16/04/2022
908
Giám mục
Leonard J. Olivier, S.V.D.
[1]
Hoa-Thịnh-Đốn

     Giám mục Len[2] Olivier là một con người lặng lẽ, nhân hậu, có tài đức và đầy lòng thương cảm. Ngài khởi sự đời linh mục là một thành viên của dòng Truyền Giáo Ngôi Lời. Mơ ước có mỗi một điều sau khi được truyền chức là trở thành cha xứ, ngài đã được thăng chức trái với nguyện vọng của mình từ chức vụ này qua chức vụ khác, và cuối cùng làm Giám Mục Phụ Tá Tổng Giáo Phận Hoa-Thịnh-Đốn. Giám mục Olivier là điển hình của một mục tử trong trào lưu mới như cố Hồng Y  Bernadin của Chicago, là người đã lãnh đạo qua việc phục vụ khiêm tốn.
     Giám mục Olivier sinh năm 1923 tại Lake Charles, tiểu bang Louisiana, theo học trong dòng Truyền Giáo Ngôi Lời, và thụ phong linh mục năm 1950.


     Thành phố nơi tôi sinh trưởng, Lake Charles, tiểu bang Louisiana, thuộc vùng tây nam của tiểu bang, gần Texas. Tôi không thể cho bạn địa chỉ nhà, vì chúng tôi đã không sống trên một con đường nào cả. Căn nhà của chúng tôi nằm trong một ngõ hẹp thuộc khu hầu hết là Mỹ đen của thành phố. Cuộc sống trong gia đình tôi mang lại nhiều kỷ niệm đẹp. Cả cha lẫn mẹ tôi đều là những người đạo đức. Cha tôi làm hướng dẫn viên trong nhà thờ, là một Hiệp Sĩ của hội Peter Clever[3], và thành viên của Hội Thánh Danh[4]. Người sống cho Giáo Hội và cho gia đình, và chúng tôi có một đời sống gia đình cầu nguyện vững chắc. Mẹ tôi không thuộc về bất cứ hội đoàn nào, nhưng bà là người làm việc hết sức cần mẫn. Bà nấu ăn rất tuyệt. Chính nhờ bà săn sóc cho gia đình và làm việc cần mẫn, nên trong những thời buổi khó khăn cha tôi mới có thể xa gia đình, tìm cho ra việc làm, rồi trở về giúp săn sóc tám người con chúng tôi. Cha tôi yêu thương hết các con cái, và người thích thú chơi với chúng tôi khi nào nghỉ việc. Ông được nhận làm công cho Gulf State Utilities, là nơi cung cấp điện nước cho thành phố, dù rằng nhà chúng tôi không có điện. Ông có được học nghề mộc, và thường làm thêm để có thêm chút đỉnh lợi nhuận cho gia đình. Lúc ấy đang thời đói kém, và mặc dầu người ta không bị sa thải, thực sự họ phải làm việc hai tuần, rồi bị mất việc cả hai tuần kế tiếp. Không thể cung cấp đủ cho gia đình với đồng lương khiêm tốn đó, trong hai tuần mà cha tôi không có việc làm, ông lại nhảy lên tàu chở hàng, đi qua tiểu bang Texas, tìm việc làm dăm ba ngày, rồi mới trở về nhà.
     Hết thảy chúng tôi đều đi học trường tiểu học Thánh Tâm Chúa Giê-su. Trường được trông coi bởi các nữ tu dòng Thánh Thể[
5] là những người làm việc với dân da đỏ và Mỹ đen, và bởi các linh mục dòng Thánh Linh[6] mà sứ mệnh đặc biệt của các ngài trong nước Mỹ này dành cho người Mỹ đen.
     Công việc tôi làm ở nhà là chăn heo, cho gà ăn, cưa cây và xếp củi. Và vì tôi là con thứ năm từ trên xuống, nên tôi săn sóc mấy em nhỏ hơn. Tôi đã từng là một cậu giúp lễ, và được thấy với lòng ngưỡng mộ những việc mà các linh mục thường làm quanh xứ đạo. Cha xứ thật là giỏi với các trẻ em. Ngài dạy cả con trai lẫn con gái chơi bóng rổ. Ngài cũng là một tay chơi cầu lỗ có hạng, song ngài bỏ thời giờ lên thời khóa biểu và tận tụy dành thời gian làm việc với người nghèo, nhất là trong thời kỳ khủng hoảng kinh tế. Thánh lễ và các bí tích lôi cuốn tôi đến sứ vụ linh mục, song có lẽ hơn tất cả mọi sự chính là tấm gương phục vụ của cha xứ chúng tôi. Tôi bắt đầu nghĩ đến và nói về chuyện học làm linh mục trong năm cuối trường tiểu học. Khi tôi xin đi chủng viện năm lớp Tám (được kể là năm đầu trung học), mẹ tôi nói phải đợi một năm nữa, bởi vì gia đình chúng tôi đang có kế hoạch di chuyển chỗ ở, và cuối cùng sắp có một căn nhà đàng hoàng. Một năm sau thì mẹ không còn lý do bào chữa nữa. Bà không lo lắng cho tôi đi, không phải vì thiếu quý trọng chức linh mục, song vì bà yêu thương tất cả các con. Hai người cháu đã thường hay xin mẹ cho đi một trong các con để họ nuôi. Mẹ trả lời:
“Chúng đều là con ta; đi mà tự sinh con cho mình.”
     Và như thế, đời sống ở nhà thật là đẹp. Chúng tôi có ít của cải lắm, nhưng không nhận ra cái nghèo nàn của mình, bởi vì tình thương thì chan chứa. Cả cha lẫn mẹ đều dạy chúng tôi cầu nguyện, hầu hết là do cha chúng tôi, bởi vì mẹ tôi lớn lên trong gia đình nói tiếng Pháp, thành thử thật khó cho bà nắm vững được những kinh cầu nguyện bằng tiếng Anh. Sau năm đầu trung học, tôi vào Chủng Viện Ngôi Lời Thánh Au-gus-ti-nô ở Bay Saint Louis, tiểu bang Mississippi. Biết được hoàn cảnh tài chánh của gia đình chúng tôi, cha giám đốc bảo học phí sẽ được đài thọ. Tôi luôn luôn nhìn lại công việc mình làm từ khi được truyền chức như thể hoàn trả lại cho những giáo huấn tôi đã nhận lãnh, mà không chất thêm gánh nặng cho gia đình.
     Theo tập tục của một số dòng tu, chúng tôi được truyền chức vào cuối năm thứ ba thần học. Trong năm thứ tư, chúng tôi được gọi là các linh mục kinh viện. Chúng tôi có thể dâng lễ và làm một ít mục vụ giới hạn, song vẫn phải đến lớp học. Cha mẹ tôi hy vọng rằng tôi sẽ được bài sai về gần nhà, nhưng thật bất ngờ, tôi được giữ lại ở chủng viện để làm một phụ tá khoa trưởng trong trường trung học của chủng viện. Tôi không có tài nghệ đặc biệt nào về thể thao, song hẳn là họ muốn tôi cống hiến một năng khiếu khác. Bởi thế, trong bốn năm kế tiếp, tôi đã dạy học chút đỉnh và sinh hoạt với các chủng sinh trong phòng ăn, phòng học chung và các lớp học. Thế rồi một chuyện ngạc nhiên khác xảy đến: tôi được bổ nhiệm làm khoa trưởng. Một người khoa trưởng đáng lý phải là người thẳng tính, có thể giơ nắm đấm[
7] khi cần. Một lần nữa, dường như họ không mong đợi điều đó nơi tôi. Tôi giữ chức vụ ấy trong suốt 11 năm, tiếp tục đời sống cầu nguyện và hy vọng ít lâu sau sẽ được đi làm việc ở xứ đạo. Lại một lần nữa tôi bị trật đường rầy; tôi được bổ nhiệm làm giám đốc cộng đoàn tu sĩ của mình. Tôi ở lại trong công việc đó sáu năm nữa cho đến 1973. Tới lúc ấy, tôi đã thụ phong linh mục được 22 năm, và trong cộng đoàn của chúng tôi, chúng tôi có cái ưu quyền được nghỉ một thời gian sau chuỗi ngày làm việc liên lỉ. Thế là tôi đến Nhà Thiêng Liêng của chúng tôi bên ngoài Castel Gandolfo, nước Ý, trong phố Neri năm tháng. Thật là một quãng thời gian tuyệt diệu để học hỏi, cầu nguyện và du hành. Tôi thăm các ngôi đền ở Rô-ma, đi theo vài chuyến du lịch có hướng dẫn, và xả hơi sau nhiều năm làm việc hành chánh.
     Sau đó, tôi nghĩ chắc mẩm rằng cuối cùng mình sẽ được làm việc xứ đạo, là giấc mơ của mỗi linh mục khi được truyền chức. Song tôi lại được cử làm Bí Thư Học Vụ cho toàn bộ các chủng viện của dòng Truyền Giáo Ngôi Lời trong nước, lúc ấy khoảng 15 nhà. Trung ương của tôi nằm ở Epworth, tiểu bang Iowa, từ 1974 đến 1982. Cũng trong thời gian này tôi được bầu làm giám đốc chủng viện Epworth. Thật là một kinh nghiệm mới lạ cho tôi, bởi vì có rất ít người da đen trong vùng –chỉ có những người trong chủng viện và một số đến từ những thành phố lớn để học tại các đại học Loras và Clarke vùng phụ cận của Dubuque.
     Lúc đang ở Epworth, tôi làm quen với phong trào Gặp Gỡ Hôn Nhân[
8]. Một giáo sư nọ đưa tôi một tờ đơn, bảo tôi điền vào và gửi kèm $10 Mỹ-kim tới một cặp vợ chồng ở Cedar Rapids là Dick và Carol Lensing. Họ làm việc trong nhóm tổ chức cuối tuần đó, và ba người ấy đã trở thành điểm xoay hướng trong đời tôi. Tôi vẫn thường hay sợ các cặp vợ chồng. Điều đó nghe có vẻ kỳ kỳ –nhất nữa khi tôi sinh trưởng trong một gia đình đầy yêu thương– nhưng tôi hình dung có một khoảng cách lớn giữa đời sống hôn nhân và linh mục, đến nỗi tôi đã luôn luôn cảnh giác. Cuối tuần ấy với cặp vợ chồng Lensing, hai cặp khác nữa và một linh mục đã cho tôi thấy bản tính tự nhiên chung của con người gặp thấy trên mọi nẻo đường đời thế nào, và làm cách nào tôi có thể yêu thương và đón nhận tình yêu thương từ nơi người khác mà không phải do dự. Rồi tôi được yêu cầu thực hiện các cuối tuần cho phong trào Gặp Gỡ Hôn Nhân. Để chuẩn bị, tôi phải viết đến 15 bài nói chuyện. Những bài nói chuyện đó bộc lộ con người tôi rất nhiều, và các cặp vợ chồng đã thách đố tôi trong một cách thế còn sâu xa hơn những huấn luyện của tôi ở chủng viện nhiều lắm. Tôi đã học cách làm thế nào để tạo được những mối liên hệ thân mật mà đứng đắn với họ.
     Có một xứ đạo người Mỹ da đen là Thánh Linh ở Opelousas, tiểu bang Louisiana không có cha sở, và giám mục hỏi tôi xem có thể làm giám quản cho đến khi tìm được cha xứ mới không. Đó là một xứ đạo Mỹ da đen lớn nhất trong tiểu bang, với khoảng 10.000 giáo dân. Bốn tháng sau tôi nhận được điện thoại từ đức Khâm Sứ Tòa Thánh, Tổng Giám Mục Pio Laghi, cho tôi biết Đức Thánh Cha đã bổ nhiệm tôi làm Giám Mục Phụ Tá Hoa-Thịnh-Đốn. Cuộc đối thoại ấy như có cái gì nhầm lẫn. Giáo xứ Thánh Linh đã tự chia làm hai phe nhóm, chỉ có một nhóm đón nhận tôi. Người giáo dân đã thật sự đến gặp giám mục vài lần yêu cầu cho cha xứ cũ của họ trở lại. Và vì thế khi ngài Khâm Sứ gọi, tôi tưởng Hội Đồng Giáo Xứ đã không hài lòng với giám mục và đã tiến thêm một bước xa hơn. Bởi thế tôi nói: 
“Thưa đức Tổng Giám Mục, con không biết ngài có nhận ra không, nhưng có xáo trộn xảy ra ở đây mà.” Và ngài bảo: “Này nhé, nếu cha chấp thuận đề nghị của Đức Thánh Cha, cha sẽ không phải phiền lòng về chuyện đó. Một người khác sẽ phải liệu cách giải quyết.”
     Cuối cùng tôi mới bắt đầu hiểu ra rằng ngài muốn bổ nhiệm tôi làm giám mục. Tôi thưa ngài: “Có lẽ đức Tổng nhầm lẫn con với một ai đó. Có một linh mục ở cách đây 20 dặm, tên ngài là Oliver, đánh vần giống y tên con, ngoại trừ tên con có hai chữ ‘i’.” Đức Khâm Sứ bảo: “Chúng tôi biết cha là ai mà. Tôi không nhầm lẫn cha với bất kỳ ai đâu. Tôi muốn câu trả lời trong một hay hai ngày. Xin cha gọi Hồng Y Hickey (là đương nhiệm của Tổng Giáo Phận Hoa-Thịnh-Đốn) và nói chuyện với ngài.” Thế rồi tôi phản đối: “Con đã 65 tuổi rồi còn gì!” Và ngài trả lời: “Việc ấy có liên can gì? Đức Hồng Y cần có một người gần bằng tuổi ngài.” Cuối cùng tôi nói: “Nhưng con không phải là nhà giảng thuyết giỏi, cũng không cứng rắn nữa.” Ngài trả lời: “Chúng tôi không mong đợi những điều đó; chúng tôi tìm kiếm một người có bộ óc mục tử. Cha làm ơn gọi lại trong một ngày và chấp thuận đi. Và cha nhớ là không nên từ chối Đức Thánh Cha một điều gì cả.”
     Đức Khâm Sứ có nói là tôi có thể thưa chuyện với cha linh hướng của mình. Và tôi đã hỏi. Lời khuyên của ngài là nên chấp thuận, và thế là tôi di chuyển về thủ đô của quốc gia. Giống như vị tiền nhiệm của tôi là Tổng Giám Mục Marino, tôi được trao cho một mục vụ đặc biệt với người Công Giáo da đen ở Hoa-Thịnh-Đốn, song không chỉ với họ mà thôi. Toàn tổng giáo phận là một phần của việc mục vụ. Giáo dân đã đón nhận và nâng đỡ tôi. Tôi đã ở đây được bẩy năm rồi, và thật là vui sướng. Giờ đây tôi đã trên 70 tuổi và hy vọng sẽ phục vụ Tổng Giáo Phận bao lâu hồng y còn cần tôi. Sau đó tôi sẽ về hưu và trở lại với cộng đoàn tu sĩ của mình.
***
     Tôi đã học được giá trị của lời cam kết nơi cha mẹ tôi. Các ngài đã hết sức tận tụy với nhau và với gia đình. Tôi là linh mục trong thời buổi khó khăn, nhưng chưa bao giờ xảy ra chuyện tôi rút lui khỏi sứ vụ linh mục hay khỏi những công tác tôi đã làm ở chủng viện, mặc dù tôi nhận ra rằng tôi đang huấn luyện những người trẻ làm linh mục trong khi những người khác thì rời bỏ hàng ngũ linh mục. Tôi chưa bao giờ nghi ngờ hay có ý nghĩ từ bỏ cái vai trò mà tôi đã lãnh nhận. Tôi cho là mình chỉ theo gương cha mẹ tôi thôi.
     Một sức mạnh khác thôi thúc trong đời linh mục của tôi là kinh nghiệm về đặc sủng. Tôi đã đến dự một số buổi cầu nguyện đặc sủng ở vùng Dubuque, nhưng những lần ấy chưa nắm bắt được tôi. Về sau khi tôi làm cha sở, một trưởng nhóm yêu cầu tôi ghé thăm một buổi hội họp của họ vào tối Thứ Ba. Tôi đã đến, và rồi dự cả tuần tĩnh tâm Đời Sống Trong Thánh Linh[
9] nữa. Song vẫn không thấy động tĩnh gì! Họ mời tôi dự một thánh lễ đặc sủng buổi chiều trước lễ Hiện Xuống cho toàn Tổng Giáo Phận Dubuque. Trong thánh lễ đó, một số người đã đặt tay cầu nguyện trên tôi. Tôi bỗng dưng cảm thấy khác thường. Tôi không thể cắt nghĩa được điều gì đã xảy ra trong những lần cầu nguyện ấy, ngoại trừ là bằng một cách nào đó, Chúa Thánh Linh nắm được bạn và làm một điều gì đó đối với bạn. Tôi trở nên tích cực hoạt động trong phong trào, và nhận được ơn nói tiếng lạ nữa. Tôi nghĩ rằng có được những kinh nghiệm đó thật là quan trọng để tôi có thể khuyến khích người ta trong những kinh nghiệm trở về: Gặp Gỡ Hôn Nhân, Cursillo và Phong Trào Đặc Sủng. Chúa Thánh Linh có những ân tứ khác nhau cho những con người khác nhau, và một phần then chốt trong mục vụ của một linh mục là phát triển trong con người ta những ân sủng mà Thiên Chúa đã ban cho họ.
     Điều lớn lao nhất mà một linh mục có thể làm là công bố sứ điệp của Chúa Giê-su Ki-tô. Sứ điệp của Ngài là câu trả lời cho từng nhu cầu của nhân loại. Khi kết hợp điều đó với phụng vụ thánh và các bí tích khác, cũng như những cơ hội thường xuyên khi các linh mục cố vấn cho người ta, thế là chúng ta có một đời sống đầy ân sủng, ảnh hưởng và sung mãn.
***
     Tôi không có chút trở ngại nào với lời khấn khó nghèo. Thật vậy, tôi thích được tự do khỏi vướng mắc những chuyện vật chất. Điều ấy có thể không phải là thứ khích lệ nhất đối với lời khấn của tôi, song nó có giúp phần nào. Tôi hơi ngạc nhiên là khi tôi được phong giám mục thì tôi lại không còn là một tu sĩ dòng nữa, và không còn phải giữ lời khấn của một tu sĩ. Nói đúng ra tôi đã trở thành một linh mục địa phận. Tôi không còn liên hệ kinh tế nào với cộng đoàn của tôi, chỉ còn lại tình huynh đệ. Nhờ đời sống tại gia đình lúc còn thơ ấu và đời sống trong chủng viện, lời khấn vâng lời chưa bao giờ gây cho tôi vấn đề gì. Tuy vậy, kỷ niệm về mái ấm gia đình chính ra lại khiến đời độc thân của tôi bị thách đố. Mẹ và cha tôi tỏ dấu thân mật với nhau trước mặt con cái, và đấy là một điều gì đó tôi hằng mơ ước. Nó là một phần của giá trị đời sống gia đình. Tuy nhiên, thực ra tôi không thể nói là mình cô độc. Tôi vẫn còn liên hệ chặt chẽ với gia đình tôi, có biết bao là bạn bè, và tôi coi độc thân là một điều tốt. Nó giải thoát tôi để tôi cống hiến 100% cho những người tôi phục vụ, để tôi ít bị phân tâm hơn là nếu tôi có một người phối ngẫu.
     Tôi nghĩ rằng làm linh mục là một cuộc sống tuyệt diệu. Tôi biết đã có những chuyện lem nhem xảy ra và chúng gây thương tổn. Nhưng trong một khía cạnh nào đó, những vụ xì-căng-đan cũng đã phục vụ cho Giáo Hội. Chúng nhắc nhở chúng ta rằng Giáo Hội vừa có thần tính vừa có nhân tính. Chúng ta thấy Thiên Chúa có thể đem lại điều thiện hảo từ trong sự gian tà và cơn đau đớn. Giai đoạn này là một thứ thanh tẩy, một sự canh tân. Đấy là một cách học tín thác vào Thiên Chúa hơn nữa, để không quá tự tin nơi mình. Nó đã dạy chúng ta rằng có những phần trong đời sống chúng ta mà mình không thể kiểm soát được, mà phải cậy trông vào lòng nhân từ của Thiên Chúa.







[1] Dòng Truyền Giáo Ngôi Lời – tiếng La-tinh Societas Verbi Divini, viết tắt là S.V.D., tiếng Anh viết là (The Mission) Society of the Divine Word, thường hay được gọi là Divine Word Missionaries hay Steyler Missionaries vì được sáng lập tại Steyl nước Hòa-Lan năm 1875 bởi cha Arnold Janssen, một linh mục triều.
[2] Len – tên gọi thân mật của Leonard.
[3] Knights of Peter Claver – một hiệp hội nam giáo dân Công Giáo của người Mỹ da đen, được sáng lập năm 1909 bởi một linh mục dòng Thánh Giu-se, cha Conrad Friedrich Rebesher. Hiệp hội “K.P.C.” lấy tên thánh Peter Claver, một linh mục dòng Tên người Tây-Ban-Nha đã truyền giáo tại Nam Mỹ, và rửa tội cho khoảng 300.000 người nô lệ gia nhập Công Giáo.
[4] Holy Name Society hay Society of the Holy Name, lúc khởi đầu được biết với danh hiệu Confraternity of the Most Holy Name of God and Jesus – một hội nam giáo dân Công Giáo dưới sự bảo trợ của dòng Đa-minh, đặc biệt sùng kính Danh Thánh Chúa, và đền tạ các tội xúc phạm đến Chúa. 
[5] Sisters of the Blessed Sacrament - được sáng lập năm 1891 bởi thánh nữ Katharine Drexel tại Hoa-Kỳ. Lúc đầu dòng được gọi là Sisters of the Blessed Sacrament for Indians and Colored People, vì được sáng lập để phục vụ người dân da đỏ bản xứ tại Mỹ và người Mỹ da đen.
[6] Dòng Thánh Linh – tiếng Anh Congregation of the Holy Spirit mà trọn vẹn danh hiệu rất dài: Congregation of the Holy Spirit under the protection of the Immaculate Heart of Mary, tiếng La-tinh là Congregatio Sancti Spiritus sub tutela Immaculati Cordis Beatissimae Virginis Mariae, bởi thế viết tắt là C.S.Sp., một dòng gồm các linh mục và tu sĩ (sau Công Đồng Vatican II có thêm giáo dân). Các thành viên của dòng cũng được gọi là Spiritans ở Âu Châu và Holy Ghost Fathers ở các nước nói tiếng Anh. Dòng Thánh Linh do một luật sư trẻ tên là Claude-François Poullart des Places, sáng lập ở Paris năm 1703 để tạo điều kiện cho những người muốn tu học làm linh mục nhưng quá nghèo. Ít năm sau, Claude-François thụ phong linh mục, và tiếp tục mở rộng nhà dòng để phục vụ người nghèo. Ngài qua đời năm 1709 lúc mới 31 tuổi, sau ba năm trong sứ vụ linh mục.
[7] Giơ nắm đấm – ý nói cương quyết.
[8] Phong Trào Gặp Gỡ Hôn Nhân – Marriage Encounter Movement: Ba ngày tĩnh tâm cuối tuần dành cho các cặp vợ chồng; sinh hoạt tương tự như Phong Trào Thăng Tiến Hôn Nhân hoặc Gia Đình Na-gia-rét cho người Công Giáo Việt ở Hoa-Kỳ.
[9] Life in the Spirit Seminar – tương tự như khóa học Canh Tân Đặc Sủng của anh chị em Công Giáo Việt Nam tại Hoa-Kỳ.

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...