NIỀM HY VỌNG KITÔ GIÁO TRONG ĐỜI SỐNG CỦA NGƯỜI TÍN HỮU
Đối với mọi người, ước gì Năm Thánh là một thời điểm gặp gỡ Chúa Giêsu cách sống động và cá vị, Người là cánh cửa ơn cứu độ (x. Ga 10,7.9), là niềm hy vọng của chúng ta (x. 1 Tm 1,1)[1]. Trong tâm tình đó, tác giả xin được gởi đến những người thành tâm bài viết: Niềm hy vọng Kitô giáo trong đời sống của người tín hữu, để cho thấy niềm hy vọng Kitô giáo luôn là một thực tại khả tín. Niềm hy vọng ấy luôn hướng tới tương lai đã được Kinh Thánh mạc khải và được Giáo Hội cũng cố trong suốt chiều dài của lịch sử. Và đây cũng là lời tuyên xưng phát xuất từ cảm nghiệm mang tính cá vị của thánh Phaolô: tôi biết, tôi tin vào ai? (2 Tm 1,12). Song, thiết tưởng, mỗi người Kitô hữu chúng ta cũng phải có một niềm xác tín mạnh mẽ như thế để biểu lộ đức tin, đức cậy và đức mến của mình vào Chúa trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong bối cảnh mà thế giới và tất cả chúng ta đang phải đối diện như lời Đức Thánh Cha Phanxicô nói trong sắc chỉ công bố năm thánh 2025: từ lo sợ, chán nản, cho đến nghi ngờ, rồi biết bao con người bị loại trừ, cô đơn và bị bỏ rơi... Mặc dù thế, niềm hy vọng Kitô giáo không bao giờ cho phép chúng ta sống trong thất vọng, vì chúng ta có Chúa Kitô và Chúa Thánh Thần như bảo chứng tình yêu vĩnh cửu và tình yêu này được tuôn trào từ trái tim của Chúa Kitô bị đâm thâu trên thập giá (x.Rm 5,10), Do đó, Thánh Augustinô đã xác tín: Dù ở bậc sống nào, người ta cũng không thể sống nếu không có ba nhân đức quan trọng: tin, cậy và mến[2]. Trong tính năng động không thể tách rời của ba nhân đức này, có thể nói rằng, niềm hy vọng định hướng và vạch ra mục tiêu cho đời sống của người tín hữu. Đó là lý do tại sao Thánh Phaolô mời gọi chúng ta: Hãy vui mừng vì có niềm hy vọng, cứ kiên nhẫn lúc gặp gian truân, và chuyên cần cầu nguyện (Rm 12,12). Đúng vậy, chúng ta phải tràn đầy niềm hy vọng (x. Rm 15,13) để làm chứng một cách khả tín và hấp dẫn về đức tin và tình yêu trong lòng chúng ta; nhờ đó chúng ta vui tươi trong đức tin, nhiệt thành trong đức mến. Nhưng, nền tảng cho niềm hy vọng của chúng ta là gì? Để hiểu được điều này, cần suy tư về những lý do khiến chúng ta hy vọng (x. 1 Pr 3,15)[3]. Trước hết, niềm hy vọng Kitô giáo luôn được khởi đi từ việc cử hành phụng vụ. Tiếp đến, niềm hy vọng phải được thể hiện và nối dài trong đời sống hằng ngày. Cuối cùng, niềm hy vọng ấy thúc bách chúng ta hăng say trong sứ vụ loan báo Tin Mừng.
A. DẪN NHẬP
B. NỘI DUNG
I. NIỀM HY VỌNG TRONG PHỤNG VỤ CÔNG GIÁO.
1.1 Trong các cử hành phụng vụ.
1.2 Trong các bí tích.
1.3 Trong bí tích Thánh Thể.
1.4 Trong năm phụng vụ.
1.5 Trong phụng vụ các giờ kinh.
II. NIỀM HY VỌNG TRONG SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG.
2.1 Sống chiều kích hy vọng qua cầu nguyện.
2.2 Sống dấn thân và hy vọng vào Đức Kitô.
2.3 Hy vọng vào một cuộc sống hạnh phúc.
2.4 Hy vọng Đức Kitô trở lại phán xét.
2.5 Hy vọng vào Vương quốc Thiên Chúa.
2.6 Hy vọng được lên thiên đàng hưởng cuộc sống vĩnh cửu.
III. NIỀM HY VỌNG TRONG SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG.
3.1 Loan báo Tin Mừng hướng về niềm hy vọng cánh chung.
3.2 Kitô hữu là cộng đoàn được sai đi.
3.3 Loan báo niềm hy vọng Kitô giáo.
3.4 Đào tạo và đào sâu đức tin cho người Kitô hữu.
3.5 Loan báo Tin Mừng cứu độ vì phần rỗi các linh hồn.
3.6 Loan báo mầu nhiệm Đức Kitô chết và phục sinh cho con người hôm nay.
3.7 Bậc Đáng Kính Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, chứng nhân của niềm hy vọng.
A. DẪN NHẬP
Cuộc đời của mỗi người là một cuộc hành trình đi tìm hạnh phúc. Trong hành trình đó, con người luôn ước mơ và khao khát đi tìm cho mình thứ hạnh phúc trên trần gian này. Thế nhưng, những hạnh phúc ấy cuối cùng đều chóng qua, tất cả đều hư vô và chìm vào dĩ vãng. Tuy nhiên, với đức tin và niềm hi vọng hy vọng Kitô giáo, con người vẫn có hạnh phúc thực sự, niềm hạnh phúc ấy không hệ tại ở một cái gì khác hảo huyền nhưng chính là Đức Kitô vì Ngài là cứu cánh, là đường là sự thật và sự sống (Ga 14,6). Chỉ khi con người gặp gỡ cách cá vị và ở thân tình với Đức Kitô, con người sẽ cảm nếm hạnh phúc viên mãn, niềm hạnh phúc đó được trãi dài trong cuộc sống khi chúng ta biết sống cho Chúa và tha nhân. Đặc biệt, khi cử hành phụng vụ, sống hy vọng vào Chúa trong cuộc sống đời thường và hăng say trong sứ vụ loan báo Tin Mừng, chúng ta được cảm nếm hạnh phúc Nước Trời ngay chính thực tại trần thế hôm nay.
B. NỘI DUNG
I. NIỀM HY VỌNG TRONG PHỤNG VỤ CÔNG GIÁO.
1.1 Trong các buổi cử hành phụng vụ.
Khi tham dự các buổi cử hành phụng vụ nơi trần thế, chúng ta thực sự được cảm nếm trước phụng vụ trên trời, được cử hành trong thành thánh Giêrusalem, nơi chúng ta là những lữ khách đang tiến về, ở đó Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa như một thừa tác viên của cung thánh, của nhà tạm đích thực (x. Kh 21,2; Cl 3,1); Chúng ta hợp cùng toàn thể đạo binh Thiên Quốc đồng thanh ca ngợi tôn vinh Chúa: chúng ta hy vọng được thông phần và đoàn tụ với các thánh khi kính nhớ các ngài; chúng ta mong Đấng Cứu Thế là Chúa Giêsu Kitô Chúa chúng ta, cho đến khi chính Người là sự sống chúng ta sẽ xuất hiện và chúng ta sẽ xuất hiện với Người trong vinh quang[4].
1.2 Trong các bí tích.
Khi cử hành các bí tích, Chúa Giêsu hiện diện nhờ quyền năng của Người[5]. Các bí tích là bảo chứng tình yêu mà Đức Kitô trao ban cho nhân loại, trong các bí tích, Hội Thánh đã nhận được bảo chứng gia tài của mình, đã được dự phần vào đời sống vĩnh cửu, đang khi “trông chờ ngày hồng phúc vẫn hằng mong đợi, ngày Đức Giêsu Kitô là Thiên Chúa vĩ đại và là Đấng cứu độ chúng ta, xuất hiện vinh quang. Thánh Tôma Aquinô nói: bí tích là dấu chỉ nhắc nhớ điều đã sảy ra trước nó, tức là cuộc khổ nạn của Đức Kitô, là dấu chỉ cho thấy điều được thực hiện nơi chúng ta nhờ cuộc khổ nạn của Đức Kitô, tức là ân sủng, là dấu chỉ báo trước vinh quang tương lai[6]. Cụ thể nhất là khi các tín hữu lãnh nhận bí tích rửa tội và thêm sức là lúc lãnh nhận một bí tích của niềm hy vọng. Đồng thời, được gia nhập vào đoàn dân Thiên Quốc, nghĩa là Hội Thánh và thông phần vào những điều thiện hảo tương lai. Nhờ các bí tích này, chúng ta đi vào chuyển độngcánh chung như là chiếm hữu và hy vọng toàn thể được mạc khải nơi họ, cũng như ân huệ khởi đầu mà Tân ước nói đến. Trong nghi thức rửa tội ta thấy diễn tả ý nghĩa của niềm hy vọng qua hai biểu tượng đó là áo trắng và nến cháy, nhắc đến một sự cam kết hướng đến đời sống vĩnh cửu[7]. Nghi thức thêm sức cũng nói rất rõ ý nghĩa cánh chung của bí tích này; trong bản văn nghi lễ Coptic viết: dấu chỉ của Đức Kitô cho sự sống trường cửu[8] và Chúa Thánh Thần thúc đẩy các Kitô hữu hoạt động hướng đến triều đại của Đức Kitô (LG 4 và 48). Trong các bí tích, ta thấy bí tích Thánh Thể làm nổi bật chiều kích niềm hy vọng cánh chung hơn
1.3 Trong bí tích Thánh Thể.
Hiến chế phụng vụ của Công Đồng Vatican II, thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II trong thông điệp bí tích Thánh Thể, Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI trong tông huấn bí tích tình yêu đề cập nhiều đến chiều kích niềm hy vọng của bí tích Thánh Thể. Thánh Thể là bảo chứng cho vinh quang đời sau[9] mà chúng ta đang mong đợi. Thánh Thể thu tóm tất cả những gì mà trong lịch sử cứu độ Thiên Chúa đã làm và sẽ làm cho nhân loại. Sự hiện diện của Đấng phục sinh và của mầu nhiệm vượt qua của Người; sự trông chờ người trở lại như là yếu tố cốt yếu của cộng đoàn cánh chung. Lời tung hô của cộng đoàn sau lời truyền phép của linh mục “chúng con loan truyền Chúa chịu chết và tuyên xưng Chúa sống lại” biểu lộ chiều hướng niềm hy vọng cánh chung của việc cử hành Thánh Thể (x. 1Cr 11,26), cũng như việc tưởng nhớ trong các kinh nguyện Thánh Thể III và IV “đồng thời mong đợi người lại đến” và sau kinh lạy Cha “đang khi chúng con mong đợi niềm hy vọng hồng phúc và ngày trở lại của Đức Giêsu Kitô”, tất cả kinh nguyện tạ ơn đều kết thúc với ý tưởng vinh quang; Thánh Thể là một sự hướng về cùng một mục đích, sự nếm trước niềm vui viên mãn mà Đức Kitô đã hứa (x. Ga 15,11). Trong Thánh Thể, mọi sự đều diễn ra sự mong đợi đầy tin tưởng đó[10]. Những ai ăn Đức Kitô trong Thánh Thể không cần chờ đến đời sau mới đón nhận sự sống vĩnh cửu, nhưng họ đã chiếm hữu sự sống đó ngay đời này, như những hoa quả đầu tiên của sự viên mãn mai sau, sự viên mãn liên quan đến toàn thể con người. Trong Thánh Thể, chúng ta nhận được bảo đảm là thân xác chúng ta sẽ được sống lại trong ngày tận thế (x. Ga 6,54). Sự bảo đảm này bắt nguồn từ sự kiện thân xác Con Người được trao ban làm của ăn, là chính thân xác trong tình trạng vinh hiển sau khi sống lại. Với Thánh Thể, chúng ta như thể biết được bí mật của sự sống lại[11]. Vì thế, thánh Inhaxiô thành Antiôkia đã định nghĩa cách tuyệt vời: Thánh Thể như là linh dược đem lại sự bất tử, một phương thuốc diệt trừ sự chết[12].
Bí tích Thánh Thể còn gợi lên, diễn tả và củng cố sự hiệp thông giữa chúng ta với Hội Thánh trên trời. Đây là một khía cạnh của Thánh Thể đáng được nhấn mạnh. Khi cử hành hy tế của Con Chiên, chúng ta được liên kết với phụng vụ trên trời và trở nên thành phần của một đoàn đông đảo (x. Kh 7,10). Thánh Thể quả thực là một thoáng hiện của thiên đàng trên trái đất và là một tia sáng huy hoàng của Giêrusalem Thiên Quốc xuyên qua lớp mây mù của lịch sử và sự soi sáng cho cuộc hành trình của chúng ta. Thánh Thể luôn thúc đẩy chúng ta tiến bước trong lịch sử và làm nảy sinh hạt giống của niềm hy vọng sống động trong những dấn thân hằng ngày để chu toàn nhiệm vụ[13] và ý thức trách nhiệm của chúng ta đối với thế giới hôm nay[14]. Như thế, việc loan truyền sự chết của Chúa cho đến khi người lại đến đòi hỏi chúng ta phải dấn thân và biến đổi cuộc sống của mình và làm cho nó cách nào đó hoàn toàn trở thành Thánh Thể. Tóm lại, chiều kích niềm hy vọng luôn gắn liền với bí tích Thánh Thể: Thánh Thể là bí tích của Chúa Giêsu phục sinh; là lương thực cho Hội thánh lữ hành, là thuốc trường sinh cho con người, giúp Kitô hữu thông phần bản tính Thiên Chúa, trở nên đồng hình đồng dạng với Đức Kitô, đồng thời loan báo trời mới đất mới[15].
1.4 Trong năm phụng vụ.
Trong năm phụng vụ, chiều kích niềm hy vọng được nêu bật đặc biệt trong mùa vọng và phục sinh. Tuy nhiên, gốc rễ của của sự chờ đợi cuộc quang lâm là lễ phục sinh. Trong canh thức phục sinh, chúng ta trông mong Chúa Cứu Thế đến. Cụ thể qua các lời nguyện, chiều kích niềm hy vọng cánh chung nổi lên rõ rệt, trong đó khởi đi từ cuộc phục sinh của Đức Kitô và Chúa Thánh Thần được ban cho nhân loại như ân hồng ân của thời viên mãn để thực hiện canh tân vũ trụ, phụng vụ xin cho Hội Thánh đạt tới sự viên mãn và hoàn tất. Ngoài ra, chiều kích niềm hy vọng còn được đề cao trong các thánh lễ: Kính Chúa (Chúa Thăng Thiên, Đức Kitô vua vũ trụ), lễ trọng kính tất cả các thánh và lễ kính các linh hồn đã qua đời. Đặc biệt, lễ Đức Mẹ lên trời, người là hình ảnh niềm hy vọng cánh chung và là hoa trái đầu mùa của thực tại tương lai mà Hội Thánh đang trông mong hy vọng. (x. Kinh tiền tụng)
1.5 Trong phụng vụ các giờ kinh.
Hội Thánh là cộng đoàn không ngừng chúc tụng Thiên Chúa và chuyển cầu cho phần rỗi thế giới. Đồng thời, Hội Thánh còn tụ họp để cầu nguyện, tuyên xưng sự hiệp thông với Giêrusalem Thiên Quốc nhờ việc chúc tụng được dâng lên trong các giờ kinh nhật tụng[16]. Qua việc dâng lên các lời kinh, Hội Thánh ca hát và kết hợp với lời chúc tụng bất tận trên Thiên Quốc, và nếm hưởng sự chúc tụng được vang lên trước ngai Thiên Chúa và Con Chiên như sách khải huyền mô tả. Trong phụng vụ các giờ kinh, chúng ta biểu lộ và nuôi dưỡng niềm hy vọng ấy, chúng ta tham dự cách nào đó vào niềm vui của lời chúc tụng trưởng cửu và vào ngày không xế tàn[17]. Trong các lời nguyện kinh chiều, chúng ta cầu xin và khẩn nài cho ánh sáng luôn trở về với chúng ta, và chúng ta xin Đức Kitô đến và ban cho chúng ta hồng ân ánh sáng vĩnh cửu. Trong giờ kinh tối, qua việc phó thác bản thân cho Chúa, trong khi nghỉ ngơi và sau khi tuyên xưng với ông Simêon lòng ước ao được gặp Người[18]. Như vậy, niềm hy vọng Kitô giáo được bộc lộ rõ rệt nơi vài lời nguyện, đặc biệt các lời nguyện kinh chiều mùa thường niên.
II. NIỀM HY VỌNG TRONG SINH HOẠT ĐỜI THƯỜNG.
2.1 Sống chiều kích niềm hy vọng qua việc cầu nguyện.
Chúa Giêsu khi sống ở trần gian, bằng lời rao giảng và việc làm của Ngài, điều này chứng tỏ triều đại Thiên Chúa đã đến rồi, đặc biệt Ngài đã đập tan sự chết để chúng ta được tham dự vào cái chết và phục sinh của Ngài. Tuy nhiên, chúng ta chỉ mới lãnh nhận bảo chứng của ơn cứu chuộc, đặc biệt là Thánh Thần. Chúng ta còn mang những vết tích của tội lỗi và sự chết, nên chúng ta trông mong được giải thoát hoàn toàn khỏi cảnh nô lệ đó (Rm 8,19-22). Như thế, thực tại cánh chung đã đến rồi, đã hoàn thành nhưng chưa kết thúc, vẫn còn giang dỡ để mở ra cho tất cả mọi người đón nhận với sự tự do của mình. Nước trời đang hiện trong Hội Thánh nhưng chưa phải là tuyệt đối với quyền năng và vinh quang (Lc 21,7). Nước này còn bị các thế lực sự dữ tấn công, mặc dù chúng đã bị đánh bại tận gốc rễ do cuộc vượt qua của Đức Kitô[19]. Vì vậy, các Kitô hữu cần phải cầu nguyện như lời Đức Thánh Cha Bênêdictô nói: cầu nguyện được xem là trường của niềm hy vọng[20], để Đức Kitô mau lại đến (x. 2Pr 3,11-12). Hơn nữa, chúng ta cần làm đẹp lòng Chúa trong mọi sự và mặc lấy binh giáp của Thiên Chúa để có thể đối phó và đứng trước những cạm bẫy của ma quỷ trong ngày đen tối (x. Ep 6,11-13). Thời gian hiện tại, theo Chúa là thời gian của thần khí và việc làm chứng, nhưng cũng là thời gian được ghi dấu bằn nổi khó khăn hiện tại và bằng sự thử thách của sự dữ, thời gian này không buông tha Hội Thánh và khởi đầu cuộc chiến của những ngày sau cùng[21]. Do đó, chúng ta phải sống trong tâm thế chờ đợi và tỉnh thức như lời Chúa nhắc nhở, để khi mạng sống duy nhất của mỗi người ở trần gian này chấm dứt, chúng ta xứng đáng vào dự tiệc cưới với Người và được kể vào số những người được chúc phúc (x. Mt 25,31-46)[22].
2.2 Sống dấn thân và hy vọng vào Đức Kitô.
Niềm hy vọng mang tính cách năng động nhờ được đặt trong mối tương quan với Đức Kitô. Qua việc dấn thân, chúng ta làm cho thế giới này sáng sủa và nhân bản hơn để mở rộng các cử đi vào tương lai. Cũng như dấn thân, đau khổ luôn mang tính hiện sinh của con người, nếu loại bỏ nó con người sẽ rơi vào một đời sống trống rỗng, mơ hồ và hụt hẩng, thế nên trong đau khổ con người tìm được ý nghĩa của nó nhờ kết hợp với Đức Kitô. Bên cạnh đó, người Kitô hữu cần sống đức tin và hi vọng vào Đức Kitô, Đấng là đường là sự thật và sự sống. Ngài là dung mạo đích thực và niềm hy vọng của chúng ta, chỉ có Ngài giải thoát và cứu độ chúng ta bằng tình yêu. Ngài là niềm hy vọng đích thực và vĩ đại, Ngài yêu thương chúng ta cho đến tận cùng, cho đến lúc viên mãn (x. Ga 13,1; 19,30). Ai đã được tình yêu này đụng chạm tới, thì sẽ bắt đầu cảm nghiệm cuộc sống đích thực là gì. Chúng ta bắt đầu cảm nghiệm lời nói về hy vọng mang ý nghĩa gì, lời mà chúng ta gặp trong nghi thức rửa tội: nhờ đức tin tôi mong chờ sự sống đời đời- sự sống đích thực, trọn vẹn và không bị hăm dọa, sự sống trong sự tròn đầy của nó. Đức tin đã mang lại cho cuộc sống một nền tảng mới mẻ, hầu trên đó con người xây dựng tương lai của mình không theo cách thế mà thế giới này coi là bảo đảm đang khi nó chỉ là thứ yếu. Niềm hy vọng Kitô giáo phải được xây dựng trên đức tin, nhờ vậy niềm hy vọng tìm thấy cho nó một sức bật bên trong chứ không phải là một thứ hy vọng bâng quơ bên ngoài. Chỉ với cái nhìn của niềm hy vọng trong đức tin, niềm hy vọng ấy mới tìm thấy cho nó trọn vẹn nội dung và một hướng đích. Tóm lại, niềm hy vọng Kitô giáo là hy vọng tương lai đang tới của Đức Kitô, tương lai ấy đã được mở ra cho ta thấy trong biến cố phục sinh. Tương lai ấy vẫn còn tiếp tục được thành toàn vì nó vẫn còn đang được mong đợi, vẫn còn đang được chờ đợi trong hy vọng Trời Mới Đất Mới.
2.3 Hy vọng vào một cuộc sống hạnh phúc.
Con người thời nay luôn đặt ra câu hỏi mang tính hiện sinh: tôi sống ở đời này để làm gì? Thiết nghĩ, câu trả lời nhiều người chọn nhất là: được sống hạnh phúc. Nhưng hạnh phúc ở đây là hạnh phúc nào? Hạnh phúc có hệ tại ở chỗ thỏa mãn nhu cầu vật chất hay một điều gì khác? Đối với chúng ta, câu trả lời cuối cùng là cuộc sống hạnh phúc chỉ có thể đời sống mai hậu. Chúng ta hy vọng không khác gì hơn là được điều này. Chúng ta đang trên đường lữ hành không vì một điều gì khác hơn là điều duy nhất đó[23]. Tuy nhiên, ngay từ đời này chúng ta có thể nếm hưởng phần nào nhờ con đường Tám Mối Phúc Thật. Bài giảng Bát Phúc thanh luyện chúng ta khỏi những ảo tưởng về hạnh phúc giả tạo và vạch cho chúng ta thấy con đường dẫn tới hạnh phúc chân chính. Tám Mối Phúc họa lại cho ta chính bức chân dung của Đức Giêsu, mời gọi chúng ta chia sẽ con đường yêu thương qua việc từ bỏ mình để phục vụ. Như vậy, niềm hy vọng vào cuộc sống hạnh phúc tuyệt đối mở ra cho chúng ta một cái nhìn về ý nghĩa của cuộc đời, kể cả những khi gặp bế tắc. Niềm hy vọng này mang lại nghị lực cho chúng ta trong việc kiến tạo thế giới này, chuẩn bị cho công lý và hòa bình ngự trị, những nổ lực xây dựng thế giới sẽ không bị hủy diệt, nhưng được nâng cao trong Vương Quốc Thiên Chúa.
2.4 Hy vọng Đức Kitô trở lại phán xét.
Trong kinh Tin Kính vĩ đại của Hội Thánh có đoạn: “người sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết”. Như thế, ngay từ thời gian đầu, viễn ảnh cuộc phán xét đã ảnh hưởng trên người Kitô hữu ngay trong đời sống hằng ngày như tiêu chuẩn để sắp xếp cuộc sống hiện tại, đồng thời cũng là hy vọng vào sự công chính của Thiên Chúa. Niềm tin và hy vọng vào Chúa Kitô không bao giờ chỉ nhìn lui, nhìn trên nhưng luôn nhìn ra phía trước, nhìn vào giờ công chính mà Chúa loan báo rất nhiều lần. Cái nhìn về phía trước đem lại cho Kitô giáo sức lực cho hiện tại[24]. Vì thế, niềm tin vào cuộc phán xét chung thẩm được xem như môi trường học hỏi và thực tập của miềm hy vọng[25], và hình ảnh cuộc phán xét cuối cùng trước tiên không phải là hình ảnh kinh sợ, nhưng là hình ảnh hy vọng, có lẽ đối với chúng ta là hình ảnh hy vọng dứt khoát. Khi hướng về cuộc phán xét và quang lâm, chúng ta cảm nghiệm và lãnh nhận sự thống trị tình yêu của Người trên mọi sự xấu xa trong trần gian và trong chúng ta. Dù vậy, ân sủng giúp chúng ta hy vọng và vững tin tiến đến gặp gỡ vị thẩm phán mà chúng ta biết Người là Đấng trạng sư của chúng ta (x. 1 Ga 2,1)[26].
2.5 Hy vọng vào Vương quốc Thiên Chúa
Niềm tin vào Vương Quốc Thiên Chúa thúc đẩy ta luôn sống trong hy vọng. Trong Kinh Lạy Cha, chúng ta cầu nguyện: chúng con nguyện danh Cha cả sáng, nước cha trị đến. Thật vậy, bằng lời cầu nguyện, người Kitô hữu luôn hy vọng cho triều đại Thiên Chúa ngự đến. Chúng ta mong đợi trời mới đất mới nhưng cũng dấn thân xây dựng xây dựng thế giới hiện tại và cộng tác cho Triều Đại Thiên Chúa qua cuộc sống hợp với lời giảng dạy của Đức Kitô. Các tín hữu thi hành bổn phận của mình với lòng tận tụy yêu mến để xây dựng Vương Quốc Thiên Chúa, nhằm giải phóng con người khỏi tất cả mọi sự dữ. Tuy vậy, chúng ta đang sống trong Giáo Hội mới chỉ là mầm mống và khai nguyên của Vương Quốc Thiên Chúa ở trần gian. Vương quốc ấy chỉ hoàn tất trong ngày tận thế. Ngài sẽ thiết lập vĩnh viễn của Vương Triều Thiên Chúa, nơi đó không còn sự chết, tang tóc kêu than và đau khổ nữa vì những điều cũ đã biến mất (Kh 21, 1.4)[27], nhưng là nơi của sự công chính, bình an và hoan lạc trong Chúa Thánh Thần[28]; Vương Quốc Thiên Chúa là hồng ân, vĩ đại và tốt đẹp là câu trả lời cho niềm hy vọng Kitô giáo[29]; Vương Quốc của Người không phải là thế giới bên kia thật ảo tưởng thuộc về một tương lai không bao giờ đến; Vương Quốc của Người hiện diện, nơi Người được yêu mến và nơi tình yêu của Người đến với chúng ta. Chỉ có Vương Quốc Thiên Chúa mới đem lại cho chúng ta sự kiên vững trong một thế giới tự bản chất là bất toàn, mà không đánh mất sức bật của niềm hy vọng[30].
3.6 Được lên thiên đàng hưởng cuộc sống đời đời.
Trong kinh “trông cậy” và phần kết Kinh Tin Kính, chúng ta hy vọng vào ngày sau hết được Thiên Chúa cho “lên thiên đàng, hưởng hạnh phúc đời đời”. Quả thật, thiên đàng và cuộc sống đời đời là mục đích tối hậu và niềm hy vọng của các Kitô hữu. Để có sự sống đời đời, chúng ta cần phải dấn mình vào một niềm tín thác thực sự, nói như Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đó là niềm tin vào Thiên Chúa, chỉ có đức tin là chìa khóa đem lại cho chúng ta sự sống đời đời. Đồng thời, sự sống đời đời dành cho những ai khước từ mọi sự (Mc 10,29-30) và tuân hành ý Chúa, nơi đó chúng ta được ở với Đức Kitô và nhìn thấy Ngài, bởi vì nơi đâu có Đức Kitô, ở đó có Nước Trời[31]. Nhưng, chúng ta có thể nói gì về đời sống vĩnh cửu? đó vẫn còn là một ẩn giấu đối với chúng ta, vẫn còn là điều chưa biết[32], vẫn được giữ lại trong niềm hy vọng về một thực tại mới mẻ.
III. NIỀM HY VỌNG TRONG SỨ VỤ LOAN BÁO TIN MỪNG.
3.1 Loan báo Tin mừng hướng về niềm hy vọng trời mới đất mới.
Tiếp tục sứ mệnh của Chúa Giêsu và tuân theo mệnh lệnh của Người, Giáo Hội vẫn, đang và tiếp tục loan báo Tin Mừng cho mọi người biết Chúa Kitô; đồng thời, biểu lộ sự hiển linh ý định của Thiên Chúa và hoàn tất ý định đó nơi trần gian và trong lịch sử nhân loại. Qua việc cử hành các bí tích mà tột đỉnh là bí tích Thánh Thể, hoạt động truyền giáo tỏ bày sự hiện diện của Đấng tác thành công trình cứu rỗi là Chúa Kitô. Tất cả những gì đã được gieo vãi trong tâm hồn con người, trong những nghi lễ và văn hóa đặc thù của các dân tộc, sẽ không bị hủy bỏ, nhưng được chữa lành, thăng tiến và hoàn thiện để Thiên Chúa được tôn vinh, ma quỷ phải nhục nhã và con người được hạnh phúc. Như thế, hoạt động truyền giáo hướng tới sự viên mãn niềm hy vọng trời mới đất mới: đưa đoàn dân Chúa phát triển vươn tới mức và thời hạn do Chúa Cha toàn quyền đặt định và cũng nhờ đó, thân thể nhiệm mầu được tăng trưởng đạt đến tầm vóc viên mãn của Chúa Kitô[33].
3.2 Kitô hữu là cộng đoàn được sai đi.
Cộng đoàn Kitô hữu là cộng đoàn được sai đi. Cộng đoàn này nhận lãnh sứ mệnh đi vào thế giới và ra công làm việc, hướng đến một sự biến đổi sẽ đến. Chính vì việc sai đi này mà niềm hy vọng không bỏ mất hiện tại nhưng là công việc của hiện tại. Thế nên, có thể nói, sai đi cũng là một trong những đặc tính của niềm hy vọng. Hội Thánh đi vào thế giới là để cho thế giới thay đổi và trở nên điều đã được hứa cho nhân loại. Vì vậy, Hội Thánh vì và cho thế giới không gì khác hơn là một Hội Thánh vì và cho triều đại Nước Thiên Chúa, đồng thời không ngừng dẫn đưa thế giới này đi vào chân trời của niềm hy vọng[34].
3.3 Loan báo niềm hy vọng Kitô giáo.
Loan báo Tin Mừng không khác gì hơn là loan báo và làm cho con người hy vọng vào Đấng Tuyệt Đối. Thánh Phêrô khi rao giảng, ngài luôn xác quyết điều này khi ngài nói anh em hãy trả lời về bất cứ lý do mà mình hy vọng (x. 1Pr 2,13) cho những người muốn đi vào cuộc sống thân tình với Đức Kitô. Quả thực, thế giới này đang đạt được nhiều tiến bộ nhưng vẫn là một thế giới bất toàn, mỏng giòn và tạm bợ. Bởi thế nhân loại cần một tình yêu vô điều kiện, tình yêu này chỉ có thể gặp thấy nơi đức Giêsu Kitô, Đấng không chết, người là chính sự sống và là tình yêu. Giáo Hội không trao tặng cho nhân loại một thứ hy vọng ngắn ngủi nhưng là niềm hy vọng của một đời sống vĩnh cửu vừa hiển hiện trong hiện tại nhưng cũng là vừa trong tương lai đang đến. Chỉ có sự xác tín của niềm hy vọng mới có thể đem lại cho con người sự cam đảm để hoạt động và tiếp tục tiến lên.
3.4 Đào tạo và đào sâu đức tin cho người Kitô hữu.
Sứ vụ loan báo Tin Mừng không chỉ là mang Chúa đến cho người chưa nhận biết Chúa nhưng còn cần phải đào tạo và đào sâu đức tin cho người Kitô hữu. Việc đào sâu đức tin cần giúp cho người tín hữu đi vào cuộc sống cá vị với Đức Kitô, sống gắn bó và xác tín vào Ngài. Đồng thời, chúng ta cần giúp người kitô hữu cảm nghiệm, sống và đem đức tin vào cuộc sống. Nhờ đời sống đức tin gương mẫu của mình, các Kitô hữu phần nào làm chứng và loan báo Tin Mừng Nước Thiên Chúa giữa thực tại trần thế. Nhờ có một đức tin sâu sắc, các Kitô hữu luôn sống trong hy vọng và cảm nhận được hạnh phúc Thiên Quốc trên trần gian này. Đức tin là yếu tố rất quan trọng để biến đổi thế giới “nếu anh em có đức tin bằng hạt cải, thì dù anh em có bảo cây dâu này: Hãy bật rễ lên, xuống dưới biển kia mà mọc, nó cũng sẽ vâng lời anh em. (Lc 17 1, 6).
3.5 Loan báo Tin Mừng cứu độ vì phần rỗi các linh hồn.
Sứ vụ loan báo Tin Mừng sẽ không mang lại hiệu quả nếu không dẫn đưa các linh hồn trở về với Chúa. Chúa Giêsu đến trần gian không khác gì hơn là vì loài người chúng ta và để cứu độ chúng ta[35]. Ngài đến để quy tụ con cái của Thiên Chúa đang tản mác khắp nơi về một mối. Chỉ có Đức Kitô mới mang lại ơn cứu rỗi cho con người vì “dưới gầm trời này, không có một danh nào khác đã được ban cho nhân loại, để chúng ta phải nhờ vào danh đó mà được cứu độ (Cv 4, 12). Biến cố cứu chuộc của Chúa Kitô đã mang lại ơn cứu độ cho tất cả mọi người, vì mỗi một người đều được bao gồm trong mầu nhiệm cứu chuộc, và Chúa Kitô đã vĩnh viễn hiệp nhất chính mình với từng người nơi mầu nhiệm này.
3.6 Loan báo mầu nhiệm Đức Kitô chết và phục sinh cho con người hôm nay.
Đời sống của người Kitô hữu luôn được mời gọi quy hướng về một thực tại duy nhất là Đức Kitô. Do đó, chúng ta có nhiệm vụ sống tuyên xưng và loan báo Đức Kitô chết, sống lại cho người khác như lời Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II viết: phận sự trọng yếu của Giáo Hội trong mọi thời đại, nhất là trong thời đại chúng ta đây, là hướng cái nhìn của con người, là hướng dẫn việc nhận thức và cảm nghiệm của toàn thể nhân loại quy về mầu nhiệm Chúa Kitô[36]. Rao giảng mầu nhiệm Đức Kitô không chỉ là trọng tâm lời rao giảng của các Tông đồ nhưng còn phải là mục đích của các Kitô hữu vì “Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chết và sống lại từ trong kẻ chết, ơn cứu độ được hiến ban cho tất cả mọi người như một tặng vật của ân sủng và của tình thương Thiên Chúa” (Ep 2, 8). Như vậy, qua việc loan báo Chúa Kitô chịu chết và phục sinh, nhờ Người, con người hoàn toàn và thực sự được giải thoát khỏi sự dữ, tội lỗi và sự chết, và nhờ Người, Thiên Chúa ban sự sống mới là sự sống thần linh và trường cửu[37].
3.7 Bậc Đáng Kính Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, chứng nhân của niềm hy vọng.
Đức Thánh Cha Phanxicô trong sắc chỉ công bố năm thánh 2025 với chủ đề những người lữ hành của niềm hy vọng. Ngài nói: Đã là những người của niềm hy vọng thì chúng ta phải làm gì đó, nghĩa là chúng ta phải hành động, như những người Do Thái đã thưa với Thánh Gioan Tẩy Giả? Thưa Thầy, chúng tôi phải làm gì? Đây là một câu hỏi rất hiện sinh luôn gắn liền với thực tại cuộc sống. Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận đã sống niềm hy vọng cách sống động và cụ thể.Ngày 24. 04.1975, Đức Hồng Y Phanxicô Xavie Nguyễn Văn Thuận, được Thánh Giáo Hoàng Phaolô VI bổ nhiệm làm Tổng Giám Mục Phó của Giáo Phận Thành Phố Hồ Chí Minh với quyền kế vị, khi đó còn là Tổng Giáo Phận Sài Gòn. Trước đó ngài đã từng chọn khẩu hiệu giám mục của mình Gaudium et spes - Vui mừng và hy vọng. Chỉ vài tháng sau khi được bổ nhiệm, vào ngày 15. 08. 1975, ngài bị bắt cầm tù cho đến gần 13 năm sau mới được tự do. Đây là một sự kiện quá đau đớn đến nỗi đã có thể cướp mất khỏi sứ vụ giám mục cũng như cuộc đời của Đức Hồng Y. Niềm vui và hy vọng là chính biểu tượng giám mục của ngài. Đức Cố Hồng Y đã viết rất nhiều sách tu đức, nhiều tác phẩm của ngài được dịch ra nhiều thứ tiếng. Con đường sống tu đức, kinh nghiệm sống của ngài còn được đúc kết trong nhiều tác phẩm để nói lên sự xác tín mạnh mẽ về niềm hy vọng của mình: Đường hy vọng dưới ánh sáng của Công đồng Vatican II, đường hy vọng, chứng nhân hy vọng, những người người lữ hành trên đường hy vọng, hy vọng không chán nản, cầu nguyện hy vọng, năm chiếc bánh và hai con cá, niềm vui sống đạo. Nếu ai đã đọc qua những tác phẩm xuất phát từ cảm nghiệm cuộc sống, sẽ thấy ngài là một nhà thần học có tầm nhìn sâu rộng, trong một giai đoạn khó khăn, đen tối vô tận, trong một đêm ngập tràn thinh lặng và cô đơn. Nhưng chính nơi đây, Thiên Chúa đã ban cho ngài những giờ phút tuyệt vời nhất trong cả cuộc đời... Niềm hy vọng của ngài là một đời sống cầu nguyện liên lỷ và dâng Thánh Lễ sốt sắng mỗi ngày. Trong tù ngài đã cải trang để có cử hành Thánh Lễ, truyền phép trong một bàn tay với vài giọt thuốc chữa bệnh dạ dày và bánh thánh giấu trong một lọ chống ẩm. Ngay trong cách thức này Đức Hồng Y Văn Thuận cũng sống và kinh nghiệm điều Công Đồng Vatican II dạy trong Gaudium et Spes: Chúa đã để lại cho những kẻ thuộc về Người bảo chứng cậy trông và lương thực đi đường trong bí tích đức tin; trong bí tích ấy, những yếu tố thế trần, kết quả của lao công con người, được biến thành Mình và Máu vinh hiển, nên bữa ăn hiệp thông huynh đệ và nếm hưởng trước bữa tiệc trên trời. Có thể nói: Ngài xứng đáng là bậc thầy của niềm hy vọng Kitô giáo. Cái hay của Đức Hồng Y đó là ngài cảm nghiệm rằng: Không phải trường học nhưng chính cuộc sống đào tạo chúng ta. Chính đời sống chứng nhân của ngài, nên được Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II chọn giảng tĩnh tâm cho Giáo Triều Rôma năm 2000 mà từ trước đến nay chưa có một người Việt Nam nào có được vinh dự cao quý như thế. Đức Hồng Y là mãi là một kiệt tác, một chứng nhân hy vọng của thời đại. Cố Đức Thánh Cha Bênêdictô XVI đã ca ngợi ngài trong Thông điệp Spe Salvi – về niềm hy vọng Kitô giáo như sau: Đức cố Hồng Y Nguyễn Văn Thuận, một người tù trong 13 năm, trong đó có 9 năm bị biệt giam, đã để lại cho chúng ta cuốn sách nhỏ quý giá: Những lời cầu nguyện của niềm hy vọng. Trong vòng 13 năm tù đày, trong một tình trạng hầu như là tuyệt vọng, sự kiện là ngài có thể lắng nghe và thân thưa với Chúa đã trở nên một quyền năng hy vọng gia tăng cho ngài, khiến ngài, sau khi ra khỏi tù, đã trở nên một chứng nhân hy vọng cho dân chúng trên toàn thế giới – chứng nhân của một niềm hy vọng lớn lao không tàn lụi ngay cả trong những đêm đen của cô liêu[38]. Chính con người cầu nguyện của Đức Hồng Y Thuận, niềm hy vọng của ngài và đức tin sống động của ngài được đề cao. Nơi đây Bậc Đáng Kính của Thiên Chúa được nói đến như một người thầy của niềm hy vọng Kitô giáo. Đức Giáo Hoàng Phanxicô trong Tông Huấn Gaudete et Exsultate về lời mời gọi nên thánh trong thế giới hôm nay đã giới thiệu Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận như bậc thầy của niềm hy vọng. Ngài đã chọn sống giây phút hiện tại, lấp đầy nó với tình yêu. Ngài nói: Tôi sẽ tận dụng các cơ hội có được mỗi ngày; tôi sẽ chu toàn các việc thường ngày của tôi một cách phi thường. Như thế, niềm hy vọng chính là một lời đáp trả cho hành trình ơn gọi và nên thánh của ngài. Cố Đức Hồng Y mãi tấm gương sáng ngời về sống niềm hy vọng cho các Kitô hữu noi theo.
THƯ MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ad Ephesios, 20: PG 5, 661.
2. BÊNÊDICTÔ XVI, Cánh chung luận, Augustino Nguyễn Văn Trinh., dg., Hà nội, nxb. Tôn giáo, 2013.
3. BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg, 2007.
4. BÊNÊDICTÔ XVI, Tông huấn Sacramentum Caritatis, 2007.
5. Công đồng Vatican II, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam., dg., nxb. Tôn giáo, Hà nội, 2012.
6. Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam., dg., nxb. Tôn giáo, Hà nội, 2010.
7. GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Bí Tích Thánh Thể, Vietcatholic., dg., 2003.
8. GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Misio, 1990.
9. LM AUGUSTINO NGUYỄN VĂN TRINH, Cánh chung học, Đcv thánh Giuse Sài Gòn, 2000.
10.LM AUGUSTINO NGUYỄN VĂN TRINH, huấn quyền về môn cánh chung học, Đcv thánh Giuse Sài Gòn, 2007.
11.LM ĐA MINH PHẠM XUÂN UYỂN, cánh chung học & năng động lực, Don Bosco Xuân Hiệp.
12.LM PHAN TẤN THÀNH, Đời sống tâm linh IX, Bí tích tình yêu, Học Viện Đa Minh, 2011.
13.LM PHAN TẤN THÀNH, Đời sống tâm linh XIV, Niềm hy vọng hồng phúc, Hà nội, nxb. Tôn giáo, 2016.
14.LM PHAN TẤN THÀNH & MARIA ĐINH THỊ SÁNG, Cánh chung học, Tp. Hồ Chí Minh, 2004.
15.PHANXICÔ, Tông huấn niềm vui và hoan hỷ, 2018.
16.PHANXICÔ, Sắc chỉ công bố năm thánh 2025 - Spes Non Confundit.
17.VICENTE NGUYỄN NHẬT TRỌNG KHANH, Luận văn: chiều kích cánh chung trong bí tích Thánh Thể, 2013.
18.Thời sự thần học, Học Viện Đa Minh, số 69, 2015.
19.Thời sự thần học, Học Viện Đa Minh, số 75, 2017.
[1] PHANXICÔ, Sắc chỉ công bố năm thánh 2025 - Spes Non Confundit, SỐ 1.
[2] PHANXICÔ, Sắc chỉ công bố năm thánh 2025 - Spes Non Confundit, SỐ 2.
[3] PHANXICÔ, Nt, SỐ 18.
[4] Hiến chế Sacrosanctum Concilium, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam., dg., nxb. Tôn giáo, Hà nội, 2012, số 8.
[5] Hiến chế Sacrosanctum Concilium, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam., dg., nxb. Tôn giáo, Hà nội, 2012, số 7.
[6] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, Hội Đồng Giám Mục Việt Nam., dg., nxb. Tôn giáo, Hà nội, 2010, số 1130 trích bởi Tôma Aquinô, Summa Theologiae, III, q. 60, a. 3,c: ed. Leon.12,6.
[7] JESUS CASTELLANO CERVERA, O.C.D, Cánh chung luận và phụng vụ, trong thời sự thần học, Hi Vọng, Học Viện Đa Minh, số 69, 2015, tr. 129.
[8] JESUS CASTELLANO CERVERA, O.C.D, Cánh chung luận và phụng vụ, trong thời sự thần học, Hi Vọng, Học Viện Đa Minh, số 69, 2015, tr. 129.
[9] Hiến Chế Sacrosanctum Concilium, sđd., số 47.
[10] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Bí Tích Thánh Thể, 2003, số 18.
[11] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Bí Tích Thánh Thể, 2003, số 18..
[12] Ad Ephesios, 20: PG 5, 661.
[13] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Bí Tích Thánh Thể, 2003, số 20.
[14] Hiến Chế Gaudium et Spes, số 39.
[15] LM PHAN TẤN THÀNH, Đời sống tâm linh IX, bí tích tình yêu, Học Viện Đa Minh, 2011, tr. 324 -326.
[16] X. Hiến Chế Sacrosanctum Concilium, sđd., số 83.
[17] JESUS CASTELLANO CERVERA, O.C.D, nđd., tr. 133.
[18] Quy chế tổng quát phụng vụ các giờ kinh, số 16; 39; 70.
[19] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 671.
[20] BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg., 2007. số 32-34.
[21] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 672.
[22] Hiến Chế Lumen Gentium, số 48.
[23] BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg., 2007, số 11.
[24] BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg., 2007. số 41.
[25] BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg., 2007, số 41-48.
[26] BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg., 2007, số 47.
[27] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1044..
[28] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 2819.
[29] BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg., 2007, số 35.
[30] BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg., 2007, số 31.
[31] Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo, số 1025 trích bởi thánh Ambrosio, Expositio Evangelii Secundum Lucam, 10,121:CCL 14, 379 (PL 15,1927).
[32] BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg., 2007, số 12-13.
[33] Sắc lệnh Truyền giáo Ad Gentes, số 9.
[34] PHÊNI NGÂN GIANG, OP, Những góc nhìn về niềm hy vọng Kitô giáo qua thần học hy vọng của Moltmann và thông điệp Spe Salvi của ĐTC Bênêdictô XVI, trong thời sự thần học, Học Viện Đa Minh, số 69, tr 76.
[35] Sắc Lệnh Truyền giáo Ad Gentes, số 7.
[36] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Misio, 1990, số 3.
[37] GIOAN PHAOLÔ II, Thông Điệp Redemptoris Misio, 1990, số 44.
[38] BÊNÊDICTÔ XVI, Thông điệp Spe Salvi, Augustinô Nguyễn Văn Trinh., dg., 2007, số 32