Hồi ký Đồ Gốm - Chương 8 : BÀI GIẢNG LỄ VÀ NHỮNG CÂU CHUYỆN HAY
Chương VIII
BÀI GIẢNG LỄ
VÀ NHỮNG CÂU CHUYỆN HAY
Sứ mệnh của linh mục được thực hiện qua ba sứ vụ: giảng dạy, thánh hóa và cai quản cộng đoàn dân Chúa. Trong ba sứ vụ ấy, có lẽ sứ vụ giảng dạy, nhất là trong Thánh Lễ là khó khăn nhất. Dưới đây là một vài suy tư và kinh nghiệm tôi muốn chia sẻ về sứ vụ này.
1. Yếu tố nòng cốt của bài giảng Lễ
Thời gian còn là linh mục trẻ, khi phải soạn bài giảng, tôi cũng bị lôi cuốn theo trào lưu tìm kiếm những tư tưởng thần học mới đang “ăn khách” mà ngày nay người ta nói là “hot”, những câu trích dẫn nổi tiếng, văn vẻ, bóng bảy; tôi cũng lục lọi và góp nhặt những câu chuyện vui làm khán giả thích thú và bài giảng của mình thêm hấp dẫn, lôi cuốn.
Tôi để ý quan sát những vị giảng thuyết danh tiếng để học hỏi và bắt chước. Trong số các vị danh tiếng, có các vị người Việt Nam được nhiều người tán dương và khen ngợi, như Đức Tổng Giám mục Philipphê Nguyễn Kim Điền, Đức Hồng y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận, cha Phêrô Nguyễn Văn Khảm (nay là Giám mục giáo phận Mỹ Tho)… Mỗi vị có những điểm đặc sắc riêng và tôi muốn bắt chước các ngài, nhưng không được mà nhiều khi còn lộ thêm cái dở của mình. Lúc đó, tôi nhớ đến câu nói của nhạc sĩ Franz Liszt, bạn tâm giao của nhạc sĩ Ludwig van Beethoven. Franz Liszt rất hâm mộ những dòng nhạc độc đáo và tuyệt diệu của Ludwig van Beethoven, nên ông muốn học theo, nhưng bắt chước không được. Sau cùng ông nói: “Trước đây, tôi muốn trở thành một Beethoven thứ hai, nhưng bây giờ tôi hài lòng là Franz Liszt”.
Trong thời gian ở Tiểu Chủng viện Bùi Chu, rồi năm Triết học tại Đại Chủng viện Sài Gòn và suốt thời gian du học và sau đó làm việc tại Rôma, tôi đã tham dự rất nhiều tuần Tĩnh tâm, nghe bao nhiêu bài giảng Lễ với nhiều ý tưởng hay, mới mẻ làm tôi “sáng mắt” ra, nhưng không có tuần Tĩnh tâm nào đánh động tâm hồn và làm tôi nhớ mãi như tuần Tĩnh tâm nhớ đời của cha Quý, dòng Chúa Cứu Thế, người gốc Canada tôi đã có dịp ghi lại ở trên.
Qua những bài giảng Tĩnh tâm của cha Quý, tôi nhận ra sức mạnh các bài giảng của ngài không hệ tại ở những tư tưởng thần học hợp thời hay những lý lẽ khôn ngoan loài người, nhưng hệ tại ở những xác tín về Chúa, ở những hoa trái mà cha góp nhặt từ những kinh nghiệm về Chúa của chính ngài và của những người thánh thiện ngài đã gặp. Bài giảng của cha Quý tuy cũng có những tư tưởng thần học, nhưng có điều gì đó làm cho người nghe không dừng lại ở tư tưởng mà vươn lên, vượt qua tư tưởng để nhận ra và chạm đến thực tại mầu nhiệm là chính Chúa mà tư tưởng muốn diễn đạt.
Những điều cha Quý giảng không có gì mới mẻ, vẫn chỉ là những tư tưởng đã được nghe, hay đã đọc được đâu đó, nhưng nơi bài giảng của cha, những điều “cũ” đó lại rất “mới mẻ” và sống động, có sức lay chuyển, cứ như là một dòng điện chạy từ tim, xuyên qua đầu, tới tứ chi và toàn cơ thể. “Cái mới” của những lời cha nói trong bài giảng không phải là những ý tưởng, nhưng là sức mạnh tỏa ra qua những ý tưởng, phát xuất từ một tâm hồn đã thực sự gặp Chúa. Tôi liên tưởng tới những dây bóng điện và những ngôi sao người ta trang hoàng vào mùa Giáng Sinh. Những bóng điện, những ngôi sao đó vẫn im lìm, nhưng khi được nối vào dòng điện, chúng lóe sáng lấp lánh muôn sắc. Cũng thế, những ý tưởng vẫn thường nghe, nhưng phát xuất từ miệng của cha Quý, xem ra có một sức mạnh lay động tâm hồn. Cha Quý có thể lặp lại lời của thánh Phaolô: “Tôi biết Đấng tôi tin tưởng” (2Tm 1,12). Cha nói về Chúa Giêsu như thể nói về Đấng cha đã gặp và đã biết. Cha đúng là người rao giảng Tin Mừng mà người thời đại mong chờ, như lời của thánh Giáo hoàng Phaolô VI nói trong Tông thư về việc rao giảng Tin Mừng trong thế giới ngày nay: “Thế giới kêu nài những người rao giảng Tin Mừng hãy nói về một Thiên Chúa mà họ đã biết và tiếp xúc như thể họ đã nhìn thấy Đấng Vô hình” (x. Dt 11, 21)” (EN 76).
Những bài giảng Tĩnh tâm năm ấy của cha Quý, mỗi bài giảng chỉ xoay vần chung quanh một đến hai ý tưởng. Nhờ đó, chúng tôi dù còn trẻ cũng có thể hiểu và nhớ mãi để áp dụng vào cuộc sống. Một bài giảng trình bày nhiều ý tưởng hay, người ta sẽ cho là bài giảng hay, nhưng ít người nhớ một điểm cụ thể để áp dụng cho cuộc sống. Điều tôi nói ở đây là về bài Chia sẻ Lời Chúa trong Thánh Lễ chứ không phải bài trình bày Thần học - Mục vụ trong các buổi Thường huấn. Các bài trình bày Thần học – Mục vụ có mục đích và đặc tính riêng.
Ngoài ra, để một ý tưởng có sức mạnh truyền đạt điều mình muốn nói, theo nhận xét của tổng thống Richard Nixon trong cuốn sách “Six Crisis” nói về sáu cuộc khủng hoảng trong cuộc đời chính trị của ông, cần phải hội đủ ba yếu tố sau đây:
- Đúng lời: một ý tưởng sẽ có sức mạnh khi được diễn tả qua từ ngữ chính xác và rõ ràng, không để người ta có thể cắt nghĩa nhiều cách khác nhau. Do đó, cần chọn lựa từ ngữ cẩn thận, tránh những từ ngữ mơ hồ hay có hai nghĩa;
- Đúng lúc: cần chọn đúng thời điểm, đúng hoàn cảnh. Điều muốn nói có thể đúng, nhưng sẽ không được đón nhận nếu thời điểm và hoàn cảnh không thích hợp;
- Đúng cách: thái độ và tâm tình lúc truyền đạt ý tưởng cũng hết sức quan trọng. Những cách thức lạnh nhạt, buồn tẻ, bực tức, kiêu ngạo, không thành thực sẽ làm cho người nghe khó đón nhận điều được thông truyền.
Sau cùng, trong các bài giảng, cha
Quý kể nhiều câu chuyện, đa số là những câu chuyện khởi xuất từ kinh nghiệm sống
và chứng tá có thật. Những câu chuyện như thế giúp cho những tư tưởng cao siêu
và những thực tại mầu nhiệm thiêng liêng trở nên rõ ràng và gần gũi với người
nghe hơn.
Tôi đã bắt chước cách thức của cha Quý trong việc giảng dạy của mình, khi xen lẫn trong các bài giảng, tôi thường hay trích đọc những mẩu chuyện giúp diễn tả tư tưởng thiêng liêng hay nếp sống mà Tin Mừng đòi hỏi. Điều này tôi làm còn có lý do khác là vì tôi không biết dùng những từ ngữ hoa mỹ, cũng không thuộc những áng văn thơ nhiều người biết giúp người nghe cảm và hiểu được những ý tưởng cao siêu. Tuy nhiên, những câu chuyện hay và những kinh nghiệm sống có thể giúp chiếu soi cho tư tưởng thần học cao siêu và những thực tại thiêng liêng sâu sa không có nhiều.
Dầu sao, tôi không lệ thuộc vào các câu chuyện hay và nhiều ý nghĩa. Những tư tưởng hay và những câu chuyện ý nghĩa, nếu không được sử dụng bởi tâm hồn đã được Chúa đụng chạm cũng có thể trở thành một cản trở vì làm cho người nghe chỉ dừng lại ở ý tưởng hay hoặc ý nghĩa của câu chuyện mà không giúp cho người nghe vươn lên tới Chúa.
Đối với tôi, điều tối quan trọng của bài giảng là làm cho người nghe cảm nghiệm được đôi chút “bóng dáng” của Chúa và những đòi hỏi tuy khó khăn, nhưng hấp dẫn của Ngài, phần còn lại là việc của Chúa Thánh Thần. Do đó, Lời Chúa được chia sẻ là lời đã được lắng nghe. Mầu nhiệm được giới thiệu là mầu nhiệm đã được chiêm ngắm, được yêu mến và được dõi theo (Thánh Đaminh). Vì vậy, bài giảng Lễ cần phải được chuẩn bị trong tư thế cầu nguyện: trí suy gẫm trong khi lòng thầm thĩ nguyện cầu: “Lạy Chúa, Chúa muốn con nói gì cho cộng đoàn này?” Đây cũng chính là tâm tình của thánh Phaolô khi ngài nói với tín hữu giáo đoàn Côrintô: “Thưa anh em, khi tôi đến với anh em, tôi đã không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu mà loan báo mầu nhiệm của Thiên Chúa. Vì hồi còn ở giữa anh em, tôi đã không muốn biết đến chuyện gì khác ngoài Đức Giêsu Kitô, mà là Đức Giêsu Kitô chịu đóng đinh vào thập giá. Vì thế, khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa.” (1Cr 2,1-5).
2. Những câu chuyện hay
Dưới đây là một số câu chuyện tôi đã dùng nhiều lần để truyền đạt ý nghĩa thiêng liêng và sứ điệp mà tôi muốn thông truyền. Tôi dùng những câu chuyện này cũng vì các tác giả có khả năng diễn đạt văn chương lưu loát để truyền đạt cách rõ ràng và mạch lạc những sứ điệp tôi muốn trình bày. Tôi xin hết lòng cám ơn các tác giả trong đó, có vị không phải là người Công giáo, vì nhờ tài năng và kinh nghiệm của các vị, tôi có thể truyền đạt được những kinh nghiệm thiêng liêng mà tôi không làm được trong khả năng giới hạn của mình.
a) Con hy vọng ngày mai mẹ không phải khóc
Câu chuyện của bạn trẻ Thành Nam (19 tuổi, HN) giúp tôi diễn tả sứ điệp về:
- Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đối với những con người tội lỗi: chấp nhận chịu đau khổ và kiên nhẫn chờ đợi để cảm hóa người tội lỗi,
- Khả năng thực hiện sứ mệnh là sứ giả của Lòng Chúa Thương Xót,
- Lòng thương xót có sức cảm hóa và thay đổi những con người tội lỗi.
* * *
Con không biết ngày mai là “Ngày của Mẹ” nếu không vô tình nhìn thấy tấm biển quảng cáo ở trước một quán cà phê ngoài phố. Và con cũng chợt nhận ra rằng con cũng không hề biết ngày sinh nhật của mẹ…, con cũng chưa bao giờ mua tặng mẹ được một bông hoa hay nói lời chúc mừng mẹ. Con đứng trước cửa nhà suốt hai tiếng đồng hồ mà không dám nhấn chuông. Con rất muốn gặp mẹ, gặp bà và các em nhưng không có đủ can đảm.
Nếu gặp mọi người chắc ngày mai con sẽ không thể nào đi vào miền nam và bắt đầu lại một cuộc sống mới như đã dự định. Vì con biết chắc chắn mẹ sẽ giữ con lại bằng rất nhiều nước mắt. Nhưng nếu ở lại đây, gặp gỡ những con người cũ, môi trường cũ, con không biết liệu mình sẽ còn dính vào những chuyện gì và gây ra bao nhiêu rắc rối nữa.
Một năm trước đây, vào ngày này, chắc mẹ đang đi tìm con ở khắp các hàng điện tử và nhà mấy thằng bạn. Còn con thì đang say sưa, lê lết ở hàng karaoke vì lúc đó con cảm thấy rất chán ghét gia đình mình. Tại sao bố bỏ nhà đi mà không ai nói cho con biết? Con có cảm giác như không ai tôn trọng mình, gạt mình ra khỏi gia đình. Mãi về sau con mới biết mẹ giấu con vì không muốn ảnh hưởng đến kì thi tốt nghiệp của con. Nhưng lúc đó con như một thằng điên chỉ biết oán trách, gây sự với tất cả mọi người. Con đã nói rất nhiều thứ bậy bạ và hỗn láo với mẹ. Tại sao mẹ không cho con một cái tát ngay lúc ấy để con có thể hiểu ra mọi chuyện mà mẹ chỉ khóc?
Con cũng không hề biết mẹ đã phải nhịn nhục, khổ sở như thế nào khi đến nhà người ta xin xỏ, để họ không báo chuyện con đánh nhau lên nhà trường. Bố bỏ đi, một mình mẹ phải chịu bao nhiêu vất vả và những lời xì xào bàn tán của mọi người, rồi cả sự mất dạy, hỗn láo của con. Tại sao mẹ không nói tất cả mọi chuyện với con mà mẹ chỉ khóc? Bố và con, hai người đàn ông trong gia đình nhưng lại là hai người tồi tệ nhất đã lấy đi bao nhiêu nước mắt của mẹ, đã khiến mẹ phải chịu bao khổ sở.
Con cứ trượt dài từ sai lầm này đến sai lầm khác và để mẹ phải đi đằng sau gánh chịu mọi hậu quả. Ngày con bỏ thi tốt nghiệp đi chơi, mẹ đã ngồi chờ con cả đêm trước cửa nhà. Rồi những ngày tiếp theo mẹ đã phải gồng mình lên vừa đi làm vừa kèm con đi học để thi lại lần hai, thanh toán những khoản nợ hàng điện tử, hàng bia của con, đến xin lỗi từng nhà mỗi khi con gây gỗ với họ. Ngày con thi lại lần hai, buổi thi nào mẹ cũng đưa con đi rồi chờ cho đến hết giờ để đưa con về. Sao lúc đó con u mê quá, con không nhận ra rằng mẹ yêu thương con đến mức nào và con đã làm mẹ đau khổ đến chừng nào.
Khi mọi người càng cố lại gần con, giúp đỡ con thì con lại càng đẩy mọi người ra xa, nhất là mẹ. Hầu như tháng nào con cũng gây ra một chuyện, kết bạn với những đứa không ra gì, làm đủ thứ điên rồ và mất dạy, thậm chí con còn cạy tủ lấy trộm tiền để đi chơi. Dù biết là con lấy nhưng mẹ vẫn bênh con trước mặt các bác, các chú. Mẹ xót xa, đỡ đòn cho con khi con bị bác đánh. Nhưng con vẫn giận dỗi mẹ, vẫn bỏ sang nhà dì ở vì không muốn nhìn thấy mẹ. Con đúng là một thằng tồi, một thằng con bất hiếu phải không mẹ?
Con đã sống thật ích kỷ và chỉ hiểu ra mọi chuyện khi đã quá muộn. Mới đây con lại gây ra một chuyện tồi tệ khiến mẹ phải đau lòng, phải khóc. Con rất muốn gặp mẹ để xin mẹ tha thứ, dù con biết mẹ không hề giận con.
Vào ngày này, người ta thường ở bên nhau và tặng mẹ những lời nói yêu thương, những món quà, những bông hoa đẹp nhất. Nhưng con lại chẳng thể làm được những việc ấy cho mẹ. Con chỉ muốn nói con xin lỗi mẹ, mong mẹ hãy tha thứ cho đứa con hư hỏng này. Ngày mai con sẽ vào miền nam và bắt đầu một cuộc sống mới tốt hơn. Mẹ hãy yên tâm mẹ nhé vì trong này đã có anh Thành giúp đỡ con. Con cũng sẽ không bao giờ cho phép mình phạm sai lầm như trước. Giờ con đã hiểu mình không chỉ sống cho một mình mình mà còn cho rất nhiều người khác nữa. Con biết mẹ luôn tin tưởng vào con và con sẽ cố gắng để mẹ không phải thất vọng.
Con sẽ quay về gặp mẹ, bà và các em sau khi có đủ tự tin để đối mặt với mọi chuyện mình đã gây ra. Điều con mong nhất lúc này là kể từ nay trở đi, mẹ sẽ không bao giờ phải khóc, không bao giờ phải đau khổ nữa…
Con thương mẹ!
b) Đầu cá chốt
Dưới đây là tâm sự của một đứa con (Cao Thị Ni) về tình yêu của người mẹ, âm thầm hy sinh, quên mình cho chồng, cho con, lại là thứ tình yêu câm nín, quảng đại, không kể công. Nhờ vậy, gia đình dù nghèo, con cái vẫn sống trong an bình và hạnh phúc.
Tình yêu của bà mẹ trong câu chuyện là hình ảnh tình mẫu tử của Thiên Chúa mà các tín hữu, nhất là các linh mục và tu sĩ có sứ mệnh làm sáng tỏ cho mọi người trong môi trường sống và phục vụ của mình.
Dĩ nhiên bà mẹ, trong lời tâm sự của đứa con dưới đây, có bản năng mẫu tử hỗ trợ. Chúng ta, tuy không có bản năng phụ tử, mẫu tử hỗ trợ, nhưng chúng ta có sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa mà Chúa Thánh Thần đã đổ vào lòng (x. Rm 5,5). Tình yêu của Thiên Chúa đối với nhân loại mà chúng ta có sứ mệnh phải làm tỏa sáng cho mọi người còn vượt trên cả bản năng yêu thương của người mẹ:“Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên con bao giờ” (Is 49,15); “Dầu cha mẹ có bỏ con đi nữa, thì hãy còn có Chúa đón nhận con.” (Tv 27,10).
* * *
Tôi nhớ rõ năm ấy ba tôi bị bệnh ho ra máu (còn bây giờ người ta gọi là lao phổi). Tôi cũng chẳng biết bệnh đó có nguy hiểm không, có chết không, nhưng mỗi lần ba ho khạc ra máu là mẹ lại khóc. Thấy mẹ khóc, mấy chị em tôi cũng khóc theo. Ba bệnh lâu ngày, vì không có tiền chạy thuốc, mẹ chỉ đâm lá thuốc nam cho ba uống nhưng không khỏi, nên ngày qua ngày ba càng ốm yếu xanh xao hơn, vì những năm đó thuốc lao chưa xuống địa phương như bây giờ. Mẹ nghe hàng xóm bảo, nếu muốn hết bệnh thì phải lo tiền đi bệnh viện Hồng Bàng ở Sài Gòn mới có thuốc trị. Mẹ nghe vậy quyết định bán hết mấy giạ lúa cuối cùng trong nhà cho ba làm lộ phí lên Sài Gòn trị bệnh, còn mẹ thì ở nhà lo ruộng rẫy và chờ ngày ba tôi xuất viện trở về.
Tôi nhớ lúc ấy, sáng nào mẹ cũng xách cái thau và cây cân ra chợ mua cá rồi bán lại để kiếm tiền lời, và còn có cá cho các con ăn. Đến trưa về nhà, lúc nào mẹ cũng đem một mớ cá chốt, chứ chẳng có thứ cá nào ngon hơn. Mỗi lần mẹ làm cá, tôi hay ngồi gần nhìn mẹ làm và hỏi: ‘Mẹ ơi, sao làm cá chốt mẹ không chặt bỏ đầu, đầu toàn xương ăn sao được hả mẹ?’, mẹ tôi cười bảo: ‘Có ít cá, mẹ hà tiện để đầu kho xong mình lấy cho con chó, con mèo ăn cũng đỡ con à’. Câu nói của mẹ, tôi cũng vô tình không để ý tới, mà thật sự ngày nào tôi đi học về, mẹ dọn cơm cho mấy chị em tôi ăn cũng cá chốt kho và đĩa rau luộc mẹ hái sau nhà, tôi chỉ biết ăn say sưa chớ chẳng để ý tới cá chốt kho như thế nào.
Vô tình một ngày nọ, tôi được nghỉ hai tiết học cuối nên về nhà sớm hơn mọi ngày, khi bước vào nhà tôi tình cờ thấy mẹ tôi ngồi ăn cơm một mình với đĩa rau luộc và một chén cá kho toàn là đầu cá chốt. Thì ra, bấy lâu nay mẹ ăn cơm trước, chỉ ăn đầu còn để dành khúc mình cho các con. Tôi đứng lặng trước mâm cơm của mẹ mà nghe nghèn nghẹn ở cổ, tôi chẳng nói được câu nào với mẹ chỉ sợ không cầm được nước mắt. Như hiểu được ý tôi, mẹ bảo: ‘Ba con đang bị bệnh, mẹ con mình ở nhà phải ăn cần ở kiệm, dành dụm tiền để lo thuốc men cho ba nữa con à, chừng nào ba con hết bệnh về, làm có tiền thì nhà mình ăn sẽ ngon hơn’. Nghe mẹ nói tôi thấy mủi lòng rồi khóc như mưa.
Nhưng mẹ ơi, những giọt nước mắt con rơi lúc ấy không phải buồn vì nhà mình nghèo, mình khổ mà vì con cảm thấy thương mẹ, thương nhất trên đời mẹ ơi, cả cuộc đời mẹ đã vì chồng vì con mà chẳng nghĩ đến bản thân mình, lúc ấy con chỉ biết thầm cầu Trời, khấn Phật cho ba mau hết bệnh để về nhà cùng mẹ chung sức lo cho đàn con thơ dại.
Tôi viết những dòng chữ này gởi đến mẹ thân yêu như những lời cảm ơn mẹ đã vì chị em tôi mà cực khổ và chịu đựng hy sinh cả cuộc đời của mẹ. Đến bây giờ, khi đã làm mẹ, tôi càng thấm thía hơn câu thơ của một tác giả đã viết: “Biển cả mênh mông không đong đầy tình mẹ. Mây trời lồng lộng chẳng phủ kín công cha.”
c) Em bé đánh giày
Các bạn trẻ, các em thiếu nhi cũng có khả năng trở thành những con người vĩ đại, ngay cả trong những hoàn cảnh rất tầm thường. Chính các em cũng có thể là gương sáng cho đời, ngay cả cho người lớn.
Em bé trong câu chuyện “em bé đánh giày” dưới đây là một tấm gương xán lạn. Em tuy nhỏ, vẫn thương yêu, bao bọc đứa em của mình, đến khi gần chết, vẫn còn lo lắng cho em mình. Dù nghèo, lòng vẫn trong sạch, không tham lam của người. Sự vĩ đại của em được gói ghém trong những sự bình thường. Em bé đánh giày là tấm gương cho giới trẻ Công giáo có sứ mệnh đem ánh sáng Tin Mừng chiếu soi vào xã hội.
* * *
Vào một buổi chiều, ông nhà giàu dạo bước trên đường, gặp chú bé đánh giày gầy còm, buồn bã. Chú nhóc năn nỉ mời: “Ông cho con đánh giầy để kiếm vài đồng mua cơm nuôi em nhỏ”. Chạnh lòng thương trẻ nhỏ nghèo, ông lơ đãng gật đầu, nghĩ: “Có đáng bao nhiêu, dăm ngàn đồng tiền lẻ!”
Chú nhóc đánh giày xong, ông móc ví đưa tờ 200 ngàn. Chú bé cầm tiền ngần ngừ rồi nói: “5.000 đồng thôi ông ơi. Đủ bữa tối hôm nay. Anh em con gặp may… Xin ông chờ một chút, con đi đổi tiền”. Đã 30 phút cậu bé không trở về. Ông lắc đầu lẩm bẩm: “Chán ghê. Trẻ nghèo hay gian lắm.” Rồi ông tức bực bỏ về.
Cơm tối xong, ông đứng ngắm trăng mới mọc. Gió hiu hiu. Hương thơm của hoa nở muộn lan toả thoang thoảng khiến tinh thần thoải mái và ông quên việc mình bị trẻ con gạt, bực mình. Bỗng, một đứa bé bấm chuông. Ông la: “Đi chỗ khác mà xin. Nghèo khổ biết phận mình, lộn xộn tao tạt tai …” Nhưng rồi ông cũng thong thả cất bước tới cổng. Thấy một nhóc gầy gò, đang mếu máo co ro, giống tên đánh giày hồi chiều…
Thằng bé con ấp úng: “Thưa ông, hồi chiều nay anh con cầm tiền của ông đi đổi. Băng qua đường, chẳng may bị xe cán, gẫy chân rồi ông ạ. Anh con bảo tìm ông trả lại tiền. Anh con giờ nằm liệt, chỉ muốn xin được gặp ông…”
Ông chạnh lòng, rảo bước theo thằng bé. Đến khu ổ chuột xập xệ, gặp thằng anh đang nằm, mặt tái xanh như tàu lá, thở ra tuồng hấp hối. Nó nói gấp như có gì vội vã: “Xin ông thương em con… Cha mẹ con chết sớm, con đánh giày nuôi nó… Nay không may con gặp nạn, chỉ xin ông việc này: Cho em con đánh giày mỗi ngày cho ông nhé, để kiếm tiền mua cơm sống mà thôi…”
Ông già trào nước mắt và nói: “Ta sẽ lo cho em con, cho ăn học như bao đứa trẻ khác. Con cứ an tâm. Còn con, tiền bệnh viện ta sẽ …” Ông còn đang nói, đã thấy thằng anh duỗi tay, hơi thở lịm đi và dần dần tắt.
Thằng anh đã xuôi tay, hồn bay về thiên giới, sống trọn kiếp người. Môi nó thoáng nụ cười rất bình an. Nó dù nghèo nhưng tự trọng. Bao người giàu sang danh vọng, đã chắc gì bằng nó!
d) Lương tâm giá bao nhiêu tiền một cân
Trong một xã hội xem ra người ta đang đánh mất lương tâm, trộn lẫn tốt xấu với nhau. Hậu quả là người ta không ngần ngại làm tổn thương tha nhân, có khi còn mưu tính làm hại tha nhân và không ngần ngại gây ra tội ác. Trong một xã hội như thế, tôi thấy cần phải gióng lên tiếng chuông cảnh tỉnh về lương tâm để mọi người biết coi trọng và sống theo lương tâm, làm lành lánh dữ. Đối với người Công giáo, lương tâm không chỉ là khả năng phân định tốt – xấu, lành – dữ, mà còn là cung điện nơi con người lắng nghe tiếng Chúa (x. Hiến chế VMHV, 16).
* * *
Hà là tài xế lái xe chở hàng hóa. Hôm nay, xe đang bon bon chạy trên đường bỗng nhiên "khựng" một cái rồi dừng lại. Hỏng rồi! Hà xuống xe đến bên vệ đường vác hai hòn đá to chặn bánh sau lại rồi chui vào gầm sửa xe. Khoảng hơn hai tiếng đồng hồ thì xong. Hà lên xe nổ máy chuẩn bị đi tiếp.
Đúng lúc đó có một ông lão chăn bò bên cạnh đường chạy đến đập đập tay vào cửa xe, nói rất to: “Này anh lái xe, anh đánh rơi đồ kìa!”. Ông lão vừa nói vừa chỉ chỉ về phía sau xe. Hà đoán ông lão nhắc đến hai hòn đá chặn bánh sau xe mà mình vác ra lúc nãy. Hà toét miệng cười, nói do vội đi nên quên mất. Nói vậy song anh ta vẫn cố ý nhấn ga cho xe chạy.
Ông lão vừa đuổi theo vừa quát to: “Anh làm người như thế à? Làm người phải có lương tâm chứ? Anh bỏ hai hòn đá to ở trên đường để cho người ta…”.
Những lời trách cứ của ông lão chăn bò bị bỏ lại cùng đám bụi phía sau xe. Hà cười thầm trong bụng: Lương tâm giá bao nhiêu tiền một cân?
Chạy hơn trăm cây số vào thành phố, đến trạm kiểm tra của cảnh sát, Hà hết sờ túi này lại nắn túi nọ, tìm mãi không thấy giấy phép lái xe đâu. Hà thừ người ra: Giấy phép lái xe rõ ràng là để trong chiếc ví da lúc nào cũng mang trong người, vậy sao lại tìm không thấy? Cẩn thận nhớ lại, Hà mới chắc là chiếc ví da đã bị rơi khi mình chui vào gầm xe sửa chữa. Đành phải để xe lại trạm cảnh sát, Hà vội vã vẫy taxi quay lại chỗ sửa xe.
Khi quay lại chỗ sửa xe ban sáng, Hà tìm khắp nơi không thấy cái ví cũng không thấy ông lão chăn bò đâu. Hai hòn đá chặn bánh xe đã được ai đó khuân vào để bên vệ đường. Trên hòn đá thấy dán mảnh giấy có mấy chữ xiêu xiêu vẹo vẹo: “Muốn lấy lại giấy tờ thì phải vác 2 hòn đá này lên trên đồi”.
Ôi mẹ ơi! hai hòn đá vừa to vừa nặng, ngọn đồi trước mặt lại vừa cao vừa dốc, vác hòn đá này liệu có bò lên được trên đó không? Hà kêu to lên: “Đừng bắt ép người ta như thế! Cần bao nhiêu tiền cứ ra giá đi!”.
Khi Hà men theo đường mòn vác hai hòn đá đến chân đồi thì thấy một cái mũ lá có kẹp một tờ giấy viết mấy chữ: “Đừng nói đến tiền, xin mời lên đồi”. Hà tiếp tục đi, được một đoạn lại thấy cái mũ lá cũng có tờ giấy yêu cầu Hà cứ vác đá lên đồi, các chuyện khác miễn bàn. Không còn cách nào khác, Hà đành phải bê hai hòn đá vất vả từng bước bò lên.
Lên được đỉnh đồi thật không dễ gì. Vậy mà trên đó không thấy có người, cũng không thấy giấy tờ lái xe, chỉ thấy có tờ giấy dán trên một thân cây yêu cầu Hà vác hòn đá theo hướng chỉ dẫn đi xuống phía dưới.
Xuống được dưới chân đồi vẫn không thấy giấy tờ, ngoài một tờ giấy yêu cầu Hà vác hòn đá đi ngược trở lên. Cứ như thế theo hướng chỉ dẫn trên các tờ giấy, Hà vác hòn đá đi qua mấy quả đồi nhỏ, mệt tưởng chết, cuối cùng mới thấy cái ví da của mình đặt trên một nấm mồ đất trơ trọi.
Giấy tờ đủ cả, tiền bạc không thiếu một xu. Dưới cái ví tiền còn có một tờ giấy viết: “Cái ví này là do tôi nhặt được, bây giờ nó đã trở về với chủ của nó. Anh có biết vì sao tôi lại bắt anh vác hòn đá đi một quãng đường xa đến trước nấm mồ này không? Đây là mộ của con trai tôi. Vào một đêm hai năm trước, nó đi xe máy về nhà, vấp phải hòn đá của một kẻ nào đó không có lương tâm bỏ ở trên đường, bị ngã xuống đường và bị xe container cán từ sau tới và chết, chỉ vì hòn đá của người không có lương tâm.
Tôi đưa anh đến tận mồ của con trai tôi là mong anh hiểu rõ một đạo lý: “Lương tâm là vô giá, làm người có thể để mất cái gì thì mất nhưng nhất thiết không được để mất lương tâm”.