12/05/2023
1046

CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH – Năm A

Lời Chúa: Cv. 8, 5-8. 14-17; 1Pr. 3, 15-18; Ga. 14, 15-21

———

Mục lục

1. Ơn Ta đủ cho con  (Lm. Jos.Tạ Duy Tuyền)

2. Thầy ở cùng anh em (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

3. Được Thầy yêu mến  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

4. Yêu mến trong Thần Khí (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Chia sẻ niềm vui (Lm. Vũ Đình Tường)

6. Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong mầu nhiệm Phục sinh (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

7. Yêu mến và tuân giữ  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Thánh Thần Đấng Bảo trợ đến từ Thiên Chúa  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)

9. Thần Khí Chúa  (Trầm Thiên Thu)

10. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 6 Phục sinh_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)


 

ƠN TA ĐỦ CHO CON

Lm.Jos Tạ duy Tuyền

Xưa rất trọng chữ tín, họ hiểu rằng : ‘Một lần bất tín, vạn lần bất tin’, nên thường dạy con cháu: ‘Nói lời phải giữ lấy lời, đừng như con bướm đậu rồi lại bay’. Chữ Tín trong cuộc sống không chỉ là sự tôn trọng dành cho người khác mà đó còn là tôn trọng danh dự của chính bản thân mình. Khi ai đó không trọng chữ tín thì nhân cách người đó cũng bị hạ xuống thấp.

Nhưng đáng tiếc, với lối sống hiện sinh hôm nay đã có quá nhiều người sẵn sàng bán rẻ danh dự và nhân phẩm của mình khi không giữ chữ tín trong cuộc sống. Vợ chồng bất tín với nhau nên vẫn đầy rãy những vụ đánh ghen và  tệ hơn là đem nhau ra toà chia tay. Xã hội không có chữ tín nên đầy thị phi của lừa gạt, gian dối, buôn gian bán lận khiến con người chẳng dám tin ai!

Trong số những mẫu gương về chữ tín hiện đại người ta thường nói đến tỷ phú Lý Gia Thành. Ông đặt chữ tín trong mọi hoàn cảnh cuộc đời. Năm 1996, vị tỷ phú Hồng Kông đã gặp một biến cố lớn khi con trai của ông là Lý Trạch Cự bị một nhóm tội phạm bắt cóc đòi tiền chuộc. Chúng dặn ông không được phép báo cảnh sát, nếu không sẽ ngay lập tức xử lý con tin và Lý Gia Thành đã đồng ý.

Ngay khi bọn bắt cóc tới, chúng lùng sục khắp nơi vì nghi ngờ có cảnh sát đang ẩn núp xung quanh. Nhưng Lý Gia Thành chỉ nói: ‘Cả cuộc đời kinh doanh của tôi chẳng có thành tựu gì lớn, ngoại trừ chữ Tín trong từng lời nói của mình.’ Rồi ông để mặc bọn bắt cóc tìm kiếm khắp một vòng quanh nhà, mở cửa tất cả các phòng để tự kiểm chứng không có bóng dáng cảnh sát nào gần đây.

Bấy giờ, bọn bắt cóc yêu cầu 2 tỷ đô la Hồng Kông làm tiền chuộc. Lý Gia Thành chỉ có thể gấp rút chuẩn bị một nửa số tiền đó từ ngân hàng và hứa sẽ chuyển nốt một nửa còn lại đến tận tay bọn họ sau 2 ngày. Lúc đầu, đám bắt cóc còn bán tín bán nghi, nhưng sự thật sau đó đã chứng minh rằng, dù con trai đã trở về, vị tỷ phú Hồng Kông vẫn giữ đúng lời hứa và chuyển cho họ 1 tỷ đô la còn lại.

Khi được hỏi tại sao lại hành động như vậy, Lý Gia Thành đã khẳng định: ‘Chữ Tín là sinh mệnh thứ hai, một khi đã mất đi thì dù có đánh đổi bao nhiêu tiền bạc và công sức cũng không thể lấy lại được. Do đó, tôi đã bằng lòng điều gì, thì nhất định tôi sẽ thực hiện điều đó đến cùng.’ Đó chính là bản lĩnh giúp cho người đàn ông này xây dựng nên cả gia tài và sự nghiệp từ hai bàn tay trắng. Nó đại biểu cho một phần đạo đức, một phần nhân phẩm không thể thiếu của mỗi con người.

Cuộc đời ky-tô hữu chúng ta Chúa cũng đòi hỏi sống chữ tín với Chúa. Dù giữa cuộc đời đầy cám dỗ nhưng người tín hữu vẫn phải trung thành sống theo lời dạy của Chúa.  Đây là điều mà Chúa Giê-su trước khi về Trời đã căn dặn chúng ta: “Nếu anh em yêu mến Thầy, thì hãy giữ lời Thầy”. Như thế, tuân giữ giới răn Chúa là dấu chỉ cho lòng yêu mến Chúa. Tuân giữ giới răn Chúa còn là dấu chỉ sự trung tín và chu toàn bổn phận của Chúa giữa thế gian. Không thể nói rằng mình yêu mến Chúa mà lại không dám thực thi lời Chúa. Nếu chúng ta nói yêu mến Chúa mà không dám sống đạo và giữ đạo, đó chỉ là sự giả tạo vì Chúa đã từng trách rằng: “Dân này chỉ thờ Ta bằng môi bằng miệng mà lòng chúng lại xa cách Ta”. Tuân hứa giới răn Chúa không chỉ dừng lại trên môi miệng mà còn là một dấn thân để ý Chúa được thể diện trong cuộc đời chúng ta. Như Chúa Giê-su, ngài đã vâng phục thánh ý Chúa Cha cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự. Người ky-tô hữu cũng phải vâng phục theo giáo huấn của Chúa, cho dẫu có phải chịu thiệt thòi, mất mát hay phải hy sinh cả tính mạng vì lòng yêu mến Chúa.

Nhìn vào thế gian hôm nay với bao nhiêu cám dỗ mời mọc, bao nhiêu cạm bẫy rình chờ, khiến đức tin của chúng ta đã nhiều lần chao đảo, muốn buông xuôi theo cám dỗ của tiền tài, danh vọng và thú vui thể xác. Giữa một thế giới có quá nhiều cám dỗ hưởng thụ, làm sao chúng ta có thể trung thành với Chúa? Có lẽ vì nguyên nhân đó, mà Chúa Giê-su đã hứa ở cùng chúng ta, đồng thời, ngài còn ban Thần Khí đến cho chúng ta. Ngài sẽ an ủi khi chúng ta gặp u buồn. Ngài sẽ soi sáng khi lòng trí chúng ta gặp hoang mang, lo lắng. Ngài sẽ nâng đỡ khi bước đường chúng ta gặp gian nan. Ngài sẽ ban sức mạnh khi chúng ta cần sức mạnh để vượt qua cám dỗ tội lỗi và làm lại cuộc đời. Ngài sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chúng ta hoàn thành sứ mạng cuộc đời như một tôi tớ trung tín và khôn ngoan, vì Chúa đã hứa hằng: “Ơn Ta đủ cho người và quyền năng Ta hiển trị nơi sự yếu hèn của con”
Nguyện xin Chúa Ky-tô Phục sinh luôn đồng hành với chúng ta và chúc lành cho cuộc đời chúng ta luôn bình an để chúng ta mãi trung thành với Chúa. Amen

Về mục lục

THẦY Ở CÙNG ANH EM

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Có bao lần ngụp lặn trong những lo âu, buồn chán, đau khổ, bi ai, thất vọng… ta có thể biết đến lời hứa của Chúa: “Thầy ở với anh em” để ra khỏi những muộn phiền trong đời sống, hay ta cứ ở lỳ trong đó tìm lối giải thoát ngoài Chúa. Ta không thấy Chúa ở bên đời ta, không cùng Chúa để chính Chúa mới là Đấng giải thoát với cố gắng của ta.

Đau khổ, muộn phiền lấp đầy ngoài Chúa, ta tìm những thú vui khác để lấp đầy: mua sắm, đổ lỗi, tìm khoái lạc thể xác, những thứ thuốc an thần… Ngoài Chúa, ta tìm lồi thoát, nhưng càng có giải pháp ngoài Chúa, ta lại vấp phải nỗi buồn khác chồng chất thêm. Ngoài Chúa, ta vẫn cứ hoài mệt mỏi với những cố gắng tự thân, rồi buông trôi. Ngoài Chúa, ta đi tìm lời an ủi, khích lệ từ người thân chung quanh, nhưng cũng gặp phải nhiều lời gièm pha, chỉ trích và thêm lời chế giễu, bôi nhọ, xem thường. Ta rút lui với mình ta cũng nỗi buồn dẫn ta đến trầm cảm, tự kỷ, hay tìm đến những chất kích thích, ảo giác. Trong nhiều đau khổ của ta thường đến từ việc thương “cái tôi” của ta lớn quá. Tự xem mình là trọng tâm quan trọng hơn người khác, luôn hình dung, đặt điều, suy diễn những điều không thực sự diễn ra. Giống như một người ghen tuông, lúc nào cũng tưởng tượng người bạn đường phản bội, với những cảnh tượng ghê gớm, khoét sâu vào lòng của mình những đau đớn.

Có một nguyên tắc, Thánh Gioan kim khẩu nói rằng: “không ai có thể làm mình tổn thương, đau khổ, nếu mình không tự gây ra cho mình”. Nguyên nhân đau khổ do chính mình gây nên bởi chính “cái tôi” ích kỷ của mình. Chúa Giêsu đưa ra dụ ngôn, người khôn xây nhà trên đá, kẻ dại xây nhà mình trên cát. Người dại xây nhà mình trên những điều bấp bênh, nhẹ dạ, đồi bại, giận hờn, thù oán, vong thân, sẽ lãnh lấy hậu quả trên những nền tảng ấy. Ngay cả việc tự trách mình quá đáng cũng cần tiếp cận với việc biết tha thứ cho mình để đứng dậy làm lại những gì mới mẻ , tốt lành. Nếu cứ nghiền ngẫm và nghe dư luận phê phán mình thì chẳng bao giờ ra khỏi muộn phiền, đau khổ.

Như ông Gióp là một con người vững mạnh giữa những đau khổ tự nhiên kéo đến và cũng chẳng phải chịu những đau khổ từ những lời gièm pha chung quanh. Ông ý thức bản thân của mình, có đó rồi mất đó, ông nghiệm thấy điều Chúa ban cho rồi Chúa lấy lại cũng tùy thuộc vào Chúa. Lòng trông cậy của ông nơi Chúa có một điều rất đặc biệt, đó là kinh nghiệm về Thiên Chúa giữa đau khổ của mình: “Trước kia con chỉ biết Người qua người ta nói lại; bây giờ chính mắt con chứng kiến. Vì thế, điều con nói ra xin rút lại, con sấp mình hối lỗi, ăn năn” (Giop 42, 5). Ông nhận ra mình chỉ là cát bụi, không thể ngang hàng tranh luận cùng Thiên Chúa. Tất cả đều do sự tốt lành của Chúa, Người thử thách để ta được lớn lên trong phẩm cách làm người.

Thầy ở với anh em.

Ý thức việc “Chúa sống trong tôi” như Thánh Phaolô biểu hiện trong đời sống của ngài: “Ai sẽ tách chúng ta ra khỏi lòng mến của Ðức Kitô? Phải chăng là gian truân, bĩ cực, bắt bớ, đói khát, trần truồng, hiểm nguy, gươm giáo ư?  Như đã viết: Vì Người chúng tôi bị sát phạt suốt ngày, chúng tôi bị kể như chiên lò sát. Nhưng trên các điều ấy hết thảy, chúng ta toàn thắng, nhờ Ðấng đã yêu mến chúng ta.” (Rm 8, 35 – 37).

Dù ta chưa biết Chúa nhiều như những nhà Thánh Kinh, hay thần học gia, hoặc những bậc tu hành đạo đức; nhưng với một đức tìn, niềm trông cậy và một lòng yêu mến, đơn sơ chân thành thôi, ta cũng nghiệm thấy tình thương của Chúa dành cho ta trong mọi nơi mọi lúc. Người vẫn ở bên ta như một người bạn thân thiết, hiểu rõ ta và luôn trợ giúp ta mọi mặt trên đường đời. Luôn cầu xin Chúa ban thêm niềm tin cho ta, để lòng trông cậy được thêm lên và lòng mến yêu được gia tăng. Một thời gian đặc biệt nào đó Chúa ban cho, ta cũng lại thưa lên: “không có gì tách tôi ra khỏi lòng yêu mến của Đức Kitô”.

Thầy vẫn ở với anh chị em. Người đang sống và luôn sống. Xin Chúa Thánh Thần trợ giúp chúng con khi niềm tin yếu kém, khi sức mạnh tinh thần lụn bại, khi lòng yêu mến nhạt dần.

Về mục lục

ĐƯỢC THẦY YÊU MẾN

Bông hồng nhỏ

          Ai trong chúng ta cũng đều được Chúa Giêsu hết mực yêu thương. Người đã tự nguyện hiến dâng chính mình, chịu đóng đinh và chết trên cây thập giá để cứu chuộc chúng ta. Thánh Phêrô đã viết trong một lá thư của ngài rằng: Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi -Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương- hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh (1.Pr 3, 18). Vốn dĩ là  một kẻ bất lương nhưng đã được Thiên Chúa thương xót, tôi phải làm gì để đáp lại tình yêu bao la mà Thiên Chúa đã dành cho tôi?

          Đây là lời Chúa Giêsu đã ngỏ với tôi: “Nếu con yêu mến Thầy, con sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho con một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với con luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (x.Ga 14, 15-17a). Tôi nhận thấy tình yêu Chúa trong tôi ngày càng được đong đầy. Đó không chỉ là tình yêu tôi đã dành cho Chúa nhiều hơn, nhưng hơn hết là tình yêu Chúa dành cho tôi mỗi ngày một nhiều hơn. Không phải hôm qua Chúa yêu tôi ít hơn hôm nay, nhưng là hôm nay Chúa cho tôi cảm nhận được nhiều hơn tình yêu Ngài dành cho tôi. Ngài dành cho tôi một tình yêu duy nhất, tình yêu trước sau như một. Điều làm tôi hạnh phúc là tôi được chính Thần Khí của Thiên Chúa làm cho sống. Tôi nhận thấy trái tim mình mỗi lần biết yêu như Chúa đã yêu thì nó được mở rộng ra. Đó là khi tôi đón nhận và cầu nguyện cho một người mà tôi ít thiện cảm, tìm kiếm và ghi nhận điều tốt đẹp nơi người đã ghét bỏ tôi, tôi cầu nguyện và dâng một việc làm hy sinh âm thầm là dấu để tôi tập bỏ mình, bỏ ý riêng và bỏ cái tôi ích kỷ. Khi tôi yêu thương người khác như Chúa đã yêu thương tôi thì tôi cảm nhận được một sự bình an lặng lẽ trong tâm hồn. Đã nhiều lần tôi tự hỏi: “Sao người ta lại bắt tôi phải khắc phục hậu quả do lỗi của chính họ?” Tôi nhận thấy một ánh sáng chiếu soi trong tâm hồn tôi. Có một câu hỏi khác đến trong tâm trí tôi: “Tại sao Chúa Giêsu lại phải chết vì tội lỗi của chính tôi?” Tôi thấy xấu hổ cho chính mình. Chúa Giêsu đã đón nhận tôi, yêu thương tôi ngay khi tôi còn là một kẻ bất lương. Vậy mà tôi lại không đón nhận người khác như Chúa đã đón nhận tôi ư!

          Chúa Giêsu đã nhờ Thần Khí mà phục sinh vinh hiển. Ai sống trong Thần Khí thì cũng sẽ được sống sự sống mới. Thần Khí làm cho tôi nên giống Chúa Giêsu. Người làm cho tôi nhớ lại mọi điều Chúa Giêsu đã dạy tôi, nhớ lại những kinh nghiệm được Chúa sửa dạy, được đón nhận tình yêu của Chúa; Người giúp tôi tăng thêm niềm tin yêu và phó thác vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Người luôn luôn thức tỉnh tôi, cho tôi sức mạnh và sự can đảm để đi theo con đường hẹp của Phúc Âm. Người hối thúc tôi đáp trả lời mời gọi của Chúa Giêsu, quay trở về cùng Thiên Chúa sau mỗi lần sa ngã. Người đốt lòng tôi yêu mến Chúa Giêsu và cảm nhận lòng thương xót của Thiên Chúa. Tôi luôn là một người môn đệ được Chúa yêu.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã yêu con và không ngừng yêu thương con. Mỗi ngày, xin ban xuống trên con Thần Khí tình yêu của Chúa, để Người dạy con yêu Chúa và yêu người anh em. Mỗi lần con yêu thương như Chúa mời gọi là mỗi lần con cảm nhận rõ hơn tình yêu Chúa dành cho con. Chính khi con sống giới răn yêu thương là khi con được Chúa yêu mến và được Chúa tỏ mình ra. Amen.

Về mục lục

YÊU MẾN TRONG THẦN KHÍ

Anna Cỏ May

Trong thư thứ nhất của Thánh Gioan có viết: “Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giêsu Kitô, Đấng Công Chính” (1Ga 2,16). Chúa Giêsu cũng tự mình nói với các môn đệ: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi” (Ga 14,16). Ngài là Đấng Bảo Trợ cho các môn đệ và cho mọi người. Khi Ngài đi về với Chúa Cha, Ngài xin Chúa Cha ban Đấng Bảo Trợ khác cho các môn đệ. Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy cũng chẳng biết Người. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng vô hình, chỉ những ai có lòng khao khát tìm kiếm mới được nhận thấy.

Tuy nhiên trước những lời ấy, Chúa Giêsu đã nói với các môn đệ về lòng yêu mến được thực hiện như thế nào. Ngài nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy” (Ga 14,15). Thước đo về lòng yêu mến của Chúa Giêsu không dựa trên số lượng, cân nặng của vật chất hay lời nói mà ở hành động, hành động ấy là tuân giữ các điều răn của Ngài. Vì chỉ khi các môn đệ có lòng yêu mến, đồng nghĩa họ có lòng tin nơi Thầy. Khi có lòng tin vào Thầy, Thần Khí mới sẽ đến ở giữa và ở trong tâm hồn các ông. Thần Khí xuất phát từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu mà đến với họ. Thần Khí sẽ giúp họ không còn sợ hãi hay mồ côi nữa, vì họ thấy Thầy trong chính họ (x. Ga 14,20).

Mỗi người Kitô hữu chúng ta đang được tiếp nối cuộc sống từ các môn đệ là sống trong Thần Khí khi lãnh nhận Bí tích Rửa Tội và Bí tích Thêm Sức. Nhưng chúng ta có ý thức điều đó không? Chúng ta đã để cho mình sống trong tình yêu của Thiên Chúa không? Chúng ta có là người đang yêu mến Chúa hay chỉ yêu Chúa bằng cách thức chúng ta muốn? Đối với Chúa Giêsu, ai có và giữ các điều răn của Ngài, người ấy mới là kẻ yêu mến Ngài. Ai yêu mến Ngài thì sẽ được hưởng tình yêu của Chúa Cha và được Ngài yêu thương bằng việc Ngài tỏ mình ra cho người đó (x. Ga 14,21). Thánh Gioan cũng khẳng định: “Qủa thật, yêu mến Thiên Chúa là tuân giữ các điều răn của Người” (1Ga 5,3). Vì những lời của Chúa Giêsu là ý của Chúa Cha. Chúa Cha và Chúa Giêsu là một (x. Ga 10,30).

Lạy Chúa Giêsu! Chúng con cảm tạ Chúa đã không ngừng yêu thương chúng con. Ngài không để chúng con mồ côi nhưng luôn hiện diện với chúng con. Xin cho chúng con nhận ra tình yêu của Ngài và sẵn sàng tuân giữ các điều răn của Ngài trong sự soi dẫn của Thần Khí mới. Nhờ đó, chúng con được sống mật thiết trong tình yêu Ba Ngôi Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

CHIA SẺ NIỀM VUI

Lm Vũđình Tường

Cá nhân vui mừng khi đạt được thành quả tốt đẹp sau bao năm tháng khổ tâm luyện tập. Niềm vui này được thân nhân, thân hữu và ngay cả các công dân khác mừng vui chung. Là thành viên của cộng đoàn Dân Chúa, Kitô hữu cùng đồng hành với các thành viên khác trong mọi vui buồn của cuộc sống. Đức Kitô là đầu, là thủ lãnh của cộng đoàn Dân Chúa. Ngài là nguồn sống, nguồn vui vô tận chung cho tất cả các Kitô hữu. Ngài tự nguyện gánh vác mọi tội lỗi và chết thay cho tha nhân. Qua Ngài, tha nhân nhận ơn trường sinh do Ngài ban. Kitô hữu cũng vui mừng đón nhận ơn đặc biệt Ngài ban, ơn lạ đó chính là Thánh Thần Chúa. Nếu Đức Kitô không hướng dẫn, Kitô hữu không thể biết có Thánh Thần Chúa. Kitô hữu vui mừng vì chính Đức Kitô xin Chúa Cha ban Thánh Thần Chúa cho các Kitô hữu. Điều Đức Kitô xin, Chúa Cha không bao giờ từ chối. Đức Kitô cho biết,Thánh Thần Chúa ngự trị thế giới nhưng thế giới không biết Ngài (Gn 14,17). Không biết bởi không nghe giáo huấn của Đức Kitô. Thánh Thần Chúa là nguồn tình yêu. Bởi từ chối thờ kính, yêu mến Đức Kitô, và không thương tha nhân nên không nhận biết Thánh Thần Chúa. Ơn đặc biệt Đức Kitô ban dành riêng cho những ai thành tâm yêu mến và tuân giữ giới răn yêu thương của Đức Kitô.

Trên thập giá, khi Đức Kitô lên tiếng ‘Lậy Cha, Con phó linh hồn Con tay Cha'( Lk 23,46). Người ta hiểu câu trên chính là câu nói cuối đời của Đức Kitô. Câu nói chấp nhận đầu hàng, chịu chết trước sức mạnh của quân La Mã. Kitô hữu hiểu Đức Kitô nói câu trên không mang í nghĩa đầu hàng, chấp nhận thất bại mà chính là tuyên ngôn của toàn thắng. Thứ nhất Đức Kitô chiến thắng sức mạnh của ma quỷ xuất hiện dưới hình thức cám dỗ, tội lỗi, để con người trở thành nô lệ cho cha quỷ. Thứ hai, Đức Kitô tiêu diệt sự sợ hãi do thần chết mang lại. Thần chết không còn độc quyền thống trị con người, nó bị Đức Kitô tiêu diệt khi Ngài sống lại từ cõi chết. Thứ ba, trước mặt quân lính La Mã và kẻ chống đối Đức Kitô, Ngài công khai tuyên bố họ có thể đóng đinh thân xác Ngài vào thập giá, nhưng hoàn toàn bất lực trước linh hồn Đức Kitô. Linh hồn Ngài thuộc về Chúa Cha và linh hồn đó tự do đi về cùng Chúa Cha. Quân lính và sức mạnh quân La mã không có khả năng kiểm soát, kiềm chế. Hiểu theo í nghĩa trên thì cái chết của Đức Kitô không phải là đầu hàng, không phải là kết thúc mà chính là khởi đầu cuộc sống mới. Cuộc sống toàn thiện, toàn mĩ trong nước Chúa. Xin phó linh hồn trong tay Chúa Cha chính là tuyên ngôn của sự sống mới, khởi đầu từ thập giá. Quả thực, Đức Kitô đã sống lại sau ba ngày an táng trong mộ. Ngài sống lại từ cõi chết, hiện ra và ở với các tông đồ một thời gian trước khi Thăng Thiên, về cùng Chúa Cha.

Đức Kitô về trời và ban Thánh Thần Chúa xuống trên các tông đồ, các Kitô hữu. Trái đất đầy ơn Thánh Thần Chúa. Ngoài Thánh Thần,

a/ Đấng tác tạo, chúng ta biết ở chương đầu của sách Sáng Thế Kí;

b/ còn có Thánh Thần Đức Kitô, trở về cùng Chúa Cha.

c/ Kitô hữu còn biết thêm về Thánh Thần của Đức Kitô Phục Sinh sau khi Ngài sống lại từ cõi chết.

d/ Cuối cùng Kitô hữu còn có Đấng Bảo Trợ Đức Kitô ban. Đấng Bảo Trợ không thay thế Đức Kitô nhưng làm công việc Đức Kitô khơi mào nơi trần thế. Đấng Bảo Trợ cùng đồng hành với các Kitô hữu để hướng dẫn, đào sâu và khai sáng những điều Đức Kitô hướng dẫn. Đấng Bảo Trợ làm sống lại giáo huấn của Đức Kitô trong tâm hồn các Kitô hữu. Đấng Bảo Trợ ban sức sống mãnh liệt sứ mạng rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội Chúa nơi trần gian. Đấng Bảo Trợ tiếp tục đổi mới sức sống của Kitô hữu nơi trần thế. Đức Kitô về cùng Chúa Cha là tin vui cho Kitô hữu.

Thứ nhất, Đức Kitô làm trọn lời Hứa ban Đấng Bảo Trợ ở cùng Kitô hữu cho đến tận thế.

Thứ hai, Kitô hữu sống đời sống mới, đời sống được hướng dẫn và bảo trợ bởi Đấng Bảo Trợ.

Thứ ba, Đấng Bảo Trợ cùng đồng hành, ban sức mạnh, giúp kitô hữu trên đường lữ hành về nhà Cha. Thế hệ Kitô hữu tin theo Đức Kitô sau ngày Ngài về trời không thua thiệt thế hệ Kitô hữu tiên khởi bởi Kitô hữu của các thế hệ sau được Đấng Bảo Trợ hướng dẫn, chị dậy như chính Đức Kitô dậy. Qua Đấng Bảo Trợ Kitô hữu nhận biết Đức Kitô và Chúa Cha.

‘Ai giữ các điều răn của Thầy, người ấy là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy, thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến ngưới ấy và sẽ tỏ mình ra cho người ấy’. Gn 14,21.

Đấng Bảo Trợ khai sáng tâm trí Kitô hữu để họ yêu mến Đức Kitô hết tâm tình, và do đó ở cùng Đức Kitô và Ngài ở trong họ. Kitô hữu tôn thờ Thiên Chúa, không phải từ xa. Thiên Chúa đó ở rất gần, ngay trong tâm hồn, ngay trong tim họ. Kitô hữu không tôn thờ Đức Kitô đã chết ghi trong sử sách, mà tôn thờ Đức Kitô Phục Sinh, Đức Kitô sống đời sống mới, uy nghi, danh dự, hiện đang ngự bên hữu Chúa Cha, hiện đang sống trong tâm hồn các kitô hữu. Qua hành động bác ái, yêu thương và tha thứ, người ta nhận biết chúng ta là môn Đệ Đức Kitô Phục Sinh. Đấng liên kết Kitô hữu với Chúa Cha và với Thánh Thần Chúa, Đấng Bảo Trợ. Đó là niềm tin của các Kitô hữu.

Về mục lục

HOẠT ĐỘNG CỦA CHÚA THÁNH THẦN

TRONG MẦU NHIỆM PHỤC SINH

        Lm. Đa-minh Trần đình Nhi 

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Cv 8:5-8, 14-17;  1 Pr 3:15-18;  Ga 14:15-21)

          Vị lãnh đạo tài ba là người nhìn xa trông rộng, biết chuẩn bị cho tương lai.  Đây là điểm rõ ràng nhất khi chúng ta suy niệm về kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện nhờ cuộc Thương khó và Phục Sinh của Chúa Giê-su, rồi tiếp nối qua hành động của Chúa Thánh Thần trong Giáo Hội.  Chúng ta đã có năm tuần lễ để chiêm niệm ý nghĩa mầu nhiệm Phục Sinh.  Bắt đầu hôm nay Phụng vụ Lời Chúa đưa ta đến với những đề tài về Chúa Thánh Thần.  Lời Chúa trước hết trình bày sinh hoạt của Chúa Thánh Thần trong việc tông đồ Phi-líp-phê rao giảng Tin Mừng tại Sa-ma-ri (bài đọc 1).  Tiếp theo là thư thứ nhất của thánh Phê-rô  nhắc nhở tín hữu hãy “ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô” để trả lời cho những kẻ chất vấn họ về niềm hy vọng được sống lại, vì chính Thánh Thần đã làm cho thân xác Đức Ki-tô được sống lại cũng sẽ cho ta được sống lại (bài đọc 2).  Sau cùng qua lời tâm sự với các tông đồ, Chúa Giê-su đã hứa xin Chúa Cha ban cho họ một “Đấng Bảo Trợ” là Chúa Thánh Thần, Đấng luôn sống trong họ và liên kết họ với Người và với Thiên Chúa Cha (bài Tin Mừng).

  1. Chúa Thánh Thần hoạt động trong Giáo Hội sau khi Chúa Ki-tô sống lại.  Có một điều thích thú là Phụng vụ Lời Chúa từ sau lễ Phục Sinh luôn trích sách Công vụ làm bài đọc 1 thay vì trích Cựu Ước.  Như ta đã biết, sách Công vụ là “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”, giống như sách Phúc Âm là Tin Mừng của Chúa Giê-su Ki-tô.  Sách thuật lại sinh hoạt của Giáo Hội sơ khai trong sức mạnh và dẫn dắt của Thánh Thần.  Đoạn Công vụ hôm nay kể lại hoạt động tông đồ của Phi-líp-phê.  Vậy Chúa Thánh Thần đã làm gì qua tông đồ Phi-líp-phê?   Nhờ bàn tay ngài, Chúa đã thực hiện “những dấu lạ”!  Những dấu lạ ấy là:  các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người, những kẻ tê bại và tàn tật được chữa lành.  Dân chúng Sa-ma-ri không những chứng kiến những dấu lạ, mà nhất là họ đã “một lòng chú ý đến những điều ông Phi-líp-phê rao giảng”.  Đúng vậy, Chúa Thánh Thần đã dùng tông đồ Phi-líp-phê để loan truyền sứ mệnh cứu độ của Chúa Giê-su cho dân chúng Sa-ma-ri.  Họ đã đón nhận lời giảng và chịu phép rửa nhân danh Chúa Giê-su.  Sau cùng từ Giê-ru-sa-lem, các tông đồ Phê-rô và Gio-an đã đích thân đến với họ, “đặt tay trên họ và họ nhận được Thánh Thần”.
  2. Chúa Thánh Thần hoạt động trong tâm hồn các Ki-tô hữu.  Chúng ta nhận biết những hoạt động tích cực của Chúa Thánh Thần trong công cuộc rao giảng Tin Mừng của Giáo Hội.  Nhưng hoạt động của Người cũng rõ ràng trong tâm hồn tín hữu nữa.  Đây là điều thánh Phê-rô khẳng định trong thư của ngài.  Ngài đã sớm nhận ra mối hiểm nguy cho đức tin của tín hữu khi họ “bị phỉ báng, vu khống và chất vấn về niềm hy vọng” của họ.  Vậy họ hy vọng điều gì?  Nhiều người đã hạch hỏi Ki-tô hữu:  Các anh các chị sống đức tin Ki-tô giáo vì hy vọng sẽ được sống lại trong ngày sau hết.  Vậy hy vọng ấy có thực không hay chỉ là điều hão huyền?  Do đó, để củng cố đức tin và niềm hy vọng của Ki-tô hữu, thánh Phê-rô đã nói đến vai trò của Thánh Thần.  Sở dĩ chúng ta “ăn ở ngay thẳng trong Đức Ki-tô, chịu khổ vì làm việc lành theo ý Thiên Chúa” là vì ta hy vọng sẽ cùng được sống lại với Đức Ki-tô để hưởng phúc đời đời.  Vậy Đấng bảo đảm rằng hy vọng của ta không phải là hão huyền chính là Chúa Thánh Thần, Đấng đã làm cho Đức Ki-tô sống lại từ cõi chết.  Điều này thánh Phao-lô cũng đã quả quyết:  “Lại nữa, nếu Thần Khí ngự trong anh em, Thần Khí của Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, thì Đấng đã làm cho Đức Giê-su sống lại từ cõi chết, cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới” (Rm 8:11).
  3. Chúa Giê-su hứa ban Thánh Thần làm Đấng Bảo Trợ cho chúng ta.  Chúng ta đã nhận biết hoạt động của Chúa Thánh Thần, Đấng Bảo Trợ của toàn thể Giáo Hội cũng như tâm hồn mỗi người chúng ta.  Nhưng trước khi ngự đến trong ngày lễ Ngũ Tuần thì Đấng Bảo Trợ ấy đã được Chúa Giê-su hứa ban:  “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi”.  Chúa Thánh Thần được sai tới để “đến ở với anh em luôn mãi”.  Đúng thế, mục đích Thánh Thần đến ở với chúng ta là để giúp ta yêu mến Chúa Giê-su và tuân giữ các điều răn của Người.  Người đến với ta để khởi sự một đời sống mới theo các điều răn của Chúa Giê-su, một đời sống mà “thế gian không thể đón nhận”.  Rõ ràng sống theo Thần Khí của Chúa Ki-tô là đi ngược lại với lối sống của thế gian!  Do đó, Chúa Giê-su hứa ban cho ta Thánh Thần của Người là để Người “ở trong” chúng ta như sức sống và sức mạnh giúp ta kiên trì thực hành các điều răn của Người.  Nói khác đi, Chúa Thánh Thần ở trong tâm hồn ta chính là cách thức Chúa Giê-su Phục Sinh “ở lại” trong ta, để giúp ta tiếp tục con đường cứu độ Người đã mở ra cho ta và đưa ta đến với Thiên Chúa Cha vậy!

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Thánh Phê-rô là người đầy kinh nghiệm về hoạt động của Chúa Thánh Thần khi ngài luôn kết hợp với Chúa Giê-su.  Ngài đã từng sống gắn bó với Chúa Giê-su, giờ đây nhờ Chúa Thánh Thần ngài tiếp tục ở lại trong Chúa Giê-su để hoàn tất sứ mệnh tông đồ.  Ngài đã “nhận lãnh” Thánh Thần của Chúa Ki-tô như sức mạnh nâng đỡ Người.  Chúng ta cũng đã nhận lãnh cùng một Thánh Thần ấy!

Về mục lục

YÊU MẾN VÀ TUÂN GIỮ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Những lời tâm huyết của Chúa Giêsu được thánh Gioan ghi chép lại trong hai chương 13 và 14, cuối cùng Chúa đúc kết trong một lời khuyên ân cần : “Ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy“.                                           

Có câu chuyện “Cậu Bé Thủy Thủ” giàu ý nghĩa minh họa :

Cậu bé Louis, 15 tuổi, học nghề thuỷ thủ trên một chiếc tàu buôn. Một hôm, trời mưa to gió lớn làm cho các thuỷ thủ lạnh cóng và rét run. Viên thuyền trưởng đem rượu Whisky ra cho các thuỷ thủ uống để chống lạnh. Ông cũng đem rượu cho cậu bé Louis, nhưng cậu từ chối không uống. Viên thuyền trưởng ép cậu phải uống kẻo bị lạnh, nhưng Louis vẫn một mực từ chối. Vì tự ái, viên thuyền trưởng bắt cậu ra sàn tàu đứng ôm cột buồm suốt đêm.Sáng hôm sau, khi điểm tâm xong, viên thuyền trưởng mới chợt nhớ ra cậu bé Louis. Mọi người chạy lên sàn tàu thì thấy cậu bé đã ngất xỉu dưới chân cột buồm.Sau khi sưởi ấm và làm cho cậu bé tỉnh, viên thuyền trưởng mới dịu dàng hỏi : “Tại sao cháu lại cố chấp như thế ?”. Cậu bé trả lời : “Thưa ông, vì trước khi chết, mẹ cháu dạy cháu đừng bao giờ uống rượu. Và cháu đã hứa với mẹ điều ấy”. Viên thuyền trưởng ngạc nhiên hỏi : “Tại sao ?”. Cậu bé ngậm ngùi kể lại : “Cha cháu say sưa tối ngày vì rượu. Mỗi lần say, ông về đánh đập mẹ cháu, lấy đồ đạc trong nhà bán để uống rựơu. Mẹ cháu buồn quá sinh bệnh rồi chết. Cháu rất thương mẹ cháu. Xin ông đừng bắt cháu làm ngược lại những gì mẹ cháu đã dạy bảo”. Viên thuyền trưởng cảm động ôm lấy cậu bé và nói : “Con xứng đáng là con của ta, ta sẽ truyền nghề cho con”.

Cậu bé Louis vì thương mẹ nên đã vâng giữ lời mẹ dạy. Cậu vâng nghe lời mẹ vì yêu mến mẹ.

Tình yêu của mỗi tín hữu dành cho Chúa sẽ được thẩm định bằng việc tuân giữ Lời của Ngài. Tình yêu ấy được minh chứng bằng cuộc sống tốt lành hàng ngày.

“Ai yêu mến Thầy sẽ giữ lời Thầy”. Lòng yêu mến của mỗi tín hữu đối với Chúa chỉ có giá trị khi đi đôi với việc làm là “vâng giữ lời Chúa”.

Khi thực thi ý Chúa, người tín hữu nhận lãnh được tình yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa : “Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Câu nói này của Chúa Giêsu hướng chúng ta đến mầu nhiệm Chúa Ba Ngôi và nhất là ơn huệ Thánh Thần: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”.Thánh Thần được ban chính là để làm chúng ta nhớ lại lời của Chúa Giêsu; như thế, chính khi chúng ta nhớ, hiểu và cảm nếm Lời Chúa trong cầu nguyện, trong thời gian tĩnh tâm, trong thánh lễ hằng ngày; khi để cho Lời Chúa trở thành lương thực, sự sống mỗi ngày của mình thì chúng ta đang chan hòa ơn Thánh Linh. Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, như thế tâm hồn mỗi người xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, thánh thiện, tốt đẹp, yêu thương, luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.

Ai yêu mến Thầy thì giữ lời Thầy“. Giữ lời của Thầy là chứng tỏ lòng thương mến của mình đối với Thầy. Lời cốt lõi của Thầy là các con hãy tuân giữ và thực thi giới răn yêu thương.

Cội nguồn của dòng sông tình yêu phát xuất từ Chúa Cha qua Chúa Giêsu tuôn chảy đến nhân loại.Tình yêu là nguồn sự sống, là động lực chính yếu của cuộc đời và sau hết tình yêu cũng là cứu cánh của cuộc đời: Vạn sự đã do Tình yêu sáng tạo, vạn sự được Tình yêu nâng đỡ, vạn sự đi về Tình yêu và đi vào trong Tình yêu (R.Tagore)

Chính tình yêu Thiên Chúa đã gọi chúng ta vào trường đời để dạy chúng ta sống yêu thương. Chính tình yêu Thiên Chúa đã cứu sống chúng ta. Và chính nhờ tình yêu ấy mà chúng ta được sống viên mãn.Thiên Chúa là dòng sông ân sủng. Khi kết hiệp với Người, ân sủng tuôn đổ vào linh hồn, làm cho chúng ta được sống và sống sung mãn. Ân sủng thấm nhập nội tâm, uốn nắn tình cảm, củng cố ý chí, sinh ra những hoa trái thiêng liêng trong tư tưởng, lời nói, việc làm. Nhờ kết hiệp mật thiết với Chúa, chúng ta được sống sự sống của Người, nói lời nói của Người, hành động theo gương của Người, phán đoán theo chuẩn mực của Người, nhìn con người và sự việc bằng cặp mắt của Người, yêu thương bằng trái tim của Người. Khi sự kết hiệp đã đến mức hoàn hảo, chính Người hành động qua chúng ta và vì thế, những hoa trái sẽ vô cùng phong phú.

Những người yêu mến Chúa thì luôn biết lắng nghe Lời Chúa và đem ra thực hành.

Trong truyện thánh Tử đạo Martinô Thọ có chép:

“Ông Thọ là người rất đạo đức. Vì được tín nhiệm, ông làm việc thu thuế trong một thời gian rồi xin nghỉ vì thấy có nhiều cheo leo khó công minh luôn mãi được. Ông khuyên các con cứ đúng luật Chúa mà làm chứ đừng phạm tội vì muốn đẹp lòng người khác…. Ông làm việc rất siêng năng và cũng rất rộng rãi với người nghèo khó: không bao giờ ông để họ ra về mà không cho của gì ăn. Nếu con cái đi vắng, ông mời người ăn xin cùng ngồi ăn cơm chung, nếu con cái ở nhà, ông bắt chúng chia cơm cho họ”. Thánh Martinô Thọ đã tuân giữ giới răn Chúa dạy là mến Chúa yêu người, sống công bằng bác ái. Ngài quả là người yêu mến Chúa thật và đã đáng được Chúa trọng thưởng hạnh phúc đời đời.

Đức Maria là mẫu gương yêu mến và tuân giữ Lời Chúa.

Một người phụ nữ nghe Chúa giảng dạy, bà nghe say mê. Với tính nhạy cảm của một người nữ, bà cảm nghiệm niềm hạnh phúc của người mẹ có một người con tuyệt vời như Chúa Giêsu. Giữa đám đông, bà bày tỏ niềm thán phục Chúa, bà tán dương Mẹ Maria là “người mẹ có phúc đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”. Đáp lại lời tán dương ấy, Chúa nói đến hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa: “Bà ơi, đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Người phụ nữ kia đã tán dương Đức Mẹ là có phúc vì Mẹ có các vinh dự làm Mẹ của một người con tài ba kỳ diệu là Chúa Giêsu. Đây mới chỉ là vinh dự trần gian. Mẹ Maria còn có một hạnh phúc lớn lao hơn là “nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Khi biết lắng nghe, đón nhận và giữ lời Thiên Chúa thì thiên đàng đã ở trong người ấy, vinh phúc đời đời ở trong người ấy, Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là vinh phúc của Mẹ Maria. Bởi đó, Chúa nói với người phụ nữ kia, không chỉ dừng lại nơi lời khen Mẹ Maria có phúc vì đã có vinh dự cưu mang, nuôi dưỡng một người con tuyệt vời, mà cần hướng đến ý nghĩa cao cả hơn. Phúc thay cho ai biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc cao quý nhất của Đức Mẹ.

Vào ngày Thiên Thần Gabriel đến truyền tin, Đức Mẹ đã đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ suy nghĩ và trao đổi. Mẹ biết đây là thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ đáp trả lời “Xin Vâng”. Mẹ đã lắng nghe, Mẹ đã tin và chấp nhận dấn thân. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ. Chính Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa đang đến với nhân loại và trở nên Emmanuel.

Ngày kia, Chúa đang rao giảng, có người tin cho Chúa biết: “có Mẹ và anh em Thầy đang chờ gặp Thầy”. Chúa nói ngay với họ: “Ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi? Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi, là mẹ tôi”.

Tại tiệc cưới Cana, Mẹ xin Chúa giúp đỡ gia đình tân hôn đang hết rượu. Với một lời đề nghị tế nhị: “Con ơi, họ hết rượu rồi”. Chúa đáp lại như một lời từ chối: “Thưa bà, việc đó liên can chi đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Mẹ tin nơi tình thương của Chúa. Chúa sẽ làm những gì tốt nhất, đẹp nhất cho con người. Vì thế, Mẹ dặn dò người giúp vịêc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Trong cuộc thương khó của Chúa, Mẹ đau đớn và luôn vâng theo thánh ý Thiên Chúa. Dưới chân thập giá, Mẹ hiệp thông trọn vẹn trong lễ tế hiến dâng với con…

Lạy Chúa, chúng con nhận ra một cách rất hữu hiệu để được Chúa yêu mến là chúng con tuân giữ giới răn yêu thương của Chúa. Xin cho chúng con xác tín rằng tình yêu của chúng con đối với Chúa phải được thể hiện ra bằng việc yêu thương tha nhân, cụ thể là yêu những người trong gia đình con, những người cùng làm việc với con trong xí nghiệp công ty, những người hàng xóm, những bạn bè con gặp gỡ hằng ngày. Xin giúp chúng con yêu họ cụ thể bằng sự quan tâm đến những niềm vui hay nỗi đau khổ của họ, đồng thời sẵn sàng hy sinh để giúp họ hạnh phúc hơn.

Lạy Chúa, trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng con tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng con nhìn lên Mẹ như vị thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Xin cho chúng con luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu như Mẹ là mẫu gương cho chúng con. Amen.

Về mục lục

THÁNH THẦN ĐẤNG BẢO TRỢ ĐẾN TỪ THIÊN CHÚA

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Nhìn vào Giáo Hội sơ khai, chúng ta không khỏi ngạc nhiên về sức sống mãnh liệt nơi các tín hữu. Từ mười hai tông đồ, gốc thuyền chài nhà quê, kém cỏi, đã được Thánh Thần sử dụng và biến các ông trở nên những con người miệt mài với sứ vụ loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho thế giới và biến đổi hoàn toàn bộ mặt thế giới. Nhìn vào Giáo Hội, đặc biệt trong thời gian dịch bệnh này, chúng ta có thể thấy sự hoạt động mạnh mẽ của Chúa Thánh Thần qua các sáng kiến mục vụ của Giáo Hội từ Giáo Hoàng cho đến các linh mục, các giáo xứ và giáo dân nhằm phục vụ dân Chúa và mọi người. Thánh Thần Đấng Bảo Trợ mà Thiên Chúa đã ban cho Giáo Hội vẫn không ngừng hoạt động cách mạnh mẽ, giúp Giáo Hội có thể thích ứng và đáp ứng cho việc phục vụ nhân loại trong thời đại mới này, nhằm đưa mọi người về với Thiên Chúa.

Trong đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu, trước khi chia tay với các môn đệ, Ngài hứa sẽ ban Thánh Thần xuống trên các tông đồ: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy. Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật…” Nói với các môn đệ về Đấng Bảo Trợ, Chúa Giêsu đã mạc khải cho các ông về Chúa Thánh Thần, Đấng được Chúa Cha sai đến để ở với các môn đệ luôn mãi. “Ngài là Thần khí của sư thật.” Ngài sẽ giúp các tông đồ của Chúa sống và làm chứng cho sự thật là chính Thiên Chúa. Những ai yêu mến sự thật, sống theo sự thật, thì sẽ đón nhận được Thần Khí Sự Thật, là đón nhận được chính Thiên Chúa. Trái lại, thế gian và ma quỷ thuộc về bóng tối, gian dối, chúng chống lại Thiên Chúa, từ chối ánh sáng và sự thật vì thế, thế gian không thể đón nhận được Thần Khí của sự thật. Chúa Giêsu còn giải thích thêm về sự hiện diện và hoạt động của Thánh Thần như một sức mạnh từ bên trong, đốt nóng tâm hồn và hướng dẫn mọi hoạt động của người tín hữu: “Người luôn ở giữa anh em và luôn ở trong anh em.” “Thánh Thần ở giữa anh em”, có nghĩa là Ngài sẽ là điểm quy tụ và liên kết mọi môn đệ của Chúa nên đồng tâm hiệp ý với nhau trong một đức tin và lòng mến. “Ngài ở trong anh em”, có nghĩa là Thánh Thần sẽ là nguồn động lực thúc đẩy và hướng dẫn người tín hữu đi theo đúng con đường Tin Mừng của Chúa Kitô.

“Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy, nhưng anh em sẽ thấy Thầy vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống… Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em.” Với những lời này Chúa Giêsu cũng báo trước về việc Ngài sẽ thay đổi cách hiện diện với các môn đệ. Ngài sẽ không còn hiện diện cách thể lý với các môn đệ nữa, nhưng Ngài sẽ hiện diện bằng tình yêu, bằng sức sống của Ngài nhờ quyền năng và sức mạnh của Chúa Thánh Thần. Cách hiện diện mới của Chúa Giêsu là một sự hiện diện gần gũi, mật thiết còn hơn hiện diện bằng xương thịt. Chúa Giêsu đã diễn tả sự mật thiết đó bằng từ “ở trong”: “Thầy ở trong Cha, anh em ở trong Thầy và Thầy ở trong anh em.” Chúa Giêsu sẽ ở trong các môn đệ, nên một với các ông bằng quyền năng của Thánh Thần như một nguồn sức mạnh, nguồn năng lượng và là người dẫn đường giúp các tông đồ sống, hoạt động và đi theo sự hướng dẫn của Ngài.
Chính nhờ sự hiện diện của Thánh Thần trong tâm hồn, các tông đồ đã ra khỏi sự chật hẹp của căn phòng tiệc ly để đem Tin Mừng Phục Sinh đến với muôn dân. Những chương đầu của sách Công Vụ Tông Đồ, kể về hoạt động truyền giáo, xây dựng giáo đoàn của Phêrô và Phaolô. Hai ông trở nên như biểu tượng của Giáo Hội, như hiện thân của chính Chúa Kitô nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động trong các ông. Chúa Thánh Thần còn hoạt động trong các cộng đoàn tín hữu sơ khai, giúp họ sống trong bầu khí huynh đệ, yêu thương và một lòng một ý với nhau trong việc tham dự thánh lễ, cầu nguyện và làm việc bác ái. Đoạn sách hôm nay lại kể về hoạt động truyền giáo của tông đồ Philipphê, người đã từng xin với Chúa Giêsu: “Lạy Thầy xin tỏ cho chúng con thấy Cha và như thế là đủ cho chúng con. Chúa Giêsu đả trả lời ông: Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Con không tin Thầy ở trong Cha và Cha ở trong thầy ư?” Tông đồ Philipphê quả thật đã được ở trong Chúa Giêsu và Chúa Giêsu ở trong ông, vì thế ông đã miệt mài rao giảng cho dân vùng Samaria về Chúa Giêsu: “Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philipphê giảng bởi được nghe và chứng kiến những dấu lạ ông làm.” Nhân danh Chúa Giêsu, Philipphê làm nhiều dấu lạ như trừ quỷ, chữa lành bệnh tật khiến cho người dân trong thành rất vui mừng. Khi nghe biết dân Samaria đã tin vào Tin Mừng, ông Phêrô và Gioan đã đến với họ. Đến nơi, hai ông đã đặt tay, cầu nguyện cho họ để họ đón nhận được Thánh Thần, làm cho họ trở nên một cộng đoàn Giáo Hội.
Trong bài đọc hai, thánh Phêrô quả quyết cho chúng ta, Chúa Thánh Thần là Đấng ban sự sống. Chúa Thánh Thần đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết, thì cũng chính Ngài sẽ ban cho những người tin vào Chúa Phục Sinh sức sống của Ngài, giúp mở lòng đón nhận Đức Giêsu đến ở trong chúng ta. Một khi có Chúa Kitô ngự trong tâm hồn, cùng sống và hoạt động với mỗi người, chúng ta sẽ mạnh dạn, can đảm làm chứng về Chúa Phục Sinh cho mọi người chung quanh. Thánh Phêrô nhắn nhủ chúng ta: “Hãy tôn Người là Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hòa và với lòng kính trọng.” Thánh Phêrô còn nói thêm: “Anh em hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em sống ngay thẳng… họ phải xấu hổ vì những điều họ đã vu khống.”
Thưa quý OBACE, Đấng bảo Trợ là Chúa Thánh Thần đã được Chúa Giêsu xin với Chúa Cha và Thiên Chúa đã ban tặng cho thế giới. Đấng Bảo Trợ đã và còn đang hoạt động trong Giáo Hội, trong thế giới và nơi mỗi tâm hồn con người. Tuy nhiên, vì Ngài là Đấng Bảo Trợ, Ngài chỉ có thể trợ giúp những ai khiêm tốn, sẵn sàng cậy nhờ đến Ngài và để cho Ngài hoạt động. Một khi ngoan ngoãn phó thác cho sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần, Chúa Thánh Thần sẽ ban sức mạnh cả thể xác và tinh thần giúp chúng ta có thể đương đầu với khó khăn thử thách cũng như những tấn công của thế gian, ma quỷ. Trái lại, Đấng Bảo Trợ sẽ không thể hoạt động nơi những tâm hồn kiêu căng cậy dựa vào sức riêng mình mà loại trừ Ngài ra khỏi tâm hồn.
Đấng Bảo Trợ sẽ trợ giúp chúng ta trong đời sống đức tin, biến chúng ta trở thành những học trò dễ bảo của Thánh Thần, Ngài sẽ giúp chúng ta gặp được Đức Giêsu Phục Sinh và làm cho Chúa Phục Sinh ở lại trong tâm hồn chúng ta. Thánh Thần sẽ biến chúng ta nên những thụ tạo mới, Ngài sẽ thanh luyện lòng trí và con người để chúng ta yêu mến gắn bó với Chúa Phục Sinh và trở nên những người làm chứng về Chúa Giêsu cho thế giới chung quanh.
Chúng ta đang sống trong thế giới hiện đại, sức ép của công việc, kinh tế đang đè nặng trên mỗi người. Trách nhiệm và bổn phận làm chồng, làm vợ, làm cha mẹ và làm con đang đòi hỏi chúng ta rất nhiều, khiến cho nhiều người đang cảm thấy mệt mỏi trong đời sống gia đình, trong công việc. Thánh Thần là Đấng Bảo Trợ, Ngài sẽ trợ giúp chúng ta sức mạnh, niềm vui và sự hăng say phấn khởi để chúng ta có thể chu toàn bổn phận của mình cách vuông tròn. Đừng ngại ngần để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn và đừng từ chối Ngài, nhưng sẵn sàng vâng theo sự soi sáng của Ngài chúng ta sẽ được sống trong sức mạnh của Ngài và đạt được hạnh phúc đích thực.
Đấng Bảo Trợ là Sức Mạnh, là Sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa, xin Ngài ban sức mạnh và sự khôn ngoan của Ngài trên chúng ta, giúp chúng ta có sức mạnh chống trả lại sự ươn hèn và cám dỗ của ma quỷ; đủ khôn ngoan sống theo sự hướng dẫn của Chúa, để có thể được ở với Chúa và ở trong Chúa là hạnh phúc đời đời. Amen.

Về mục lục

THẦN KHÍ CHÚA

Trầm Thiên Thu

Thánh Gioan xác định: “Cái bởi xác thịt sinh ra là xác thịt; cái bởi Thần Khí sinh ra là thần khí.” (Ga 3:6) Cũng như gió, người ta có thể cảm nhận nhưng không thể thấy hoặc sờ được: “Gió muốn thổi đâu thì thổi; ông nghe tiếng gió, nhưng không biết gió từ đâu đến và thổi đi đâu. Ai bởi Thần Khí mà sinh ra thì cũng vậy.” (Ga 3:8) Thật là kỳ diệu!

Gió thổi mát mọi người, không phân biệt ai – dù hiền nhân hay ác nhân, dù hữu thần hay vô thần. Đó là yêu thương, là đức mến, là đức ái, và cũng là lòng thương xót. Đạo Công giáo là “đạo yêu thương” vì “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16) Do đó, đức mến luôn quan trọng và cần thiết, bởi vì ở trên Nước Trời vẫn còn đức mến – dù không còn đức tin và đức cậy. (x. 1 Cr 13:13)

Như dạng mặc định được “cài đặt” sẵn, không thể chỉnh sửa: “Đời là bể khổ.” Vì thế, con người luôn cần yêu thương – yêu và được yêu. Cuộc sống không có tình yêu thương thì cũng như trái đất không có ánh mặt trời. “Vô tri bất mộ” là điều tất yếu. Không biết thì không mến, thậm chí còn có thể ghét, nhưng khi đã biết thì người ta cảm thấy mến. Lẽ thường ở đời là thế. Tuy nhiên, trước khi BIẾT thì phải MUỐN BIẾT, muốn biết thì mới cố gắng TÌM HIỂU, nhưng phải tìm hiểu kỹ lưỡng, thấu đáo, không thể hời hợt hoặc gặp chăng hay chớ. Một khi đã biết rõ rồi thì sẽ nảy sinh lòng yêu mến, và có thể say đắm – gọi là si tình (một dạng “điên” nhẹ). Mà đã yêu mến tức là đã thực sự tin tưởng. Mối liên kết rất lô-gích. Các thánh cũng đã “điên” nên mới yêu mến Chúa đến nỗi bỏ mọi sự – kể cả mạng sống. Điên thật!

Không thể không điên. Vì Thánh Phaolô bảo: “Ai không yêu mến Chúa thì là đồ khốn kiếp!” (1 Cr 16:22) Nhưng mến Chúa thì phải yêu người. Đó là điều quan trọng, là hệ lụy tất yếu. Thánh Gioan phân tích: “Nếu ai nói ‘tôi yêu mến Thiên Chúa’ mà lại ghét anh em mình, người ấy là kẻ nói dối; vì ai không yêu thương người anh em mà họ trông thấy thì không thể yêu mến Thiên Chúa mà họ không trông thấy.” (1 Ga 4:20) Về vấn đề này, Thánh Sibyllina Pavia “mở rộng” thêm: “Ai không yêu mến anh em thì không thể trở thành anh dũng tử đạo.” Có tình yêu thì người ta có thể làm được mọi sự, kể điều lớn lao, đúng như Thánh Augustinô xác định: “Cứ yêu thật đi rồi muốn làm gì thì làm.” Với kinh nghiệm hoang đàng, thánh nhân đã nuối tiếc: “Con yêu Chúa quá muộn màng, ôi vẻ đẹp rất xưa mà rất mới!” (Tự Thuật, số 10 & 27) Còn Mẹ Thánh Teresa Calcutta giải thích: “Bạn không thể thấy Chúa Giêsu trong người nghèo nếu bạn không thấy Ngài trong Thánh Thể.” Ôi, một chuỗi yêu thương kỳ diệu biết bao!

Kinh Thánh kể lại sự thật lạ lùng: “Ông Philípphê xuống một thành miền Samari và rao giảng Đức Kitô cho dân cư ở đó. Đám đông một lòng chú ý đến những điều ông Philípphê giảng, bởi được nghe đồn và được chứng kiến những dấu lạ ông làm.” (Cv 8:5-6) Họ không chỉ nghe đồn mà còn chứng kiến các dấu lạ do ông Philípphê đã thực hiện. Vì họ đã biết nên họ không thể làm ngơ, không thể không chú ý. Thật vậy, “các thần ô uế vừa kêu lớn tiếng vừa xuất khỏi nhiều người trong số những kẻ bị chúng ám, nhiều người tê bại và tàn tật được chữa lành. Trong thành, người ta rất vui mừng.” (Cv 8:7-8) Đó là chính Thiên Chúa hành động nơi ông Philípphê.

Ngày ấy, các tông đồ ở Giêrusalem nghe biết dân miền Samari đã đón nhận lời Thiên Chúa, các ông đã cử ông Phêrô và ông Gioan đến với họ. Khi đến nơi, hai ông cầu nguyện cho họ để họ nhận được Thánh Thần. Kinh Thánh cho biết: “Vì Thánh Thần chưa ngự xuống một ai trong nhóm họ: họ mới chỉ chịu phép rửa nhân danh Chúa Giêsu. Bấy giờ hai ông đặt tay trên họ, và họ nhận được Thánh Thần.” (Cv 8:16-17) Đó là Bí tích Thêm sức, loại bí tích cho chúng ta lãnh nhận Chúa Thánh Thần viên mãn. Nhờ Ngài mà chúng ta can đảm hành động, dám nói về sự thiện, đặc biệt là nói về Thiên Chúa.

Xưa nay chúng ta quen nói “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – khôn ngoan, hiểu biết, lo liệu, sức mạnh, thông minh, đạo đức, và kính sợ Chúa. Đó là cách nói của Kinh Thánh, vì số 7 là con số kỳ diệu của Kinh Thánh, thực ra Chúa Thánh Thần không chỉ “đóng khung” trong 7 ơn đó, mà là tất cả các ơn. Thật hạnh phúc được nhận biết Thiên Chúa, được yêu mến Ngài, và được lãnh nhận Chúa Thánh Thần: “Bình an cho anh em.” (Lc 24:36; Ga 20:19; Ga 20:20; Ga 20:26) Chắc chắn ai cũng cần bình an, muốn bình an thì phải có Chúa Thánh Thần.

Người ta không thể trì hoãn cái sự sung sướng đó, dù chỉ một giây, chắc chắn là vậy. Thế nên Thánh Vịnh gia đã phải thốt lên: “Cả trái đất, hãy tung hô Thiên Chúa, đàn hát lên mừng Danh Thánh rạng ngời, nào dâng lời ca tụng tôn vinh!” (Tv 66:1-2) Hòa chung niềm vui đó, chúng ta cũng hãy thưa cùng Thiên Chúa: “Vĩ đại thay, sự nghiệp của Ngài! Trước thần lực uy hùng, địch thù khúm núm. Toàn trái đất phải quỳ lạy tôn thờ, và đàn ca mừng Chúa, đàn ca mừng Thánh Danh. Đến mà xem công trình của Thiên Chúa: hành động của Người đối với phàm nhân thật đáng kinh đáng sợ!” (Tv 66:3-5) Giữa cuộc đời nhiêu khê này, chúng ta luôn được Chúa Giêsu động viên: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.” (Ga 14:27)

Thiên Chúa toàn năng, chính Ngài “làm cho biển khơi hoá đất liền và dân Người đi bộ qua sông, việc Người làm đó khiến ta hoan hỷ. Chúa uy dũng hiển trị muôn đời; đôi mắt Người theo dõi chư dân, quân làm phản chớ có hòng nổi dậy!” (Tv 66:6-7) Lịch sử đã và đang chứng tỏ như vậy, không một thần linh nào có thể làm được các vĩ công như Thiên Chúa của chúng ta. Đó là niềm tin xác thực, không mơ hồ hoặc ảo tưởng.

Thực sự là một hồng ân cao cả đối với chúng ta khi nhận biết Ngài, yêu mến Ngài và tôn thờ Ngài, vì Ngài đã yêu thương chúng ta trước (1 Ga 4:19) và yêu thương chúng ta đến cùng (Ga 13:1) – dù chúng ta chỉ là lũ tội nhân, là bọn bất lương. Và rồi vì thương xót kiếp khốn cùng của chúng ta, Chúa Cha đã bắt Con Một Yêu Dấu phải chết thay chúng ta, dù Người Con van xin nhưng Ngài vẫn “làm ngơ” chỉ vì muốn cứu độ chúng ta. Ơn cứu tử này quá lớn. Thật vậy, chính Ngài chọn chúng ta từ trước khi vũ trụ được tạo thành chứ không phải chúng ta chọn Ngài. (Ep 1:4) Tuy nhiên, ai từ chối Ngài là do mình tự chọn.

Thật tuyệt vời, vì Thiên Chúa của chúng ta tuyệt đối, vĩ đại, duy nhất, hết lòng bảo vệ chúng ta: “Chúa ấp ủ, Chúa lo dưỡng dục, luôn giữ gìn, chẳng khác nào con ngươi mắt Chúa.” (Đnl 32:10) Không chỉ vậy, tình thương đó còn được đóng ấn tín bằng lời “thề độc” này: “Kẻ nào động đến các ngươi là động đến con ngươi mắt Ta.” (Dcr 2:12) Ôi, lạy Chúa! Thực sự chúng ta không thể nào tưởng tượng nổi, và cũng chẳng bao giờ hiểu thấu. Vì thế, tự mình phải mau mắn và hãnh diện chia sẻ niềm vui đó với người khác: “Xin chúc tụng Thiên Chúa đã chẳng bác lời thỉnh nguyện tôi dâng, lại cũng không dứt nghĩa đoạn tình.” (Tv 66:20) Thật vậy, “muôn ngàn đời Ngài vẫn trọn tình thương.” (1 Sb 16:34 và 41; 2 Sb 5:13; 2 Sb 7:3 và 6; 2 Sb 20:21; Er 3:11; 1 Mcb 4:24; Tv 100:5; Tv 106:1; Tv 107:1; Tv 118:1-4 và 29; Tv 136:1-26)

Với thành ý nhắn nhủ, Thánh Phêrô nói: “Đức Kitô là Đấng Thánh, hãy tôn Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời cho bất cứ ai chất vấn về niềm hy vọng của anh em. Nhưng phải trả lời cách hiền hoà và với sự kính trọng. Hãy giữ lương tâm ngay thẳng, khiến những kẻ phỉ báng anh em vì anh em ăn ở ngay thẳng trong Đức Kitô, chính họ phải xấu hổ vì những điều họ vu khống.” (1 Pr 3:15-16) Tại sao phải giữ “thẳng” mà không thể du di “cong” một chút? Giáo hoàng tiên khởi giải thích: “Bởi lẽ THÀ chịu khổ vì làm việc lành, nếu đó là ý của Thiên Chúa, CÒN HƠN là vì làm điều ác. Chính Đức Kitô đã chịu chết một lần vì tội lỗi – Đấng Công Chính đã chết cho kẻ bất lương – hầu dẫn đưa chúng ta đến cùng Thiên Chúa. Thân xác Người đã bị giết chết, nhưng nhờ Thần Khí, Người đã được phục sinh.” (1 Pr 3:17-18) Rất rõ ràng. Cũng chính lòng mến đó được Chúa Thánh Thần không ngừng tác động.

Trong Việt ngữ, danh từ “chuỗi” thật hay, nói lên sự liên kết nối tiếp liên tục. Chuỗi tình yêu thương là chuỗi yêu mến, là chuỗi lòng thương xót, như Chúa Giêsu đã nói: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy.” (Ga 14:15) Từ hệ lụy đó lại có mối liên kết khác: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật, Đấng mà thế gian không thể đón nhận, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Còn anh em biết Người, vì Người luôn ở giữa anh em và ở trong anh em.” (Ga 14:16-17) Giữa chúng ta luôn có Chúa Thánh Thần, cũng luôn có Chúa Giêsu. (x. Mt 28:20) Và tất nhiên cũng có cả Chúa Cha nữa. Trên cả tuyệt vời!

Thật vậy, chính Chúa Giêsu đã hứa chắc: “Thầy sẽ không để anh em mồ côi. Thầy đến cùng anh em.” (Ga 14:18) Nhưng rồi Ngài bảo: “Chẳng bao lâu nữa, thế gian sẽ không còn thấy Thầy. Phần anh em, anh em sẽ được thấy Thầy, vì Thầy sống và anh em cũng sẽ được sống. Ngày đó, anh em sẽ biết rằng Thầy ở trong Cha Thầy, anh em ở trong Thầy, và Thầy ở trong anh em.” (Ga 14:18-20) Ôi chao, răng mà khó hiểu rứa tề? Nhưng không phải vậy, cứ bình tĩnh. Đó là Ngài muốn đưa chúng ta tới đức ái trọn vẹn, nhờ biết yêu mến mà chúng ta khả dĩ lãnh nhận Chúa Thánh Thần một cách viên mãn để đủ can đảm làm chứng về Thiên Chúa – Đấng Sự Thật, Ánh Sáng Thật, Sự Sống Thật, Con Đường Thật. Đó là hạnh phúc đích thực của mỗi tín nhân.

Về “chuỗi” yêu mến, Chúa Giêsu dẫn chứng rạch ròi: “Ai CÓ và GIỮ các điều răn của Thầy, người ấy mới là kẻ yêu mến Thầy. Mà ai yêu mến Thầy thì sẽ được Cha của Thầy yêu mến. Thầy sẽ yêu mến người ấy, và sẽ tỏ mình ra cho người ấy.” (Ga 14:21) Ngài tỏ mình cho mỗi người mỗi cách, mỗi người được nhận biết theo cách riêng, không ai giống ai, nhưng vẫn là MỘT Thiên-Chúa-Ba-Ngôi duy nhất. Nếu chưa hiểu và chưa cảm nhận, Chúa Thánh Thần sẽ soi sáng cho, với điều kiện là phải thành tâm thiện chí tìm kiếm Thiên Chúa.

Thánh Gioan định nghĩa ngắn gọn mà sâu sắc và trọn vẹn: “Thiên Chúa là tình yêu.” (1 Ga 4:8 và 16) Vì thế, ai yêu mến Ngài thì tuân giữ Luật Ngài, luật đó là Luật Yêu, yêu Chúa thì phải yêu người. Hoàn toàn lô-gích. Yêu Chúa không khó bằng yêu người, chỉ cần thực hành “chuỗi yêu” trong 1 Cr 13 thì cũng cảm thấy “toát mồ hôi” rồi, vì yêu không thể nói suông mà phải thể hiện bằng hành động, thể hiện qua từng động thái nhỏ. Vả lại, tha nhân là huynh đệ của chúng ta và là những người có Thiên Chúa trong lòng – ngay cả những người tự xưng là vô thần. Ai sống yêu mến thì mới được lãnh nhận Thần Khí Sự Thật của Thiên Chúa – đó là Thánh Linh, là Chúa Thánh Thần, là Đấng Kiến Tạo Hòa Bình, là Đấng An Ủi, là Đấng Bảo Trợ,…

Ngày xưa, khi chọn Bơxanên, con của Uri, con của Khua, thuộc chi tộc Giuđa, Thiên Chúa đã hứa với ông Môsê: “Ta sẽ ban cho nó dồi dào Thần Khí của Thiên Chúa để nó thành người khéo tay, giỏi giang và lành nghề mà làm mọi công việc, để nó nghĩ ra những tác phẩm nghệ thuật làm bằng vàng, bạc hay đồng, mài ngọc đính áo, chạm gỗ và thực hiện mọi công việc.” (Xh 31:3-5) Điều gì Thiên Chúa đã hứa thì chắc chắn không bao giờ sai. Ước gì mỗi chúng ta cũng được lãnh nhận Thần Khí Chúa để làm vinh danh Chúa bằng chính khả năng riêng mà chúng ta lãnh nhận từ nơi Ngài. Đừng quên rằng chúng ta luôn phải “hết dạ tri ân.” (Cl 3:15)

Ơn Chúa chan hòa nhưng đôi khi chúng ta giả nai hoặc làm ngơ nên quên nói lời cảm ơn đối với Thiên Chúa (và cả với tha nhân nữa). Trong cơn đại nạn corona, có câu chuyện lưu truyền trên internet, mặc dù chưa kiểm chứng được tính xác thực, nhưng nội dung của nó rất đáng để chúng ta phải suy ngẫm.

Chuyện kể rằng: Một ông lão 93 tuổi người Ý phải nhập viện vì nhiễm bệnh, rồi sức khỏe cải thiện tốt, ông được thông báo cần thanh toán chi phí sử dụng máy trợ thở. Ông lão bỗng nhiên bật khóc, bác sĩ khuyên ông đừng khóc vì tờ hóa đơn. Nhưng ông lão trả lời: “Không phải tôi khóc vì tờ hóa đơn, tôi có thể thanh toán đầy đủ. Tôi khóc vì tôi đã hít thở bầu không khí của Thượng Đế 93 năm rồi mà chưa từng phải trả một đồng nào, còn sử dụng máy trợ thở một ngày ở bệnh viện phải trả 5.000F. Anh có biết tôi đã nợ Thượng Đế bao nhiêu tiền rồi không? Trước đây tôi chưa từng cảm ơn ngài vì điều ấy.”

Còn chúng ta, phải chăng chúng ta nên suy ngẫm về trận ôn dịch này từ góc độ mà bình thường chúng ta vẫn hay xem nhẹ? Hơi thở của chúng ta là không khí, là thần khí, liên quan Chúa Thánh Thần. Chúa Giêsu xác định: “Thần khí mới làm cho sống, chứ xác thịt chẳng có ích gì.” (Ga 6:63a) Và Lời Chúa cũng chính là “thần khí và sự sống.” (Ga 6:63b)

Lạy Thiên Chúa hằng sống, xin ban Thần Khí Sự Thật cho chúng con, xin khởi Lửa Mến trong chúng con, để chúng con biết truyền cảm hứng yêu thương tới tha nhân, xin giúp chúng con sống xứng đáng và được hưởng Giá Máu cứu độ của Đức Giêsu Kitô. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 6 PHỤC SINH_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Lễ Ngũ Tuần, một biến cố quan trọng của Giáo Hội, sắp đến gần; vì thế, Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Phục Sinh loan báo Chúa Thánh Thần, Thần Chân Lý.

Cv 8: 5-8; 14-17

Sách Công Vụ Tông Đồ tường thuật dân Sa-ma-ri trở lại đạo và lần đầu tiên kể ra bí tích Thêm Sức: thánh Phê-rô và thánh Gioan đến đặt tay trên những người đã chịu phép Rửa để họ được đón nhận Chúa Thánh Thần.

1Pr 3: 15-18                                                      

Bài Đọc II, tiếp tục trích thư thứ nhất của thánh Phê-rô, nêu lên hy tế của Đức Giê-su, chết cho tội lỗi chúng ta, nhưng Thánh Thần đã phục sinh Ngài.

Ga 14: 15-21

Tin Mừng là đoạn trích dẫn diễn từ Cáo Biệt mà Đức Ki-tô ngỏ lời với các môn đệ Ngài, vào buổi chiều Tiệc Ly: Ngài hứa sai Đấng Bảo Trợ, Thánh Thần Chân Lý đến ở với họ luôn mãi.

BÀI ĐỌC I (Cv 8: 5-8, 14-17)

Sau việc thiết lập bảy cộng tác viên, cuộc bách hại đã bất ngờ giáng xuống cộng đoàn Ki-tô hữu non trẻ tại Giê-ru-sa-lem. Khởi điểm là lời rao giảng của thánh Tê-pha-nô, một trong bảy cộng tác viên. Lời rao giảng táo bạo của thánh nhân khiến Thượng Hội Đồng phẩn nộ. Họ xúi dục dân chúng ném đá thánh Tê-pha-nô cho đến chết.

Nhiều môn đệ trốn chạy, nhất là những Ki-tô hữu theo văn hóa Hy lạp bị nhắm đến đặc biệt hơn. Trên con đường trốn chạy, đi đến đâu, họ đều làm chứng về Đức Ki-tô Phục Sinh đến đó: “Vậy những người phải tản mác khắp nơi loan báo Lời Chúa” (8: 4). Thế là Lời Chúa được loan truyền rộng rãi vượt ra bên ngoài thành đô Giê-ru-sa-lem. Chính trong hoàn cảnh khó khăn như vậy, họ trở thành những nhà truyền bá Tin Mừng.

1. Công việc truyền giáo của phó tế Phi-líp-phê

Sau khi sơ tán khỏi Giê-ru-sa-lem, Phi-líp-phê, một trong bảy cộng tác viên, “xuống một thành miền Sa-ma-ri và rao giảng Đức Kitô cho dân chúng ở đó”. Tác giả không nói với chúng ta thành nào. Cuộc truyền giáo luôn luôn đạt được kết quả mỹ mãn. Dân chúng chú ý đến lời rao giảng của ông và bị lôi cuốn bởi những phép lạ ông thực hiện nên theo đạo rất đông. Như Đức Ki-tô và nhân danh Ngài, Phi-líp-phê thực hiện nhiều “phép lạ”. Chúng ta ghi nhận rằng thánh Luca nói về việc chữa lành “những người bị bại liệt”, một từ ngữ chuyên môn, chứ không là những người bại liệt, một từ ngữ bình dân – cũng vậy, trong Tin Mừng của mình, thánh ký luôn luôn dùng thuật ngữ này, bởi vì thánh Lu-ca là thầy thuốc. Đây là một tiểu tiết mang lấy chữ ký của ngài.

“Trong thành, người ta rất vui mừng”. Đây cũng là một ghi nhận rất tiêu biểu của thánh Lu-ca. Những kẻ bệnh hoạn tật nguyền được chữa lành, cả thành đều tràn ngập niềm vui thiên sai mà các ngôn sứ đã loan báo từ xưa. Niềm tin vào Đức Giê-su Phục Sinh không những đã làm cho họ phấn chấn, mà ngay cả thân xác của họ cũng được phục hồi sức khoẻ.

2. Dân Sa-ma-ri đón nhận phép Thêm Sức

Sách Công Vụ nói đến hai lần: “Các Tông Đồ vẫn ở Giê-ru-sa-lem” (8: 1, 14) để nhấn mạnh rằng trong lúc bách hại, không một Tông Đồ nào rời bỏ Thành Thánh. Khi nghe biết dân Sa-ma-ri trở lại đạo, thánh Phê-rô và thánh Gioan đến tận nơi. Chúng ta đã thấy rồi, hai vị Tông Đồ này thường hoạt động cùng nhau.

Những ai đã chịu phép Thánh Tẩy, hai Tông Đồ đặt tay trên họ để Thánh Thần ngự xuống trên họ. Đó là cử chỉ bí tích mà sau này chúng ta gọi “Bí Tích Thêm Sức”, bí tích này hoàn thiện bí tích Thánh Tẩy bằng việc đặt tay ban Thánh Thần. Chỉ duy các Tông Đồ, những người kế vị Đức Giê-su, mới có đủ thẩm quyền ban Thánh Thần. Thế là biến cố ngày Ngũ Tuần một lần nữa được tái diễn ở một nơi khác ngoài Giê-ru-sa-lem, và cứ như thế ở bất cứ nơi nào mà Lời Chúa có dịp tràn đến.

BÀI ĐỌC II (1Pr 3 : 15-18)

Vào Chúa Nhật VI Phục Sinh này, Bài Đọc II tiếp tục trích dẫn thư thứ nhất của thánh Phê-rô gởi những Ki-tô hữu miền Tiểu Á. Đoạn trích này dọi chiếu vài tia sáng trên những thử thách mà họ phải chịu. Thánh Phê-rô an ủi và khích lệ họ. Họ phải chịu phỉ báng, vu khống, bị điệu ra trước tòa, bị trách cứ vì cách sống mới của họ, vân vân. Đây là những cuộc bách hại địa phương hoặc do những anh em đồng đạo Do thái trước đây của họ hay do đồng bào ngoại giáo trước đây của họ.

1. Hãy tôn kính Đức Kitô làm Chúa trong lòng anh em

Thánh Phê-rô khuyên nhủ họ. Lời mở đầu : “Đừng sợ những kẻ làm hại anh em và đừng xao xuyến. Đức Ki-tô là Đấng Thánh, hãy tôn kính Người làm Chúa ngự trị trong lòng anh em” (1Pr 3: 14-15) gợi hứng từ bản văn của Is 8: 12-13, trong đó ngôn sứ I-sai-a xưa kia ngỏ lời với Giê-ru-sa-lem bị đe dọa và với vua A-khát sợ hãi và xao xuyến. Hoàn cảnh bấy giờ xem ra tương tự. Những người bị bách hại đừng khiếp sợ kẻ thù của họ. Họ không có bận lòng nào khác ngoài việc làm đẹp lòng Thiên Chúa.

2. Hãy luôn luôn sẵn sàng trả lời

Sau khi khuyên nhủ một cách khái quát, thánh Phê-rô khuyên nhủ sát với thực tế hơn: “Hãy trả lời cho bất cứ ai chất vấn anh em về niềm hy vọng của anh em”. Thánh nhân ám chỉ đến việc họ bị chất vấn trước thế quyền cũng như giáo quyền và khuyên họ hãy bênh vực niềm tin của họ, hãy biện minh niềm hy vọng của họ đối diện với những kẻ không tin.

Đây là lần đầu tiên thánh Phê-rô ban một lời khuyên như vậy cho thấy những hoàn cảnh khó khăn mà các Ki-tô hữu phải trải qua. Sau này trong những cuộc bách hại lớn lao như cuộc bách hại của hoàng đế Domitien (81-96) khắp Đế Quốc, lời khuyên nhủ như thế sẽ mặc lấy tính chất bi thảm.

Tiếp đó, trở lại chủ đề chạy xuyên suốt bức thư: “Phúc cho những ai bị bách hại vì công chính”, thánh nhân viết: “bởi lẽ thà chịu khổ vì làm việc lành còn hơn là vì làm điều ác”. Sau cùng, thánh Phê-rô một lần nữa viện dẫn Đức Giê-su như mẫu gương: Đức Giê-su, Đấng Công Chính đã chết cho những kẻ bất lương, nhưng Ngài đã chiến thắng sự chết, đó là nền tảng niềm hy vọng của chúng ta.

Niềm an ủi mà vị thủ lãnh Giáo Hội muốn đem đến cho các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á bị đối xử bất công, cốt ở nơi lời giáo huấn căn bản này: Đức kiên nhẫn trong những trăm chiều thử thách dẫn họ đến cùng một vận mệnh vinh quang như vận mệnh của Đức Ki-tô.

TIN MỪNG (Ga 14: 15-21)

Chúng ta tiếp tục diễn từ Cáo Biệt của Đức Giê-su cho các môn đệ Ngài. Thấy họ xao xuyến trước lời loan báo về cái chết sắp đến của Ngài, Đức Giê-su nói với họ những lời an ủi và hứa với họ Ngài sẽ trở lại tìm họ để họ nên một với Ngài luôn mãi trong mối thâm tình với Cha Ngài (Chúa Nhật vừa qua). Chúa Giê-su lại còn hứa Ngài sẽ sai phái Chúa Thánh Thần đến ở với họ, đây là đối tượng của đoạn Tin Mừng Chúa Nhật này.

1. Trung tín trong tình yêu

Trước khi hứa sai Thánh Thần đến ở với họ, Đức Giê-su đòi hỏi họ hãy tuân giữ các điều răn của Ngài như bằng chứng tình yêu của họ đối với Ngài.

Chúng ta lưu ý rằng Đức Giê-su đòi hỏi các môn đệ Ngài theo cùng một mức độ như Đức Chúa đòi hỏi dân Do thái khi Người ban Lề Luật của Người cho họ. Chỉ duy mình Thiên Chúa mới có thể đòi hỏi con người phải yêu mến Ngài như vậy. Đây là cách thức Đức Giê-su bày tỏ chân tính thần linh của Ngài. Nhưng Đức Giê-su nhấn mạnh việc tuân giữ trong tình yêu: “Nếu anh em yêu mến Thầy, anh em sẽ giữ các điều răn của Thầy”. Đức Giê-su đòi hỏi họ yêu mến con người của Ngài chứ không là Lề Luật. Tất cả điểm nhấn của Ki-tô giáo đều tập trung vào luật mới mà Đức Ki-tô ban: không áp đặt từ bên ngoài, nhưng là hành vi thắm đẩm tình yêu, vì thế kêu gọi đi vào trong mối tương giao tình yêu với Thiên Chúa.

Trong Tin Mừng Gioan, tình yêu đi đôi với hiểu biết và thực hành những điều răn (14: 15; 14: 21). Sự hiểu biết được nêu lên ở đây không đơn giản là tri thức, nhưng trào dâng từ cuộc sống xuất phát từ kinh nghiệm cụ thể. Đây là một sự hiểu biết thực tiển nẩy sinh từ cõi lòng sâu thẳm nhất. Đó là lý do tại sao, trong Tin Mừng Gioan, có mối gắn kết bền chặc giữa yêu mến, hiểu biết và tuân giữ các điều răn.

Bản chất tình yêu là muốn được sống cùng nhau, nên một với người mình yêu, không muốn xa lìa nhau. Khi người ta yêu nhau, người ta “đồng cảm” với nhau, người ta “biết” điều gì làm vui lòng người mình yêu mà không có bất kỳ ép buộc bên ngoài nào, người ta ra sức thực hiện bất cứ điều gì làm vui lòng người mình yêu, chu toàn ý muốn của người mình yêu. Tuân giữ là cách thức cụ thể thể hiện ra bên ngoài điều mình nghĩ, điều mình yêu. Đây là điều Đức Giê-su đã làm đối với Cha của Ngài (15: 10), người môn đệ cũng sẽ làm như vậy, bởi vì người ấy “đồ lại” cuộc sống của mình trên cuộc sống của Đức Ki-tô, sống cuộc sống của Đức Ki-tô, Đấng hiện diện ở cõi sâu thẳm của người môn đệ.

2. Đấng Bảo Trợ khác

Đối với những người bạn chí thiết của Ngài, nghĩa là những người thực sự yêu mến Ngài và bày tỏ tấm lòng yêu mến Ngài bằng việc tuân giữ các giới răn của Ngài, Đức Giê-su sẽ xin Cha Ngài sai Thánh Thần đến ở với họ luôn mãi: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến với anh em luôn mãi”.

Qua từ ngữ đơn giản “Đấng Bảo Trợ khác” này, Đức Giê-su định nghĩa cả sứ mạng của Ngài lẫn sứ mạng của Chúa Thánh Thần. Ngài đã đến để là Đấng Bảo Trợ của chúng ta, chứ không là quan tòa của chúng ta, như thánh Gioan viết trong thư thứ nhất của mình: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của tôi, tôi viết cho anh em những điều này, để anh em đừng phạm tội. Nhưng nếu ai phạm tội, thì chúng ta có một Đấng Bảo Trợ trước mặt Chúa Cha: đó là Đức Giê-su Ki-tô, Đấng Công Chính” (1Ga 2: 1-2). Chúa Thánh Thần được gọi là “Đấng Bảo Trợ khác” vì Ngài sẽ tiếp tục công việc này; Ngài sẽ phù trợ chúng ta và “ở với chúng ta luôn mãi”“Đấng Bảo Trợ” là từ ngữ pháp lý, nên dịch là “trạng sư” mới đúng, vì trong Tin Mừng thứ tư diễn ra một phiên tòa giữa Đức Giê-su và thế gian. Trong Tin Mừng Gioan, từ ngữ “thế gian” mặc ý nghĩa tiêu cực, tức thế giới gian tà nằm dưới quyền thống trị của Xa-tan. Vì thế, thế gian không thể đón nhận Chúa Thánh Thần, vì thế gian không thấy và cũng chẳng biết Người. Đó là tất cả tấm thảm kịch của sự cứng lòng tin.

3. Thần Khí Sự Thật

Đấng Bảo Trợ khác này cũng được gọi Thần Khí Sự Thật (15: 26) đối lập với thế gian dối trá. Ngài ban phát sự thật và dẫn các môn đệ đến sự thật. Trong Tin Mừng Gioan, sự thật không là một phẩm chất luân lý, nhưng là một định nghĩa thậm chí về bản tính Thiên Chúa: Thiên Chúa là Sự Thật. Sự thật này được phơi bày ở nơi Đức Giê-su Ki-tô, Ngài cũng là sự thật, và sứ mạng của Ngài chính là bày tỏ sự thật cho con người, nghĩa là ban cho họ ơn cứu độ. Có nhiều cách nói, nhưng có chung một nghĩa: “sống trong sự thật” hay “sống trong Thiên Chúa”, hoặc “được cứu độ”.

Đấng Bảo Trợ khác này cũng là Thần Khí Sự Thật bởi vì Ngài là Một trong Ba Ngôi Thiên Chúa, chỉ mình Ngài mới có thể cho các môn đệ biết chân tính của Đức Giê-su, mới có thể giúp cho các ông thật sự sống trong mối hiệp thông đích thật với Chúa Con và Chúa Cha. Thánh Thần của Đấng Phục Sinh mà Đức Giê-su sẽ ban cho các môn đệ để dẫn dắt họ vào trong sự thật toàn diện (hay ơn cứu độ trọn vẹn). Như vậy, các môn đệ sẽ có thể hiểu cụ thể con người và sứ mạng của Đức Giê-su, và hiện tại hóa ơn cứu độ của Ngài vào trong cuộc sống thường ngày của họ.

3. “Thầy sẽ không để anh em mồ côi”

Từ “mồ côi” là lời nói trìu mến, được Đức Giê-su dùng rất nhiều lần, trong suốt diễn từ Cáo Biệt của Ngài: “Hỡi anh em là những người con bé nhỏ của Thầy”.

Đoạn, cung giọng ngôn sứ lại được vang lên: Đức Giê-su loan báo cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài: “Phần các con, các con sẽ thấy Thầy, vì Thầy sống và các con cũng sẽ sống”. Thành quả Phục Sinh của Ngài sẽ là ân ban sự sống, sự sống Thiên Chúa mà Đức Giê-su sẽ ban phát một cách sung mãn.

“Vào ngày đó”: đây là cách nói của Cựu Ước. Chữ “ngày” chỉ một thời kỳ, thường nhất thời cánh chung. “Thời cánh chung” được kể ở đây khởi sự từ biến cố Phục Sinh. Lúc đó, các môn đệ sẽ kinh nghiệm sự hiện diện của Đấng Phục Sinh ở nơi họ, sự hiện diện của một thế giới mới, sự hiện diện của Thần Khí trong một mối hiệp thông sâu thẳm tròn đầy tình yêu.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...