CHÚA NHẬT

Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa Nhật 29 Thường Niên – B

Oct 19 2024
449
Dưới đây là Lời Chúa và các bài suy niệm Chúa Nhật 29 Thường Niên – B. Anh chị em hãy đọc và chia sẻ cho nhau

Các bài suy niệm Chúa Nhật 29 Thường Niên – B

Lời Chúa: Is 53,10-11; Dt 4,14-16; Mc 10,35-45

  1. Đầy tớ và nô lệ. 5
  2. Anh em không như thế. 7
  3. Chúa Nhật 29 Thường Niên. 10
  4. Con Người đến để hầu hạ. 13
  5. Làm đầy tớ. 17
  6. Uống chén Thầy. 19
  7. Bài học về sự phục vụ. 22

--------------------------------------------

Bài Ðọc I: Is 53, 10-11
“Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn”.
Trích sách Tiên tri Isaia.
Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu. Nhờ nỗi khổ tâm của người, người sẽ thấy và sẽ được thoả mãn. Nhờ sự thông biết, tôi tớ công chính của Ta sẽ công chính hoá nhiều người, sẽ gánh lấy những tội ác của họ.
Ðó là lời Chúa.


Ðáp Ca: Tv 32, 4-5. 18-19. 20 và 22
Ðáp: Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
Xướng: 1) Vì lời Chúa là lời chân chính, bao việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu chuộng điều công minh chính trực, địa cầu đầy ân sủng của Chúa.
Ðáp: Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
2) Kìa Chúa để mắt coi những kẻ kính sợ Ngài, nhìn xem những ai cậy trông ân sủng của Ngài, để cứu gỡ họ khỏi tay thần chết, và nuôi dưỡng họ trong cảnh cơ hàn.
Ðáp: Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
3) Linh hồn chúng con mong đợi Chúa, chính Ngài là Ðấng phù trợ và che chở chúng con. Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
Ðáp: Lạy Chúa, xin đổ lòng từ bi xuống trên chúng con, theo như chúng con tin cậy ở nơi Ngài.
___________
Bài Ðọc II: Dt 4, 14-16
“Chúng ta hãy cậy trông vững vàng mà tiến đến trước toà ân sủng”.
Trích thư gửi tín hữu Do Thái.
Anh em thân mến, chúng ta có một Thượng tế cao cả đã đi qua các tầng trời, là Ðức Giêsu, Con Thiên Chúa, nên chúng ta hãy giữ vững việc tuyên xưng đức tin của chúng ta. Vì chưng, không phải chúng ta có vị Thượng tế không thể cảm thông sự yếu đuối của chúng ta, trái lại, Người đã từng chịu thử thách bằng mọi cách như chúng ta, ngoại trừ tội lỗi. Vậy chúng ta hãy cậy trông vững vàng mà tiến đến trước toà ân sủng, ngõ hầu lãnh nhận lòng từ bi và tìm kiếm ân sủng để gặp được ơn phù trợ kịp thời.
Ðó là lời Chúa.
Alleluia: 1Sm 3, 9
Alleluia, alleluia! - Lạy Chúa, xin hãy phán, vì tôi tớ Chúa đang lắng tai nghe; Chúa có lời ban sự sống đời đời. - Alleluia.
__________________
Phúc Âm: Mc 10, 35-45
“Con Người đến để ban mạng sống Mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Maccô.
Khi ấy, Giacôbê và Gioan con ông Giêbêđê đến gần Chúa Giêsu và thưa Người rằng: “Lạy Thầy, chúng con muốn Thầy ban cho chúng con điều chúng con sắp xin Thầy”. Người hỏi: “Các con muốn Thầy làm gì cho các con?” Các ông thưa: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy”. Chúa Giêsu bảo: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?” Các ông đáp: “Thưa được”. Chúa Giêsu bảo: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì không thuộc quyền Thầy ban, nhưng là dành cho những ai đã được chỉ định”.
Mười môn đệ kia nghe chuyện đó liền bực tức với Giacôbê và Gioan. Chúa Giêsu gọi các ông lại gần mà bảo: “Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.
Ðó là lời Chúa.

-----------------------------

1.      Đầy tớ và nô lệ.

(Trích trong ‘Manna’ – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Ghế tượng trưng cho địa vị, quyền lực và quyền lợi, nên ghế là nỗi ám ảnh của nhiều người.

Ghế trưởng phòng, ghế giám đốc, ghế đại biểu… Tất cả nỗ lực dồn vào việc có một ghế, sau đó là giữ ghế, hay tìm cách lên ghế cao hơn. Ngay cả những người đã bỏ mọi sự để theo Chúa cũng bị ám ảnh bởi những chiếc ghế danh dự.

Chính lúc Đức Giêsu nói đến cái chết gần kề của mình, thì Gioan và Giacôbê lại xin được ngồi hai bên tả hữu. Có vẻ họ không bắt được tần số của Thầy!

Thanh tẩy mình khỏi tội lỗi không khó lắm. Nhưng thanh tẩy mình khỏi nhân đức và công trạng của mình thì khó hơn bội phần.

Hai môn đệ đã từ bỏ những điều rất cao quý, nhưng bây giờ lại muốn kiếm chút lợi lộc từ chính sự từ bỏ và phục vụ của mình.

Họ dám lên tiếng đòi hỏi Đức Giêsu: “Chúng con muốn Thầy làm cho chúng con điều chúng con xin.” Thái độ bực tức của mười môn đệ còn lại có thể bắt nguồn từ một sự ganh tỵ ngấm ngầm. Nhiều môn đệ cũng ước mơ hai ghế tả hữu.

Đức Giêsu kéo hai ông ra khỏi tham vọng và đam mê để đưa họ trở về với thực tại gai góc sắp đến. Họ muốn được chung phần với Ngài trong vinh quang, nhưng liệu họ có dám chia phần với Ngài trong đau khổ? Uống chung chén đắng Thầy sắp uống, chịu chung phép Rửa Thầy sắp chịu là chấp nhận bị dìm sâu xuống dòng nước khổ đau.

Thật ra được ngồi hai bên tả hữu Thầy trong vinh quang đâu phải là phần thưởng để trả công cho người bền chí. Trung tín theo Chúa đến cùng đã là phần thưởng rồi.

Chúng ta không giữ đạo để đòi một chỗ thật cao, nhưng mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa.

Người đứng đầu, người làm lớn, người có quyền thường dễ có thái độ thống trị, áp đặt, hống hách. Chức vụ và quyền lực trở thành phương tiện phục vụ bản thân. Đó là lối lãnh đạo dễ thấy nơi người đời.

Đức Giêsu không chấp nhận chuyện đó nơi Hội Thánh: “Nơi anh em thì không như vậy.” Ngài đề xướng một lối lãnh đạo mới. Ai muốn làm lớn, làm đầu trong Hội Thánh phải trở nên đầy tớ và nô lệ cho mọi người.

Đức Giêsu mời chúng ta làm một cuộc cách mạng lớn, không phải chỉ là đổi ngôi, mà là đổi lòng. Tận diệt trong tim những tham vọng ăn trên ngồi trước. Đức Giêsu không ủng hộ một xã hội hay Giáo Hội vô tổ chức. Nhưng Ngài coi lãnh đạo là khiêm nhường phục vụ.

Phục vụ là động từ tóm kết toàn bộ đời Đức Giêsu.

Ngài đến trần gian để phục vụ, sống như người phục vụ, và chết như dấu chứng lớn nhất của phục vụ trong yêu thương.

Gợi Ý Chia Sẻ

Đức Giêsu chết để chuộc ta khỏi cảnh nô lệ. Ngài tự nguyện trở nên nô lệ để giải phóng ta. Theo bạn, con người hôm nay vẫn nô lệ cho những điều gì? Đâu là những hình thức nô lệ mới của thế kỷ 21?

“Lãnh đạo là phục vụ”. Câu này khá quen thuộc với chúng ta. Bạn nghĩ sống khẩu hiệu này có khó không? Tại sao?

Cầu Nguyện

Lạy Thầy Giêsu, Thầy không gọi chúng con là tôi tớ, Thầy cũng không chỉ coi chúng con là môn đệ. Thầy còn coi chúng con như bạn hữu của Thầy, vì Thầy đã thổ lộ cho chúng con những điều riêng tư thầm kín nhất trong tương quan giữa Thầy với Cha. Hơn nữa, sau phục sinh, Thầy đã gọi các môn đệ là anh em. Mặc nhiên Thầy tự nhận mình là Anh Trưởng đứng đầu một đoàn em đông đúc. Xin cho chúng con luôn thi hành ý muốn của Cha để trở nên những người em cùng huyết nhục với Thầy.

Lạy Thầy Giêsu, Thầy đã nâng chúng con lên làm môn đệ, làm bạn, làm anh em của Thầy. Còn Thầy lại hạ mình xuống phục vụ chúng con như người tôi tớ rửa chân cho chúng con như một nô lệ và chết thay cho chúng con trên thập giá. Xin cho chúng con hiểu được tấm lòng của Thầy và sống yêu thương mọi người như anh em. Amen.

 

2.Anh em không như thế

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.)

Suy Niệm

Xem ra Nhóm Mười Hai, nhóm môn đệ nòng cốt,

lại là những người có nhiều tham vọng về quyền lực.

Sau khi Thầy Giêsu loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ hai,

họ đã tranh cãi xem ai là người lớn nhất (Mc 9,33-34).

Sau khi Thầy loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ ba,

họ vẫn bất hòa về chuyện ghế ngồi (Mc 10,35-41).

Thầy Giêsu không dạy học trong lớp, với phấn và bảng.

Thầy dạy từ những chuyện xảy ra hàng ngày trong nhóm.

Thầy uốn nắn các môn đệ với một sự tinh tế lạ lùng

và một sự kiên nhẫn đáng thán phục.

Giacôbê và Gioan là hai môn đệ được Thầy ưu ái.

Họ được thấy khuôn mặt Thầy sáng láng trên núi cao,

và xao xuyến âu lo trong Vườn Dầu (Mc 9,2; 14,33).

Có phải vì thế mà họ muốn vận động để xin Thầy

những vị thế cao hơn anh em chăng?

Chưa bao giờ Thầy trò đối thoại dài đến thế (Mc 10,35-40).

Thầy Giêsu hẳn rất thất vọng vì câu hỏi của hai ông.

Rõ ràng họ đang đắm mình trong một thế giới trần tục,

mê mải với những mộng tưởng về vinh quang.

Họ còn đứng ngoài, chưa vào được thế giới của Thầy.

Tuy giận, nhưng Thầy vẫn điềm đạm khi hỏi:

“Các anh muốn Thầy làm cho các anh điều gì?”

vẫn rất tự chủ và bao dung khi trách:

“Các anh không biết các anh xin gì?”

Thầy không đáp lại lời xin ngồi hai bên tả hữu,

Nhưng thầy lại đưa ra một thách đố cho hai ông:

Các anh có dám uống chung một chén với Thầy,

và chịu chung một phép rửa với Thầy không?

Chén ấy là chén đắng của khổ nhục và cái chết

mà Thầy muốn tránh né ở Vườn Dầu (Mc 14,36).

Chén ấy là chén máu Thầy trên bàn Tiệc Ly,

khi Thầy trao cho các môn đệ cùng uống (Mc 14,23-24).

Thầy Giêsu mời hai ông đi vào cuộc Khổ nạn của Thầy.

Thầy mời họ chịu chung phép rửa Thầy sắp chịu.

Cùng được dìm xuống nước với Thầy trong phép rửa

mà lòng thầy khắc khoải chờ mong (Lc 12,50).

Nếu không cùng Thầy uống chung chén đắng,

và chịu chung phép rửa của cái chết với Thầy,

thì họ không thể được hưởng niềm vui Phục sinh.

Thầy giúp họ thông hiệp Mầu nhiệm Vượt Qua của Thầy,

mầu nhiệm của khổ đau, cái chết và sống lại.

Rồi họ sẽ đi vào con đường của Thầy,

còn chuyện ghế ngồi tả hữu, họ không nên bận tâm.

Thầy Giêsu chẳng những dạy Giacôbê và Gioan,

Thầy còn dạy cho cả Nhóm Mười Hai cách lãnh đạo.

Có cách lãnh đạo của các người làm lớn ngoài đời.

Họ dùng uy, dùng quyền mà thống trị và cai quản dân.

“Nhưng giữa anh em, thì không như vậy!”

Có một kiểu lãnh đạo khác trong cộng đoàn tín hữu,

lãnh đạo kiểu phục vụ cho anh em.

Người làm lớn, làm đầu thì phải là đầy tớ cho mọi người.

Như thế Thầy Giêsu đã cho ta thấy hình ảnh

của Hội thánh mà chúng ta cần xây dựng.

Nơi đây trẻ em được đón tiếp, phụ nữ được tôn trọng.

Nơi đây không có thèm muốn về quyền lực, chức tước,

vì biết rằng đó chỉ là phương tiện để phục vụ.

Nơi đây có những mục tử hiến mình cho đàn chiên.

Đức Thánh Cha Phanxicô nhấn mạnh tính đồng nghị.

Ngài mời mọi thành phần dân Chúa cùng nhau lắng nghe,

đối thoại, cầu nguyện và phân định,

can đảm để nói, khiêm tốn để nghe, vượt qua thành kiến.

Nhờ đó Hội Thánh có được sự hiệp nhất và niềm vui,

lôi kéo được nhiều người đến gia nhập.

LỜI NGUYỆN

Lạy Thiên Chúa,

nơi con có biết bao ước mơ,

bao khát vọng mong chờ.

Có những ước mơ đã thành hiện thực.

Cũng có những ước mơ mãi chưa tròn.

Nhưng dù được toại nguyện hay không,

con vẫn luôn hy vọng nơi Chúa.

Con biết rằng Chúa chẳng bao giờ để con một mình,

và thế nào Chúa cũng vuông tròn những điều Chúa hứa.

Ngay cả khi mọi chuyện có vẻ không đi theo đường của con,

con tin chúng vẫn đi theo đường của Chúa,

và rốt cuộc đường của Chúa là đường tốt nhất cho con.

Lạy Chúa, xin củng cố niềm hy vọng nơi con,

nhất là khi những ước mơ của con không thành hiện thực.

Xin cho con đừng quên rằng

Tên của Chúa là Tình Yêu. Amen.

Henry Nouwen.

 

3.      Chúa Nhật 29 Thường Niên

“CON NGƯỜI ĐẾN LÀ ĐỂ PHỤC VỤ VÀ HIẾN MẠNG”

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Lộc)

Bài Tin Mừng của Thánh Lễ Chúa Nhật XXIX Thường Niên, năm B (chúng ta nên đọc thêm c. 32-34), có thể phân ba đoạn, có tương quan đối xứng như sau:

(A) Mầu nhiệm Vượt Qua (c. 32-34)

(B) Tham vọng làm lớn (c. 35-40)

(A’) Ý nghĩa mầu nhiệm Vượt Qua: trao ban sự sống, diễn tả tình yêu đến cùng, làm nên căn tính thần linh (c. 41-45).

Vấn đề trung tâm của bài Tin Mừng là “tham vọng làm lớn” (B), như chính Đức Giê-su làm rõ năng động thầm kín này, đang hoành hành nơi các môn đệ (c. 42-43); tham vọng này không chỉ có nơi hai môn đệ Gia-cô-bê và Gioan, nhưng cả mười môn đệ còn lại, vì các ông “tức tối” với hai môn đệ này; và tham vọng này không chỉ lộ ra một lần, nhưng nhiều lần (x. Mc 9, 30-37).

Được đặt ở giữa lời của Đức Giê-su nói về mầu nhiệm Vượt Qua và ý nghĩa của mầu nhiệm này (A và A’), tham vọng làm lớn vừa cho thấy sự tương phản tuyệt đối với mầu nhiệm Vượt Qua, và mời gọi chúng ta nhận ra rằng, tham vọng này chỉ có thể được vượt qua bằng mầu nhiệm Vượt Qua mà thôi; nghĩa là bằng hành trình hiểu biết, yêu mến và đi theo Đức Ki-tô trên con đường của Ngài.

Mầu nhiệm Vượt Qua (c. 32-34)

Để hiểu hết mức độ nghiêm trọng của câu chuyện, chúng ta cần khởi đi từ lời của Đức Giê-su nói riêng với các môn đệ về những gì sắp xẩy ra cho mình. Đó là lần thứ ba và cũng là lần cuối Đức Giêsu nói về cuộc thương khó và phục sinh của Người ; và lần này, Ngài nói rất chi tiết về cuộc thương khó: « Con Người sẽ bị nộp cho các thượng tế và kinh sư. Họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Người cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người ». Như thế, chính Ngài cũng nhận ra từ từ con đường mình phải đi và điều gì sẽ xẩy ra trên đường.

Qua lời loan báo này, chúng ta thấy rất rõ rằng, cuộc thương khó (passion) của Đức Giê-su là hành động (action) của con người: các thượng tế và kinh sư lên án xử tử Đức Giê-su ; họ nộp Ngài cho dân ngoại, dân ngoại nhạo báng, khạc nhổ, đánh đòn và giết chết Người. Nhưng rốt cuộc, cũng không phải hoàn toàn là hành động của con người, bởi vì chính Xa-tan hành động nơi những con người cụ thể (x. Ga 13, 27 và Lc 23, 34). Nhưng tại sao Thiên Chúa, nơi Đức Giê-su, có sự chọn lựa điên rồ, là để mình chịu sỉ nhục đến như thế ? Là sỉ nhục và điên rồ đối với con người và cả các môn đệ nữa, vì các ông lúc nào cũng sợ hãi và kinh hoàng khi nghe nói về thương khó (x. Mc 8, 32 ; 9, 32 và 10, 32), nhưng đối với Thiên Chúa, đó lại là sức mạnh và khôn ngoan. Bởi vì, nơi Đức Giê-su, khi Thiên Chúa để cho Sự Dữ, hành động nơi những con người cụ thể, phô bày thân thể của Người trên thập giá ngất cao, thì chính Người phô bày bộ mặt thật của Sự Dữ.

Phô bày, để mọi người nhận ra ở khắp nơi, ngang qua thân thể nát tân của Người, Sự Dữ và tội lỗi dẫn đến sự chết ; và Người không chỉ phô bày nhưng còn chiến thắng, không phải bằng sức mạnh, nhưng bằng sự hiền lành.

Phô bày, nhưng Người không lên án, nhưng tha thứ và chữa lành loài người chúng ta. Bởi vì, Thiên Chúa không thể tha thứ cho chúng ta, mà không giải thoát khỏi Sự Dữ. Và để giải thoát chúng ta khỏi Sự Dữ, Người phô bày bộ mặt thật của Sự Dữ cho chúng ta nhìn thấy. Một bộ mặt hoàn toàn không phù hợp với lòng ước ao và căn tính đích thật của chúng ta, vốn là hình ảnh của Thiên Chúa.

Và đồng thời nơi Thập Giá, Người bày tỏ (cũng là một cách phô bày) khuôn mặt đích thật của Thiên Chúa, Người là tình yêu và chỉ là tình yêu mà thôi. Thập Giá là hệ quả tất yếu của cách thức Đức Giê-su sống căn tính thần linh của mình ở giữa loài người chúng ta.

Tất cả là để, như chính Đức Giê-su mặc khải: « phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người ».

Tham vọng làm lớn (c. 35-40)

Hai anh em Gia-cô-bê và Gioan đến xin với Đức Giê-su: «Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang». Như thế, dường như đối với hai môn đệ, việc đi theo Đức Giêsu là một con đường, một cách thức để có được vinh quang, ngang qua việc ngồi bên cạnh Đức Ki-tô vinh quang. Khi đó, người ta sẽ có quyền bính! Và khi có quyền bính, thì sẽ có tất cả.

Một đàng Đức Giê-su đang hướng tới con đường Thập Giá để trở nên nhỏ bé, để tự xóa mình đi, để dâng hiến và phục vụ ; đàng khác, nơi các môn đệ, lại tồn tại một tham vọng làm lớn, và điều này tất yếu kéo theo sự ganh tị, tranh chấp và loại trừ. Có lẽ chúng ta không có « tham vọng làm lớn » như thế, nhưng chắc chắn, chúng ta có những vấn đề khác đi ngược với con đường Thập Giá của Đức Ki-tô. Chúng ta được mời gọi ở lại với Đức Ki-tô và có tương quan thiết thân với Ngài, ngang qua việc không ngừng chiêm ngắm Ngài trong các Tin Mừng, để hiểu sâu xa, thấm nhuần và yêu mến con đường Thập Giá của Ngài.

Đức Giêsu không quan tâm đến điều họ xin, thậm chí Ngài cũng không có quyền, hay ít nhất, quyền bính không thuộc về lẽ sống của Ngài. Ngài chỉ quan tâm đến chén Ngài sắp uống. Chắc chắn, hai môn đệ chưa hình dung ra hết được chén Đức Giê-su sắp uống là chén nào, nên trả lời nhanh nhẹn: « Thưa uống được ». Đúng là Ngài sẽ có quyền bính, sau khi đi đến cùng con đường Thập Giá và được Thiên Chúa Cha tôn vinh. Nhưng cách thi hành quyền bính của Ngài không phải là cách thức của con người: « thủ lãnh thế gian thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền cai quản dân ». Bởi vì quyền bính của Đức Giêsu là quyền bính của ánh sáng, của sự thật và của sự sống ; và ánh sáng, sự thật và sự sống được diễn tả tốt nhất bởi sự hiền lành, tương quan phục vụ, bởi hy sinh, bởi dâng hiến và trao ban tất cả.

Ý nghĩa mầu nhiệm Vượt Qua: hiến mạng sống (c. 41-45)

Khi nghe hai môn đệ kia xin với Đức Giê-su như vậy, mười môn đệ khác tỏ ra tức tối ; điều này có nghĩa là, các ông có cùng một tham vọng. Trong bài Tin Mừng này, chỉ trong vài chữ, Lời Chúa cho chúng ta nhận ra lòng ham muốn quyền bính, tham vọng làm lớn tác hại như thế nào trong tương quan với Chúa và với nhau.

Nhưng Đức Giêsu thật kiên nhẫn khi đối diện vấn đề rất nghiêm trọng này nơi các môn đệ: « Đức Giêsu gọi các ông lại và nói ». Ngài nêu ra một cách thức thi hành quyền bính giữa các môn đệ hoàn toàn ngược hẳn với cách thức bình thường: « ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người ». Và Đức Giêsu không nêu ra một nguyên tắc xuông, nhưng Ngài luôn luôn nói điều Ngài sống: «Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.»

* * *

Sự sống của chúng ta, dù có cố giữ lấy hay cho đi, thì rốt cục cũng sẽ chấm dứt. Đức Giêsu mời gọi chúng ta lựa chọn con đường cho đi: “hãy từ bỏ chính mình, hãy vác thập giá của mình, hãy chịu mất sự sống của mình vì Ngài và vì Tin Mừng của Ngài”. Cho đi sự sống để nhận lại sự sống, điều này vừa nghịch lí vừa khó sống; ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm về những khó khăn này. Tuy nhiên, đó lại là qui luật muôn đời của chính sự sống và ai trong chúng ta cũng biết và thậm chí có kinh nghiệm về qui luật này của sự sống.

Đó hạt lúa mì, phải chịu chôn vùi và nát tan, để sinh ra nhiều hạt khác. Và đó cũng là con đường của tấm bánh.

Đó là sự cho đi chính bản thân mình của cha mẹ, để sự sống được lưu truyền nơi những người con. Điều đặc biệt đúng theo nghĩa đen nơi những người mẹ; nhất là khi có những người mẹ, hy sinh sự sống của mình để sinh con.

Đó là sự hy sinh cuộc đời của các tu sĩ nam nữ, các linh mục để chính Thiên Chúa làm phát sinh ra hoa trái sự sống gấp trăm.

Để cho sự sống được tiếp tục, được sinh sôi, để phục vụ cho sự sống, phải chia sẻ, trao ban, cho đi và hi sinh chính sự sống của mình. Đó chính là qui luật muôn đời của sự sống. Đức Giê-su Kitô, Con Thiên Chúa cũng không đi con đường lạ lùng nào khác ngoài con đường muôn đời của sự sống, nghĩa là con đường của hạt lúa mì: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”; và Ngài vẫn trao ban sự sống của mình cho chúng ta hằng ngày trong Thánh Lễ, dù chúng ta có như thế nào, để qua đó, Ngài thông truyền cho chúng ta niềm xác tín, con đường Vượt Qua là con đường của sự sống, của niềm vui, của hạnh phúc trong sự hiệp thông trọn vẹn và mãi mãi với Chúa và với nhau.

 

4.      Con Người đến để hầu hạ

(Trích dẫn từ tập sách Giải Nghĩa Lời Chúa của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm)

Những suy niệm của chúng ta trong Chúa nhật trước, hôm nay lại được các bài Kinh Thánh củng cố thêm. Bài sách Ysaia nói về Người Tôi Tớ đau khổ. Bài Tin Mừng cho thấy môn đệ phải uống chén cay đắng với Thầy mình. Và bài thư Hipri một lần nữa nhắc đến ý nghĩa cuộc khổ nạn của Ðức Kitô. Tất cả những ý tưởng này có thể giúp chúng ta thi hành một khía cạnh của nhiệm vụ truyền giáo mà Hội Thánh muốn nhắc nhở chúng ta trong ngày Chúa nhật hôm nay. Vậy chúng ta hãy bắt đầu suy nghĩ với bài Tin Mừng vì dù sao vẫn là phần chủ yếu của Lời Chúa trong mọi thánh lễ.

  1. Con Người Ðến Ðể Hầu Hạ

Hôm ấy Ðức Yêsu cũng đang đi đàng với các môn đệ lên Yêrusalem. Thánh Marcô nói rằng: Người dẫn đầu đi trước họ. Và họ thì kinh hoàng theo sau một cách sợ hãi. Người còn nói với họ về những khổ đau Người sắp phải chịu, nhưng ba ngày sau Người sẽ sống lại.

Yacôbê và Yoan là hai anh em trong số môn đệ. Họ không lưu ý đến những lời của Người, hay họ chỉ nhớ lời hứa phục sinh? Có lẽ họ tưởng rằng cứu thế là việc riêng của Người; Người muốn đi đàng nào thì đi; còn họ và đồng bạn chỉ có việc chờ đợi ngày vinh quang của Người. Thế nên họ tiến lại với Người và thưa một cách tính toán: “Thưa Thầy, chúng tôi ước chớ gì Thầy làm cho chúng tôi những điều chúng tôi xin Thầy”. Họ làm như thể Ðức Yêsu chưa nghĩ gì về tương lai của các môn đệ. Họ tưởng Người chỉ quan tâm đến công việc của Người và họ không có chỗ đứng nào trong công việc này. Người và họ dường như hai thế giới. Người hăm hở lên Yêrusalem, có vẻ phấn khởi nghĩ đến những gì sắp xảy ra. Còn họ thì kinh hoàng sợ hãi theo sau chầm chậm vì họ thấy bầu khí chống đối Người ở đó đang sôi lên…

Nhưng không, Người đã chọn họ là để họ ở với Người, chia sẻ mọi sự với Người. Thầy đi đến đâu môn đệ cũng sẽ đi đến đó. Phận tôi tớ không có thể hơn phận chủ mình. Thế nên Người đã nói với hai anh em kia: “Các ngươi không biết các ngươi xin gì!… Chén Ta uống, các ngươi sẽ uống, thanh tẩy Ta chịu, các ngươi sẽ chịu; còn việc ngồi bên tả hay bên hữu Ta, Ta không có quyền ban, nhưng là dành cho ai điều ấy đã được dọn cho”.

Rồi Người đã gọi tất cả các môn đệ lại. Họ đừng nổi xung lên vì thái độ của hai anh em muốn “đánh mảnh” kia, bởi vì “nơi các ngươi thì khác, (không được giống như nơi thế gian); ai muốn làm lớn trong các ngươi thì hãy hầu hạ các ngươi; và ai muốn cầm đầu giữa các ngươi, thì hãy làm tôi tớ mọi người”.

Những lời này lạ tai. Cần được giải thích. Nhưng lại chẳng có một lời cắt nghĩa nào kèm theo. Chỉ có một gương mẫu: Vì chưng, Con Người không đến để được hầu hạ, nhưng là để hầu hạ. Có thể nói gương mẫu này chưa thực hiện một cách rõ ràng, nên các môn đệ chưa thể hiểu được lời của Thầy họ nói hôm nay. Phải đợi đến khi Ðức Yêsu hạ mình xuống rửa chân cho họ trong bữa tiệc ly và bị điệu ra khỏi thành chịu đóng đinh vào thập giá, gương mẫu ấy mới được treo cao lên. Họ sẽ chiêm ngưỡng và sẽ hiểu dần dần lời của Thầy đã nói với họ. Và bấy giờ họ cũng sẽ hiểu lời kết thúc đoạn Tin Mừng hôm nay: Con Người đến thí mạng sống mình làm giá chuộc thay cho nhiều người.

Như vậy, có thể nói bài đọc hôm nay còn phải để đó cho đến sau ngày có cuộc Tử nạn và Phục sinh của Ðức Yêsu. Chúng ta chính là những người đến sau biến cố cứu độ này. Chúng ta có nhiệm vụ đi vào đường lối Người đi hôm nay. Chúng ta luôn phải ngắm nhìn gương mẫu ở trước mắt. Con Người đã không đến để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ và thí mạng sống mình thay cho nhiều người. Chúng ta không còn dám xin như Yacôbê và Yoan nữa. Ngược lại có chăng chúng ta chỉ có quyền thắc mắc vì sao Con Người lại chọn đi con đường như vậy để tất cả chúng ta muốn theo Người cũng không được đi con đường nào khác. Có lẽ bấy giờ bài sách Ysaia và bài thư Hipri sẽ giúp ích cho chúng ta hơn.

  1. Người Vác Lấy Tội Vạ Của Chúng

Ðã nhiều lần chúng ta có dịp đề cập tới các bài ca về Người Tôi Tớ trong sách tiên tri Ysaia. Chúng nằm trong phần II của sách này, được gọi là tác phẩm “Những lời an ủi Israel”. Ðúng hơn, có lẽ chúng đã được thêm vào sau và rất ăn khớp với văn mạch. Là vì trong phần này, sách Ysaia loan báo việc Thiên Chúa sẽ đoái nhìn lại Israel đang đau khổ trong cảnh lưu đày. Người sẽ viếng thăm và giải cứu họ, đưa họ về quê hương và trùng tu lại xứ sở tốt đẹp hơn trước. Trong công việc này, Người sẽ dùng một dụng cụ là một nhân vật mà ta tạm gọi là cứu tinh.

Thoạt đầu có lẽ sách Ysaia chỉ gồm những chương nói như vậy. Nhưng về sau một số bài ca về Người Tôi Tớ đã được đem vào, làm thay đổi khuôn mặt Vị Cứu tinh kia. Viễn tượng này không còn phải là cuộc cứu dân khỏi cảnh lưu đày nữa. Biến cố này trở thành một hiện tượng trước mắt, dẫn tới một thực tại sau này, sâu xa và bao quát hơn. Ðó là việc Thiên Chúa sẽ cứu dân khỏi cảnh đời lầm than trong thời kỳ cánh chung để đưa dân đến một cảnh trời mới đất mới. Nhân vật mà Người sẽ dùng được gọi là Người Tôi Tớ và là Người Tôi Tớ đau khổ. Ngài bị khinh khi và là đồ phế bỏ của loài người (53,3). Ngài đã bị chặt phăng khỏi đất người sống (53,8). Nhưng Yavê đã ái mộ Ngài, đã cho Ngài hồi phục; Ngài sẽ được thấy dòng giống, và sẽ thọ trường niên.

Tất cả những lời tiên tri trên, chúng ta biết đã được thực hiện nơi Ðức Yêsu trong mầu nhiệm Tử nạn-Phục sinh. Nhưng Ysaia không chỉ tiên báo mà còn giải thích. Ông nói rằng chính Ngài vác lấy tội vạ chúng ta và như vậy để ý định của Thiên Chúa được nên trọng. Hai ý tưởng đã được nêu lên để giải thích sự đau khổ của Người Tôi Tớ, hình ảnh của cuộc khổ nạn mà Ðức Yêsu đã chịu. Một đàng, Người sẽ vác lấy tội vạ mọi người. Ðúng như Yoan sẽ giới thiệu: Người là Con Chiên gánh tội trần gian. Người là Chiên Vượt qua. Chiên hy tế của đạo mới. Thiên Chúa đánh phạt tội lỗi chúng ta nơi thân xác của Người vì Người đã xuống thế vì chúng ta và để cứu độ chúng ta.

Nhưng tuy rất hợp lý, lời giải thích này vẫn chưa làm chúng ta thỏa mãn. Thiên Chúa không thể tha bổng cho chúng ta sao? Người không tốt lành đến mức không đòi của lễ đền tội ư? Thế nên phải có một lời giải thích thêm. Ysaia trong bài ca Người Tôi Tớ đã đưa ra lời giải thích này. Nhưng đúng ra là để đưa chúng ta vào sâu hơn trong mầu nhiệm,vì ông viết: Người Tôi Tớ phải chịu cay đắng như vậy là để làm trọn ý Chúa. Các tác giả Tân Ước sau này cũng luôn luôn nói: Ðức Yêsu phải chịu khổ hình thập giá chiếu theo ý nhiệm mầu của Thiên Chúa và để làm trọn các lời Thánh Kinh đã được viết về Người. Như vậy chúng ta có thể biết chắc được rằng chẳng có lời cuối cùng nào giải thích được mầu nhiệm thập giá. Mọi ý kiến thêm vào các lý lẽ Thánh Kinh ở trên chỉ là suy tư thần học để an ủi lý trí loài người một phần nào thôi. Ơn cứu độ dành cho lòng tin. Con người phải có thái độ khiêm cung trước ân ban của Thiên Chúa và các mầu nhiệm của Người.

Nhưng dù không hiểu rõ đường lối siêu việt của Thiên Chúa, chúng ta vẫn nhắm được chủ đích của ý định nhiệm mầu Người. Người dẫn Tôi Tớ Người đi ngang qua thống khổ, không phải để hủy diệt, nhưng để tôn vinh Ngài và để Ngài làm cho nhiều kẻ được nên công chính. Ysaia đã nhìn thấy như thế và các tác giả Tân Ước cũng sẽ luôn luôn nói rằng: Ðức Kitô phải đi qua gian khổ để vào nơi vinh quang và ban ơn cứu độ cho loài người. Sự phục sinh của Ngài đã thực hiện lời Ysaia và các vị tiên tri. Ðó là niềm vui to lớn làm chúng ta quên được những mối u uẩn trên con đường thập giá. Chúng ta không hiểu được mọi chi tiết của con đường này, nhưng như lời Ðức Yêsu nói trong các sách Tin Mừng: người đàn bà sinh nở xong nhìn vào sự sống mới chào đời sẽ quên hết những cơn đau trong lúc lâm bồn. Chúng ta cũng vậy, hãy lấy mầu nhiệm phục sinh chiếu ánh sáng vào mầu nhiệm thập giá để dễ chấp nhận đường lối của Người Tôi Tớ lý tưởng đã đi và đang kêu gọi mọi tôi tớ Thiên Chúa hãy đi vào. Ðó cũng là ý của bài thư Hipri hôm nay.

  1. Chúng Ta Hãy Nắm Giữ Tín Ðiều

Tác giả khuyên chúng ta hãy ngước mắt nhìn vị Thượng tế của đạo ta. Người đã ngang qua các tầng trời. Tức là Người đã phục sinh và lên trời vinh hiển. Chúng ta hãy nắm giữ niềm tin đó để giúp mình đi con đường trần gian này.

Ai phủ nhận đường đời đầy khổ đau và hiểm nguy! Con đường của người tín hữu lại còn nhiều yếu đuối và thử thách. Ý thức tội lỗi và các cám dỗ phủ nhiều mây mù ảm đạm trên đường đời của họ. Chưa kể đến những bắt bớ và nhục nhã vì danh Chúa. Dường như càng giữ luật Chúa, càng muốn nên thánh lại càng bị thiệt thòi và hất hủi. Thánh giá thường là kỷ phần của người công chính.

Sức mạnh nào giúp họ vác được thánh giá mình hằng ngày và dám đi đến chỗ thí mạng mình cho sự thánh thiện, nếu không phải là niềm tin vào Ðức Yêsu đã đi qua thống khổ mà đạt tới vinh quang? Ðứng nơi Người đang ở, Người tỏ ra thông cảm hoàn toàn với những lao nhọc của ta. Hơn nữa những yếu đuối và tội lỗi của mọi người đang được cuộc khổ nạn của Người tẩy xóa trước mặt Thiên Chúa. Loài người hãy dạn dĩ đến với Người để được ở gần ngai ân sủng.

Một niềm tin như vậy, tác giả thư Hipri khuyên chúng ta nắm giữ. Và trong ngày truyền giáo hôm nay, đó cũng có thể là nguồn an ủi lớn cho chúng ta.

Ða số chúng ta biết nhiệm vụ phải góp phần vào việc mở rộng Nước Chúa ở trần gian theo như lời kinh Lạy Cha đọc hằng ngày. Không tha thiết với công việc truyền giáo quả thật là sống ngoài tình thương của Thiên Chúa, vì Người đầy lòng xót thương đến nỗi danh xưng rất đẹp lòng Người là tước hiệu Cứu Chúa. Người là Thiên Chúa chúng ta, nhưng là Thiên Chúa cứu độ, không những luôn suy nghĩ kế hoạch cứu thế mà còn thi hành khi ban chính Con Một Người chịu chết để cứu vớt trần gian. Lòng Thiên Chúa như vậy và sự sống của Người như thế, thì làm sao người ta có thể chia sẻ tấm lòng và sự sống của Người mà không tha thiết với phần rỗi anh em? Chúng ta phải “khao khát các linh hồn”, tức là muốn ơn cứu độ được mọi người nhận lấy. Nhưng chúng ta dường như bất lực… Vì thực tế chúng ta quá lam lũ khổ sở ở trần gian.

Huấn giáo của Lời Chúa hôm nay không thích hợp để an ủi chúng ta sao? Con đường cứu thế phải đi qua gian khổ. Chúng ta đang đi con đường khổ sở trần gian, thì chúng ta có khả năng cứu thế. Trước hết bằng việc thánh hóa các khổ đau của mình, tức là thanh luyện mình qua các thống khổ hằng ngày. Hữu xạ tự nhiên hương. Sự hiện diện của một người thánh thiện tự nó đã có sức thu hút và thuyết phục. Rồi chúng ta có thể dâng cuộc đời khổ sở nhưng đạo đức làm của lễ đền tội thế gian và cầu xin ơn cứu độ cho các linh hồn.

Chúng ta còn có thể tham gia vào các khổ đau của những tông đồ truyền giáo khi giúp đỡ họ về vật chất và tinh thần. Những giúp đỡ này cũng gây thêm cho chúng ta ít nhiều đau đớn, nhưng là những đau đớn dành cho người tôi tớ vác tội vạ trần gian. Cuối cùng sẽ quý hóa biết bao khi có những tâm hồn thấy cuộc đời tông đồ vất vả, nhục nhã, khó khăn mà vẫn tình nguyện đi vào và quyết đi cho đến cùng! Những người ấy thật sự phải nghe được lời Ðức Yêsu nói trong bài Tin Mừng hôm nay, suy nghĩ được gương Người Tôi Tớ trong sách Ysaia và nhất là nắm giữ được niềm tin như thư Hipri khuyên bảo. Chúng ta hết thảy hãy ghi những lời Thánh Kinh ấy vào lòng và cố gắng đem ra thi hành, để đường đời chúng ta đi sẽ là con đường cứu thế và truyền giáo mưu được ơn cứu độ và hạnh phúc cho nhiều người, qua các hy sinh xả kỷ của những người tôi tớ Chúa.

Chúng ta hãy tuyên xưng niềm tin như vậy. Và nhất là hãy cử hành mầu nhiệm Người Tôi Tớ đau khổ của Thiên Chúa, để muốn bước theo Người và đồng hóa với Người trong công cuộc cứu thế.

 

5.      Làm đầy tớ

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

Đọc Tin Mừng, ta thấy dường như duy chỉ có trường hợp hai anh em nhà Giêbêđê (hay chính người mẹ của hai ông này) đến xin Chúa Giêsu cho xí phần tả hữu khi Chúa được vinh quang nghĩa là khi Chúa làm vua, theo mộng tưởng của hai vị. Dù rằng mười vị còn lại có biết chuyện này, vì các vị đã tức tối ra mặt, nhưng không thấy vị nào mon men đến xin xỏ Thầy một chức vị nào đó cho sau này. Có lẽ lý do là đây: Điều xin thì chưa chắc được nhưng điều không xin thì lại phải bị gánh chịu. “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống, phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”(Mc 10,39-40).

Phen này đúng là thua to, hai vị nhà Giêbêđê im hơi lặng tiếng đủ nói lên tâm trạng của các vị. Thực ra không phải hai vị mà cả nhóm Mười Hai đã lầm. Cái lầm căn bản của cả nhóm đó là mong sẽ được có chức vị cao trọng ngoài xã hội, và dĩ nhiên sẽ được hưởng vinh hoa phú quý khi đi theo Thầy Giêsu. Vị tôn sư người Nagiarét đủ đầy quyền năng trong lời nói lẫn hành động hẳn phải là Đấng Thiên Sai, nếu không thì cũng là một đại ngôn sứ. Với uy quyền cả thể như thế, chắc chắn Người sẽ giải phóng dân tộc mình khỏi ách nô lệ ngoại bang và sẽ được phong làm vua. Ngay cả trước khi Chúa về trời thì các ngài cũng còn hỏi: “Thưa Thầy, có phải bây giờ là lúc Thầy khôi phục vương quóc Israel không?” (Cvtđ 1,6).

Cả nhóm Mười Hai lầm thì cũng dễ hiểu vì các ngài chưa được nghe lời khẳng định của Thầy trước mặt Philatô rằng Người là vua nhưng nước Người không thuộc về thế gian này (x.Ga 18,33-38). Tuy nhiên cần khẳng định với nhau điều này: nơi con người, song hành với tính xã hội thì còn có bản năng thống trị. Ở giữa một tập thể, người ta có khuynh hướng tìm cách làm đầu kẻ khác. Dẫu sao đi nữa, làm dầu con tôm cũng hơn là làm đuôi con rồng. Dù lớn hay bé, khi đã được làm đầu thì không chỉ sẽ được kính trọng mà còn được cung phụng. Vì thế, chúng ta không mấy ngạc nhiên khi thấy đây là một chủ đề thường xuyên trở thành nguyên cớ tranh luận giữa tập thể nhóm Mười Hai.

“Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em, ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10,44). Lời khẳng định của Chúa Giêsu là một mệnh lệnh. Cả nhóm Mười Hai hôm ấy và cả chúng ta hôm nay, chẳng ai chối cãi hay biện bạch. Thế nhưng, thực tế minh chứng cho thấy chúng ta vẫn còn để mệnh lệnh ấy trên giấy cách nào đó. Không riêng gì người theo Chúa, quý vị nắm trọng trách ngoài xã hội cũng khẳng định rằng chính quyền là đầy tớ nhân dân. Thế mà chuyện đầy tớ ăn trên ngồi trước, còn các ông chủ thì khép nép tìm các hạt cơm thừa; đầy tớ thì chễm chệ ghế salon nệm dày, sở hữu nhà cao cửa rộng còn ông chủ lại vất vưởng trong các căn chòi ọp ẹp…đã trở thành “chuyện tử tế” của một thời và hình như là của mọi thời, nhiều nơi.

Có thể có nhiều lý do để biện minh về việc các ngài đầy tớ sở hữu cũng như sử dụng các phương tiện sang trọng. Các vị ấy cần có phương tiện thích ứng để làm đầy tớ tốt hơn, hữu hiệu hơn. Các vị ấy không chỉ cần có tác phong tương xứng, mà còn cần có những cái bên ngoài như y phục, đồ dùng, phương tiện đi lại…cách nào đó cho phù hợp với vai vế hay chức vụ đảm nhận mà thôi (noblesse oblige). Đây không phải là lời biện minh, nhưng là lời giải thích khá hữu lý và hợp tình. Thế thì đâu là dấu chỉ một người làm đầu đang thực sự làm đầy tớ?

Chúa Giêsu đã minh nhiên cho chúng ta một dấu chỉ bằng chính cuộc sống, cung cách hành động của Người: “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Có thể nói việc hiến dâng mạng sống làm giá chuộc cho muôn người là bằng chứng của việc làm đầy tớ. Tác giả thư Do Thái triển khai việc làm đầy tớ qua hình ảnh vị Thượng Tế biết “cảm thương” nỗi yếu hèn của nhân loại (x. Dt 4,13). Ngôn sứ Isaia lại tiên báo việc làm đầy tớ bằng hình ảnh người tôi tớ trung thành chịu đau khổ để gánh lấy hậu quả tội lỗi con người (x. Is 53,10-11).

Số người được làm đầu con rồng trong Giáo Hội hay ngoài xã hội quả là không nhiều, nhưng số người làm đầu con tôm, tôm to, tôm vừa, tôm bé hay các loại tép thì đếm không xuể. Có một hoặc hai người thuộc quyền của chúng ta, dưới quyền của chúng ta, trong trách vụ của chúng ta thì chúng ta đang được đặt làm đầu. Đó là đàn chiên chúng ta đang chăn dắt, đó là con cái mà ta đã sinh thành, đó là nhóm học sinh ta đang dạy dỗ, đó là những người cô thân, bé phận ngoài xã hội hay trong Giáo Hội, đó là những người yếu đuối, tội lỗi đang cần chúng ta nâng đỡ, dìu dắt, chỉ lối, dẫn đường… Như thế, có thể nói hầu hết chúng ta đã được đặt làm đầu. Đã làm đầu thì phải làm đầy tớ.

Lịch sử cho thấy rằng những người “làm đầu” ngoài xã hội cũng như trong giáo hội, nếu xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn hay đã từng kinh qua nhiều gian khổ thì thường dễ “làm đầy tớ” cách thực sự và đúng nghĩa hơn. Quả thật, để thực sự làm đầy tớ, tiên vàn cần phải có sự đồng cảm, đồng thân, chung phận một cách nào đó. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta khi “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl 2,6-11).

Xã hội có ngày càng công bằng, văn minh, thinh vượng hay không, giáo hội có ngày càng tinh tuyền, thánh thiện hay không chắc hẳn phụ thuộc rất nhiều vào việc những người đứng đầu có thực sự sống tôn chỉ “làm đầy tớ nhân dân”, “làm tôi tớ của đàn chiên” hay không. Mong sao tôn chỉ ấy không dừng lại ở khẩu hiệu hay ở các bài phát biểu hùng hồn, nhưng được hiện thực hóa bằng việc làm và thái độ sống của những người làm đầu. Ngoài việc các đầy tớ phải hiến dâng mạng sống vì chủ, thì có thể nói một trong những tiêu chí để thẩm định các vai vế chủ – tớ có chính hiệu không, thì hãy xem các ông chủ tức là người dân, các con chiên, có được phép và được quyền mạnh dạn mở miệng nói lên suy nghĩ, nhận định của mình hay trình bày các nhu cầu chính đáng của mình trước các vị “đầy tớ” hay không, và dĩ nhiên không thể thiếu sự chân thành lắng nghe của các vị này.

 

6.      Uống chén Thầy

(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)

Sách Giáo Lý Thêm Sức cho các em cấp 2, bài 12 có câu hỏi thưa số 31:

  1. Vì sao con Thiên Chúa xuống thế làm người?
  2. Con Thiên Chúa xuống thế làm người vì bốn lẽ này:

– Một là để cứu chuộc ta khỏi tội lỗi,

– Hai là để tỏ cho ta biết tình yêu của Thiên Chúa,

– Ba là để làm mẫu mực cho ta sống thánh thiện,

– Bốn là để ta được kết hợp với người mà trở nên con cái Thiên Chúa.

Sau khi các em đọc câu hỏi thưa 3 lần, cô Giáo Lý Viên hỏi: “Có em nào biết chữ “chuộc” nghĩa là gì không?” Một em nhanh nhẹn giơ tay xin trả lời: “Thưa cô, chuộc là xin lại. Ví dụ như mình mất cái điện thoại, biết người lượm được, tới xin lại”. “Đúng chưa các em”. “Thưa cô chưa đúng. Tới xin không chắc gì người ta cho lại. Phải đưa tiền chuộc cô ạ!”

…Con người sa ngã phạm tội phản nghịch Thiên Chúa, con người thuộc về Satan, sự dữ, bị Satan làm chủ, thống trị. Thiên Chúa Cha “chuộc tội” cho thiên hạ, tức là, cho con người tái thuộc về Thiên Chúa, thuộc quyền sở hữu của Thiên Chúa, trở lại làm con Thiên Chúa không bằng tiền, không bằng vàng, không bằng ngai tòa Thiên Chúa cao sang quyền quí, nhưng bằng chính Con Một Mình, Ngôi Hai Thiên Chúa, là Đức Giêsu Kitô. Ngài đến để yêu thương và phục vụ cho đến chết.

Cảm ơn cô Giáo Lý Viên.

Vâng, bài đọc 1 hôm nay, Ngôn Sứ Isaia loan báo về Đức Giêsu: “Chúa đã muốn hành hạ người trong đau khổ Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ thấy một dòng dõi trường tồn, và nhờ người, ý định của Chúa sẽ thành tựu” (Is 53, 10 – 11).

Chúa Giêsu là Lễ Vật Đền Tội đẹp lòng Thiên Chúa Cha nhất, nhờ lễ vật ấy, mà Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Cha mở ra, đón nhận lại con người tội lỗi đã được rửa sạch nhờ máu Con Của Ngài.

Chúng ta, những Kitô hữu, được ghi danh vào “dòng dõi trường tồn” nhờ ơn cứu chuộc của Chúa Giêsu Kitô. Và khi đã được ghi tên mình vào danh sách ấy, hẳn phải cộng tác vào Ơn Cứu Chuộc bằng việc noi gương yêu thương phục vụ của Chúa. Đó là đức tin của chúng ta. Hơn nữa phải “giữ vững việc tuyên xưng Đức Tin của chúng ta”, nhờ đức trông cậy, vì lòng khiêm tốn nhận biết mình mỏng dòn yếu đuối (x. Dt 4, 14 – 16).

Ai dám nói mình không hèn mọn yếu đuối trước những cám dỗ của lòng kiêu ngạo về quyền bính, để được phục vụ hơn là phục vụ? Người càng chiều theo những khát khao phù du của lòng kiêu ngạo, càng chứng tỏ sự yếu đuối về Đức Tin về Đức Cậy và cả về Đức Kính Mến Thiên Chúa.

Chuyện hai anh em nhà Dêbêđê: “Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy” là chuyện thường tình rất con người của chúng ta.

Chúng ta có khác gì? Đôi khi còn tệ hơn nữa. Tệ hơn ở chỗ, không xin nhưng dùng mọi thủ đoạn hạ bệ người khác mà đưa mình lên cao. Chuyện ở đời, người ta thanh trừng nhau để kiếm một địa vị xã hội đã đành, trong Giáo Hội, tâm trạng khắc khoải bồn chồn vì sợ ảnh hưởng của người khác hơn mình vẫn cứ đeo bám.

Giáo Sĩ phải được trọng vọng, được kính nể hơn Giáo Dân, bất kể cuộc sống của ngài như thế nào đi nữa. Linh Mục phải là người lãnh đạo, là người quyết định tối hậu mọi chuyện trong Giáo Xứ, không phải Giáo Dân. Giáo dân biết gì? Bởi vậy có Linh Mục đã từng tuyên bố không cần Hội Đồng Giáo Dân cho đông người, chỉ cần hai người biết nghe gì làm nấy là đủ.

Cái ảo tưởng quyền bính thế gian đã xâm nhập vào Giáo Hội từ lâu rồi, đến mức Giáo Dân phải mang lấy những cái ách nặng nề không đáng có, rồi dù có thấp cổ bé miệng cách mấy cũng phải la toáng lên: Chúa ơi, đây là thời kỳ thống trị của Giáo Sĩ, thời kỳ Giáo Sĩ trị. Thời kỳ ấy có vẻ như vẫn còn kéo dài tới hôm nay!

Không dừng lại ở các Giáo Sĩ, mà bệnh quyền bính còn lây lan sang những Giáo Dân cộng tác, gần gũi với Giáo Sĩ, học đòi cách ăn cách nói cách ứng xử quyền bính mà xem thường kẻ khác cách quá đáng.

Một ông mới được cha sở chỉ định làm Trùm một họ lẻ, đã có thể đập bàn quát tháo với anh em rằng: “Tôi đã bảo không thể là không thể”, hoặc hù dọa bà con rằng: “Sao? Có muốn chôn trong Đất Thánh không đấy?”

Tội nghiệp cho ai bây giờ?

Theo tôi thì thật là tội nghiệp, thật là đáng thương cho những người tưởng mình có quyền bính và dùng quyền bính ấy khiến cho mọi người phải vâng dạ cả những chuyện sai trái, mọi người phải phục vụ mình xứng đáng.

Chúa Giêsu nào muốn cho các môn đệ của Ngài có lối hành xử như vậy? Có Chủng viện nào có đường lối đào tạo linh mục như vậy? Chẳng là vì con người ấy chỉ tu thân cho đến lúc đạt được chức linh mục thôi sao? Đạt được rồi, không cần tu thân nữa sao?

Chúa Giêsu trả lời cho người xin địa vị, quyền bính mà không xin hiến mình phục vụ rằng: “Các con không biết các con xin gì. Các con có thể uống chén Thầy sắp uống và chịu cùng một phép rửa Thầy sắp chịu không?”

“Uống chén Thầy sắp uống” hẳn không phải uống chén quyền bính, nhưng là uống chén yêu thương, phục vụ, và yêu thương, phục vụ cho đến chết.

Năm Đức Tin mở ra, để mọi người nhìn lại mà sám hối cải thiện cách sống đức tin của mình. Tin vào Chúa Giêsu là phải sống như Chúa Giêsu đã sống. Nếu không sống như Chúa Giêsu đã sống yêu thương phục vụ, thì việc chúng ta rao giảng Ơn Cứu Chuộc của Thiên Chúa trở nên mất tác dụng, đôi khi còn phản tác dụng và trở nên trò cười hổ danh Thiên Chúa của chúng ta.

Tin Mừng hôm nay thiết thực mời gọi cách sống Đức Tin của những người có trách nhiệm trong Giáo Hội, kể cả những Giáo Dân được tham dự vào những công việc của Giáo Hội:

“Các con biết rằng những người được coi là lãnh tụ các nước, thì sai khiến dân chúng như ông chủ, và những người làm lớn thì lấy uy quyền mà trị dân. Còn các con không như thế. Trái lại, ai trong các con muốn làm lớn, thì hãy tự làm đầy tớ anh em. Và ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người” (Mc 10, 42 – 45).

Lạy Chúa Giêsu, Đấng Cứu Chuộc chúng con bằng lòng yêu thương phục vụ cho đến chết. Xin cho chúng con biết cộng tác vào ơn cứu chuộc bằng lòng yêu thương phục vụ hết mọi người. Amen.

 

7.      Bài học về sự phục vụ

(Suy niệm của Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

Chạy đua tranh giành quyền lực, địa vị là điều thường thấy trong thế gian ở mọi nơi mọi thời. Đó đây luôn có người tìm mọi cách để có được địa vị hay nắm được quyền hành trong xã hội, từ nhà nước, đến quyền lực của quân vương, lãnh chúa phong kiến, tới quyền lực của quốc hội, các đảng phái và của các tổ chức khác. Để đạt được mục tiêu, người ta sẵn sàng dùng mọi phương tiện, kể cả những phương tiện xấu nhất. Các môn đệ Chúa cũng không nằm ngoại cái đời thường ấy. Họ ước muốn ngồi trong hàng lãnh đạo cao nhất trong vương quốc vinh quang của Chúa Giêsu nghĩa là, khi Chúa Giêsu chiến thắng quân La mã, tái lập Vương quốc Israel. Lời họ cầu xin với đầy vẻ tự tin cho thấy họ theo đuổi cái hoàn toàn trần thế về đấng Messia.

Sau khi Chúa Giêsu loan báo cuộc Khổ nạn lần thứ nhất (x. Mc 8, 31-33) rồi lần thứ hai (x. Mc 9, 30-32), bài học về tư cách của người đứng đầu Chúa dành cho các môn đệ (x. Mc 9, 35-37), cách sử dụng danh Chúa trong cộng đoàn tín hữu dù là môn đệ hay không (x. Mc 9, 38-40); phần thưởng dành cho những ai sống xứng với danh Kitô hữu của mình (x. Mc 9,41); và đương nhiên kẻ làm cớ vấp phạm cho người khác, nhất là trẻ em sẽ bị trừng phạt thích đáng (9,42), Chúa Giêsu loan báo tiếp cuộc thương khó lần thứ ba (x. Mc 10,32-34). Hôm nay, Chúa Giêsu cho các ông một bài học dài về tư cách của người làm lớn, người có quyền và nhấn mạnh đến sự phục vụ cần phải có đối với các môn đệ Chúa.

Chúng ta tiếp tục cùng với các môn đệ đi theo Chúa Giêsu lên Giêrusalem, và chuyện “ai là người lớn nhất” trong họ vẫn đang được bàn tán, cho dù Chúa Giêsu nói cho họ biết là trong số họ, người lớn nhất là người sẵn sàng làm “tôi tớ cho anh em”. Bài học đắt giá như thế, các ông chưa thuộc lòng, tâm trí các ông vẫn không thay đổi là bao, chính vì lẽ ấy mà dọc đàng các ông vẫn còn tham danh vọng, quyền hành và địa vị dẫn đến cuộc cãi vã dọc đường (x. Mc 9, 34), tệ hơn nữa Giacôbê và Gioan đến xin Chúa Giêsu cho được một ngồi bên tả, một ngồi bên hữu Thầy (x. Mc 10, 35). Thầy vừa loan báo cuộc thương khó lần thứ ba xong thì Giacôbê và ông Gioan lại nghĩ đến ánh vinh quang đang đợi chờ Giêrusalem với Chúa Giêsu. Hai ông hẳn đã thống nhất với nhau giữ lại cho mình những vị thế quyền cao chức trọng, là sẽ được ngồi chỗ danh dự sau này.

Câu trả lời của Chúa Giêsu thật mạnh mẽ: “Ai trong các con muốn làm lớn nhất thì hãy tự làm đầy tớ anh em” (Mc 10,44); Và Người nói tiếp: “Cũng vậy, Con Người đến không phải để được người ta hầu hạ, nhưng để hầu hạ và hiến mạng sống cho nhiều người” (Mc 10, 45). Chúng ta không trách hai ông, bởi trên đường đi với Chúa Giêsu, hai ông đã thấy tận mắt Chúa làm nhiều phép lạ và lôi cuốn dân chúng. Hai ông nghĩ rằng khi lên Giêrusalem, Chúa Giêsu sẽ được tôn vinh là vua, việc ngồi bên hữu bên tả trên ngai vinh quang, quyền thế là có thể. Chắc các ông không nghĩ đến một quền lực nào có thể lật đổ được Chúa Giêsu và đưa Người đến cái chết. Điều Giacôbê và Gioan nài van làm Chúa Giêsu có dịp một lần nữa nhấn mạnh: ai muốn theo Người thì sẽ làm “nô lệ cho tất cả” (Mc 10,44). Hình ảnh Chúa Giêsu dùng để minh hoạ cho giáo huấn của Người thật rõ ràng. Cũng như Con Người tự nguyện làm nô lệ cho mọi người, như khi quì xuống rửa chân cho các môn đệ (Ga 13,1-17), và chết bằng khổ hình thập giá dành cho các nô lệ, người kitô hữu bắt chước Chúa Giêsu cũng phải trở nên người phục vụ anh em.

Lời Chúa Giêsu giúp chúng ta hiểu rằng, Nước Thiên Chúa không thuộc về thế gian này, chỉ gồm những người tranh giành quyền lực bằng bất cứ phương tiện nào, hay những kẻ tìm mọi cơ hội để lợi dụng. Trái lại, trong Giáo hội, quyền hành là để phục vụ. Chính Người nói với chúng ta: “Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban sự sống làm giá cứu chuộc cho mọi người” (Mc 10,45).

Hôm nay, chúng ta nhớ đến tất cả các linh mục, nam nữ tu sĩ và những người dấn thân loan báo Tin Mừng. Nhiều người đang phải đối đầu với đau khổ, bao lực, bách hại, diệt chủng, đói kém. Tất cả chúng ta làm nên một Giáo hội. Trong chính thân thể Chúa Kitô, khi một chi thể đau đớn thì toàn thân đều mang lấy hậu quả. Sứ mạng của Giáo Hội trước tiên là phục vụ, vì thế Giáo hội mời gọi mỗi người chúng ta hãy dấn thân hơn nữa trong việc cầu nguyện, chia sẻ và loan báo Đức Giêsu Kitô. Amen.

CHIA SẺ BÀI VIẾT
TIN LIÊN QUAN

THÔNG BÁO

VĂN KIỆN GIÁO HỘI

LIÊN KẾT NHANH

Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Cổng Thông Tin Điện Tử Giáo Phận Xuân Lộc
Thánh Lễ Trực Tuyến
Vatican News
Bài Ca Mới
Đài Phát Thanh Chân Lý Á Châu
Tin Vui Xuân Lộc
Ban Văn Hoá. Gp Xuân Lộc
Youtube Gp. Xuân Lộc