TIN GIÁO PHẬN

Các bài suy niệm Chúa Nhật 29 Thường Niên Năm B – Khánh nhật Truyền giáo

Oct 19 2024
68

Mục lục

1. Đấng chữa lành (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Khôn hay khờ  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Chết đến nơi rồi  (Lm. Thái Nguyên)

4. Niềm trông đợi của người môn đệ (Jorathe Nắng Tím)

5. Hãy cúi xuống phục vụ(Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

6. Lãnh đạo như Chúa Giêsu(Giuse Phạm Đình Ngọc, SJ)

7. Lừng danh  (Lm. Vũ Đình Tường)

8. Chỗ đứng của người  môn đệ  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

9. Thuật lãnh đạo  (Thiên San, Học viện MTG.Thủ Đức)

10. Vấn đề phục vụ  (Trầm Thiên Thu)

11. Hy tế  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

12. Chuyện hai anh em nhà Dêbêđê (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)



.

ĐẤNG CHỮA LÀNH

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

 (Ngày Giáo Hội Việt Nam cầu xin cho đại dịch chấm dứt – 17/10/2021)

Kinh Thánh Cựu ước cũng như Tân ước đều mạc khải cho chúng ta thấy dung mạo của Thiên Chúa là Đấng Chữa Lành. Có những người được Chúa chữa lành sau một thời bị trừng phạt do tội lỗi của họ, như trường hợp bà Myriam là em gái của ông Môisen (x Dân số 12,1-1). Có trường hợp Chúa chữa lành sau một thời gian dài bị thử thách đến mức đau khổ cùng cực, như trường hợp ông Gióp. Thiên Chúa chữa lành những cá nhân. Ngài cũng chữa lành cả một tập thể, như trường hợp người Do Thái trong hành trình sa mạc bị rắn lửa cắn (Ds 21,4-19). Đức Giêsu là dung mạo lòng thương xót của Chúa Cha. Người đã đến trần gian như một vị Lang Y chữa lành con người về tinh thần cũng như thể xác. Các tác giả Phúc Âm đều trình bày với chúng ta về việc Chúa Giêsu chữa bệnh. Người chữa đủ mọi chứng bệnh mà người dân đem đến. Người cũng đến những nơi bệnh nhân tập trung như bên bờ hồ, ở đó có người đã bệnh 38 năm được Chúa chữa (x. Ga 5,1-16) Người phá mọi rào cản thành kiến để gặp những người cùi và chữa cho họ lành, đồng thời giúp họ hoà nhập cuộc sống bình thường, xứng với phẩm giá con người. Người cũng tiếp xúc và lắng nghe nỗi lòng của những cô gái làng chơi, những người thu thuế, để quy phục nhân tâm và giúp họ chỗi dậy khỏi vũng bùn tội lỗi. Cùng với việc loan báo Tin Mừng giải thoát, Chúa Giêsu chữa lành những thương tổn hồn xác, giúp họ tìm được niềm vui và an bình.

Chúa nhật 17-10 năm nay, Hội đồng Giám mục Việt Nam đã kêu gọi toàn thể mọi tín hữu cầu nguyện cho đại dịch Covid-19 mau chấm dứt. Đã gần 2 năm, kể từ khi đại dịch bùng phát ở Vũ Hán (Trung Quốc), con virus nhỏ bé đến nỗi mắt thường không thể thấy, đã làm cho cả thế giới điêu đứng hoang mang. Đại dịch này đã nhanh chóng lan rộng trên 220 quốc gia và vùng lãnh thổ, cướp đi sinh mạng của gần sáu triệu người. Tại Việt Nam chúng ta, đã có trên 20 ngàn người chết vì Covid-19 (theo thống kê đầu tháng 10-2021). Không thể kể hết những hệ luỵ tiêu cực do dịch bệnh gây ra, trong mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hoá, gia đình và cả tôn giáo. Trước sự tàn phá của đại dịch, nhiều người đã đặt ra những vấn nạn. Có người cho rằng đây là hình phạt của Thượng Đế. Người khác lại dựa vào những đau khổ hiện tại để phủ nhận Thiên Chúa. Họ cho rằng, nếu Thiên Chúa hiện hữu thì Ngài phải xót thương nhân loại cùng khổ. Không lẽ Ngài dửng dưng trước nỗi thống khổ của con người. Không chỉ lương dân, mà một số tín hữu cũng băn khoăn khi chứng kiến và gánh chịu hậu quả của đại dịch.

Trước hết, chúng ta khẳng định, đại dịch và những sự dữ không phải là hình phạt của Thiên Chúa. Bản chất của Chúa là tốt lành và thánh thiện. Nếu Ngài trừng phạt con người, thì hành động của Ngài sẽ trái nghịch với bản chất. Sự dữ là do con người gây nên, ví dụ: tai nạn giao thông do bia rượu hoặc bất tuân luật lệ giao thông; tàn phá thiên nhiên gây bão lụt và tác hại đến môi trường; lòng tham và giận dữ gây nên tội trộm cắp giết người. Cũng có khi sự dữ không do con người mà đến từ những hiện tượng thiên nhiên như động đất, sóng thần.

Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót. Đức tin Công giáo khẳng định với chúng ta điều đó. Nhưng nếu chữa lành là một ưu phẩm của Thiên Chúa, thì đó không phải là ưu phẩm duy nhất của Ngài. Nói cách khác, Ngài không phải là một lang y hay một bác sĩ chuyên chữa bệnh. Nhiệm vụ chính của lang y và bác sĩ là chữa bệnh. Nếu lang y và bác sĩ nào không chữa được bệnh thì uy tín của họ sẽ bị giảm dần và có thể mất đi. Thiên Chúa là Đấng Chữa Lành tâm hồn và thể xác, nhưng Ngài cũng là Đấng Cứu Độ, Đấng giải phóng con người khỏi ách giam cầm của quyền lực sự ác và dẫn đưa con người đến sự thánh thiện hoàn hảo. Giáo Hội tiếp nối sứ vụ của Chúa Giêsu, chữa lành con người qua Bí tích Xức Dầu bệnh nhân. Hiệu quả của Bí tích này là xin Chúa chữa lành những tổn thương linh hồn và thân xác, để họ thêm sức mạnh và khỏi bệnh, và nếu đã đến lúc họ kết thúc cuộc sống dương thế, thì được vững vàng cậy trông và ra đi trong an vui thanh thản.

Hơn nữa, vẫn biết rằng xin ơn chữa lành là một phần của lời cầu nguyện Kitô giáo, nhưng mục đích của đời sống Kitô hữu không phải để được chữa lành mà thôi. Vì nếu như vậy, thì những ai tin Chúa sẽ không bao giờ phải chết. Ông Lagiarô được Chúa cho sống lại, nhưng rồi ông cũng phải chết. Chàng thanh niên con duy nhất của bà goá thành Na-im cũng vậy (x. Lc 7,11-17). Khi một người lâm bệnh, bản thân đương sự và người thân cầu nguyện với Chúa, để, nếu Ngài muốn, thì Ngài chữa lành. Tuy vậy, con người đã có ngày khởi đầu cuộc sống ở trần gian, thì cũng có ngày phải ra khỏi trần gian này. Đau khổ và sự chết gắn liền với thân phận của con người. Vì vậy, người ta gọi cuộc đời này là “cõi tạm”, là “hành trình dương thế”. Dựa vào giáo huấn của Chúa Giêsu, Giáo Hội Công giáo dạy rằng: cái chết là một sự biết chuyển, là một cuộc khởi hành mới, vì “chính lúc chết đi, là khi vui sống muôn đời”.  Như thế, mục đích của đời sống Kitô hữu còn là để được cứu độ. Thiên Chúa là Đấng Cứu độ và Ngài cứu chúng ta với tất cả con người chúng ta. Thiên Chúa cứu chữa con người cách triệt để chứ không chỉ giải quyết những tình huống nhất thời mà thôi. Đôi khi sự dữ lại là dịp để chúng ta rút ra những bài học cần thiết để nên tốt hơn.

Đã gần 2 năm, Đức Thánh Cha và cả Giáo Hội Công giáo cầu nguyện cho đại dịch chấm dứt. Đặc biệt, tại quảng trường Thánh Phêrô, vào buổi chiều ngày thứ Sáu, 27-3-2020, Đức Thánh Cha Phanxicô đã cầu nguyện trong một khung cảnh trầm buồn sâu lắng và hết sức cảm động, xin Chúa thương xót nhân loại. Dù đã cầu nguyện hết sức, dịch bệnh vẫn lan rộng. Trước hiện tượng này, nhiều người đặt câu hỏi: phải chăng Chúa không nhận lời chúng ta cầu nguyện và như thế thì cầu nguyện là vô ích. Chúng ta tìm thấy câu trả lời trong bài huấn từ của Đức Thánh Cha trong buổi cầu nguyện vừa nêu: Nhân loại đang đi trên một chiếc thuyền, giống như các môn đệ đi trên chiếc thuyền ở biển hồ Galilê. Sóng gió bão táp nổi lên làm mọi người lo sợ. Chính lúc đó, Chúa Giêsu đang tựa gối mà ngủ. Các môn đệ trách Chúa: chúng ta chết đến nơi rồi, Thày chẳng lo gì sao? (x. Mc 4,35-41). Trước sự dữ do đại dịch gây ra, cũng có người trách Chúa như vậy. Chúa đã quở các môn đệ: sao kém lòng tin! và Người đã ra lệnh cho bão táp phải dừng. Chúa có chương trình của Ngài. Ngài hành động theo ý Ngài muốn, vào lúc Ngài muốn và với phương pháp Ngài muốn. Lịch sử đã chứng minh điều ấy. Vì vậy, lời cầu nguyện không bao giờ vô ích. Chúa Giêsu đã nói với chúng ta: “Hãy xin thì sẽ được; hãy tìm thì sẽ thấy và hãy gõ cửa thì sẽ mở cho” (Lc 11,9). Chúng ta hãy xin Chúa đoái thương nhân loại khổ đau, hãy tìm sự công chính và gõ cửa lòng thương xót của Chúa.

Đại dịch gây nên nhiều đau khổ cho cá nhân cũng như cho cộng đoàn. Đại dịch cũng là lúc chúng ta chứng kiến những nghĩa cử bác ái chia sẻ tuyệt vời! không phân biệt tôn giáo, vùng miền, tình nghĩa đồng bào đã vượt lên trên tất cả. Giữa đau thương của đại dịch, chúng ta được nghe những “câu chuyện cổ tích” của thời đại. Với lăng kính Đức tin, người tín hữu còn nhìn thấy ở đó chính là những phép lạ Chúa làm qua những tấm lòng nhân ái của người Việt Nam đối với đồng bào.

Hôm nay, tại tất cả nhà thờ ở Việt Nam, chúng ta đều dâng thánh lễ cầu nguyện, chúng ta tin rằng lời cầu xin tha thiết của chúng ta sẽ chạm đến trời cao, và quê hương của chúng ta sẽ sớm trở lại an bình, trẻ em lại được đi học, công nhân được đến xưởng, người nông dân tiếp tục ra đồng, niềm vui và hạnh phúc sẽ trở lại với chúng ta.

Về mục lục

KHÔN HAY KHỜ

Lm. Jos DĐH.

Không cần phải nhiều kiến thức, chúng ta vẫn hiểu: ăn trên ngồi trốc, là câu thành ngữ nói đến kẻ quyền thế, đối tượng mà xã hội thường né tránh, vì sợ, vì ngại va chạm, lỡ lời có thể: không phải đầu cũng phải tai. Dù không có ý khinh khi người nghèo kẻ khờ, xã hội vẫn xem họ thấp kém, cũng vì danh dự nên mới có câu: làm người có thể nghèo, có thể xấu, có thể hôi, bẩn, hay bất tài, nhưng tuyệt đối không được hèn. Cũng trong cách nói đó: khôn chẳng có tiền, khôn ấy dại; dại có uy quyền, ấy dại khôn ! Con người tự nhiên là mơ ước giầu sang địa vị, túng nghèo, hèn hạ, dẫn đến buồn chán, là sự thật. Dù chỉ bình thường, cha ông ta vẫn biết khuyên con cháu: mọi cố gắng sẽ được đáp đền, hãy chuyên chăm học học tập, để xây dựng tương lai mang tên mình.

“Thưa Thầy, xin cho hai anh em con, một đứa ngồi bên hữu một đứa ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang”. Có phải vừa khôn vừa lanh, nên hai anh em họ đã biết “thủ thỉ”, xin Thầy hai vị trí đặc biệt trong nước trời ? Chắc không phải vì trâu chậm uống nước đục, không phải vì khờ hay chậm, 10 anh học trò kia để vụt mất ước mơ chỗ nhất cho nhì khi Thầy được vinh quang ? Thực ra, mang thân phận người đầy giới hạn, 12 vị chài lưới năm xưa, đã phản ánh đúng thực chất là các ông khôn theo đường lối thế gian, các ông khờ do chưa có khái niệm gì về hạnh phúc thật trong nước Chúa. Qua 21 thế kỷ rồi, người tín hữu chúng ta vẫn đang “nhỏ to” với Thầy Giêsu: xin cho con học giỏi, xin cho con được trúng vé số, xin gia đình con làm ăn phát đạt … Đức Giêsu đang nhắc lại điều quan trọng: các ngươi có uống chén Thầy sắp uống, có chịu phép rửa Thầy sắp chịu không ?

Khôn là biết theo Thầy, khôn là biết hiệp thông với chén Thầy uống, liên đới với phép rửa Thầy sắp chịu, và trở nên khờ dại trước những ảo ảnh thế gian, đó là điều căn bản, khi người tín hữu muốn ở bên Thầy Giêsu trong nước của Ngài. Khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương, dại là chỉ lo tìm danh lợi thú ở đời này, khôn là biết cậy trông vào sức mạnh của Thầy Giêsu. Khôn là biết trở nên nhỏ bé trước anh chị em mình, dại là tìm thoả mãn dục vọng, bắt người khác hầu hạ mình. Đức Khổng Tử dạy các học trò: người quân tử cầu ở mình, kẻ tiểu nhân cầu ở người. Là học trò Đức Giêsu, chúng ta không những phải biết tự lo cho mình, ngoài ra còn có bổn phận phải giúp đỡ anh chị em xung quanh mình. Vì chưng, “Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hy sinh mạng sống mình”.

Khôn ăn người, dại người ăn. Khôn làm cột cái, dại làm cột con.  Khuynh hướng tự nhiên, ai cũng muốn khôn, muốn giầu sang chức trọng, ví như quy luật ngầm, kẻ nghèo hèn phải phục vụ hầu hạ giai cấp thượng lưu. Tìm kiếm vị trí trong xã hội, người ta cũng muốn có luôn chỗ nhất chỗ nhì trong Nước Chúa. Người ta xin làm lớn, xin chức quyền ở đời này, đời sau hy vọng vẫn có kẻ hầu hạ mình. Đức Giêsu đã thẳng thắn với Giacôbê và Gioan: “các ngươi không biết điều các ngươi xin…”. Vâng, ở đời người ta vẫn nói: hơn nhau tấm áo manh quần, thả ra bóc trần ai cũng như ai. (ca dao). Ở trong tình liên đới hiệp thông với Đức Giêsu, người tín hữu kitô chắc chắn phải được thấm nhuần giáo huấn yêu thương và phục vụ.

Khôn hay khờ, giỏi hay dại, thông thái hay hèn kém, tất cả đều dừng lại khi nhắm mắt xuôi tay, giầu nghèo, cùng đinh hay quý tộc, cũng phôi phai theo thời gian. Ngồi bên tả bên hữu, có vị trí nhất nhì khi Thầy được vinh quang, Đức Giêsu không coi đó là vấn đề chính, hãy uống chén đắng, hãy chịu phép rửa với Thầy, đó là điều cần thiết. Theo Thầy Giêsu làm môn đệ, một quá trình vừa học vừa hành, dù là gia trưởng hiền mẫu, là tu sĩ, giáo sĩ, ai cũng có cơ hội để thông phần cuộc khổ nạn và phục sinh của Đức Kitô. Ở đời này, ta có thể chậm hay khờ, có thể nghèo hoặc đen đủi xấu xí, chẳng phải do thân phận bọt bèo mà Chúa quên, Chúa không cho hưởng hạnh phúc đời đời. Phần thưởng cao quý ở thiên quốc, không hệ tại nhà giầu hay con quan, mà tuỳ thuộc cách sống của mỗi người.

Khôn hay khờ, ngồi ghế nhất hay ghế nhì, đúng là vinh dự cho bản thân, gia đình, dòng tộc, nơi cuộc sống này. Đội cũng vào chợ, gánh cũng vào chợ, có chức quyền, hoặc chỉ là dân đen, đều được mời gọi theo Đức Giêsu đi hết hành trình đời người, khi ta uống chén Thầy uống, chịu phép rửa Thầy chịu. Nhân loại sẽ không lý giải được, tại sao có người giầu ăn không hết, có người lần chẳng ra ? Tại sao có kẻ khôn người khờ, tại sao có kẻ tài giỏi, sung túc, nhưng họ không hạnh phúc ? Đức Giêsu đã chỉ cho chúng ta: uống chén Thầy uống, chịu phép rửa Thầy chịu, chính là chiếc chìa khoá mở ra những nút thắt ở đời. Khôn hay khờ, ở bên tả bên hữu trong nước trời, đều cao quý, nhưng tin theo Chúa phải sống thánh ý Chúa, giầu sang, tài giỏi, chức quyền là để phục vụ, là để thực thi đức ái kitô. Xin tình yêu Chúa ở mãi trong ơn gọi và nén bạc của từng người trong chúng ta. Amen.

Về mục lục

CHẾT ĐẾN NƠI RỒI

Ngày Toàn Quốc cầu nguyện xin Ơn Chữa lành : Mc 4,35-41

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Trong lễ này, Giáo Hội đặt bài Tin Mừng kể lại trận cuồng phong nổi lên, khi Chúa Giêsu và các Tông đồ đang trên thuyền đi qua “bờ bên kia”. Trước cơn sóng dữ ập vào thuyền, các Tông đồ hoang mang, sợ hãi, các ông hốt hoảng chạy đến đánh thức và kêu cứu Thầy. “Thầy ơi, chúng ta chết đến nơi rồi, Thầy chẳng lo gì sao?” Có gì đáng sợ bằng đứng trước cái chết, nó cho ta một cảm giác kinh hoàng. Lời kêu cứu của các tông đồ xem ra cũng là lời trách móc, có vẻ như Thầy quá vô tư hững hờ trước mạng sống của các đồ đệ. Nhưng có lẽ cần phải như thế để các ông nhận ra sự yếu đuối và bất lực của con người mình.

Ðức Giêsu đã thức dậy, ra lệnh cho gió và biển: “Câm đi! Im đi!”. Thế là sóng yên biển lặng như tờ. Lúc đó, Đức Giêsu mới trách lại các ông: “Sao nhát thế? Làm sao mà anh em vẫn chưa có lòng tin?”. Nếu có lòng tin thì đâu có cuống cuồng như vậy. Có Thầy mà cũng như không. Mặc dù các ông đã từng chứng kiến những phép lạ lớn lao Thầy làm, nhưng hôm nay các ông mới thực sự kinh ngạc và thốt lên: “người này là ai, mà cả đến gió và biển cũng tuân lệnh?”. Nhìn các Tông đồ đối mặt với trận cuồng phong, ta thấy được phần nào về thế giới, về thái độ của con người khi đối diện với bão tố của cuộc đời.

Thế giới mà nhiều người ảo tưởng là vĩnh cửu dường như sắp sa chìm trong biển cả của sự dữ. Chỉ cần nhìn lại một năm rưỡi nay (từ 2020), ta đã thấy nhiều thảm họa xảy ra: trước tiên là cuộc cháy rừng ở Úc, hơn 10 triệu ha bị phá hủy; khoảng 1.400 ngôi nhà ở bang New South Wales bị thiêu rụi. Tiếp đến là trận “lụt hồng thủy” 40 ngày đêm ở Trung Quốc nhấn chìm hàng trăm ngàn ngôi nhà, khiến cho hàng ngàn người chết, đó là chưa kể đến lũ lụt ở các tỉnh miền Trung Việt Nam làm chết hàng trăm người, và cuộc chiến tàn sát nhau vì màu da sắc tộc trên nước Mỹ. Vượt lên trên các thảm họa kia là thảm họa Covid 19. Cơn đại dịch này làm cho thế giới kinh hoàng, làm tê liệt nền kinh tế và các hoạt động xã hội. Số người chết vì Covid 19 tính tới thời điểm này đã lên đến 10 triệu người ([1]). Thảm họa này làm cho con người điên đảo, cạn kiệt niềm hy vọng vào một thế giới tươi sáng.

Có nhiều người nghĩ đây đúng là cuộc chiến tranh thế giới thứ ba. Nó làm cho nhà nhà, người người phải chia ly, kẻ ở người đi không một lời trăn trối. Bao gia đình tan tác, bao người thân chết không thấy xác, bao thương đau về tinh thần và đói khát về thể xác; thời gian héo hắt phai tàn, và không gian im lìm chìm vào hoang vắng; nhà thờ và chùa chiền không bóng người. Mỗi ngày ở Việt Nam có hàng ngàn người phải cách ly, họ đang phải chiến đấu để giành giật lấy từng hơi thở, không biết ngày mai mình còn có mặt ở trên đời nữa không,… Tất cả mọi người đều rơi vào hoang mang, sợ hãi, thậm chí bị stress, và rồi những khó khăn lại nối tiếp như thất nghiệp, nghèo đói, không nơi nương tựa… Bao người tự hỏi: liệu Thiên Chúa có hay không? Nếu có thì Ngài ở đâu trong biến cố này? Ngài có nghe thấy tiếng con cái đang ngày đêm kêu cầu lòng thương xót của Ngài không? Có khi chúng ta cũng trách Chúa như các Tông đồ xưa: Chúng con chết đến nơi rồi mà Chúa không ra tay cứu chữa! Ngài còn chờ gì nữa đây?

Nếu cứ loay hoay tìm câu trả lời cho những vấn nạn đó thì không bao giờ thỏa đáng, nhưng nếu ta nhớ lại câu chuyện Ladarô trong Tin Mừng Gioan, thì ta sẽ có được tia sáng đầy hy vọng về cách hành động của Thiên Chúa. Mặc dù Chúa Giêsu rất yêu quí Ladarô nhưng Ngài không đến cứu ngay, mà để chết rồi mới đến cứu. Điều này cho ta thấy “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa cứu thoát cho bằng một Thiên Chúa cứu chuộc. Ngài không can thiệp để cứu ta khỏi nhục nhã, đau khổ và chết chóc, nhưng Ngài cứu chuộc ta khi ta đã qua nhục nhã, đau khổ và phải chết cách nào đó” (Ronald Rolheiser). Thật không dễ để hiểu được điều này nếu thiếu cảm nghiệm dưới ánh sáng đức tin.

Tuy nhiên, câu chuyện Chúa ngủ trên chiếc thuyền đang bị bão bùng năm xưa vẫn còn nguyên giá trị. Ngài vẫn ở đó, vẫn bên cạnh các Tông đồ, nhưng lo sợ đã làm các ông quên mất sự hiện diện của Chúa. Lúc này cũng vậy, Chúa đang ở đây, đang đau niềm đau của con người, đang khổ nổi khổ của nhân loại. Nhưng vì quá hoảng sợ, ta không còn nhận ra Chúa. Ngài vẫn ở bên chúng ta, “cho dù người mẹ có quên đứa con của mình, phần Ta, Ta sẽ không quên ngươi” (Is 49,15).

Thập giá là điều tất yếu của cuộc sống con người. Đau khổ cũng là lẽ tất nhiên trong thân phận làm người. Chúng ta không thể trốn chạy hay đổ lỗi cho Thiên Chúa, mà trái lại, thực tế lại thường là hậu quả của tội lỗi loài người. Mỗi người đều phải vác thập giá của mình, và những đau khổ chúng ta đang chịu lúc này đều liên hệ với những những đau khổ của Chúa Giêsu trên thập giá. Chúa đảm nhận tất cả những đau khổ ấy để thánh hóa mọi người chúng ta. Ta đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối, nhưng hãy thắp lên một ngọn lửa của niềm tin và hy vọng; cần vác đỡ thập giá cho nhau. Được như vậy, thập giá sẽ trở nên Thánh giá, vì nó được đón nhận từ trái tim chúng ta trong sự kết hiệp với trái tim Chúa Giêsu, Đấng đã đổ máu để cứu chuộc chúng ta.

Virus Corona làm cho nhiều người khiếp sợ, nhưng có một loại virus đáng sợ hơn, đó là virus của lòng kiêu căng, ích kỷ, tham lam, hận thù, ghen ghét, nhất là chủ nghĩa bá quyền đang bành trướng dưới nhiều hình thức. Con người đã có lúc tự mãn nghĩ rằng “mình làm được mọi sự” nhưng qua biến cố đại dịch này, con người mới biết mình là ai? Làm được cái gì? Quả thật, nếu không có Chúa, thiếu Chúa, vắng Chúa, thế giới sẽ trở thành “ngôi nhà ma”, và biển cả của sự dữ là mồ chôn tất cả. Hãy nhìn mọi sự dưới cái nhìn đức tin để thấy Chúa đang hành động, và hành động cụ thể qua những con người đầy thiện chí, đầy nhiệt tình, đang xả thân cho anh em đồng loại ở mọi góc độ của cuộc sống hôm nay. Ta đừng hoang mang, sợ hãi nhưng “mọi âu lo, hãy trút cả cho Người, vì Người chăm sóc anh em” (1Pr 5,7). Cuộc sống của thế giới giờ đây có nhiều thay đổi, có thể mọi người phải tiếp tục sống chung với lũ, nhưng dù trong hoàn cảnh nào “Thiên Chúa làm cho mọi sự đều sinh ích cho những ai yêu mến Người” (Rm 8,28).

Ước gì nạn Covid không làm cho sự hiện diện của Thiên Chúa bị “phong tỏa” bằng những suy nghĩ tiêu cực, bi quan, nhưng mở rộng tâm hồn ta để tiếp nhận ánh sáng, tình yêu và ân sủng, mà Thánh Thần Chúa đang tiếp tục tuôn đổ xuống cho những kẻ tin.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Cuộc đời như biển cả mênh mông,
có những khi đầy sóng gió chập chùng,
với dịch bệnh, tai ương và nghèo túng,
biết bao người phải lâm cảnh khốn cùng,
chúng con thấy hoang mang và nao núng,
lại thấy Chúa như xa cách muôn trùng.

Cuộc sống với đau khổ không thể tránh,
bao lần con ưu phiền và than trách,
nhưng thử thách lại là phương cách,
Chúa muốn tôi luyện đời sống con,
qua những đau thương thêm vững vàng,
qua những nguy nàn thêm tin cậy.

Thử thách như cơ hội triển nở,
giúp con khai mở những tiềm năng,
để con khai sáng cuộc đời mình,
theo như chương trình tình yêu Chúa.

Thử thách như thập giá hằng ngày,
cho con biết luôn kề vai vác lấy,
trong an vui và hy vọng tràn đầy,
vì thấy mình được nên giống Chúa hơn.

Trong thử thách con thấy mình chới với,
nhưng tin rằng Chúa có mặt ở mọi nơi,
luôn yêu thương và hành động kịp thời,
không để đời con phải chơi vơi,

Thuyền đời con chẳng bao giờ êm ả,
chỉ êm ả khi về tới bến quê,
chỉ mong sao con giữ vẹn lời thề,
biết sống đức tin giữa cuộc đời trần thế,
Xin cảm tạ và tôn vinh danh Chúa,
trong gian nan thử thách của đời con. Amen.

[1]https://zingnews.vn/so-ca-tu-vong-thuc-te-vi-covid-19-tren-toan-cau-la-bao-nhieu-post1254231.html (24.08.2021)

Về mục lục

NIỀM TRÔNG ĐỢI CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ


Jorathe Nắng Tím

Đi theo Chúa, ắt phải trông đợi ở Chúa điều gì. Tin Mừng Máccô kể lại điều mong đợi của hai môn đệ Giacôbê và Gioan. Cả hai đều là con của ông bà Dêbêđê: “Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Các ông thưa: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10,35-36).

Thực ra, đây không chỉ là câu hỏi của riêng hai anh em nhà Dêbêđê,  nhưng là câu hỏi bấy lâu hằng nung nấu tâm can nhiều môn đệ khác, nhưng hầu hết đã không dám nói ra, vì sợ bị anh em ganh ghét, và ngại bị Thầy nghĩ mình là kẻ háo danh, ham quyền.

Tuy thế, khi đã mạnh dạn bộc lộ ước mơ làm quan trong vương quốc của Đức Giêsu, Thầy mình rồi, thì hai ông đã không chút ngượng ngùng, do dự, nhưng dũng cảm bảo vệ đến cùng mơ ước của mình, khi trả lời Đức Giêsu : “Thưa được”, khi Ngài hỏi lại các ông: “Các anh không biết các anh xin gì. Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống không?” (Mc 10, 38-39).

Thực ra, tất cả mọi người, trong đó có cả chúng ta, ở bước đầu đi theo Đức Giêsu đều nghĩ mình sẽ được nhiều, rất nhiều, trong đó có vinh quang, nên sau một thời gian làm môn đệ, câu hỏi quen thuộc được đặt ra chính là câu hỏi của Phêrô đã đại diện anh em Nhóm Mười Hai thưa với Đức Giêsu: “Thầy coi, phần chúng con, chúng con đã bỏ mọi sự mà theo Thầy. Vậy chúng con sẽ được gì?” (Mt 19,27).

Trả lời các môn đệ, cũng là trả lời chúng ta. Trước hết, Đức Giêsu đã không phủ nhận việc “ngồi bên trái, bên phải trong vương quốc của Ngài”, nhưng khẳng định : Việc đó thuộc quyền Chúa Cha, và Chúa Cha “đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được” (Mc 10,40).

Nói như thế Đức Giêsu gián tiếp cho các môn đệ biết: để được Chúa Cha cất nhắc, các ông phải có đủ điều kiện, và điều kiện đó là:

1/ Trở nên tôi tớ phục vụ:

Không như “quan lộ” của thế gian, con đường tiến thân trong Nước Trời đi theo một nguyên tắc hoàn toàn khác: “Ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em, thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ” (Mc 10,43-45).

Phục vụ như người tôi tớ trung tín, dù chịu muôn vàn thử thách của Giavê mà ngôn sứ Isaia đã mô tả: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ”, và “vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của ta sẽ làm cho muôn người nên công chính” (Is 53,10.11).

2/ Trở nên Của Lễ chuộc tội:

Không chỉ trở nên tôi tớ phục vụ, người môn đệ còn phải trở nên “Của Lễ”, khi “hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10, 45), như Đức Giêsu vừa là Thượng Tế, vừa là Của Lễ đền tội cho nhân loại trên Thánh Giá, mà thánh Phaolô đã vẽ lên chân dung của Ngài: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần” (Dt 4, 15-16).

Quả thực, khi đi theo Đức Giêsu, người môn đệ tuy biết chắc sẽ nhận được phần thưởng lớn lao trên trời (x. Mt 5,12), biết chắc tên mình đã được ghi trên trời (x. Lc 10,20), biết chắc “sẽ được gấp bội và còn được sự sống đời đời làm gia nghiệp” (M 19,29), nhưng không khỏi băn khoăn trước đòi hỏi: “Hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà đi theo” (Lc 9,23);  không khỏi lo âu khi bị đặt trước sự dữ, đau khổ, và sự chết, bởi ngay cả Đức Giêsu cũng đã không nói gì nhiều về đau khổ và cái chết là giới hạn bi thương của con người, ngoài mở ra  cánh cửa đi vào Mầu Nhiệm Phục Sinh  bằng chính con đường khổ nạn, và cái chết tức tưởi, câm lặng của Ngài trên Thánh Giá.

Vâng, hơn lúc nào hết, giữa đại dịch Covid, giữa những thử thách của đời sống  và gọng kìm của sự dữ đang bao vây, xiết chặt, đẩy con người vào cô đơn, bế tắc. Những nỗi đau thiếu thốn vật chất, nỗi khổ cô đơn, cô độc, nỗi lo chết vì lây nhiễm dịch bệnh đang thử thách đức tin của chúng ta, và đức tin ấy sẽ chỉ được tôi luyện, củng cố, nếu chúng ta dám tin rằng: chúng ta đang chung phần đau khổ với Đức Giêsu, và Đức Giêsu đang chia sẻ đau khổ với chúng ta. Ngài là Thiên Chúa ở với con người, và có mặt giữa con người cho đến tận thế, không một giây phút rời bỏ con người.

Xác tín như thế, chúng ta sẽ được cùng Ngài đi vào Mầu Nhiệm Phục Sinh với Ngài, qua cánh cửa của đau khổ và sự chết là “giá chuộc muôn người ”, giá xóa bỏ tội lỗi và cứu độ chúng ta.

Về mục lục

HÃY CÚI XUỐNG PHỤC VỤ

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Dịch bệnh- phong tỏa là những từ ngữ ám ảnh và sợ hãi nhất của người Miền Nam lúc này. Dịch đến ai, thì người đó phải đi cách ly chịu trăm ngàn khó khăn, rồi ngay cả những người trong gia đình và cả khu xóm lại bị phong tỏa, rào chắn đến nỗi “nội bất xuất, ngoại bất nhập”, sống thiếu thốn và đầy lo âu sợ hãi.

Có những nơi bị phong tỏa kéo dài 3-4 tháng trời! Cuộc sống hoàn toàn sống nhờ và chờ sự bố thí. Nhưng chính trong hoàn cảnh khó khăn của thời thế lại tạo anh hùng. Anh hùng ở đây là những người hùng đã chẳng quản ngại gian nan, hiểm nguy để dấn thân làm thiện nguyện cứu giúp đồng bào mình. Rất nhiều những hình ảnh đẹp nơi các thiện nguyện viên nhiệt thành đi kiếm rau, kiếm gạo, kiếm mì tôm để tiếp tế cho anh em mình đang trong vùng phong tỏa. Rất nhiều những thiện nguyện viên cúi xuống chăm sóc cho các bệnh nhân f0 đang thoi thóp với mớ hỗn động của dây thở oxy . ..

Họ chẳng màng đến danh vọng, quyền lợi. Họ chỉ làm vì một điều duy nhất là theo bản năng thấy người ta đói thì cho ăn, ai nỡ để anh em mình đói khổ?  Họ thuộc đủ mọi thành phần. Cócác linh mục, tu sĩ, giáo dân, người khác đạo thiện nguyện, với nhiều hình thức: Giúp bệnh nhânvà những người bị phong tỏa, họ quyên góp cung cấp lương thực, thuốc men, bình oxy…

Nếu được hỏi về động cơ để dấn thân thì ai cũng nói là vì Chúa, vì Giáo hội mà dấn thân nên chẳng nề gian nan vất vả, hiểm nguy.  Có nhiều các bạn trẻ đã can đảm xông pha vào tâm dịch dầu biết rõ rủi ro, hiểm nguy, và đã không ít người cũng đã bị lây nhiễm bệnh sau ít ngày xông pha.

Đây là điều mà Chúa Giê-su luôn mời gọi những người môn đệ là phải sống phục vụ trong yêu thương và khiêm hạ. Dầu phải hy sinh, phải nằm gai nếm mật mà Chúa bảo đó chính là “chén đắng” vẫn can trường đón nhận: “Chén Thầy uống, các con cũng sẽ uống, và phép rửa Thầy sắp chịu, các con cũng sẽ chịu”. Vì chưng “ai muốn thành người cầm đầu trong các con, thì hãy tự làm nô lệ cho mọi người. Vì chính Con Người cũng không đến để được phục vụ, nhưng để phục vụ và ban mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.

Đời người ky-tô hữu phải trở nên dấu chỉ cho tình yêu thương mới xứng danh là môn đệ Chúa. Tình yêu thương không dừng lại ở sự xót thương những mảnh đời bất hạnh mà còn phải làm điều gì đó để xoa dịu nỗi đau cho anh em. Cuộc đời người ky-tô hữu không có yêu thương thì cũng như cây khô héo mà Chúa bảo sẽ mang chất thành củi khô mà đốt. Như muối đã lạt quăng ra đường cho đời dẫm nát. . .

Hôm nay Giáo hội Việt Nam cùng chung một tâm tình là cầu nguyện xin ơn Chúa chữa lành cho nhân loại, và mời gọi từng người tín hữu cũng hãy làm điều gì đó giúp cho anh em đang khổ đau. Giáo Hội Việt Nam đang mời gọi mọi người tín hữu hãy cùng hát lên tâm tình đầy yêu thương như cha Kim Long đã từng viết:  “ Xin hãy thương yêu nhau, vui với ai mừng vui, khóc với ai đang khổ sầu . Để tình yêu bừng cháy tiên diệt sự chết. Tình yêu bền vững, tháng năm chẳng tàn phai. Vì tình yêu là chính giới luật của Chúa, tình yêu tuyệt đối. Chính Chúa là tình yêu.

Thiên Chúa có thể chữa lành dịch bệnh nhưng Ngài lại rất cần con người cúi xuống băng bó cho nhau. Xin chúng ta luôn là cây lúc chịu nát tan để cánh đồng lúa của Giáo Hội luôn nặng trĩu hạt yêu thương và hy sinh. Amen

Về mục lục

LÃNH ĐẠO NHƯ CHÚA GIÊSU

Giuse Phạm Đình Ngọc

Phải khiêm tốn nhìn nhận rằng trong mỗi người chúng ta, đâu đó cũng ước muốn có địa vị thật cao trong xã hội. Mình phải làm sao để dưới một người, trên vạn người mới gọi là thành công. Tiếc là hấp lực ấy đã khiến nhiều người lao vào tìm kiếm và tranh dành như con thiêu thân. Hậu quả là chính họ và nhiều người khác bị tổn hại vì sự cao ngạo và cách lãnh đạo hà khắc của họ.

Thực ra vấn đề trên đây không mới. Trong Tin Mừng[1], không ít lần chúng ta thấy các môn đệ xin cho mình được nổi tiếng với Đức Giêsu. Suốt ba năm rao giảng Tin Mừng, Đức Giêsu đã chiếm được cảm tình của dân chúng. Không ít người tung hô và muốn Đức Giêsu lên làm vua của họ, nghĩa là trở thành người lãnh đạo. Là các môn đệ thân tín với Đức Giêsu, các ông phần nào cũng được thừa hưởng “hào quang” này. Bởi thế mà trong Tin Mừng Chúa Nhật 29 hôm nay, chúng ta hiểu được tại sao hai muôn đệ là Giacôbê và Gioan lại xin với Đức Giêsu cho mỗi người một bên, khi Đức Giêsu vinh thắng. Có lẽ vì ý hướng không ngay lành trong lời xin này của hai ông, nên Đức Giêsu mới trách rằng: “Các anh không biết các anh xin gì!” (Mc 10,36). Nếu có mặt trong lúc này, chúng ta cũng thấy hai ông chỉ muốn ngồi mát ăn bát vàng. Hai ông chỉ muốn đi thẳng đến giai đoạn phục sinh mà bỏ qua con đường đau khổ.

Tôi tin ai cũng biết đi theo Đức Giêsu là có ngày được hưởng vinh quang, được vào Nước Trời. Tiếc là trước đó, Đức Giêsu luôn đòi mỗi người phải trải qua con đường thập giá, phải uống chén đắng mà cuộc đời mang lại cho người môn đệ. Nhiều lúc tôi và bạn cũng hăng hái xin uống, như hai môn đệ trong câu chuyện này: “Thưa thầy, chúng con sẵn sàng uống.” (x. Mc 10,39). Nhưng trên thực tế lại khác hoàn toàn. Gặp gian nan thử thách, nhất là đối diện với cái chết, thử hỏi mấy ai dám một lòng tín trung với Thiên Chúa. Điều thú vị là ai bước với Đức Giêsu trong đau khổ, thì cũng được ở với Người trong vinh quang. Đó vừa là lời hứa bảo đảm của Thiên Chúa, nhưng cũng là thách đố cho mỗi người chúng ta.

Dẫu sao chúng ta thử lắng nghe, nhìn vào nhóm môn đệ lúc này, điều gì đang xảy ra? Số là hai môn đệ kia xin mỗi người một bên thầy Giêsu, những người còn lại đâm ra tức tối. Lòng ganh tị của họ là nguyên nhân gây ra chia rẽ. Đành rằng một nhóm phải có người lãnh đạo, nhưng nếu hai môn đệ này được ngồi bên tả, bên hữu thầy Giêsu, trong hoàn cảnh này, tự nhiên những thành viên khác bị xem thường, trở nên những người bị trị. Vì suy diễn như thế, nên họ mới tranh cãi xem ai là người lớn nhất trong nhóm.

Đang hăng máu tranh dành địa vị, Đức Giêsu cho các ông một bài học về thế nào là người lãnh đạo theo đúng ý Chúa. Đức Giêsu xác nhận rằng các thủ lãnh thế gian thường bị rơi vào vòng xoáy quyền lực này (Mc 10,42). Họ sẵn sàng đấu đá, tranh dành để vươn lên chức cao nhất bao nhiêu có thể. Trên đó, họ lấy quyền mà cai trị dân. Đó là chuyện của chính trị, của xã hội từ cổ chí kim, hiện tại cũng thế. Nhìn tới nhìn lui thử tìm được mấy nhà lãnh đạo dân sự vì nước vì dân? Thay vào đó, người làm lớn theo phong cách của thầy Giêsu phải là:

– Làm người phục vụ: Theo cách hiểu của Công giáo, người phục vụ tốt là người hết lòng theo một lý tưởng cao cả nào đó. Ở đây Đức Giêsu muốn các ông phải hạ mình, cúi xuống rửa chân cho nhau (Ga 13, 1-15). Để phục vụ tốt, người ta phải chú trọng đến tình yêu như là động cơ thúc đẩy mọi ý hướng và hành động của họ hướng đến người khác. Trong tâm thế này, người phục vụ hẳn nhiên không tìm sự nổi tiếng, lời tung hô, nhưng trong sự khiêm tốn, như một người thợ được đặt làm việc trong vườn nho của Thiên Chúa.

– Làm người đầy tớ: “Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” (Mc 10,44) Đây là một nghịch lý mà không phải người lãnh đạo nào cũng dám chấp nhận. Bởi đầy tớ là người vô danh tiểu tốt, làm những việc tầm thường, không đáng để người đời tán dương ca tụng. Điều này hợp lý, nhưng với Thiên Chúa lại hoàn toàn khác. Khi phục vụ bằng cái tâm, với nhiều tình yêu, người đầy tớ của Thiên Chúa biết mình chỉ là công cụ trong tay Ngài. Nếu Thiên Chúa dùng họ trong công việc gì, thì họ sẵn lòng quảng đại để đáp lời xin vâng[2]. Trong sự vâng phục này, tuy họ phục vụ trong cương vị là người đầy tớ, nhưng người đời sẽ nhận ra họ là chứng tá của Thiên Chúa[3]. Nhờ vậy, qua người đầy tớ này, danh Thiên Chúa được cả sáng, và dĩ nhiên, người này cũng chung phần vinh quang với Chúa. Bởi thế mà suốt dòng lịch sử của Giáo hội, chúng ta thấy biết bao vị Giáo hoàng, các vị thánh thực sự là đầy tớ trung thành của Thiên Chúa và con người. Tình yêu của họ cảm hóa được tha nhân, cung cách phục vụ của họ chiếm được lòng dân. Họ là những anh hùng, là nhà lãnh đạo tài đức, bởi họ đã thuộc lòng bài học của thầy Giêsu dành cho những ai muốn lãnh đạo theo Ngài.

– Hiến mạng vì anh em: Nhà lãnh đạo là người đứng mũi chịu sào. Họ phải là người mục tử sống chết vì đoàn chiên. Chúng ta còn nhớ mẹ Têrêsa thành Calcutta, một phụ nữ chân yếu tay mềm, nhưng cả đời xả thân phục vụ những con người khốn cùng. Mẹ không tử đạo theo nghĩa đen[4], nhưng mẹ đã trao hiến thời gian, sức lực, ước mơ và tình yêu cho công cuộc loan báo tin mừng nơi những người nghèo. Phải chăng vì phong cách lãnh đạo này mà mẹ đã trở nên “vị thánh, người hùng và là người lãnh đạo” không chỉ trong lòng chúng ta, nhưng còn cho rất nhiều nhà lãnh đạo trên thế giới[5]. Lý do: Mẹ không dùng vũ lực để đáp trả bạo lực, nhưng dùng tình yêu, hiến thân để cảm hóa lòng người.

Các bạn trẻ thân mến,

Những lời chia sẻ trên đây tôi muốn dành tặng cho các bạn và cho chính tôi. Chúng ta đang học tập để trở nên nhà lãnh đạo. Trước là lãnh đạo trong gia đình, sau là Giáo xứ, Giáo hội và xã hội. Hãy mạnh dạn học với thầy Giêsu để trở nên nhà lãnh đạo tài đức. Xin đừng quen ra lệnh, hoặc chỉ trỏ quát tháo. Hãy khiêm hạ phục vụ anh em như người tôi tớ trung thành của Thiên Chúa. Gương lành và đời sống thánh thiện sẽ là bằng chứng để cảm hóa mọi người. Rồi khi có địa vị và quyền lãnh đạo trong tay, tinh thần phục vụ sẽ chi phối cho bạn biết cách giúp người khác thăng tiến trên con đường sự thật và tình yêu.

Chắc đến lúc chúng ta phải nghĩ khác: thay vì lãnh đạo theo kiểu “quyền lực cứng”, hãy bắt chước Đức Giêsu, hướng dẫn người khác bằng việc lành phúc đức, bằng tinh thần của người phục vụ vì Thiên Chúa và vì anh em đồng loại (quyền lực mềm). Được như thế, chắc rằng chúng ta sẽ có cơ hội làm lớn!

 

[1] Mt 20,20-23; Lc 22,24-27; Mc 10,35-45

[2] “Ðối với anh em cũng vậy: khi đã làm tất cả những gì theo lệnh phải làm, thì hãy nói: chúng tôi là những đầy tớ vô dụng, chúng tôi đã chỉ làm việc bổn phận đấy thôi.” (x. Lc 17,7-10)

[3] Đức Giáo Hoàng Phaolô VI nhắn với mỗi người chúng ta, với các nhà lãnh đạo Công giáo: “Con người hôm nay cần chứng nhân hơn thầy dạy” (x.Tông Huấn Evangelii Nuntiandi, 41).

[4] Tử vì đạo là làm chứng cho đức tin, làm chứng cho Đức Kitô bằng cái chết của chính mình. Chẳng hạn ở Việt Nam, chúng ta có 117 vị thánh tử đạo.

[5] Ngày 6/9/1997, Mẹ Têrêsa qua đời ở tuổi 87 tại Calcutta. Chính phủ Ấn Độ đã tổ chức lễ quốc tang trọng thể cho Mẹ với sự có mặt của hơn 400 chính khách quan trọng của hơn 20 nước, trong đó có 3 nữ hoàng và 3 tổng thống.

Về mục lục

LỪNG DANH

Lm Vũđình Tường

Đức Kitô dậy môn đệ lối sống mới. Lối sống mới khác biệt rất nhiều so với lối sống cũ. Cuộc sống hiện tại thay đổi ít, lối sống thay đổi nhiều. Trưởng thành trong lối sống mới, cuộc sống còn thay đổi nhiều hơn nữa. Trong thời kì chuyển tiếp này môn đệ Đức Kitô thường lúng túng, khi xử thế theo lối cũ, lúc lại xử thế theo lối mới. Khác biệt chính do cách làm việc khác nhau giữa khối óc và con tim. Lối cũ hướng dẫn bởi khối óc. Khối óc hành xử cách cứng rắn, sắt thép, tính toán hơn thiệt trước khi đưa ra hành động. Lối sống mới nghe tiếng nói của tim. Sống tình cảm, theo nhịp rung của con tim để hành xử. Đối xử, giúp đỡ anh em ít hay nhiều đều lệ thuộc vào mức rung động, cảm nhận, bén nhậy của con tim. Thiên Chúa đối xử với tha nhân bằng con tim Ngài. Môn đệ Đức Kitô rất thích lối sống mới, sống tình cảm. Tuy nhiên các ông cần thời gian để học hỏi, làm quen với lối sống tình cảm.
Lẫn lộn giữa mới và cũ. Có lần trên đường đi Capernaum các ông tranh biện ai là người khá nhất, xứng đáng trở thành thủ lãnh, lãnh đạo nhóm. Về nhà, Đức Kitô hướng dẫn các ông. Phong cách trong lối sống mới, lãnh đạo chính là khiêm nhường phục vụ.
‘Ai muốn làm người đứng đầu, thì phải làm người rốt hết, và làm người phục vụ mọi người Mc 9,35.
Được Đức Kitô chọn làm tông đồ là một đặc ân lớn. Giacôbê và Gioan vẫn ước mong được hơn anh em. Học từ kinh nghiệm lần trước, các ông không tranh cãi ai lớn, ai nhỏ nữa. Lần này hai anh em trực tiếp gặp Đức Kitô xin Ngài ban cho điều các ông mong đợi.
‘Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang Mc 10,37
Ba lần Đức Kitô tiên đoán Ngài sẽ bị bắt, chịu đóng đanh, chết và sau ba ngày sống lại. Môn đệ Đức Kitô tin vào sự thông minh, tài trí, cách thoát hiểm siêu quần của Thầy. Các ông tin Thầy luôn có cách tự giải thoát khỏi mọi tai họa. Không ai có thể ám hại được Thầy. Môn đệ tin điều Đức Kitô tiên đoán về cái chết của Ngài sẽ không xảy ra. Nếu tin điều đó thực sự xảy ra, các ông không xin được ngồi bên tả, bên hữu Đức Kitô. Mười môn đệ kia ghen tức khi nghe điều hai anh em Giacôbe và Gioan xin vì các ông không tin Đức Kitô sẽ chết. Trường hợp các ông tin Đức Kitô chết, ba ngày sau sẽ sống lại, các ông đã không chán nản, chạy trốn sau khi Đức Kitô bị bắt. Điều các ông ghen tức cho biết sống theo tiếng gọi của con tim quả chưa bén rễ sâu trong tâm hồn các ông. Đức Kitô không khiển trách các ông nhưng hướng dẫn thêm cho các ông. Ngài nói với các ông hy sinh, tận hiến là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Chính Ngài tự chọn đi con đường đó để đến với Chúa cha. Chính Đức Kitô tự chọn thì việc Ngài để cho bị bắt, đóng đinh, sống lại là điều chắc chắn sẽ xảy ra. Vì thế Ngài mới xác nhận Ngài đến để hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc muôn dân.
‘Ai muốn làm đầu thì phải làm đầy tớ mọi người. Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người’. Mc 10,45
Môn đệ Đức Kitô cũng học từ Thầy Chí Thánh. Các ông cũng tự nguyện hy sinh, chấp nhận đau khổ, vui lòng hiến thân với mục đích duy nhất là làm Vinh Danh Thiên Chúa. Thiên Chúa được vinh danh không phải vì hy sinh, đau khổ của môn đệ, mà chính là lòng yêu mến, lòng tín trung môn đệ dành cho Thiên Chúa mạnh hơn cả đau khổ và sự chết.
Đức Kitô không ban cho hai anh em điều họ xin, nhưng ban cho chén Ngài sắp chịu, cũng như phép rửa Ngài sắp lãnh nhận. Hai anh em đồng í nhưng không hiểu rõ đó là chén gì và phép rửa đó ra sao. Đức Kitô sống lại từ chõi chết cho biết: Cái ác thắng nhất thời, sự thiện thắng muôn đời. Đi theo con đường Đức Kitô hướng dẫn chính là chọn thua để thắng, chọn hy sinh, đau khổ để được vinh quang. Chọn chết nhất thời để sống muôn đời.
Ba lần Đức Kitô nói về cái chết của Ngài. Ba lần đồng nghĩa với nhiều lần. Trong trường hợp Đức Kitô, ba lần còn có nghĩa là điều đó chắc chắn xảy ra. Kẻ chống đối Đức Kitô hành xử bằng lí chí, bằng phán đoán của khối óc. Họ tin là sức mạnh của họ có thể triệt tiêu lối sống tình cảm Đức Kitô rao giảng. Đúng thế hành động ác độc gây đau khổ có khả năng phá hoại thân xác con người, nhưng không thể xác định ác độc lay chuyển nội tâm, thay đổi tâm tính nạn nhân. Lòng xót thương gây thiện cảm, hoán cải. Đây chính là đường lối Chúa.
Roi đòn làm rách nát thân thể Đức Kitô. Thập giá tàn phá hình tượng Ngài, lưỡi đòng đâm thấu tim. Trong khi đó tâm tư Ngài dành cho Chúa Cha không lay chuyển. Tình yêu Ngài dành cho muôn dân trong sáng hơn. Ngài chết trong thinh lặng làm người sĩ quan lãnh đạo quân lính hành hình đấm ngực ăn năn vì hành động tàn bạo, hối lỗi vì lời nói tục tĩu, thô lỗ. Bạo lực đã thua. Khiêm nhu đã thắng.
Tình yêu chân chính luôn đi chung với hy sinh. Đức Kitô trở thành vĩ đại cho muôn dân. Môn đệ Đức Kitô chọn đi con đường đó để làm Vinh Danh Chúa. Đức Kitô chết như người nô lệ vô danh. Ba ngày sau, Ngài sống lại, Danh Ngài vang lừng cho toàn thể nhân loại. Kitô hữu sống là sống cho Đức Kitô và chết là chết trong Đức Kitô để được chia sẻ vinh quang Danh Ngài.

Về mục lục

CHỖ ĐỨNG CỦA NGƯỜI MÔN ĐỆ

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu để xin Người một ân huệ. Họ muốn được ngồi một người bên hữu, một người bên tả Thầy khi Thầy được vinh quang. Nghe vậy, cả mười môn đệ khác đều tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Thầy Giêsu đã gọi tất cả các ông lại mà dạy cho biết người làm đầu phải là người hầu hạ và trở nên đầy tớ mọi người.

“Thưa Thầy, chúng con muốn Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Chúa Giêsu đã lắng nghe hai ông cầu xin. Người hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Họ mạnh dạn cầu xin: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang” (Mc 10, 37). Các ông ước muốn quyền lực, danh vọng và giàu sang. Các ông nuôi hy vọng Thầy sẽ làm vua. Các ông theo Thầy bấy lâu cũng vì những mộng ước ấy. Thế nhưng, đó không phải là mục đích của Người khi đến trần gian. Trước lời cầu xin đầy táo bạo và đầy toan tính của hai ông, Thầy Giêsu không trách mắng hai ông, không nổi giận với hai ông nhưng chỉ thốt lên: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Trước câu hỏi của Thầy, hai ông mau mắn đáp lại: “Thưa được”. Các ông còn chưa hiểu chén của Thầy là chén đắng Cha trao, phép rửa mà Thầy sẽ chịu chính là hiến tế chính mình trên cây thập giá. Người hứa với các ông: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì người ấy mới được” (Mc 10, 39-40). Người đã muốn các ông được chung phần với mình.

Trong thời đại hôm nay, có rất nhiều Kitô hữu cũng đã chạy đến với Chúa và thưa lên cùng một cách thế như vậy. Mỗi người đều xin Chúa thực hiện cho mình điều mình muốn, dù nhiều khi chính họ không hiểu mình đang xin gì. Họ ít bận bân đến việc đâu mới là điều Chúa muốn họ làm, hay đâu mới là điều làm đẹp lòng Chúa. Chúa thấu biết mỗi người cần gì trước khi họ cầu xin, Người sẽ ban cho mỗi người mỗi cách.

Mười môn đệ kia có nuôi hy vọng giống hai anh em này không? Các ông tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Các ông đang bước đi cùng Thầy nhưng chưa cùng chí hướng với Thầy. Về phần mình, Thầy Giêsu biết rõ con đường Thương Khó mà mình sắp bước vào, biết rõ phép rửa mà Người sẽ thực hiện bằng việc hiến tế chính mình. Người khao khát đến cháy bỏng mong cho được hoàn tất phép rửa ấy, để dâng lên Thiên Chúa Cha hy lễ tình yêu. Đã hai lần Người thẳng thắn loan báo cho các môn đệ về cuộc Thương Khó và Phục Sinh nhưng các môn đệ không hiểu, không chia sẻ được tâm tư của Thầy. Các ông sợ hãi nhưng mỗi người cũng bận tâm cưu mang trong mình những toan tính về địa vị và quyền lực. Các ông tranh cãi nhau để dành chỗ nhất, các ông tức tối với nhau, không còn một lòng một chí như trước nữa. Người hiểu rõ các ông đầy những giới hạn như thế nhưng Người vẫn một lòng yêu thương các ông. Đức Giêsu đã gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm đầy tớ mọi người” (Mc 10, 42-44). Chính Người đã đến không phải để được người ta phục vụ nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mc 10,45). Đó mới là chỗ đứng của người môn đệ, là tâm tình và ước muốn mà người môn đệ cần cưu mang.

Lạy Chúa Giêsu! Đã bao lần con khẩn thiết dâng lời cầu nguyện, nhưng cũng bấy nhiêu lần con đã chỉ xin Chúa làm điều con muốn. Con xin lỗi Chúa về cách hành xử của mình. Con cũng tạ ơn Chúa vì tình thương mà Chúa dành cho con. Chúa đã sửa dạy con, nâng đỡ con. Người không quay mặt làm ngơ khi con lỗi lầm nhưng rộng tình tha thứ. “Lạy Thiên Chúa là Cha giàu lòng thương xót, xưa Chúa đã làm cho mạch nước tuôn trào từ tảng đá để nuôi dân được no thỏa khỏi cơn khát. Xin Chúa cũng ban cho con dòng lệ ăn năn sám hối chảy ra từ trái tim khô cằn, chai cứng của con, cho con biết đón nhận tình thương và ơn tha thứ của Chúa”.  Để khi được Chúa xót thương, con cũng biết dùng tình thương mà đối xử với anh chị em con. Amen.

Về mục lục

THUẬT LÃNH ĐẠO

Thiên San

Tin Mừng hôm nay kể lại cho chúng ta về việc hai anh em Giacôbê và Gioan đến xin Thầy Giêsu cho họ được ngồi bên tả và bên hữu Thầy, khi Thầy đợc vinh quang. Đức Giêsu trả lời: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” (Mc 10, 38). Các ông trả lời: “Thưa được” (Mc 10,39). Đức Giêsu dạy rằng, phép rửa và chén Ngài sắp chịu, sắp uống các ông cũng sẽ được chung phần, còn việc ngồi bên hữu hay tả thì Ngài không có quyền cho, Chúa Cha đã định cho ai thì kẻ ấy được. Mười môn đệ kia nghe thấy vậy đâm ra tức tối với các ông. Bấy giờ, Đức Giê su mới dạy các ông về thuật lãnh đạo.

Theo Thầy bấy lâu, các môn đệ chưa hiểu được sứ mạng thật sự của Thầy mình. Các ông mơ tưởng về một tương lai với quyền bính của thế gian. Bởi đó, các ông mới đến “xí chỗ” trước. Đức Giêsu nói thẳng cho các ông biết là các ông không biết mình đang xin gì. Quả thực, nếu các ông thật sự biết chén và phép rửa của Thầy sắp chịu thì chắc hẳn các ông đã không dám xin Thầy điều đó. Đức Giêsu là Đấng Kitô, là Tôi Trung của Thiên Chúa. Ngài đến thế gian, sống giữa nhân loại tội lỗi nhưng không phạm tội. Ngài là vị Thượng Tế, là Đấng cảm thương với những yếu hèn của ta (x. Dt 4, 15). Ngài là vị tôi trung, nếm mùi đau khổ để làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của muôn người (x. Is 53,11). Sau khi Đức Giêsu hoàn tất sứ mạng, phục sinh vinh hiển, các tông đồ lần lượt được cùng uống chén với Thầy.

Trong khi các môn đệ khác đang tức tối với hai anh em nhà Giacôbê thì Đức Giêsu mới gọi các ông lại, ôn tồn chỉ bảo. “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người (Mc 10, 42-44). Đức Giêsu không chỉ nói không không. Chính Ngài đã trở nên người phục vụ giữa mọi người. Người đã nói rõ: “Vì Con Người đến không phải để người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người (Mc 10, 45). Quả thực, những ai đi theo Thầy Giêsu đều học được bài học về việc lãnh đạo mà Thầy đã dạy. Họ phải là những người phục vụ, là đầy tớ giữa mọi người. Người phục vụ luôn chủ động chăm lo cho mọi người. Họ không dùng uy quyền để thống trị hay điều khiển người khác. Những người lãnh đạo theo tinh thần của Đức Kitô phải là những người biết dùng tình thương để phục vụ.

Sự khác biệt giữa cách lãnh đạo của Đức Kitô và những người theo tinh thần thế gian là một thách đố lớn. Trong khi người đời tìm kiếm quyền lực, danh vọng và “ghế ngồi” thì người môn đệ Đức Kitô được mời gọi tìm cho mình một chỗ rốt hết, là người phục vụ, là đầy tớ của mọi người. Bao lâu ta còn muốn dùng quyền lực để điều khiển và chi phối kẻ khác thì bấy lâu ta chưa thấm được bài học của Thầy Giêsu. Bao lâu ta muốn người khác phục vụ mình thì bấy lâu ta chưa thể là nhà lãnh đạo đích thực. Ngời lãnh đạo theo gương Đức Giêsu phải là người biết họa lại cuộc sống của Thầy, phải chấp nhận nhỏ bé và rốt hết. Nếu ai cũng trở nên nhỏ bé, coi người khác hơn mình thì cuộc sống sẽ bớt đi sự tranh giành cắn xén lẫn nhau. Đổi lại, cuộc sống là sự yêu thương ngập tràn. Đó là cách lãnh đạo Đức Giêsu đã thực hiện.

Về mục lục

VẤN ĐỀ PHỤC VỤ

Trầm Thiên Thu

Tương tự nhiều vấn đề “tế nhị” khác, Phục Vụ là vấn đề muôn thuở. Phục Vụ đối lập với Hưởng Thụ. Cả hai đều có vần Ụ nên cả hai đều khó thực hiện, vì cái gì bị “đắp ụ” đều gây rắc rối, và ai cũng thích mình là ông CỤ chứ không khoái là thằng CU. Cả chữ Phục Vụ và Hưởng Thụ đều quan trọng ở dạng động từ hơn là danh từ, nghĩa là phải hành động cụ thể chứ không nói suông. Vì Chúa Giêsu truyền lệnh: “Hãy phục vụ, đừng hưởng thụ.” (Mc 9:35)

Ý Chúa hoàn toàn khác hẳn ý phàm nhân. Người ta muốn làm lớn thì Ngài bảo phải làm nhỏ, người ta thích khoác lác thì Ngài cấm khoe khoang, người ta ưa an nhàn thì Ngài bắt phải làm việc, người ta khoái vơ vét vào thì Ngài bảo phải chia sẻ. Cứ thế và cứ thế: Phục vụ.

Nhưng phục vụ là thế nào? Phục vụ là giúp đỡ mọi người – có thể đó là những việc PHẢI LÀM theo bổn phận, theo trách nhiệm, hoặc có thể là việc MUỐN LÀM vì tự ý, tình nguyện. Tinh thần phục vụ không làm cho người ta thấp kém mà làm cho người ta nên cao quý, vì phục vụ là dâng hiến chính con người bé nhỏ của mình cho Thiên Chúa, Đấng tối cao tuyệt đối. Phục vụ người khác là phục vụ Thiên Chúa – phục vụ Ngài qua tha nhân. Đó là điều thực sự khó!

Trong xã hội loài người, hằng ngày các công ty, siêu thị, cửa hàng hoặc quán xá luôn có những đợt tuyển nhân viên phục vụ. Công việc của người phục vụ rất bình thường, đôi khi bị coi là tầm thường, nhưng thật ra lại rất cần thiết. Có thể nói rằng không có họ thì các sinh hoạt xã hội khó tồn tại. Không có các công nhân thì giám đốc chỉ bó tay, và xã hội sẽ không có sản phẩm để tiêu thụ. Cách phân biệt “cao – thấp” là do quan niệm của những người thiển cận, nông cạn – tương tự dạng “thiểu não” mà thôi. Chỉ có người xấu chứ không có nghề xấu, cũng không có nghề nào hơn nghề nào.

Thật vậy, tiền nhân nhận xét chí lý: “Nhất sĩ, nhì nông; hết gạo chạy rông… nhất nông, nhì sĩ.” Ảnh hưởng “cao – thấp” là do quan niệm xưa: Sĩ, Nông, Công, Thương, Binh. Kẻ sĩ được coi là “dân ngon lành.” Thế nhưng hết gạo ăn thì “ngon” cái nỗi gì? Ai hơn, ai kém? Liệu còn sức để vênh cái mặt lên? Còn trong gia đình, ai to hay nhỏ mà phân biệt việc giặt giũ, đi chợ, nấu ăn, rửa chén, quét nhà,…?

Trong cuộc sống, mọi người đều phục vụ lẫn nhau, dù là trực tiếp hoặc gián tiếp, hoặc bằng cách nào đó. Đừng tưởng tôi tớ mới phải phục vụ chủ nhân, mà chính chủ nhân cũng phải phục vụ tôi tớ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có nhân viên mới phải phục vụ giám đốc, mà chính giám đốc cũng phải phục vụ nhân viên bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có đệ tử mới phải phục vụ sư phụ, mà chính sư phụ cũng phải phục vụ đệ tử bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có giáo dân mới phải phục vụ linh mục quản xứ, mà chính linh mục cũng phải phục vụ giáo dân bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có bề dưới mới phải phục vụ bề trên, mà chính bề trên cũng phải phục vụ bằng cách nào đó; đừng tưởng chỉ có người nhỏ mới phải phục vụ người lớn, mà chính người lớn cũng phải phục vụ người nhỏ bằng cách nào đó; v.v…

Rất nhiều mối quan hệ trong xã hội, mọi mối quan hệ đều liên đới với nhau. Vợ chồng đối với nhau, cha mẹ và con cái đối với nhau, anh chị em đối với nhau, bạn bè đối với nhau,… nói chung là con người đối với con người. Chúa Giêsu đã có nguyên tắc sống: “Ai làm đầu phải hầu thiên hạ.” (x. Mt 20:25-28; Mc 10:40-45) Đó là luật.

Kinh Thánh cho biết rằng, sau khi được Chúa Giêsu chữa khỏi chứng sốt nặng, nhạc mẫu của ông Phêrô liền chỗi dậy PHỤC VỤ Người. (x. Mc 1:29-31; Lc 4:38-39) Chính Chúa Giêsu đã từng minh định: “Thầy sống giữa anh em như MỘT NGƯỜI PHỤC VỤ.” (Lc 22:27) Quả thật, ngay tại Bữa Tiệc Ly, trước khi bị bắt, chính Chúa Giêsu đã đích thân hạ mình bằng cách quỳ xuống mà rửa chân cho các môn đệ, Ngài muốn làm gương và dạy về tầm quan trọng của sự phục vụ (x. Ga 13:3-20) cho mọi người, nhất là những ai muốn trở nên hoàn thiện.

Vấn đề phục vụ có liên quan thái độ “chảnh” – vì phục vụ trái ngược với kiêu căng. Người ta thường thích “sai” người ta làm cái này, việc nọ, và phải như thế mới oai. Chỉ là ảo tưởng và ngu xuẩn, vì đi ngược lại đường lối của Chúa mà lại dám hãnh diện. Một hành động mà hai tội: khinh người và kiêu ngạo. Việc phục vụ rất bình thường mà lại quá nhiêu khê. Phục vụ là dấn thân, rất cần phải khiêm nhường thật lòng mới có thể phục vụ hết mình. Nếu không thì thêm tội chứ chẳng thấy phúc đâu!

Thật lạ, vấn đề phục vụ còn liên quan nịnh bợ, tâng bốc, ranh mãnh, mưu thâm kế độc. Cứ thấy “ông to, bà lớn” thì họ tìm mọi cách đưa đón, đâm thọt, đãi bôi, gièm pha,… cốt để tỏ ra mình có uy, tìm mọi cách “bợ trên, đạp dưới.” Lũ sai nha bất nhân đó chỉ là “cáo mượn oai hổ,” chứng tỏ đầu óc kém cỏi, ngu dốt với cái đầu rỗng tuếch. Họ chỉ trích người khác mà lại tự thú sự ngu xuẩn xấu xa của chính mình, ngu dại mà cứ tưởng mình giỏi giang.

Thời nay có những người rất dị hợm, không muốn phục vụ mà chỉ muốn hưởng thụ. Việc nhỏ không làm vì chê là nhỏ nhặt, việc lớn cũng không thể làm vì không đủ năng lực. Tiến sĩ, giáo sư, giảng viên,… nhưng lại chưa học hết trung học phổ thông. Tục ngữ Đức có câu nói thú vị: “Người ta bắt thỏ rừng bằng chó săn, bắt đàn bà bằng bạc tiền, và bắt kẻ ngu si bằng lời khen dối trá.” Mắc bẫy mà cứ tưởng mình hay. Thật kinh khiếp!

Từ ngàn xưa, ngôn sứ Isaia cho biết: “Đức Chúa đã muốn người phải bị nghiền nát vì đau khổ. Nếu người hiến thân làm lễ vật đền tội, người sẽ được thấy kẻ nối dõi, sẽ được trường tồn, và nhờ người, ý muốn của Đức Chúa sẽ thành tựu.” (Is 53:10) Nghe chừng rất lạ, vì có vẻ rất… “ngược đời,” nhưng như vậy mà lại không như thế. Nghịch mà thuận, gọi là nghịch-lý-thuận.

Rất đơn giản với lý do vừa mặc nhiên vừa minh nhiên: “Nhờ nỗi thống khổ của mình, người sẽ nhìn thấy ánh sáng và được mãn nguyện. Vì đã nếm mùi đau khổ, người công chính, tôi trung của Ta, sẽ làm cho muôn người nên công chính và sẽ gánh lấy tội lỗi của họ.” (Is 53:11) Bất cứ ai chân thành theo Chúa sẽ được tha thứ tội lỗi, được “giải án, tuyên công,” được công chính hóa, vì chính Thiên Chúa “bù lỗ” cho họ. Ôi, hạnh phúc vô cùng!

Thật diễm phúc khi chúng ta nhận biết và tôn thờ một Thiên Chúa duy nhất, (Xh 20:3; Xh 34:14; Đnl 4:35; Đnl 4:39; Đnl 5:7; Đnl 6:4; Đnl 32:39; Nkm 9:6; Gđt 8:20; Kn 12:13; Is 43:10-13; Is 44:8; Is 45:5-6; Is 46:9; Đn 3:28-29; Đn 14:41; Hs 13:4; Mc 12:29; Ga 5:44; Ga 17:3; 1 Cr 8:4; 1 Tm 2:5; Gl 3:20) giàu lòng thương xót, (Ep 2:4) công minh chính trực, (Dcr 9:9b; Hc 5:3; Br 2:6; Br 2:9; Đn 9:14; Tv 7:18; Tv 9:9; Tv 11:7; Tv 25:8; Tv 67:5; Tv 146:7) không thiên vị bất cứ ai. (1 Pr 1:17; Gl 2:6; Cv 10:34) Đặc biệt là mọi lời Ngài nói đều nên trọn: “Lời Chúa phán quả là ngay thẳng, mọi việc Chúa làm đều đáng cậy tin. Chúa yêu thích điều công minh chính trực, tình thương Chúa chan hoà mặt đất.” (Tv 33:4-5)

Thiên Chúa nhất định là Đấng chân thật, còn mọi người đều giả dối. (Rm 3:4) Thiên Chúa tốt lành tuyệt đối, Ngài “không thể bị cám dỗ làm điều xấu và chính Ngài cũng không cám dỗ ai.” (Gc 1:13) Thánh Vịnh gia đã minh chứng: “Chúa để mắt trông nom người kính sợ Chúa, kẻ trông cậy vào lòng Chúa yêu thương, hầu cứu họ khỏi tay thần chết và nuôi sống trong buổi cơ hàn. Tâm hồn chúng tôi đợi trông Chúa, bởi NGƯỜI LUÔN CHE CHỞ PHÙ TRÌ.” (Tv 33:18-20) Lòng thương xót và lòng trắc ẩn vĩnh viễn có nơi Thiên Chúa, vì Ngài là Tình yêu. (1 Ga 4:8 và 16)

Phàm nhân chúng ta có biết yêu thương cũng bởi nhờ Ngài, bắt nguồn từ Nguồn Yêu Thương của Ngài. Thiếu tình yêu, chắc chắn con người sẽ chết sớm, thậm chí chết ngay khi còn thở. Vì thế, chúng ta phải biết không ngừng cầu xin Ngài: “Xin đổ tình thương xuống chúng con, lạy Chúa, như chúng con hằng trông cậy nơi Ngài.” (Tv 33:22) Thiên Chúa hiện diện nơi những con người thật, sinh động bằng xương bằng thịt.

Có yêu thương thì mới sẵn sàng phục vụ, không yêu thương thì người ta không muốn phục vụ – dù có thể họ vẫn biết cách phục vụ. Nhưng để có thể phục vụ, người ta phải biết yêu thương; để có thể yêu thương, người ta phải biết lắng nghe nhau, đặc biệt là lắng nghe Thiên Chúa. Ước gì mọi người đều biết sẵn sàng và mau mắn như cậu Samuel ngày xưa: “Lạy Chúa, xin Ngài phán, vì tôi tớ Ngài đang lắng nghe.” (1 Sm 3:9) Cuộc sống là thực tại, không là chiêm bao hay mộng ảo.

Thật vậy, Chúa Giêsu là vị Thượng Tế biết cảm thương, luôn chạnh lòng thương xót người khác, luôn động lòng trắc ẩn trước những con người khốn khổ. Thánh Phaolô cho biết: “Chúng ta có một vị Thượng Tế siêu phàm đã băng qua các tầng trời, là Đức Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy chúng ta hãy giữ vững lời tuyên xưng đức tin.” (Dt 4:14) Tuyên tín là điều cần thiết, nhưng lại không đơn giản, vì đơn giản và cụ thể như việc làm dấu Thánh Giá mà nhiều người vẫn e ngại, nhất là khi có người khác tôn giáo hoặc ở nơi công cộng. Họ lý luận bằng cách phát âm là “làm dấu” thành “làm giấu.” Chúa Giêsu nói: “Ai tuyên bố nhận Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ tuyên bố nhận người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời. Còn ai chối Thầy trước mặt thiên hạ, thì Thầy cũng sẽ chối người ấy trước mặt Cha Thầy, Đấng ngự trên trời.” (Mt 10:32-33) Đó là phương trình công bằng.

Thánh Phaolô dùng phủ định cách để làm nổi bật sự xác định: “Vị Thượng Tế của chúng ta không phải là Đấng không biết cảm thương những nỗi yếu hèn của ta, vì Người đã chịu thử thách về mọi phương diện cũng như ta, nhưng không phạm tội. Bởi thế, ta hãy mạnh dạn tiến lại gần ngai Thiên Chúa là nguồn ân sủng, để được xót thương và lãnh ơn trợ giúp mỗi khi cần.” (Dt 4:15-16) Không đến với Lòng Chúa Thương Xót không chỉ là dại dột mà là ngu xuẩn. Tuy nhiên, nếu ảo tưởng thì chúng ta chỉ “lợi dụng” Lòng Chúa Thương Xót mà thôi, bởi vì TIN mình được Chúa thương thì KHÔNG LÀ KIÊU NGẠO, nhưng TƯỞNG mình được Chúa thương thì lại LÀ KIÊU NGẠO!

Người ta kiêu ngạo vì ảo tưởng, vì ảo tưởng nên không yêu thương – mà yêu thương rất thực tế, cần hành động cụ thể. Do đó, không yêu thương thì không thể phục vụ. Sự phục vụ đối lập với quyền hành, địa vị, chức tước, vì người có chức quyền không muốn phục vụ, chỉ muốn “chỉ dạy” và muốn được phục vụ. Chúng ta khó phục vụ bởi vì chúng ta ÍCH KỶ, Ỷ LẠI, NGẠI KHÓ, SỢ HÈN, QUEN “CHẢNH.” Thánh Tiến sĩ Thần bí Têrêsa Avila nhận xét: “Chúng ta quá tự ái, quá vận dụng tài trí trần gian để khoe khoang mình, đó là SỰ DỐI TRÁ to lớn và NGÔNG CUỒNG, các thánh nhân không như thế.”

Trình thuật Mc 10:35-45 là câu chuyện đầy kịch tính về vấn đề phục vụ – lúc cũng là thời sự nóng bỏng. Hai người con ông Dêbêđê là Giacôbê và Gioan đến gần Đức Giêsu và “lấy lòng” Ngài bằng cách rào trước đón sau: “Thưa Thầy, chúng con MUỐN THẦY THỰC HIỆN cho chúng con điều chúng con sắp xin đây.” Ngài hỏi: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?” Họ không ngần ngại vào thẳng vấn đề: “Xin cho hai anh em chúng con, một người được ngồi bên hữu, một người được ngồi bên tả Thầy, khi Thầy được vinh quang.”

Chúa Giêsu trách mắng họ và nói thẳng: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nổi chén Thầy sắp uống, hay chịu được phép rửa Thầy sắp chịu không?” Họ có vẻ “vô tư” khi trả lời Ngài: “Thưa được.” Đức Giêsu bảo: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu. Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy thì THẦY KHÔNG CÓ QUYỀN CHO, nhưng Thiên Chúa đã CHUẨN BỊ CHO AI thì kẻ ấy mới được.” Lời Chúa Giêsu luôn gây sốc cho nhiều người, khiến họ thực sự thấy “ngại” lắm. Đó cũng là tâm trạng của mỗi tín nhân thời nay vậy.

Nghe vậy, mười môn đệ kia ĐÂM RA TỨC TỐI với ông Giacôbê và ông Gioan. Bản tính ghen tỵ trong con người luôn muốn chỗi dậy, sẵn sàng vùng lên bất cứ lúc nào, nhất là khi cảm thấy mình “lép vế” hơn người khác. Ghen tỵ vì tự ái, vì “cái tôi” luôn ích kỷ, không muốn thua thiệt. Tính ghen tỵ có ở mọi nơi và trong mọi người, dễ nhận ra trong các cộng đoàn – cả xã hội và tôn giáo. Trong các giáo xứ, đoàn thể, cộng đoàn tu trì, nhóm từ thiện, thậm chí ngay trong gia đình, chúng ta vẫn thấy có tính ghen tỵ – với các mức độ khác nhau. Con gà còn tức nhau vì tiếng gáy kia mà! Tự ái và ghen tỵ là “chướng ngại vật” khiến chúng ta khó “từ bỏ mình” theo ý của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu biết các đệ tử đang hậm hực với nhau vì muốn tranh giành quyền hành, Ngài gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người.” Rõ ràng quá, không có gì khó hiểu, nói ngắn gọn là “ai muốn làm đầu phải hầu người khác.”

Sao “ngược đời” vậy? Chúa Giêsu minh chứng cụ thể: “Con Người đến KHÔNG PHẢI ĐỂ ĐƯỢC NGƯỜI TA PHỤC VỤ, nhưng là ĐỂ PHỤC VỤ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người.” (Mc 10:45) Chúng ta không thể viện cớ với bất cứ lý do gì để tự biện hộ nữa. Thật vậy, cứ “xem quả thì biết cây.” (Mt 12:33; Lc 6:44) Rất rõ ràng.

Lúc này, và hơn bao giờ hết, thiết tưởng chúng ta phải suy tư và cố gắng nhiều, đồng thời chân thành cầu nguyện như Thánh Phanxicô Assisi: “Lạy Chúa, xin cho con biết mến yêu và phụng sự Chúa trong mọi người.” Lời cầu này mệnh danh là Kinh Hòa Bình vì đậm chất phục vụ theo Ý Chúa – phụng sự Chúa TRONG mọi người. Quả thật, đúng như lời Chúa Giêsu đã xác định khi “phân loại” Chiên và Dê: “Mỗi lần các ngươi LÀM cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã LÀM cho chính Ta, mỗi lần các ngươi KHÔNG LÀM cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta là các ngươi đã KHÔNG LÀM cho chính Ta.” (x. Mt 25:31-46)

“Hãy tỏ lòng nhân hậu, nhiệt thành, và hãy bước theo chân lý của Chúa, Ðấng đã làm tôi tớ mọi người.” Đó là lời nhắn nhủ của Thánh Pôlycarpô (+155), giám mục tử đạo. Vâng, lỗi tại tôi mọi đàng!

Lạy Thiên Chúa, xin ban thêm can đảm thu mình lại để Ngài lớn lên. Con chỉ là kẻ vô dụng bất tài, nhưng vì Tôn Danh Ngài, xin biến con thành khí cụ của Ngài. Xin cho con thấy Ngài trong tha nhân, và họ cũng thấy Ngài con. Con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

HY TẾ

Lm. Giuse Trần Việt Hùng.

Khi bước vào trong nhà thờ Công Giáo, chúng ta sẽ nhìn thấy hình ảnh đau thương của Chúa Giêsu Kitô chết treo trên thánh giá nơi cung thánh. Thân mình Chúa trần trụi, đầu đội mạo gai, hai chân hai tay bị đóng đinh vào thánh giá, cạnh sườn bị đâm thủng, mình mẩy dính đầy máu và chết trong tư thế gục đầu xuống. Cái chết của Chúa thật bi thương. Những người tin vào Chúa Kitô là Đấng Cứu Thế đã kính thờ bái lạy và ghi dấu thánh giá trên mình. Chúa đã hiến thân mình làm hy tế để giao hòa nhân loại với Chúa Cha. Của lễ hiến tế là chính thân xác của Chúa Giêsu. Chúa Kitô đã chết trên thánh giá và đã sống lại vinh hiển đang ngự bên hữu Chúa Cha. Nhiều người không biết và không tin vào Chúa Kitô, họ không thể hiểu tại sao người Công Giáo lại tôn thờ một Đấng, bị xem như là tội nhân của đế quốc Rôma đã phải xử tội tử hình.

Tiên tri Isaia đã tiên báo về Đấng sẽ đến, người tôi tớ trung tín và công chính sẽ chịu khổ hình để gánh tội trần gian. Làm người ai cũng muốn sống an vui và hạnh phúc, chẳng mấy ai muốn đời mình bị đau khổ. Thực ra chỉ có đau khổ mới hóa giải được khổ đau. Nếu chúng ta không gặp đau khổ, chúng ta không biết thế nào là vui sướng hạnh phúc. Nếu chúng ta không có đau đớn bệnh hoạn, chúng ta không biết mình đang an khang khỏe mạnh. Người tôi tớ công chính đã lãnh chịu mọi thống khổ ở đời để biến đổi nó thành hoa trái tốt lành của ơn cứu độ.

Người Tôi Trung của tiên tri Isaia là hình ảnh của Đấng được Xức Dầu, Chúa Giêsu Kitô. Ngài đã chấp nhận thân phận con người yếu đuối, ngoại trừ tội lỗi. Ngài đã chọn con đường thánh giá để giao hòa. Con đường Chúa đi là con đường ngược chiều, có nhiều đau thương và chông gai. Thơ Do-thái gọi Ngài là Thượng Tế để gắn kết với hy tế mà chính Ngài đã hiến dâng. Hy lễ đền tội cho nhân loại hiến dâng lên Thiên Chúa Cha một lần là đủ.

Câu chuyện trong bài Phúc âm rất tuyệt vời. Thánh Maccô rằng hai anh em ông Giacôbê và Gioan đến gần Chúa và thưa: Xin cho chúng con một người ngồi bên hữu, một người ngồi bên tả Thầy trong vinh quang của Thầy. Sự khẩn cầu của hai ông cũng giống như sự cầu xin hằng ngày của mỗi người chúng ta. Mở lời cầu xin, nếu nhận được ơn ngay, thì dễ dàng quá. Ai cũng có thể cầu xin được. Không trải qua đắng cay thử thách, chúng ta không thể đạt được triều thiên vinh quang. Chúa Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho hai ông và các tông đồ về cách sống đạo. Muốn được hưởng vinh quang, các ngài phải uống chén đắng mà Chúa sắp uống. Có nghĩa là phải sống, phải tu luyện, phải phấn đấu trường kỳ và phải chịu mọi thử thách gian nan trong niềm tin.

Chúa Giêsu đã uống chén đắng qua tất cả những khổ đau mà Ngài phải chịu. Chúa bị người đời ruồng bỏ, chống đối, tẩy chay, khinh dể, nhạo báng, đánh đập, xô đẩy, khạc nhổ, la hét, phản bội, chối từ, đóng đinh và chết trên thập giá. Chúa chấp nhận tất cả như người tôi tớ trung tín để cảm thông mọi nỗi cơ cực của con người. Hai tông đồ Gioan và Giacôbê đã đi trọn con đường theo Chúa. Tông đồ Giâcobê là người đầu tiên trong mười hai tông đồ đã đổ máu đào làm nhân chứng cho Chúa Giêsu đã chết và sống lại. Thánh Gioan đã một đời rao giảng về tình yêu của Chúa và tín trung cho đến giây phút cuối cùng.

Tin vào Chúa là bước theo con đường Chúa đã đi. Chúng ta không thể đi theo con đường tắt để đạt vinh quang. Con đường vắn gọn, thư thái nhẹ nhàng chỉ là bánh vẽ và ảo tưởng. Muốn hành đạo tốt, chúng ta phải bước xuống. Sống đạo phải khởi đi từ trái tim yêu thương. Chúa Giêsu đã trải nghiệm kiếp người trong khiêm hạ phục vụ. Chúa là Thầy và là Chúa đã quỳ xuống, lấy nước rửa và lau chân cho các môn đệ. Chúa đã không loại trừ một ai, cho dù Chúa biết có những đôi bàn chân không xứng đáng. Chúa đã hạ mình xuống tận cùng để lãnh nhận công việc của người tôi tớ. Từ đáy vực thẳm thấp hèn, Chúa đã nâng con người lên làm bạn hữu và được đồng thừa tự vinh quang trong Nước Chúa.

Chúa Giêsu đã mở con đường phục vụ trong khiêm hạ. Một lời mời gọi phục vụ chân tình đối với tất cả các phẩm trật trong Giáo hội. Đặc biệt trong các giờ phụng vụ thánh lễ và các nghi lễ, linh mục và các thừa tác viên có những trách nhiệm và bổn phận riêng phải chu toàn. Chúng ta hãy ý thức tôn trọng lẫn nhau, đừng dẫm chân lên nhau, đừng lớn tiếng phàn nàn, đừng tỏ thái độ cau có và xúc phạm danh dự của nhau. Chúng ta cùng đến để phục vụ cộng đoàn, chứ không phải được phục vụ.

Lạy Chúa, con đường Chúa đã đi xưa là con đường khổ giá, khiêm tốn và phục vụ, xin cho chúng con biết dõi theo lối gót của Chúa để cùng xả thân hy sinh phục vụ tha nhân.

Về mục lục

CHUYỆN HAI ANH EM NHÀ DÊBÊĐÊ

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Hôm 7/10/2021, Thủ Tướng gửi công điện hoả tốc yêu cầu các tỉnh thành hợp tác tạo điều kiện cho những ai muốn có thể trở về quê an toàn, bình an trong mùa dịch này! Xem các hình ảnh, clip người dân chở nhau về quê trên những chiếc xe hai bánh, có khi còn là xe đạp hay đi bộ nữa, với quãng đường hàng trăm, có khi hàng ngàn cây số, mà thương dân mình quá! Và tôi ngạc nhiên: tại sao tình hình như vậy mà các vị lãnh đạo phải chờ đến thủ tướng ra lệnh mới làm. Làm lãnh đạo phải dự đoán được làn sóng dân trở về quê lần này, vì trước đó ít lâu đã có lần dân muốn về quê mà không được phép, nên lần này phải chuẩn bị cho việc này chứ, tại sao lại chặn dân lại như vậy?!

Ngoài tài năng, còn cần đến tấm lòng nữa mới làm lãnh đạo được! Mà phần tấm lòng này lại rất cần, nếu không, tài năng kia chỉ được sử dụng nhằm tìm lợi ích cá nhân, phe nhóm thôi!

Ngày 11.10, Giáo hội mừng lễ Thánh Giáo Hoàng Gioan 23, tôi nhớ ngay đến tên mà người ta đặt cho ngài “người cha tốt bụng” (buon papa). Ngài là con người rất bình dị và gần gũi với người bình dân, ngay cả khi là giám mục, Hồng Y và giáo hoàng nữa! Tấm lòng mục tử khiến ngài trở nên liều lĩnh, dấn thân giải quyết những vấn đề khó khăn của Giáo Hội khi làm sứ thần, nhất là liều lĩnh khi mở công đồng Vaticanô II, đưa đến những chuyển biến vô cùng quan trọng cho Giáo Hội trong cách hiện diện và trong sứ mạng với trần thế. Sự liều lĩnh này khởi đi từ cảm nhận của người cha tốt bụng: không muốn Giáo Hội sống trong sự đối đầu với xã hội trần thế! ( Lm Giuse Nguyễn Trọng Sơn, suy niệm Lễ Thánh Giáo Hoàng Gioan 23, ngày 11.10.)

Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy bài học “làm lớn”, “làm đầu” cho các Tông Đồ: “Ai muốn làm lớn giữa anh em, thì phải làm người phục vụ anh em. Ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người”. Đây là nẻo đường duy nhất đưa tới uy tín và sự cao cả thật sự. Phục vụ là tiêu chuẩn giúp đánh giá sự cao cả và thành công đích thực. Ai là người tôi tớ của mọi người, ai phục vụ nhằm mưu ích cho kẻ khác, với trọn tâm hồn, với tất cả sức lực, người ấy thật sự là người đứng đầu mọi người.

Đọc kỹ câu chuyện Tin Mừng, ta thấy hai anh em nhà Dêbêdê có vẻ như thấy mình được “cưng” cách riêng nên dám đến nói nhỏ với Đức Giêsu, và xin Người “ừ” trước rồi mới nói ra điều mình xin: “Thưa Thầy, chúng con xin Thầy thực hiện cho chúng con điều chúng con sắp xin đây”. Người cũng có vẻ gật đầu trước: “Các anh muốn Thầy thực hiện cho các anh điều gì?”. Họ nói rõ điều họ muốn. Có vẻ như họ nghĩ phen này lên Giêrusalem là Thầy lên làm vua đây. Đến phiên Đức Giêsu cũng đòi họ “vâng” trước: “Các anh không biết các anh xin gì! Các anh có uống nỗi chén Thầy sắp uống không, hay chịu được Phép Rửa mà Thầy sắp chịu không?”. Các ông không biết mình xin gì và cũng chẳng hiểu “chén Thầy sắp uống”, “Phép Rửa Thầy sắp chịu” là gì, nhưng hiểu rằng hễ chịu điều kiện ấy thì sẽ được như ý, nên trả lời ngay: “Thưa được”. Điều kiện thì Người cho ngay: “Chén Thầy sắp uống, anh em cũng sẽ uống; phép rửa Thầy sắp chịu, anh em cũng sẽ chịu”. Còn điều họ xin thì sao?. “Còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Thiên Chúa đã chuẩn bị cho ai thì kẻ ấy mới được”.

Thế là hai anh em chưng hửng! Nhưng không hiểu sao mười ông kia cũng biết chuyện hai anh em “đi cửa hậu” và phản ứng: “Nghe vậy, mười môn đệ kia đâm ra tức tối với ông Giacôbê và ông Gioan. Sự hục hặc giữa các ông làm sao qua mắt Đức Giêsu được. Người dùng dịp này dạy dỗ các ông: Đức Giêsu gọi các ông lại và nói: “Anh em biết: những người được coi là thủ lãnh các dân thì dùng uy mà thống trị dân, những người làm lớn thì lấy quyền mà cai quản dân. Nhưng giữa anh em thì không được như vậy: ai muốn làm lớn giữa anh em thì phải làm người phục vụ anh em; ai muốn làm đầu anh em thì phải làm đầy tớ mọi người. Vì Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ, và hiến mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Vẫn là chuyện các ông tranh dành địa vị với nhau. Lần trước thì Người đem một em bé làm mẫu. Lần này Người phân biệt cung cách của các môn đệ với cung cách của người đời. Môn đệ thì phải theo gương Thầy chứ đừng theo kiểu người đời. (Lm Giuse Nguyễn Công Đoan, Tĩnh tâm với sách Tin Mừng Maccô.)

Rõ ràng, sự ganh đua quyền thế gay gắt đến nỗi làm các môn đệ từ một “Nhóm Mười Hai” lại chia thành phe cánh: “mười môn đệ kia tức tối với hai anh em đó”. Họ ganh tỵ, xét cho cùng, họ cũng đầy cao vọng. Họ cũng cao vọng bằng hai anh em nhưng họ không đủ can đảm để xin như anh em nhà Dêbêdê. Như một bậc thầy cao thượng và một nhà giáo dục khôn ngoan, Đức Giêsu vẫn bình tâm. Người đón nhận sự im lặng vô tâm của Nhóm Mười Hai. Người ân cần lắng nghe lời thỉnh cầu. Người cho họ biết rằng, những chỗ danh dự trên trời không dành cho những kẻ bè phái, nịnh hót, xin xỏ, nhưng dành cho những người xứng đáng. Người thẳng thắn đặt anh em nhà Dêbêdê trực diện với vấn đề và trực tiếp chất vấn các ông: “Các con không biết các con xin gì! Các con có uống nỗi chén Thầy sắp uống không?”. Người đưa ra xác quyết nhưng lại mở ngỏ cho lời đáp trả bằng cách ‘kéo Chúa Cha vào cuộc’: “Chén của Thầy, các người sẽ uống; còn việc ngồi bên hữu hay bên tả Thầy, thì Thầy không có quyền cho, nhưng Cha Thầy đã chuẩn bị cho ai, thì kẻ ấy mới được”.Và nhất là, Người qui tụ các môn đệ trở lại vào nhóm, bên cạnh Người để có những lời rỉ tai, những lời của con tim thổ lộ với con tim: “Anh em biết… Giữa anh em thì không được như vậy…”. Chúa Giêsu dạy các ông lối hành xử của Người: muốn làm lớn thì phải làm tôi tớ phục vụ mọi người. Chọn con đường cứu chuộc bằng thập giá, Người đã muốn sống tinh thần phục vụ.

Chúa Giêsu thanh luyện các môn đệ không chỉ bằng thái độ và lời nói, mà còn bằng chính đời sống gương sáng của Người. Sự đối lập giữa “làm đầy tớ” và “làm đầu” đòi hỏi một sự hoán cải trọn vẹn. Các môn đệ muốn làm đầu, Chúa Giêsu bảo: muốn làm đầu phải làm tôi tớ phục vụ mọi người. Đây là việc phục vụ của người hiến dâng bản thân, luôn quan tâm đến tha nhân vì yêu thương.

“Ai muốn làm lớn”, “Ai muốn làm đầu”, Chúa Giêsu không nói: “Ai được đặt làm lớn; ai được đặt làm đầu”, nhưng nói đến ý muốn, và ý muốn này đang có nơi các môn đệ và cũng đang có nơi tất cả chúng ta. Chính Chúa đã nói ý muốn của mình: “Con Người đến để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người”. Tác giả thư Do Thái triển khai việc làm đầy tớ qua hình ảnh vị Thượng Tế biết “cảm thương” nỗi yếu hèn của nhân loại (x.Dt 4,13). Ngôn sứ Isaia lại tiên báo việc làm đầy tớ bằng hình ảnh người tôi tớ trung thành chịu đau khổ để gánh lấy hậu quả tội lỗi con người (x.Is 53,10-11).Vì thế, phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của người môn đệ. Phục vụ và hiến dâng cũng phải là lẽ sống của những ai theo chân Chúa. Phục vụ là giúp đỡ, là làm đầy tớ, là bạn đồng hành chăm lo người khác và quan tâm đến những nhu cầu thiết thực của họ.Trong gia đình, ông bà cha mẹ phục vụ con cháu, anh chị em phục vụ lẫn nhau, con cháu phụng dưỡng ông bà cha mẹ. Ngoài xã hội, mỗi người là một thành phần đóng góp công sức phục vụ nhân quần xã hội. Trong Hội thánh, trong cộng đoàn lớn nhỏ, mỗi người là một chi thể sống và làm việc vì lợi ích cho tập thể.Vậy thì ai cũng là một người phục vụ. Nhưng để trở thành người phục vụ tốt, gương mẫu, xứng đáng cần hội đủ một số đức tính căn bản như khiêm tốn, quảng đại, tế nhị, tận tâm và hy sinh quên mình.

Lịch sử cho thấy rằng những người “làm đầu” ngoài xã hội cũng như trong giáo hội, nếu xuất thân từ hoàn cảnh khó khăn hay đã từng kinh qua nhiều gian khổ thì thường dễ “làm đầy tớ” cách thực sự và đúng nghĩa hơn. Quả thật, để thực sự làm đầy tớ, tiên vàn cần phải có sự đồng cảm, đồng thân, chung phận một cách nào đó. Chúa Kitô đã nêu gương cho chúng ta khi “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế…” (Pl 2,6-11).

Xã hội có ngày càng công bằng, văn minh, thịnh vượng hay không, Giáo hội có ngày càng tinh tuyền, thánh thiện hay không, chắc hẳn phụ thuộc rất nhiều vào việc những người đứng đầu có thực sự sống tôn chỉ “làm đầy tớ nhân dân”, “làm tôi tớ của đàn chiên” hay không. Mong sao tôn chỉ ấy không dừng lại ở khẩu hiệu hay ở các bài phát biểu hùng hồn, nhưng được hiện thực hóa bằng việc làm và thái độ sống của những người làm đầu. Ngoài việc các đầy tớ phải hiến dâng mạng sống vì chủ, thì có thể nói một trong những tiêu chí để thẩm định các vai vế chủ – tớ có chính hiệu không, thì hãy xem các ông chủ tức là người dân, các con chiên, có được phép và được quyền mạnh dạn mở miệng nói lên suy nghĩ, nhận định của mình hay trình bày các nhu cầu chính đáng của mình trước các vị “đầy tớ” hay không, và dĩ nhiên không thể thiếu sự chân thành lắng nghe của các vị này. (Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa, suy niệm Chúa nhật 29 TN B: Làm đầy tớ.)

Chúng ta theo Chúa, chỉ mong được ban một chỗ thật gần bên Chúa. Bên phải bên trái là sát bên Thầy. Mà Chúa đồng hóa mình với người tôi tớ, người bé nhỏ, người hèn mọn, cho nên càng là người tôi tớ, càng phục vụ, càng được ở gần Thầy.

Mẹ thánh Têrêxa Calcutta đã nói: “Hoa quả của đức tin là tình yêu, hoa quả của tình yêu là phục vụ và hoa quả của phục vụ là bình an”. Một tình yêu đích thực sẽ luôn làm nảy sinh sức sống mãnh liệt giúp cho việc phục vụ đạt tới cùng đích cuối cùng.

Về mục lục

CHIA SẺ BÀI VIẾT
TIN LIÊN QUAN

THÔNG BÁO

VĂN KIỆN GIÁO HỘI

LIÊN KẾT NHANH

Catholic Bishop
Catholic Bishop
Catholic Bishop
Catholic Bishop
Catholic Bishop
Catholic Bishop
Catholic Bishop
Catholic Bishop
Catholic Bishop
Catholic Bishop