây văn phong nồng nàn và cường điệu, nét đặc trưng của vài đoạn văn Đệ Nhị Luật. Dân Ít-ra-en bé nhỏ so với các đế quốc to lớn chung quanh, mặc dầu thế, được gọi “một dân tộc vĩ đại” vì Lề Luật đảm bảo cho nó tính ưu việt tinh thần trên mọi dân nước.
- Nhờ Lề Luật, Thiên Chúa ở gần dân
“Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người”. Lời khẳng định này đáp trả cho câu hỏi đầy xao xuyến của dân Ít-ra-en. Các thần linh ngoại giáo được đúc tượng vẽ hình xem ra ở gần với các tín đồ hơn vị Thiên Chúa phi vật chất, không hình không ảnh của dân Ít-ra-en, đến mức Ngài không cho phép bất cứ hình tượng nào được đúc hoặc vẽ để tôn kính Ngài. Thật ra, Thiên Chúa của Ít-ra-en rất gần với những ai kêu cầu Ngài. Hiệu quả của lời cầu nguyện đó là làm cho Thiên Chúa hiện diện ở trong lòng của mỗi người tín hữu.
Vả lại, trọng tâm của sách Đệ Nhị Luật là ý tưởng về một Thiên Chúa yêu thương dân Ngài và vui thích ở giữa họ, một vị Thiên Chúa mà họ phải “yêu mến hết lòng hết dạ”. Nói cho cùng, luật của Thiên Chúa không áp đặt từ bên ngoài vì “Lời rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành”, lời này chúng ta đọc thấy ở Đnl 30: 14, một bản văn loan báo giáo huấn Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Gc 1: 17-18, 21-22, 27)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thánh Gia-cô-bê trong suốt năm Chúa Nhật. Chung chung, tác giả của bức thư này được cho là thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Đức Giê-su. Thánh nhân là người lãnh đạo đầu tiên của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem; vì thế, ngài không phải là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại, ở đầu thư, tác giả không giới thiệu mình là Tông Đồ: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô” (Gc 1: 1). Để phân biệt hai vị thánh tiên khởi có cùng tên Gia-cô-bê này, người ta đặt biệt danh cho Gia-cô-bê Tông Đồ là “Gia-cô-bê Tiền”, và Gia-cô-bê anh em họ của Đức Giê-su là “Gia-cô-bê Hậu”. Chính Gia-cô-bê Hậu mà Đức Giê-su đã hiện ra sau khi Ngài sống lại, theo thánh Phao-lô (1Cr 15: 6-7) và thánh nhân đã bị ném đá vào năm 62 do sự xúi dục của vị Thượng Tế đương nhiệm vào thời đó.
Thư được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, sống rải rác trong thế giới Hy lạp-Rô ma (2: 2). Chung chung, người ta nghĩ rằng bức thư được viết vào khoảng giữa năm 58 và 62.
Những lời khuyên trong thư cấu thành nền tảng giáo lý theo cung giọng cổ xưa: không có bất kỳ ám chỉ nào đến việc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân. Giáo huấn được định vị vào truyền thống của các sách minh triết Cựu Ước, được sứ điệp Tin Mừng đổi mới và soi sáng.
- Chúa Cha, nguồn mạch của mọi ân huệ tốt lành
Thánh Gia-cô-bê bắt đầu gợi lên nguồn mạch đầu tiên của cuộc sống Ki-tô giáo: mọi ân huệ đều xuất phát từ “Chúa Cha, Đấng tạo dựng muôn tinh tú”, ám chỉ đến công trình tạo dựng: trước hết là ánh sáng, đoạn các vầng sáng lớn nhỏ, trong chương thứ nhất của sách Sáng Thế; nhưng chắc chắn cũng phải được hiểu theo nghĩa của những ánh sáng tâm linh.
“Nơi Người không hề có sự đổi thay, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng”. Những từ ngữ được sử dụng ở đây khiến chúng ta nghĩ đến sự xoay vần của các tinh tú. Người xưa đồng hóa sự bền vững với chân lý, sự chuyển động với sự sai lạc. Tác giả bảo đảm tấm lòng của Thiên Chúa là muôn đời bền vững, không hề “vật đổi sao dời”.
- Người Ki-tô hữu được sinh ra từ Thiên Chúa
“Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thụ tạo của Người”. Các Ki tô hữu được sinh vào cuộc sống đầy ánh sáng nhờ Lời chân lý, ân huệ tuyệt vời nhất của Chúa Cha, tức Chúa Con, là Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế, họ trở thành “của đầu mùa trong các loài thọ tạo của Người”.
Phải chăng tác giả muốn nói rằng các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân muốn ngỏ lời hình thành nên một sự khởi đầu của nhân loại mới? Hay đúng hơn, phải chăng nên hiểu: theo ý muốn của Chúa Cha, những người Ki-tô hữu được xem như là hiến lễ đầu tiên của toàn thể nhân loại? Diễn ngữ “của đầu mùa”gợi lên ý tưởng thánh hiến cho Thiên Chúa.
- Đức tin năng động
Từ lời nhắc nhở đạo lý ngắn gọn về ơn gọi Ki-tô hữu, thánh Gia-cô-bê rút ra những kết luận thực tiễn: quan trọng là phải có một đức tin tích cực và, đặc biệt, phải quan tâm đến những người nghèo, hai lời khuyên được lập đi lập lại như điệp khúc xuyên suốt thư này.
Thật có ý nghĩa biết bao khi tác giả viện dẫn việc giúp đỡ cô nhi quả phụ như là mẫu gương, đây là lời căn dặn truyền thống Cựu Ước (Xh 22: 21; Đnl 14: 29; 16: 11; 24: 19; Tv 68: 6; 14: 6, 9; Is 1: 7; Gr 7: 6; vân vân). Như vậy, thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh sự liên tục từ luân lý Mô-sê đến luân lý Tin Mừng. Luân lý Tân Ước không hủy bỏ nhưng kiện toàn luân lý Cựu Ước. Đây là sự ghi nhận căn bản của bức thư này. Hành xử như vậy chính là “giữ mình khỏi mọi vết nhơ của thế gian”, cách nói này vang dội Tin Mừng Mác-cô được trích dẫn hôm nay về sự thanh sạch trong lòng.
TIN MỪNG (Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23)
Chúng ta lại tiếp tục đọc Tin Mừng Mác-cô, bị gián đoạn để nhường chỗ cho diễn từ “Bánh Hằng Sống” được trích từ Tin Mừng Gioan. Thánh Mác-cô tường thuật cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với những người Biệt Phái và một số kinh sư liên quan đến việc tuân giữ truyền thống các tiền nhân.
- Sự thanh sạch và ô uế theo Do thái giáo
Khi quan sát thấy vài môn đệ của Chúa Giê-su không rửa tay trước khi dùng bữa, những người Biệt Phái và kinh sư phàn nàn với Ngài tại sao các môn đệ của Ngài đã không tuân giữ truyền thống tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa.
Vấn đề họ nêu lên ở đây không là việc vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự (Lv 11-15; x. 19: 23-25; 20: 7; Đnl 14: 3-21; 19; 5: 1-4). Khái niệm thanh sạch và ô uế chiếm một chỗ quan trọng trong Do thái giáo. Khác với nhị nguyên thuyết của Hy-lạp, Do thái giáo quan niệm con người là một thực thể thống nhất, vì thế, cái thanh sạch hay ô uế bên ngoài là dấu chỉ cho thấy cái thanh sạch hay ô uế bên trong. Vì thế, chẳng lạ gì khi sách Lê-vi trong bộ Cựu Ước quy định những gì thanh sạch và những gì không thanh sạch.
Thật ra, mọi dân tộc đều đã phân biệt những cử chỉ thanh sạch và không thanh sạch để thiết lập ranh giới giữa phàm tục và thánh thiêng. Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết mật thiết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này, kẻ ấy cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, chúng ta thấy: người ta không thể dụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được đụng chạm đến tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế, cũng như vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen uế về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở về đời sống thông thường (R. de Vaux).
Sau cuộc lưu đày, người Do thái đã mất đi nền độc lập quốc gia nên họ càng gắn bó hơn nữa vào chủ nghĩa đặc thù của dân tộc mình và đã tăng thêm những nghi thức cho phép họ phân biệt mình chừng nào có thể với thế giới ngoại giáo. Qua những nét đặc thù này, họ nhấn mạnh phẩm chất của dân tộc mình là dân được Thiên Chúa chọn và tách riêng khỏi mọi dân tộc khác, vì thế họ không được sống như dân ngoại.
Thánh Mác-cô chen vào cuộc tranh luận lời giải thích dài dòng để giúp người đọc hiểu những tập tục tiền nhân mà người Do thái tuân giữ hằng ngày (7: 3-4). Điều này để lộ căn tính của độc giả, họ không là người Ki-tô hữu gốc Do thái nhưng là người Ki-tô hữu gốc lương dân.
- Sự thanh sạch và ô uế theo Chúa Giê-su
Chẳng cần quanh co, Chúa Giê-su vạch trần thói sống đạo giả hình của họ. Đây là lời tố cáo rất nghiêm khắc. “Giả hình” là từ vựng kịch nghệ được dùng để chỉ những diễn viên mang mặt nạ theo nhân vật mà mình diễn. Giả hình là người mà ngôn hành bất nhất, bộ điệu cử chỉ bên ngoài không đi đôi với tâm tình bên trong, cuộc đời chỉ là trò diễn kịch bên ngoài để che dấu con người thật bên trong.
Vì những đối thủ của Ngài là những người am tường Kinh Thánh, Chúa Giê-su viện dẫn lời ngôn sứ I-sai-a để áp dụng vào lối sống đạo của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư chỉ phụng sự Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không thật lòng với Ngài. Họ tuân giữ các nghi thức thanh tẩy bên ngoài mà bỏ qua các huấn lệnh của Thiên Chúa. Để minh chứng cho lời kết án của mình, Chúa Giê-su liền trưng ra một ví dụ súc tích về các lời khấn hứa (7: 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị lạm dụng nhiều nhất. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám Pha-ri-sêu đã bẻ cong một điểm then chốt của Lời Thiên Chúa: sự giúp đỡ cha mẹ trong Thập Giới để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho Đền Thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng hủy bỏ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giê-su không giới hạn cuộc tranh luận chỉ với những người này, nhưng còn mở rộng cuộc tranh luận tới quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách có hiệu quả hơn: “Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo..”. Trước hết Ngài tuyên bố rằng “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được”: Đức Giê-su xem ra loại bỏ luật Cựu Ước liên quan đến sự ô uế bên ngoài và những quy định về thức ăn đồ uống (x. Lv 11; Đnl 14), luật này không chỉ chiếm nhiều phân đoạn của bộ Ngũ Thư nhưng cũng đã trực tiếp làm bận lòng những người trong cuộc sống thường ngày của mình.
Sau khi đã phê phán lối sống đạo giả hình, chỉ biết tuân giữ cái bên ngoài, Chúa Giê-su tập trung vào “cái bên trong”. Chính cái gì xuất phát từ trong lòng con người mới làm cho con người ra ô uế, tức là chính từ tà tâm mà mọi ý đồ đen tối nham hiểm xuất ra. Việc phân biệt con người giữa cái bên ngoài và cái bên trong xem ra rất mới mẽ đối với truyền thống Do thái giáo.
- Ý nghĩa của cuộc tranh luận này
Bản văn này chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt. Điểm nhấn thần học mà tác giả nhắm đến là luật Cựu Ước trong mối tương quan với Đức Giê-su. Ngài loại bỏ truyền thống Pha-ri-sêu chung quanh việc tuân giữ luật nghi thức như rửa tay, lên án việc lấy giáo huấn phàm nhân thay thế huấn lệnh của Thiên Chúa bằng cách sử dụng luật như cách thức trốn tránh bổn phận của mình (thực hành luật co-ban), và Ngài hủy bỏ luật thức ăn của Cựu Ước. Hậu ý của cuộc tranh luận này đòi hỏi Ki-tô học mặc nhiên, Đức Giê-su là người có thẩm quyền giải thích luật Cựu Ước.
Ngoài ra, đoạn văn này đã được tác giả Mác-cô đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giê-su bên đất dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giê-su đã loại bỏ sự phân biệt giữa “thanh sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1: 15).
Đức Giê-su bắt đầu hủy bỏ ranh giới giữa những thức ăn thanh sạch và những thức ăn ô uế, cuộc cách mạng này sẽ được các Tông Đồ (x. Cv 10: 10) và thánh Phao-lô (x. 1Cr 6: 12 và 10: 12-20) tiếp tục. Việc mở ra cho thế giới lương dân đòi buộc phải trả bằng giá này và còn hơn nữa việc nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su không ngừng công bố.
.
Anna Cỏ May
Trong các trường học, nơi các công ty, xí nghiệp hay những quán vui chơi… luôn có những nội quy yêu cầu dành cho mọi người khi đến học, làm việc hay vui chơi… Tất cả những nội quy ấy nhằm phục vụ và đem lại sự an toàn cho mọi người. Những người Pharisêu cũng đã sống và giữ luật tiền nhân, họ đã giữ luật ấy với tâm tình thái độ gì?
Sau những chuyến đi cùng với Thầy Giêsu, các môn đệ đã mệt mỏi và đói. Trong khi dùng bữa, tay các môn đệ còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thấy vậy, các người Pharisêu và các kinh sư đã hỏi Chúa Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (Mc 7,6). Họ trung thành giữ luật và muốn người khác cũng phải giữ luật như họ. Họ không còn một lý do nào khác hơn cho việc giữ luật. Và dường như không có sự tự do của con người trong những luật ấy. Một khi có ai đến nơi đó sống, điều phải giữ luật tiền nhân.
Đứng trước câu hỏi của nhóm Pharisêu và các kinh sư, Chúa đã lấy những lời của Ngôn sứ Isaia mà nói với họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng lại xa ta” (Mc 7,6). Đối với Chúa, họ đã gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì những truyền thống của con người.
Bấy giờ Chúa gọi đám đông lại, mà nói cho họ hay về những điều gây ra sự ô uế thật sự và xuất phát từ đâu, Ngài nói: “ Không có cái gì từ bên ngoài vào vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,15). Vậy cái từ bên ngoài là gì? Đó là đồ ăn, nước uống… Tất cả những thứ đó vào bụng rồi bị thải ra ngoài, nó đâu vào tấm lòng của con người hay vào trong lương tâm. Những thứ ấy chỉ nuôi thân xác mà thôi. Cái bên trong thật nguy hiểm, đó chính là những suy nghĩ, ý định xấu như: gian dối, kiêu ngạo, ngông cuồng…”(x. Mc 7,21-23). Đó là những thứ dẫn mọi người đến chỗ ô uế, ô uế cả thân xác lẫn linh hồn. Bởi vì suy nghĩ, ý định xấu sẽ đưa ta đến hành động xấu. Mặt khác, thân phận chúng ta rất yếu đuối, dễ theo điều xấu hơn điều tốt.
Thiên Chúa yêu thương con người bằng tấm lòng của người cha nhân hậu. Chúa muốn nhắn nhủ với con cái của Ngài là tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa bằng trái tim tình yêu, bằng tấm lòng bác ái và không lệ thuộc vào các lề luật. Lời mời gọi ấy còn tha thiết hơn trong bối cảnh xã hội hiện nay. Một xã hội đang dửng dưng, vô cảm trước mạng sống con người.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con những lề luật yêu thương qua các Bí tích, các điều răn và các mối phúc. Chúa cho chúng con được sinh ra và lớn lên trong cái nôi của Gíáo hội. Xin cho chúng con biết sống trong tâm tình biết ơn,và một tinh thần sống và tuân giữ lề luật trong tình bác ái yêu thương. Nhờ đó danh Cha được rạng ngời và chúng con cùng mọi người được ơn cứu độ. Amen.
CHỈ NGHE SUÔNG LÀ LỪA DỐI CHÍNH MÌNH
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em. Lời đó có sức cứu độ linh hồn anh em” (Gc 1,21b).
Thánh Gia-cô-bê khuyên chúng ta rằng: chúng ta hãy khiêm tốn đón nhận Lời Chúa gieo vào lòng chúng ta. Vì sao ? Vì Lời Chúa đó có sức cứu độ linh hồn chúng ta. Ngài còn nói rõ hơn rằng: “Thiên Chúa đã tự ý dùng Lời Chân Lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (x. Gc 1,18).
Lời Chân Lý chính là Lời Chúa; chính là Lời Tin Mừng mà Đức Giê-su đã rao giảng và đã được ghi lại trong các sách Phúc Âm. Lời Chúa là Chân Lý cho người tín hữu chúng ta. Lời Chúa đó mới có sức cứu độ linh hồn chúng ta mà thôi.
Cũng nhờ nhờ Lời Chúa đó mà chúng ta được sinh ra trong phép Rửa Tội, để ta trở nên thọ tạo mới; ta trở nên con Thiên Chúa và đem lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Bởi đó mà ta phải có lòng khiêm tốn như Đức Ma-ri-a để có thể nhận lãnh Lời Chúa; để Lời Chúa được gieo vào lòng chúng ta. Trong biến cố Truyền Tin, Đức Ma-ri-a đã nói: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (x.Lc 1,38).
Lời Chúa không phải như lời người phàm, Lời Chúa vượt lên trên sự hiểu biết và sự khôn ngoan của con người chúng ta. Có khi chúng ta khó chấp nhận, vì cách suy nghĩ của chúng ta không hợp với cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Một ví dụ điển hình như trường hợp một trinh nữ mà sinh con;Một người nữ chưa ăn ở với người nam mà có thai thì không thể chấp nhận được và cũng không thể lý giải được. Điều này chính đức Ma-ri-a đã thưa với Thiên Thần chứ không phải chúng ta bây giờ. Nhưng “Đó là Lời Chúa”. Đức Ma-ri-a chỉ biết khiêm tốn và xin vâng.
Quả thực, phải có lòng khiêm tốn và lòng tin thì ta mới có thể đón nhận Lời Chúa được. Và nhờ Lời Chúa đó mà ta được cứu độ, nghĩa là làm cho ta nên thánh nên thiện. Thực thế trong bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy rõ điều đó.
Lời của tiền nhân; lời của người xưa, qua các câu ca dao, tục ngữ; đó là những đúc kết những kinh nghiệm mà các ngài để lại.Đó là những kinh nghiệm sống ở đời này, chứ không đem lại cho ta sự sống đời đời. Nào là phải rửa tay, rửa bình, rửa chén cho sạch trước khi ăn. Đó chỉ là phép vệ sinh trước khi ăn, chứ không làm cho ta nên thánh nên thiện được. Vì đồ ăn thức uống, nếu xấu, tức là hư thối hay tay chân ta vấy bẩn, có thể làm cho ta đau bụng hay “Tào Tháo đuổi” thôi, chứ không làm cho tâm hồn hay con người của ta nên tốt hay ra xấu xa được.
Chỉ có, “những gì từ bên trong, từ lòng người phát xuất ra những ý định xấu như: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngồng cuồng”, mới làm cho con người và tâm hồn ta xấu xa mà thôi.
Thế đấy, Lời Chúa và lời của con người khác xa nhau biết mấy; cách nghĩ của con người cũng “một trời một vực” với cách nghĩ của Thiên Chúa. Cho nên muốn được cứu độ, muốn nên thánh nên thiện ta phải nghe và thực hành Lời Chúa, chứ không có cách nào khác. Việc này phải có “hai thì” chứ “một thì” không được. Tức là NGHE và THỰC HÀNH.
Nếu ta chỉ có nghe Lời Chúa không thôi, thì Lời Chúa chẳng sinh ích gì cho ta; chẳng làm cho ta nên thánh nên thiện được. Ta mà chỉ NGHE SUÔNG thì ta tự lừa dối chính mình. Thánh Gia-cô-bê nói: “Anh em hãy đem Lời đó là thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (x.Gc 1,22). Tại sao lại là lừa dối chính mình?
Vì ta cứ tưởng chỉ được rửa tội, chỉ nghe Lời Chúa; ta chỉ đi đọc kinh, dâng lễ hằng ngày hay hàng tuần là chắc mẻm ta được cứu độ; ta sẽ nên thánh nên thiện; ta sẽ được lên thiên đàng. Điều này không đúng. Chúa đâu có nói như vậy bao giờ. Cứ tìm trong các sách Phúc Âm, không có chỗ nào Đức Giê-su nói như thế cả. Chắc chắn 100%.
Giáo Hội, có lúc cũng đã nói như thế và có khi Linh mục cũng đã giảng như thế. Nói như thế và giảng như thế thì không đúng với ý Chúa, không đúng với Phúc Âm rồi. Nói như thế và giảng như thế là mị dân, là nói dối. Giáo Hội đã có lúc sai lầm và các Linh mục giảng, có hồi cũng đã sai lầm. Cũng vì tiền, vì của; vì danh, vì lợi mà đã bóp méo Lời Chúa; nói dối, nói láo.
Ngày xưa khi Giáo Hội cần tiền để xây Đền Thờ, đã mại thánh và nói rằng: “Khi một đồng tiền bỏ vào thùng kêu một tiếng keng, là có một linh hồn lên thiên đàng”. Nếu thế thì những tay nhà giàu lên thiên đàng thẳng cẳng hết rồi. Thế nhưng Đức Giê-su lại nói: “Người giàu có khó vào thiên đàng. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào thiên đàng”(x. Mt19, 23-24). Vậy thì ta tin ai đây ? Ai đúng ai sai ? Chúa sai hay Giáo Hội sai?
Nói đúng ra Chúa không sai và Giáo Hội cũng không sai, chỉ có những con người lãnh đạo Giáo Hội, các Giáo Hoàng; các Giám Mục, các Linh Mục là sai thôi, vì các ngài cũng là những con người. Nên ta phải tin vào Chúa và thực hành Lời Chúa là chắc ăn nhất. Giáo Hội: Giáo Hoàng, Giám Mục hay Linh Mục mà giảng Lời Chúa; giúp ta sống Lời Chúa thì ta hãy theo và thực hành, nếu không ta cũng sẽ bị lừa dối và lừa dối chính mình.
Những ai có nhiệm vụ giảng Lời Chúa, cũng phải coi lại lời giảng của mình, xem có đi ngược lại với Lời Chúa nói không? Ta có giảng Lời Chúa hay là giảng “lời ta”. Ta mà giảng lời ta thì ta phải lãnh trách nhiệm nặng nề trước mặt Chúa lắm đấy. Vì ta đã bóp méo Lời Chúa; ta đã uốn cong Lời Chúa, mà nói sai, nói bậy; đã lừa dối các tín hữu; không làm cho đức tin của họ mạnh lên; ta không được vào thiên đàng mà còn kéo cả họ xuống với ta nữa thì khốn cho ta biết chừng nào. Ta phải là người đầy tớ trung thành của Chúa và trung thực rao giảng Lời Chúa.
Quả thực, nếu ta lười biếng không thực hành Lời Chúa, ta chỉ nghe suông, nói suông thì ta tự lừa dối chính mình. Ta cứ đinh ninh rằng, ta đã được rửa tội; ta là Linh mục, hằng ngày, hàng tuần dâng lễ, nghe Lời Chúa; rước Mình Thánh Chúa; lần hạt mân côi, là ta chắc ăn được lên thiên đàng. Nếu đến khi chết, ta lên gặp Chúa, Chúa không cho ta vào thiên đàng, vì ta chưa nên thánh nên thiện. Lúc đó thì “hỡi ôi!!!”; “công cốc, công cò”. Mà ta có cố gắng sống Lời Chúa gì đâu; tại ta nghĩ, tại ta tự lừa dối mình đấy chứ.
Vậy ta phải thức tỉnh ngay hôm nay; nếu trước ta đã nghĩ như thế thì ngay bây giờ, ta phải bỏ ngay những ý nghĩ đó đi; phải làm lại ngay; phải đổi hướng ngay; ta đã trật hướng, đã đi sai đường rồi. Ta phải nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống của mình ngay kẻo không kịp. Ta phải lấy lòng khiêm tốn và đức tin để đón nhận Lời Chúa gieo vào lòng ta, để ta càng ngày càng nên thánh nên thiện. Ta sẽ an tâm và cố gắng và như thế ta mới nắm chắc sẽ có chiếc vé vào thiên đàng. Đừng có lười lĩnh mà lừa dối chính mình; cũng đừng để ai lừa dối mình, kẻo ta mất cả chì lẫn chài; mất cả đời này lẫn đời sau đấy.
TÔN KÍNH BẰNG ĐẦU MÔI CHÓT LƯỠI
JM. Lam Thy
Do Thái giáo có những luật lệ rất khắt khe: không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước; không được ăn thịt heo, thịt thú chết ngạt; không được đụng vào xác chết, chạm vào người phong cùi; không được ngồi chung bàn với dân ngoại, không được vào nhà những người bị coi là tội lỗi v.v… Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Đối với người Pha-ri-sêu, ai đụng vào, sờ vào hay ăn những đồ cấm kỵ là trở nên ô uế. Nếu chỉ nhìn trên bình diện đời sống trần tục thì nói chung những luật lệ đó là tốt đẹp; ngoại trừ tục “không được đụng vào xác chết, chạm vào người phong cùi; không được ngồi chung bàn với dân ngoại, không được vào nhà những người bị coi là tội lỗi” nằm trong vấn đề giao tiếp, đối xử trong cộng đồng, thì không thể chấp nhận được.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXII/TN-B – Mc 7, 1-8a.14-15.21-23) trình thuật một nhóm người Pha-ri-sêu và một số kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến. Họ thấy vài môn đệ của Đức Giê-su dùng bữa mà chưa rửa tay; họ liền hỏi Người: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Vấn đề đặt ra ở đây là động cơ thúc đẩy bọn người Pha-ri-sêu căn vặn Đức Ki-tô. Họ không nói đến vấn đề vệ sinh ăn uống, mà là muốn đặt vấn đề giới luật để gài bẫy đối tượng mà họ đố kỵ, ganh ghét. Hiểu quá rõ về tâm lý đó, nên Đức Ki-tô đã nói thẳng: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân’. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” (Mc 7, 6-8).
Đức Giê-su còn nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 15), Để ý một chút sẽ thấy Đức Ki-tô dùng tiếng ô uế (Từ nguyên: Ô: vẩn, đục; Uế: bẩn thỉu – Ô uế: nhơ nhớp, dơ bẩn – Vd: Cuộc đời ô uế của gái mại dâm) là có ý nói đến cả cuộc sống của con người chớ không chỉ là việc ăn uống (Nếu thức ăn do bàn tay không sạch sẽ đưa vào trong cơ thể sẽ khiến cho cơ thể đau yếu, bệnh tật, chớ không phải làm cho con người ra ô uế). Người còn giải thích rõ hơn: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 20-23). Rõ ràng Đức Ki-tô đã cho họ thấy rằng động lực thúc đẩy con người trở thành ô uế là từ nội tâm tư tưởng.
Rửa tay trước khi ăn là ăn cơm bánh để nuôi dưỡng thể xác. Nhưng điều Chúa muốn nói đến ở đây là ăn của ăn thiêng liêng, mà với của ăn tâm linh thì điều tất yếu là phải rửa sạch mọi vết nhơ của cõi lòng. Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những hình thức bên ngoài, thì lại thường coi nhẹ cái cốt lõi bên trong lề luật. Đức Giê-su đã lên án điều ấy: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.” (Mt 23, 23-24). Đức Giê-su đã phê bình đám kinh sư chỉ câu nệ vào Lề Luật nơi những điều phụ thuộc, còn điều quan trọng thì không màng tới. Người nhấn mạnh: “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ”. Rõ ràng là Người không những chỉ nhắc nhở phải lưu tâm tới điều trọng yếu trong Lề Luật, mà còn nhắc nhở không được bỏ qua những điều thứ yếu.
Một cách cụ thể thì việc giữ luật không câu nệ theo hình thức bên ngoài, hoặc những tiểu tiết, những điều phụ thuộc, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều, là cái quan trọng nhất trong luật, là cốt tủy của lề luật. Cái đó chính là tuân giữ tinh thần chủ yếu của lề luật bằng cả tấm lòng. Nói cách khác, đó là “Đạo Tại Tâm” vậy. Khi nói “Đạo Tại Tâm”, thường thì cần phải phân biệt nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng: Theo nghĩa chiểu tự thì “Đạo” chỉ có nghĩa là con đường, nhưng theo nghĩa thiêng liêng thì Đạo mang màu sắc tôn giáo. Gộp chung cả 2 nghĩa thì Đạo chính là đường đi nước bước của một tôn giáo. Vậy “Đạo Tại Tâm” là muốn nói đến tinh thần, đường hướng của một tôn giáo cốt ở trong lòng, ở nội tâm, chớ không chỉ ở hình thức bên ngoài (“Nhưng người Do Thái chính hiệu là người Do Thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi.” – Rm 2, 29). Nếu quá câu nệ vào hình thức bên ngoài mà trong lòng trống rỗng, không thành thật, thì đó chỉ là thứ “giả hình”, là “made in Pha-ri-sêu” mà thôi.
Nói như vậy cũng không có nghĩa là “Đạo Tại Tâm” chỉ giữ đạo ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài. Thực ra những lề luật của Ki-tô giáo đều là những quy tắc giúp tín hữu tuân giữ các giới luật của Thiên Chúa, mà giới luật của Thiên Chúa chỉ quy về một điều răn quan trong nhất là Tình Yêu: “Mến Chúa yêu người” (muốn mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” thì phải biết “yêu anh em như yêu chính mình”, đổi lại, chỉ những ai thực sự yêu người như yêu chính mình mới là thực lòng mến Chúa). Do đó, “Đạo Tại Tâm” phải là “sống đạo và thực hành các giới răn của Chúa” với tất cả tấm lòng, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn của Chúa, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật. Sống đạo thực sự là phải tuân giữ và thực hành “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật”, đồng thời “Các điều này (chủ yếu) vẫn cứ phải làm, mà các điều kia (phụ thuộc) thì không được bỏ” (ibid).
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay muốn nhắc nhở mọi tín hữu hãy tuân giữ các giới răn của Chúa và đem ra thực hành Lời Chúa như lời khuyên của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ khưyên các tín hữu hãy sống đạo bằng cách thực hành, đó là xa tránh tội lỗi và thực hành đức bác ái (“Anh em hãy tẩy trừ mọi điều ô uế, gian ác… Anh em hãy mau mắn lãnh nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, chứ đừng nghe suông… Hãy giữ lòng mình khỏi mọi ô uế ở đời này… Hãy thăm viếng cô nhi, quả phụ trong cơn quẫn bách…” – Gc 1, 17 -18.21-22.27). Chúa Giê-su chỉ phê phán bọn kinh sư Pha-ri-sêu giả hình (“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” – Mc 7, 6); Người không hề bác bỏ Lề Luật (“Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” – Mt 5, 18).
Ôi! Lạy Chúa! Nhìn lại mình, con thấy cách này cách khác con cũng chẳng hơn gì đám người Pha-ri-sêu chỉ câu nệ vào truyền thống, vào hình thức, mà quên đi cái cốt tuỷ bên trong là giới răn của Chúa. Quả thật, không ít lần con đã ”gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7, 8). Ôi! Lạy Chúa! “Xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin chỉ cho con nước bước của Ngài, xin hướng dẫn con trong Chân Lý, xin dạy bảo con những điều cao quý, vì Chúa là Đấng cứu độ con, là Đấng ngày đêm con cậy trông.” (“Xin chỉ cho con” – Hùng Lân – TCCĐ). Cúi xin Chúa đồng hành với con trong mọi tình huống để giúp con luôn chú trọng đến “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật” mà đem ra thực hành trong suốt đời con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
TUÂN GIỮ GIỚI RĂN LỀ LUẬT CỦA CHÚA
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Kỳ thi phổ thông quốc gia vừa qua đã để lại nhiều tai tiếng cho ngành giáo dục và xã hội. Nhiều thí sinh là con của các quan chức tại các tỉnh phía bắc có số điểm cao bất thường. Khi chấm điểm lại, người ta thấy có sự chênh lệch điểm đến không thể tin được, có những học sinh dưới trung bình được nâng thành điểm xuất sắc. Những người có liên quan tìm cách lấp liếm, quanh co chối bỏ trách nhiệm.
Thưa quý OBACE, xã hội ngày nay đang lan tràn sự gian dối, giả trá từ cấp cao nhất đến những những nhân viên thấp nhất. Người dân dường như không muốn nghe những bài tuyên giáo sáo rỗng, dối trá của những người lãnh đạo, báo đài, bởi vì sự dối trá đang làm mất lòng tin của người dân. Những người có trách nhiệm, họ nói một đàng lại làm một nẻo, ngôn hành bất nhất, khiến cho người dân mất lòng tin, xã hội trở nên rối ren, lộn xộn, vô luật pháp.
Xã hội Do Thái ngày xưa cũng rơi vào tình trạng rối ren như thế. Những người lãnh đạo chỉ lo vơ vét của cải cho bản thân và gia đình. Đời sống của họ trở nên bê bối, thành gương xấu cho người khác. Họ tùy tiện uốn nắn, thay thế lề luật của Thiên Chúa bằng các thói quen tập tục có lợi cho bản thân. Trách nhiệm chính của các nhà lãnh đạo là giảng dạy, hướng dẫn dân đi theo đúng giới răn lề luật của Chúa. Tuy nhiên, chính họ lại vi phạm lề luật và tìm cách thêm nhiều chi tiết vào luật để biện minh, che đậy cho sự sai trái của mình.
Tin Mừng hôm nay kể về cách hành xử của những người lãnh đạo Do Thái: Các người Pharisêu trách Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài không giữ tập tục thanh sạch, không thực hành nghi thức thanh tẩy chén bát và rửa tay trước khi vào bàn ăn. Họ cho rằng Chúa Giêsu và các môn đệ đã vi phạm tập tục của tiền nhân. Theo luật tinh sạch của người Do Thái: tất cả đồ ăn, đồ dùng hoặc khi ra ngoài trở về, họ phải thực hiện một nghi thức thanh tẩy: tắm rửa, thay quần áo, rảy nước trên đồ vật… Đây không phải là việc làm theo phép vệ sinh ngày nay, nhưng họ thanh tẩy vì cho rằng có thể dân ngoại hoặc người bị ô uế đã đụng chạm đến các đồ vật ấy.
Chúa Giêsu đã muốn đưa những người Pharisêu này trở lại với ý nghĩa nguyên thủy của việc thanh tẩy này. Ngài trích lời Isaia để nói với họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm”. Điều Thiên Chúa muốn nơi mỗi người không phải là những hình thức giả dối bên ngoài nhưng phải là tấm lòng thành. Chúa muốn mỗi người cần phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi ô uế hơn là những hình thức thanh tẩy bên ngoài. Chúa muốn mỗi người biết đặt ưu tiên cho việc chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống ngay thẳng công minh, chính trực, hơn là giữ các tập tục vô nghĩa. Nói như thế, Chúa không phủ nhận các giá trị tốt đẹp của tiền nhân, nhưng Chúa chê trách những người nại vào tập tục mà bỏ qua việc chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa hoặc giữ luật mà không hiểu ý nghĩa của luật.
Đàng khác, Chúa trách những luật sĩ và biệt phái vì họ đã làm ngơ trước lề luật của Thiên Chúa và dạy người khác làm theo luật của riêng mình. Ví dụ họ cho rằng những ai chỉ cần tuyên bố sẽ dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì người ấy không phải nuôi dưỡng báo hiếu cha mẹ nữa. Đây chắc chắn không phải là điều Thiên Chúa dạy. Thiên chúa đòi buộc mỗi người phải thảo kính cha mẹ. Ai không chu toàn là có lỗi với cha mẹ và có tội trước mặt Thiên Chúa. Nhưng vì muốn cho có nhiều người dâng cúng vào đền thờ mà các luật sĩ và thượng tế đã đặt ra luật như thế.
Chúa Giêsu gọi đám đông đến và nói cho mọi người một nguyên tắc căn bản: Đó là phải tôn trọng tiếng lương tâm trong sáng, nghe và làm theo tiếng nhắc bảo của lương tâm. Chúa Giêsu dùng cách so sánh cụ thể: “Không phải những cái từ bên ngoài vào trong con người có thể làm cho họ ra ô uế, mà chỉ những cái từ trong xuất ra mới có thể làm cho con người ra ô uế mà thôi”. Chúa Giêsu cũng giải thích thêm “cái bên trong” đó là: “tư tưởng xấu, tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng nó phát xuất từ trong tâm hồn và làm cho tâm hồn ô uế”. Đúng như vậy, tư tưởng sẽ chi phối hành động. Tư tưởng xấu xa mờ ám, thì dẫn đến hành động xấu xa gian dối; tư tưởng suy nghĩ quanh co thì hành động cũng quanh co không ngay thẳng; tư tưởng dâm ô thì từ lời nói đến hành động sẽ là những điều dâm ô.
Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng là mỗi người cần thanh tẩy, điều chỉnh suy nghĩ của mình trước; thanh tẩy từ trong tâm hồn. Thay đổi được suy nghĩ, sẽ thay đổi được hành động và đời sống. Suy nghĩ những điều tốt đẹp, tích cực thì sẽ hành động tích cực tốt đẹp cho người khác. Suy nghĩ những điều thánh thiện, thì cuộc sống và việc làm sẽ thánh thiện.
Ngày xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa cũng đã dùng ông Môsê để cánh báo về việc giữ giới răn lề luật của Thiên Chúa sao cho cho tinh ròng, đừng tự ý thêm hoặc bớt lề luật Chúa. Vì lề luật của Thiên Chúa là do ý muốn của Thiên Chúa. Ai tuân giữ cách vuông tròn, đó là người khôn ngoan và lề luật của Chúa sẽ gìn giữ người ấy. Hơn nữa, Môsê còn kêu gọi mọi người hãy luôn cảm thấy tự hào vì không có dân tộc nào được Thiên Chúa ưu ái ban lề luật của Ngài như Chúa đã ban cho dân Do Thái. Tuy nhiên, những lời căn dặn của Môsê đã không được người Do thái lưu ý. Họ tìm cách sửa luật Chúa theo ý muốn và theo lợi ích riêng của mình, biến việc giữ luật chỉ còn là hình thức bên ngoài không còn ý nghĩa ban đầu. Sau nhiều thế kỷ, người Do thái đã thêm vào lề luật của Chúa nhiều chi tiết và nhiều các thứ luật khác khiến cho đa số người dân không thể phân biệt đâu là giới răn của Chúa đâu là luật của các thượng tế, luật sĩ.
Thưa quý OBACE, không chỉ những người Do thái ngày xưa, mà chúng ta hôm nay cũng bị tình trạng như thế. Nhiều người trong chúng ta tin Chúa, theo Chúa nhưng không muốn giữ lề luật của Thiên chúa. Nhiều người cho rằng luật Chúa ngày nay con người không thể giữ được. Vì vậy, họ tìm cách xén gọt luật Chúa cho vừa với ý của mình. Nhiều người khi bước vào cuộc sống hôn nhân, họ cam kết chu toàn luật Chúa và Giáo Hội. Họ công khai nói lên sự thuỷ chung và vĩnh viễn của hôn nhân công giáo. Thế nhưng, có nhiều người đã tìm cách phá vỡ mối dây hôn nhân, tìm cách hủy bỏ lời cam kết. Họ đưa ra rất nhiều lý do để biện mình cho lối sống, suy nghĩ và hành động sai trái của mình. Ngày nay có cả những phong trào nổi lên gây sức ép, nhằm phá hủy luật hôn nhân của Chúa để thay thế bằng luật của con người.
Sống trong một tổ chức nào cũng cần phải có lề luật để duy trì sự trật tự và giúp phát triển tổ chức đó. Cũng vậy, là thành viên trong gia đình Hội Thánh của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải chu toàn những lề luật của Hội Thánh. Vì Hội Thánh là của Chúa Kitô, do Chúa Kitô thiết lập để thi hành sứ mạng Chúa Kitô trao phó. Vậy mà, có những người đang tìm cách gây sức ép để Hội Thánh thay đổi lề luật của mình với lý luận: Luật do Hội Thánh đặt ra thì Hội Thánh có quyền thay đổi. Ví dụ như luật về hôn nhân gia đình, luật bảo vệ sự sống… Luật của Hội Thánh là do ý định của Thiên Chúa, nhằm xây dựng Hội Thánh. Vì thế, Hội Thánh không thể đi ngược với ý định của Chúa Kitô.
Trong một cộng đoàn nhỏ hơn là giáo xứ, gia đình cũng cần có những quy định phù hợp với lề luật của Thiên chúa nhằm bảo vệ, củng cố và phát triển cộng đoàn và gia đình. Vì thế, mỗi người đừng vì ý thích cá nhân, cũng đừng nhân danh tự do cá nhân hoặc quyền lợi nào đó mà coi thường luật Chúa và Giáo hội hoặc những quy định của cộng đoàn và gia đình. Vì tất cả những lề luật của Thiên chúa và Hội Thánh là nhằm giúp ta tiến triển và đạt tới đời sống thánh. Những quy định trong giáo xứ và gia đình là chuẩn mực, nhằm giúp ta hoàn thiện con người mình mà thôi.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra ý Chúa qua các giới răn lề luật của Chúa và giúp chúng ta thi hành, chu toàn luật Chúa cách vui tươi và tự do. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Hôm nay, Chúa Nhật XXII thường niên B, chúng ta tìm hiểu về Luật Chúa là luật đích thực của tôn giáo. Luật này được kiện toàn trong bí tích tình yêu và chỉ tồn tại trong tâm hồn tinh truyền và thánh thiện. Vì thế, các bài đọc hôm nay hướng dẫn chúng ta suy tư về cách thế tốt nhất để tuân giữ luật Chúa, nhờ đó chúng ta đạt tới ơn cứu độ.
Trong bài đọc I, Môsê nhắc nhở dân người về các huấn lệnh của Thiên Chúa và yêu cầu họ phải kiên tâm bền chí tuân giữ để được sống hạnh phúc. Ông cũng nghiêm túc lưu ý họ không được thêm hoặc bớt điều gì. Tuy nhiên, lời cảnh báo này đã không được thực hiện một cách nghiêm túc, bởi vì sau này những người Pharisêu đã biến 10 điều răn thành 613 khoản quy định tỉ mỉ.
Vì thế, họ đã làm cho cuộc sống trở nên khó khăn và phức tạp một cách thái quá đối với dân Chúa. Đó là lý do tại sao trong thư Galát chương 3, thánh Phaolô đã đối diện với trường hợp như thế nên ngài đã mạnh mẽ chống lại “lề luật.” Ngài không hoàn toàn lên án lề luật, nhưng lên án cách thức mà những người Pharisêu quan niệm, lạm dụng và trình bày lề luật. Ngài cho rằng tinh thần Lề Luật còn quan trọng hơn các chữ viết.
Cũng thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chống lại nhóm Biệt Phái vì sự giả hình của họ. Họ không bao giờ giữ luật mà họ đã đề ra cho dân. Đây là cách thức nguy hiểm của đời sống mà chúng ta (những linh mục, tu sĩ và những Pharisêu thời nay) phải cẩn thận xa tránh. Chúng ta không được sống một cuộc sống giả hình, cũng như làm cho cuộc sống trở nên phức tạp hơn cho người khác; hay đôi khi chúng ta chỉ thích bắt bẻ, chỉ trích và lên án người khác, nhưng lại không ý thức về giới hạn của mình.
Đặc biệt, trong khi nhóm Biệt Phái chỉ chú trọng đến hình thức và nệ luật bên ngoài, Chúa Giêsu chỉ cho thấy căn nguyên sâu xa nhất của mọi sự xấu xa và thiện hảo khi Người nói: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,15). Người mời gọi chúng ta phải kiểm điểm chính mình. Bởi lẽ, từ bên trong, nơi lòng chúng ta, những ý định xấu xa, ghen ghét, kiêu ngạo, những khuynh hướng đồi bại mà chúng ta lưu giữ trong lòng thực sự là những gì biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta là ai. Chúng là những tật xấu làm cho chúng ta trở nên xấu xa. Chúng ta phải loại trừ chúng trước khi chúng cắm rễ sâu và làm cho toàn bộ con người chúng ta ra hư hỏng. Chúng là những kẻ thù đích thực và ẩn mặt mà chúng ta phải chiến đấu và chiến thắng mỗi ngày.
Phẩm chất của đời sống chúng ta được đo lường nhờ phẩm chất của tâm trí chúng ta. Nếu tâm trí chúng ta bị phá hoại và bệnh hoạn, thân xác chúng ta sẽ bị bệnh hoạn gấp trăm lần, ngay cả khi chúng ta không ý thức điều đó. Như thế, điều quan trọng nhất mà Thiên Chúa cần nơi chúng ta là tâm hồn trong sạch như Chúa Kitô dạy chúng ta: “Phúc thay những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).
Cách thức tốt nhất để trung thành với huấn lệnh Thiên Chúa là để cho tâm hồn chúng ta được biến đổi nhờ Lời Chúa. Như thế, thay vì quá chú tâm đến những chữ viết của lề luật và sự trong sạch thể lý, chúng ta nên chú ý tới lời khuyên của Phaolô: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Thánh ý Thiên Chúa chính là luật Người. Luật Chúa phải thúc đẩy chúng ta yêu mến người khác và làm lành lánh dữ. Luật Chúa phải kêu gọi sự sám hối đích thực và ước muốn chân thành để tha thứ cho người khác. Luật Chúa giữ chúng ta vững vàng trong đức tin. Tắt một lời, luật Chúa phải thúc đẩy chúng ta chỉ theo đuổi điều tốt lành, phải đạo, cao thượng và thánh thiện.
Hôm nay, thánh Giacôbê Tông Đồ đòi hỏi chúng ta nơi bài đọc II: “Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em… Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành” (Gc 1,21-22).
Vì thế, cách tốt nhất để thực hiện điều này là chúng ta hãy có gắng sống đức tin của mình vào trong đời sống hằng ngày, hãy diễn tả nó qua cách thức chúng ta sống, yêu và hành xử với người khác. Cuối cùng, Thánh Vịnh Gia nhắc nhở chúng ta rằng người công chính sẽ sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa chúng ta thực hành Lời Chúa và các giới răn với một tâm hồn trong sạch và chân thành. Vì thế, chúng ta hãy khiêm tốm cầu nguyện như vua Đavít: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51,12). Amen!
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Chúng ta thường nói người Pharisieu là đạo đức giả! Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 7:1-8, 14-15, 21-23) giúp chúng ta hiểu nhiệm vụ của người Pharisieu trong Do Thái Giáo. Tại sao chúa Giesu và nhiều người lại ghét thái độ giả hình của người Phrisieu? Ai là Pharisieu trong thời Chúa Giesu và thời đại ngày nay?
Người Pharisieu muốn cho lề luật được sống động nên đã cố gắng làm cho lề luật thích hợp với mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Giáo lý của người Pharisieu thì không trái với giáo lý Kito giáo. Thời chúa Giesu, người Pharisieu thuộc phe “bảo thủ” trong Do Thái Giáo. Họ tỏ ra rất đạo đức, giữ luật Torah và Talmud thật khít khao. Họ là thủ lãnh phe đa số và được những tín đồ ngoan đạo, nhiệt thành nể trọng. Đối lập với phe này là phái Sa Đóc, đại diện phái “tự do” trong Do Thái Giáo. Người Sa Đóc thì bình dân và nổi tiềng trong phái thượng lưu xã hội nhưng là thiểu số. Pharisieu và Sa Đóc được nhắc tới trong tin mừng Mathieu (Mt 3:7-10), khi Gioan Tiền Hô kết án họ lúc họ đến xin chịu phép rửa: “ Loài rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp ráng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa trái xứng với lòng xám hối…. Tại sao Gioan lại mắng những người Pharisieu là rắn độc, là quân giả hình nhân đức?
Chúa Giesu cũng dùng những lời trách móc rất nặng để chửi những người Pharisieu. Trong Mathieu 16:6 Chúa đã cảnh giác các môn đệ: “Hãy để ý đến căn nguyên của dân Pharisieu và Sa Đóc.” Người môn đệ phải để ý đến cái gì? Có phải cái tính vô đạo đức của dân Pharisieu và Sa Đóc không?
GIỮ LỀ LUẬT THẬT KHẮT KHE
Thời chúa Giesu, người Pharisieu thường cổ động cách giữ luật thật khit khao và sống đạo hàng ngày thực sự trong lòng. Nhưng một số người chỉ giữ đạo bề ngoài và bị những Pharisieu khác đả kích. Tiên tri Isaiah cũng từng gọi họ là kẻ giả hình nhân đức. Chúa Giesu cũng phản đối việc cắt nghĩa luật của họ, nhưng Chúa không kết án chủ thuyết của họ hoặc tất cả những người Pharisieu.
Người Pharisieu “dựa vào chính họ, coi họ là người công chính.” Họ tin rằng bồn phận của họ là làm điều mà Thiên Chúa truyền và cấm điều Thiên Chúa cấm. Những điều làm được và gìn giữ được sẽ tiến dâng lên Thiên Chúa. Họ tự cho mình là người công chính, khinh miệt tất cả những ai không tuân giữ luật theo cách của họ. Họ không ngồi ăn với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi là những kẻ xấu. Họ xì xào nói xấu những người ngồi ăn với chúa Giesu. Thấy vậy Chúa bèn nói: “Người khỏe mạnh không cần bác sĩ mà là kẻ yếu đau bệnh hoạn. Ta đến không vì người công chính nhưng vì kẻ tội lỗi cần ăn năn thống hối” (Lc 5:31-32).
THỰC TÂM QUAN TRONG HƠN BỀ NGOÀI
Đoạn Tin Mừng hôm nay (Mc 7:1-8, 14-15, 21-23) cho biết những người Pharisieu và những nhà thông luật đến từ Jerusalem là để điều tra về Chúa Giesu. Chúa Giesu đã bãi bỏ cách thực hành nghi thức thanh tẩy và phân biệt thức ăn sạch và dơ theo truyền thống tôn giáo nên Chúa muốn thi hành luật một cách thông thoáng hơn. Thấy một số môn đệ ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay (Mc 7:2) mấy ông Pharisieu và thông luật bèn hạch hỏi chúa Giesu: “Tại sao các đệ tử của ông không giữ truyền thống của các tổ phụ, ngồi ăn với hai bàn tay dơ?” (c.5). Chúa Giesu đã không trả lời nhưng gọi mấy tên Pharisieu và nhà thông luật đó là “quân giả hình nhân đức” (c.6). Nhắc lời Isaiah, chúa Giesu lột mặt nạ họ. Các ông bám lấy nguyên tắc của người đời rồi tin tưởng vào truyền thống của các tổ phụ mà quên đi lề luật của Thiên Chúa (c.8). Chống lại cách hành đạo kiểu bề ngoài, theo thuyết thanh tẩy (Mc 7:2-5), hẹp hỏi của các Pharisieu, chỉ giữ các giới răn thờ phương bằng môi miệng (7:6-7), Chúa Giesu đã lấy luật của Thiên Chúa phản bác lại (7:8-13): “Các ông đã gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm….”
Chúa còn nêu lên sự tương phản giữa luật và cách cắt nghĩa luật của người Pharisieu. Thực vậy, Macco 7:14-15 đã để luật qua một bên mà vẫn tôn trọng thức ăn sạch và bần. Quan điểm của chúa Giesu rất rõ ràng, chính đa số các Pharisieu cũng công nhận cái tâm mình, lòng mình quan trọng hơn vẻ bề ngoài.
Ý NIỆM TỘI CỦA DÂN PHARISIEU
Chúa Giesu bác bỏ quan niệm tội của người Pharisieu và các nhà thông luật. Đối với chúa Giesu, tội từ tâm mà ra. Không biết phân biệt các loại thức ăn không phải là tội. Thái độ của Chúa về tội là quan niệm về ngày Sabbath. Giữ luật mà không có lòng trắc ẩn cảm thông và yêu thương thì thiếu lòng nhân đạo và không có tình người.
Chúng ta có thể hiểu dễ dàng sứ điệp của Chúa Giesu muốn nói với các Pharisieu và những nhà thông luật (c.1-8) cũng như đám đông: Tất cả các ngươi kể cả các môn đệ (c.21-23), hãy nghe ta đây, để mà hiều (c.14-15). Đây là tin vui cho tất cả mọi người, là Thiên Chúa không cứng ngắc theo sát luật. Người uyển chuyển, bởi vì qua đức Giesu Kito, Thiên Chúa Cha đã cho chúng ta một đời sống mới. Không nên quá lo lắng làm sao để vâng theo luật lệ và giữ mình thanh sạch.
Giữ mình thanh sạch là chúng ta tự do dùng bàn tay mình để phụng sự tha nhân. Chúng ta có thể bị dơ bẩn trở lại, nhưng Thiên Chúa cho chúng ta tự do giữ luật, lại ban cho chúng ta ân sủng. Đây cũng là một tin vui chúng ta phải chia sẻ khi chúng ta phụng sự những người có tâm hồn giữ luật, đám đông, và cả những môn đệ chúa Giesu ở chung quanh ta.
NGƯỜI PHARISIEU THỜI ĐẠI
Ai là Pharisieu và đệ tử của họ ở thời đại ngày nay? Pharisieu thời đại và đệ tử của họ là những người rất sùng đạo và giữ phẩm hạnh nhưng cũng hay ganh ghét. Họ cố gắng giữ luật Chúa nhưng lại hay phân bua khi thực hành đạo. Họ rất siêng năng đi lễ Chúa Nhật. Họ là những công dân làm việc chăm chỉ, bề ngoài tỏ ra rất ngay thẳng. Họ giữ mình tránh các tội ác và luôn luôn giảng giải về luân lý và luật lệ, nhưng lại có đặc điểm hay phân bì ganh tỵ.
Ngoài ra họ không tin là ơn cứu độ phụ thuộc vào hành động của chúa Kito. Họ cho rằng ơn cứu độ là do cố gắng của con người và những điều mà kẻ tội lỗi thêm vào công việc của chúa Kito.
Ngược lại, người Kito hữu thực sự là những người tin và tuyên xưng chúa Kito bị đóng đanh. Không có cách nào khác. Họ tin rằng hành động của chúa Kito là bảo đảm cho ơn cứu độ cho tất cả mọi người mà họ là một đại diện. Chỉ một điều đó làm nổi bật sự khác biệt giữa cứu độ và luận phạt. Họ biết rằng cố gắng của riêng họ tuyệt đối không can dự vào chuyện họ được chấp nhận trước mặt Thiên Chúa. Họ an nghỉ trong một chúa Kito mà thôi khi niềm tin duy nhất của họ là nhận biết công việc của chúa Kito nhờ ân sủng của Thiên Chúa làm bảo đảm cho ơn cứu độ. Chúa Giesu biểu lộ cho chúng ta biết ai là kẻ tội lỗi cần được chữa lành, ai không tự mình trở thành công chính, ai không có quyền hành Thiên Chúa, ai không đáng được làm bạn với Thiên Chúa, ai là người mà đức Giesu đến để kêu gọi họ thống hối.
ĐÔI LỜI KẾT- KHOAN DUNG HƠN LUẬN PHẠT
Đọc bài Tin Mừng hôm nay nói về lề luật, chúng ta nên coi lại Công Đồng Vatican II khai mạc ngày 11-10- 1962. Trong lời mở đầu, Đức Gioan XXIII nói rõ ràng ngài không kêu gọi Vatican II bào chữa cho những sai lầm hay làm sáng tỏ những điểm chính của giáo lý. Ngài nhấn mạnh, Giáo Hội ngày nay phải “ khoan dung hơn là luận phạt.”
Gioan XXIII khi được yêu cầu, đã từ chối nghe ý kiến của những người chung quanh là những vị “luôn luôn tiên đoán về tương lai xấu.” Ngài goi họ là những “tiên tri bi quan”, thiếu cảm quan về lịch sử mà lịch sử là “thầy dạy đời sống”. Ngài quả quyết, sự quan phòng của Thiên Chúa đã dẫn thế giới đi vào một trật tự mới tốt đẹp hơn trong tình liên đới giữa loài người với nhau. “Và tất cả mọi sự, ngay cả những khác biệt của con người, đều dẫn đưa tới điều thiện vĩ đại hơn của Giáo Hội.”
“Papa Roncalli” là con người, để ý đến niềm tin của mình hơn là hình ảnh của mình, đến những người chung quanh mình hơn là những ham muốn của mình. Với một nhiệt tình và viễn kiến truyền cảm, ngài nhấn mạnh Giáo Hội cần phải thích ứng với một xã hội đang thay đổi từng giờ và làm cho những sự thật thâm sâu nhất của Giáo Hội được sáng tỏ trong thế giới tân kỳ ngày nay. Ngài biết rằng luật mà không có tình thương, thiếu lòng trắc ẩn cảm thông thì không còn nhân tính.
Papa Giovanni được vị kế tiếp là Gioan Phaolo II phong chân phước năm 2000, và năm 2014 được vinh thăng hiển thánh cùng với Gioan Phaolo II bởi đức Phan Sinh. Xin ngài tác động lên tâm hồn những Pharisieu và Sa Đốc tân thời là những vị đang sống và sống khỏe trong Giáo Hội và thế giới ngày nay!
Lm. Antôn
Trong đời sống hằng ngày của mỗi người chúng ta bị ảnh hưởng không ít thì nhiều bởi môi trường và bởi tình cảnh. Những ảnh hưởng này rất cần thiết và hữu ích, chẳng hạn tại ngã tư đường đèn đỏ báo hiệu chúng ta biết phải dừng lại. Nếu không sẽ có thể đưa đến tai nạn lưu thông và hậu quả trầm trọng. Khi đi chợ hay đến những văn phòng, chúng ta phải xếp hàng chờ đợi. Khi tới một nơi công cộng hay nhà thờ không được xả rác. Nếu chúng ta ý thức được điều đó thì sẽ bị coi là người kém hiểu biết, hay kém văn minh, nhất là trong xã hội Hoa kỳ này. Ngoài ra chúng ta còn bị chi phối bởi luật lệ của quốc gia, phong tục gia đình, luân lý của xã hội và luật lệ trong tôn giáo. Như chúng ta đều biết, luật lệ cần thiết cho đời sống vì mục đích là bảo vệ những giá trị căn bản cho cá nhân, và bảo đảm cho chúng ta sự tự do và an toàn.
Những bài Kinh thánh tuần này nhắc nhở và giúp chúng ta hiểu sự khác biệt và hiệu quả đưa đến từ những gì chúng ta tiếp nhận từ bên ngoài vào, và những hành động và thái độ phát xuất ra từ trong con người chúng ta.
Bài đọc 1 nhắc nhở chúng ta về 10 điều răn của Thiên Chúa dạy, mục đích là hướng dẫn cuộc sống hằng ngày của chúng ta. Nếu chúng ta tuân giữ và sống 10 điều răn Chúa dạy, chúng ta sẽ kết hợp mật thiết với Chúa và sống trong ơn sủng và bình an của Người.
Trong bài Tin mừng, chúng ta thấy Chúa cảnh cáo những người Biệt phái đã giữ những điều luật rất tỉ mĩ, cặn kẽ, nhưng không chú ý đến ý nghĩa và giá trị tinh thần hay mục đích của việc giữ luật. Họ giữ luật cặn kẽ cốt ý là tỏ ra mình là đạo đức trước mặt mọi người và để được người ta ca tụng. Chính vì thế mà Chúa Giêsu đã gọi họ là những người giả hình. Giả hình hay giữ luật lệ một cách hình thức bề ngoài đều bị Chúa Giêsu lên án và Chúa không ngại ngùng thẳng thắn tuyên bố rằng: “Dân này kính ta ngoài môi miệng nhưng lòng chúng thì xa ta. Nó sùng kính ta cách giả dối.” //
Thái độ đó của những người Biệt phái và luật sĩ ngày xưa có thể đang được tái diễn lại trong đời sống của người kitô hữu ngày nay, nhất là trong một xã hội chú trọng tới vật chất, tiền bạc và tự do cá nhân này. Đây là điều mà chúng ta phải lưu ý. Khi nói đến đời sống tôn giáo, thông thường chúng ta nghĩ ngay đến một số các luật lệ và nghi thức, và chúng ta cũng thường có khuynh hướng đánh giá mức độ đạo đức, thánh thiện qua sự tham dự các lễ nghi, qua việc giữ các luật lệ hay đọc kinh. Chính vì thế mỗi khi thấy người nào không giữ như chúng ta, chúng ta liền phê bình, chỉ trích và cho là “khô khan” hay không đạo đức. Đó cũng chính là quan niệm của những người Biệt phái thời Chúa Giêsu, điển hình là khi thấy các môn đệ của Chúa Giêsu dùng bữa mà không rửa tay theo luật.
Nếu chỉ chú ý tới giữ những nghi thức, tuân theo lề luật hay đọc kinh mà quên đi việc phải sống hy sinh, bác ái, quảng đại như Lời Chúa dạy trong cuộc sống hàng ngày thì phải thành thật thú nhận rằng cũng là điều mà tôi và quí ông bà anh chị em thường rất dễ mắc phải. Thực ra, thì tất cả chúng ta chẳng ai muốn sống giả hình hay hình thức, nhưng vì giữ những hình thức đó xem ra dễ hơn là sống những đòi hỏi, luật lệ của Chúa dạy, hơn nữa vì sống trong xã hội này, chúng ta muốn sống đạo theo phương cách, đường lối, luật lệ của chính chúng ta. Do đó, chúng ta chỉ mới giữ đạo, chứ chưa sống đạo. Chúng ta chưa thật sự để Tin mừng của Chúa biến đổi cuộc sống của chúng ta, và cũng chính vì thế mà chúng ta vẫn còn phải nghe những nhận xét thật đau lòng của anh chị em chưa có đức tin, đó là: Tin đạo chứ không tin người có đạo. Họ không tin chúng ta vì chúng ta chưa thật sự sống điều chúng ta tin, hay đời sống của chúng ta không phản ảnh những gì chúng ta tin. Ngoài ra, nếu chỉ lo giữ những nghi thức bên ngoài, mà không có một tấm lòng chân thật bên trong, thì những nghi thức này sẽ còn dẫn chúng ta đến những thói xấu khác là kiêu căng, tự phụ, tự cao và dễ kết án người khác.
Chúng ta biết những hình thức bên ngoài không phải là không cần thiết, nhưng những hình thức bên ngoài, muốn có giá trị và ơn ích, cần phải phát xuất từ tâm tình tốt bên trong. Bởi vì nội tâm trong con người là nguồn mạch, căn nguyên của mọi hành động, việc làm và lời nói, cho nên nội tâm có tốt thì những hành động, lời nói, việc làm phát xuất ra từ đó mới tốt, mới có giá trị.
Thật vậy, bài Tin mừng nhấn mạnh đến điểm quan trọng này: chính lòng con người là nguồn gốc của việc lành hay dữ, việc tốt hay việc xấu. Đồng ý rằng chúng ta bị ảnh hưởng, chi phối, lôi cuốn, thúc đẩy của hoàn cảnh, nhưng thật ra thiện căn ở tại lòng của chúng ta. // Và cũng chính từ trong lòng này sinh ra 12 nết xấu mà Tin mừng kể ra là: ngoại tình, dâm ô, giết người, trộm cắp, tham lam, độc ác, xảo trá, lăng loan, ganh tị, vu khống, kiêu căng, ngông cuồng.
Cho nên câu mà chúng ta thường nghe nói: “không gì xấu bằng lòng người’’ chưa hẳn quá đáng. Ca dao tục ngữ của người Việt nam chúng ta cũng có câu nói về lòng dạ con người: “Sông sâu còn có thể dò, lòng người nham hiểm ai đo cho lường.”
Vì thế, chúng ta phải gieo vào cánh đồng tâm hồn con người chúng ta những hạt giống tư tưởng tốt lành, những luật lệ điều răn của Thiên Chúa, thì mới sinh ra những hoa trái là những việc tốt lành, thánh thiện và hữu ích cho chúng ta và tha nhân.
Ngày xưa Chúa Giêsu đã dùng lời ngôn sứ Isaia để trách dân Do Thái rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Thế thì chúng ta tự hỏi: “Phải chăng chúng ta cũng đáng bị trách như thế không?” Xin Chúa giúp chúng ta từ bỏ những cách sống giả dối, hình thức bề ngoài. Vì chúng ta có thể giả hình, giả dối với người khác, nhưng không thể dấu được Thiên Chúa. Xin Chúa giúp chúng ta có tâm hồn yêu mến và thành tâm lắng nghe và tuân giữ, sống luật Chúa dạy.
TÂM BẤT BIẾN GIỮA DÒNG ĐỜI VẠN BIẾN
Gm. Giuse Vũ Văn Thiên
Một người khi được hỏi: Trên đời sợ gì nhất? đã trả lời: sợ nhất là con người. Con người vừa cao cả vừa thấp hèn, vừa đáng kính vừa đáng sợ. Con người là tác nhân làm nên những kỳ vĩ, nhưng cũng là lý do gây nên bao đau khổ. Trí thông minh của con người có thể đem lại những kỳ tích giúp thăng tiến và phát triển, đồng thời cũng có thể gây tai họa hủy diệt chết chóc hoàng loạt. Con người vừa là điểm kết nối yêu thương, vừa là nguyên nhân gây chia rẽ bất hòa. Chính vì vậy mà con người trở nên “đáng sợ” nhất. Nhiều khi người ta đem hình ảnh ma quỷ ra để đe dọa người khác. Tuy vậy trong thực tế, chưa bao giờ thấy ma quỷ hiện hình giết người, mà chỉ có những người đang sống giết nhau một cách dã man. Lòng đố kỵ, tham lam đã khiến con người đoạt mạng sống của đồng loại một cách không thương tiếc, để lại những hậu quả khôn lường. Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy nhận ra đâu là nguồn gốc của tội lỗi. Tội lỗi không phải là điều gì từ bên ngoài, nhưng xuất phát từ trong chúng ta. Chính con người là nguyên nhân gây ra tội lỗi và đau khổ cho bản thân và cho đồng loại. Trong kinh “Cải tội bảy mối” chúng ta thấy những “mối tội đầu” đều đến từ tà ý và ích kỷ của con người: kiêu ngạo, hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, lười biếng việc đạo đức. “Tâm bình thế giới bình”. Tập luyện để có được tâm hồn bình an, đó là điều kiện quan trọng để góp phần xây đắp an bình trong cuộc sống và trong xã hội.
Vào thời Chúa Giêsu, một số lớn những kinh sư và người biệt phái thường chú trọng tới những thủ tục bề ngoài mà coi thường tinh thần của lề luật và lãng quên đức bác ái. Chúa đã nhắc lại giáo huấn của ngôn sứ Isaia: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.Rồi Chúa kết luận: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”. Kinh sư và biệt phái là những người học hành uyên thâm, họ có uy tín trong các cộng đoàn Do Thái, và có vị trí quan trọng trong các buổi hội họp. Chính những “bậc vị vọng” ấy đang bị Chúa kết án nặng nề và coi họ như những kẻ đạo đức giả. Họ lạm dụng khái niệm thánh thiêng và trần tục, và đã tự đặt ra rất nhiều quy định rườm rà và tỉ mỉ. Những quy định này, thay vì giúp cho con người nên thánh, lại đặt trên vai họ những gánh nặng không kham nổi. Những công việc bình thường hằng ngày như rửa tay, rửa chén, rửa bát, họ đã biến thành những nghi thức tôn giáo để kết tội người dân. Chúa Giêsu đã phê phán quan niệm ấy, và mời gọi họ chú trọng đến nhân vị, tức là chính con người. Bởi lẽ, những quy định, luật lệ được thiết lập là phục vụ con người và giúp họ hướng thượng và nên trọn lành.
Cũng giống như những kinh sư và người biệt phái ngày xưa, nhiều khi chúng ta chỉ chú trọng tới những gì là “xã giao”, “lễ nghi”, “thủ tục” mà quên đi mục đích quan trọng của lề luật, đó là giúp ta nên thánh trước mặt Chúa và trước mặt anh chị em. Vì quá chú trọng đến những thủ tục và truyền thống, nhiều khi những tương giao của chúng ta trở nên giả hình, gượng ép, thậm chí là giả dối.
Niềm tự hào của dân tộc Do Thái ngày xưa, cũng là niềm vinh dự của người Kitô hữu hôm nay, đó là được Chúa luôn hiện diện giữa cộng đoàn những người tin vào Người. Ông Môisen nhắc người Do Thái đừng quên điều ấy. Giáo Hội hôm nay cũng nhắc chúng ta như vậy. Trải qua những sóng gió trong cuộc lữ hành sa mạc, trên đường về Đất Hứa, người Do Thái càng nhận ra quyền năng của Chúa cũng như tình yêu thương Ngài dành cho họ. Trước tình thương ấy, Ông Môisen đã dặn dò: “Anh em phải giữ và đem ra thực hành những mệnh lệnh của Đức Chúa, vì nhờ đó mà anh em em sẽ được các dân coi là khôn ngoan và thông minh”. Nhờ tin vào Chúa mà dân tộc Do Thái trở nên vĩ đại. Hôm nay, Giáo Hội của Chúa như cây nho vươn cành ra khắp thế giới, bao phủ địa cầu và đang sinh hoa kết trái, trở thành một vương quốc vĩ đại của Thiên Chúa.
Biết bao lần chúng ta tham dự các nghi thức phụng vụ mà tâm hồn chúng ta xa Chúa. Có nhiều khi chúng ta giống như những người kinh sư và người biệt phái, chỉ chú trọng đến những nghi thức bề ngoài mà coi nhẹ tâm tình cầu nguyện, là điều cốt lõi để làm thành việc tôn thờ đích thực. Thánh Phaolô đã khuyên chúng ta: “Hãy khiêm tốn đón nhận Lời được gieo vào lòng chúng ta… Hãy đem Lời ấy ra thực hành chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (Bài đọc II). Đối với thánh nhân, lòng đạo đức thật phải sinh ra hoa trái là lòng bác ái và dấn thân phục vụ người nghèo, giúp họ tìm được niềm vui trong cuộc sống.
Vì tội lỗi đến từ con người. Nếu mỗi chúng ta chú tâm đến việc canh tân đổi mới cuộc đời, cuộc đời này sẽ bớt đi những mâu thuẫn hận thù và bạo lực. Với tư cách là Kitô hữu, hãy thắp sắng cuộc đời bằng những nhân đức và bằng tình yêu thương, để rồi cuộc sống chan hòa và thấm đượm tinh thần Tin Mừng yêu thương. Trái tim an bình và thánh thiện là điều kiện không thể thiếu để kiến tạo hòa bình xung quanh chúng ta.
Sống không giận, không hờn, không oán trách
Sống mỉm cười với thử thách chông gai
Sống vươn lên cho kịp ánh ban mai
Sống chan hòa với những người chung sống
Sống là động mà không xao động
Sống là thương mà chẳng vấn vương
Sống hiên ngang danh lợi ta coi thường
Tâm bất biến giữa dòng đời vạn biến (Sưu tầm).
.
Lm. Jos Tạ Duy Tuyền
Đôi khi tôi vẫn tự hỏi: tại sao Thiên Chúa tạo dựng con người có trí tuệ thông minh, có thể biết mọi sự nhưng Ngài lại không cho con người biết được lòng nhau? Có đôi khi ta vẫn nghe ai đó nói rằng “Tôi đi guốc trong bụng anh đấy!”, nhưng chỉ là “suy bụng ta ra bụng người” chứ chẳng ai đi guốc được trong bụng nhau! Vì con người là một diễn viên tài ba có thể che dấu sự thật về mình.
Thế nên, người đời mới chua cay nói rằng: “Sông sâu còn có kẻ dò – Lòng người nham hiểm ai đo cho tường”. Con người dường như luôn có bí mật để dấu mọi người. Có khi cả tội lỗi mà chẳng ai nhận ra.
Có một người đàn ông khi hấp hối hỏi vợ:
– Em yêu, trước khi chết, anh muốn biết sự thật và sẵn sàng tha thứ cho em. Thằng thứ tư có phải là con anh không?
– Tất nhiên nó là con anh. Em xin thề!
Người đàn ông lộ vẻ sung sướng và trút hơi thở cuối cùng. Người vợ vừa vuốt mắt cho chồng vừa thở phào:
– May là ông ấy không hỏi mình về ba đứa đầu…
Quả thực giữa muôn loài trong thế gian chỉ có con người mới có giả hình, lừa đảo, gian dối, mưu mô, thủ đoạn . . . Chỉ có con người mới có kiểu nói vậy mà không phải vậy nên rất khó biết lòng nhau.
Hôm nay Chúa Giê-su khẳng định: “không phải những gì từ bên ngoài vào làm cho người ta ra ô uế, nhưng từ trong mới xuất phát những cái làm cho người ta ra ô uế”. Điều này dường như Chúa muốn nói tội xuất phát từ bên trong. Tội chỉ là hành vi làm điều gì đó có lỗi mà từ trong tâm hồn con người đã nuôi dưỡng. Có khi tội cũng chỉ dừng lại ở việc nuôi dưỡng trong tâm hồn những điều bất chính hay những điều ngược với đức ái Ky-tô.
Hôm nay nhân việc các kinh sư trách các môn đệ Chúa không rửa tay trước khi ăn. Đối với người Do Thái việc rửa tay là luật mà họ phải tuân giữ để chứng tỏ mình sạch trước mặt mọi người. Nhưng Đức Giê-su đã cho họ biết thế nào là sạch, thế nào là dơ. Cá có zòi rửa sạch nhưng bên trong đã hư thối. Sạch dơ đều phải dựa vào cái bên trong. Thế nên, cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay dữ, tốt hay xấu, sạch hay dơ. Từ lòng mà sinh ra các tội: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, lăng loàn , . . .
Đức Giê-su không phản đối việc rửa tay trước khi ăn, Người chỉ phản đối thói vụ hình thức, vì họ quá quan trọng cái bên ngoài mà quên làm sạch bên trong. Làm người cần có tấm lòng như Nhạc sĩ Trịnh Công Sơn từng viết rằng: “sống trên đời cần có một tấm lòng”. Một tấm lòng chân thành, biết trao yêu thương. Khi tạo dựng con người Thiên Chúa cũng truyền cho con người: “Hãy tạo cho mình một trái tim mới” (Ed 18,31). Một trái tim biết yêu thương, một tấm lòng chân thành yêu thương nhau. Con người phải để gió cuốn đi tấm lòng yêu thương chân thành đến với tha nhân.
Người ky-tô chúng ta đang sống trong mọi thế giới mà sự lừa dối lên ngôi đến mức cảnh báo ở khắp mọi nơi và trong mọi hoàn cảnh. Thế giới hôm nay người ta cũng đề cao hình thức nên cũng cố đánh bóng mình bằng nhà cửa, xe cộ, phương tiện đắt tiền để khoe mẽ, để tạo niềm tin cho đối tác nhưng có mấy ai thực sự là sở hữu riêng mà không phải vay mượn.
Một xã hội nặng hình thức và lừa dối cần lắm một đời sống chứng nhân cho sự chân thành và lòng quảng đại không điều kiện của người tín hữu chúng ta. Thiên Chúa biết rõ mọi sự hãy sống dưới cái nhìn của Chúa. Thế nên, hãy sống chân thành với nhau. Vợ chồng đừng che dấu nhau điều gì nhưng luôn cởi mở thân tình. Bạn bè cần sống chân thành để gìn giữ niềm tin cho nhau. Đối tác cần sống thật để cho mối quan hệ làm ăn bền vững . . .
Người Ky-tô hữu mỗi khi đưa tay để đón nhận tình thương và sự thanh sạch của Thiên Chúa nên cũng cần phải thanh sạch từ ngoài đến tâm hồn không hoen ố vấn đục bởi tội lỗi, bởi toan tính thấp hèn. Xin Chúa giúp chúng ta luôn sống thanh sạch trong tâm hồn và chân thành trong đời sống của mình. Amen
.
Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu, chúng ta đi từ ngạc nhiên này tới ngạc nhiên khác, từ khám phá này tới khám phá kia : có những câu chuyện xem ra nực cười nhưng cũng dở mếu dở khóc bởi vì những lố bịch của người Biệt phái, của những Tư tế, Pharisêu luôn gây cho chúng ta nhiều suy nghĩ. Chẳng hạn như việc rửa tay trước bữa ăn, hay việc đóng thuế thập phân, việc lên Đền thờ cầu nguyện, tất cả những sự việc ấy đều được các Biệt phái, Ký lục, Tư tế vv…làm ra to chuyện, coi là quá quan trọng. Việc rửa tay trước bữa ăn là việc vệ sinh bình thường, tuy nhiên khi Chúa Giêsu đang ở Galilêa, họ đã cất công từ Giêrusalem tới gặp Chúa hơn 170 cây số để hỏi Ngài chỉ có một việc là tại sao các môn đệ của Chúa không rửa tay trước bữa ăn.Điều này chứng tỏ người Do Thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy…
Người Pharisêu có tập tục, truyền thống rất kỹ về việc rửa tay trước bữa ăn. Họ sẽ không ăn bất cứ thức ăn nào khi chưa rửa tay.Thực ra, tục rửa tay đã có từ lâu dành riêng cho các Tư tế khi họ làm việc thờ phượng trong Đền thờ, rửa tay để tảy hết các ô uế, tạp khí, uế nhơ để các Tư tế xứng đáng làm việc tôn giáo, thờ phượng, tôn vinh Chúa. Sau này, người Do Thái cũng bắt chước rửa tay trước khi cầu nguyện. Với sự suy nghĩ như thế, họ cũng rửa tay trước các bữa ăn vì đối với người Do Thái khi ra đường, ra chợ, tới nơi công cộng, con người ra ô uế. Phải rửa tay vì không rửa tay đồ ăn bị ô uế lây, đồ ăn ô uế sẽ khiên con người ô uế. Chúa Giêsu quả quyết :” Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế “. Người Do Thái, đặc biệt những Ký lục và Pharisêu đã biến việc giữ những tập tục tiền nhân trở nên gánh nặng, họ chỉ giữ bề ngoài, ai giữ luật, ai giữ tập tục họ cho người đó là đạo đức, công chính, thánh thiện, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn ai không giữ thì họ cho là phạm tội vv…
Do đó, Chúa Giêsu mới vạch mặt thói giả hình của họ bởi vì họ chỉ giữ những gì là bề ngoài, như người Pharisêu đã quá chú trọng cái bề ngoài mà quên đi cốt lõi của lề luật là tình yêu. Chúa khiển trách, lên án người Pharisêu và Luật sĩ vì gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, và duy trì truyền thống của phàm nhân. Truyền thống của người phàm là truyền thống chỉ mang hình thức, giả hình, chiếu lệ.Họ giữ bề ngoài mà bề trong đầy tham lam, gian dối.Họ rửa tay trước bữa ăn mà quên đi việc tẩy rửa tâm hồn.Rửa tay để an tâm vì đã sạch tay. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn bởi vì theo Chúa Giêsu nói thì sự xấu, sự dơ dáy không phải từ bên ngoài vào mà từ bên trong xuất phát ra. Chính Chúa Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim, từ trong tâm hồn. Chính những ý định xấu ấy dẫn con người đến hận thù, ghen ghét, chia rẽ, liều lĩnh, gây ra tội lỗi. Giữ những tập tục, truyền thống người phàm mà quên đi giữ giới răn, lề luật của Thiên Chúa thì không thể nào chấp nhận được. Tất cả những việc chúng ta làm nếu không phải vì Chúa, vì tha nhân, vì tình yêu Thiên Chúa, thì quả thực không có ý nghĩa gì. Lời Chúa
Hôm nay cảnh tỉnh mỗi người chúng ta rằng truyền thống, luật lệ và nghi lễ không phải là cốt yếu của lề luật của Chúa. Cốt lõi của lề luật là yêu mến Thiên Chúa hết lòng hết trí khôn và thương yêu người thân cận, yêu thương ngay cả kẻ thù như chính mình. Thánh Phaolô quả thực đã có lý khi nói dù chúng ta có là gì mà thiếu đức bác ái cũng chỉ như tiếng thanh la, não bạt chập cheng…
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết thanh tẩy con tim, tẩy uế tâm hồn để lời nói, việc làm của chúng con luôn rập theo ý của Chúa. Xin cho chúng con biết lăng nghe Lời Chúa và thực thi Lời Chúa trong cuộc sống của chúng con.Amen.
GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :
1.Tại sao người Pharisêu và Ký lục lại rửa tay trước bữa ăn ?
2.Những người Do Thái bắt chước rửa tay trước bữa ăn để làm gì ?
3.Cốt yếu của lề luật là gì ?
4.Truyền thống, lề luật và nghi thức có phải là cốt yếu để trở nên thánh không ?
.
Lm. Inhaxiô Trần Ngà
Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu, đám đông hô vang: “Hủy bỏ bom đạn giết người!”
Sau đó, trong nhóm tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: “Làm gì có bom đạn giết người! Bom đạn có giết ai bao giờ đâu? Chỉ có những người ác chế ra bom đạn, rồi ném bom lên đầu người khác mới gây nên thảm họa giết người.”
Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: “Đả đảo những kẻ giết người!”
Nhưng rồi lại có người bàn thêm: “Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có việc giết người chứ! Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào ai lại đi giết người!”
Ý kiến nầy được xem là chí lý.
Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: “Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng ghen tị! Đả đảo sự hận thù!” (dựa theo Cha Anthony de Mello)
Chính những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi xấu xa trong cuộc đời và trên thế giới. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con người là thứ phải truy diệt trước hết.
Vì chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giê-su cứ lo rửa ráy bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ chú mục vào việc rửa tay trước khi dùng bữa, cho rằng đó là việc quan trọng hàng đầu và trách móc các môn đệ Chúa Giê-su đã bỏ qua tập tục đó.
Nhân cơ hội nầy, Chúa Giê-su dạy cho các ông một bài học: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mác-cô 7, 14-15. 21-23)
Sự kiện sau đây được thuật lại trong sách Sa-mu-en tỏ cho chúng ta thấy mầm mống ganh tị bên trong là động cơ phát sinh ra tội ác bên ngoài:
Thời ấy, Gô-li-át, một kiện tướng của quân Phi-li-tinh, một người khổng lồ có sức mạnh vô địch, khiêu chiến với quân Ít-ra-en. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en, không ai dám đương đầu với tên khổng lồ ấy.
May thay, Đa-vít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Quân Ít-ra-en bấy giờ thừa thắng xông lên như nước vỡ bờ, đánh tan quân địch không còn manh giáp.
Sau đó, phụ nữ từ các thành Ít-ra-en tuôn ra các ngã đường chào mừng vua Sa-un chiến thắng và ca tụng Đa-vít như vị anh hùng kiệt xuất: “Vua Sa-un giết được một ngàn, còn Đa-vít giết được hàng vạn” (Samuen I, 18, 6-8).
Lời ca tụng đó làm cho lòng ghen tị sục sôi trong lòng vua Sa-un khiến nhà vua tìm mọi cách tiêu diệt Đa-vít và đem quân truy lùng tận những hang núi sâu, mưu toan tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.
Đúng là những gì xấu xa trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế. Cội nguồn sự ác nằm trong thâm tâm con người là điều mà người ta phải quan tâm tiêu diệt trước hết.
Lạy Chúa Giê-su,
Xin cho chúng con mỗi ngày biết dành thời gian thinh lặng để nhìn sâu vào tận đáy lòng mình, nhờ đó, chúng con có thể phát hiện ra những ham muốn xấu xa, những kiêu căng và ghen tị, những tham lam và thù ghét đang âm ỉ trong lòng mình. Chính những thứ đó mới là nguyên nhân gây nên biết bao tội ác, tạo nên mọi điều xấu xa trong xã hội loài người.
Xin giúp chúng con kiên quyết nhổ bỏ những dục vọng xấu xa đen tối khỏi tâm hồn mình ngay từ hôm nay, để mai đây chúng con khỏi bị chúng điều khiển, chi phối và xô đẩy vào vũng lầy tội lỗi.
.
Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ
Phụng vụ Lời Chúa thường niên B năm tuần vừa qua bị gián đoạn bởi chương 6 Tin Mừng Gioan xen vào, hôm nay chúng ta trở lại với chương 7 Tin Mừng Macô, Chúa Giêsu giúp các môn đệ cũng như người đương thời đào sâu ý niệm về sự trong sạch và những luật lệ liên quan. Về vấn đề này, thư thánh Giacôbê trong bài đọc II cũng soi sáng cho chúng ta khi ngài viết : « Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là: thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế đời này» (Gc 1,27 ).
Đạo trong sạch
Từ thế kỷ thứ II, người Do thái đưa ra luật cấm không được giao du và ăn uống với dân ngoại, để khỏi bị ô uế. Người Pharisiêu cho rằng tôn giáo của họ phát xuất từ Thiên Chúa, tẩy sạch là một nghi lễ công cộng, “vì theo đúng tập tục của tiền nhân, những người biệt phái và mọi người Do thái không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước” (Mc 7), thế nên họ chướng tai gai mắt khi thấy môn đệ Chúa Giêsu “dùng bữa với bàn tay không trong sạch” (Mc 7,3). Người Do thái chỉ ăn sau khi đã rửa tay (x. Mc 7,3), các tập tục của họ gắn bó với “truyền thống” (Mc 7,4), thể hiện lòng trung thành với “Thiên Chúa, Đấng ở gần họ” (x. Dnl 4, 7) như Môise đã nói.
Cần phải ghi nhận rằng, Chúa Giêsu không đến để hủy bỏ Lề Luật. Nhưng dạy người ta chống lại thói đạo đức giả hình, vụ hình thức, quan trọng hóa luật lệ của con tim với nghi lễ bên ngoài. Người lên án việc làm khiến người ta xa rời Thiên Chúa, và nghĩ rằng thực hành tỉ mỉ của các quy tắc Luật định là vinh quang ; mặt khác, theo Chúa Giêsu, sự trong sạch không tùy thuộc vào lễ nghi thanh tẩy, nhưng tùy thuộc vào tấm lòng.
Lòng trong sạch
Khi tuyên bố : “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người mà có thể làm cho họ ra ô uế ” (Mc 7), cái đó không chạm tới lòng người ta, nhưng vào trong bụng và kết thúc trong cống rãnh. Theo Chúa Giêsu, điều gì làm cho chúng ta ô uế : ” Chỉ có những gì từ con người xuất ra, chính những cái đó mới làm cho họ ra ô uế“.
Những gì là nhơ bẩn, ô uế, hay những ý định và hành động xấu xa không đến từ bên ngoài, mà đến từ lòng dạ xấu xa và xa rời Thiên Chúa. Thiên Chúa không hiện diện khi lòng người rời xa Chúa.
Tôn giáo được Chúa Giêsu thiết lập không giảm thiểu vào các nghi lễ bên ngoài, gồm một mớ những học thuyết và đạo đức giả ; đây là sự mặc khải về khuôn mặt của Thiên Chúa trong nhân loại nơi con người Chúa Giêsu. Việc thực hành đạo dù lớn hay nhỏ, chỉ có ý nghĩa và có giá trị khi được sinh ra từ tình yêu, được tháp tùng bởi tình yêu và được tiêu thụ trong tình yêu.
Yêu thương là chu toàn Luật Chúa
Tập tục của tiền nhân người Do thái thích giữ với lòng đạo đức ấy lại trái với Luật Môise. Đó là lý do tại sao Êsai nói : “Bạc của ngươi hóa thành ten chì, rượu đã trá pha nước lã“ (Is 1,22), cho thấy người xưa kết hợp sống giới luật của Chúa với một truyền thống nhạt nhòa, nghĩa là họ đã thiết lập một luật biến chất trái với Luật Chúa. Chúa Giêsu trách họ : Tại sao các ông phạm đến lệnh truyền của Thiên Chúa nhân lệ truyền của các ông? (Mt 15,3) Họ bỏ qua những điều cần thiết, thêm vào những khoản phụ và giải thích theo lối khác, việc họ làm lột tẩy họ là những kẻ đạo đức giả hình.
Họ cương quyết bảo vệ các tập tục, nhưng không tuân thủ Luật Chúa. Thậm chí họ đổ lỗi cho Chúa Giêsu vi phạm ngày Sabát khi chữa bệnh, điều mà Luật không cấm. Tuy nhiên, họ không nhận lỗi về mình đã vi phạm lệnh truyền của Thiên Chúa, luật của họ thiếu hẳng tình yêu. Tình yêu này, trên thực tế, là điều răn thứ nhất và trọng nhất, và thứ hai là tình yêu của người lân cận.
Thánh Phaolô cũng nói : Yêu mến là chu toàn cả Lề luật (Rm 13,10) và khi tất cả chỉ còn lại Tin, Cậy, Mến. Ấy là bộ ba! Nhưng trong bộ ba ấy, Mến lớn hơn cả! ( 1Cor 13,13). Và giả như tôi được ơn tiên tri, và biết mọi sự nhiệm mầu, toàn cả trí tri; và giả như tôi được tất cả lòng tin, khiến chuyển được đồi núi, mà tôi lại không có lòng mến, thì tôi vẫn là không! (1Co 13,2). Nếu không có bác ái thì tất cả chỉ là không.
Chính bác ai mang lại sự hoàn hảo cho con người, vì ai yêu mến Thiên Chúa là hoàn hảo trong thế giới hiện tại và tương lai. Vì chúng ta sẽ không bao giờ ngừng yêu mến Thiên Chúa, nhưng hơn thế nữa sẽ chiêm ngắm và yêu mến Ngài đồng thời thương tha nhân.
.
LUẬT PHÀM NHÂN VÀ LUẬT THIÊN CHÚA
Lm. Giuse Hoàng Kim Toan
Chúa Giêsu đứng về phía người nghèo và những người cô thế cô thân. Chính vì vậy, Chúa luôn chỉ rõ đâu là điều quan trọng, hình thức hay nội dung, bề ngoài hay bên trong nội tâm, rửa tay hay rửa cõi lòng. Luật phàm nhân hay luật Thiên Chúa?
Đứng về phía con người
Thời Chúa Giêsu, xứ Palestine có những nét tương phản: Giữa đa số người nghèo và số ít thành phần người Do Thái thống trị thông đồng với Đế quốc Roma kiếm chác thu lợi. Có những phong trào cách tân, xa rời tôn giáo truyền thống.
Chúa Giêsu Đấng giải thoát, Người là Đấng hoàn toàn tự do với lề luật, cung cách tiếp cận với những người tội lỗi và bị bỏ rơi giữa xã hội. Không theo những xét đoán nghiêm khắc của nhóm biệt phái, những lên án của thượng tế và luật sĩ.
Người hướng tới một điều duy nhất: “Sự thật sẽ giải thoát” (Ga 8, 32). Theo não trạng người Do Thái hiểu sự thật nghĩa là trung tín. Khi Chúa nói rửa nội tậm chứ đừng rửa chén đĩa bên ngoài, được hiểu là cần trung tín trong lời nói cũng như việc làm, chứ đừng chỉ nói mà không làm. “Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt 23, 3)
Luật Của Chúa
Luật của Chúa là luật của tự do đích thực, không bị kiềm hãm trong tội lỗi và sự dữ. Lề luật trọn hảo và toàn thiện, trợ giúp con người biết sống yêu thương nhau, không thù hận, oán ghét, giành giật, khinh khi, ngạo mạn. Một lề luật cởi trói hoàn toàn khỏi những điều xấu xa..
Chúa Giêu đã thực hiện giới luật ấy trọn vẹn để cho con người được thấy. Người đi đến với người nghèo khổ, đau bệnh. Người đồng bàn với người tội lỗi, thu thuế. Người tiếp xúc với phụ nữ đúng với phảm vị của họ được tôn trọng, trao cho họ lời loan báo Chúa phục sinh…
Chúa không lệ thuộc vào lời nói ra vào của người khác, không in trí một điều xấu nào nơi người Chúa gặp gỡ. Tự do trong mọi hành động và giao tiếp bình đẳng với mọi người, trả lại quyền tự do cho con người. Chúa muốn thiết lập sự công bằng trên trái đất cho mọi người. Thái độ đó nói lên, mọi người trên trái đất này đều có quyền sống, bình đẳng, sở hữu, và tự do như nhau. Đó là điều cơ bản cho mọi bản tuyên ngôn độc lập cho nhiều quốc gia.
Chúa Giê su không phải là một chính trị gia, cũng chẳng phải là vị lãnh đạo trần thế nào, mà cũng không dựa trên quyền bính thế gian nào. Chỉ có một điều Chúa Giêsu nhân danh, đó là Nước Chúa ngự đến, Ý Chúa cha được thực hiện trên trần gian này.
Luật Thiên Chúa luôn là một luật của tự do. Con người được tự do đáp lại lời gọi của Thiên Chúa, thực hiện Lời Chúa Giêsu giảng dạy, đi theo lối đường của Chúa. Sống tự do là con cái Chúa cũng giúp cho mọi người sống trong tự do đó. Cuối cùng luật của tự do là luật yêu thương như Chúa yêu thương.
.
Lm. Giuse Trần Việt Hùng
Tiền nhân tập tục thực thi,
Rửa tay rửa chén, trước khi dự phần.
Bàn tay tinh sạch bụi trần,
Xác thân tắm rửa, tinh thần thảnh thơi.
Mấy Thầy Biệt Phái gọi mời,
Thực hành tập tục, trong đời sống đây.
Phê bình môn đệ điều này,
Tay dơ không sạch, ăn ngay tiệc mời.
Không theo luật lệ ở đời,
Bàn tay dơ dáy, mọi nơi nhúng vào.
Giả hình môi miệng cao rao,
Tôn thờ Thiên Chúa, trên cao hững hờ.
Tấm lòng trống rỗng lật lờ,
Miệng ngoài giả dối, tôn thờ thần ma.
Sự gì ô uế xuất ra,
Bên trong tâm trí, thật là gớm ghê.
Luật lệ trong tôn giáo là để giúp chúng ta nên trọn lành. Luật không phải là gánh nặng hay sự lừa dối. Giáo hội kêu mời chúng ta giữ đạo và tôn thờ Chúa với cả tấm lòng và trái tim chứ không phải giữ đạo bằng môi miệng. Chúa muốn lòng nhân lành, chứ không muốn của lễ. Tâm đức và ý hướng là cốt lõi của việc giữ đạo. Chúa hiểu rõ nội tâm của chúng ta.
Trong bài Phúc âm, Chúa Giêsu đối chất với các thầy Biệt phái về việc tuân giữ lề luật. Các Biệt phái chú ý chu toàn từng chi tiết nhỏ của luật như rửa tay, rửa chân, tắm rửa, lau chén bát… Họ giữ luật vì luật. Họ thờ kính Chúa qua các hình thức bên ngoài như may dài tua áo, giang tay cầu nguyện nơi phố xá. Họ làm thế cốt để khoe khoang. Lòng của họ thì trống rỗng. Chúng ta gọi đó là giả hình.
Các nhà lãnh đạo Do Thái cảm thấy bực dọc và gai mắt khi nhìn thấy các môn đệ của Chúa ăn uống mà không chịu rửa tay trước. Chúa Giêsu phản đối sự câu nệ của họ. Họ đồng hóa tôn giáo với việc chu toàn những hành vi bên ngoài. Chỉ khi chúng ta thi hành các công việc với lòng yêu mến Chúa thì việc làm của chúng ta mới có giá trị. Điều quan trọng không phải việc chúng ta làm mà chính là tình yêu thúc đẩy chúng ta thực hiện.
Truyện kể một vị Rabbi bị bắt tù ở Roma. Ông được phụng dưỡng tối thiểu, có cơm và có nước. Nhìn thấy vị Rabbi xanh xao yếu ớt. Bác sĩ khám nói rằng ông bị thiếu nước. Các người cai ngục bối rối. Không hiểu sao, vì họ vẫn cung cấp nước đầy đủ. Họ quan sát và phát giác ra Rabbi đã dùng nước uống để rửa tay theo nghi thức.
Thi hành lề luật trong đức ái. Lề luật sẽ dẫn chúng ta vào con đường chính trực. Có nhiều người coi chu toàn lề luật là quan trọng, còn tình trạng tâm hồn không đáng kể. Chúa Giêsu đi vào nội tâm của con người. Chúa nhìn đến một tôn giáo rộng lớn hơn, một tôn giáo sống tinh thần bác ái. Tình yêu là tâm điểm.
Trong thánh lễ hay khi cầu nguyện, chúng ta cố gắng tham dự một cách tích cực. Chúng ta tôn thờ Thiên Chúa với trái tim nồng cháy. Tin tưởng Chúa là Cha luôn thương mến chúng ta. Chúa không phải là tượng gỗ không hồn mà là Thiên Chúa hằng sống, cảm nhận và yêu thương.
.
Lm. Nguyễn Thái
Trong nỗ lực làm sạch sẽ thành phố Los Angeles chuẩn bị cho ngày thế vận hội Olympic Games, và để gây ấn tượng tốt đẹp cho thành phố lớn nhất nhì thế giới này, vấn đề được đặt ra là phải giải quyết thế nào đối với những người vô gia cư nghề nghiệp và những kẻ say sưa đi lang thang trong thành phố. Những người này không thể bị đuổi ra khỏi thành phố hay nhốt vào những trại tập trung. Có một hãng sản xuất quần áo địa phương đã có sáng kiến tặng 350 bộ tuxedo của đàn ông và áo dạ tiệc của phụ nữ để họ ăn mặc ngoài đường phố trong suốt 2 tuần lễ. Với biện pháp này, người ta hy vọng sẽ giấu được một góc cạnh xấu xa dơ bẩn của đời sống trong thành phố.
Đây chính là sự giả hình mà Chúa Giêsu nói đến trong bài Phúc Âm hôm nay, Mc 7: 1-8; 14-15; 21-23. Ngài đã nói với những người Biệt Phái và Luật sĩ, những chuyên viên về luật pháp, những người đã tố cáo các môn đệ của Chúa Giêsu là không giữ những phong tục, nghi thức bề ngoài: “Hỡi bọn giả hình, Isaia thật đã nói tiên tri rất chí lý về các ngươi, như lời chép rằng: ‘Dân này kính Ta ngoài môi miệng, nhưng lòng chúng ở xa ta. Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người’” (Is 7: 6-7).
Trong cuốn “Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh” do Giáo Hoàng Học Viện Thánh Piô X dịch thuật đã định nghĩa sự giả hình dựa trên hai yếu tố: sự câu nệ hình thức và cứng lòng.
William Barclay đã chia sẻ một câu chuyện liên quan đến vấn đề câu nệ hình thức như sau: Một vị Rabbi Do Thái cao niên bị giam trong một nhà tù của người La Mã. Mỗi ngày ông đều nhận một khẩu phần ăn uống. Sau một thời gian, vị rabbi trở nên yếu ớt, gầy còm xuống ký rõ rệt. Những nhân viên cai tù thắc mắc muốn biết ông có bệnh gì không, nên cho mời một bác sĩ đến khám. Bác sĩ chuẩn đoán là bệnh nhân bị mất nước trầm trọng. Những nhân viên coi tù không thể hiểu được tại sao lại có thể xảy ra như vậy được. Họ tin là phần nước uống của vị rabbi đã được cung cấp đầy đủ. Những người canh gác bèn được lệnh phải canh chừng kỹ lưỡng xem vị rabbi đã làm gì với phần nước của ông; khi đó thắc mắc mới được giải tỏa: Những người canh gác đã trông thấy vị rabbi cử hành nghi thức tôn giáo rửa tay trước khi cầu nguyện và ăn. Do đó, ông ta còn rất ít nước để uống.
Nhiều người cũng lầm lẫn nghi thức, phong tục, và tập quán bề ngoài với sự thánh thiện (2 Tm 3:5). Chúng ta có một loạt danh sách các kinh phải đọc, những việc phải làm: lần hạt Mân Côi, đọc kinh Truyền Tin, tuần Chín Ngày, đeo Thánh Giá, đi Chặng Đàng Thánh Giá v.v… Chúng ta sẽ sai lầm nếu nghĩ rằng chỉ có cách duy nhất để làm đẹp lòng Thiên Chúa là giữ những nghi thức này; hay là sẽ phạm tội nặng nếu không tuân giữ. Nhưng Chúa Giêsu đã nói với chúng ta rằng sự thờ phượng Thiên Chúa đích thực chính là sự liên hệ yêu thương và mật thiết với Ngài (Ga 4:23). Sự liên hệ này mang lại cho chúng ta niềm vui và sự sẵn sàng hy sinh phục vụ Ngài.
Qua những lời của tiên tri Isaia, Chúa Giêsu đã tố cáo sự giả hình trong tất cả mọi hình thức vì người giả hình chỉ sống bề ngoài mà không thực lòng (Rm 12:9). Họ giống như những người vô gia cư ăn mặc tuxedo đi lang thang trong thành phố Los Angeles. Sự giả hình không gì khác hơn là một sự dối trá trong hành động. Họ đánh lừa người khác bằng những thái độ tôn giáo bề ngoài để chiếm được lòng quý mến.
Những người giả hình là những người “tâm ngôn bất nhất”. Họ không thực hành điều họ giảng dạy. Họ tuyên xưng thờ kính Thiên Chúa, nhưng chỉ ngoài môi miệng. Họ dạy và giải thích lề luật, nhưng không hiểu tinh thần của luật. Trong nhiều trường hợp, chính họ cũng không tin những điều họ nói và làm. Họ thường giả bộ tốt lành với những người khác. Trong ý nghĩa này một người giả hình thường hành động để đề cao chính họ. Những việc ăn chay, cầu nguyện, bố thí… được họ đánh tráo nhằm đề cao họ (Mt 6:2,5,16). Họ không bao giờ nhìn thấy điều tốt đẹp nơi những người khác, nhưng luôn luôn bới móc tìm kiếm những khuyết điểm để phê bình chỉ trích. Và sau cùng mọi sự sẽ tập trung vào chính họ (Mt 23:1-36).
Đức Ông Arthur Tonne kể câu chuyện sau đây về một linh mục đã kêu gọi sự giúp đỡ khẩn trương vào giờ sáng sớm. Sau khi dâng Thánh Lễ, từ nhà thờ trở về nhà xứ, ngài bị một tên ăn cướp dí dao đằng sau lưng: “Tiền hay mất mạng!” Khi nhìn thấy cái cổ trắng của chiếc áo đen, nó ra lệnh cho ngài phải vứt cái ví xuống đất. Sau đó, vị linh mục cảm thấy nhẹ nhõm lấy một điếu thuốc lá ra hút và mời tên cướp một điếu. Nó bèn từ chối mà rằng: “Cám ơn cha. Vì là Mùa Chay nên tôi tạm bỏ hút thuốc.”
“Sự câu nệ hình thức thì có thể sửa đổi được, nhưng sự giả hình thì gần như sự ‘cứng lòng’… Các ‘mồ mả tô vôi.’ Họ muốn lường gạt người khác. Họ tưởng mình công chính” (Lc 18:9; 20:20) (Điển Ngữ Thần Học Thánh Kinh).
Thế kỷ vừa qua, Đức Giáo Hoàng Piô XII (1939 – 1958) đã cảnh giác loài người cứng lòng, đang huênh hoang về nền khoa học kỹ thuật của mình: “Tội của thế kỷ này là tội đánh mất cảm giác về tội lỗi.” Đức Gioan Phaolô II đã lớn tiếng nói rằng: “Chủ nghĩa trần tục hóa -secularism – chủ trương không có Thiên Chúa cũng không có tội lỗi. Tâm lý học chống lại những cảm giác tội lỗi. Xã hội học quy trách tất cả trách nhiệm cho xã hội và nghĩ mình là nạn nhân. Nhân chủng học đổ lỗi cho môi trường. Cả những nhóm thần học mới lên diễn đàn giải thích rằng không có tội.”
Không những thời đại văn minh khoa học ngày nay đã đánh mất cảm giác về tội, mà còn đề cao một số tội lên hàng nhân đức. Tội tà dâm được coi là sinh hoạt tính dục trước hôn nhân. Phá thai được coi như quyền của phụ nữ. Sự thụ thai được coi như một con bệnh có thể điều trị được. Trong cuốn “Final Exit”, cuốn sách được báo The New York Times coi là sách bán chạy nhất, xuất bản lần đầu 40 ngàn cuốn, bán sạch trong một thời gian rất ngắn, Derek Humphry đã hướng dẫn những cách thức để một người có thể tự tử bằng 18 cách khác nhau. Ông Humphry quan niệm rằng tự tử là một hành động cao quý, có thể chấp nhận được!
Những người chủ trương trên là ai? Họ có thể là những người mang danh Kitô hữu, nhưng chẳng bao giờ biết đến bản chất của Kitô giáo là gì. Họ được rửa tội nhưng chẳng bao giờ giữ đạo. Thế nhưng hằng năm đến ngày Lễ Tro cả trăm ngàn người lũ lượt đứng sắp hàng để lãnh tro trên trán. Họ là những thành phần trí thức như bác sĩ, y tá, các giáo sư đại học, các thương gia, kỹ sư, chuyên viên v.v… trong các hãng lớn đang bôn ba với tiền bạc, đứng sắp hàng dài ngoài phi trường chờ đợi lãnh tro. Xức tro là gì mà những con người văn minh trí thức ngày nay lại biến nó trở thành như bản chất thiết yếu của tôn giáo vậy? Họ nghĩ rằng không cần phải giữ điều gì cả, chỉ cần lãnh tro một năm một lần, hay đến nhà thờ vào dịp lễ Giáng Sinh hay Phục Sinh. Đối với họ thế là đủ, thế là tròn việc giữ đạo!
Một người không phải là Kitô hữu, đã biết tự vấn lương tâm mình bằng một danh sách của 7 trọng tội. Đó là sự giàu có mà không làm việc, hưởng khoái lạc mà không có lương tâm, làm thương mại mà không có luân lý, khoa học mà không có sự khiêm tốn, thờ phượng mà không có hy sinh, có kiến thức mà không có lễ phép, làm chính trị mà không có nguyên tắc. Chúng ta đã phạm những tội nào? Tôn giáo không phải chỉ là những nghi lễ. Đời sống tinh thần không phải chỉ là giữ những luật lệ. Và những hình thức bề ngoài chưa hẳn là sự thánh thiện (Mt 7:15; 24:4).
Có hai vị tu sĩ nọ, một trẻ và một già, đang thả bộ xuống phố vào một ngày mưa tầm tã. Nước mưa ngập lụt phố phường. Họ gặp một cô gái trẻ đẹp ăn mặc tơ lụa gấm vóc. Cô muốn băng qua khúc đường lầy lội để về nhà phía bên kia đường. Vị tu sĩ trẻ bèn trạnh lòng thương: “Này cô, tôi giúp cô một tay nhé!” Với cánh tay khỏe mạnh của mình, người tu sĩ trẻ đã ẵm cô gái trẻ băng ngang khúc đường lầy lội. Rồi hai vị tu sĩ bước đi trong sự “thinh lặng đáng sợ” cho đến khi họ trở về đến tu viện. Vị tu sĩ cao niên không thể nào chịu đựng nổi bèn lên tiếng: “Các nhà tu hành không nên gần gũi những phụ nữ trẻ, nhất là những người đẹp như cô gái này! Tại sao thầy lại làm như vậy?” Thầy dòng trẻ trả lời: “Thưa thầy, em đã bỏ cô gái ở dưới phố rồi, nhưng thầy, thầy lại mang cô ấy về đến nhà dòng này.”
Chúng ta thấy có hai khuynh hướng trái nghịch nhau trong đời sống thiêng liêng Kitô hữu, tạm gọi là THOÁT TỤC và VÀO ĐỜI. Tinh thần “thoát tục” hay xa tránh cõi trần nhấn mạnh vào lòng đạo đức qua việc tuân giữ những luật lệ tôn giáo nghiêm nhặt, và tránh xa khỏi những người được coi là tội lỗi hoặc không đứng đắn vì sợ sẽ bị lây nhiễm.
Còn tinh thần “vào đời” lại nhấn mạnh đến sự liên đới chặt chẽ với những người đáng thương, những người thường bị coi như là xấu xa trần tục. Với tinh thần “vào đời”, nhập thế, người tín hữu không xa tránh, nhưng dang rộng cánh tay tới những người đang cần giúp đỡ.
Đời sống thiêng liêng của người Kitô hữu cốt ở sự quân bình, và dung hòa hai khuynh hướng này như Thánh Giacôbê Tông Đồ đã nhắn nhủ trong bài đọc II: “Lòng đạo đức trong sạch và tinh tuyền đối với Thiên Chúa Cha là thăm viếng cô nhi quả phụ trong cơn quẫn bách, và giữ mình khỏi mọi ô uế của thế gian” (Gc 1:27).
.
Lm. Đinh Lập Liễm
Thèm Lòng Chứ Ai Thèm Thịt.
Trong Cựu Ước, bộ luật có tới 613 khoản, nhưng những khoản luật đó chỉ nói trên nguyên tắc, còn trong áp dụng thực hành người ta còn thêm vào những lời cắt nghĩa mà ta gọi là truyền thống hay truyền khẩu. Như vậy có hai thứ luật.
Luật quan trọng hơn là Lề luật thành văn, căn cứ trên sách Torah (Ngũ Kinh), nghĩa là 5 cuốn sách đầu tiên của Cựu Ước, đôi khi còn gọi là luật Maisen. Thật ra, Ngũ kinh hàm chứa một ít qui tắc và chỉ dẫn chi tiết, nhưng về các vấn đề đạo đức, những gì được nêu lên chỉ là một loạt nguyên tắc mà người ta phải tự giải nghĩa và ứng dụng cho riêng mình. Trong một thời gian dài, dân Do Thái bằng lòng với những “kiểu mẫu” này. Họ áp dụng vào đời sống vì thấy chúng thích hợp.
Tuy nhiên, đến thế kỷ thứ 5 trước công nguyên, có một nhóm chuyên nghiên cứu Lề luật, dưới biệt hiệu là Luật sĩ (Kinh sư). Nhóm người này thấy những điều luật tổng quát trong bộ luật ấy quá mơ hồ, thiếu tính rõ ràng, cần phải được soạn thảo lại cho rõ ràng hơn, với nhiều chi tiết hơn. Do đó, họ muốn triển khai, phóng đại, phân tích các nguyên tắc lớn ấy biến chúng thành hàng ngàn lề luật, qui tắc nhỏ nhặt, để điều khiển từng hành động, từng hoàn cảnh của đời sống. Chúng vẫn được gọi là Luật truyền khẩu, đây chính là cái gọi là tương truyền của người xưa.
Trong khoảng thời gian này, trong dân chúng Do Thái, có rất nhiều người muốn bắt chước các tư tế của họ về sự thánh thiện bề ngoài có tính cách nghi thức. Chẳng hạn theo lề luật thành văn, mọi tư tế đều phải rửa tay khi vào nơi thánh trong đền thờ. Mục đích của luật này là tẩy rửa đi tất cả những gì là ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa hơn. Dần dần, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Và bằng những suy nghĩ tương tự như thế, họ cũng rửa tay trước khi dùng bữa.
Có nhiều luật lệ rõ ràng và nghiêm nhặt về việc rửa tay. Trước khi dùng bữa và giữa hai món ăn, người ta phải rửa tay, và phải rửa theo một nghi thức nhất định. Đây là vấn đề không phải chỉ là vệ sinh mà là tập tục tôn giáo về “sạch” và “dơ”, được ghi thành luật của Maisen trong sách Lêvi, được thêm vào nhiều chi tiết và qui định rõ ràng qua truyền thống.
Vào thời Đức Giêsu, dân Do Thái tuân giữ những lệnh truyền khẩu này cũng tỉ mỉ và thành tín chẳng khác nào lề luật thành văn của Ngũ Kinh. Ý tưởng hàm chứa đàng sau việc tuân giữ này quả thực cao đẹp, bởi vì nó nhằm mục đích làm cho tôn giáo thấm nhập vào mỗi hành vi của cuộc sống, nhưng trong quá trình thực thi luật lệ này, một điều bi đát đã xẩy ra vì tôn giáo đã dần dần thoái hoá thành một hoạt động chỉ đơn thuần là chu toàn những nghi thức bên ngoài: tuân giữ những nghi thức này thì được kể là làm đẹp lòng Thiên Chúa, còn không giữ chúng đồng nghĩa với phạm tội. Nói tóm lại, tuân giữ những nghi thức bên ngoài này được đồng hóa, được đánh giá là đạo đức, là biết phụng sự Chúa.
Có một thầy tiến sĩ luật Do Thái bị đi tù ở Rôma. Ông chỉ được ăn uống tối thiểu, nhằm mục đích kéo dài cuộc sống cho qua ngày. Thời gian trôi qua, thầy luật sĩ yếu dần. Cuối cùng, người ta phải mời một y sĩ đến khám. Y sĩ bảo rằng cơ thể ông bị thiếu nước. Các sĩ quan cai ngục không hiểu nổi tại sao ông ta lại có thể thiếu nước. Bởi vì khẩu phần nước mỗi ngày tuy là tối thiểu, nhưng vẫn tương đối đủ cho một cơ thể. Thế là đám lính gác liền chú ý quan sát thầy luật sĩ một cách kỹ lưỡng hơn, xem ông ta làm gì với số nước ấy. Cuối cùng, người ta khám phá ra: Thầy luật sĩ ấy đã sử dụng phần lớn số nước để rửa tay theo nghi thức tôn giáo trước khi cầu nguyện và ăn uống. Như thế ông ta chỉ còn lại rất ít nước để uống.
Thực ra, việc rửa tay không phải chỉ nhằm việc vệ sinh thân thể nhưng là việc vệ sinh tâm hồn. Rửa tay là có ý rửa cho linh hồn mình được sạch mọi vết nhơ tội lỗi. Trong Thánh Lễ, khi chủ tế rửa tay với chút nước thì đọc: ”Lạy Chúa, xin rửa con sạch hết lỗi lầm, tội con phạm xin Ngài thanh tẩy” (Ps 51:3-4). Nhưng tiếc thay, nhiều người Do Thái chỉ chú trọng rửa tay là rửa tay theo truyền thống mà không để ý đến việc thanh tẩy tâm hồn mình. Vì thế, nhà thần học William Barclay nói: ”Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tủy mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ một cách chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác.”
Chúng ta phải nể phục sự nghiêm túc giữ luật của các luật sĩ Do Thái: họ giữ luật Maisen cẩn thận từng chi tiết, cả những chi tiết nhỏ nhặt nhất. Ngoài những điều khoản của Lề Luật, họ còn giữ cả những chi tiết nhỏ mọn trong truyền thống Do Thái Giáo.
Nhưng Đức Giêsu đã cho họ thấy rằng sự thánh thiện không hệ tại việc giữ một cách chi tiết như thế, hay giữ theo hình thức bên ngoài, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều (Mk 7:17-23). Cái đó ở trong nội tâm chứ không phải ở bên ngoài.
Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những chi tiết hay những hình thức bên ngoài của lề luật, thì lại thường coi nhẹ cái cốt tủy của lề luật. Đức Giêsu đã tố giác điều ấy: ”Khốn cho các ngươi, hỡi các luật sĩ và biệt phái giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong lề luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23,23). Như vậy, theo Đức Giêsu, ba điều quan trọng nhất trong lề luật, tinh thần của lề luật, cũng là cốt tủy của sự thánh thiện, chính là chân lý, công lý và tình thương.
Đối với lòng nhiệt thành giả tạo có vẻ quá hình thức này, Đức Giêsu trách cứ họ hai điều: một là giả hình, hai là làm đảo lộn giá trị. Họ giả hình vì cũng như thời tiên tri Isaia, người ta không nghĩ đến sự hối cải trong các tâm hồn, mà chỉ bận tâm đến việc thực hiện mấy việc bên ngoài: ”Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người” (Is 29,13). Hơn nữa, Thiên Chúa là chân lý tuyệt đối, có nghĩa là sự gian dối không có chỗ nơi Ngài, không được Ngài ưa thích và ủng hộ. Trái lại, Thiên Chúa lên án cách sống giả hình, sai lạc với sự thật. Thiên Chúa không khinh chê người yếu đuối, tội lỗi, nhưng khinh chê những người đạo đức giả (Lc 16:15). Thiên Chúa yêu thương, tha thứ cho những yếu đuối, tội lỗi, nhưng Thiên Chúa không thể chấp nhận kẻ sống giả hình.
Nếu chỉ có những hành động bên ngoài mà không có tinh thần cốt tủy bên trong, thì việc giữ luật đó sẽ ít giá trị trước mặt Chúa. Còn những người luật Chúa thì không giữ, lại chỉ lo giữ những tập tục tôn giáo truyền thống, chẳng hạn một số thói quen mà ta gọi là “việc đạo đức”, những hình thức do con người sáng tạo…thì việc giữ những tập tục ấy lại càng ít giá trị hơn.
Tuần báo Newsweek số ra ngày 10/08/1993 đã ghi lại một sáng kiến mới lạ ở Nhật, đó là “Sư Máy.” Vị Sư Máy này, mới nhìn qua, không khác gì vị tu hành thực thụ: đầu cúi xuống, mắt khép lại, môi và các cơ bắp trên gương mặt cử động theo nhịp cầu kinh ghi sẵn, một tay cầm chuỗi, một tay thì gõ mõ, và có thể thuộc toàn bộ kinh kệ của mười giáo phái Phật Giáo khác nhau tại Nhật. Như tác giả bài báo ghi nhận, những cái máy làm được mọi sự, duy chỉ một điều chúng không thể làm được, đó là chúng không biết yêu thương (Mỗi ngày một tin vui).
Họ chỉ giữ tập tục của tiền nhân là những tập tục của con người đặt ra. Các tiền nhân của người Do Thái đặt ra nhiều tập tục tỉ mỉ mà các biệt phái và luật sĩ tuân giữ rất nhiệm nhặt. Biệt phái là những người Do Thái rất sùng đạo, nhưng sùng đạo cách giả hình, vụ hình thức, vì họ chỉ chú trọng đến những hình thức bên ngoài như nhiệm nhặt gìn giữ các tục lệ của tiền nhân, chuộng hình thức bên ngoài mà không có tinh thần bên trong.
Chúa khiển trách họ: ”Nó sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người, vì các ngươi bỏ qua các giới răn của Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người” (Mk 7:6-9). Chúa khiển trách họ là người làm đảo lộn giá trị vì họ chỉ chú ý đến việc tuân giữ các tập tục của tiền nhân mà lại bỏ qua những giới răn căn bản của Chúa. Họ coi trọng việc thuộc về con người hơn việc thuộc về Thiên Chúa.
Nhân dịp các luật sĩ chê trách các Tông Đồ không rửa tay khi dùng bữa, Đức Giêsu muốn dạy cho họ một bài học: cái xấu xa không phải từ ngoài mà vào mà ở trong mà ra. Ngài nói: ”Từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mk 7:20-23). Do đó, chính cõi lòng mới là nguồn gốc của việc lành hay việc dữ.
Theo lời Chúa dạy, chúng ta thấy yếu tố quan trọng để xác định giá trị đạo đức hay luân lý là trạng thái nội tâm chứ không phải những việc làm bề ngoài. Chính ý hướng ở bên trong là yếu tố quyết định việc làm bên ngoài có giá trị hay không. Nhiều người có những hành động rất tốt nhưng lại làm vì những động lực ích kỷ hay gian ác, thì hành động ấy trở nên xấu. Chẳng hạn những hành động giả nhân giả nghĩa nhằm được một lợi lộc nào đó, như bố thí thật nhiều để được khen, để có tiếng là đạo đức hầu lừa đảo người khác; hay làm việc tích cực chỉ nhằm để được lên chức, để nắm quyền hành nhằm thao túng lũng đoạn tập thể. Ngược lại, có những người “tình ngay mà lý gian”, hành động thì có vẻ như xấu, bị kết án, nhưng lại được Thiên Chúa chúc lành.
Lạy Chúa, xin cho chúng con hiểu rằng sự thánh thiện hệ tại tình trạng tốt đẹp tâm hồn hơn là tại những hành động bên ngoài. Xin cho chúng con một tâm hồn ngay thẳng, luôn thành thật, luôn tôn trọng và bênh vực công lý, luôn yêu thương mọi người. Tâm tốt lành ấy mới chính là điều cốt yếu làm nên sự công chính thánh thiện của chúng con, hơn là giữ luật lệ một cách chi tiết hay việc làm cho thật nhiều (JKN).
.
SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT 22 TN_B
Jorathe Nắng
Tin Mừng Máccô cho chúng ta thấy Đức Giêsu là người thầy luôn bênh vực môn đệ của mình khi các ông không làm theo những gì Luật Môsê quy định. Ngài đã làm như thế không phải một lần, nhưng rất nhiều lần. Vì thế mâu thuẫn giữa Ngài và các Biệt Phái, Kinh Sư Do Thái ngày càng căng thẳng.
Các ông Biệt Phái và Kinh Sư là giai cấp lãnh đạo, được trọng vọng trong xã hội tôn giáo Do Thái, và tất nhiên họ phải bảo vệ Luật Môsê một cách triệt để, nếu không nói là cực đoan, vì chỉ có Luật Môsê mới đảm bảo hữu hiệu vị thế và lợi thế của họ. Chính vì thế, bất cứ ai vi phạm Luật Môsê đều bị họ lên án, không kể gì Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai.
Thực ra Đức Giêsu không chủ trương, cũng không kích động các tông đồ chống lại Luật Môsê và Truyền Thống của cha ông; trái lại Ngài công nhận và tuân giữ. Nhưng Ngài muốn đặt lại cho xã hội tôn giáo lúc bấy giờ, cũng như cho các ông Biệt Phái, Kinh Sư Do Thái ý nghiã, mục đích của Truyền Thống, Lề Luật :
1. Truyền Thống, Lề Luật phải phục vụ hạnh phúc của con người:
Điểm thiết yếu Đức Giêsu đặt ra cho các ông Biệt Phái, Luật Sĩ là mục đích của Truyền Thống, Lề Luật. Nếu Truyền Thống, Lề Luật không đem lại hạnh phúc cho con người, không làm cho con người được sống xứng danh con người, không tạo điều kiện để nhân phẩm được bảo vệ và phát triển, không xây dựng đời sống con người ngày càng trở nên tốt đẹp, thoải mái hơn, nhất là không phát huy tình huynh đệ, tương trợ giữa người với người thì Truyền Thống, Lề Luật ấy không đáng được tồn tại, gìn giữ.
Có rất nhiều Truyền Thống, Lề Luật không góp phần xây dựng đời sống con người, không tạo điều kiện cho cuộc đời đáng sống hơn, nhưng nghiền nát, xóa bỏ con người và làm cuộc sống trở nên ngột ngạt, nặng nề. Dưới áp lực này, con người và hạnh phúc của con người không còn là mục tiêu phục vụ của Truyền Thống, nhưng Truyền Thống là ông chủ khắc nghiệt của con người, mà mọi ý muốn của ông chủ khó tính phải được đầy tớ là con người thoả mãn, đáp ứng chính xác, trọn vẹn, từng chi tiết. Cuộc sống làm người và hạnh phúc của xã hội loài người không còn là đích điểm của Lề Luật, nhưng Lề Luật truy sát, khống chế xã hội và biến những con người sống trong xã hội đó thành những tù nhân bất hạnh.
Chủ nghiã vị luật, nghiã là chủ nghiã thượng tôn Lề Luật, thần tượng Lề Luật, coi Lề Luật là chân lý tuyệt đối, uy lực tuyệt đối, phán quyết tuyệt đối và cho Lề Luật quyền sinh sát trên con người là chủ nghiã cực kỳ phi nhân, vì hoàn toàn loại bỏ con người, phủ nhận chỗ đứng không thể thay thế, hoán nhượng của con người, và sẵn sàng nhẫn tâm khước từ hạnh phúc của con người để mù quáng phục vụ một hệ thống Lề Luật, một cơ chế Truyền Thống lạnh lùng, vô cảm, xa rời nhu cầu và khắc khoải đích thực của con người.
Con người ở trong cơ cấu vị luật, cơ chế suy tôn Truyền Thống ấy sẽ chỉ còn là những thân phận nô lệ của Lề Luật, tôi đòi của Truyền Thống, bởi chủ nghiã và khuynh hướng vị luật cực đoan, mù quáng này thường nhân danh con người để củng cố Lề Luật, Truyền Thống, khi con người vừa được gọi tên, tuyên dương là công chính, đạo đức theo tiêu chuẩn đánh giá của Truyền Thống, Lề Luật, vừa bị Truyền Thống, Lề Luật phủ nhận, quật ngã, chà đạp.
Đức Giêsu chống lại chủ nghiã vị luật này, vì con người bị xúc phạm, nhân phẩm bị tổn thương, hạnh phúc bị chối bỏ. Với Ngài, con người là quan trọng hơn hết dưới mắt Thiên Chúa, và Lề Luật, Truyền Thống, tuy cần thiết nhưng phải nhắm đến hạnh phúc của con người:
Sau khi chữa lành một người bất toại đã ba mươi tám năm bên hồ nước tại Bétdatha, “hôm đó là ngày sabát, người Do Thái mới nói với kẻ được khỏi bệnh” : “Hôm nay la ngày sabát, anh không được phép vác chõng!” Nhưng anh đáp: “Chính người chữa tôi khỏi bệnh đã nói với tôi : Anh hãy vác chõng mà đi”!.. “Do đó, người Do Thái chống đối Đức Giêsu, vì Người hay chữa bệnh ngày sabát” (Ga 5, 9-10.16).
Luật Môsê quy định cả đến vác chõng về nhà, sau khi được chữa lành cũng không được làm trong ngày sabát. Tinh thần vị luật quá đáng khi nghiêm cấm làm việc trong ngày sabát đã bị Đức Giêsu chống lại khi Ngài qủa quyết : “Cho đến nay, Cha tôi vẫn làm việc, thì tôi cũng làm việc” (Ga 5,17) trước đám đông người Do Thái đang phẫn nộ lên án Ngài vì Ngài đã chữa bệnh này sabát, trái với Lề Luật.
Đức Giêsu cũng cho những người Do Thái thời đó hiểu rằng : việc tốt lành, thiện hảo là điều Thiên Chúa mong ước con người thực hiện cho nhau, nên Luật ngày sabát không thể ngăn cấm những việc làm bác ái, tương trợ , khi Ngài đặt cho họ câu hỏi: “Ngày sabát, được phép làm điều lành hay điều dữ, cứu mạng người hay giết đi”? (Mc 3, 4), khi Ngài chữa người bị bại tay trong ngày sabát.
Nhưng rõ nét hơn là khi Đức Giêsu và các môn đệ đi băng qua một cánh đồng lúa.
“Dọc đường, các môn đệ thấy đói và bắt đầu bứt lúa ăn. Người Pharisiêu thấy vậy, mới nói với Đức Giêsu: Ông coi, các môn đệ ông làm điều không được phép làm trong ngày sabát!” (Mt 12,1-2). Sau khi trưng dẫn cho người Pharisiêu câu chuyện vua Đavít đã cho phép các thuộc hạ vì đói được ăn bánh đã cung tiến Thiên Chúa, bánh mà chỉ các tư tế mới được ăn và là điều Lề Luật nghiêm cấm, Đức Giêsu đã khẳng định : “Con người làm chủ ngày sabát” (Mt 12,8), chứ không phải ngày sabát làm chủ con người. Điều đó có nghiã Lề Luật được làm nên để phục vụ con người, để con người được sống trong trật tự, an bình, hạnh phúc, chứ không để khống chế, áp đảo, giam hãm, hủy diệt con người.
Tóm lại, Đức Giêsu không chủ trương hủy bỏ Lề Luật, nhưng Lề Luật, Truyền Thống chỉ có giá trị khi phục vụ con người, giúp con người sống tốt, sống đẹp, sống hạnh phúc. Lề Luật là phương tiện để con người trưởng thành trong đức ái, huynh đệ. Lề Luật cần cho xã hội, với điều kiện Lề Luật không vi phạm, làm tổn thuơng con người trong xã hội ấy. Vì thế, Lề Luật phải luôn giữ được tính nhân văn, để luôn luôn có thể khéo léo uyển chuyển trong những trường hợp cần thiết hầu giữ được ý nghiã, mục đích của Lề Luật là phục vụ con người, thăng tiến đời sống con người và mưu cầu hạnh phúc đích thực cho con người.
2. Tinh thần vị Truyền Thống, Lề Luật có thể làm phân liệt nhân cách :
Khi dùng lời của ngôn sứ Isaia để nói với những người Pharisiêu: “Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dậy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mc 7,6-7) , Đức Giêsu đã nói lên nguy cơ phân liệt nhân cách, nói cách khác,nguy cơ giả hình ngay tự bản thân của người sống tinh thần vị luật cách mù quáng, cực đoan.
Thực vậy, một khi quá đóng khung vào hệ thống rườm rà, trói buộc và mang tính trình diễn hời hợt bên ngoài của Truyền Thống, Lề Luật, người ta sẽ dễ dàng và mau chóng bỏ quên những gì chân thực từ trái tim, những sự thật đáng trân trọng của tâm hồn, những rung cảm trung thực của tấm lòng, những tốt đẹp khó tìm thấy của tim óc. Bị cuốn hút vào chủ nghiã duy Lề Luật, người ta sẽ chỉ chăm chú soi từng nét chữ trong Lề Luật, cẩn thận giữ từng dấu phẩy của quy tắc, nghiêm khắc với từng chi tiết vụn vặt, cỏn con của Truyền Thống, mà quên đi chính con người của mình và anh em. Tình trạng phân liệt giữa bên ngoài và bên trong, giữa hành động và ý nghĩ, giữa đòi hỏi của Lề Luật và thao thức vi tha thầm kín làm nên mâu thuẫn nội tại rất căng thẳng. Để làm dịu căng thẳng của mâu thuẫn nội tại này, người ta bắt buộc phải giả dối, sống nhiều mặt, và đó là hiện tượng giả hình mà Đức Giêsu đã nhiều lần lên án (x. Mt 23).
Cũng vì giả hình mà môi miệng bai bải yêu mến Chúa, lải nhải các điều răn, nhưng tâm hồn thì trống vắng, trái tim thì lạnh nhạt.Cũng vì giả hình mà bên ngoài thì cung kính lễ nghi, nhưng bên trong thì thờ ơ, chai đá. Cũng vì giả hình mà chu chắm tuân giữ truyền thống, nhưng lại “khéo coi thường điều răn của Thiên Chúa” (Mc 7,9).Chính Đức Giêsu đã công khai lên tiếng : “Như thế là các ông lấy truyền thống các ông đã truyền lại cho nhau mà hủy bỏ lờI Thiên Chúa” (Mc 7, 13).
Thực vậy, Đức Giêsu đã mặc khải cho chúng ta: điều làm chúng ta bất hạnh, và ngăn cản chúng ta hiến thân cho nhau, chính là chúng ta sống giả dối và giả hình là thứ giả dối đã đi vào chiều sâu của bản ngã. Chính Đức Giêsu đã muốn xua đuổi vi trùng giả hình này ra khỏi đời sống chúng ta khi Ngài phân tích sự thật bên trong và bên ngoài của con người:
– Bên ngoài là vùng của những gì được biểu lộ, trình diễn; cũng là vùng của mặt nạ, những mặt nạ mà chúng ta muốn đeo cho mình, những hình ảnh mà chúng ta mơ ước và tự phóng các hình ảnh lý tưởng ấy qua lời nói, việc làm của chúng ta.
– Bên trong là vùng của sự thật, vùng của chính hiệu, chính gốc, vùng ở đó con người thật của chúng ta được xuất hiện “nguyên con” trước mặt Thiên Chúa, là nơi hạt giống Lời Thiên Chúa được gieo vãi. Bên trong còn là nơi của những quyết định, chọn lựa. Nhưng bên trong cũng là sào huyệt của ganh ghét, hận thù, ích kỷ, tham vọng thống trị, ham muốn sở hữu : “Vì từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác tang, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế” (Mc 7, 20-23).
Vâng, mâu thuẫn giữa bên ngoài và bên trong, giữa sự thật chúng ta là và những điều chúng ta mơ ước, giữa những gì chúng ta có và những điều chúng ta khát khao và tự khoác lên mình là sự thật không thể chối cãi.Vì thế, giả hình là cám dỗ nặng nề và liên lỷ của mỗi người, vì ai cũng cần một dáng vẻ ăn khách, một nhân thân hấp dẫn, một quá khứ thành tích, một hiện tại vinh quang, một tương lai hứa hẹn để sống được với đời nhiều tranh giành, đấu đá. Chúng ta cũng dễ rơi vào giả hình, vì thường xuyên chúng ta cũng cần giả hình với chính mình, khi mình chẳng có gì để có thể tự tuyên dương, tự biện minh, tự bào chữa. Đó là thảm cảnh rất bi đát của đời sống con người, mà chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể giải phóng chúng ta ra khỏi.
Thiên Chúa giải phóng chúng ta khỏi tình trạng phân liệt vì giả hình, khi chúng ta nhận ra: sẽ không có sự thật toàn diện, bao lâu con người không lắng nghe Thiên Chúa hằng sống và chân thực; sẽ không có tình yêu đích thực, bao lâu tình yêu của chúng ta không gắn kết vào chính Chúa là nguồn Tình Yêu; sẽ không có đời sống chính hiệu, nguyên gốc Tự Do, bao lâu chúng ta không để Thiên Chúa hành động và dẫn dắt định mệnh đời chúng ta. Được dựng nên cho Thiên Chúa, chúng ta không thể hạnh phúc nếu không thuộc về Ngài, vì chỉ một mình Thiên Chúa mới làm cho chúng ta thực sự tự do, khi giao hoà trong chúng ta nhũng gì bên ngoài với những gì bên trong, những gì được trình ra bề ngoài và những gì được giữ kín ở trong.Chỉ một mình Thiên Chúa mới có thể lấy khỏi chúng ta những mặt nạ mà không làm chúng ta thất vọng; cũng chỉ một mình Ngài mới có thể chữa lành căn bệnh ảo tưởng, giả hình trong chúng ta và làm cho chúng ta trở nên những tạo vật mới có đủ khả năng và nhiệt huyết để yêu mến. Chính Ngài đã vạch cho chúng ta con đường, tuy hẹp, nhưng là con đường chân thật dẫn đến Hạnh Phúc thật (x. Mt 5,1-12).
Để kết luận, chúng ta cần lưu ý sự cần thiết của Truyền Thống, Lề Luật, nhưng đồng thời cũng cẩn trọng trước cám dỗ của chủ nghiã vị Truyền Thống, vị Lề Luật, nghiã là chỉ biết Lề Luật, chỉ tôn thờ Lề Luật, mà không quan tâm đến con người và ích lợi nhân sinh cũng như thiêng liêng của con người. Vì Lề Luật có thể trở thành nguyên nhân của tình trạng giả hình, phân liệt nhân cách, nhất là miệng ca tụng Chúa, nhưng lòng thì xa Chúa ngàn dặm.
Xin Chúa cho chúng ta ý thức chúng ta được gọi vào đời để “yêu mến và phụng sự Chúa trong mọi người”, nên con người trong tất cả chọn lựa phải được yêu mến vì chúng ta yêu mến Thiên Chúa .Thế nên, cho dù là Lề Luật nào đi nữa, chúng ta cũng không thể bỏ quên hay làm tổn thương con người, là hình ảnh sống động của Thiên Chúa yêu thương.
.
Lm. Giuse Đinh Tất Quý
Ðoạn Tin Mừng hôm nay khởi đi từ một câu chuyện nhỏ, chuyện những người Biệt Phái và luật sĩ thắc mắc về việc các môn đệ của Chúa không rửa tay theo tập tục của tiền nhân trước khi ăn. Qua câu trả lời, Chúa Giêsu đã muốn cho mọi người hiểu rằng cuộc sống có những việc còn quan trọng hơn những việc có tính cách tập tục và bên ngoài đó. Và cũng nhân câu chuyện này Chúa còn nói thêm về việc phải sống như thế nào mới là cuộc sống đẹp lòng Chúa và mang lại cho cuộc sống đó nhiều ý nghĩa hơn. Chúng ta tự hỏi Chúa muốn cuộc sống phải như thế nào?
I. Điều Chúa muốn chắc chắn không phải là cuộc sống sống giả tạo, cuộc sống không có sự ăn khớp giữa bên ngoài với bên trong của một con người.
Trong một chương trình buổi tối trên một kênh truyền hình Hoa Kỳ, một cô gái điếm đã được mời đến phát biểu ý kiến dựa theo một số câu hỏi của những phóng viên. Cô trang điểm diêm dúa và mặc một chiếc váy cực ngắn. Cô đã tỏ ra không những bình tĩnh, mà còn khiêu khích trước những câu hỏi của phóng viên.
Chợt có một phóng viên nhìn thầy trên cổ của cô có đeo một sợi dây chuyền vàng với một cây Thánh giá thật đẹp, anh ta liền thay đổi một đề tài. Anh ta hỏi cô: “Tôi thấy cô đeo Thánh giá trên cổ, hẳn cô là người có Tôn giáo”.
Khán giả thấy rõ sự bối rối xuất hiện trên khuôn mặt cô, vì đây là vấn đề mà cô chưa bao giờ nghĩ tới. Sau một hồi do dự, cô trả lời: “Tôi không theo đạo nào cả”.
Người phóng viên hỏi dồn: “Vậy tại sao cô lại mang Thánh giá trên người?”.
Cô thinh lặng cúi xuống sàn nhà một hồi lâu, rồi trả lời: “Lúc nhỏ tôi có đạo, nhưng đó là chuyện xưa rồi”.
Một con người không còn tin Chúa nhưng vẫn đeo Thánh Giá của Chúa. Rõ ràng đó là việc không hợp lý tí nào. Cuộc sống như thế đáng cho mọi người gọi là cuộc sống giả hình. Và một cuộc sống với những phẩm chất giả tạo như thế nhất định sẽ chẳng đem lại niềm vui nào cho những người sống cuộc sống đó. Chính vì thế mà trong bài tin mừng hôm nay Chúa đã kịch kiệt lên án cuộc sống như thế. “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta.”(Mc 7,7)
Ngày xưa thì như thế còn hôm nay thì sao?
Chắc anh chị em đã thấy ngày hôm nay người ta nói nhiều tới căn bệnh thành tích, căn bệnh phát sinh từ cuộc sống hình thức giả tạo mà ra. Bao nhiêu hệ lụy xấu xa đã phát sinh từ căn bệnh này thì mọi người chúng ta đã biết. Sống như thế có khác gì ngày xưa và nếu cứ sống mãi như thế thì chắc chắn cuộc sống của chúng ta sẽ không thể tốt đẹp mà ngược lại nó sẽ là một cuộc sống gây nên nhiều đau khổ.
Rồi nhìn vào cuộc sống của thế giới hôm nay chúng ta thấy cũng chẳng kém gì. Đây là những nhận được Internet truyền đi khắp nơi như một hệ lụy của những lối sống mà con người hôm nay đang sống. Bên ngoài thì xem ra thật tốt nhưng nội dung thì có nhiều phải suy nghĩ. Tác giả gọi những nhận xét này là: “Những nghịch lý của thời đại chúng ta”
Chúng ta có những tòa nhà cao hơn, nhưng tư cách những người cư ngụ trong đó thì lại nhỏ hơn. Những con đường cao tốc rộng hơn, nhưng quan điểm của con người thì lại hẹp hòi hơn.
Chúng ta nói quá nhiều, yêu quá ít và ghét quá thường xuyên.
Chúng ta đã đi lên mặt trăng và quay trở về, nhưng lại cảm thấy phiền hà khi băng qua đường để gặp một người hàng xóm mới dọn đến.
Chúng ta làm trong sạch không khí, nhưng lại gây ô nhiễm tâm hồn của nhau.
Chúng ta viết lách nhiều hơn, nhưng học hành thì ít hơn.
Chúng ta dự tính nhiều hơn, nhưng thực hiện ít hơn. Chúng ta chỉ biết vội vã, mà không biết chờ đợi.
Chúng ta có thu nhập cao hơn, nhưng đạo đức thì lại thấp hơn.
Chúng ta trở nên thừa về số lượng, nhưng lại quá thiếu về chất lượng.
Đây là thời cơ có tới hai nguồn thu nhập từ cả hai vợ chồng trong gia đình, nhưng ly dị thì nhiều hơn; Thời của những căn nhà sang trọng, nhưng tổ ấm thì tan vỡ nhiều hơn.
Vâng nếu cuộc sống chỉ là như thế thì thật là tủi nhục cho Thiên Chúa khi Chúa đã cho chúng ta được làm người .
II. Vậy chúng ta phải sống như thế nào mới đẹp lòng Chúa?
Xin muợn một câu chuyện để trả lời. Chuyện kể rằng có hai nhà sư, một già một trẻ, cùng nhau đi xuống núi. Dọc đường các ngài gặp một cô thiếu nữ rất đẹp đứng bên bờ một vũng nước sâu. Thiếu nữ muốn đi qua nhưng không sao đi được. Thấy vậy, một nhà sư già liền bế thiếu nữ lên và đi qua vũng nước và bỏ cô ở phía bên kia. Rồi hai người tiếp tục cuộc hành trình. Trở về gần đến chùa, nhà sư trẻ trách bạn: “Sao anh lại bế một thiếu nữ như thế?”. Nhà sư già trả lời: “Tôi đã để cô ta lại bên vũng nước, còn anh, sao anh còn mang cô ta về đến tận chùa”.
Câu chuyện ý nhị trên đã minh hoạ rõ nét ý hai lối thể hiện cuộc sống của mình: Một lối sống đạo theo hình thức và một lối sống đạo theo nội tâm. Nhà sư trọng hình thức không dám động đến thiếu nữ, nhưng tâm hồn ông lại nặng vấn vương. Thế mà ông vẫn cứ yên tâm cho rằng mình đã giữ trọn luật giới sắc. Ông tự hào về mình và trách móc bạn đã vi phạm luật tu hành.
Những người Biệt phái và Luật sĩ trong đạo Do thái xưa cũng giữ đạo theo hình thức như thế. Họ rất trọng những luật lệ theo hình thức bề ngoài. Họ cho rằng giữ những hình thức bề ngoài là đủ. Đối Với họ, đạo là lề luật. Giữ trọn lề luật là giữ đạo. Đặc biệt là luật thanh sạch.
Đức Giêsu đã trách họ là giả hình. Họ chỉ lo giữ sự trong sạch bề ngoài mà không lo giữ sự trong sạch bề trong. Họ lo rửa tay chân mà không lo rửa lương tâm. Họ sợ tiếp xúc với người bệnh nhưng họ vẫn ấp ủ những ý đồ xấu xa trong tâm hồn. Có lần Đức Giêsu đã sánh ví họ với những mồ mả, bên ngoài thì tô vôi sơn phết đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy xương cốt hôi hám, xấu xa.
Đạo Chúa không phải là hình thức. Đạo Chúa là tình yêu. Tình yêu chân thật phát xuất từ đáy lòng. Giữ hình thức mà không có tình yêu thì chưa phải là giữ đạo. Làm những việc lớn lao mà không có tình yêu cũng chỉ là vô ích, như lời thánh Phao-lô dạy: “Giả như tôi có nói được các thứ tiếng của loài người và của các thiên thần đi nữa, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng khác gì thanh la phèng phèng, chũm choẹ xoang xoang. Giá như tôi được ơn nói tiên tri và được biết hết mọi điều bí nhiệm, mọi lẽ cao siêu, hay có được tất cả đức tính đến chuyển núi dời non, mà không có đức mến, thì tôi cũng chẳng là gì. Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi đến chịu thiêu đốt, mà không có đức mến, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr 13,1-3).
Lạy Chúa Giêsu,
xin giúp con biết bỏ đi những bề bộn nơi tim con.
Xin biến đổi tim con, để nó trở nên đơn sơ hơn,
hồn nhiên hơn và tươi tắn hơn.
Ước gì con nhìn mọi sự, mọi người,
bằng trái tim bao dung của Chúa.
Và ước gì khi đã ra khỏi nỗi bận tâm về mình,
trái tim con được nhẹ nhàng hơn và tự do hơn
để yêu mến mọi người.
Vì con biết rằng với tất cả tâm tình, con mới thực sự sống đạo. Với tất cả tâm tình, đạo mới đưa con đến gần Chúa.
Lạy Chúa, xin ban cho con thêm lòng yêu mến Chúa.
.
Phó Tế Đaminh Maria Nguyễn Bình An
Dân Do Thái có rất nhiều luật. Luật quy định tỉ mỉ từ đời sống tâm linh như cách thờ phượng Thiên Chúa tới những việc làm cụ thể hàng ngày như tập tục rửa tay trước bữa ăn… Họ giữ rất nghiêm chỉnh các luật lệ này đến nỗi họ nhiều khi chỉ vì luật, và những hình thức bên ngoài mà quên đi ý nghĩa sâu xa của những luật lệ ấy. Chúa Giêsu trong Tin Mừng tuần này chê trách người Do Thái chuộng bề ngoài hơn bề trong: “Dân này thờ kính Ta ngoài môi miệng, mà lòng chúng rời xa Ta” (Mt 15,8). Đức Giêsu không lên án những người giữ luật vì đây là những luật chính đáng được lưu truyền trong dân. Ngài chỉ chê trách những người coi trọng luật bên ngoài mà bỏ quên cốt lõi, ý nghĩa đích thực của những luật đó. Những người này có thể nghĩ rằng giữ đạo là trung thành với một số các điều luật được truyền lại, ngay cả nhiều khi những luật này không cần thiết. Trong khi căn bản của lời rao giảng của Đức Giêsu chỉ gồm tóm trong hai điều duy nhất: Mến Chúa, Yêu Người. Mọi chuyện chúng ta làm, mọi luật lệ chúng ta giữ cần phải quy hướng và thể hiện hai mục đích này.
Lời Chúa hôm nay không phải chỉ nói cho người Do Thái nhưng cũng đang nhắc nhở mỗi người chúng ta. Trong cuộc sống hằng ngày, nhiều khi chúng ta có thể cũng chỉ vì hình thức bên ngoài. Chúng ta nghĩ rằng thờ phượng Chúa hết lòng là tới nhà thờ dự lễ hàng ngày, sáng tối kinh nguyện hoặc đóng góp xây dựng cộng đoàn, hay rộng tay giúp đỡ người nghèo khổ. Điều này đúng nếu khi chúng ta làm với một ý thức bên trong. Tôi tới nhà thờ không phải để cho người khác biết tôi siêng năng, đạo đức, nhưng thật sự tôi tới để thờ phượng, cám tạ Chúa vì mọi ơn lành Chúa ban xuống cho tôi và gia đình. Tôi rộng tay chia sẻ của cải của tôi có cho những người vô gia cư, già yếu, cô đơn, nghèo khổ, vì họ là anh em tôi, là hình ảnh của Thiên Chúa… Hành động của chúng ta đi kèm với ý thức bên trong hỗ trợ, thì việc làm ấy không bị Chúa chê trách là chỉ kính thờ Chúa bằng môi miệng, bằng hình thức bên ngoài.
Câu truyện “Để Người Ta Không Thể Nói” trong Hạt Giống Âm Thầm (trang 296) làm cho tôi xúc động. Chúng ta thề hứa với Chúa bao nhiêu lần là sẽ tha cho người khác khi chúng ta đọc kinh Lạy Cha: “Xin tha nợ chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con…” Tuy nhiên, khi nhìn vào xã hội hiện nay, lời kinh chúng ta đọc có lẽ chỉ trên môi miệng, và có lẽ Chúa cũng nói với chúng ta y chang như Ngài nói với người Do Thái…
Hai thanh niên điệu một tên sát nhân đã giết cha mình ra trước tòa án. Với đầy đủ bằng chứng nên tên sát nhân lãnh án tử hình. Tội nhân không khiếu nại nhưng chỉ xin hoãn hành quyết ba ngày để hắn về lo liệu cho một thiếu nữ, mà hắn đã được trao phó cho săn sóc từ nhỏ. Mọi người bối rối, nhưng một bàn tay giơ lên với giọng quả quyết: “Tôi xin bảo đảm cho anh này. Nếu sau ba ngày anh không lại, tôi sẽ chịu tội thay”. Tên tử tội được phép ra về. Sau đúng ba ngày, trong khi mọi người đang nôn nóng chờ đợi giờ hành quyết thì tên tử tội hiên ngang bước đến và dõng dạc tuyên bố: “Tôi đã giải quyết xong công việc. Giờ đây, theo đúng lời cam kết, tôi trở lại đây để xin chịu tội. Tôi muốn trung thành với lời cam kết, để người ta không thể nói, chữ tín không còn trên mặt đất này nữa.”
Sau lời phát biểu của tên tử tội, người đàn ông đứng ra bảo lãnh cũng tiến ra tuyên bố: “Phần tôi, sở dĩ đứng ra bảo lãnh cho người này là vì tôi không muốn để người ta có thể nói: lòng quảng đại không còn có mặt trên mặt đất này nữa”.
Sau hai lời tuyên bố trên, đám đông bỗng trở nên im lặng. Dường như ai cũng được mời gọi để thể hiện những gì là cao quý nhất trong thẳm sâu tâm hồn. Và rồi hai người thanh niên bước lên trước quan tòa và nói: “Thưa ngài, chúng tôi xin được tha thứ cho kẻ đã giết hại cha chúng tôi, để người ta không thể nói: lòng tha thứ không còn hiện diện trên mặt đất này nữa”.
Hôm nay Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta cách chúng ta sống đạo. Bạn và tôi, chúng ta chắc phải dừng lại đôi phút để xét lại xem, chúng ta thật sự sống đạo như thế nào?
.
Lm. Jos. DĐH.
Xuất phát bởi tình yêu gia đình, dòng tộc, người xưa để lại nhiều kinh nghiệm cao quý: đói cho sạch, rách cho thơm ; tốt gỗ hơn tốt nước sơn, xấu người đẹp nết còn hơn đẹp người. Sạch và đẹp, tiếng tốt danh thơm, không phải chúng được đề cao vì “mỹ từ”, hoặc được tán dương bởi nét đẹp mờ mờ ảo ảo, đúng hơn, nơi thẳm sâu tâm hồn, con người luôn được thôi thúc bởi tính thiện toàn, sự sạch đẹp. Vì tình bạn, kẻ sĩ chết vì người tri kỷ, thiếu nữ vì tiết hạnh, không quản ngại hy sinh mạng sống mình. Sạch đẹp thu hút con người qua muôn thế hệ, nhưng làm sao để người ta không nhầm lẫn giữa “cái chính và cái phụ”, không làm đảo lộn giá trị đạo đức xã hội, tôn giáo ?
Khởi đi từ quan niệm sạch đẹp quá tuỳ tiện, phóng khoáng, đến độ khắt khe, các luật sĩ biệt phái xưa kia đã tỏ thái độ khinh bỉ người anh em của mình, chỉ vì họ không rửa tay trước khi ăn. Vấn đề sạch dơ, đẹp xấu, sẽ không dừng lại ở khía cạnh vệ sinh, hay tính thẩm mỹ hài hoà, đi xa và sâu rộng hơn, sạch đẹp, chuẩn mực, đáng được ghi nhận phải là sạch đẹp toàn diện: cả hình thức và nội dung. Với cái nhìn hời hợt về thanh sạch bên ngoài, hoặc đầy ô-uế tội lỗi bên trong, nếu không đủ khách quan, thiếu tình yêu và lòng quảng đại, việc lượng định cũng chỉ là hình thức máy móc, vô giá trị. Người ta sẽ sai lầm khi xem tập tục tiền nhân và giới luật yêu thương là một, hoặc nghĩ rằng của lễ dâng cúng cho đền thờ có thể thay cho việc thảo kính cha mẹ ông bà.
Tục ngữ có câu: sạch sẽ là mẹ con người ; sạch đẹp và linh thiêng hơn, các ngài còn nói: tâm trong sạch là một cái gối êm, không làm việc thẹn lòng, đâu sợ quỷ ma gọi cửa. Sạch bên ngoài, bên trong, đều đáng trân trọng, dơ bẩn tay chân, dơ bẩn tâm hồn, đều cần được tẩy rửa cho sạch đẹp. Đức Giêsu có ý nhắc nhớ đừng ai nhầm lẫn bằng môi miệng, bằng lý thuyết, có thể thay thế cho việc sống đạo. Đức Giêsu không trả lời trực tiếp cho các luật sĩ biệt phái lý do tại sao các môn đệ không rửa tay, nhưng gián tiếp cho thấy sự thanh sạch tâm hồn cần thiết hơn việc rửa tay chân, biết và sống thánh ý của Chúa quan trọng hơn là chỉ giữ tập tục tiền nhân.
Đức Giêsu không bình luận về sự thanh sạch hay dơ bẩn, nhưng Ngài lên án những ai tin thờ Chúa bằng môi miệng mà lòng xa cách Chúa, có tình yêu trong việc sống giới luật, quan trọng hơn việc dâng mọi của lễ toàn thiêu. Sạch tay chân, trang điểm cho khuôn mặt xinh đẹp, chỉ là tâm lý giúp người ta tự tin khi đi ăn tiệc, nhưng sạch tâm hồn mới là phương thế hữu hiệu, bình an, hạnh phúc nhất, khi tham dự bàn tiệc thiên quốc. Kinh nghiệm cho thấy, không phải sạch sẽ là do một ngày tắm nhiều lần, không phải xinh đẹp là do “quần là áo lượt”, mang trên mình trang sức đắt tiền. Sạch và đẹp, đúng và chuẩn, chỉ là mơ ước, là khẩu hiệu, khi người ta chưa tập luyện, chưa được biến đổi, hoặc chưa có thời gian thực hành đức ái.
Cái nhìn thông suốt của tiền nhân cho rằng: nhà sạch thì mát, bát sạch ngon cơm, nơi ăn chốn ở, cơ hội để học, để hiểu và để sống, cùng với một chuỗi thời gian trải nghiệm: bộ lông làm đẹp con công, học vấn làm đẹp con người. Thực ra thì điểm căn bản của việc sống đạo không hệ tại chúng ta đọc bao nhiêu câu kinh, đi bao nhiêu thánh lễ, bố thí chia sẻ cho anh chị em chúng ta nhiều hay ít tiền của, đúng và đẹp ở chỗ lời nói việc làm của chúng ta có bày tỏ được lòng mến hay không ? Nếu như ngày hôm nay, người ta lên án những ai làm việc như con “rô-bốt” hay chỉ như con “búp-bê” không biết yêu, không cảm xúc, là bởi vì họ quá lệ thuộc vào hình thức bên ngoài mà quên đi ý nghĩa của hành động tin và yêu.
Truyền thống có đạo, có đức, sống thảo sống hiếu, được xem là gia đình lắm phúc nhiều lộc, nhưng chưa đặt để tình yêu vào cuộc sống, nào có khác gì ta chỉ là con rối vô cảm, vô hồn ? Đức Giêsu xưa kia chắc chắn không chối bỏ nét đẹp phong phú của gia đình, cũng không phủ nhận sự thanh sạch, Ngài có ý nhắc “sạch đẹp tâm hồn” phải là ưu tiên. Đừng chú trọng đến tập tục loài người mà bỏ qua giới luật yêu thương, đừng lẫn lộn ý muốn của con người với thánh ý của Chúa. Xưa kia cũng vì chú trọng đến “môn đăng hộ đối” mà xảy ra việc ép duyên ; xã hội hiện đại hôm nay lại không thiếu cảnh con cái đặt đâu cha mẹ phải đồng ý ! Cả hai quan niệm ấy đều không đẹp mà cũng chẳng gọi là đúng, nếu hôn nhân không đến trong tự do và yêu thương.
Tục ngữ có câu: muốn chắc ở nhà gạch, muốn sạch quét chổi cùn. Tự bản chất của con người thích sạch đẹp, vẫn ý thức mình cần phải được xây dựng trên nền đá vững chắc, đó là sự thật. Hướng đến sự sạch đẹp toàn diện và bền vững, Chúa Giêsu đã gọi là đồ giả hình, đã nhắc lại lời Isaia: “dân này thờ kính ta bằng môi miệng, còn lòng chúng lại xa Ta”. Lời đó có làm chúng ta hôm nay giật mình không, nếu chúng ta sống đạo mà không được xây dựng bằng tình yêu thương ? Đồng ý rằng: danh thơm là lẽ sống của kẻ sĩ, nhưng kẻ sĩ không thể im lặng cất giấu triết lý sống của mình. Người kitô hữu không thể sống đạo loáng thoáng hời hợt, lời nói việc làm cần minh bạch rõ ràng ; nếu rửa tay cho sạch thì cũng nên suy xét xem đã tẩy rửa tội lỗi chưa, hầu có một tâm hồn sạch đẹp, xứng hợp với tình yêu và ơn cứu độ của Đức Kitô. Amen.
.
Bông Hồng Nhỏ
Hai cô bé rủ nhau chơi đồ hàng, lấy vỏ trứng làm nồi và tập tành nấu cơm. Người cha đi làm về thấy gạo vương vãi trên sàn nhà bếp liền gọi hai cô con gái vào. Nghe cha hỏi cả hai cô bé đều lo lắng và cúi gầm mặt xuống, đôi mắt ngắn lệ chờ khóc. Cô em lí nhí thưa:
- Dạ thưa cha, chị lấy gạo làm đổ ra nhà, không phải con.
Cứ thế cô em đổ lỗi cho chị. Thấy chị bị cha phạt quỳ, cô em hối hận vì đã đổ lỗi hết cho chị mình. Lòng muốn thú tội với cha nhưng lại sợ bị phạt, dù còn nhỏ nhưng cô bé đã thấy hối hận lắm. Lời các chị giáo lý viên từ đâu vang lên bên tai: “ Các em, ai nói dối sẽ làm cho Chúa buồn lòng.” Một lúc sau, cô em thưa với cha:
- Là con lấy gạo làm đổ ra nhà, không phải chị ấy làm, cha ạ!
- Hạt gạo là hạt cơm. Lần sau các con đừng lấy chơi nữa.
Chẳng những không phạt mà cha còn tha tội cho hai chị em.
Từ trong tâm hồn con người, tiếng nói lương tâm giúp cho biết làm lành lánh dữ. Hôm nay, Thầy Giêsu lên án thói đạo đức giả và chỉ cho dân chúng biết cái gì mới làm cho con người ra ô uế.
Những đồ ăn thức uống khi được đưa vào cơ thể con người giúp nuôi dưỡng thân xác khoẻ mạnh, nhưng cũng có thể làm thiệt hại sức khoẻ. Khi muốn ăn thịt gà, bạn có thể mua ở chợ nếu bạn có tiền, hay bạn sẽ làm thịt con gà mà bạn nuôi. Nhưng nếu bạn không có tiền, bạn cũng chẳng nuôi gà, mà bạn lại rất thèm được ăn thịt gà . Lúc đó bạn sẽ làm gì? Từ ước muốn được ăn thịt gà đó, thịt gà không phải là của làm cho bạn ra ô uế nhưng điều làm cho bạn ra ô uế là khi bạn đi ăn trộm con gà của hàng xóm để làm thịt. Muốn ăn thịt gà cũng không phải là điều xấu xa, nhưng chính việc bạn ăn trộm đã làm cho bạn thành kẻ xấu. Thầy Giêsu đã tuyên bố mọi thức ăn đều thanh sạch (x.Mc7,19b). Trước khi tiến đến hành động trộm gà, chẳng hẳn lương tâm của bạn cũng mách bảo cho bạn biết điều đó là sai, điều quan trọng là bạn nghe theo tiếng lương tâm mách bảo hay chiều theo thói mê ăn uống.
Thầy Giêsu khẳng định: “Từ bên trong, từ lòng người phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam… Tất cả những điều xấu xa đó đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7,21-23)
Làm thế nào để có một tâm hồn trong sạch, một lương tâm ngay thẳng? Ta hãy lắng nghe lời ca của Thánh vịnh 18 câu 8: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh Ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn”. Lòng ai khao khát Chúa, Chúa sẽ cho gặp và Chúa sẽ dạy dỗ họ sống theo nẻo chính đường ngay. Các người Pharisêu và một số kinh sư giữ luật tỉ mỉ, nắm giữ truyền thống của các tiền nhân nhưng lại bị Thầy Giêsu khiển trách: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc7,8). Những khi ca tụng tán dương Thiên Chúa, liệu ta có đặt trọn tâm hồn và lòng trí của ta hướng về Chúa hay ta chỉ “tôn kính Chúa trên môi miệng mà lòng trí lại cách xa Chúa” (x. Mc 7,6b). Trong thinh lặng của tâm hồn, ta hãy để cho Lời Chúa chất vấn ta, để thấy được thái độ ta dành cho Chúa và can đảm ra khỏi con người cũ.
Lạy Thiên Chúa chí thánh! Xin cho con biết yêu luật Chúa truyền và can đảm sống điều Chúa dạy, để mỗi ngày, tâm hồn con trở nên thanh khiết, bình an. Xin cho những lời ca tụng Chúa được kéo dài trong cuộc sống của con, để dầu sống giữa cảnh thăng trầm, lòng con vẫn trung thành, gắn bó với Chúa cách chân thực. Amen.
.
TUÂN GIỮ GIỚI RĂN VÀ THỰC HÀNH LỜI CHÚA
Lm. Đa-minh Trần đình Nhi
Ông Mô-sê trong Cựu Ước và Chúa Giê-su trong Tân Ước đều có chung một sứ mệnh: kêu gọi người ta tuân giữ các giới răn của Thiên Chúa và hãy thực hành những điều Người phán dạy. Ông Mô-sê là người truyền lại cho dân Ít-ra-en mười giới răn do Thiên Chúa ban trên núi Xi-nai. Còn Chúa Giê-su là Mô-sê Mới thì ban cho chúng ta lề luật của Tin Mừng được tóm lại trong hai điều mến Chúa và yêu người. Tuy nhiên, giống như dân Ít-ra-en đã nhiều lần không trung thành trong việc tuân giữ Mười giới răn, chúng ta là các Ki-tô hữu nhiều lần không để cho lời Chúa trở thành hành động trong cuộc sống chúng ta. Đây là một vấn đề quan trọng, nên Phụng vụ Lời Chúa dành nguyên một Chúa Nhật để đặc biệt nhắn nhủ chúng ta hãy tích cực sống lời Chúa; đó cũng chính là cách tốt nhất để chúng ta tôn kính và phụng thờ Thiên Chúa.
Trước hết chúng ta hãy trở lại với thời dân Ít-ra-en trên đường chinh phục Đất Hứa. Từ Ai-cập trở về Đất Hứa, dân Chúa đã phải trải qua biết bao khó khăn, cộng thêm những cuộc chiến đấu để khắc phục những dân họ đi qua. Tới đâu họ cũng đạt chiến thắng nhờ luôn phụng thờ Thiên Chúa và tuân giữ những mệnh lệnh của Người. Đúng vậy, vì họ trung thành sống những giới răn Thiên Chúa ban, nên đã được Người luôn ở cùng và giúp đỡ họ “được sống và được vào chiếm hữu miền đất Đức Chúa ban cho họ” . Ý thức mạnh mẽ điều ấy, ông Mô-sê là người lãnh đạo đã luôn nhắc nhở dân chúng hãy tiếp tục trung thành giữ Lề Luật và các thánh chỉ của Thiên Chúa, để chỉ có họ “mới là một dân khôn ngoan và thông minh” được thiên hạ ngưỡng mộ! Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan và quyền năng nên Lề Luật và thánh chỉ của Người sẽ làm cho dân của Người thành một dân khôn ngoan, thông minh và vĩ đại, đó là điều dĩ nhiên rồi. Vì sức mạnh và uy thế của Lề Luật Chúa đã rõ ràng như vậy, nên ông Mô-sê nghiêm ngặt ra lệnh cho dân Ít-ra-en “đừng thêm gì vào lời tôi truyền cho anh em, cũng đừng bớt gì, nhưng phải giữ những mệnh lệnh của Đức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, mà tôi truyền cho anh em”. Dù dân Ít-ra-en có nghe lời ông Mô-sê cũng như ông Giô-suê sau này hay không, thì sứ điệp rõ ràng vẫn là nếu họ tuân giữ giới răn và thánh chỉ của Đức Chúa, họ “sẽ được sống và được vào chiếm hữu miền đất Người ban cho họ”.
Nếu ông Mô-sê của Cựu Ước đã nghiêm cấm dân Ít-ra-en không được thêm bớt gì vào những giới răn và thánh chỉ của Thiên Chúa, thì Chúa Giê-su, Mô-sê của Tân Ước, cũng không ngừng tố cáo giới lãnh đạo tôn giáo Do-thái đã làm sai lạc ý nghĩa thi hành Lề Luật Thiên Chúa. Đáng lẽ những người Pha-ri-sêu và kinh sư là những người cầm cân nảy mực phải là gương mẫu cho việc tuân giữ Luật Chúa, thì họ lại biến dân Chúa thành một dân “tôn kính Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Người”. Không những họ thêm bớt vào giới luật của Thiên Chúa, mà họ còn đặt ra những “giới luật phàm nhân” để biến thành những gánh nặng chất lên vai dân chúng nữa! Nhân việc người Pha-ri-sêu chỉ trích các môn đệ Chúa vì các ông không rửa tay trước khi ăn nên đã trở thành ô uế, Chúa Giê-su đưa ra một nhận định để ám chỉ sự ô uế không phải hệ ở việc rửa tay, mà sự ô uế đã nằm sẵn trong tâm hồn những người Pha-ri-sêu kia rồi. Đó là “những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”. Việc Chúa Giê-su tố cáo nhóm Pha-ri-sêu được tóm tắt trong nhận định này: “Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm”.
Đây chắc chắn là lời tố cáo không chỉ dành riêng cho nhóm Pha-ri-sêu và các kinh sư, nhưng cũng nhắm vào chúng ta hôm nay nữa. Trong lối sống Ki-tô hữu, biết bao lần chúng ta đã gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa để tuân theo những truyền thống của loài người. Do đó, thánh tông đồ Gia-cô-bê đã kêu gọi chúng ta “hãy đem Lời Chúa ra thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình”. Phải, chúng ta lừa dối chính mình khi gạt bỏ và coi thường luật Chúa để sống theo lề luật xấu xa của thế gian. Thí dụ chúng ta coi thường sự sống Chúa ban mà phá thai, bởi vì phá thai đã được luật pháp bảo vệ! Lời Chúa là đèn soi đường chúng ta đi. Vì thế tuân giữ lời Chúa là cách để chúng ta đi trong ánh sáng mà đến với Chúa và anh chị em. Thánh Gia-cô-bê còn cho chúng ta những ví dụ cụ thể thế nào là thi hành lời Chúa để chúng ta “không tỳ ố trước mặt Thiên Chúa Cha”. Vài việc làm cụ thể được ngài đề nghị, là “thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân, và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian”. Nói khác đi, vì Chúa dạy chúng ta hãy sống yêu thương và bác ái, cho nên thăm viếng người nghèo khó chính là thi hành lời Chúa dạy.
Sống sứ điệp Lời Chúa
Hôm nay chúng ta sẽ làm gì để thực sự “tôn kính” Thiên Chúa, không phải bằng môi miệng, những bằng việc làm cụ thể? Chúng ta sẽ làm gì để loại bỏ “những ý định xấu” như tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, kiêu ngạo… mà Chúa Giê-su đã kể ra? Như dân Chúa đã trung thành giữ các giới răn Thiên Chúa, chúng ta hãy trung thành giữ giới luật yêu thương Chúa Giê-su đã truyền dạy chúng ta.
.
Lm Vũdình Tường
Bệnh và tật đi chung với nhau. Không biết bệnh gây nên tật hay tật sinh bệnh hay cả hai. Điều không thể chối cãi là tật xấu chính là nguồn gốc gây bệnh. Xấu nhiều bệnh nặng, xấu ít bệnh nhẹ hơn. Xấu nhiều mau phát sinh bệnh; xấu ít bệnh đến chậm hơn. Tất cả đều là mầm mống gây bệnh và làm gây bệnh. Lây bệnh là do thiếu vệ sinh hoặc ăn phải thực phẩm nhiễm trùng. Thực tế là cơ thể con người có sức chịu đựng giới hạn. Đi quá mức giới hạn nó ngã quị. Tâm trí con người cũng không khác mấy. Nó cũng cần cho ăn, nuôi dưỡng tâm trí bằng thực phẩm lành mạnh nó mạnh khoẻ, điều xấu, sách báo xấu, hình ảnh xấu, môi trường xấu tạo nên một tâm lí què quặt, bệnh tâm lí phát sinh từ đó. Thực tế này cũng đúng, gây tai hại cho tâm linh con người. Điều xảy ra cho tâm linh tai hại nhất con người lại coi nhẹ nhất bởi bệnh tâm linh không gây nhức nhối thân xác nên nhiều người lơ đi, coi như không có bệnh. Bệnh tâm linh phát sinh do coi thường giáo huấn của Đức Kitô. Giáo huấn của Ngài là thần khí và sự thật. Thiếu tôn trọng sự thật bởi coi nhẹ giáo huấn của Đức Kitô. Nhóm Biệt Phái và Pharisiêu gây xích mích với Đức Kitô khi họ gây sự với môn đệ Ngài. Họ đặt vấn đề
‘Sao môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa’ Mk 7,5
Đặt vấn đề vì các môn đệ nhưng thực ra họ chủ trương chất vấn chính Đức Kitô vì Ngài là đầu của các môn đệ. Biết rõ thâm í họ Đức Kitô dùng ngôn từ của tiên tri Isaiah đáp lại họ
Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta c. 6b
Câu đáp trên nhắc cho họ biết hai điều quan trọng. Thứ nhất, miệng lưỡi giảo hoạt, ngọt ngào nơi miệng không phải là tâm tình thật, không đến từ con tim chân thành, yêu mến. Đức Kitô cũng nhắc cho biết là không phải những gì đến từ ngoài làm cho tâm hồn ra ô uế mà chính là những gì phát xuất từ sâu thẳm làm cho tâm hồn ra ô uế. c.15. Con tim được hiểu là trung tâm điểm của con người, từ nơi đó tâm tình tốt xấu phát sinh. Sự lành, sự dữ đều từ đó mà ra. Sự lành đến từ con tim chân thành, mạnh khoẻ, sự dữ đến từ con tim bị băng hoại, hướng dẫn bởi tâm tình tội lỗi.
Thứ hai, các môn đệ về từ phố chợ và họ không rửa tay khi ăn trưa. Phố chợ là nơi người đau yếu, bệnh tật, nghèo khó thường tụ họp mong nhận được của bố thí. Vì thế khi liên kết phố chợ với những thành phần cần nâng đỡ Đức Kitô cách nào đó chuyển đề tài từ nói suông hay nói về sự trong sạch, chuyển sang hành động thi ân, bác ái, lòng thương xót Ngài dành cho muôn dân. Một cách nào đó Đức Kitô cho họ biết nói suông hay giữ truyền thống tiền nhân không tốt hơn hành động bác ái, mến Chúa yêu người như giáo huấn của Ngài.
Hơn nữa chú trọng nhiều đến việc tẩy uế, rửa ráy bề ngoài mà để bên trong dơ bẩn thì có ích chi. Nó chỉ che mắt được người vô tình, xem qua loa mà không thể nào giữ cho phẩm chất chứa đựng bên trong sạch sẽ được. Vì thế giữ cho con tim trong sáng quan trọng hơn cả. Thay vì chú trọng đến việc lành, thánh thiện thì nhóm Biệt Phái lại chia rẽ cộng đoàn của họ khi họ phân biệt thành phần trong sạch và thành phần ô uế dựa vào cách họ giữ lề luật tẩy uế. Không phải việc đạo đức làm trọn lề luật mà chính là kính mến Chúa và thực thi bác ái, yêu thương là con đường Đức Kitô hướng dẫn. Không luật xã hội nào hay truyền thống tiền nhân nào có khả năng giúp cho con tim trong sáng. Rất nhiều luật xã hội và truyền thống gây gánh nặng cho người nghèo, kẻ thế cô. Con tim trong sáng, con tim đầy lòng yêu mến cần được nuôi dưỡng bằng Lời Chúa, bằng giáo huấn yêu thương của Đức Kitô. Giáo huấn này đòi tuân giữ không phải bằng môi miệng mà chính là thực thi bằng hành động bác ái, yêu thương, tha thứ, đến mọi thành phần trong xã hội, đặc biệt kẻ nghèo khó, goá bụa cần nâng đỡ. Đi theo con đường Đức Kitô đi là phỏng theo lối sống của Ngài. Tin theo Đức Kitô không phải giữ cho thân thể, tay chân sạch sẽ, mà chính là tay chân lấm bùn phục vụ của một thân thể có con tim sạch sẽ, trong sáng. Chúng ta xin ơn nhận biết điều tốt lành, mở tâm hồn đón nhận món quà yêu thương Chúa ban và phân phát món quà đó cho tha nhân. Đón nhận càng nhiều tình yêu Chúa ta càng trở nên trong sáng, bởi trong sáng nên gần Chúa hơn và càng gần Chúa ta càng cảm thấy mình tự do, không bị ràng buộc bởi vật chất trần thế.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA – CHÚA NHẬT 22 TN_B
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật XXII này đều hướng về một đề tài chung: những huấn lệnh của Thiên Chúa là quy luật sống cho mỗi người tín hữu.
Đnl 4: 1-2, 6-8
Lề Luật diễn tả sự khôn ngoan và thánh thiện của Thiên Chúa; mỗi người phải lắng nghe và sống.
Gc 1: 17-18, 21b-22, 27
Người tín hữu không chỉ đón nhận Lời Chúa nhưng còn phải thực hành Lời Chúa trong đời sống nữa.
Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23
Người ta không được thay thế những huấn lệnh của Thiên Chúa bằng những quy tắc phàm nhân, bởi vì những quy tắc phàm nhân xem việc tuân giữ bên ngoài là quan trọng, thì những huấn lệnh Thiên Chúa biến đổi con người từ bên trong.
BÀI ĐỌC I (Đnl 4: 1-2, 6-8)
Tác phẩm này chủ yếu được cấu thành bởi diễn từ của ông Mô-sê, được đặt vào trong bối cảnh hư cấu ở đó ông Mô-sê ngỏ lời với dân Do thái trước khi họ tiến vào Đất hứa, để cảnh giác họ coi chừng những nguy hiểm đang rình rập họ khi sống ở giữa môi trường ngoại giáo và khẩn khoản kêu mời họ trung thành tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa. Thật ra, con cái Ít-ra-en đã định cư ở đất Ca-na-an từ lâu rồi; họ đã để cho mình bị quyến rủ bởi việc phụng thờ các thần linh của dân bản địa rồi; họ cũng đã để cho mình bị tiêm nhiểm bởi lối sống duy vật, dễ dãi, thậm chí xa đọa.
Bối cảnh hư cấu này cho phép trình bày một bài giáo lý đích thật về Giao Ước, được đặt dưới sự bảo lãnh của ông Mô-sê và mặc lấy cung giọng khuyên bảo khẩn thiết.
- Lề Luật là nguồn sống
“Hỡi Ít-ra-en, hãy nghe…”. Biểu thức này thường được lập đi lập lại trong sách Đệ Nhị Luật, thường nhất được dùng một cách tuyệt đối, không có túc từ: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en” (Đnl 5: 1; 6: 4; 9: 1; 20: 3; 27: 9). Kinh nguyện hằng ngày của người Do thái bắt đầu với lời mời gọi này: “Hãy nghe, hỡi Ít-ra-en”, được mượn ở Đnl 6: 4-9.
“Như vậy, anh em sẽ được sống”. Điều mà bản văn Đệ Nhị Luật này nhắm đến là cuộc sống của dân Ít-ra-en với tư cách dân Giao Ước. Không tuân giữ Lề Luật đồng nghĩa với việc vi phạm Giao Ước, tức là đánh mất những phúc lộc mà Thiên Chúa hứa ban. Vì thế, tiếp liền ngay sau những lời này là: “Như vậy, anh em sẽ được sống và sẽ được vào chiếm hữu miền đất mà Đức Chúa, là Chúa của cha ông anh em, ban cho anh em”. Việc thực hành các huấn lệnh gắn liền với niềm xác tín rằng Thiên Chúa đảm bảo cho họ một cuộc sống trường thọ và thịnh vượng. Vào thời điểm này, những viễn cảnh vẫn còn bị giới hạn trong chân trời trần thế; những hy vọng ở bên kia nấm mồ chưa được dự kiến.
Đối với dân Ít-ra-en, việc tuân giữ các huấn lệnh của Thiên Chúa là vấn đề sống chết. “Thế phải chọn lựa” này được đặt ra nhiều lần một cách nghiêm túc: “Anh em không được theo những thần khác trong số các thần của các dân chung quanh anh em, vì Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, Đấng ở giữa anh em, là một vị thần ghen tương; hãy coi chừng kẻo Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, nổi cơn thịnh nộ với anh em và tiêu diệt anh em” (Đnl 6: 14-15) hay còn: “Nhưng nếu chẳng may anh em quên lãng Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, mà theo các thần khác, phụng thờ và sụp lạy chúng, thì hôm nay tôi cảnh cáo anh em: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong” (Đnl 8: 19).
Những hoàn cảnh lịch sử đã đem lại cho thế chọn lựa này tính cách bi thảm. Quả thật, có thể nghĩ rằng sách Đệ Nhị Luật, trong cấu trúc đầu tiên của nó, được các tư tế của vương quốc phương Bắc soạn thảo. Với tư cách những chứng nhân về những tội bất trung của dân Ít-ra-en, họ đã đưa ra lời mời gọi như cơ hội cuối cùng. Ấy vậy, vào năm 721 trước Công Nguyên vương quốc phương Bắc bị các đạo quân Át-sua triệt hạ. Vài tư tế trốn thoát được lánh nạn sang vương quốc phương Nam và đem theo bản văn của mình. Bản văn này được cất dấu trong Đền Thờ Giê-ru-sa-lem vào triều đại Mơ-na-sê, vị vua vô đạo (687-642 tCn.), bị quên lãng một thời gian dài và sau cùng được khám phá vào lúc trùng tu Đền Thờ. Lúc đó, nó được dùng làm nền tảng cho cuộc cải cách tôn giáo của vua Giô-si-gia-hu (622 tCn.). Bản văn này đã được duyệt xét lại và bổ túc. Đây là điều mà người ta gọi ấn bản thứ hai của sách Đệ Nhị Luật.
Những huấn lệnh Tin Mừng cũng xuất hiện như những quy luật sống. Đức Giê-su sử dụng hầu như cùng những từ ngữ như ông Mô-sê trong sách Đệ Nhị Luật, nhưng Ngài cho từ “sống” ý nghĩa tròn đầy của nó, vượt quá không gian và thời gian của cuộc sống trần thế này, khi nói với chàng thanh niên giàu có: “Nếu anh muốn vào cõi sống, thì hãy giữ các điều răn” (Mt 19: 16-17).
- Lề Luật bất khả xâm phạm
“Anh em đừng thêm gì…cũng đừng bớt gì…”. Lời căn dặn kép này nói lên nỗi bận lòng của nhà lập pháp. Biểu thức này được gặp thấy trong Bộ Luật của vua Hammourabi ở Ba-by-lon vào thế kỷ XVIII tCN, cũng như trong những hiệp ước giữa các dân tộc. Người ta cũng gặp thấy biểu thức này trong Tân Ước, như câu sau cùng của sách Khải Huyền: “Ai mà thêm điều gì vào đó, thì Thiên Chúa sẽ thêm cho người ấy những tai ương mô tả trong sách này! Ai mà bớt điều gì trong các lời của sấm ngôn này, thì Thiên Chúa sẽ bớt phần người ấy được hưởng nơi cây Sự Sống và Thành Thánh, là cây và thành được mô tả trong sách này” (Kh 22: 18-19).
Thật ra ông Mô-sê không là người công bố tính bất khả xâm phạm của Lề Luật, ông chỉ là người trung gian truyền đạt những huấn lệnh của Thiên Chúa.
- Lề Luật là lẽ khôn ngoan
Lề Luật là lẽ khôn ngoan cho mỗi người, vì nó là kim chỉ nam cho cuộc sống đức hạnh (đây là ý nghĩa của từ Híp-ri To-ra để chỉ Lề Luật).
Trong toàn bộ đoạn văn này, tác giả đặt trên môi miệng của ông Mô-sê ngôn từ của một bậc hiền nhân; văn phong rất gần với sách Châm Ngôn và sách Ba-rúc: lời mời gọi để tâm suy niệm lẽ khôn ngoan được diễn tả bằng những ngôn từ tương tự: “Nghe đi nào, hỡi Ít-ra-en, những mệnh lệnh tặng ban sự sống, hãy lắng tai hiểu lẽ khôn ngoan. Đức khôn ngoan là huấn giới của Thiên Chúa ghi trong Sách Luật, Luật tồn tại cho đến muôn đời. Ai gắn bó với Lề Luật thì sẽ được sống; còn ai lìa bỏ ắt sẽ phải chết” (Br 3: 9; 4: 1).
- Nhờ Lề Luật, dân Ít-ra-en được xem là một dân tộc vĩ đại:
“Khi nghe nói về tất cả những chỉ thị đó, họ sẽ bảo rằng: Dân tộc vĩ đại này chỉ có thể là một dân khôn ngoan và thông minh”. Sứ mạng phổ quát của dân Ít-ra-en không là nỗi bận lòng ưu tiên của sách Đệ Nhị Luật, sách đặt trọng tâm vào Giao Ước. Vì thế, sứ mạng phổ quát này rất hiếm kể ra trong tác phẩm này. Chính nhờ tính siêu việt của Lề Luật mà dân tộc này trở nên một dân mẫu mực và dân tộc nhỏ bé này được gọi là “một dân tộc vĩ đại”. Chúng ta gặp lại ở đây văn phong nồng nàn và cường điệu, nét đặc trưng của vài đoạn văn Đệ Nhị Luật. Dân Ít-ra-en bé nhỏ so với các đế quốc to lớn chung quanh, mặc dầu thế, được gọi “một dân tộc vĩ đại” vì Lề Luật đảm bảo cho nó tính ưu việt tinh thần trên mọi dân nước.
- Nhờ Lề Luật, Thiên Chúa ở gần dân
“Phải, có dân tộc vĩ đại nào được thần minh ở gần, như Đức Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người”. Lời khẳng định này đáp trả cho câu hỏi đầy xao xuyến của dân Ít-ra-en. Các thần linh ngoại giáo được đúc tượng vẽ hình xem ra ở gần với các tín đồ hơn vị Thiên Chúa phi vật chất, không hình không ảnh của dân Ít-ra-en, đến mức Ngài không cho phép bất cứ hình tượng nào được đúc hoặc vẽ để tôn kính Ngài. Thật ra, Thiên Chúa của Ít-ra-en rất gần với những ai kêu cầu Ngài. Hiệu quả của lời cầu nguyện đó là làm cho Thiên Chúa hiện diện ở trong lòng của mỗi người tín hữu.
Vả lại, trọng tâm của sách Đệ Nhị Luật là ý tưởng về một Thiên Chúa yêu thương dân Ngài và vui thích ở giữa họ, một vị Thiên Chúa mà họ phải “yêu mến hết lòng hết dạ”. Nói cho cùng, luật của Thiên Chúa không áp đặt từ bên ngoài vì “Lời rất gần anh em, ngay trong miệng, trong lòng anh em, để anh em đem ra thực hành”, lời này chúng ta đọc thấy ở Đnl 30: 14, một bản văn loan báo giáo huấn Tin Mừng.
BÀI ĐỌC II (Gc 1: 17-18, 21-22, 27)
Chúng ta bắt đầu đọc thư thánh Gia-cô-bê trong suốt năm Chúa Nhật. Chung chung, tác giả của bức thư này được cho là thánh Gia-cô-bê, người anh em họ của Đức Giê-su. Thánh nhân là người lãnh đạo đầu tiên của cộng đoàn Giê-ru-sa-lem; vì thế, ngài không phải là thánh Gia-cô-bê Tông Đồ, anh của thánh Gioan, tử đạo vào năm 44 sau Công Nguyên. Vả lại, ở đầu thư, tác giả không giới thiệu mình là Tông Đồ: “Tôi là Gia-cô-bê, tôi tớ của Thiên Chúa và của Chúa Giê-su Ki-tô” (Gc 1: 1). Để phân biệt hai vị thánh tiên khởi có cùng tên Gia-cô-bê này, người ta đặt biệt danh cho Gia-cô-bê Tông Đồ là “Gia-cô-bê Tiền”, và Gia-cô-bê anh em họ của Đức Giê-su là “Gia-cô-bê Hậu”. Chính Gia-cô-bê Hậu mà Đức Giê-su đã hiện ra sau khi Ngài sống lại, theo thánh Phao-lô (1Cr 15: 6-7) và thánh nhân đã bị ném đá vào năm 62 do sự xúi dục của vị Thượng Tế đương nhiệm vào thời đó.
Thư được gởi cho các cộng đoàn Ki tô hữu gốc Do thái, sống rải rác trong thế giới Hy lạp-Rô ma (2: 2). Chung chung, người ta nghĩ rằng bức thư được viết vào khoảng giữa năm 58 và 62.
Những lời khuyên trong thư cấu thành nền tảng giáo lý theo cung giọng cổ xưa: không có bất kỳ ám chỉ nào đến việc sống chung giữa những Ki-tô hữu gốc Do thái và những Ki-tô hữu gốc lương dân. Giáo huấn được định vị vào truyền thống của các sách minh triết Cựu Ước, được sứ điệp Tin Mừng đổi mới và soi sáng.
- Chúa Cha, nguồn mạch của mọi ân huệ tốt lành
Thánh Gia-cô-bê bắt đầu gợi lên nguồn mạch đầu tiên của cuộc sống Ki-tô giáo: mọi ân huệ đều xuất phát từ “Chúa Cha, Đấng tạo dựng muôn tinh tú”, ám chỉ đến công trình tạo dựng: trước hết là ánh sáng, đoạn các vầng sáng lớn nhỏ, trong chương thứ nhất của sách Sáng Thế; nhưng chắc chắn cũng phải được hiểu theo nghĩa của những ánh sáng tâm linh.
“Nơi Người không hề có sự đổi thay, cũng không hề có sự chuyển vần khi tối khi sáng”. Những từ ngữ được sử dụng ở đây khiến chúng ta nghĩ đến sự xoay vần của các tinh tú. Người xưa đồng hóa sự bền vững với chân lý, sự chuyển động với sự sai lạc. Tác giả bảo đảm tấm lòng của Thiên Chúa là muôn đời bền vững, không hề “vật đổi sao dời”.
- Người Ki-tô hữu được sinh ra từ Thiên Chúa
“Người đã tự ý dùng Lời chân lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thụ tạo của Người”. Các Ki tô hữu được sinh vào cuộc sống đầy ánh sáng nhờ Lời chân lý, ân huệ tuyệt vời nhất của Chúa Cha, tức Chúa Con, là Đức Giê-su Ki-tô. Vì thế, họ trở thành “của đầu mùa trong các loài thọ tạo của Người”.
Phải chăng tác giả muốn nói rằng các cộng đoàn Ki-tô hữu gốc Do thái mà thánh nhân muốn ngỏ lời hình thành nên một sự khởi đầu của nhân loại mới? Hay đúng hơn, phải chăng nên hiểu: theo ý muốn của Chúa Cha, những người Ki-tô hữu được xem như là hiến lễ đầu tiên của toàn thể nhân loại? Diễn ngữ “của đầu mùa”gợi lên ý tưởng thánh hiến cho Thiên Chúa.
- Đức tin năng động
Từ lời nhắc nhở đạo lý ngắn gọn về ơn gọi Ki-tô hữu, thánh Gia-cô-bê rút ra những kết luận thực tiễn: quan trọng là phải có một đức tin tích cực và, đặc biệt, phải quan tâm đến những người nghèo, hai lời khuyên được lập đi lập lại như điệp khúc xuyên suốt thư này.
Thật có ý nghĩa biết bao khi tác giả viện dẫn việc giúp đỡ cô nhi quả phụ như là mẫu gương, đây là lời căn dặn truyền thống Cựu Ước (Xh 22: 21; Đnl 14: 29; 16: 11; 24: 19; Tv 68: 6; 14: 6, 9; Is 1: 7; Gr 7: 6; vân vân). Như vậy, thánh Gia-cô-bê nhấn mạnh sự liên tục từ luân lý Mô-sê đến luân lý Tin Mừng. Luân lý Tân Ước không hủy bỏ nhưng kiện toàn luân lý Cựu Ước. Đây là sự ghi nhận căn bản của bức thư này. Hành xử như vậy chính là “giữ mình khỏi mọi vết nhơ của thế gian”, cách nói này vang dội Tin Mừng Mác-cô được trích dẫn hôm nay về sự thanh sạch trong lòng.
TIN MỪNG (Mc 7: 1-8, 14-15, 21-23)
Chúng ta lại tiếp tục đọc Tin Mừng Mác-cô, bị gián đoạn để nhường chỗ cho diễn từ “Bánh Hằng Sống” được trích từ Tin Mừng Gioan. Thánh Mác-cô tường thuật cuộc tranh luận của Chúa Giê-su với những người Biệt Phái và một số kinh sư liên quan đến việc tuân giữ truyền thống các tiền nhân.
- Sự thanh sạch và ô uế theo Do thái giáo
Khi quan sát thấy vài môn đệ của Chúa Giê-su không rửa tay trước khi dùng bữa, những người Biệt Phái và kinh sư phàn nàn với Ngài tại sao các môn đệ của Ngài đã không tuân giữ truyền thống tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa.
Vấn đề họ nêu lên ở đây không là việc vệ sinh, mà là một nhận định liên hệ đến phượng tự (Lv 11-15; x. 19: 23-25; 20: 7; Đnl 14: 3-21; 19; 5: 1-4). Khái niệm thanh sạch và ô uế chiếm một chỗ quan trọng trong Do thái giáo. Khác với nhị nguyên thuyết của Hy-lạp, Do thái giáo quan niệm con người là một thực thể thống nhất, vì thế, cái thanh sạch hay ô uế bên ngoài là dấu chỉ cho thấy cái thanh sạch hay ô uế bên trong. Vì thế, chẳng lạ gì khi sách Lê-vi trong bộ Cựu Ước quy định những gì thanh sạch và những gì không thanh sạch.
Thật ra, mọi dân tộc đều đã phân biệt những cử chỉ thanh sạch và không thanh sạch để thiết lập ranh giới giữa phàm tục và thánh thiêng. Trong não trạng người xưa, điều ô uế và điều thánh thiêng là hai khái niệm liên kết mật thiết với nhau. Cả hai đều hàm chứa một sức mạnh huyền bí và đáng sợ, được phát huy do sự tiếp xúc. Cái ô uế và cái thánh thiêng đều “không thể đụng chạm được”; kẻ nào tiếp xúc với hai “cái” này, kẻ ấy cũng trở thành “không thể đụng chạm đến được”. Trong Cựu Ước, chúng ta thấy: người ta không thể dụng chạm đến Hòm Bia Giao Ước, cũng như không được đụng chạm đến tử thi; người mẹ phải được thanh tẩy sau khi sinh con, vì việc sinh nở đã làm cho bà ra ô uế, cũng như vị tư tế phải thay y phục sau khi dâng hy lễ, vì hy lễ đã làm cho vị này ra thánh thiêng. Đây không phải là một sự hoen uế về thể lý hoặc luân lý, và sự thánh thiện đạt được như thế không phải là một nhân đức của tâm hồn, đó là những “trạng thái”, mà người ta phải ra khỏi để trở về đời sống thông thường (R. de Vaux).
Sau cuộc lưu đày, người Do thái đã mất đi nền độc lập quốc gia nên họ càng gắn bó hơn nữa vào chủ nghĩa đặc thù của dân tộc mình và đã tăng thêm những nghi thức cho phép họ phân biệt mình chừng nào có thể với thế giới ngoại giáo. Qua những nét đặc thù này, họ nhấn mạnh phẩm chất của dân tộc mình là dân được Thiên Chúa chọn và tách riêng khỏi mọi dân tộc khác, vì thế họ không được sống như dân ngoại.
Thánh Mác-cô chen vào cuộc tranh luận lời giải thích dài dòng để giúp người đọc hiểu những tập tục tiền nhân mà người Do thái tuân giữ hằng ngày (7: 3-4). Điều này để lộ căn tính của độc giả, họ không là người Ki-tô hữu gốc Do thái nhưng là người Ki-tô hữu gốc lương dân.
- Sự thanh sạch và ô uế theo Chúa Giê-su
Chẳng cần quanh co, Chúa Giê-su vạch trần thói sống đạo giả hình của họ. Đây là lời tố cáo rất nghiêm khắc. “Giả hình” là từ vựng kịch nghệ được dùng để chỉ những diễn viên mang mặt nạ theo nhân vật mà mình diễn. Giả hình là người mà ngôn hành bất nhất, bộ điệu cử chỉ bên ngoài không đi đôi với tâm tình bên trong, cuộc đời chỉ là trò diễn kịch bên ngoài để che dấu con người thật bên trong.
Vì những đối thủ của Ngài là những người am tường Kinh Thánh, Chúa Giê-su viện dẫn lời ngôn sứ I-sai-a để áp dụng vào lối sống đạo của họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân”. Những người Pha-ri-sêu và các kinh sư chỉ phụng sự Thiên Chúa bằng môi miệng nhưng không thật lòng với Ngài. Họ tuân giữ các nghi thức thanh tẩy bên ngoài mà bỏ qua các huấn lệnh của Thiên Chúa. Để minh chứng cho lời kết án của mình, Chúa Giê-su liền trưng ra một ví dụ súc tích về các lời khấn hứa (7: 10-13). Đây là một lãnh vực dễ bị lạm dụng nhiều nhất. Dựa vào một thứ “chủ nghĩa vị luật” quen thuộc, đám Pha-ri-sêu đã bẻ cong một điểm then chốt của Lời Thiên Chúa: sự giúp đỡ cha mẹ trong Thập Giới để đạt được những tặng phẩm dâng cúng cho Đền Thờ. Chắc chắn qua việc lèo lái tinh vi này, những kẻ nhiệt tình bênh vực truyền thống đã rơi vào tình trạng hủy bỏ Lời Thiên Chúa.
Chúa Giê-su không giới hạn cuộc tranh luận chỉ với những người này, nhưng còn mở rộng cuộc tranh luận tới quần chúng ngõ hầu có thể loan truyền sứ điệp của Ngài một cách có hiệu quả hơn: “Sau đó, Đức Giê-su lại gọi đám đông tới mà bảo..”. Trước hết Ngài tuyên bố rằng “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được”: Đức Giê-su xem ra loại bỏ luật Cựu Ước liên quan đến sự ô uế bên ngoài và những quy định về thức ăn đồ uống (x. Lv 11; Đnl 14), luật này không chỉ chiếm nhiều phân đoạn của bộ Ngũ Thư nhưng cũng đã trực tiếp làm bận lòng những người trong cuộc sống thường ngày của mình.
Sau khi đã phê phán lối sống đạo giả hình, chỉ biết tuân giữ cái bên ngoài, Chúa Giê-su tập trung vào “cái bên trong”. Chính cái gì xuất phát từ trong lòng con người mới làm cho con người ra ô uế, tức là chính từ tà tâm mà mọi ý đồ đen tối nham hiểm xuất ra. Việc phân biệt con người giữa cái bên ngoài và cái bên trong xem ra rất mới mẽ đối với truyền thống Do thái giáo.
- Ý nghĩa của cuộc tranh luận này
Bản văn này chiếm một vị trí quan trọng đặc biệt. Điểm nhấn thần học mà tác giả nhắm đến là luật Cựu Ước trong mối tương quan với Đức Giê-su. Ngài loại bỏ truyền thống Pha-ri-sêu chung quanh việc tuân giữ luật nghi thức như rửa tay, lên án việc lấy giáo huấn phàm nhân thay thế huấn lệnh của Thiên Chúa bằng cách sử dụng luật như cách thức trốn tránh bổn phận của mình (thực hành luật co-ban), và Ngài hủy bỏ luật thức ăn của Cựu Ước. Hậu ý của cuộc tranh luận này đòi hỏi Ki-tô học mặc nhiên, Đức Giê-su là người có thẩm quyền giải thích luật Cựu Ước.
Ngoài ra, đoạn văn này đã được tác giả Mác-cô đặt ngay trước đoạn tường thuật hoạt động của Đức Giê-su bên đất dân ngoại. Rõ ràng tác giả đã dùng bản văn này như một lời công bố nguyên tắc: Đức Giê-su đã loại bỏ sự phân biệt giữa “thanh sạch và ô uế”. Không có hàng rào nào mà lại do Thiên Chúa muốn có giữa loài người. Chỉ có những hàng rào đã được loài người dựng lên (mà như thế là không biết ý muốn của Thiên Chúa), mà bây giờ phải lật đổ, bởi vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” (1: 15).
Đức Giê-su bắt đầu hủy bỏ ranh giới giữa những thức ăn thanh sạch và những thức ăn ô uế, cuộc cách mạng này sẽ được các Tông Đồ (x. Cv 10: 10) và thánh Phao-lô (x. 1Cr 6: 12 và 10: 12-20) tiếp tục. Việc mở ra cho thế giới lương dân đòi buộc phải trả bằng giá này và còn hơn nữa việc nội tâm hóa luật luân lý mà Đức Giê-su không ngừng công bố.
.
Anna Cỏ May
Trong các trường học, nơi các công ty, xí nghiệp hay những quán vui chơi… luôn có những nội quy yêu cầu dành cho mọi người khi đến học, làm việc hay vui chơi… Tất cả những nội quy ấy nhằm phục vụ và đem lại sự an toàn cho mọi người. Những người Pharisêu cũng đã sống và giữ luật tiền nhân, họ đã giữ luật ấy với tâm tình thái độ gì?
Sau những chuyến đi cùng với Thầy Giêsu, các môn đệ đã mệt mỏi và đói. Trong khi dùng bữa, tay các môn đệ còn ô uế, nghĩa là chưa rửa. Thấy vậy, các người Pharisêu và các kinh sư đã hỏi Chúa Giêsu: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” (Mc 7,6). Họ trung thành giữ luật và muốn người khác cũng phải giữ luật như họ. Họ không còn một lý do nào khác hơn cho việc giữ luật. Và dường như không có sự tự do của con người trong những luật ấy. Một khi có ai đến nơi đó sống, điều phải giữ luật tiền nhân.
Đứng trước câu hỏi của nhóm Pharisêu và các kinh sư, Chúa đã lấy những lời của Ngôn sứ Isaia mà nói với họ: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng lại xa ta” (Mc 7,6). Đối với Chúa, họ đã gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì những truyền thống của con người.
Bấy giờ Chúa gọi đám đông lại, mà nói cho họ hay về những điều gây ra sự ô uế thật sự và xuất phát từ đâu, Ngài nói: “ Không có cái gì từ bên ngoài vào vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,15). Vậy cái từ bên ngoài là gì? Đó là đồ ăn, nước uống… Tất cả những thứ đó vào bụng rồi bị thải ra ngoài, nó đâu vào tấm lòng của con người hay vào trong lương tâm. Những thứ ấy chỉ nuôi thân xác mà thôi. Cái bên trong thật nguy hiểm, đó chính là những suy nghĩ, ý định xấu như: gian dối, kiêu ngạo, ngông cuồng…”(x. Mc 7,21-23). Đó là những thứ dẫn mọi người đến chỗ ô uế, ô uế cả thân xác lẫn linh hồn. Bởi vì suy nghĩ, ý định xấu sẽ đưa ta đến hành động xấu. Mặt khác, thân phận chúng ta rất yếu đuối, dễ theo điều xấu hơn điều tốt.
Thiên Chúa yêu thương con người bằng tấm lòng của người cha nhân hậu. Chúa muốn nhắn nhủ với con cái của Ngài là tuân giữ các điều răn của Thiên Chúa bằng trái tim tình yêu, bằng tấm lòng bác ái và không lệ thuộc vào các lề luật. Lời mời gọi ấy còn tha thiết hơn trong bối cảnh xã hội hiện nay. Một xã hội đang dửng dưng, vô cảm trước mạng sống con người.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho chúng con những lề luật yêu thương qua các Bí tích, các điều răn và các mối phúc. Chúa cho chúng con được sinh ra và lớn lên trong cái nôi của Gíáo hội. Xin cho chúng con biết sống trong tâm tình biết ơn,và một tinh thần sống và tuân giữ lề luật trong tình bác ái yêu thương. Nhờ đó danh Cha được rạng ngời và chúng con cùng mọi người được ơn cứu độ. Amen.
CHỈ NGHE SUÔNG LÀ LỪA DỐI CHÍNH MÌNH
Lm. Bosco Dương Trung Tín
“Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em. Lời đó có sức cứu độ linh hồn anh em” (Gc 1,21b).
Thánh Gia-cô-bê khuyên chúng ta rằng: chúng ta hãy khiêm tốn đón nhận Lời Chúa gieo vào lòng chúng ta. Vì sao ? Vì Lời Chúa đó có sức cứu độ linh hồn chúng ta. Ngài còn nói rõ hơn rằng: “Thiên Chúa đã tự ý dùng Lời Chân Lý mà sinh ra chúng ta, để chúng ta nên như của đầu mùa trong các thọ tạo của Người” (x. Gc 1,18).
Lời Chân Lý chính là Lời Chúa; chính là Lời Tin Mừng mà Đức Giê-su đã rao giảng và đã được ghi lại trong các sách Phúc Âm. Lời Chúa là Chân Lý cho người tín hữu chúng ta. Lời Chúa đó mới có sức cứu độ linh hồn chúng ta mà thôi.
Cũng nhờ nhờ Lời Chúa đó mà chúng ta được sinh ra trong phép Rửa Tội, để ta trở nên thọ tạo mới; ta trở nên con Thiên Chúa và đem lại cho chúng ta sự sống đời đời.
Bởi đó mà ta phải có lòng khiêm tốn như Đức Ma-ri-a để có thể nhận lãnh Lời Chúa; để Lời Chúa được gieo vào lòng chúng ta. Trong biến cố Truyền Tin, Đức Ma-ri-a đã nói: “Này tôi là tôi tá Chúa, tôi xin vâng như lời Thiên Thần truyền” (x.Lc 1,38).
Lời Chúa không phải như lời người phàm, Lời Chúa vượt lên trên sự hiểu biết và sự khôn ngoan của con người chúng ta. Có khi chúng ta khó chấp nhận, vì cách suy nghĩ của chúng ta không hợp với cách suy nghĩ của Thiên Chúa. Một ví dụ điển hình như trường hợp một trinh nữ mà sinh con;Một người nữ chưa ăn ở với người nam mà có thai thì không thể chấp nhận được và cũng không thể lý giải được. Điều này chính đức Ma-ri-a đã thưa với Thiên Thần chứ không phải chúng ta bây giờ. Nhưng “Đó là Lời Chúa”. Đức Ma-ri-a chỉ biết khiêm tốn và xin vâng.
Quả thực, phải có lòng khiêm tốn và lòng tin thì ta mới có thể đón nhận Lời Chúa được. Và nhờ Lời Chúa đó mà ta được cứu độ, nghĩa là làm cho ta nên thánh nên thiện. Thực thế trong bài Phúc Âm hôm nay cho ta thấy rõ điều đó.
Lời của tiền nhân; lời của người xưa, qua các câu ca dao, tục ngữ; đó là những đúc kết những kinh nghiệm mà các ngài để lại.Đó là những kinh nghiệm sống ở đời này, chứ không đem lại cho ta sự sống đời đời. Nào là phải rửa tay, rửa bình, rửa chén cho sạch trước khi ăn. Đó chỉ là phép vệ sinh trước khi ăn, chứ không làm cho ta nên thánh nên thiện được. Vì đồ ăn thức uống, nếu xấu, tức là hư thối hay tay chân ta vấy bẩn, có thể làm cho ta đau bụng hay “Tào Tháo đuổi” thôi, chứ không làm cho tâm hồn hay con người của ta nên tốt hay ra xấu xa được.
Chỉ có, “những gì từ bên trong, từ lòng người phát xuất ra những ý định xấu như: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngồng cuồng”, mới làm cho con người và tâm hồn ta xấu xa mà thôi.
Thế đấy, Lời Chúa và lời của con người khác xa nhau biết mấy; cách nghĩ của con người cũng “một trời một vực” với cách nghĩ của Thiên Chúa. Cho nên muốn được cứu độ, muốn nên thánh nên thiện ta phải nghe và thực hành Lời Chúa, chứ không có cách nào khác. Việc này phải có “hai thì” chứ “một thì” không được. Tức là NGHE và THỰC HÀNH.
Nếu ta chỉ có nghe Lời Chúa không thôi, thì Lời Chúa chẳng sinh ích gì cho ta; chẳng làm cho ta nên thánh nên thiện được. Ta mà chỉ NGHE SUÔNG thì ta tự lừa dối chính mình. Thánh Gia-cô-bê nói: “Anh em hãy đem Lời đó là thực hành, chứ đừng nghe suông mà lừa dối chính mình” (x.Gc 1,22). Tại sao lại là lừa dối chính mình?
Vì ta cứ tưởng chỉ được rửa tội, chỉ nghe Lời Chúa; ta chỉ đi đọc kinh, dâng lễ hằng ngày hay hàng tuần là chắc mẻm ta được cứu độ; ta sẽ nên thánh nên thiện; ta sẽ được lên thiên đàng. Điều này không đúng. Chúa đâu có nói như vậy bao giờ. Cứ tìm trong các sách Phúc Âm, không có chỗ nào Đức Giê-su nói như thế cả. Chắc chắn 100%.
Giáo Hội, có lúc cũng đã nói như thế và có khi Linh mục cũng đã giảng như thế. Nói như thế và giảng như thế thì không đúng với ý Chúa, không đúng với Phúc Âm rồi. Nói như thế và giảng như thế là mị dân, là nói dối. Giáo Hội đã có lúc sai lầm và các Linh mục giảng, có hồi cũng đã sai lầm. Cũng vì tiền, vì của; vì danh, vì lợi mà đã bóp méo Lời Chúa; nói dối, nói láo.
Ngày xưa khi Giáo Hội cần tiền để xây Đền Thờ, đã mại thánh và nói rằng: “Khi một đồng tiền bỏ vào thùng kêu một tiếng keng, là có một linh hồn lên thiên đàng”. Nếu thế thì những tay nhà giàu lên thiên đàng thẳng cẳng hết rồi. Thế nhưng Đức Giê-su lại nói: “Người giàu có khó vào thiên đàng. Con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào thiên đàng”(x. Mt19, 23-24). Vậy thì ta tin ai đây ? Ai đúng ai sai ? Chúa sai hay Giáo Hội sai?
Nói đúng ra Chúa không sai và Giáo Hội cũng không sai, chỉ có những con người lãnh đạo Giáo Hội, các Giáo Hoàng; các Giám Mục, các Linh Mục là sai thôi, vì các ngài cũng là những con người. Nên ta phải tin vào Chúa và thực hành Lời Chúa là chắc ăn nhất. Giáo Hội: Giáo Hoàng, Giám Mục hay Linh Mục mà giảng Lời Chúa; giúp ta sống Lời Chúa thì ta hãy theo và thực hành, nếu không ta cũng sẽ bị lừa dối và lừa dối chính mình.
Những ai có nhiệm vụ giảng Lời Chúa, cũng phải coi lại lời giảng của mình, xem có đi ngược lại với Lời Chúa nói không? Ta có giảng Lời Chúa hay là giảng “lời ta”. Ta mà giảng lời ta thì ta phải lãnh trách nhiệm nặng nề trước mặt Chúa lắm đấy. Vì ta đã bóp méo Lời Chúa; ta đã uốn cong Lời Chúa, mà nói sai, nói bậy; đã lừa dối các tín hữu; không làm cho đức tin của họ mạnh lên; ta không được vào thiên đàng mà còn kéo cả họ xuống với ta nữa thì khốn cho ta biết chừng nào. Ta phải là người đầy tớ trung thành của Chúa và trung thực rao giảng Lời Chúa.
Quả thực, nếu ta lười biếng không thực hành Lời Chúa, ta chỉ nghe suông, nói suông thì ta tự lừa dối chính mình. Ta cứ đinh ninh rằng, ta đã được rửa tội; ta là Linh mục, hằng ngày, hàng tuần dâng lễ, nghe Lời Chúa; rước Mình Thánh Chúa; lần hạt mân côi, là ta chắc ăn được lên thiên đàng. Nếu đến khi chết, ta lên gặp Chúa, Chúa không cho ta vào thiên đàng, vì ta chưa nên thánh nên thiện. Lúc đó thì “hỡi ôi!!!”; “công cốc, công cò”. Mà ta có cố gắng sống Lời Chúa gì đâu; tại ta nghĩ, tại ta tự lừa dối mình đấy chứ.
Vậy ta phải thức tỉnh ngay hôm nay; nếu trước ta đã nghĩ như thế thì ngay bây giờ, ta phải bỏ ngay những ý nghĩ đó đi; phải làm lại ngay; phải đổi hướng ngay; ta đã trật hướng, đã đi sai đường rồi. Ta phải nghe và thực hành Lời Chúa trong cuộc sống của mình ngay kẻo không kịp. Ta phải lấy lòng khiêm tốn và đức tin để đón nhận Lời Chúa gieo vào lòng ta, để ta càng ngày càng nên thánh nên thiện. Ta sẽ an tâm và cố gắng và như thế ta mới nắm chắc sẽ có chiếc vé vào thiên đàng. Đừng có lười lĩnh mà lừa dối chính mình; cũng đừng để ai lừa dối mình, kẻo ta mất cả chì lẫn chài; mất cả đời này lẫn đời sau đấy.
TÔN KÍNH BẰNG ĐẦU MÔI CHÓT LƯỠI
JM. Lam Thy
Do Thái giáo có những luật lệ rất khắt khe: không dùng bữa mà không rửa tay trước, và ở nơi công cộng về, họ không dùng bữa mà không tắm rửa trước; không được ăn thịt heo, thịt thú chết ngạt; không được đụng vào xác chết, chạm vào người phong cùi; không được ngồi chung bàn với dân ngoại, không được vào nhà những người bị coi là tội lỗi v.v… Họ còn giữ nhiều tập tục khác nữa, như rửa chén, rửa bình, rửa các đồ đồng. Đối với người Pha-ri-sêu, ai đụng vào, sờ vào hay ăn những đồ cấm kỵ là trở nên ô uế. Nếu chỉ nhìn trên bình diện đời sống trần tục thì nói chung những luật lệ đó là tốt đẹp; ngoại trừ tục “không được đụng vào xác chết, chạm vào người phong cùi; không được ngồi chung bàn với dân ngoại, không được vào nhà những người bị coi là tội lỗi” nằm trong vấn đề giao tiếp, đối xử trong cộng đồng, thì không thể chấp nhận được.
Bài Tin Mừng hôm nay (CN XXII/TN-B – Mc 7, 1-8a.14-15.21-23) trình thuật một nhóm người Pha-ri-sêu và một số kinh sư từ Giê-ru-sa-lem đến. Họ thấy vài môn đệ của Đức Giê-su dùng bữa mà chưa rửa tay; họ liền hỏi Người: “Sao các môn đệ của ông không theo truyền thống của tiền nhân, cứ để tay ô uế mà dùng bữa?” Vấn đề đặt ra ở đây là động cơ thúc đẩy bọn người Pha-ri-sêu căn vặn Đức Ki-tô. Họ không nói đến vấn đề vệ sinh ăn uống, mà là muốn đặt vấn đề giới luật để gài bẫy đối tượng mà họ đố kỵ, ganh ghét. Hiểu quá rõ về tâm lý đó, nên Đức Ki-tô đã nói thẳng: “Ngôn sứ I-sai-a thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông là những kẻ đạo đức giả, khi viết rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân’. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm.” (Mc 7, 6-8).
Đức Giê-su còn nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 15), Để ý một chút sẽ thấy Đức Ki-tô dùng tiếng ô uế (Từ nguyên: Ô: vẩn, đục; Uế: bẩn thỉu – Ô uế: nhơ nhớp, dơ bẩn – Vd: Cuộc đời ô uế của gái mại dâm) là có ý nói đến cả cuộc sống của con người chớ không chỉ là việc ăn uống (Nếu thức ăn do bàn tay không sạch sẽ đưa vào trong cơ thể sẽ khiến cho cơ thể đau yếu, bệnh tật, chớ không phải làm cho con người ra ô uế). Người còn giải thích rõ hơn: “Cái gì từ trong con người xuất ra, cái đó mới làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.” (Mc 7, 20-23). Rõ ràng Đức Ki-tô đã cho họ thấy rằng động lực thúc đẩy con người trở thành ô uế là từ nội tâm tư tưởng.
Rửa tay trước khi ăn là ăn cơm bánh để nuôi dưỡng thể xác. Nhưng điều Chúa muốn nói đến ở đây là ăn của ăn thiêng liêng, mà với của ăn tâm linh thì điều tất yếu là phải rửa sạch mọi vết nhơ của cõi lòng. Điều đáng tiếc là những người đặt nặng những hình thức bên ngoài, thì lại thường coi nhẹ cái cốt lõi bên trong lề luật. Đức Giê-su đã lên án điều ấy: “Khốn cho các người, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các người nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ. Quân dẫn đường mù quáng! Các người lọc con muỗi, nhưng lại nuốt con lạc đà.” (Mt 23, 23-24). Đức Giê-su đã phê bình đám kinh sư chỉ câu nệ vào Lề Luật nơi những điều phụ thuộc, còn điều quan trọng thì không màng tới. Người nhấn mạnh: “Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ”. Rõ ràng là Người không những chỉ nhắc nhở phải lưu tâm tới điều trọng yếu trong Lề Luật, mà còn nhắc nhở không được bỏ qua những điều thứ yếu.
Một cách cụ thể thì việc giữ luật không câu nệ theo hình thức bên ngoài, hoặc những tiểu tiết, những điều phụ thuộc, mà hệ tại một cái gì đó sâu xa hơn nhiều, là cái quan trọng nhất trong luật, là cốt tủy của lề luật. Cái đó chính là tuân giữ tinh thần chủ yếu của lề luật bằng cả tấm lòng. Nói cách khác, đó là “Đạo Tại Tâm” vậy. Khi nói “Đạo Tại Tâm”, thường thì cần phải phân biệt nghĩa chiểu tự và nghĩa thiêng liêng: Theo nghĩa chiểu tự thì “Đạo” chỉ có nghĩa là con đường, nhưng theo nghĩa thiêng liêng thì Đạo mang màu sắc tôn giáo. Gộp chung cả 2 nghĩa thì Đạo chính là đường đi nước bước của một tôn giáo. Vậy “Đạo Tại Tâm” là muốn nói đến tinh thần, đường hướng của một tôn giáo cốt ở trong lòng, ở nội tâm, chớ không chỉ ở hình thức bên ngoài (“Nhưng người Do Thái chính hiệu là người Do Thái tận đáy lòng, phép cắt bì chính hiệu là phép cắt bì trong tâm hồn, theo tinh thần của Lề Luật chứ không phải theo chữ viết của Lề Luật. Người như thế được Thiên Chúa chứ không phải người phàm khen ngợi.” – Rm 2, 29). Nếu quá câu nệ vào hình thức bên ngoài mà trong lòng trống rỗng, không thành thật, thì đó chỉ là thứ “giả hình”, là “made in Pha-ri-sêu” mà thôi.
Nói như vậy cũng không có nghĩa là “Đạo Tại Tâm” chỉ giữ đạo ở trong lòng mà không cần giữ các lề luật bên ngoài. Thực ra những lề luật của Ki-tô giáo đều là những quy tắc giúp tín hữu tuân giữ các giới luật của Thiên Chúa, mà giới luật của Thiên Chúa chỉ quy về một điều răn quan trong nhất là Tình Yêu: “Mến Chúa yêu người” (muốn mến Chúa “hết lòng, hết linh hồn, hết trí khôn” thì phải biết “yêu anh em như yêu chính mình”, đổi lại, chỉ những ai thực sự yêu người như yêu chính mình mới là thực lòng mến Chúa). Do đó, “Đạo Tại Tâm” phải là “sống đạo và thực hành các giới răn của Chúa” với tất cả tấm lòng, chứ không phải chỉ để phô trương bề ngoài. Sống đạo thực sự là yêu mến và tuân giữ các giới răn của Chúa, và thực thi lòng yêu mến đó bằng cách yêu thương giúp đỡ mọi người, nhất là những người sống trong hoàn cảnh khó khăn, bệnh tật. Sống đạo thực sự là phải tuân giữ và thực hành “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật”, đồng thời “Các điều này (chủ yếu) vẫn cứ phải làm, mà các điều kia (phụ thuộc) thì không được bỏ” (ibid).
Tóm lại, Lời Chúa hôm nay muốn nhắc nhở mọi tín hữu hãy tuân giữ các giới răn của Chúa và đem ra thực hành Lời Chúa như lời khuyên của Thánh Gia-cô-bê Tông đồ khưyên các tín hữu hãy sống đạo bằng cách thực hành, đó là xa tránh tội lỗi và thực hành đức bác ái (“Anh em hãy tẩy trừ mọi điều ô uế, gian ác… Anh em hãy mau mắn lãnh nhận Lời Chúa và đem ra thực hành, chứ đừng nghe suông… Hãy giữ lòng mình khỏi mọi ô uế ở đời này… Hãy thăm viếng cô nhi, quả phụ trong cơn quẫn bách…” – Gc 1, 17 -18.21-22.27). Chúa Giê-su chỉ phê phán bọn kinh sư Pha-ri-sêu giả hình (“Dân này tôn kính Ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta” – Mc 7, 6); Người không hề bác bỏ Lề Luật (“Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.” – Mt 5, 18).
Ôi! Lạy Chúa! Nhìn lại mình, con thấy cách này cách khác con cũng chẳng hơn gì đám người Pha-ri-sêu chỉ câu nệ vào truyền thống, vào hình thức, mà quên đi cái cốt tuỷ bên trong là giới răn của Chúa. Quả thật, không ít lần con đã ”gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa, mà duy trì truyền thống của người phàm” (Mc 7, 8). Ôi! Lạy Chúa! “Xin chỉ cho con đường đi của Chúa, xin chỉ cho con nước bước của Ngài, xin hướng dẫn con trong Chân Lý, xin dạy bảo con những điều cao quý, vì Chúa là Đấng cứu độ con, là Đấng ngày đêm con cậy trông.” (“Xin chỉ cho con” – Hùng Lân – TCCĐ). Cúi xin Chúa đồng hành với con trong mọi tình huống để giúp con luôn chú trọng đến “những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và sự thành thật” mà đem ra thực hành trong suốt đời con. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.
TUÂN GIỮ GIỚI RĂN LỀ LUẬT CỦA CHÚA
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Kỳ thi phổ thông quốc gia vừa qua đã để lại nhiều tai tiếng cho ngành giáo dục và xã hội. Nhiều thí sinh là con của các quan chức tại các tỉnh phía bắc có số điểm cao bất thường. Khi chấm điểm lại, người ta thấy có sự chênh lệch điểm đến không thể tin được, có những học sinh dưới trung bình được nâng thành điểm xuất sắc. Những người có liên quan tìm cách lấp liếm, quanh co chối bỏ trách nhiệm.
Thưa quý OBACE, xã hội ngày nay đang lan tràn sự gian dối, giả trá từ cấp cao nhất đến những những nhân viên thấp nhất. Người dân dường như không muốn nghe những bài tuyên giáo sáo rỗng, dối trá của những người lãnh đạo, báo đài, bởi vì sự dối trá đang làm mất lòng tin của người dân. Những người có trách nhiệm, họ nói một đàng lại làm một nẻo, ngôn hành bất nhất, khiến cho người dân mất lòng tin, xã hội trở nên rối ren, lộn xộn, vô luật pháp.
Xã hội Do Thái ngày xưa cũng rơi vào tình trạng rối ren như thế. Những người lãnh đạo chỉ lo vơ vét của cải cho bản thân và gia đình. Đời sống của họ trở nên bê bối, thành gương xấu cho người khác. Họ tùy tiện uốn nắn, thay thế lề luật của Thiên Chúa bằng các thói quen tập tục có lợi cho bản thân. Trách nhiệm chính của các nhà lãnh đạo là giảng dạy, hướng dẫn dân đi theo đúng giới răn lề luật của Chúa. Tuy nhiên, chính họ lại vi phạm lề luật và tìm cách thêm nhiều chi tiết vào luật để biện minh, che đậy cho sự sai trái của mình.
Tin Mừng hôm nay kể về cách hành xử của những người lãnh đạo Do Thái: Các người Pharisêu trách Chúa Giêsu và các môn đệ của Ngài không giữ tập tục thanh sạch, không thực hành nghi thức thanh tẩy chén bát và rửa tay trước khi vào bàn ăn. Họ cho rằng Chúa Giêsu và các môn đệ đã vi phạm tập tục của tiền nhân. Theo luật tinh sạch của người Do Thái: tất cả đồ ăn, đồ dùng hoặc khi ra ngoài trở về, họ phải thực hiện một nghi thức thanh tẩy: tắm rửa, thay quần áo, rảy nước trên đồ vật… Đây không phải là việc làm theo phép vệ sinh ngày nay, nhưng họ thanh tẩy vì cho rằng có thể dân ngoại hoặc người bị ô uế đã đụng chạm đến các đồ vật ấy.
Chúa Giêsu đã muốn đưa những người Pharisêu này trở lại với ý nghĩa nguyên thủy của việc thanh tẩy này. Ngài trích lời Isaia để nói với họ: “Dân này tôn kính ta bằng môi bằng miệng, còn lòng chúng thì xa ta. Các ông gạt bỏ điều răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm”. Điều Thiên Chúa muốn nơi mỗi người không phải là những hình thức giả dối bên ngoài nhưng phải là tấm lòng thành. Chúa muốn mỗi người cần phải thanh tẩy tâm hồn khỏi mọi ô uế hơn là những hình thức thanh tẩy bên ngoài. Chúa muốn mỗi người biết đặt ưu tiên cho việc chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống ngay thẳng công minh, chính trực, hơn là giữ các tập tục vô nghĩa. Nói như thế, Chúa không phủ nhận các giá trị tốt đẹp của tiền nhân, nhưng Chúa chê trách những người nại vào tập tục mà bỏ qua việc chu toàn giới răn lề luật của Thiên Chúa hoặc giữ luật mà không hiểu ý nghĩa của luật.
Đàng khác, Chúa trách những luật sĩ và biệt phái vì họ đã làm ngơ trước lề luật của Thiên Chúa và dạy người khác làm theo luật của riêng mình. Ví dụ họ cho rằng những ai chỉ cần tuyên bố sẽ dâng cúng tất cả tài sản của mình cho đền thờ, thì người ấy không phải nuôi dưỡng báo hiếu cha mẹ nữa. Đây chắc chắn không phải là điều Thiên Chúa dạy. Thiên chúa đòi buộc mỗi người phải thảo kính cha mẹ. Ai không chu toàn là có lỗi với cha mẹ và có tội trước mặt Thiên Chúa. Nhưng vì muốn cho có nhiều người dâng cúng vào đền thờ mà các luật sĩ và thượng tế đã đặt ra luật như thế.
Chúa Giêsu gọi đám đông đến và nói cho mọi người một nguyên tắc căn bản: Đó là phải tôn trọng tiếng lương tâm trong sáng, nghe và làm theo tiếng nhắc bảo của lương tâm. Chúa Giêsu dùng cách so sánh cụ thể: “Không phải những cái từ bên ngoài vào trong con người có thể làm cho họ ra ô uế, mà chỉ những cái từ trong xuất ra mới có thể làm cho con người ra ô uế mà thôi”. Chúa Giêsu cũng giải thích thêm “cái bên trong” đó là: “tư tưởng xấu, tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng nó phát xuất từ trong tâm hồn và làm cho tâm hồn ô uế”. Đúng như vậy, tư tưởng sẽ chi phối hành động. Tư tưởng xấu xa mờ ám, thì dẫn đến hành động xấu xa gian dối; tư tưởng suy nghĩ quanh co thì hành động cũng quanh co không ngay thẳng; tư tưởng dâm ô thì từ lời nói đến hành động sẽ là những điều dâm ô.
Đối với Chúa Giêsu, điều quan trọng là mỗi người cần thanh tẩy, điều chỉnh suy nghĩ của mình trước; thanh tẩy từ trong tâm hồn. Thay đổi được suy nghĩ, sẽ thay đổi được hành động và đời sống. Suy nghĩ những điều tốt đẹp, tích cực thì sẽ hành động tích cực tốt đẹp cho người khác. Suy nghĩ những điều thánh thiện, thì cuộc sống và việc làm sẽ thánh thiện.
Ngày xưa trong Cựu ước, Thiên Chúa cũng đã dùng ông Môsê để cánh báo về việc giữ giới răn lề luật của Thiên Chúa sao cho cho tinh ròng, đừng tự ý thêm hoặc bớt lề luật Chúa. Vì lề luật của Thiên Chúa là do ý muốn của Thiên Chúa. Ai tuân giữ cách vuông tròn, đó là người khôn ngoan và lề luật của Chúa sẽ gìn giữ người ấy. Hơn nữa, Môsê còn kêu gọi mọi người hãy luôn cảm thấy tự hào vì không có dân tộc nào được Thiên Chúa ưu ái ban lề luật của Ngài như Chúa đã ban cho dân Do Thái. Tuy nhiên, những lời căn dặn của Môsê đã không được người Do thái lưu ý. Họ tìm cách sửa luật Chúa theo ý muốn và theo lợi ích riêng của mình, biến việc giữ luật chỉ còn là hình thức bên ngoài không còn ý nghĩa ban đầu. Sau nhiều thế kỷ, người Do thái đã thêm vào lề luật của Chúa nhiều chi tiết và nhiều các thứ luật khác khiến cho đa số người dân không thể phân biệt đâu là giới răn của Chúa đâu là luật của các thượng tế, luật sĩ.
Thưa quý OBACE, không chỉ những người Do thái ngày xưa, mà chúng ta hôm nay cũng bị tình trạng như thế. Nhiều người trong chúng ta tin Chúa, theo Chúa nhưng không muốn giữ lề luật của Thiên chúa. Nhiều người cho rằng luật Chúa ngày nay con người không thể giữ được. Vì vậy, họ tìm cách xén gọt luật Chúa cho vừa với ý của mình. Nhiều người khi bước vào cuộc sống hôn nhân, họ cam kết chu toàn luật Chúa và Giáo Hội. Họ công khai nói lên sự thuỷ chung và vĩnh viễn của hôn nhân công giáo. Thế nhưng, có nhiều người đã tìm cách phá vỡ mối dây hôn nhân, tìm cách hủy bỏ lời cam kết. Họ đưa ra rất nhiều lý do để biện mình cho lối sống, suy nghĩ và hành động sai trái của mình. Ngày nay có cả những phong trào nổi lên gây sức ép, nhằm phá hủy luật hôn nhân của Chúa để thay thế bằng luật của con người.
Sống trong một tổ chức nào cũng cần phải có lề luật để duy trì sự trật tự và giúp phát triển tổ chức đó. Cũng vậy, là thành viên trong gia đình Hội Thánh của Thiên Chúa, chúng ta cũng phải chu toàn những lề luật của Hội Thánh. Vì Hội Thánh là của Chúa Kitô, do Chúa Kitô thiết lập để thi hành sứ mạng Chúa Kitô trao phó. Vậy mà, có những người đang tìm cách gây sức ép để Hội Thánh thay đổi lề luật của mình với lý luận: Luật do Hội Thánh đặt ra thì Hội Thánh có quyền thay đổi. Ví dụ như luật về hôn nhân gia đình, luật bảo vệ sự sống… Luật của Hội Thánh là do ý định của Thiên Chúa, nhằm xây dựng Hội Thánh. Vì thế, Hội Thánh không thể đi ngược với ý định của Chúa Kitô.
Trong một cộng đoàn nhỏ hơn là giáo xứ, gia đình cũng cần có những quy định phù hợp với lề luật của Thiên chúa nhằm bảo vệ, củng cố và phát triển cộng đoàn và gia đình. Vì thế, mỗi người đừng vì ý thích cá nhân, cũng đừng nhân danh tự do cá nhân hoặc quyền lợi nào đó mà coi thường luật Chúa và Giáo hội hoặc những quy định của cộng đoàn và gia đình. Vì tất cả những lề luật của Thiên chúa và Hội Thánh là nhằm giúp ta tiến triển và đạt tới đời sống thánh. Những quy định trong giáo xứ và gia đình là chuẩn mực, nhằm giúp ta hoàn thiện con người mình mà thôi.
Xin Chúa giúp chúng ta nhận ra ý Chúa qua các giới răn lề luật của Chúa và giúp chúng ta thi hành, chu toàn luật Chúa cách vui tươi và tự do. Amen.
Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương
Hôm nay, Chúa Nhật XXII thường niên B, chúng ta tìm hiểu về Luật Chúa là luật đích thực của tôn giáo. Luật này được kiện toàn trong bí tích tình yêu và chỉ tồn tại trong tâm hồn tinh truyền và thánh thiện. Vì thế, các bài đọc hôm nay hướng dẫn chúng ta suy tư về cách thế tốt nhất để tuân giữ luật Chúa, nhờ đó chúng ta đạt tới ơn cứu độ.
Trong bài đọc I, Môsê nhắc nhở dân người về các huấn lệnh của Thiên Chúa và yêu cầu họ phải kiên tâm bền chí tuân giữ để được sống hạnh phúc. Ông cũng nghiêm túc lưu ý họ không được thêm hoặc bớt điều gì. Tuy nhiên, lời cảnh báo này đã không được thực hiện một cách nghiêm túc, bởi vì sau này những người Pharisêu đã biến 10 điều răn thành 613 khoản quy định tỉ mỉ.
Vì thế, họ đã làm cho cuộc sống trở nên khó khăn và phức tạp một cách thái quá đối với dân Chúa. Đó là lý do tại sao trong thư Galát chương 3, thánh Phaolô đã đối diện với trường hợp như thế nên ngài đã mạnh mẽ chống lại “lề luật.” Ngài không hoàn toàn lên án lề luật, nhưng lên án cách thức mà những người Pharisêu quan niệm, lạm dụng và trình bày lề luật. Ngài cho rằng tinh thần Lề Luật còn quan trọng hơn các chữ viết.
Cũng thế, trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu chống lại nhóm Biệt Phái vì sự giả hình của họ. Họ không bao giờ giữ luật mà họ đã đề ra cho dân. Đây là cách thức nguy hiểm của đời sống mà chúng ta (những linh mục, tu sĩ và những Pharisêu thời nay) phải cẩn thận xa tránh. Chúng ta không được sống một cuộc sống giả hình, cũng như làm cho cuộc sống trở nên phức tạp hơn cho người khác; hay đôi khi chúng ta chỉ thích bắt bẻ, chỉ trích và lên án người khác, nhưng lại không ý thức về giới hạn của mình.
Đặc biệt, trong khi nhóm Biệt Phái chỉ chú trọng đến hình thức và nệ luật bên ngoài, Chúa Giêsu chỉ cho thấy căn nguyên sâu xa nhất của mọi sự xấu xa và thiện hảo khi Người nói: “Không có gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế” (Mc 7,15). Người mời gọi chúng ta phải kiểm điểm chính mình. Bởi lẽ, từ bên trong, nơi lòng chúng ta, những ý định xấu xa, ghen ghét, kiêu ngạo, những khuynh hướng đồi bại mà chúng ta lưu giữ trong lòng thực sự là những gì biến đổi chúng ta và làm cho chúng ta là ai. Chúng là những tật xấu làm cho chúng ta trở nên xấu xa. Chúng ta phải loại trừ chúng trước khi chúng cắm rễ sâu và làm cho toàn bộ con người chúng ta ra hư hỏng. Chúng là những kẻ thù đích thực và ẩn mặt mà chúng ta phải chiến đấu và chiến thắng mỗi ngày.
Phẩm chất của đời sống chúng ta được đo lường nhờ phẩm chất của tâm trí chúng ta. Nếu tâm trí chúng ta bị phá hoại và bệnh hoạn, thân xác chúng ta sẽ bị bệnh hoạn gấp trăm lần, ngay cả khi chúng ta không ý thức điều đó. Như thế, điều quan trọng nhất mà Thiên Chúa cần nơi chúng ta là tâm hồn trong sạch như Chúa Kitô dạy chúng ta: “Phúc thay những ai có tâm hồn trong sạch, vì họ sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa” (Mt 5,8).
Cách thức tốt nhất để trung thành với huấn lệnh Thiên Chúa là để cho tâm hồn chúng ta được biến đổi nhờ Lời Chúa. Như thế, thay vì quá chú tâm đến những chữ viết của lề luật và sự trong sạch thể lý, chúng ta nên chú ý tới lời khuyên của Phaolô: “Anh em đừng có rập theo đời này, nhưng hãy cải biến con người anh em bằng cách đổi mới tâm thần, hầu có thể nhận ra đâu là ý Thiên Chúa: cái gì là tốt, cái gì đẹp lòng Chúa, cái gì hoàn hảo” (Rm 12,2). Thánh ý Thiên Chúa chính là luật Người. Luật Chúa phải thúc đẩy chúng ta yêu mến người khác và làm lành lánh dữ. Luật Chúa phải kêu gọi sự sám hối đích thực và ước muốn chân thành để tha thứ cho người khác. Luật Chúa giữ chúng ta vững vàng trong đức tin. Tắt một lời, luật Chúa phải thúc đẩy chúng ta chỉ theo đuổi điều tốt lành, phải đạo, cao thượng và thánh thiện.
Hôm nay, thánh Giacôbê Tông Đồ đòi hỏi chúng ta nơi bài đọc II: “Anh em hãy khiêm tốn đón nhận Lời đã được gieo vào lòng anh em… Anh em hãy đem Lời ấy ra thực hành” (Gc 1,21-22).
Vì thế, cách tốt nhất để thực hiện điều này là chúng ta hãy có gắng sống đức tin của mình vào trong đời sống hằng ngày, hãy diễn tả nó qua cách thức chúng ta sống, yêu và hành xử với người khác. Cuối cùng, Thánh Vịnh Gia nhắc nhở chúng ta rằng người công chính sẽ sống trong sự hiện diện của Thiên Chúa. Điều này có nghĩa chúng ta thực hành Lời Chúa và các giới răn với một tâm hồn trong sạch và chân thành. Vì thế, chúng ta hãy khiêm tốm cầu nguyện như vua Đavít: “Lạy Chúa Trời, xin tạo cho con một tấm lòng trong trắng, đổi mới tinh thần cho con nên chung thuỷ” (Tv 51,12). Amen!
Bác sĩ Nguyễn Tiến Cảnh
Chúng ta thường nói người Pharisieu là đạo đức giả! Bài Tin Mừng hôm nay (Mc 7:1-8, 14-15, 21-23) giúp chúng ta hiểu nhiệm vụ của người Pharisieu trong Do Thái Giáo. Tại sao chúa Giesu và nhiều người lại ghét thái độ giả hình của người Phrisieu? Ai là Pharisieu trong thời Chúa Giesu và thời đại ngày nay?
Người Pharisieu muốn cho lề luật được sống động nên đã cố gắng làm cho lề luật thích hợp với mọi hoàn cảnh của cuộc sống. Giáo lý của người Pharisieu thì không trái với giáo lý Kito giáo. Thời chúa Giesu, người Pharisieu thuộc phe “bảo thủ” trong Do Thái Giáo. Họ tỏ ra rất đạo đức, giữ luật Torah và Talmud thật khít khao. Họ là thủ lãnh phe đa số và được những tín đồ ngoan đạo, nhiệt thành nể trọng. Đối lập với phe này là phái Sa Đóc, đại diện phái “tự do” trong Do Thái Giáo. Người Sa Đóc thì bình dân và nổi tiềng trong phái thượng lưu xã hội nhưng là thiểu số. Pharisieu và Sa Đóc được nhắc tới trong tin mừng Mathieu (Mt 3:7-10), khi Gioan Tiền Hô kết án họ lúc họ đến xin chịu phép rửa: “ Loài rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp ráng xuống vậy? Các anh hãy sinh hoa trái xứng với lòng xám hối…. Tại sao Gioan lại mắng những người Pharisieu là rắn độc, là quân giả hình nhân đức?
Chúa Giesu cũng dùng những lời trách móc rất nặng để chửi những người Pharisieu. Trong Mathieu 16:6 Chúa đã cảnh giác các môn đệ: “Hãy để ý đến căn nguyên của dân Pharisieu và Sa Đóc.” Người môn đệ phải để ý đến cái gì? Có phải cái tính vô đạo đức của dân Pharisieu và Sa Đóc không?
GIỮ LỀ LUẬT THẬT KHẮT KHE
Thời chúa Giesu, người Pharisieu thường cổ động cách giữ luật thật khit khao và sống đạo hàng ngày thực sự trong lòng. Nhưng một số người chỉ giữ đạo bề ngoài và bị những Pharisieu khác đả kích. Tiên tri Isaiah cũng từng gọi họ là kẻ giả hình nhân đức. Chúa Giesu cũng phản đối việc cắt nghĩa luật của họ, nhưng Chúa không kết án chủ thuyết của họ hoặc tất cả những người Pharisieu.
Người Pharisieu “dựa vào chính họ, coi họ là người công chính.” Họ tin rằng bồn phận của họ là làm điều mà Thiên Chúa truyền và cấm điều Thiên Chúa cấm. Những điều làm được và gìn giữ được sẽ tiến dâng lên Thiên Chúa. Họ tự cho mình là người công chính, khinh miệt tất cả những ai không tuân giữ luật theo cách của họ. Họ không ngồi ăn với những người thu thuế và những kẻ tội lỗi là những kẻ xấu. Họ xì xào nói xấu những người ngồi ăn với chúa Giesu. Thấy vậy Chúa bèn nói: “Người khỏe mạnh không cần bác sĩ mà là kẻ yếu đau bệnh hoạn. Ta đến không vì người công chính nhưng vì kẻ tội lỗi cần ăn năn thống hối” (Lc 5:31-32).
THỰC TÂM QUAN TRONG HƠN BỀ NGOÀI
Đoạn Tin Mừng hôm nay (Mc 7:1-8, 14-15, 21-23) cho biết những người Pharisieu và những nhà thông luật đến từ Jerusalem là để điều tra về Chúa Giesu. Chúa Giesu đã bãi bỏ cách thực hành nghi thức thanh tẩy và phân biệt thức ăn sạch và dơ theo truyền thống tôn giáo nên Chúa muốn thi hành luật một cách thông thoáng hơn. Thấy một số môn đệ ngồi vào bàn ăn mà không rửa tay (Mc 7:2) mấy ông Pharisieu và thông luật bèn hạch hỏi chúa Giesu: “Tại sao các đệ tử của ông không giữ truyền thống của các tổ phụ, ngồi ăn với hai bàn tay dơ?” (c.5). Chúa Giesu đã không trả lời nhưng gọi mấy tên Pharisieu và nhà thông luật đó là “quân giả hình nhân đức” (c.6). Nhắc lời Isaiah, chúa Giesu lột mặt nạ họ. Các ông bám lấy nguyên tắc của người đời rồi tin tưởng vào truyền thống của các tổ phụ mà quên đi lề luật của Thiên Chúa (c.8). Chống lại cách hành đạo kiểu bề ngoài, theo thuyết thanh tẩy (Mc 7:2-5), hẹp hỏi của các Pharisieu, chỉ giữ các giới răn thờ phương bằng môi miệng (7:6-7), Chúa Giesu đã lấy luật của Thiên Chúa phản bác lại (7:8-13): “Các ông đã gạt bỏ giới răn của Thiên Chúa mà duy trì truyền thống của người phàm….”
Chúa còn nêu lên sự tương phản giữa luật và cách cắt nghĩa luật của người Pharisieu. Thực vậy, Macco 7:14-15 đã để luật qua một bên mà vẫn tôn trọng thức ăn sạch và bần. Quan điểm của chúa Giesu rất rõ ràng, chính đa số các Pharisieu cũng công nhận cái tâm mình, lòng mình quan trọng hơn vẻ bề ngoài.
Ý NIỆM TỘI CỦA DÂN PHARISIEU
Chúa Giesu bác bỏ quan niệm tội của người Pharisieu và các nhà thông luật. Đối với chúa Giesu, tội từ tâm mà ra. Không biết phân biệt các loại thức ăn không phải là tội. Thái độ của Chúa về tội là quan niệm về ngày Sabbath. Giữ luật mà không có lòng trắc ẩn cảm thông và yêu thương thì thiếu lòng nhân đạo và không có tình người.
Chúng ta có thể hiểu dễ dàng sứ điệp của Chúa Giesu muốn nói với các Pharisieu và những nhà thông luật (c.1-8) cũng như đám đông: Tất cả các ngươi kể cả các môn đệ (c.21-23), hãy nghe ta đây, để mà hiều (c.14-15). Đây là tin vui cho tất cả mọi người, là Thiên Chúa không cứng ngắc theo sát luật. Người uyển chuyển, bởi vì qua đức Giesu Kito, Thiên Chúa Cha đã cho chúng ta một đời sống mới. Không nên quá lo lắng làm sao để vâng theo luật lệ và giữ mình thanh sạch.
Giữ mình thanh sạch là chúng ta tự do dùng bàn tay mình để phụng sự tha nhân. Chúng ta có thể bị dơ bẩn trở lại, nhưng Thiên Chúa cho chúng ta tự do giữ luật, lại ban cho chúng ta ân sủng. Đây cũng là một tin vui chúng ta phải chia sẻ khi chúng ta phụng sự những người có tâm hồn giữ luật, đám đông, và cả những môn đệ chúa Giesu ở chung quanh ta.
NGƯỜI PHARISIEU THỜI ĐẠI
Ai là Pharisieu và đệ tử của họ ở thời đại ngày nay? Pharisieu thời đại và đệ tử của họ là những người rất sùng đạo và giữ phẩm hạnh nhưng cũng hay ganh ghét. Họ cố gắng giữ luật Chúa nhưng lại hay phân bua khi thực hành đạo. Họ rất siêng năng đi lễ Chúa Nhật. Họ là những công dân làm việc chăm chỉ, bề ngoài tỏ ra rất ngay thẳng. Họ giữ mình tránh các tội ác và luôn luôn giảng giải về luân lý và luật lệ, nhưng lại có đặc điểm hay phân bì ganh tỵ.
Ngoài ra họ không tin là ơn cứu độ phụ thuộc vào hành động của chúa Kito. Họ cho rằng ơn cứu độ là do cố gắng của con người và những điều mà kẻ tội lỗi thêm vào công việc của chúa Kito.
Ngược lại, người Kito hữu thực sự là những người tin và tuyên xưng chúa Kito bị đóng đanh. Không có cách nào khác. Họ tin rằng hành động của chúa Kito là bảo đảm cho ơn cứu độ cho tất cả mọi người mà họ là một đại diện. Chỉ một điều đó làm nổi bật sự khác biệt giữa cứu độ và luận phạt. Họ biết rằng cố gắng của riêng họ tuyệt đối không can dự vào chuyện họ được chấp nhận trước mặt Thiên Chúa. Họ an nghỉ trong một chúa Kito mà thôi khi niềm tin duy nhất của họ là nhận biết công việc của chúa Kito nhờ ân sủng của Thiên Chúa làm bảo đảm cho ơn cứu độ. Chúa Giesu biểu lộ cho chúng ta biết ai là kẻ tội lỗi cần được chữa lành, ai không tự mình trở thành công chính, ai không có quyền hành Thiên Chúa, ai không đáng được làm bạn với Thiên Chúa, ai là người mà đức Giesu đến để kêu gọi họ thống hối.
ĐÔI LỜI KẾT- KHOAN DUNG HƠN LUẬN PHẠT
Đọc bài Tin Mừng hôm nay nói về lề luật, chúng ta nên coi lại Công Đồng Vatican II khai mạc ngày 11-10- 1962. Trong lời mở đầu, Đức Gioan XXIII nói rõ ràng ngài không kêu gọi Vatican II bào chữa cho những sai lầm hay làm sáng tỏ những điểm chính của giáo lý. Ngài nhấn mạnh, Giáo Hội ngày nay phải “ khoan dung hơn là luận phạt.”
Gioan XXIII khi được yêu cầu, đã từ chối nghe ý kiến của những người chung quanh là những vị “luôn luôn tiên đoán về tương lai xấu.” Ngài goi họ là những “tiên tri bi quan”, thiếu cảm quan về lịch sử mà lịch sử là “thầy dạy đời sống”. Ngài quả quyết, sự quan phòng của Thiên Chúa đã dẫn thế giới đi vào một trật tự mới tốt đẹp hơn trong tình liên đới giữa loài người với nhau. “Và tất cả mọi sự, ngay cả những khác biệt của con người, đều dẫn đưa tới điều thiện vĩ đại hơn của Giáo Hội.”
“Papa Roncalli” là con người, để ý đến niềm tin của mình hơn là hình ảnh của mình, đến những người chung quanh mình hơn là những ham muốn của mình. Với một nhiệt tình và viễn kiến truyền cảm, ngài nhấn mạnh Giáo Hội cần phải thích ứng với một xã hội đang thay đổi từng giờ và làm cho những sự thật thâm sâu nhất của Giáo Hội được sáng tỏ trong thế giới tân kỳ ngày nay. Ngài biết rằng luật mà không có tình thương, thiếu lòng trắc ẩn cảm thông thì không còn nhân tính.
Papa Giovanni được vị kế tiếp là Gioan Phaolo II phong chân phước năm 2000, và năm 2014 được vinh thăng hiển thánh cùng với Gioan Phaolo II bởi đức Phan Sinh. Xin ngài tác động lên tâm hồn những Pharisieu và Sa Đốc tân thời là những vị đang sống và sống khỏe trong Giáo Hội và thế giới ngày nay!
Lm. Antôn
Trong đời sống hằng ngày của mỗi người chúng ta bị ảnh hưởng không ít thì nhiều bởi môi trường và bởi tình cảnh. Những ảnh hưởng này rất cần thiết và hữu ích, chẳng hạn tại ngã tư đường đèn đỏ báo hiệu chúng ta biết phải dừng lại. Nếu không sẽ có thể đưa đến tai nạn lưu thông và hậu quả trầm trọng. Khi đi chợ hay đến những văn phòng, chúng ta phải xếp hàng chờ đợi. Khi tới một nơi công cộng hay nhà thờ không được xả rác. Nếu chúng ta ý thức được điều đó thì sẽ bị coi là người kém hiểu biết, hay kém văn minh, nhất là trong xã hội Hoa kỳ này. Ngoài ra chúng ta còn bị chi phối bởi luật lệ của quốc gia, phong tục gia đình, luân lý của xã hội và luật lệ trong tôn giáo. Như chúng ta đều biết, luật lệ cần thiết cho đời sống vì mục đích là bảo vệ những giá trị căn bản cho cá nhân, và bảo đảm cho chúng ta sự tự do và an toàn.
Những bài Kinh thánh tuần này nhắc nhở và giúp chúng ta hiểu sự khác biệt và hiệu qu