CHÚA NHẬT

Các Bài Suy NIệm Chúa Nhật 1 Mùa Vọng Năm C

Nov 24 2021
2655

Các bài suy niệm Chúa Nhật 1 Mùa Vọng C

Lời Chúa: Gr 33, 14-16; 1Tx 3,12–4,2; Lc 21, 25-28. 34-36

  1. Hãy ngẩng đầu lên.
  2. Tai họa và hy vọng – ViKiNi
  3. Tỉnh thức và cầu nguyện – Thiên Phúc.
  4. Hãy ngẩng đầu lên.
  5. Dọn dẹp bàn ghế.
  6. Ngày Cánh Chung – AM. Trần Bình An.
  7. Sống tỉnh thức và cầu nguyện.
  8. Hãy nhìn đường.
  9. Tỉnh thức – Lm. Vũ Đình Tường.
  10. Hướng về ngày Chúa đến.
  11. Tỉnh thức và chờ đợi – Huệ Minh.
  12. Tỉnh thức và cầu nguyện.
  13. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
  14. Mong chờ một cuộc gặp gỡ – Cố Lm. Hồng Phúc. 
  15. Thức tỉnh. 
  16. Hãy đừng sợ, cứ đứng vững và ngẩng đầu lên. 
  17. Sẵn sàng lên đường. 
  18. Chờ và đợi – Anmai, CSsR.. 
  19. Mở rộng tâm hồn đón Chúa. 
  20. Sống trọn vẹn Mùa Vọng. 
  21. BƯỚC VÀO MÙA HỒNG ÂN CỨU ĐỘ - Đức Hữu


 

1. Hãy ngẩng đầu lên

Đức Thánh Cha Gioan-Phaolô II trong chương đầu của cuốn “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” đã viết: Đừng sợ. Đó là lời Chúa mời gọi nhiều lần với những người Ngài đã tiếp xúc.

Thực vậy, thiên thấn đã nói với Mẹ Maria: Đừng sợ. Cũng như đã nói với thanh Giuse trong giấc mộng: Đừng sợ. Ngài cũng đã nói với các môn đệ, đặc biệt với Phêrô trong những trường hợp khác nhau, chẳng hạn như khi mặt biển dậy sóng: Đừng sợ. Hay khi Ngài đã sống lại: Đừng sợ. Sở dĩ Ngài phải lặp đi lặp lại như vậy là vì Ngài biết rằng các ông đã sợ.

Phải, các ông đã sợ khi Ngài bị bắt. Các ông đã sợ khi Ngài phục sinh. Các ông họp mặt mà cửa thì đóng kín. Lời nói ấy của Chúa Giêsu cũng đã được Giáo Hội và Đức Thánh Cha lặp lại. Thế nhưng, chúng ta đừng sợ cái gì?

Xin thưa: Chúng ta đừng sợ sự thật của chính mình. Thánh Phêrô đã sống cái kinh nghiệm bản thân của sự thật đó, khi ông nói cùng Chúa Giêsu: Lạy Thầy, xin hãy xa con vì con là kẻ tội lỗi. Không phải chỉ mình Phêrô mới ý thức được sự thật đó, mà mỗi người chúng ta đều biết rằng sau câu nói ấy của Phêrô, Chúa Giêsu đã bảo ông: Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta.

Tuy nhiên, để đứng vững và ngẩng đầu lên, chúng ta cần phải hết lòng tin tưởng và hy vọng vào quyền năng của Chúa, đồng thời phải yêu mến Ngài hết tâm hồn, quy hướng mọi khả năng để phục vụ Ngài, bởi vì ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Không có niềm tin tưởng vững mạnh. Không có niềm hy vọng dạt dào. Không có lòng mến bao la thì chẳng ai có thể đứng vững được trước những hiểm nguy, gian nan và thử thách của cuộc đời. Bởi vì bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy nhiểm là trốn tránh, là ẩn núp, là nằm rạp xuống, là thu mình nhỏ lại, như muốn mình tan biến để những cơn nguy hiểm không đụng chạm đến. Thế nhưng, Chúa Giêsu lại bảo chúng ta: Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, vì Thiên Chúa đem đến cho chúng ta niềm vui mừng và hy vọng.

Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên, để những lo âu của cuộc sống không đè bẹp chúng ta và để cho chúng ta có thể niềm mở với hết mọi người, nhất là những người thân yêu trong gia đình, đồng thời để chúng ta có được một cái nhìn lạc quan trước mọi biến cố của cuộc đời, kể cả những biến cố đau thương nhất, bởi vì có Chúa nâng đỡ, chúng ta sẽ không còn sợ hãi chi. Với niềm tin yêu và phó thác, thì tất cả đều là hồng ân của Chúa.

 

2. Tai họa và hy vọng – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Bài Tin Mừng nói đến ngày Chúa quang lâm, vừa xảy ra những tai họa, vừa đem lại nguồn hy vọng bất diệt.

Thực vậy cuộc sống của con người trên trái đất giống như đoàn người trên con tàu vĩ đại Titanic dài 271 mét, rộng 28 mét, cao 22 mét, có 8 tầng lầu với đủ các tiện nghi, có phố chợ, hồ tắm, sân chơi, rạp hát, vườn bông, khách sạn, con tàu chỉ chở những nhân vật tai to mặt lớn: những ông hoàng, bà chúa, những đại phú gia. Nó đi từ Southampton, hải cảng Anh quốc, vượt Đại Tây Dương để đến NewYork là thành phố lớn nhất, giàu nhất thế giới thời đó. Họ tưởng đi trên con tàu đó sẽ an toàn vững chắc như trên mặt đất, nhưng nó vừa khởi hành được mấy ngày thì đụng vào băng sơn gãy đôi, chôn sống hơn 1.500 người vào ngày 14-04-1912.

Trái đất này đối với vũ trụ bao la, nó còn nhỏ hơn con tàu Titanic đối với đại dương, nó trôi nổi bồng bềnh trong không gian như con tàu trên sóng nước, có ngày sẽ đụng vào tinh tú, băng thạch sẽ vỡ tan, chính trái đất cũng mang trong mình những bệnh tật như: núi lửa, động đất, bão tố, lụt lội rồi chết rữa giống như thân xác con người và muôn vật.

Lời Chúa hôm nay báo động cho chúng ta biết sẽ có những tai họa kinh khủng khắp nơi trong trời đất, cũng có những niềm hy vọng muôn thuở tuyệt vời cho những người đang mong chờ Chúa đến.

1/ Tai họa:

Những tai họa do chính Đức Giêsu loan báo: “Những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao, các tinh tú lay chuyển, dưới đất: biển gào sóng thét, ngày ấy những gì sắp giáng xuống địa cầu như chiếc lưới bất thần chụp xuống trên đầu anh em, ngày ấy sẽ ập tới mọi dân cư trên khắp mặt đất”.

Những kẻ không biết đề phòng, không sẵn sàng chuẩn bị, không biết ngẩng đầu lên nhận ra những dấu chỉ điềm trời, những kẻ không lo cầu nguyện, chăm sóc đời sống thánh thiện và vẹn toàn, không biết sống thế nào cho đẹp lòng Chúa, không biết đối xử tình nghĩa với mọi người cho thắm thiết đậm đà, họ cứ buông thả theo lòng mình đắm say tửu sắc, đa mang sự đời, chai đá cứng lòng, khô khan nguội, lạnh lười biếng. Lúc đó thật tội nghiệp, thảm hại cho họ, họ phải lo lắng hoang mang buồn sầu, sợ hãi kinh hồn. Họ chẳng bao giờ được cứu thoát khỏi những tai họa khốn cực đó. Nhưng những người đang mong chờ Đức Kitô đến, thì ngày ấy là một ngày chan chứa hy vọng.

2/ Hy vọng:

Những người biết tỉnh thức đứng dậy khỏi những đam mê say sưa tửu sắc, khỏi những đa mang ham hố sự đời, khỏi những lôi kéo trần tục, biết ngẩng đầu lên trông cậy vào Chúa mà “kiên trì bền chí cầu nguyện sống đẹp lòng Chúa và sống thắm tình nghĩa thiết với mọi người” (Bài II) chắc chắn họ sẽ được phúc đón mừng con người rất uy nghi vinh hiển ngự giá mây trời mà đến. Người sẽ gấp rút giải thoát họ khỏi mọi khốn cực vì họ biết rằng đây là ngày quang lâm của Chúa, đây là giờ cứu rỗi, giờ chiến thắng vinh quang của Chúa. Họ được vững tâm hân hoan đứng trước tôn nhan Thiên Chúa và được sống trong “Chúa là sự công chính của chúng ta” (Bài I).

Như vậy, Chúa nhật thứ nhất Mùa Vọng này trình bày cho chúng ta hai cảnh trái ngược nhau: một cảnh trời đất sẽ có ngày đổ vỡ tiêu tan mà người ta coi nó như những lâu đài đồ sộ tráng lệ, bao la vô tận, nơi họ đang trú ngụ kiên cố, bất diệt muôn thuở. Thế mà không thể tưởng tượng được có ngày nó bị phá hủy như thành Giêrusalem xưa không còn hòn đá nào trên hòn đá nào. Đức Giêsu loan báo như thế, không phải làm cho chúng ta buồn rầu lo lắng bi quan. Nhưng chính là để cho chúng ta vui mừng thấy ngày trời cũ đất cũ đầy đau khổ, bệnh tật, chết chóc, để tới một cảnh trời mới đất mới, nơi vinh hiển hạnh phúc bất diệt, nơi Đức Giêsu, Chúa chúng ta ngự đến mở màn thời quang lâm cùng với thần thánh của Người. Đó là nguồn hy vọng vô cùng cho chúng ta, nếu chúng ta biết dùng thời gian sống trên trái đất này như một mùa vọng chuẩn bị đón mừng Đức Giêsu ngự giá trên mây trời đến với chúng ta trong hân hoan muôn đời.

Thực ra, Đức Giêsu loan báo ngày tận thế chính là để loan báo ngày quang lâm vinh hiển của Người. Đó là một quy luật ngàn đời trong chương trình sáng tạo, cứu chuộc để đưa lại hạnh phúc của Thiên Chúa cho nhân loại. Thiên Chúa sáng tạo vũ trụ vạn vật không phải để chúng sống rồi chết, có rồi ra hư vô, nhưng để chúng sinh ra, lớn lên phát triển tươi tốt và sinh hoa kết quả rực rỡ muôn hương, muôn sắc, muôn vị thơm ngon.

Người tin vào chương trình đầy tình thương vô biên của Thiên Chúa thì chan chứa niềm vui, đầy hy vọng lạc quan. Người Đông phương đã có cái nhìn đó như Kinh Dịch chủ trương: “Nguyên, Hanh, Lợi, Trinh” muôn vật sinh ra, lớn lên, thành đạt rồi trở về nguồn gốc trinh nguyên của nó.

Những quan niệm nhìn cuộc đời chỉ là “Sinh thành, hủy diệt” gây ra những hậu quả bi quan, chán đời, buông thả, ăn chơi trác táng, hủy hoại cuộc sống tốt đẹp mà Thiên Chúa đã tạo dựng để đạt đến cùng đích vinh quang.

Đức Giêsu đã nhiều lần nhấn mạnh: “Con Người phải trải qua đau khổ… mới tới vinh quang”. Người đã sống lao động, rao giảng nước trời, trải qua cái chết đau thương và kết quả là sống lại vinh quang muôn thuở như hạt lúa gieo trong lòng đất, bị chôn vùi, biến đổi, lớn lên rồi sinh hoa kết quả gấp 30, 60 và trăm phần trăm, vũ trụ vạn vật đã được Thiên Chúa sáng tạo như thế, con người chúng ta cũng phải sống theo chương trình của Thiên Chúa như thế, chúng ta mới được đứng vững trước mặt Con Người ngự đến trong ngày quang lâm.

Lạy Chúa, xin cho chúng con vững lòng bền chí, tỉnh thức cầu nguyện và luôn luôn chuẩn bị đời sống đón mừng Đức Giêsu đến, chúng con được Chúa là Cha chúng con, nhìn nhận chúng con vào hàng ngũ các Thánh của Người. Amen.

 

3. Tỉnh thức và cầu nguyện – Thiên Phúc

(Trích trong ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Trong cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Ðức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là sĩ quan người Ðức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.

Chị y tá nữ tu Dòng Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.

Chị nữ tu vẫn dịu dàng nói:

– Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.

Viên sĩ quan mỉa mai:

– Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi

Chị nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục:

– Thú thật với ông, đã “16 năm” nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa.

Viên sĩ quan ngạc nhiên:

– 16 năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc “phải là ân nhân của nhà Dòng?

Chị nữ tu trả lời:

– Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Ðức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực. Ðã 16 năm qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh.

Người sĩ quan gặng hỏi:

– Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?

Chị nữ tu vô càng ngạc nhiên:

– Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?

Ðến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận:

– Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt 16 năm qua.

*****

Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim họ “ra nặng nề, vì chè chén say sưa”.

Họ bị chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật.

Họ bị cuốn hút bởi đam mê danh vọng, quyền lực mà quên đi có những cái bất ngờ sẽ đến.

Viên sĩ quan trong câu chuyện trên đây là một điển hình.

Cuộc sống con người không thiếu những bất ngờ:

Có những bất ngờ thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi.

Có những bất ngờ bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng.

Mùa Vọng nhắc lại lần đến đầu tiên của Con Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như “chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất” (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy có biết bao lần Người bất ngờ đến. Ðó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.

Mùa Vọng là mùa Tỉnh thức

Nếu chúng ta luôn “Tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Người đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét” (Lc 21,25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc” (Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.

***

Lạy Ðức Kitô, ngày Chúa đến như vị Thẩm Phán, vũ trụ này sẽ xáo trộn sâu xa, nhưng xáo trộn kinh khủng nhất lại chính là xáo trộn trong cõi lòng.

Xin cho chúng con biết “tỉnh thức và cầu nguyện, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát. hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh ngộ đầy hoan lạc và yêu thương. Amen.

 

4. Hãy ngẩng đầu lên.

Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu hỏ lại để những nguy hiểm không động chạm đến mình. Thế nhưng, trong cơn nguy hiểm tột cùng của ngày tận thế, Chúa lại bảo chúng ta hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Tại sao thế?

Xin thưa sở dĩ chúng ta nằm rạp xuống là vì sợ và khi sợ, con người không còn đủ bình tĩnh để xác định vị trí của mình, không còn đủ sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của công việc và xác định xem đâu là việc tốt phải làm và đâu là việc xấu phải tránh. Nhất là không còn nhìn thấy tình thương của Chúa luôn ấp ủ, chở che chúng ta.

Bản tính tự nhiên của con người là sợ, không ai trách cứ chúng ta điều đó, nhưng hãy tin tưởng vì ơn Chúa đủ cho chúng ta. Vì thế, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên. Trong Phúc Âm, các tông đồ đã có kinh nghiệm về sự sợ hãi, thế nhưng lần nào cũng vậy, Chúa Giêsu đều nhắc nhở các ông: Thầy đây, đừng sợ. Nổi bật nhất là Phêrô, ông có nhiều thứ sợ.

Trước tiên là sợ chết, sợ bị liên luỵ với Chúa, sợ bị làm khó dễ, sợ bị bách hại như Chúa, nên ông đã chối Chúa. Nhưng Tin Mừng kể lại: Chúa Giêsu nhìn Phêrô và ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết. Phêrô còn một nỗi sợ đặc biệt khác nữa, đó là sợ khi thấy mình yếu đuối tội lỗi trước Thiên Chúa chí thánh, nên có lần ông đã phủ phục dưới chân Chúa và thốt lên: Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi. Nhưng Chúa đã nhìn ông và nói: Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta.

Với tình thương, Chúa đã làm được mọi việc ngoài sức tưởng tượng của chúng ta. Phêrô chối Chúa, nhưng Ngài không quở, không la, không phạt. Ngài chỉ nhìn và cái nhìn đó đã diễn tả tất cả lòng yêu thương tha thứ, nên mới xoáy sâu vào tâm hồn Phêrô, đến nỗi ông đã ăn năn khóc lóc thảm thiết. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô muốn Chúa xa tránh vì ông cảm thấy không xứng đáng, nhưng Chúa chẳng những không tránh xa mà còn tiến lại gần bằng cách chọn Phêrô cộng tác với mình và trên Phêrô, Người đã xây dựng Hội Thánh.

Trong mọi cơn gian nan thử thách, Ngài muốn chúng ta đứng vững và ngẩng đầu lên vì Ngài chính là nguồn sức mạnh của chúng ta. Tuy nhiên, muốn đứng vững, muốn ngẩng đầu lên, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ, một niềm hy vọng bao la, bởi vì Chúa là người cha nhân từ, vừa đầy quyền năng lại vừa đầy lòng thương xót, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi con cái của Ngài. Đồng thời ngay từ bây giờ chúng ta đã phải đứng vững và ngẩng đầu lên, bởi vì cây nghiêng bên nào sẽ đổ bên ấy.

Từ đó, Chúa đã dạy chúng ta: Hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề. Nặng nề vì bả vinh hoa trói buộc. Nặng nề vì tiền bạc và lợi lộc vật chất có thể làm mờ cặp mắt chúng ta, để rồi chúng ta không còn nhận ra ngày giờ Chúa viếng thăm.

 

5. Dọn dẹp bàn ghế.

Đêm 15.4.1912, chiếc tàu Titanic đang chạy trên vùng bắc Đại Tây Dương thì đụng phải một tảng băng sơn, khiến cho con tàu bị chìm và hơn 1500 người bị thiệt mạng. Đây là một trong những tai nạn đường biển khủng khiếp nhất của lịch sử từ trước đến nay.

Cách đây vài năm khi thuật lại thảm họa này trong một bài báo, tác giả đã đưa ra một câu hỏi có tính cách châm biến: Nếu chúng ta có mặt ở đó, lúc tàu Titanic đang chìm, thì liệu chúng ta có còn tiếp tục dọn dẹp bàn ghế trên tàu hay không?

Thoạt nghe câu hỏi này, chúng ta thấy nó khôi hài làm sao, bởi vì khi còi báo động vang lên, thì người còn chút tỉnh tảo, ai lại đi dọn dẹp bàn ghế giữa những tiếng kêu la kinh hoàng và khủng khiếp của những kẻ sắp chết đuối? Tuy nhiên, nếu đọc tiếp bài báo chúng ta sẽ hiểu được tại sao tác giả lại nêu lên cau hỏi kỳ quặc ấy, để rồi chính bản thân chúng ta cũng sẽ tự hỏi: Nếu bây giờ cuộc đời tôi, như con tàu, đang chìm dần vào cõi chết, biết đâu tôi lại còn đang mải mê lo dọp dẹp bàn ghế, nghĩa là tôi đang còn mải mê lo những chuyện vật chất đời này mà quên đi những việc đạo đức thiêng liêng của mình, hay là cứ miệt mài kiếm sống đến nỗi chẳng còn biết đến mục đích cuối cùng của đời mình là gì nữa, chẳng còn biết rằng cuộc sống hiện tại là một chuẩn bị cần thiết cho tương lai vĩnh cửu?

Bởi đó, qua đoạn Tin Mừng sáng hôm nay, Chúa Giêsu cảnh cáo chúng ta: Các con đừng bê tha, chè chén say sưa hay quá lo lắng việc đời. Ngài khuyên chúng ta hãy tỉnh thức và cầu nguyện trông chờ Chúa đến vào lúc cuộc sống dương thế này được chấm dứt để chúng ta bước sang cuộc đời mai hậu. Chủ đề này được Chúa nhắc đi nhắc lại nhiều lần trong Phúc Âm: Hãy tỉnh thức vì Con Người sẽ đến vào ngày các con không ngờ, vào giờ các con không biết.

Và đây cũng chính là tâm tình Giáo Hội muốn chúng ta sống trong Mùa Vọng, không phải chỉ bốn tuần lễ trước Giáng sinh, mà còn trong suốt cả cuộc đời bởi vì cuộc đời chúng ta cũng chính là một Mùa Vọng.

Ước chi trong giây phút cuối cùng, chúng ta có thể bình thản thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, sau bao nhiêu trung thành với việc tỉnh thức và cầu nguyện, thì giờ đây con vui mừng được gặp Chúa. Và rồi Chúa sẽ nói với chúng ta: Hãy đến đây hỡi những người con yêu dấu của Ta, sau bao nhiêu năm tháng xa cách, Ta hết sức vui mừng được gặp lại các con. Hãy tỉnh thức như những cô trinh nữ khôn ngoan đi đón chàng rể, để bất kỳ lúc nào Chúa đến, chúng ta cũng sẵn sàng thưa lên cùng Chúa: Lạy Chúa, này con xin đến để thực thi ý Chúa.

 

6. Ngày Cánh Chung – AM. Trần Bình An

Trong khi một số nhà tiên tri loan báo ngày tận thế là ngày 21/12/2012, Đức Giáo hoàng Benedictô thứ 16 trong thánh lễ hôm 18/11/2012 tại Vatican, đã kêu gọi các tín đồ công giáo không nên dừng lại ở “sự tò mò về thời điểm và các lời dự báo về ngày tận thế.”

Từ cửa số bao lơn nhìn ra quảng trường Thánh Phêrô, Đức Giáo hoàng Benedictô 16 đã rao giảng bài Phúc âm trong ngày, trong đó Chúa Giêsu nói với các thánh tông đồ về ngày Ngài lại xuống thế gian vào lúc tận thế, khi “bầu trời trở nên âm u” và “các vì sao rơi rụng xuống từ trời”. Theo Đức Giáo hoàng, thì Chúa Giêsu không hành động như một “nhà tiên tri” mô tả “ngày tận thế”, mà ngược lại muốn giải thoát vĩnh viễn các môn đệ và dân chúng thoát khỏi các lời tiên đoán về thời điểm thế giới sẽ bị tận diệt

Đức Giáo hoàng Benedictô 16 giải thích, Chúa Giêsu “muốn mang lại cho các tín đồ chiếc chìa khóa cho sự suy ngẫm sâu sắc hơn, đúng bản chất hơn, và nhất là chỉ ra con đường phải đi hôm nay và ngày mai để bước vào cuộc sống vĩnh hằng”. Ngài nói tiếp: “Tất cả rồi sẽ trôi qua, nhưng lời của Chúa không hề thay đổi.” (Thụy Mi, VietCatholic)

Bài Tin Mừng Thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu cảnh báo ngày cánh chung, “Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến.”

Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên!

Trước biến cố kinh thiên động địa, vô tiền khoáng hậu như vậy, mà Chúa Giêsu lại khuyên chúng ta “hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên.” Làm sao ngẩng đầu lên nổi, khi đang còn sa đọa, chìm đắm trong tội lỗi, quyến rũ thế gian. Làm sao dám đứng thẳng lên, khi đang nặng nề đội trên đầu chức tước, của cải, danh lợi phủ vân?

Biết thế, nên Chúa Giêsu biết rõ tim đen chúng ta, mới ân cần, cẩn thận khuyên răn: “Vậy anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề, vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới, bất thần chụp xuống đầu anh em.”

Vì chúng ta không thể nào biết giờ nào, ngày nào việc đó xảy đến. “Vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất.”

Ngày cánh chung của mỗi người

Thế giới này là tạo vật của Chúa, dĩ nhiên có thời hạn, nên đương nhiên có khởi sự và kết thúc. Ngày cánh chung là ngày tận thế của muôn loài thọ tạo. Còn đối với từng người, cái chết chính là ngày cánh chung cá nhân, ngày chịu Thiên Chúa xét xử công phúc và tội lỗi. Vì “ngày Chúa đến như kẻ trộm ban đêm.”(1 Tx 5, 2), mà chính Người cũng đã xác nhân: “Vậy anh em hãy tỉnh thức, vì anh em không biết ngày nào, giờ nào Con Người đến.” (Mt 25, 13)

Sinh ký tử quy, sống là ký gửi thác là quy về, có sinh ắt có tử. Sinh ra từ bụi đất, chết trở về cát bụi. Nhưng chẳng ai biết được ngày trở về với Chúa. Chỉ có Thiên Chúa làm chủ thời gian, mới biết ngày giờ sinh tồn của con người. Do vậy, Chúa Giêsu luôn nhắc nhở phải tỉnh thức và cầu nguyện, gắn bó mật thiết với Chúa luôn, để đón chờ ngày ấy. Luôn sẵn sàng như mười cô trinh nữ đem dầu theo đèn, tỉnh táo chờ đợi Chàng Rể đến.

Luôn tỉnh thức và cầu nguyện

Chúa Giêsu không muốn đe dọa chúng ta về ngày tận cùng của thế giới, mà Người chỉ muốn nhắc nhở như Đức Thánh Cha Benedictô 16 mới đây nhắc lại. Đề ứng phó ngày cánh chung chỉ có hai bửu bối duy nhất và quan trọng nhất, đó là tinh thần sẵn sàng đón nhận với tâm tình cầu nguyện.

“Con hãy sẵn sàng cầm đèn sáng, đợi chờ giờ Chúa trở lại, như Chúa muốn, nơi Chúa muốn, lúc Chúa muốn,.”(Đường Hy Vọng, 670)

Lạy Chúa Giêsu, xin mở mắt con ra, thoát khỏi những đam mê, những lo lắng trần tục, mà hướng tâm hồn về Chúa, để sẵn sàng xứng đáng ngẩng đầu lên đón chào Chúa đến.

Lạy Mẹ Maria, xin giúp con biết tránh xa những mưu mô ma quỷ, xin giúp con tỉnh táo nhận ra những cạm bẫy nguy hiểm, để có thể đứng thẳng, nghênh đón Chúa giáng lâm. Amen.

 

7. Sống tỉnh thức và cầu nguyện

Hôm nay, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ là Năm C. Khởi đầu năm phụng vụ là Mùa Vọng, trong mùa này chúng ta vừa mừng kỷ niệm việc Chúa Giáng Sinh; vừa là mùa giúp chúng ta hướng lòng trông đợi Chúa Kitô đến lần thứ hai trong ngày quang lâm. Vì thế, mùa vọng được coi như mùa trông đợi.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã đưa ra cho chúng ta thấy một viễn cảnh tương lai. Ngày ấy, chính Ngài sẽ đến trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết “Bấy giờ thiên hạ sẽ thấy Con Người đầy quyền năng và vinh quang ngự trong đám mây mà đến”. Tuy nhiên, không ai biết trước ngày đó xảy đến lúc nào chỉ có những dấu hiệu thấy trước được đề cập như: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất, muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét. Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc, chờ những gì sắp giáng xuống địa cầu, vì các quyền lực trên trời sẽ bị lay chuyển.” (Lc 21, 25 – 27). Do đó, Ngài mời gọi chúng ta hãy tỉnh thức đợi chờ và cầu nguyện để chờ Chúa đến.

Chúng ta thường nghe những lời khuyên tương tự hãy tỉnh thức như là “Hãy coi chừng, hãy cảnh giác, ngẩng đầu lên…”. Tất cả nói lên thái độ sẵn sàng đối mặt với biến cố xảy đến. Đặc tính của mùa vọng là gì nếu không phải tỉnh thức để chờ đợi Chúa đến? Nếu ngày xưa, dân Do Thái nhờ vào lời các tiên tri loan báo, đã sống tâm tình nhiều thế kỷ dài chờ đợi Chúa Cứu Thế đến, thì hôm nay chúng ta cũng phải tỉnh thức chờ đợi Chúa lại đến trong vinh quang. Vì thế, hai kiểu chờ đợi đó khác nhau. Khi xưa, dân Do Thái chờ đợi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Đó là lúc Ngài đến lần thứ nhất. Còn chúng ta ngày nay, dựa trên biến cố Chúa Cứu Thế đến lần thứ nhất này để vững tin và hy vọng vào việc Chúa sẽ lại đến trong ngày quang lâm. Như vậy, trong Mùa Vọng, chúng ta không chỉ kỉ niệm quá khứ việc “chờ đợi” của dân Do Thái, mà chúng ta còn sống chính nỗi niềm “chờ đợi” của chúng ta.

Phần đầu của đoạn Tin mừng, Luca trình bày theo lối văn Khải Huyền. Đây là một cách diễn tả, xuất phát từ một cái nhìn từ vũ trụ và con người. Con người và vũ trụ liên kết với nhau rất chặt chẽ và có sự liên đới mật thiết. Trình thuật trong sách khởi nguyên cho chúng ta thấy buổi khởi đầu là hỗn độn, hoang vu. Nhưng nó được Thiên Chúa can thiệp. Ngài sắp xếp trời đất vào trật tự của nó. Ngài làm cho cảnh hỗn mang nguyên thủy biến thành vũ trụ diệu kỳ, và giao cho con người làm chủ, trông coi vũ trụ. Nhưng con người làm đảo lộn vũ trụ bằng sự gian ác của mình. Vì vậy vũ trụ dường như chìm trở lại trong cảnh hỗn mang nguyên thủy. Bây giờ Thiên Chúa quyết liệt can thiệp, để tái tạo trật tự, để làm cho xuất hiện một trật tự mới với “Trời mới, Đất mới”. Vì thế, “các tầng trời rung chuyển” là để trở lại trong trật tự do Thiên Chúa sắp xếp. Ngày cánh chung có hai mặt: mặt tối là sự phán xét, hủy diệt một trật tự đã bị đảo lộn; còn mặt sáng là sự xuất hiện một trật tự mới, trong đó dân Chúa đạt được hạnh phúc. Ngày ấy, Con Người hiện đến trên đám mây tức là trong vinh quang, để xét xử muôn dân. Đó là ngày kinh hoàng cho những ai đang mê ngủ trong đam mê tội lỗi, nhưng đó là ngày cứu độ cho những ai tỉnh thức, cầu nguyện và chuẩn bị sẵn sàng. Đó cũng là lời khuyên nhủ của Chúa Giêsu ở phần sau.

Việc chúng ta không cần tìm hiểu là ngày tận thế, là cách thay đổi của vũ trụ. Còn việc phải lo là ngày Chúa đến gặp riêng mỗi người trong chúng ta, vì ngày ấy rất bất ngờ, nên chúng ta cần phải luôn tỉnh thức để đón chờ. Phải chăng không ít những lần chúng ta trở nên nặng nề vì chén say sưa và lo lắng việc đời? Thái độ hưởng thụ làm cho chúng ta quên ý ngĩa cuộc đời, khiến chúng ta không sẵn sàng chờ Chúa đến. Chính thái độ ích kỷ, hẹp hòi,…làm cho chúng ta mất quân bình nội tâm, và ảnh hưởng đến tha nhân. Do đó việc cần làm là phải luôn cầu nguyện để tăng cường ơn Chúa và sức mạnh Thánh Thần giúp vượt thắng gian nan thử thách ngõ hầu kiên vững mà hiện diện trước mặt Con Người trong ngày tận thế.

Một thoáng nhìn về tương lai không phải để kinh hãi, khiếp sợ như các tín hữu ở Thessalonica thời thánh Phaolô hoặc chỉ hướng về trời như các người Galilê nhìn theo Chúa về trời (Cv 1, 11); nhưng cần phải liên kết không những giữa biến cố Quang Lâm của Chúa trong ngày Cánh Chung với việc Chúa đã đến lần thứ nhất một cách âm thầm, khiêm tốn, mà còn liên kết với sức sống của ân sủng nơi mỗi người chúng ta trong suốt khoảng thời gian giữa hai lần Chúa đến.

Để sống cho chân lý này, Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy cố gắng sống thánh thiện để có thể yên tâm và vui mừng chờ ngày Chúa đến. Mọi hành động, mọi tư tưởng đều được phơi bày ra ánh sáng trước công lý, chúng ta không thể che giấu.

Lời cảnh tỉnh trong phần thứ hai của Tin Mừng hôm nay không những cần thiết cho mỗi người chúng ta để chuẩn bị sẵn sàng, không bị bất ngờ trong ngày Chúa đến lần hai, mà còn cần thiết ngay trong giây phút hiện tại. Đó là chuẩn bị tâm hồn để ân sủng của Chúa đến với chúng ta, đặc biệt là trong ngày lễ Giáng Sinh sắp tới. Đó là chuẩn bị bằng cách giữ mình, đừng để tâm hồn trĩu nặng, mờ ám vì lối sống buông thả, chè chén say sưa và vì những bận tâm quá đáng đến cuộc sống vật chất, trần trục: “phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo Ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì Ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất. Vậy anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn, hầu đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến và đứng vững trước mặt Con Người.” Muốn được như vậy, mỗi người cần biết dành những giờ phút yên lặng, kiểm điểm lại lối sống, tức là biết tỉnh thức và cầu nguyện luôn, dùng những thời khắc trong ngày để đọc kinh, để xét mình và sám hối, đồng thời luôn hướng về Chúa để cảm tạ và xin cho chúng ta bền lòng vững chí sống theo ân sủng Thiên Chúa cho đến cùng, chờ đón Ngài xuất hiện trong vinh quang.

Mùa vọng là cơ hội tốt cho chúng ta. Nó cung cấp thời gian, không gian, bầu khí, lễ nghi để bày tỏ nỗi lòng mình trước tôn nhan Đấng Tối Cao. Kinh nghiệm cho chúng ta biết rằng thế gian đầy dẫy sự dữ, những điều khiếm khuyết. Chúng ta mong muốn một thế giới tốt đẹp mà Thiên Chúa đã hoạch định cho con người. Hiện nay thì chưa được. Nhưng Đấng trở lại lần thứ hai sẽ biến đổi mọi sự cho nên tốt đẹp hơn. Chúng ta không có khả năng gây biến đổi và cũng không điều khiển tình thế khi Đấng Cứu Chuộc xuất hiện. Cho nên theo lời Ngài chỉ bảo, chúng ta hay luôn sống tỉnh thức và cầu nguyện, nhận ra những đường lối của Ngài. Hiện thời Ngài đang ở giữa chúng ta. Chúng ta hãy tẩy trừ những cản trở trong linh hồn mình, lắng nghe tiếng Ngài qua Kinh Thánh và biến cố trong cuộc sống mình. Giống như tuyển dân thời tiên tri Giêrêmia, chúng ta phải can đảm chịu đựng để trung thành với Thiên Chúa. Chúng ta mong đợi Đấng Cứu Thế ngự đến lần thứ hai trong tâm tình cảm tạ tri ân và xin cho mình được sống trung tín với ân sủng của Ngài.

Lạy Chúa Giêsu, xin Ngài hãy đến và viếng thăm chúng con. Xin cho chúng con biết nhận ra những dấu chỉ Chúa gởi đến hằng ngày để chúng con biết can đảm sống đức tin, sống tỉnh thức, cầu nguyện và trung thàn sống theo đường lối của Chúa. Amen.

 

8. Hãy nhìn đường.

Ít năm trước đây, có một bác tài xế xe buýt ở bên Mỹ, đã đạt kỷ lục xuất sắc. Suốt hai mươi ba năm trong nghề, bác đã đi được trên một triệu năm trăm cây số mà không gây nên một tai nạn nào. Khi được hỏi làm sao mà bác đạt được kỷ lục ấy, thì bác đã trả lời một cách đơn giản đó là hãy nhìn đường.

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay cũng đem lại cho chúng ta một lời khuyên tương tự: Hãy tỉnh thức luôn. Ý tưởng này được nhắc đi nhắc lại bằng những hình thức khác nhau: Hãy coi chừng, hãy chú ý, hãy ngẩng đầu lên.

Đó không phải chỉ là một lời khuyên có ích cho đời sống thiêng liêng, mà còn là một quy luật cho những sinh hoạt thường ngày của chúng ta. Đúng thế, chúng ta vốn thường nói: Hãy chú ý, hãy nhìn cho kỹ và hãy đề cao cảnh giác.

Để lái một chiếc xe, chúng ta phải nhìn đường. Một cầu thủ trên sân cỏ, phải lẹ mắt để sẵn sàng đối phó với những cảnh huống bất ngờ. Anh phải theo sát trái banh. Trong lớp, các em phải chăm chú lắng nghe những lời thày cô giảng dạy.

Qui luật này cũng được áp dụng trong những công việc bình thường nhất. Một bà mẹ, phải canh chừng đứa con nhỏ, kẻo nó té ngã xuống sông, xuống ao… Phải để ý tới cái nồi, cái chảo trên bếp, kẻo món ăn bị cháy khê cháy khét.

Cuộc sống giống như một chuyến xe mà chúng ta là người tài xế. Chúng ta không phải chỉ có một trách nhiệm đối với bản thân mà còn có cả trách nhiệm đối với người khác.

Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, chúng ta cần phải nhìn đường, cần phải chú ý để khám phá ra sự hiện diện của Chúa. Thực vậy, Chúa ở khắp mọi nơi, nhưng kẹt một nỗi, Ngài lại là Đấng thiêng liêng, nên con mắt phàm trần của chúng ta không thể nào nhìn thấy. Tuy nhiên với con mắt đức tin, chúng ta có thể khám phá ra Ngài.

Trước hết, Ngài ngự thật trong Bí tích Thánh Thể. Vì thế khi tham dự thánh lễ, chúng ta phải tỉnh thức phần xác, không ngủ gà ngủ gật đã đành, mà còn phải tỉnh thức cả phần hồn bằng cách kết hiệp tâm tình của chúng ta vào với những lời kinh, những tiếng hát, nhất là khi lên rước lễ, chúng ta sẽ được kết hiệp với Chúa, Đấng mà ngày xưa đã sinh ra trong máng cỏ Bêlem.

Với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa hiện diện qua những sự kiện, qua những biến cố xảy đến và bằng một bàn tay uy quyền và yêu thương, Ngài đang hướng dẫn cả lịch sử của nhân loại, điều cần thiết là chúng ta phải tìm biết và thực thi thánh ý Ngài qua những biến cố, những sự kiện, những dấu chỉ của thời đại.

Và sau cùng, với con mắt đức tin, chúng ta sẽ thấy Chúa không phải chỉ đến với chúng ta trong đêm Giáng sinh, mà Ngài còn viếng thăm bản thân chúng ta khi chúng ta từ giã cuộc đời, cũng như Ngài sẽ trở lại trong vinh quang để phán xét kẻ sống và kẻ chết vào ngày tận cùng của trời và đất.

Thế nhưng, chúng ta có biết tỉnh thức và nhất là chúng ta có biết chuẩn bị cho ngày giờ Chúa viếng thăm bản thân chúng ta hay không?

 

9. Tỉnh thức – Lm. Vũ Đình Tường

Tỉnh thức khác với tỉnh ngủ. Tỉnh ngủ là người lúc ngủ, ngủ rất tỉnh, một tiếng động nhỏ đủ làm cho người đó thức giấc. Người tỉnh ngủ dường như khó ngủ. Dỗ được giấc ngủ rất khó nhưng khi ngủ lại rất tỉnh. Trong khi người dễ ngủ lại ngủ say, ngủ mệt. Động đâu mặc động tôi cứ ngủ ngon. Người tỉnh ngủ hiếm có giấc ngủ ngon. Những gì hiếm thường quí vì thế người ngủ tỉnh rất quí giấc ngủ ngon. Thiếu tỉnh thức xảy đến cho cả người tỉnh ngủ lẫn ngủ ngon. Ngủ tỉnh sát cánh với khó ngủ nên hại cho sức khoẻ nhưng không hại phần tâm linh. Trong khi thiếu tỉnh thức nguy hiểm vô cùng vì hại phần tâm linh. Ma quỉ đưa ra nhiều chước cám dỗ với hy vọng khi thiếu tỉnh thức con người sa vào cạm bẫy của chúng.

Tỉnh ngủ, ngủ không được nên có đêm đọc kinh dỗ giấc ngủ. Đây không phải là hình thức cầu nguyện tốt nhất nhưng không hại vì đó là việc làm đạo đức. Ngủ không được nên đọc kinh cầu nguyện. Cầu nguyện tốt nhất là cầu xin vì lòng yêu mến, ước ao được gặp Chúa. Vì ước ao như thế nên tâm hồn thường tỉnh thức để cầu nguyện. Cầu ơn tỉnh thức để tránh cơn cám dỗ. Tránh được cám dỗ là trung thành với Chúa. Như thế có thể hiểu thiếu tỉnh thức rất dễ sa chước cám dỗ. Nói ngược lại, sa chước cám dỗ xảy ra vào lúc người đó thiếu tỉnh thức.

Không biết có phải là lí luận luẩn quẩn không nhưng rõ ràng thiếu tỉnh thức gây nên bởi thiếu cầu nguyện. Thiếu cầu nguyện nên thiếu ơn Chúa. Thiếu ơn Chúa tâm hồn trở nên chai đá. Tâm hồn chai đá là tâm hồn đi lạc đường lối Chúa. Vì chai đá nên tâm hồn không còn biết kính sợ Chúa nữa. Không tôn thờ Chúa sẽ theo tà thần, một loại chúa nào khác. Loại Chúa do chính họ tạo ra. Có thể là ý riêng hay một tạo vật nào do Chúa dựng nên. Từ bỏ Thiên Chúa sáng tạo, yêu thương để tôn thờ một thần tượng khác chính là thờ ngẫu tượng, chúa hạng hai. Tâm hồn chai đá đó đòi bằng chứng của Thiên Chúa yêu thương, sáng tạo để tin. Tiên tri Isaiah dùng hình ảnh người thợ gốm và đồ gốm để giải thích đòi hỏi trên. Cục đất sét sẽ chẳng thể nào nhận biết người thợ nặn ra nó. Tay người thợ nặn nên có, tạo cho nó hình ảnh, nâng niu nó, nhưng nó không thể nào nhận diện ra người tạo dựng nên nó. Cùng cách hiểu đó, Thiên Chúa chúng ta tôn thờ chỉ có thể nhận diện Ngài qua những hồng ân Ngài ban trong đời. Nhận biết ta có mặt trên đời không phải do ngẫu nhiên mà do Chúa tạo thành. Dù ta có nhận Ngài, thờ phượng Ngài hay không thì Ngài cũng đã dựng nên ta.

Không tai nào nghe thấy không mắt nào nhìn thấy một chúa nào khác ngoài Chúa đã dành những hồng ân cho những ai trông đợi Chúa. Is 64,4

Thiếu ơn Chúa sẽ khó chống lại cơn cám dỗ. Cơn cám dỗ đòi chứng minh Thiên Chúa hiện hữu. Sự hiện diện của ta trên đời chưa đủ sao. Trời đất biển khơi, sông ngòi cùng toàn thể vũ trụ đều theo luật tuần hoàn riêng của chúng. Ngoài ra còn bao ân huệ Chúa ban cho, như tài năng, trí nhớ, sức khoẻ, sắc đẹp. Tất cả đều có chung giải thích: do ngẫu nhiên mà có. Dựa vào ngẫu nhiên để giải thích quả là một luận cứ học đòi. Vì sao? Vì ngay từ ban đầu Thiên Chúa giáo đã giải thích Thiên Chúa tự nhiên mà có. Đây là giải thích thuyết tự nhiên nguyên thuỷ. Ngày nay với khoa học tiến bộ người ta cũng không đi xa gì hơn những gì Kinh Thánh cho biết nhiều ngàn năm trước. Người ta đồng chấp nhận vũ trụ do tự nhiên mà có nhưng khi nói đến Thiên Chúa tự nhiên mà có người ta lại đòi có bằng chứng cụ thể. Giải thích sao cho hợp lí khi người ta chối bỏ điều tự nhiên nguyên thuỷ (Thiên Chúa tự nhiên mà có) để rồi cùng chấp nhận tự nhiên thứ hai, thứ ba, (vũ trụ tự nhiên mà có).

Sa vào chước cám dỗ vì thiếu tỉnh thức. Cầu nguyện không phải chỉ đơn thuần giúp Kitô hữu liên kết với Chúa và còn là cách diễn tả tình yêu lòng mến dành cho Chúa. Cầu nguyện giúp Kitô hữu tỉnh thức, nhận thêm ơn Chúa để chống trả lại cơn cám dỗ. Chống được cơn cám dỗ giúp Kitô hữu đi đúng đường lối Chúa. Đi đúng đường lối Chúa là tâm hồn biết tôn thờ, kính sợ Chúa. Ai tôn kính Chúa sẽ được hưởng gia nghiệp Chúa hứa ban. Hưởng gia nghiệp Chúa vì người đó thực thi công lí, bác ái và yêu thương. Không tôn thờ Chúa là sống vô ơn vì không biết cảm tạ những ơn lành Người ban cho.

Ngày hôm nay Phúc âm kêu gọi Kitô hữu hãy tỉnh thức để bất cứ khi nào chủ về thì đã sẵn sàng vì không biết ngày nào, giờ nào chủ trở lại. Người sống tâm tình tạ ơn là người đã sẵn sàng vì lúc nào trong lòng họ cũng mang lòng biết ơn, cảm mến chân thành.

 

10. Hướng về ngày Chúa đến

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Phụng vụ Mùa Vọng luôn nhắc chúng ta nghĩ tới việc Chúa đến. Lý do là vì chúng ta đang sống giữa hai lần Chúa đến: lần thứ nhất Chúa đến tại Bêlem một cách khiêm tốn âm thầm trong những yếu đuối của thân phận làm người; lần thứ hai Ngài sẽ lại đến trong vinh quang uy quyền của một Vị Vua nắm quyền cả vũ trụ. Thánh Phaolô nói rằng trong thời gian giữa hai lần đó, cứ mỗi năm trôi qua thì “ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới tin đạo”.

Xin Chúa giúp chúng ta hiểu chúng ta cần Chúa như thế nào để chúng ta tích cực chuẩn bị đón Ngài đến với chúng ta.

  1. Gợi ý sám hối

Hôm nay là bắt đầu một năm Phụng vụ mới. Nhìn lại năm cũ, chúng ta nhận thấy có rất nhiều thiếu sót lỗi lầm. Chúng ta hãy xin Chúa tha thứ và ban ơn giúp chúng ta làm lại cuộc đời trong năm mới này.

Chúa rất thường đến với chúng ta, phần chúng ta thì ít khi đến với Chúa.

Nhiều khi Chúa muốn đến với tâm hồn chúng ta nhưng Ngài không vào được vì lòng chúng ta đã dành hết chỗ cho những đam mê trần tục.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Gr 33,14-16)

Giêrêmia là một ngôn sứ đã chứng kiến những trang lịch sử đau buồn nhất của đất nước: dân Chúa bất trung với Ngài; quân thù vây hãm Giêrusalem; mất nước; lưu đày. Là sứ giả của Lời Chúa trong bối cảnh như thế, Giêrêmia bó buộc phải gióng lên những lời nói chói tai để tố cáo tội lỗi của dân mình và tha thiết kêu gọi họ sám hối.

Thế nhưng khi dân đã bị lưu đày, Ngôn sứ đổi giọng. Trích đoạn này nằm trong phần “sứ điệp cứu độ” (các chương 26-35). Ông báo cho dân biết rằng cảnh lưu đày sẽ không kéo dài lâu, vì sẽ tới những ngày Thiên Chúa sẽ gởi đến Một Ðấng cứu thoát họ: “Trong những ngày ấy… Ta sẽ cho mọc lên một mầm non, một Ðấng Công Chính… Giuđa sẽ được cứu thoát… Giêrusalem sẽ được an cư lạc nghiệp…”

Rõ ràng đây là lời hứa về lần đến thứ nhất của Ðấng Messia.

  1. Ðáp ca (Tv 24)

Bài thơ này là lời cầu nguyện của kẻ đang đau khổ và tỏ bày tâm tình sám hối.

Từ chìa khóa trong trích đoạn được chọn đọc trong Thánh lễ hôm nay là “đường, lối”: đường lối duy nhất để thoát khỏi cảnh khổ sầu và đến được ơn cứu thoát chính là đường lối của Chúa, đường chính trực, đường chân lý, đường yêu thương, đường giao ước…

  1. Tin Mừng (Lc 21,25-27.34-36)

Ðoạn Tin Mừng này nằm trong Diễn từ chung luận trong đó Chúa Giêsu nói về những việc sẽ xảy ra vào những ngày cuối cùng của thế giới.

  1. Các câu 25-28: nói về ngày tận thế và Quang lâm. Tất cả những thế lực mà xưa nay người ta dựa vào vì coi là vững chắc (mặt trời, mặt trăng, tinh tú, biển…) đều bị lay chuyển để nhường cho quyền lực của Con Người lên ngôi. Trước tình huống đó, “muôn dân” (tức là những kẻ không có đức tin) sẽ lo sợ đến hồn siêu phách lạc, vì chỗ dựa của họ đã bị lung lay, nhưng các môn đệ Chúa thì hãy vui mừng và ngẩng đầu lên chờ đợi Chúa ngự đến.
  2. Các câu 34-36: nói về đến thái độ mà môn đệ Chúa Giêsu phải có.

Thái độ thứ nhất là chú ý tới việc quan trọng là đón Chúa đến: không nên để mình bị ảnh hưởng bởi những xáo trộn bên ngoài để rồi lo chè chén say sưa hoặc chỉ lo chuyện sống chết, chỉ lo chuyện thế gian… Nếu bất cứ lúc nào cũng nghĩ đến việc Chúa đến thì dù cho có thình lình, đột ngột, họ cũng không ngỡ ngàng.

Thái độ thứ hai là kiên trì trong việc cầu nguyện liên lĩ: cầu nguyện để xin Ngài mau đến, cầu nguyện để xin ơn đứng vững trước những xáo trộn bên ngoài.

  1. Bài đọc II (1 Tx 3,12–4,2)

Thánh Phaolô viết bức thư thứ nhất gửi tín hữu Thêxalônikê trong viễn cảnh Chúa sẽ đến lần thứ hai.

Vì nghĩ rằng Chúa sắp đến rồi, nên các tín hữu Thêxalônikê sống buông thả, lười biếng. Từ đó sinh ra nhiều tệ nạn khác. Thánh Phaolô cho rằng đó không phải là thái độ đúng đắn. Thái độ đúng đắn là phải bồi dưỡng tình thương: “Xin Chúa cho tình thương của anh em đối với nhau và đối với mọi người ngày càng thêm đậm đà thắm thiết… Có như thế thì… anh em mới được bền tâm vững chí không có gì đáng chê trách… trong ngày Chúa Giêsu quang lâm”

  1. Gợi ý giảng

* 1. Suy nghĩ đầu năm phụng vụ mới

Hoa trên đồi có tàn đi thì cũng nở lại vào năm sau.

Tuổi xuân con người một khi tàn phai thì không bao giờ nở lại.

Mặt trời mọc lên buổi sáng, buổi chiều lặn đi, nhưng sáng hôm sau mọc lại.

Ðời người dần trôi về lúc hoàng hôn và không bao giờ có bình minh nào khác.

Tại sao mỗi người chỉ có một đời? Tại sao con người không có cơ hội khác?

Thôi đừng thắc mắc và cũng đừng thở than. Hãy ý thức rằng cuộc đời là một món quà tặng; vì nó chỉ có một nên nó vô cùng quý giá.

Xin Chúa cho chúng con biết tận dụng những cơ hội của đời này, bởi vì chỉ có thế chúng con mới đến được đời sau, một cõi đời không bao giờ tàn úa, một cõi đời mãi mãi sáng tươi.

* 2. Giữa tối tăm bừng lên một tia sáng

Trong bài đọc I, Ngôn sứ Giêrêmia mô tả cuộc sống trong một thời tăm tối bi quan: trong nội bộ dân Chúa thì bất trung tội lỗi; từ bên ngoài thì hiểm họa xâm lăng lúc nào cũng rình chờ. Thế mà Giêrêmia vẫn có thể thốt lên những lời dự đoán đầy lạc quan: “Trong những ngày đó, Giuđa sẽ được cứu thoát, Giêrusalem sẽ an cư lạc nghiệp”. Từ trong tối tăm của hiện tại, Giêrêmia vẫn thấy trước tia sáng của tương lai, bởi vì Giêrêmia tin vào nguồn sáng là Thiên Chúa: “Ðức Chúa là sự công chính của chúng ta”.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Sẽ có những điềm lạ trên trời… Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang… Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc…” Mặc dù vậy, Ngài vẫn bảo môn đệ mình “Anh em hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”.

Chúng ta đang ở ngưỡng cửa một năm Phụng vụ mới. Nhìn tới tương lai, ai mà không khỏi lo lắng hoang mang vì bao gian truân đang sẵn chờ. Nhưng Lời Chúa hôm nay vẫn bảo chúng ta hãy lạc quan. Vì tương lai chỉ tối tăm mờ mịt khi vắng bóng Thiên Chúa. Còn đối với những người để Thiên Chúa dẫn dắt đời mình thì tương lai sẽ ngày càng tươi đẹp.

* 3. Hướng đi của lịch sử

Theo quan niệm thông thường của người đời, lịch sử đi theo vòng tròn: Hết xuân tới hạ, rồi thu, rồi đông, và sau đó trở lại chu kỳ Xuân Hạ Thu Ðông. Theo quan niệm ấy, một năm trôi qua rồi sang năm khác với cũng những cảnh ấy, những việc ấy, những lao nhọc và khó khăn ấy.

Nhưng theo quan niệm Thánh Kinh, lịch sử đi theo đường thẳng và hướng đến một tương lai tốt đẹp do Chúa sắp sẵn cho những ai biết cùng Ngài hành trình trên con đường dương thế. Chính vì nghĩ thế nên Thánh Phaolô nói với tín hữu của Ngài rằng cứ mỗi năm trôi qua thì “ơn cứu độ của chúng ta gần hơn khi chúng ta mới tin đạo”.

Hôm nay bắt đầu một năm Phụng vụ mới, chúng ta hãy quyết tâm sẽ đồng hành cùng Chúa trong suốt năm này, để mỗi ngày một tiến gần hơn tới ơn cứu độ.

* 4. Hướng lòng về Ngày Chúa đến

1/ Ý nghĩa mùa Vọng

Hôm nay chúng ta bắt đầu bước vào mùa Vọng. Vọng là hướng về, là chờ đợi. Mùa Vọng là thời gian để chúng ta hướng lòng về ngày Chúa đến, đồng thời chờ đợi Chúa đến. Chúa đến để khai mạc một thời đại mới, thời đại hết sức tốt đẹp hơn, tràn đầy hạnh phúc.

Chúa đến thế gian này hai lần, lần thứ nhất đã đến rồi, và lần thứ nhì chưa đến nhưng chắc chắn sẽ đến. Vì thế, mùa Vọng có hai ý nghĩa:

Thứ nhất: chuẩn bị đón mừng kỷ niệm biến cố Chúa đến lần thứ nhất cách đây 2000 năm.

Thứ hai: chuẩn bị đón Chúa đến lần thứ hai. Lần này, chúng ta không biết sẽ xảy ra vào lúc nào. Có thể còn lâu, nhưng cũng có thể đến nơi rồi. Ngài nói Ngài sẽ đến bất ngờ như kẻ trộm.

Tuy nhiên, biến cố quan trọng này vẫn có thể biết trước, nhất là đối với những tâm hồn tỉnh thức, luôn luôn chuẩn bị đón chờ, vì có những điềm báo trước. Thánh Phaolô viết: “Ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm. Khi người ta nói: “Bình an biết bao! Yên ổn biết bao!”, thì lúc ấy tai họa sẽ thình lình ập xuống (…) chẳng ai trốn thoát được. Nhưng thưa anh em, anh em không ở trong bóng tối, để ngày ấy như kẻ trộm bắt chợt anh em. Vì tất cả anh em là con cái ánh sáng, con cái của ban ngày” (1 Tx 5,2-5).

2/ Chờ đợi “Trời mới đất mới”, một kỷ nguyên tốt đẹp sẽ đến

Mùa Vọng là thời gian thuận lợi để Giáo Hội nhắc nhở chúng ta phải luôn luôn chuẩn bị và sẵn sàng đón chờ Chúa đến. Chúa đến để khai mở một kỷ nguyên mới: “Này đây, Ta sẽ sáng tạo trời mới đất mới” (Is 65,17a; xem 66,22), nghĩa là một kỷ nguyên thanh bình, hạnh phúc, được ngôn sứ Isaia diễn tả như sau: “Sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò. Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, và sự hiểu biết Ðức Chúa sẽ tràn ngập đất này cũng như nước lấp đầy lòng biển” (Isaia 11,6-9). Kỷ nguyên này không còn chiến tranh, bất công, hận thù, không còn nước mắt, đau khổ. Mọi người đều thỏa mãn, an vui, hạnh phúc.

Vì thế, ngày Chúa đến là một ngày hết sức vui mừng cho những người sống tốt lành, khiêm nhường, yêu thương người khác. Ngày đó là ngày những người tốt lành hằng mong chờ, vì đó là ngày thiện vĩnh viễn thắng ác, là ngày Thiên Chúa toàn thắng ma quỉ cùng những thế lực xấu xa, là ngày ơn cứu chuộc được thể hiện tràn đầy, viên mãn. Ma quỉ cùng với sự ác, sự chết, đau khổ vĩnh viễn bị tiêu diệt khỏi thế giới người sống, và bị trừng trị đích đáng. Ðó là một ngày đáng vui mừng hơn bất kỳ ngày nào!

Nhưng ngày đó cũng là ngày hết sức khủng khiếp cho những kẻ không yêu thương người chung quanh, những kẻ lãnh đạm trước những đau khổ của người khác, những kẻ sống bất lương, kiêu căng, gây tội ác, tạo bất công. Ngày đó Thiên Chúa sẽ hết sức thịnh nộ và không còn khoan nhượng đối với những phường gian ác. Ngài phán với họ: “Quân bị nguyền rủa kia, đi đi cho khuất mắt Ta mà vào lửa đời đời, nơi dành sẵn cho tên Ác Quỷ và những kẻ theo nó. Thế là họ ra đi để chịu cực hình muôn kiếp” (Mt 25,41.46).

3/ Ngày đó có thể sắp đến

Kinh Thánh cho biết những điềm sẽ xẩy ra báo trước ngày ấy: các ngôn sứ giả, chiến tranh, đói kém, động đất, lụt lội, các thứ dịch tễ, tai họa… (xem Mt 24,4-8), các tội ác, tình trạng đạo đức giảm sút, lòng người ra khô khan nguội lạnh, tôn giáo thì đa số vụ hình thức mà lơ là điều cốt lõi là mến Chúa yêu người đích thật… Những điềm báo trước đó ngày càng thể hiện rõ rệt trong thời đại chúng ta. Vì thế, ta biết ngày Chúa đến không còn xa lắm, nó có thể sắp đến, một cách bất chợt.

Ðức Kitô nói ngày ấy đến như kẻ trộm, điều đó không chỉ có ý nghĩa thời gian (tức vào thời điểm không ngờ được), mà có thể còn là hình thức (cách xảy đến cũng không ngờ được). Nghĩa là Chúa đến có thể theo một cách khác hẳn với cách mọi người thường nghĩ.

Ngày ấy là ngày Chúa phán xét, nên điều hết sức quan trọng là vào ngày ấy, chúng ta phải là người trong sạch, tốt lành, không có gì đáng chê trách trước mặt Chúa, nhất là về lòng yêu thương và cách xử sự đối với mọi người. Khi phán xét, Ngài phán xét ta chủ yếu về điều ấy.

4/ Hãy chuẩn bị sẵn sàng

Vì ta không biết ngày nào Ngài đến, nên khôn ngoan nhất là lúc nào ta cũng nên sẵn sàng. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Kitô cũng khuyên ta như vậy: “Anh em hãy đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời, kẻo ngày ấy như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em, vì ngày ấy sẽ ập xuống trên mọi dân cư khắp mặt đất”. Chuẩn bị như thế nào? Ðức Kitô khuyên ta: “Anh em hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn”.

– Tỉnh thức là luôn luôn tỉnh táo ý thức rằng ngày ấy có thể đến bất kỳ lúc nào, nên lúc nào cũng sẵn sàng như thể Chúa sẽ đến vào ngay ngày mai, hay chốc lát nữa. Thái độ sẵn sàng đó chắc chắn không làm ta thiệt hại, mà giúp ta sống khôn ngoan, hạnh phúc hơn. Hình ảnh hay nhất minh họa sự tỉnh thức là thái độ của người canh kẻ trộm, không dám ngủ thiếp đi một phút nào.

– Cầu nguyện không phải chỉ là đọc kinh, mà là tâm trạng luôn hướng về Chúa, sẵn sàng làm bất cứ điều gì Ngài muốn. Cầu nguyện là hợp nhất với Thiên Chúa trong tâm tình yêu thương, nhất là trong ý hướng và hành động. Hãy luôn luôn muốn và thực hiện những điều Chúa muốn.

Có như vậy, chúng ta mới “đủ sức thoát khỏi mọi điều sắp xảy đến, và đứng vững trước mặt Con Người”.

***

Lạy Cha, hiện nay, đã có biết bao nhiêu điềm báo hiệu ngày quang lâm của Chúa Giêsu. Ngày ấy có thể đã gần tới. Vì thế, xin Cha giúp con biết chuẩn bị cho ngày ấy, và sẵn sàng để bất kỳ lúc nào Ngài đến, Ngài cũng có thể hài lòng về con, về cách sống của con, về tình thương của con đối với mọi người, và về cách đối xử tốt đẹp của con đối với những người chung quanh con. Xin giúp con luôn tỉnh thức trong tinh thần cầu nguyện, như Chúa Giêsu đã khuyên nhủ mọi người trong bài Tin Mừng hôm nay. Amen (Nguyễn chính Kết)

* 5. “Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên”

Thời Ðức quốc xã thế chiến II. Một thanh niên 17 tuổi bị giam, vượt ngục, bị bắt lại và bị lên án tử, anh viết thư cho cha mình:

“Thưa ba, con cảm thấy rất khó khi viết bức thư này, nhưng con phải báo cho ba hay là tòa án quân sự đã tuyên cho con một bản án rất nặng. Xin Ba đọc thư này một mình rồi sau đó tìm cách khéo léo kể lại cho má biết… Chỉ vài ngày nữa thôi, lúc 5 giờ sáng thì sự việc sẽ xảy đến… và con sẽ về với Chúa…

Phải chăng đó là một chuyến đi khủng khiếp?.. Tuy nhiên giờ đây con thấy mình rất gần Chúa và con đang chuẩn bị chết… Con nghĩ điều đó thật là xấu đối với ba hơn là đối với con. Vì con biết, con đã xưng hết mọi tội của con rồi. Bây giờ con rất bình an…” (Mark Link kể)

* 6. Tỉnh thức và cầu nguyện

Trong cuộc chiến khốc liệt giữa Pháp và Ðức năm 1870, tại một bệnh viện Pháp, có một thương binh vốn là sĩ quan người Ðức đang bị bắt làm tù binh. Một hôm, bác sĩ cho biết anh sẽ không qua khỏi vì vết thương ngày càng trầm trọng. Viên sĩ quan tỏ ra bất cần một cách ngạo nghễ và can đảm chờ đợi cái chết.

Chị y tá nữ tu Dòng Nữ Tử Bác ái Vinh Sơn vốn chăm sóc anh từ lâu, ân cần ngỏ ý khuyên anh nên xin gặp một vị linh mục để dọn mình trước khi chết. Anh nhận mình là người Công giáo nhưng đã bỏ đạo từ lâu, nên một mực từ chối lời đề nghị chân thành này.

Chị nữ tu vẫn dịu dàng nói:

– Nếu vậy, tôi sẽ cầu nguyện xin Chúa cho ông mau hồi tâm trở về với Chúa.

Viên sĩ quan mỉa mai:

– Chỉ cực nhọc vô ích mà thôi

Chị nữ tu vẫn kiên nhẫn thuyết phục:

– Thú thật với ông, đã “16 năm” nay, các chị em trong Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho một người trở về cùng Chúa.

Viên sĩ quan ngạc nhiên:

– 16 năm rồi cơ à? Thế người được các chị cầu nguyện chắc “phải là ân nhân của nhà Dòng?

Chị nữ tu trả lời:

– Cách đây rất lâu, mẹ tôi là người hầu cho một nữ Nam tước người Ðức. Trong một lần tôi tới thăm mẹ, bà Nam tước biết tôi là nữ tu nên đã xin cầu nguyện cho con trai bà. Anh đã mất đức tin, sống phóng túng, đam mê danh vọng và quyền lực. Ðã 16 năm qua, tôi và cả Nhà Dòng vẫn luôn cầu nguyện cho anh.

Người sĩ quan gặng hỏi:

– Thế mẹ của chị có phải là bà Béate không?

Chị nữ tu vô càng ngạc nhiên:

– Nhưng tại sao ông lại biết tên mẹ tôi?

Ðến đây thì viên sĩ quan nghẹn ngào thú nhận:

– Thưa chị, tôi chính là Nam tước Charles, con trai của nữ Nam tước mà mẹ chị đã tận tuỵ hầu hạ bấy lâu. Chính tôi là người mà chị và Nhà Dòng đã cầu nguyện cho suốt 16 năm qua.

Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Có nhiều người sống như thể thế giới sẽ vô tận. Có nhiều người sống như thế gian này đã là thiên đàng. Họ bị ru ngủ bởi những hoan lạc trần thế. Trái tim họ “ra nặng nề, vì chè chén say sưa”.

Họ bị Chìm ngập trong những tính toán làm ăn, lo toan cho cuộc sống hiện tại, mà quên tìm lẽ sống thật.

Họ bị cuốn hút bởi đam mê danh vọng, quyền lực mà quên đi có những cái bất ngờ sẽ đến.

Viên sĩ quan trong câu chuyện trên đây là một điển hình.

Cuộc sống con người không thiếu những bất ngờ:

Có những bất ngờ thú vị làm cho chúng ta vui sướng khôn nguôi.

Có những bất ngờ bi thảm khiến chúng ta đau khổ tột cùng.

Mùa Vọng nhắc lại lần đến đầu tiên của Con Thiên Chúa, và kêu gọi chúng ta chuẩn bị lần đến cuối cùng của Người. Ngày đó khi nào xảy đến, chẳng ai biết được. Nó đến bất ngờ như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất” (Lc 21,35). Giữa hai lần ấy có biết bao lần Người bất ngờ đến. Ðó là ngày tận cùng của mỗi người chúng ta.

Mùa Vọng là mùa Tỉnh thức

Nếu chúng ta luôn “Tỉnh thức và cầu nguyện” (Lc 21,36), luôn sẵn sàng và thanh thoát, thì việc Người đến sẽ là một bất ngờ thú vị. Ngày đó, chúng ta sẽ không phải “lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét” (Lc 21,25), chúng ta sẽ không “sợ hãi đến hồn xiêu phách lạc” (Lc 21,26), nhưng sẽ “đứng thẳng và ngẩng đầu lên” (Lc 21,28), vì chúng ta sắp được lãnh ơn cứu độ.

Lạy Ðức Kitô, ngày Chúa đến như vị Thẩm Phán, vũ trụ này sẽ xáo trộn sâu xa, nhưng xáo trộn kinh khủng nhất lại chính là xáo trộn trong cõi lòng.

Xin cho chúng con biết “tỉnh thức và cầu nguyện, để tâm hồn luôn sẵn sàng và thanh thoát. hầu khi Chúa đến sẽ là giây phút được mong đợi, và là một cuộc hạnh ngộ đầy hoan lạc và yêu thương. Amen (TP)

* 7. Những cây trường xuân

Trong quyển “The legend of the Bells”, John Shea kể rằng sau khi tạo dựng các giống cây, Thiên Chúa muốn ban một món quà cho mỗi giống. Nhưng trước đó Ngài muốn làm một cuộc thử nghiệm để xem cây nào xứng đáng nhận món quà nào. Ngài bảo “Ta muốn các ngươi luôn tỉnh thức suốt 7 đêm”.

Những cây trẻ rất nôn nao nhận quà nên thức suốt đêm chẳng có gì khó khăn. Tuy nhiên sang đêm thứ hai thì điều ấy không còn dễ nữa. Hoàng hôn vừa buông xuống là một số cây đã ngủ thiếp đi. Ðêm thứ ba, số cây ngủ tăng thêm. Và cứ thế. Qua khỏi đêm thứ bảy thì chỉ còn một số cây còn thức, đó là cây tuyết tùng, cây thông, cây vân sam, cây linh sam, cây nhựa ruồi và cây nguyệt quế.

Thiên Chúa rất vui lòng với những cây này. Ngài phán: “Các ngươi đã kiên trì một cách rất đáng khen. Ta ban cho các ngươi món quà đặc biệt là được xanh tươi mãi mãi. Các ngươi sẽ là những cây bảo vệ cho cả khu rừng. Ngay cả khi giá lạnh mùa đông làm cho những cây khác phải chết thì các ngươi và con cháu các ngươi vẫn sống và mãi mãi xanh tươi”.

Từ đó trở đi, người ta gọi những cây ấy là những cây trường xuân.

Kitô hữu phải là những cây trường xuân giữa khu rừng nhân loại. Thế giới chung quanh có thể ngủ vùi hoặc dần dà khô héo, nhưng kitô hữu vẫn tỉnh táo, vẫn thức, vẫn mọc lên những chồi xanh tốt bằng cuộc sống chứng nhân của mình. Nói cách khác, kitô hữu vẫn yêu thương giữa một thế giới hận thù, vẫn sống hòa thuận giữa một thế giới đấu tranh, vẫn giữ vững tâm hồn chính trực giữa một thế giới dối gian, vẫn hy vọng giữa một thế giới tuyệt vọng, vẫn tỏa ánh sáng rạng ngời giữa một thế giới tối tăm.

Nói một cách khác nữa, họ là những người thợ, những giáo viên, những y sĩ, những cha mẹ, những con cái v.v. lúc nào cũng tận tuỵ chu toàn trách nhiệm của mình. Họ chính là những cây trường xuân. (FM)

* 8. Chuyện minh họa về sự sẵn sàng

Một vị đan tu tên là Mésique. Bất trung với ơn gọi, ông đã sống một cuộc đời không mấy tốt đẹp trong nhiều năm. Ðột nhiên ông bị bệnh nặng. Thiên Chúa cho ông rơi vào tình trạng hôn mê trong một tiếng đồng hồ. Khi tỉnh dậy ông không nói gì về những điều đã cảm thấy trong thời gian một tiếng đống hồ ấy. Ông xin người ta cho ông ở một mình trong một căn phòng xây kín, và ông đã ở đó suốt 12 năm trời. Hàng ngày, qua một cửa sổ nhỏ người ta đem đến cho ông một chút bánh mì và nước uống. Một hôm người ta tưởng ông đã chết nên phá cửa đi vào thì thấy ông đang hấp hối. Trước mặt các tu sĩ đang vây quanh, ông nói với họ những lời cuối cùng trước khi ra đi: “Anh em thân mến của tôi, người nào luôn khắc ghi vào tâm khảm ý tưởng về sự chết, người đó sẽ không bao giờ phạm tội.”

Nói thế rồi, ông tắt thở, để lại cho một người một ấn tượng sâu đậm. (Góp nhặt)

* 9. Bài giải thích của Thánh Bernard (+ 1153)

Các bạn đừng chỉ nghĩ tới lần Chúa ngự đến để “tìm và cứu những gì hư mất” (Lc 19,10); hãy nghĩ tới lần Ngài ngự đến để rước chúng ta đi theo Ngài nữa. Ước gì các bạn hãy suy gẫm sâu xa về hai lần ngự đến ấy, và nghiền ngẫm trong lòng về điều Ngài đã ban cho ta trong lần ngự đến thứ nhất, và điều Ngài hứa sẽ cho ta trong lần ngự đến thứ hai.

“Bởi lẽ thời phán xét đã đến, bắt đầu từ nhà của Thiên Chúa. Nếu việc đó bắt đầu từ chúng ta, thì cuối cùng số phận của những kẻ từ chối không chịu tin vào Tin Mừng của Thiên Chúa sẽ ra sao?” (1 Pr 4,17) Cuộc chung thẩm sẽ thế nào đối với những kẻ không đứng vững trong cuộc phán xét này? Tất cả những ai trốn tránh cuộc phán xét bây giờ, tức là cuộc phán xét làm cho thủ lãnh thế gian này bị ném ra ngoài, thì họ phải chờ đợi, hay nói đúng hơn là phải lo sợ cuộc phán xét sẽ làm cho họ cũng bị ném ra ngoài cùng với thủ lãnh của họ. Còn nếu chúng ta chịu phán xét đầy đủ bây giờ thì chúng ta hãy an tâm “mong đợi Chúa Giêsu Kitô từ trời đến cứu chúng ta. Ngài có quyền năng khắc phục muôn loài, và sẽ dùng quyền năng ấy mà biến đổi thân xác yếu hèn của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài” (Pl 3,20-21) “Bấy giờ người công chính sẽ chói lọi như mặt trời trong Nước của Cha họ” (Mt 13,43)

Khi Chúa đến, Ngài sẽ biến đổi thân xác khốn khổ của chúng ta nên giống thân xác vinh hiển của Ngài. Nhưng chỉ với điều kiện là trước đó tâm hồn chúng ta đã được biến đổi giống tâm hồn khiêm tốn của Ngài. Chính vì thế mà Ngài đã nói: “Hãy trở nên môn đệ Ta, vì Ta dịu hiền và khiêm tốn trong lòng” (Mt 11,29).

Các bạn hãy khám phá trong đoạn Tin Mừng này hai loại khiêm tốn: một là khiêm tốn về nhận thức, hai là khiêm tốn về tình yêu tức là khiêm tốn trong lòng. Loại khiêm tốn thứ nhất dạy ta biết rằng ta chẳng là gì cả, chúng ta chỉ học biết do chính chúng ta và do sự yếu đuối của chúng ta mà thôi. Với sự khiêm tốn thứ hai, chúng ta chà đạp vinh quang của thế gian, và chúng ta được học biết từ chính Ðấng tự huỷ mình đi, mang phận tôi đòi; khi người ta muốn tôn Ngài lên ngôi thì Ngài lánh đi; còn khi được gọi chịu mọi thứ hành hạ và nhục hình trên thập giá thì Ngài đã vui lòng tự hiến.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, nỗ lực sống thánh thiện, lấy tình bác ái huynh đệ mà đối xử với nhau, đồng thời luôn luôn tỉnh thức và không ngừng cầu nguyện, là những việc làm không thể thiếu được trong việc chuẩn bị đón mừng đại lễ Giáng sinh. Với tâm tình thiết tha trông đợi ngày Ngôi Hai Thiên Chúa giáng trần, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Hội thánh có sứ mạng công bố cho toàn thể thế giới biết rằng / Chúa Giêsu Kitô là Ðấng cứu độ duy nhất của trần gian / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi nước mọi dân / biết chân thành đón nhận lời công bố của Hội thánh.
  2. Trên thế giới ngày nay / nạn kỳ thị chủng tộc vẫn đang hoành hành ở nhiều nơi / đem đến vô vàn đau khổ cho những người bị kỳ thị / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho hết thảy mọi người / biết lấy tình bác ái mà đối xử với nhau.
  3. Tửu sắc là nguyên nhân gây ra biết bao đổ vỡ trong đời sống hôn nhân và gia đình / biết bao tội ác trong đời sống xã hội / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang đắm chìm trong tửu sắc / biết mau mắn thức tỉnh / đổi mới đời sống / để đem lại hạnh phúc cho những người thân yêu / và nhất là để đón mừng ngày Ngôi Hai xuống thế làm người.
  4. Thánh Phaolô khuyên các tín hữu luôn cố gắng sống thánh thiện / nhất là sống bác ái yêu thương trong khi chờ đợi ngày Ðức Kitô ngự đến / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết thành tâm lắng nghe / và tích cực thực hiện lời khuyên của vị tông đồ dân ngoại.

Chủ tế: Lạy Chúa là nguồn mọi ơn phúc, chúng con đang thao thức trông chờ ngày Chúa Giêsu Kitô, con Một Chúa hằng ưu ái, xuống thế làm người và ở cùng chúng con. Xin Chúa cho chúng con biết chuẩn bị thật tốt tâm hồn, để xứng đáng đón mừng đại lễ Giáng sinh sắp tới. Chúng con cầu xin

  1. Trong Thánh Lễ

Trước kinh Lạy Cha: Chúng ta hãy hướng lòng về Cha trên trời và tha thiết cầu xin Ngài khấng cho Con của Ngài đến thăm viếng chúng ta.

Trước lúc Rước Lễ: Chúa Giêsu sắp đến với tâm hồn chúng ta bằng chính Mình và Máu Thánh Ngài. Chúng ta hãy dọn lòng sẵn sàng để đón rước Ngài.

VII. Giải tán

“Hãy đứng thẳng và ngẩng đầu lên, vì anh em sắp được cứu chuộc”. Lời của Chúa trong ngày bắt đầu Mùa Vọng kêu gọi chúng ta cố gắng sống công chính và luôn hướng lòng lên Chúa trong suốt thời gian Mùa Vọng này. Thánh lễ đã xong, chúc anh chị em ra về bình an.

 

11. Tỉnh thức và chờ đợi – Huệ Minh

Dù muốn dù không, hôm nay, ta cùng với Giáo Hội bước vào năm phụng vụ mới với Chúa nhật 1 Mùa Vọng. Mùa Vọng: Mùa của chờ đợi và hy vọng.

Mỗi lần mừng kỷ niệm việc Chúa đến lần thứ nhất ta lại được mời gọi hướng lòng đến sự xuất hiện lần thứ hai của Chúa. Ngày Chúa đến lại lần thứ hai đó cũng chính là ngày mà chúng ta, mỗi người chúng ta cũng dù muốn dù không cũng phải tính sổ với Chúa.

Và rồi, chưa nói đến ngày Chúa đến lần thứ hai trong vinh quang thì ngày Chúa đến với mỗi người chúng ta là một ngày hết sức bất ngờ, ngày mà chẳng ai có thể ngờ đến được. Vào ngày nay, ta phải chiết tính và phải thanh toán cho Chúa tất cả những gì Chúa đã trao ban cho chúng ta từ ngày chúng ta cất tiếng khóc chào đời. Ngày ấy như thế nào, ngày ấy sẽ là ngày vui mừng hân hoan hay là ngày kinh hoàng, điều đó hoàn toàn tùy thuộc thái độ và cách sống của mỗi người ngay ngày hôm nay.

Đặt mình vào dân Do Thái xưa, ta thấy dân quá vất vả để chờ đợi Đấng Cứu Độ trần gian đến thế giang trong thời gian quá dài. Cũng chính vì sự chờ đợi này đã giúp họ có niềm tin, niềm hy vọng, niềm trông cậy để họ vượt qua những thử thách đổng thời giúp họ điều chỉnh lại thái độ sống của mình.

Sự chờ đợi đó được Isaia nói lên qua tâm tình của ông: Lạy Đức Chúa, Ngài là cha chúng con, là Đấng cứu chuộc chúng con, tại sao Ngài lại để chúng con xa đường lối Ngài, tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá chẳng còn biết kính sợ Ngài?

Chính trong sự chờ đợi dài đăng đẳng như thế này dân Israel ý thức được rằng chình vì tội lỗi của họ, vì sự ngỗ nghịch cứng lòng của họ, và cũng vì sự quay lưng lại của họ với Thiên Chúa khiến cho họ phài trăm ngàn đau khổ:

Tất cả chúng con đã trở nên như đồ nhiểm uế, các việc làm của chúng con chỉ như chiếc áo dơ bẩn, và tội ác chúng con đã phạm đã khiến Ngài ngoảnh mặt làm ngơ.

Chính khi họ mặc lấy tâm tình khiêm nhường như thế, họ đã tha thiết nài xin Thiên Chúa: Lạy Chúa, xin Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan và Chúa đã đến như lời họ nguyện xin.

Cũng vì tội lỗi từ nguyên tổ loài người đến tội lỗi của bao thế hệ con cháu, đã khiến cho cửa trời như bị đóng lại, mối dây liên hệ với Thiên chúa như bị cắt đứt, nay dân Chúa đang nài xin Chúa xé trời mà ngự xuống để giải thoát họ.

Thiên Chúa không dửng dưng, Thiên Chúa không mãi đứng xa xa để nhìn con người đau khổ trong tội lỗi. Chính vì thế khi đến thời viên mãn, Ngài đã cho Con của Ngài xuống thế để đồng hành, để yêu thương, để chữa lành và để cứu con người khỏi phải án chết và ban tặng cho con người sự sống mới của Thiên Chúa.

Đức Giêsu chính là Người Con ấy, Ngày đã đến để tìm kiếm và cứu chữa những tâm hồn đau thương dập nát, băng bó những tâm hồn bị thương tích, công bố năm hồng ân và ngày cứu độ của Thiên Chúa. Tất cả những ai đón nhận Ngài và tin Mừng của Ngài cùng sống theo những điều Ngài hướng dẫn thì được cứu độ, được chia sẻ hạnh phúc làm con Thiên Chúa với Ngài.

Thánh Phaolô trong thư gửi cho cộng đoàn Corintô đã diển tả điều đó khi nói rằng: Xin Thiên Chúa là Cha chúng ta và xin Chuá Giêsu Kitô ban cho anh em ân sủng và bình an.

Thánh Phaolô đã mời gọi mọi người luôn ý thúc rằng mình đã được Thiên Chúa yêu thương và cứu chuộc, được nghe Lời Chúa, được hiểu biết màu nhiệm Thiên Chúa, được ơn Chúa trợ giúp và làm cho nên phong phú sung mãn thì cần phải ăn ở cho xứng đáng cho đến ngày Chúa Kitô trở lại lần thứ hai, phải sống làm sao để không ai có thể trách cứ được anh em điều gì cho đến ngày vinh quang Chúa tỏ hiện.

Chúa sẽ trở lại lần thứ hai trong vinh quang với quyền năng của một vị thẩm phán, đó là điều Đức Giêsu đã khẳng định và là niềm tin của Giáo Hội và của mỗi người chúng ta. Trong Tin mừng đã nhiều lần Chúa nói đến ngày này, ngày Chúa sẽ là Đức vua phân biệt người lành và kẻ dữ như người mục tử phân biệt chiên ra khỏi dê, Ngày Người trở lại như ông chủ trở về đòi các đầy tớ tính sổ và nộp cả vốn lẫn lời. Chắc chắn Chúa sẽ trở lại, nhưng Ngài lại không hẹn giờ, vì thế, cuộc trở lại lần thứ hai là cuộc trở lại trong bất ngờ, và Ngài cảnh báo chúng ta: Anh em phải canh thức vì anh em không biết khi nào chủ nhà sẽ đến. Con người luôn để mình rơi vào tình trạng bất ngờ, mê ngủ hoạc là chè chén say sưa bỏ bê công việc, như câu chuyện Chúa kể hôm nay.

Người chủ kia trẩy đi phương xa và trao quyền lại cho đầy tớ mỗi người một việc và ra lệnh cho họ phải canh giữ và tỉnh thức. Mỗi người đều có công việc riêng của mình và hoàn cảnh riêng của mình, tất cả đều do ông chủ là Thiên Chúa trao cho, mà mỗi người phải hết mình và tận tâm để chu toàn.

Qua lời dặn dò, ông muốn những người đầy tớ này không chỉ giữ nguyên vẹn an toàn, mà còn phai làm việc để sinh lời những đồng vốn ông trao gửi. Ông sẽ trở về có thể là chập tối, lúc nửa đêm hay lúc gà gáy về sáng, ông không muốn thấy đầy tớ của ông mê man say ngủ, mà ông muốn họ phải tỉnh thức, thắp đèn chờ đón ông. Tinh thức, thắp đèn, chờ đón, đó là một thái độ chờ đợi trong sẳn sàng và chủ động làm việc chứ không phải là ủ rũ thụ động chờ đợi trong mòn mỏi.

Canh thức là điều chúng ta luôn được nhắc nhở và tự nhắc nhở vì lẽ đó là bổn phận, nhiệm vụ của mỗi người chúng ta. Nhung, d, song cũng lại là điều chúng ta dễ quên nhất. Biết chắc chắn rằng Chúa sẽ đến bất cứ lúc nào, song chúng ta vẫn bị bất ngờ. Chính sư lôi kéo của thế gian làm cho chúng ta quên ngày chúng ta phải trở về, nhiều người đã sống như thể mình sẽ không bao giờ phải chết hoặc là tránh né không dám nhắc đến ngày phải trở về, vì thế họ để cho công việc, tiền bạc, của cải chiếm hết thời gian và những lo toan của họ, khiến họ không còn giờ để lo cho Ngày Chúa đến với mình nữa.

Nhiều người đã quên mất thân phận của mình chỉ là một người đầy tớ, một người quản lý được Chúa trao cho tài sản để sinh lời cho Chúa, mà lại coi mình như là ông chủ bà chủ và ngủ mê trong trong công việc của mình, lo hưởng thụ và không lo làm lời những đồng vốn, những nén bạc Chúa trao hoặc lại đem đi chôn giấu.

Hôm nay, ta được Chúa lại đánh thức ta. Đơn giản vì ta có khi thức nhưng không tỉnh. Có khi ta lại sống trong trạng thái mơ mơ ảo ảo và ta không biết đâu là cùng đích cuộc đời. Sống nhưng ta không xác định được cái gì là bền vững, cái gì là mau qua, đâu là hạnh phúc thật và đâu là ảo ảnh.

Hạnh phúc thật của chúng ta là Thiên Chúa và Nước Trời, mọi sự ở trần gian: tiền bạc của cải danh vọng quyền lực rồi sẽ qua mau, chỉ có Thiên Chúa là bển vững và hạnh phúc ngài ban là vĩnh cửu. Những ai còn đang mê ngủ, hảy tỉnh dây để điều chỉnh cuộc sống của mình của gia đình mình đi cho đúng đường của Chúa thì mới có thể đạt được hạnh phúc thật.

Nhiều bậc làm cha làm mẹ vẫn đang mê ngủ trong sự lười biếng của mình, ngủ mê trong khối tài sản của mình, lấy lý do bận rộn để bỏ quên việc canh thức cho chính mình và cho gia đình mình. Là chủ của gia đình, ta ãy canh thức bằng cách sắp xếp và điều chỉnh lại nếp sống đạo đức của cả gia đình bằng việc giúp nhau lãnh nhận Bí tích, tham dự Thánh lễ, rước lể, bằng đọc kinh cầu nguyện và đọc Lời chúa mỗi ngày.

Ngày mỗi ngày, ta thắp lên ngọn lửa yêu thương trong gia đình, vì gia đình và con cái chính là tài sản quý giá nhất mà Thiên Chúa trao cho mỗi chúng ta, hãy làm cho gia đình trở nên phong phú và đầy tình yêu thương. Hãy canh thức đừng để cho sự nghi kỵ và ích kỷ tham lam nó làm đổ vỡ tình nghĩa gia đình giữa cha mẹ và con cái giữa anh em ruột thịt, đừng để cho đồng tiền nó cướp đi hạnh phúc và hơi ấm của gia đình, nó gây chia rẽ trong gia đình trong anh em, láng giềng.

Với người trẻ, Lời Chúa mời gọi các bạn canh thức, tức là canh chừng đừng để mình ngủ quên trong xã hội hưởng thụ hôm nay. Với tất cả công việc, tương lai của ta và cả danh vọng địa vị sẽ để làm gì nếu ngay đêm nay Chúa là ông chủ đòi ta tính sổ cuộc đời.

Hãy canh thức đừng để mình rơi vào tình trạng nghiện ngập bê tha, ăn chơi buông thả, đừng quên mình là người Công giáo, người con Chúa.

Ta đừng nghĩ rằng mình còn trẻ thì ngày ấy chưa đến, sẽ không phải chết, đừng sợ nghĩ đến cái chết, vì khi biết nghĩ đến ngày mai mình phải chết sẽ giúp cho mình biết sống tốt hơn và mỗi ngày sống hãy sống yêu thương cho đầy tràn, hãy sống cho có ý nghĩa và hãy sống có ích cho chính mình, cho đời, hãy sống như thể ngày mai mình sẽ phải chết, để mình khỏi mê ngủ và không uổng phí cuộc đời vào những chuyện mau qua.

 

12. Tỉnh thức và cầu nguyện

(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)

Mùa Vọng là mùa chờ đón Chúa đến. Chúa sẽ đến nhưng ta không chắc gặp được Người. Vì Người đến rất bất ngờ và rất âm thầm. Muốn gặp được Chúa ta phải tỉnh thức.

Tỉnh thức có nghĩa là đừng mê ngủ. Chúa thường hay đến vào ban đêm, nghĩa là vào lúc ta không ngờ. Ðời sống có những bóng đêm ru ta ngủ say mê khiến ta không gặp được Người. Có những bóng đêm của tội lỗi giam cầm hồn ta trong giấc ngủ bạc nhược khiến ta không còn đủ sức thoát ra. Tội lỗi lôi kéo tội lỗi. Tội lỗi chồng chất giống như những tảng đá gìm ta xuống vực sâu vô tận. Có những bóng đêm của danh vọng ru hồn ta ngủ quên trên vinh quang chói lọi. Vinh quang giống như ngọn đèn đốt cháy biết bao đời thiêu thân. Có những bóng đêm của xác thịt cuốn hồn ta vào giấc mộng lạc thú. Lạc thú giống như chiếc lưới rất mềm mại, rất nhẹ nhàng, nhưng rất hiểm độc. Linh hồn đã sa vào khó có thể thoát ra. Có những bóng đêm của thói ích kỷ chỉ biết sống cho bản thân mình. Ích kỷ giống như một hang sâu, càng đi vào càng thấy tối tăm. Có những bóng đêm của tiền tài bao phủ ta trong giấc mộng giàu sang phú quí. Chìm đắm trong giấc mộng, ta sẽ chẳng nghe được bước chân của Chúa đi qua.

Tỉnh thức cũng có nghĩa là tỉnh táo phân định. Chúa đến rất âm thầm và rất bé nhỏ. Người không đến với cờ quạt trống phách tưng bừng, nhưng đến trong âm thầm lặng lẽ. Người không đến trong uy nghi lẫm liệt của những vị vương đế, nhưng Người đến trong hiền lành khiêm nhường như một người phục vụ. Người không mặc gấm vóc lụa là, nhưng đơn sơ trong y phục dân dã. Người không đến như vị quan toà nghiêm khắc, nhưng như một người cha nhân hậu, một người bạn dễ thương dễ mến. Người đang đến qua những con người hiền lành bé nhỏ quanh ta. Người đang đến trong những con người khốn khổ túng cùng. Người đang đến qua những khuôn mặt xanh xao hốc hác. Người đang đến trong những tấm thân gầy guộc. Người lẫn vào giữa đám đông vô danh. Người chìm mất trong số những kẻ bị loại ra ngoài lề xã hội. Người ẩn mình giữa đám người ăn xin đang lê bước khắp các nẻo đường cát bụi. Người đang rét run với cặp mắt ngơ ngác thất thần ở giữa những nạn nhân bão lụt. Phải tỉnh táo lắm ta mới nhận ra Người. Phải tỉnh thức lắm ta mới gặp được Người.

Tỉnh thức không có nghĩa là cứ ngồi đó mà chờ đợi. Tỉnh thức là bắt tay vào hành động. Chúa như ông chủ đi vắng. Người cho ta được toàn quyền khi Người vắng nhà. Người giao trách nhiệm cho ta trông coi gia đình ta, giáo xứ ta, địa phương ta, đất nước ta và cả thế giới nơi ta đang sống. Ta được tự do hành động. Ta có trách nhiệm làm cho gia đình, xứ đạo, địa phương, đất nước, và cả thế giới được phát triển về mọi mặt. Vì thế, tỉnh thức là nhìn thấy những nhu cầu của anh em, và đáp ứng những nhu cầu đó. Tỉnh thức là nhìn thấy ý Chúa trong những trào lưu thời đại. Tỉnh thức là nhận biết Chúa hành động trong những tâm hồn thiện chí thuộc các niềm tin, mầu da, quan điểm khác nhau để biết cộng tác trong việc xây dựng xã hội. Tỉnh thức là dấn thân hy sinh phục vụ anh em trong quên mình.

Ngay từ đầu mùa Vọng, Chúa mời gọi ta hãy tỉnh thức. Hãy bước ra khỏi giấc ngủ miệt mài, lười biếng. Hãy đoạn tuyệt với những giấc mộng phù hoa. Hãy thôi đuổi theo những đam mê dục vọng. Hãy nói không với những đồng tiền bất chính.

Hãy tỉnh táo phân định để nhận ra dung mạo thực sự của Ðức Kitô. Ðừng chạy theo những khuôn mặt mang dáng vẻ cao sang quyền quý. Ðừng chạy theo những khuôn mặt nặng về quyền lực. Ðừng chạy theo những lời hứa hẹn giàu sang. Dung mạo đích thực của Ðức Kitô là nghèo hèn, là khiêm nhường, là bé nhỏ.

Hãy tỉnh thức để làm việc không ngừng, để quên mình, hy sinh phục vụ cho lợi ích của đồng loại.

Như thế, tỉnh thức không phải là việc dễ dàng. Tự sức ta sẽ khó mà tỉnh thức. Nên ta phải tha thiết cầu nguyện xin ơn Chúa trợ giúp. Có ơn Chúa thúc đẩy, ta mới có thể dứt bỏ con đường tội lỗi xưa cũ. Có ơn Chúa soi sáng, ta mới đủ tỉnh táo nhận ra dung mạo đích thực của Ðức Giêsu. Có ơn Chúa trợ giúp, ta mới đủ hăng hái ra đi phục vụ trong quên mình.

Lạy Chúa, xin giữ hồn xác con luôn tỉnh thức để con nhận biết Chúa đang đến với con trong cuộc sống hằng ngày. Amen.

 

13. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

TỈNH THỨC ĐI VÀO THẾ GIỚI MỚI

Thật ngạc nhiên. Ta cứ tưởng trong mùa Vọng, phải có những bài sách Thánh báo tin Đấng Cứu Thế sẽ sinh ra. Nhưng không ngờ những bài sách thánh và đặc biệt bài Tin Mừng hôm nay lại báo tin Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Tại sao thế? Thưa vì Giáo Hội muốn cho ta hiểu ý nghĩa thần học của việc chờ mong Chúa đến. Hàng năm vào mùa Vọng, Giáo Hội mời gọi ta chuẩn bị tâm hồn để đón Chúa đến. Thực ra Chúa đã đến rồi khi sinh ra tại hang đá Bêlem cách nay hơn hai ngàn năm. Tuy nhiên ta vẫn luôn chờ mong vì Chúa đến hằng ngày với ta. Và nhất là Chúa sẽ đến trong ngày phán xét. Việc Chúa đến lần thứ hai đưa ra những hướng dẫn quan trọng cho cuộc đời chúng ta.

Hướng dẫn thứ nhất: Có hai thế giới. Thế giới hiện tại và thế giới tương lai. Thế giới hiện tại sẽ qua đi. Vạn vật có khởi đầu và có kết thúc. Con người có sinh có tử. Đó là định luật tự nhiên. Không chỉ những gì yếu đuối, bé nhỏ mới qua đi. Cả những gì lớn lao, mạnh mẽ, có vẻ bền vững nhất như mặt trời, mặt trăng cũng qua đi. Điều quan trọng nhất là chính ta cũng sẽ qua đi. Khi thế giới này qua đi, một thế giới mới sẽ bắt đầu: thế giới vĩnh cửu.

Hướng dẫn thứ hai: Chúa làm chủ lịch sử. Sở dĩ thế giới cũ tan biến đi vì Chúa đã định cho nó một thời hạn. Khi thế giới đến ngày cùng tháng tận Chúa sẽ đến. Quyền uy của Chúa thể hiện qua việc Chúa xét xử thế giới cũ và khai sinh thế giới mới. Sau cảnh tan vỡ kinh hoàng của thế giới cũ sẽ là một khởi đầu mới đem đến niềm hy vọng mới cho con người. Có thể nói thế giới không chấm dứt nhưng biến đổi. Từ một thế giới mong manh mau tàn đến một thế giới vững bền vĩnh cửu. Từ một thế giới tương đối đến một thế giới tuyệt đối.

Hướng dẫn thứ ba: Ta tự quyết định vận mệnh đời mình. Thế giới này sẽ qua đi. Thế giới mới sẽ xuất hiện. Ta sẽ bị hủy diệt cùng với thế giới cũ. Hay sẽ được hạnh phúc trong thế giới mới? Điều đó tùy thuộc bản thân ta. Chúa đưa ra những chỉ dẫn rõ ràng. Thế giới cũ sẽ suy tàn. Nên ai quá gắn bó với nó sẽ khổ sở. Thế giới mới sẽ tới. Ai biết chuẩn bị chờ đón sẽ được hạnh phúc. Phải làm gì? Thưa phải tỉnh thức và cầu nguyện.

Tỉnh thức không “chè chén say sưa”, tức là không quá mê mẩn những đam mê hưởng thụ đời này. Tỉnh thức không “lo lắng sự đời”, nghĩa là không quá mê say danh, lợi, thú, là những giá trị đời này. Tỉnh thức là biết chuẩn bị cho đời sau bằng cách vươn tâm hồn lên những chân trời cao thượng. Tỉnh thức tuy còn sống ở đời này nhưng tâm hồn đã hướng về những giá trị tinh thần vĩnh cửu đời sau.

Cầu nguyện vì tinh thần mau mắn nhưng xác thịt nặng nề. Cầu nguyện để biết tỉnh thức. Vì khi cầu nguyện ta tách ra khỏi sự ràng buộc của thế giới vật chất để vươn tới thế giới tâm linh. Nhất là cầu nguyện để xin ơn Chúa giúp. Con người phàm trần xác thịt nặng nề luôn bị trần gian lôi kéo. Chỉ với ơn Chúa giúp ta mới thoát ra khỏi vòng giam hãm của vật chất để vươn tâm hồn lên thế giới thiêng liêng.

Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới khao khát Chúa đến. Có tỉnh thức cầu nguyện, khi Chúa đến ta mới đứng dậy và ngẩng cao đầu lên. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới gặp được Chúa. Có tỉnh thức cầu nguyện ta mới được vào thế giới mới với Chúa. Tỉnh thức cầu nguyện, ta có thể gặp Chúa ngay bây giờ trong ngày hôm nay. Tỉnh thức cầu nguyện ta sẽ gặp được Chúa trong ngày lễ Chúa Giáng Sinh. Tỉnh thức cầu nguyện chắc chắn ta sẽ được gặp Chúa trong ngày cùng tận của thế giới. Chúa sẽ đón ta vào hưởng hạnh phúc trong một thế giới mới hạnh phúc tuyệt đối và không bao giờ tàn lụi.

Lạy Chúa Giêsu, xin hãy đến cứu con. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Chúa đã đến rồi sao ta vẫn còn chờ mong Chúa đến?

2) Chúa làm chủ lịch sử. Bạn có cảm nghiệm về điều này trong đời sống không?

3) Ta phải làm gì để được niềm vui trong ngày Chúa đến?

4) Tỉnh thức nghĩa là gì?

5) Tại sao phải cầu nguyện?

 

14. Mong chờ một cuộc gặp gỡ – Cố Lm. Hồng Phúc

Đây, Mùa Vọng lại đến. Mùa Vọng là mùa mong chờ một cuộc gặp gỡ. Người nông phu gieo hạt xuống đất mong chờ ngày hạt trổ bông. Người bộ hành mong chờ gặp gỡ nơi chỗ hẹn.

Nhà Tiên tri Giêrêmia loan báo, trong bài đọc I, “ngày Thiên Chúa làm nẩy sinh một chồi công chính” và trên bước đường lịch sử, nhân loại sẽ gặp Đấng Cứu Độ. Mùa Vọng là thời điểm Chúa Kitô, Đấng mà Đavit là tiền ảnh, Đấng đã được tiên báo đến trong thế gian và còn tiếp tục đến.

Phải, Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đến giữa chúng ta. Nhân loại càng ngày càng thay đổi thì Chúa Kitô, niềm hy vọng thế giới, vẫn tiếp tục đến để đem sự công chính, hoà bình và ơn cứu rỗi. Chúa Giêsu vẫn tiếp tục đến trong mỗi người chúng ta. Là một con người, ai lại không mong muốn được biết đường đi, xa lánh sự dữ, được khỏi tiêu diệt và khỏi chết. Thì Chúa Kitô chính là Đường, là sự Sống, là sự Thật sẽ đến hướng dẫn chúng ta và cứu chuộc chúng ta.

Thánh Phaolô, trong thánh thư gửi giáo đoàn Thessalonica, dạy chúng ta phải sống tinh thần Mùa Vọng như thế nào. Người tín hữu là kẻ đã được Đức Tin hướng dẫn ngày chịu phép Rửa tội thì phải tiến lên không ngừng, “phải gia tăng và tràn đầy lòng thương yêu nhau”. Phaolô dạy giáo đoàn Thessalonica vẫn đã sốt sắng, phải sốt sắng, phải thánh thiện hơn. Bằng bốn lần, Phaolô khuyên họ và khuyên chúng ta phải kết hợp với Chúa Kitô mật thiết và thương yêu anh em hơn, như Ngài đã thương yêu chúng ta. Đó là chìa khóa sự thánh thiện. Đó là tinh thần Mùa Vọng chân chính, mùa mong đợi Chúa đến.

Vì thế, Giáo Hội thường khuyến cáo tổ chức những buổi tĩnh tâm cấm phòng trong mùa Vọng, không ngoài mục đích thăng tiến lòng đạo đức. Chúng ta hãy sốt sắng tham gia. “Hãy quên đi đoạn đường đã qua và chạy đến cùng đích” (Phi. 3, 14). Cùng đích ấy là Chúa Kitô.

Mùa Vọng là mùa mong đợi gặp gỡ Chúa. Chúa Giêsu chỉ đi vào lịch sử một lần khi Ngài giáng sinh trong hang lừa máng cỏ, cách đây 19 thế kỷ. Nhưng như vừa nói, Ngài sẽ đến lại với mỗi người chúng ta và nhất là Ngài sẽ đến lại trong vinh quang ngày tận thế.

Bài Phúc âm mở cho chúng ta một cái nhìn bao quát vĩ đại đó. Thời gian từ ngày Chúa đến lần thứ nhất trong lịch sử đến ngày Chúa lại đến trong vinh quang là thời gian của Giáo hội. Và Giáo hội cũng vọng về ngày Chúa đến trong uy quyền. Ngày đó bao giờ đến?

Ngài không nói ra bí mật của Thiên Chúa! Nhưng Ngài cho ta những điềm báo trước: những điềm lạ trên trời, những rung chuyển dưới đất. Những vụ nổ như vụ núi lửa Pinatubo ở Phi luật Tân phun lên đến cao độ 12 miles với sức mạnh của 10 quả bom nguyên tử, tháng 6, 1991, là một tiếng dội xa xôi của ngày Chúa giáng lâm. Những điềm báo đó phải là những điều thức tỉnh, những bài học cho chúng ta.

Ngày nay, có nhiều người sống và tổ chức cuộc sống như rằng thế giới sẽ vô tận, không có một cùng điểm. Có nhiều người sống như không bao giờ phải chết. Người tín hữu biết rằng Chúa đã đến và Chúa sẽ đến lại cho cả thế giới và với mỗi người chúng ta, nên phải chuẩn bị cho cuộc gặp gỡ đó. “Chúng con hãy giữ mình, kẻo lòng chúng con ra nặng nề, vì chè chén say sưa và lo lắng việc đời mà ngày đó thình lình đến với chúng con như chiếc lưới chụp xuống mọi người sống trên mặt đất”.

Vậy chúng ta “Hãy tỉnh thức và cầu nguyện luôn” trong Mùa Vọng này.

Trời cao hãy đổ sương xuống và ngàn mây hãy mưa Đấng chuộc tôi.

 

15. Thức tỉnh

Chúa Nhật đầu tiên của năm phụng vụ, là Chúa Nhật thứ I mùa vọng, nhưng các bài đọc sách thánh và bài Tin Mừng lại nói về ngày cánh chung. Thật ra Chúa đến trong thế giới hơn hai ngàn năm. Ngày hôm nay Giáo Hội lại muốn nhắc ta nhớ lại ngày Chúa đến, và ngày phán xét cũng là ngày mà mỗi người đang chờ đợi. Cho nên điều quan trọng trong thời gian Mùa Vọng này không phải là tưởng niệm ngày Chúa Giáng Sinh, hay xem dấu hiệu ngày tận thế, mà phải biết dọn mình thức tỉnh đón Chúa trong bất cứ lúc nào.

Trong Mùa Vọng Giáo Hội không muốn chúng ta đợi Chúa đến cách thụ động, mà muốn ta sống tâm tình đó cách năng động. Đặc biệt Giáo Hội muốn ta sống lại những tâm tình của bao thế hệ xưa đã mòn mỏi trông chờ Chúa. Nhất là muốn ta dùng Mùa vọng này để đón Chúa mùa Giáng Sinh, từ đó cũng đón nhận được những ơn mới Chúa ban trong dịp này để làm cho tâm hồn ta ngày càng được lớn lên trong tình yêu Chúa, giúp ta sống Mùa Vọng cách quyết liệt ngay từ Chúa Nhật thứ nhất này. Đồng thời với việc chuẩn bị mừng lễ Giáng Sinh Giáo Hội cũng nhắc ta chuẩn bị ngày Chúa đến sau hết trong ngày cánh chung.

Chúa đã đến với ta rất nhiều lần trong đời, nhưng đến ngày phán xét Chúa sẽ đến “như một chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu anh em”. Tuy rằng phúc âm có nói: “Sẽ có những điềm lạ trên mặt trời, mặt trăng và các vì sao. Dưới đất muôn dân sẽ lo lắng hoang mang trước cảnh biển gào sóng thét”. Nhưng nếu con người không thức tỉnh chắc chắn sẽ bị chìm vào nơi tăm tối. Mặc dù Chúa nói: “anh em sắp được cứu chuộc”. Nghĩa là không phải là tất cả mà chỉ là những người biết sống như năm cô khôn ngoan biết đem dầu và đèn. Ngược lại nếu chỉ sống như những cô khờ dại thì ngày đó thật khủng khiếp. Vì ngày đó còn gọi là ngày phán xét chung, nên mỗi người phải trả giá cho việc mình làm, trả lời cho Chúa về những ơn huệ mình đã lãnh nhận, và đã sinh lợi thế nào. Khi nói đến ngày phán xét thì người ta sẽ nghĩ đến hai hạng người: kẻ lành được lên thiên đàng hưởng hạnh phúc đời đời. Còn kẻ dữ phải sa hỏa ngục ở đó phải đau khổ, khóc lóc nghiến răng. Hình phạt của kẻ dữ là đời đời không được thấy Chúa. Nhất là không còn được ở trong tình yêu của Người nữa.

Chắc chắc trong chúng ta không ai muốn bị vào số của những kẻ dữ, muốn sa hỏa ngục. Để dừng bị như thế đòi hỏi chúng ta phải dọn mình để đón Chúa ngay trong giây phút này. Đặc biệt là trong mùa vọng mỗi người chúng ta hãy dọn mình để chuẩn bị kỷ niệm việc Chúa đến. Nhưng dọn mình bằng cách nào? Mỗi người hãy nhớ lại tâm tình của người tội lỗi; để được ơn tha thứ ta phải ăn năn và quyết tâm không bao giờ phạm nữa. Thì trong giây phút này đặc biệt là trong mùa chờ đợi Chúa đến, mỗi người hãy ăn năn chê ghét hãm mình đền tội. Nhất là biết chết đi con người cũ và sống lại với con người mới để đón Chúa đến trong một ngôi nhà không vết nhơ, nhưng lộng lẫy trong tâm hồn thánh thiện.

Mùa vọng không chỉ là thời gian để chúng ta dọn mình đón Chúa cách riêng tư. Vì Chúa đến mang ơn cứu độ cho mọi người. Do đó, Mùa vọng còn là mùa để mỗi người mang ơn cứu độ đến cho tha nhân bằng cả tâm hồn và lòng tha thiết. Mỗi hành động ta làm cho tha nhân là một hành động ta đang làm cho Chúa. Vì vậy ngày Chúa đến lần thứ hai Ngài sẽ phán xét ta về việc bổn phận với tha nhân, cách cư xử với anh em. Nếu chúng ta muốn được Chúa mang hạnh phúc cho mình trong Mùa Giáng Sinh này, thì trước tiên chúng ta hãy biết mang lại hạnh phúc cho anh em chúng ta trong mù vọng này.

Tóm lại Mùa vọng không chỉ là thời gian để chúng ta nhớ lại và sống tâm tình của người Do Thái trông chờ Đấng Cứu Thế. Nhưng mùa vọng là thời gian tưởng nhớ việc Đức Giêsu sẽ trở lại vào thời cuối cùng của lịch sử. Chính vì thế mà mỗi người phải biết dọn mình, để sẵn sàng đón Chúa cho dù Ngài đến bất cứ lúc nào cũng biết thức tỉnh để ra ngênh đón.

Lạy Chúa, Mùa vọng không chỉ là mùa chờ đọi mà còn là mùa sám hối, vì chỉ có sám hối ăn năn là cách chờ đợi Chúa tốt nhất và đẹp lòng Ngài nhất. Amen.

 

16. Hãy đừng sợ, cứ đứng vững và ngẩng đầu lên

Một năm phụng vụ nữa đang kết thúc. Hôm nay là Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta lại bắt đầu một chu kỳ mới của ơn cứu độ. Tưởng cũng nên nhắc lại, là sống những tâm tình của từng mùa trong năm phụng vụ không phải chúng ta chỉ sống lại những kỷ niệm của một thời đại đã qua, nhưng là sống chính trong nguồn mạch ơn Chúa tươi mát và mới mẻ để nuôi dưỡng con người nơi Giáo Hội trần gian này, trong cuộc hành trình về quê hương vĩnh cửu. Điểm quan trọng trong Lời Chúa hôm nay là câu của chính Chúa Giêsu khuyên bảo: “Trong mọi biến chuyển kinh hoàng xảy đến đó, chúng con hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”.

“Đứng dậy, ngẩng đầu”, đòi hỏi con người phải hết lòng tin tưởng, hy vọng vào Thiên Chúa toàn năng, yêu mến Người hết lòng, hướng mọi khả năng về Thiên Chúa vì ơn cứu độ chỉ đến từ Thiên Chúa mà thôi. Không có niềm tin vững mạnh, hy vọng bao la, yêu mến hết lòng, không ai có thể đứng vững được trong hiểm nguy gian nan thử thách. Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật khi gặp nguy hiểm là trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống thu mình nhỏ lại, muốn mình biến tan để những cơn nguy hiểm không động chạm đến mình. Nhưng Chúa Giêsu bảo: “Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên”. Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên vì Thiên Chúa đem đến cho chúng ta niềm hy vọng.

Nơi bài đọc thứ nhất, qua miệng tiên tri Giêrêmia, Thiên Chúa bảo: “Đã đến ngày Ta thực hiện lời hứa Ta đã hứa cùng Israel và Giuđa. Ngày đó Giuđa sẽ được cứu thoát và Giêrusalem sẽ an lành”. Tiên tri Giêrêmia báo cho dân chúng biết Thiên Chúa là Chúa trung thành, Người sẽ tạo lập một xã hội mới có một vị vua biết yêu thương dân và luôn thi hành công lý. Điểm thời gian mà lời tiên tri đó được thực hiện trong lịch sử chính là sự xuất hiện của Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Người vừa là Vua vừa là Thượng Tế. Là Vua, chính Người lo cho Giuđa được cứu thoát. Là Thượng Tế, chính Người lo cho thành thánh Giêrusalem sống trong an bình. Thời gian đó là thời gian vui tươi, hy vọng, không còn sợ hãi, người người sẽ hớn hở gọi to tên của Đấng phải đến đó là: “Thiên Chúa Đấng công chính của chúng tôi”. Như thế, bài đọc thứ nhất công bố một niềm hân hoan to lớn.

Sang bài đọc thứ hai, trong thư gởi tín hữu thành Thêsalônica, thánh Phaolô khuyến khích phải làm gì để đón nhận niềm vui trọng đại của ơn cứu thoát mà Thiên Chúa đã hứa? Thánh nhân đã đưa ra ba việc chính yếu phải làm:

Thứ nhất, là phải biết thương yêu nhau.

Thứ hai, là cố gắng sống không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Thứ ba, thánh Phaolô bảo: Người van nài là làm sao càng ngày mọi người càng tiến thêm lên trên con đường thánh thiện.

Qua ba điểm, thánh Phaolô mong muốn, chúng ta nhận thấy rõ ràng như đã nêu lên ở trên, những nhân đức nòng cốt mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay mong muốn chúng ta phải sống, đó là một đức tin vững chắc, một niềm hy vọng sâu xa, một tình yêu chân thành và luôn biết hướng mọi khả năng Chúa ban cho mình để phụng sự Chúa là cùng đích tối cao và tối hậu của cuộc đời con người. Trong ba việc làm thánh Phaolô chỉ dạy, cần để ý đến lời khuyên: Cố gắng sống không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta.

Không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa, mà Thiên Chúa đó lại là Cha yêu thương chúng ta chớ không phải là quan xét xử, và Cha chúng ta thấu suốt tận tâm can của từng người con một. Tư tưởng, lời nói, việc làm của từng người con, Người đều thấy hiểu và yêu thương ban ơn nâng đỡ, hướng dẫn. Vậy chúng ta hãy tin tưởng, hy vọng, yêu mến và hướng về Chúa.

Trong bài Phúc Âm như chúng ta đã nói, câu đáng lưu ý là lời khuyên mạnh mẽ của Chúa Giêsu: “Chúng con đừng sợ, hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”. Với bài đọc thứ nhất, Giêrêmia chỉ rõ Thiên Chúa trung thành với lời hứa cứu rỗi. Trong bài đọc thứ hai, thánh Phaolô trình bày Thiên Chúa Cha yêu thương, luôn mong điều tốt đẹp cho con cái. Bài Phúc Âm chỉ là lời kết luận: Dầu trời đất có rung chuyển, có sụp đổ, dầu Chúa có xuất hiện trong uy nghi cao cả, chúng ta cũng hãy đừng sợ, nhưng hãy vui mừng và hy vọng. “Hãy đứng vững và ngẩng đầu lên”. Dầu cho trật tự trần gian này qua đi, Chúa sẽ thiết lập một trật tự mới trong an bình. hãy đừng sợ! Đừng sợ cả khi nhận ra sự yếu đuối của mình, của con người chính mình.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II ngay trong chương đầu của quyển “Bước qua ngưỡng cửa hy vọng” đã viết: “Hãy đừng sợ, là lời Chúa đã mời gọi nhiều lần với những con người Chúa tiếp xúc. Thiên Thần đã nói với Maria “Hãy đừng sợ”, và cũng đã nói với Giuse “Hãy đừng sợ”. Chúa Kitô đã nói với các tông đồ, đặc biệt với Phêrô nhiều lần trong nhiều trường hợp khác nhau, nhất là sau khi Người sống lại: “Hãy đừng sợ”. Chúa phải lặp đi lặp lại như thế vì Người biết rằng các ông sợ. Các ông đã sợ khi Người bị bắt. Các ông cũng sợ khi Người phục sinh. Lời đó của Chúa Giêsu, Giáo Hội đã lặp đi lặp lại. Lời đó, Giáo Hoàng cũng đã lặp lại. Tôi đã nói những lời: “Hãy đừng sợ” đó trong bài giảng đầu tiên của tôi tại quảng trường thánh Phêrô.

Nhưng chúng ta đừng sợ cái gì? Chúng ta đừng sợ sự thật của chính chúng ta. Thánh Phêrô đã sống kinh nghiệm bản thân của sự thật đó khi người nói cùng Chúa Giêsu: “Lạy Thầy, xin hãy xa con vì con là người tội lỗi”. Không phải chỉ Phêrô mới ý thức được sự thật đó, mà mỗi người chúng ta đều học biết và chúng ta biết rằng sau câu nói đó của Phêrô, Chúa Giêsu bảo: “Hãy đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ chài lưới người ta”.

Với lời khuyên của Chúa Giêsu và lời nhắn nhủ của Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, vị đại diện của Ngài nơi trần gian, chúng ta hãy đừng sợ! Dầu cho con người chúng ta yếu đuối, hãy vững tin vào ơn Chúa, sống Mùa Vọng cho sốt sắng để trở thành con người mới, để cùng ca vang với trời đất, với thần thánh trên trời và loài người dưới thế.

“Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho loài người được Chúa yêu thương”.

Để có việc làm cụ thể trong tuần này, tôi luôn nhớ lời: “Hãy đừng sợ, cứ đứng vững và ngẩng đầu lên” để những lo âu của cuộc sống này không đè bẹp được tôi; để tôi niềm nở tươi vui với tất cả mọi người nhất là những người đang chung sống với tôi cùng một mái nhà; để tôi có một cái nhìn lạc quan vào mọi biến cố của cuộc đời, kể cả những biến cố có vẻ đau thương nhất, vì Chúa dạy tôi: Hãy tin tưởng, hy vọng, yêu mến, và hứa dẫn tôi về với Người.

 

17. Sẵn sàng lên đường

Có cuộc hành trình nào mà người lữ khách không chuẩn bị hành lý?! Chuyến đi càng xa và càng quan trọng thì sự chuẩn bị càng phải chu đáo hơn và cẩn trọng hơn. Đời người được sánh ví như một chuyến đi, đi về quê hương thật của mình. Quê hương ấy chính là Nước trời. Trần gian được coi như cõi tạm mà con người là thân lữ khách phải đi qua. Chuyến đi này thật quan trọng và mang tính quyết định cho số phận đời đời của con người. Nhưng thử hỏi, có bao nhiêu người đã ý thức mình là thân lữ khách? Có mấy người đã chuẩn bị chu đáo cho chuyến đi này? Chúng ta đã chuẩn bị được gì và có sẵn sàng lên đường cho cuộc hành trình ấy chưa?

Phải chuẩn bị những gì?

  1. Tâm hồn cho nhẹ nhàng, thanh thoát:

Chuyến đi định mệnh này đòi hỏi con người mang túi hành lý là chính tâm hồn mình, để sao cho nó thật nhẹ nhàng và thanh thoát. “Anh em phải đề phòng, chớ để lòng mình ra nặng nề vì chè chén say sưa, lo lắng sự đời” (Lc21,34). Xã hội ngày nay có nhiều cuộc vui đã cuốn hút nhiều người đi vào trong đó và biến họ thành những con rối, những con thiêu thân. Họ quay cuồng theo tiếng nhạc kích động, buông mình theo những làn khói trắng và những chén rượu nồng, đến quên cả lối về…Chè chén say sưa là đi vào những cuộc vui không biên giới. có nhiều người thì lại quá bận tâm đến chuyện làm giàu, cũng cố địa vị và chỗ đúng cho mình đến độ không còn chỗ cho Chúa trong tâm hồn mình nữa. Thời gian của họ đã dành hết cho công việc làm ăn sinh sống và gia đình con cái nên không có thời gian để lo lắng cho linh hồn mình cũng như lo lắng cho việc thờ phượng Chúa. Chúng ta hãy nhớ đến biến cố Hồng Thuỷ trong thời Nôe xem thế nào? Mọi người vui chơi, cưới vợ gã chồng, bình an như không bao giờ phải chết! Noê bị coi như người làm chuyện nhảm nhí, điên khùng… Rồi hồng thuỷ xảy đến, cuốn trôi tất cả, ngoại trừ gia đình Nôe!

Việc sống đạo sốt sắn có thể bị coi như công việc làm dư thừa, chuyện của những con người non dạ, chuyện của trẻ con nếu không muốn nói là điên khùng! Nhưng chúng ta biết mình đang làm gì, cũng như Nôe biết công việc của ông làm vì ông tin vào lời Chúa phán với ông.

  1. Đón ngày Chúa đến:

Mùa vọng là thời gian chúng ta hướng lòng về Chúa, mong đợi Chúa đến trong vinh quang và quyền năng: “Ngự giá mây trời mà đến”. Ngày Chúa đến sẽ làm cho mọi sự biến đổi. Trời đất sẽ rung chuyển khiến cho những gì con người từng nghĩ rằng nó là biểu tượng của sự vững bền ở trần gian sẽ phải tan biến để nhường chỗ cho vinh quang của Đấng Cứu độ con người. Những ai không mang trong mình niềm hy vọng sống sẽ phải rung sợ và hoang man. Còn con cái của Chúa, những người sống trong niềm tin và hy vọng vào ơn cứu độ của Chúa sẽ “ngẫng đầu lên, vì anh em sắp được cứu độ”.

  1. Thái độ sống: Tỉnh thức và cầu nguyện:

Đây là tâm thế cần thiết và xứng hợp của những con người sống niềm tin và hy vọng. Tỉnh thức để khỏi vướng vào những cám dỗ tinh vi của ma quỷ. Cầu nguyện để có sức mạnh chiến đấu và chiến thắng. Vũ khí chắc chắn nhất của con cái sự sáng là cầu nguyện. Cầu nguyện là mặc áo giáp. Xông vào cuộc chiến mà không có áo giáp sẽ dễ bị thương tích và ngã quỵ. Vì thế, chúng ta đừng bao giờ lai bỏ đời sống cầu nguyện bất cứ trong hoàn cảnh nào và môi trường nào. Ngàu nào chúng ta bỏ cầu nguyện là dấu hiệu chúng ta đang có nguy cơ thua cuộc trong cuộc chiến chống lại ác thần. Hãy mặc lấy chiếc áo giáp cầu nguyện để chuẩn bị tư thế lên đường tiến về Nhà Cha, về quê hương đích thực của mình.

 

18. Chờ và đợi – Anmai, CSsR

Tâm trạng mong đợi, chờ mong, trông chờ nó diễn tả nỗi lòng của con người hồi hộp, nao nức mong điều gì đó quý báu, điều gì đó mang đến cho con người niềm vui, bình an, hạnh phúc. Chắc có lẽ ai ai trong chúng ta cũng mang trong mình ít nhiều sự mong đợi, lòng ngóng chờ niềm vui, niềm hạnh phúc đến với mình. Nhìn những đứa con, đứa cháu trông đợi cha mẹ chúng đi làm về hay nhất là đợi mẹ cháu đi chợ về chúng ta thấy hay làm sao đó!

Chúng biết rằng mẹ của chúng thương chúng nên hễ đi chợ về là không ít thì nhiều chúng cũng sẽ được bọc xôi, gói chè! Vì thế, hễ mẹ chúng đi chợ là y như rằng chúng cứ chờ, cứ đợi. Nhiều khi chúng ra tận ngoài ngõ để chờ niềm vui từ những gói chè tự tay mẹ chúng mang về cho chúng.

Tương tự thế, nhìn những đứa trẻ đi học mẫu giáo, dù là vui với các cô, các bạn. Ở với các cô, chơi chung với các bạn đồng lứa vui lắm chứ! Nào là được ăn chung, chơi chung, đùa chung nhưng hình như chúng vẫn chưa thoả mãn với tất cả những gì mà cô mà bạn mang lại. Vì sao? Vì tất cả những thứ ấy vẫn không mang lại cho chúng niềm vui, niềm bình an đích thực. Chúng biết rằng thời gian ở với cô, với bạn hay là chơi với cô với bạn chẳng hạnh phúc bằng được ở với cha với mẹ nên rằng cha mẹ chúng là nhất trên đời.

Ở nhà có các cháu nhỏ chúng ta sẽ thấy hình ảnh của chúng buồn cười lắm. Sáng thức dậy là ráng nằm nướng trên giường chưa muốn dậy. Phần lười biếng, phần buồn ngủ nhưng phần lớn chính là không muốn xa ba xa mẹ là nguồn vui, nguồn hạnh phúc của chúng. Chúng phải làm mình làm mẩy để được ở nhà với cha và với mẹ.

Rồi thử một buổi chiều nào đó, chúng ta đến các trường mầm non chúng ta nhìn hình ảnh những đứa trẻ đang đứng ngóng đợi cha mẹ chúng dễ thương làm sao đó. Dẫu chưa biết lúc nào ba mẹ đến nhưng mà cứ đến khi cô bảo mẫu bảo các con hãy thay đồ, rửa mặt là chúng không ai bảo ai đi thay đồ và làm vệ sinh thật là nhanh. Chẳng hiểu sao thật là thiêng liêng, thật là bí nhiệm khi nghe cô bảo mẫu nói như thế chúng làm nhanh thoăn thoắt. Thay đồ xong là chạy vụt ra sân để mà đợi mà chờ. Trong giờ học, các cô có thể bảo các cháu làm gì theo ý cô, theo bài học cô dạy nhưng đến giờ đó cô không thể nào điều khiển cháu được vì lẽ giờ đấy chỉ có một điều cần thôi là chờ ba mong mẹ.

Ngược lại với hình ảnh buổi sáng. Giờ làm sao cho nhanh để được nhìn thấy ba mẹ, để được ba mẹ đón về nên chúng không còn thiết tha với búp bê, với đồ hàng, với đồ chơi, với xe, với cộ nữa nhưng chỉ còn thiết tha sao cho mau gặp ba với mẹ mà thôi.

Nhìn lại lịch sử dân Israel ngày xưa chúng ta thấy rõ tâm trạng chờ đợi như những đứa trẻ vậy.

Do sự phản bội bất trung, họ đã bị bắt đưa đi làm nô lệ bên Babilon. Cuộc sống lưu đày không chỉ ràng buộc họ với những cảnh cùng cực, đói rét, gò bó, mà còn có cả những khe khắt trong cuộc sống tinh thần tôn giáo. Cuộc sống ấy sói mòn tinh thần và thể xác, khiến cho niềm tin vào Thiên Chúa không còn đứng vững, có khác nào như những cánh tay rời rã, bàn chân mỏi mòn.

Chờ Chúa đến nhưng thấy lâu quá để rồ họ đi tìm cho họ đủ thứ các loại thần để mà thờ để mà kính. Lịch sử viết lại cho chúng ta những dòng sử của dân Israel như là bài học lớn cho mỗi người chúng ta. Vì đi theo thần này, thần kia để rồi dân Israel cứ lầm lũi đi trong đêm tối.

Chính trong bối cảnh bi thảm đen tối, Giavê Thiên Chúa đã gửi tiên tri Giêrêmia đến loan báo về ngày giờ Thiên Chúa sẽ ra tay tế độ. Ngài còn mặc khải rõ hơn khi cho biết tin mừng ấy sẽ được khởi sự ngay qua một dòng tộc: Đó là dòng dõi vua Đavit: “Trong những ngày đó và trong thời gian đó, Ta sẽ làm nảy sinh cho Đavit một chồi Công Chính”. Thế là một triều đại mới, một vận hội mới sẽ đem lại đổi thay cho kiếp đoạ đày đen tối của dân Israel. Từ đây, trật tự được tái lập, hạnh phúc sẽ nở ra và mọi người mọi nhà sống trong cảnh hoà bình thịnh vượng vì Đức Vua hiển trị sẽ xét xử chư dân trong sự khôn ngoan và công chính”.

Lời hứa trên đã làm nao nức bao tâm hồn. Thiên Chúa, Đấng luôn trung thành với giao ước đã chẳng thể nuốt lời. Ngài đã cho Con Một Nhập thể làm người để thực hiện những gì đã hứa, nhưng không chỉ cho Israel mà còn cho các dân tộc. Ngài đã làm sống lại và khơi lên niềm tin tưởng khi loan báo cho họ biết rằng: Giờ cứu rỗi, ngày giải thoát đã gần đến rồi. Vì thế, Ngài kêu gọi mọi người hãy biết đọc qua những biến đổi của vũ trụ, qua những thay đổi của tâm hồn, dấu chỉ của ngày cứu độ. Những biến cố như động đất, mất màu, tai ương, ôn dịch, hạn hán cùng với những vật đổi sao dời làm cho lòng người khiếp run kinh hãi. Và còn có biết bao cái ta không mong đợi mà xảy đến: tai nạn, bệnh tật, chết chóc, hiểm hoạ… Tất cả đều có giá trị như là một dấu hiệu, một lời nhắc nhở để ta hướng về ngày giờ của Con Thiên Chúa đang đến.

Chúng ta, nhìn lại chúng ta ngày nay chúng ta thấy hình như chúng ta cũng chẳng khác Israel ngày xưa là mấy. Chúa yêu thương, nâng đỡ, bao bọc, chở che cuộc đời chúng ta như Israel ngày xưa vậy. Thế nhưng mà chúng ta vẫn chưa cảm thấy thoả mãn với tất cả những gì Chúa thương ban cho chúng ta để rồi chúng ta cũng loay hoay mãi trong bóng đêm như dân Israel vậy.

Tiếng kêu ai oán mong đợi Đấng Cứu Thế đến cứu muôn dân được ngôn sứ Isaia thốt lên trong bài đọc thứ nhất mà chúng ta vừa nghe đấy: “Lạy Đức Chúa, Ngài mới là Cha, là Đấng cứu chuộc chúng con: đó là danh Ngài muôn thuở. Lạy Đức Chúa, tạ sao Ngài lại để chúng con lạc xa đường lối Ngài? Tại sao Ngài làm cho lòng chúng con ra chai đá, chẳng còn biết kính sợ Ngài? Vì tình thương đối với tôi tớ là các chi tộc thuộc gia nghiệp Ngài, xin Ngài mau trở lại. Phải cho Ngài xé trời mà ngự xuống, cho núi non rung chuyển trước thánh nhan”. (Is 63, 16b-17.19b).

Vì lòng con người chai đá nên Isaia đã kêu lên với Đức Chúa. Ngày hôm nay, chúng ta cũng gào lên với Chúa là vì tình thương của Chúa, xin Chúa mau trở lại để cứu chúng ta.

Lòng chờ mong, lòng mong đợi ấy chúng ta cũng được nghe Thánh Phaolô nói đến trong thư thứ nhất gửi tín hữu Côrintô của Ngài: “Chúng ta mong đợi ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, mạc khải vinh quang của Người”.

Và Trong khi chờ đợi, Ngài mời gọi chúng ta hãy sống trong sự tỉnh thức và cầu nguyện như Thánh Maccô thuật lại cho chúng ta trong Tin mừng của Ngài mà chúng ta vừa nghe. Chúa Giêsu, hơn lúc nào hết, Ngài cảnh báo với các môn đệ là phải tỉnh thức luôn luôn. Như những người lính tuần canh, chỉ được gọi là tỉnh thức khi biết luôn đứng với đôi mắt sáng rực nhìn về phía trước. Nói cách khác, như thánh Phaolô khuyên trong thư gửi cho giáo dân thành Thesalonica: Đó là không được để cho lòng trí ra nặng nề và tối tăm, bởi những tiệc chè chén, say sưa, bởi đam mê dục vọng, bởi ảo vọng vật chất. Thay vào đó là phải ra sức thực thi bác ái, yêu thương, mặc lấy một cuộc sống khiêm nhường vì đó là điều đẹp lòng Thiên Chúa và làm cho người ta nên thánh thiện.

Chúng ta biết rằng cuộc đời của chúng ta nó mong manh, nó mỏng dòn, nó yếu đuối lắm nên cuộc đời muốn được đứng vững để đón nhận ân huệ của Chúa, tình thương và ơn cứu độ của Chúa không còn cách nào khác hơn là phải tỉnh thức, vẫn chờ mong Chúa đến như lính canh mong đợi hừng đông như suối mong đợi nước nguồn vậy.

Nhớ lại những đứa trẻ, những thú vui do các cô, các bạn mang lại vẫn không là niềm vui, niềm hạnh phúc đích thực của chúng được. Chúng ta cũng vậy, những lạc thú trần gian: tiền – tình – danh, những thứ ấy vẫn không thể nào bù đắp, không thể nào lấp đầy nỗi khát khao, niềm hạnh phúc đích thực của chúng ta được.

Mùa Vọng, mùa trông đợi lại về. Mùa Vọng như là thời gian, như là cơ hội thuận tiện để nhắc nhớ mỗi người chúng ta đâu là cùng đích, đâu là niềm vui đích thực của chúng ta. Nếu cùng đích của cuộc đời chúng ta là tiền – là danh – là dục thì chúng ta cứ tiếp tục cắm cúi đi tìm chúng. Còn nếu cùng đích, lẽ sống của cuộc đời chúng ta là Chúa thì còn thời gian, còn cơ hội, chúng ta hãy dùng thời gian, dùng cơ hội thuận tiện để biến đổi cuộc đời, để mà luôn tỉnh thức để đón chờ ánh sáng, đón chờ tình yêu vĩnh cửu đến với chúng ta.

Nguyện xin Emmanuel – Đấng Cứu Độ Duy Nhất đến và ở lại trong cuộc đời mỗi người chúng ta để tâm hồn, để cõi lòng cuộc đời chúng ta luôn bình an giữa biết bao nhiêu biến động, bao nhiêu xáo trộn của cuộc đời.

 

19. Mở rộng tâm hồn đón Chúa

(Suy niệm của Lm. Nguyễn Bình An)

“Trời cao xin đổ sương xuống. Mây hãy mưa vị cứu tinh. Đất hãy nẩy sinh Đấng cứu đời và không trung biểu dương oai phong Chúa Trời” là nhưng tiếng ca hy vọng, nức nở và ai oán, diển đạt tâm trạng sa lầy của con người. Sa lầy trong cuộc đời khổ ải và gian truân. Sa lầy vì duyên nợ oan nghiệt và tình đời đắng cay. Sa lầy vì tâm cao hơn trời nhưng đam mê và dục vọng đóng khung và đầy đọa con người dưới đất. Sa lầy vì hạnh phúc vụt bay và tiền, tình, tài chỉ là tai họa. Sa lầy vì thân xác héo khô, mỏi mòn và tâm hồn sầu buồn, khắc khoải.

Con người hoàn toàn bất lực trong tiến trình tu thân tích đức. Con người không thể tự giải phóng bản thân khỏi những đam mê, dục vọng và yếu đuối. Con người không thể giải hóa nổi những đố kị, tranh chấp và tị hiềm. Con người vì thế ngước mắt lên trời cao, thét gào ơn cứu độ và xin mưa ơn công chính. Khát vọng nên công chính là nguyên nhân và ý nghĩa của mùa Vọng. Ơn công chính như nước tưới sa mạc khô cằn để cây cỏ xanh tươi và cuộc đời thêm ý nghĩa và đáng sống.

Ngày rước lễ vỡ lòng, bé Thanh xúng xính trong bộ đồng phục thiên thần. Bé vui nhận những món quả sau nghi thức thánh. Bé ôm chặt mẹ và ngây thơ tâm sự ” < I>Mẹ ơi, con muốn chết bây giờ để lên thiên đàng. Con sợ sau này con lớn sẽ có nhiều tội và mất phúc thiên đàng “. Tâm tình đơn thành của em là của mỗi chúng ta. Có lúc chúng ta tươi trẻ và xinh đẹp như thiên thần. Có lúc chúng ta ngã sa và đáng trách như tên quỉ sứ. Lại có những lúc chúng ta hối hả gõ cửa trời và vùng vẫy kêu cứu. Đáng khen! vì đây là dấu hiệu của cuộc chỗi dậy.

Lúc ấy Chúa thân hành đến nâng dậy, vỗ về, thanh tẩy và ban lại niềm vui đã mất. Chúa hành động liên lỉ và mãnh liệt lôi chúng ta ra khỏi vòng kiểm toả của tối tăm. Chúa không vui gì khi nhân loại sống trong sa đọa. Chúa dùng mọi hình thức: dậy dỗ, trách phạt, ngăm đe, những mong cảnh tỉnh và đưa chúng ta ra khỏi bến mê. Có thể khẳng định là Chúa đã dùng mọi phương tiện để ơn cứu độ tuôn tràn vào mỗi cá nhân. Tình trạng sa lầy và dậm chân tại chỗ là do chính chúng ta tạo mãi. Chúng ta xua đuổi và chối từ Chúa. Chúng ta trốn chạy và bịt tai trước những lời kêu mời thân thương và từ ái. Chúng ta đã bỏ lở cơ hội và quay lại tố là Chúa không thương, không giúp.

Trời vẫn ban mưa. CứuTinh vẫn đang mời mọc. Đất tiếp tục sinh hoa kết trái. Chỉ có lòng người khô cằn. Tiên tri Isaia cảnh cáo ” đời ngươi tội lỗi. Chiếc áo dơ bẩn là công quả đời ngươi. Ngươi không cầu cũng không bám vào Chúa. Vậy ơn cứu độ bởi đâu đến?”

Chúng ta phải moi đá lên, thay đất tốt vào và nhận hạt giống tinh tuyền. Mưa rơi, hạt giống chuyển mình và phát triển. Lời Chúa văng giải quá dư. Tiếng Chúa vang dội khắp chốn. Hôm nay Chúa lại đến gõ cửa nhân loại. ” Hãy tỉnh thức vì chủ đến vào lúc người không ngờ”.

Mùa Vọng này chúng ta không mong trời đổ mưa, không cầu mây chuyển Đấng Cứu Độ, không trách đất chưa sinh hoa trái và không phủ nhận vinh quang Chúa nữa. Trái lại chúng ta cầu cho bản thân mình được đứng lên, rướn cao hơn nữa và can đảm bước tới. Vạn sự phải khởi đầu nơi con người yếu đuối và đang sa lầy này. Phản tỉnh là cơ hội và điều kiện để chúng ta kín múc ơn trời, và không lãng phí tình Chúa như những năm trước. Những năm chỉ biết kêu trách và nài xin Chúa bố thí phép lạ nhưng không tích cực cộng tác, thiếu thiện chí thay đổi, chưa can đảm bước tới và không mở lòng đón Chúa.

Chúa trên cao đang giang tay đón chờ. Cửa trời luôn rộng mở. Lời Chúa luôn vang dội. Ơn thánh đang tuôn trào. Bao giờ chúng ta mới tỉnh mộng và sống đúng ý nghĩa mùa Vọng?

 

20. Sống trọn vẹn Mùa Vọng

Với Chúa nhật thứ I Mùa Vọng, chúng ta đang bước vào ngày đầu tiên của năm Phụng vụ mới. Vậy trước nhất mỗi người chúng ta hãy cầu xin Chúa cho mình biết sống trọn năm phụng vụ này, biết tận dụng những ơn lành Chúa ban, từng bước, từng bước theo chân Chúa Giêsu để suy niệm và sống lịch sử cứu độ, lịch sử của tình yêu Thiên Chúa đối với con người. Kế đó, khi nghe Lời Chúa trong bài Phúc Âm hôm nay, có lẽ chúng ta đang hình dung ngày tận thế, ngày kinh hoàng và chúng ta sợ. Nhưng không sao, Chúa đã bảo: “Chúng con hãy đứng vững và hãy ngẩng đầu lên”.

Bản tính tự nhiên của mọi sinh vật nhất là các động vật, khi gặp hiểm nguy thì trốn tránh, ẩn núp, nằm rạp xuống, thu mình nhỏ lại, muốn mình biến tan đi để những cơn nguy hiểm không động chạm đến mình. Nhưng trong cơn nguy hiểm tột độ của ngày cánh chung đó, Chúa lại bảo: “Hãy đứng thẳng dậy, đừng khom lưng cúi mọp và hãy hiên ngang ngẩng đầu lên”. Tại sao Chúa bảo một điều nghịch lại với bản tính tự nhiên: Hãy đứng dậy và ngẩng đầu lên trong nguy hiểm? Thưa cúi mọp và nằm rạp xuống là vì sợ và khi sợ con người không còn đủ bình tĩnh để xác định vị trí của mình. Không còn đủ sáng suốt để thấy rõ ý nghĩa của việc mình làm để nhận định đâu là phải thi hành và đâu là trái để lánh xa. Và nhất là không còn thấy được tình thương yêu che chở của Thiên Chúa.

Trong các phim nổi tiếng của Hoa Kỳ, “The wise of…” đã trở thành cổ điển và làm say mê khán giả nhỏ cũng như lớn trên 50 năm nay. Vào phần cuối, khi cô bé Dorothy muốn tìm đường về nhà và ba anh chàng người nộm, người sư tử và người kim loại muốn xin cho có khối óc, có quả tim, có sự can đảm, cả bốn đã vào một tòa lâu đài để xin lời chỉ bảo của thần minh. Đến trước bàn thờ thần minh, thấy khói lửa và những tiếng nói vang dội, cả bốn đều thất thanh cúi rạp người xuống và nghe theo, làm theo tiếng phán của thần minh đó. Trong khi đó, con chó Titô đi theo họ không sợ chi cả, bình tĩnh chạy vọng quanh. Và chính nó đã khám phá ra một nhà bác học tinh ma qủy quyệt đang núp bên trong, điều khiển tất cả bộ máy khổng lồ, dọa nạt những ai đến đó và sai khiến họ làm những chuyện “đội đá vá trời”.

Bài học hơi mạnh, con chó không biết sợ mưu mô của người đời, đã tình cờ khám phá ra sự thật. Trong khi những con người vì thiếu khối óc, thiếu con tim, thiếu sự can đảm đã sợ run rẩy, khép nép, cúi rạp người, làm theo chỉ thị của phù thủy qủy quyệt, tinh ma. Đó là cái hại của sợ.

Như đã nói, bản tính tự nhiên của con người là sợ, không ai trách chúng ta điều đó. Nhưng hãy tin tưởng ơn Chúa đủ cho chúng ta: “Hãy đứng vững và hãy ngẩng đầu lên”. Trong Tân Ước, các tông đồ của Chúa cũng đã có kinh nghiệm sợ hãi, nhưng mỗi lần Chúa đều thương giúp bằng cách nhắc đi nhắc lại với các ông: “Thầy đây, đừng sợ”. Nỗi bật nhất là Phêrô, ông có đủ thứ sợ. Trước tiên là sợ chết, sợ liên can tới Chúa, sợ bị làm khó dễ, sợ bị bách hại như Chúa, nên ông đã chối Chúa. Nhưng theo thánh Luca kể: “Chúa Giêsu nhìn Phêrô và ông ra ngoài ăn năn khóc lóc thảm thiết”. Phêrô còn có cái sợ đặc bệt nữa, đó là sợ khi thấy mình yếu lòng, Phêrô sợ hãi phủ phục dưới chân Chúa Giêsu và thưa: “Lạy Thầy, xin tránh xa con vì con là kẻ tội lỗi”. Nhưng Chúa đã kéo Phêrô đứng dậy, nhìn vào mặt ông, chỉ thẳng vào ông và bảo: “Đừng sợ, từ nay con sẽ là kẻ đánh lưới người”. Với tình yêu thương, Chúa đã làm mọi việc ngoài sức tưởng tượng của con người.

Phêrô chối Chúa, Chúa không quở, không la, không phạt. Chỉ nhìn và cái nhìn đó đã diễn tả tất cả lòng yêu thương, tha thứ nên mới xói sâu vào tâm hồn Phêrô, đến nỗi ông ăn năn khó lóc thảm thiết suốt đời và sau đó liều chết vì Thầy. Trước mẻ cá lạ lùng, Phêrô bảo Chúa tránh xa vì ông không đáng ở trước mặt Chúa. Chúa chẳng những không tránh xa mà còn tiến lại gần, ngoài dự đoán của Phêrô, bằng cách chọn Phêrô cộng tác với Người đem con người về Nước Trời, và trên Phêrô, Người đã xây Giáo Hội của Người. Vậy trong mọi nguy hiểm, mọi kinh hoàng, Chúa muốn chúng ta đứng vững và hiên ngang ngẩng đầu lên, vì Chúa biết Người là sức mạnh của chúng ta.

Nhưng muốn đứng vững, muốn luôn ngẩng đầu lên phải có đức tin vững mạnh, phải có niềm hy vọng bao la, phải biết tỉnh thức và cầu nguyện. Tất cả những xác tín đó giúp chúng ta tin tưởng nơi Chúa. Vì dù cho các tầng trời có rung chuyển, biển có gầm sóng, dầu cho mọi người có sợ hãi kinh hồn, thì kìa, Con Người hiện đến đầy quyền năng và uy nghi cao cả, Người là Đấng Cứu Thế, Người đến để cứu rỗi thế gian. Và muốn đứng vững trong ngày sau hết, chúng ta phải biết đứng vững ngay từ bây giờ, hiên ngang ngẩng đầu lên trong hiện tại, vì cây nghiêng bên nào thì sẽ ngã bên ấy. Chúa Giêsu đã biết và đã dạy: “Chúng con hãy giữ mình kẻo lòng chúng con ra nặng nề”. Nặng nề vì tiền của vật chất, giả trá, kéo ghì chúng ta xuống đất. Nặng nề vì một chút đặc quyền đặc lợi, cặn bã của thế gian có thể làm mờ mắt chúng ta, để không còn biết mình đang đứng vững hay đang khòm lưng cúi đầu.

Chúng ta hãy cầu xin Chúa cho chúng ta sống trọn vẹn Mùa Vọng này, như lời Thánh Phaolô nhắn nhủ trong bài đọc thứ hai: “Anh chị em thân mến! Xin Chúa gia tăng và ban cho anh chị em tràn đầy lòng thương yêu nhau và thương yêu tất cả mọi người, để lòng anh chị em được bền vững trên đường thánh thiện, không có gì đáng trách trước mặt Thiên Chúa là Cha chúng ta trong ngày Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta ngự đến”.

 

BƯỚC VÀO MÙA HỒNG ÂN CỨU ĐỘ

Với Chúa Nhật I Mùa Vọng, chúng ta bước vào năm Phụng Vụ mới theo chu kỳ là Năm C. Trong Mùa Vọng này, chúng ta sống lại tâm tình của dân Do thái xưa chờ đón Chúa đến. Nhưng khác với dân Do thái, chúng ta biết rằng Chúa đã đến rồi trong thân phận yếu hèn của kiếp người, hiện nay Ngài vẫn hằng đến với chúng ta mọi ngày cách mầu nhiệm và Ngài sẽ đến sau cùng với chúng ta trong vinh quang, gần nhất vào ngày mỗi người từ giả cuộc sống trần thế này, và xa hơn vào ngày Quang Lâm của Ngài. Cũng như thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, thánh Lu-ca đặt bài diễn từ về ngày Quang Lâm của Đức Giê-su vào lời giáo huấn sau cùng của Ngài ở Giê-ru-sa-lem, không bao lâu trước cuộc Thương Khó của Ngài[1]. Các bài đọc nhấn mạnh việc Thiên Chúa thực hiện lời hứa, ban Đấng cứu độ cho trần gian là Đức Giê-su Ki-tô; đồng thời cũng nhắc lại lời hứa của chính Đức Giê-su: Người sẽ đến lần thứ Hai trong vinh quang.

Trong Kinh Thánh, những điềm báo về việc Thiên Chúa can thiệp dứt khoát trong lịch sử, đề tài này xuất hiện rất sớm, chẳng hạn như Đức Chúa gieo rắc sự kinh hoàng tại đất Ai-cập trước khi giải phóng dân Ngài (Xh 7, 14 - 11, 8). Đức Giê-su loan báo ngày tận thế theo cùng tiến trình: “Người ta sợ đến hồn xiêu phách lạc”, trong khi những người công chính “đứng thẳng và ngẩng đầu lên”. Những điềm trời thường được các ngôn sứ sử dụng để loan báo những án phạt của Thiên Chúa trên các dân ngoại áp bức dân Ít-ra-en, cũng như trên chính dân Chúa chọn khi dân bất trung như Is 13, 10: “Quả vậy, tinh tú bầu trời và các chòm sao sẽ không chiếu sáng nữa, mặt trời vừa mọc lên đã tối sầm, mặt trăng sẽ không còn tỏa sáng”. Đức Giêsu nói đến ngày thế mạt: Con người có thể hiểu được lí do tại sao Chúa đưa ra những thực tế đang diễn ra ngay xung quanh, mà người ta không thể biết hết được, để nhắc họ luôn sẵn sàng chờ ngày kết thúc toàn thể vũ trụ con người. Chúa là chủ vũ trụ, có nghĩa là tất cả vạn vật đều phải tuân theo đường lối của Người. Một khi không còn là mục tiêu của Người nữa, nó sẽ lỗi hàng thất thứ, mặt trăng không còn chiếu sáng. Ai chống lại là tự lên án cho chính mình mà thôi.  Đức Giêsu nói đến ngày Người Quang lâm: Sẽ có những điềm lạ trên trời, dưới đất, dưới biển, các tầng trời bị lay chuyển, nhưng sau đó là đến ngày của Con Người. Tiên tri Đaniel nhìn thấy Con Người trong thị kiến: "Này đây xuất hiện trên đám mây một kẻ có khuôn mặt con người. Người được long trọng trao ban vinh quang và vương quyền, mọi dân nước và ngôn ngữ đều tùng phục Người"(Dn 7,13-14). Chính Đức Giêsu cũng nói việc Người lại đến: "Và bây giờ người ta sẽ thấy Con Người đến trong đám mây với quyền năng và vinh quang cao cả." Thánh Lu-ca gợi lên những hình ảnh truyền thống và quy ước về những xáo động trên đất và biển như khúc dạo đầu “Ngày của Chúa”, vì những hình ảnh nầy diễn tả những vùng vẫy sau cùng của những quyền lực sự ác trước khi chúng bị tiêu diệt; nhưng thánh ký không chú tâm đến những hình ảnh này; ông ngỏ lời với quần chúng ít quen thuộc với thể loại văn chương khải huyền Do thái. Tất cả từ vựng này được sử dụng cốt nhấn mạnh quyền tối thượng của Đấng “ngự trong đám mây mà đến”.

Đức Giê-su đã loan báo nhiều lần rồi cho các môn đệ về cuộc trở lại đầy quyền năng và vinh quang của Ngài dưới danh hiệu Con Người; ở đây Ngài đặt danh hiệu này vào trong bối cảnh gốc của nó hầu như theo sát nguyên văn, thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en: “Có ai như một Con Người đang ngự giá mây trời mà đến” (Đn 7, 13). Do đó, danh hiệu mà Đức Giê-su tự nhận cho mình được khám phá với tất cả trương độ ý nghĩa của nó. Trong thị kiến của ngôn sứ Đa-ni-en, Con Người là thủ lãnh “dân thánh của Đấng Tối Cao”. Với tư cách là Con Người, Đức Giê-su mang lấy vận mệnh nhân loại. Vinh quang của Ngài cũng sẽ là tôn vinh tất cả những ai đã tin vào Ngài.

Trong Tin Mừng Lu-ca, Đức Giê-su đã gợi lên viễn cảnh này rồi ở nơi các dụ ngôn kêu gọi sự tỉnh thức của Ngài: “Anh em cũng vậy, hãy sẵn sàng , vì chính giờ phút anh em không ngờ, thì Con Người sẽ đến” (Lc 12, 40) và ở nơi việc Ngài so sánh Triều Đại của Ngài với trận đại hồng thủy xảy đến bất ngờ: “Vì ánh chớp lòa chiếu sáng từ phương trời này đến phương trời kia thế nào, thì Con Người cũng là như vậy trong ngày của Người” (Lc 17, 20). Ở đây, Đức Giê-su sử dụng hình ảnh “chiếc lưới bất thần chụp xuống đầu” mà ngôn sứ I-sai-a đã dùng: “Nào kinh hoàng, nào hố sâu, nào dò lưới đang chờ đợi ngươi, hỡi cư dân trái đất” (Is 24, 17). Khi căn dặn các tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca, thánh Phao-lô cũng theo truyền thống như vậy: “Vì chính anh em đã biết rõ: ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm ban đêm” (1Tx 5, 2), điều nầy không loại trừ thời kỳ gian nan khốn khó sau cùng: “Nhưng ngày của Chúa sẽ đến như kẻ trộm. Ngày đó, các tầng trời sẽ ầm ầm sụp đổ, ngũ hành bốc cháy tiêu tan, mặt đất và các công trình trên đó sẽ bị thiêu hủy” (2Pr 3, 10). Người Kitô hữu hãy luôn sống trong hi vọng: Cảnh đổ vỡ tan hoang sẽ nhường chỗ cho Đấng ngự trên mây, là Đức Giêsu quang lâm, một trời mới, đất mới, vinh hiển muôn đời. Đó chính là chương trình tái sáng tạo diệu kì của Tạo Hoá, chương trình cứu độ Thiên Chúa dành cho loài người, đó là niềm vui, vinh quang; những ai tin vào Chúa sẽ không còn sợ hãi. Để đạt được những hi vọng trên, người ta phải ở trong tư thế chuẩn bị. Ngày phán xét theo Kinh Thánh chắc chắn sẽ đến, mà ngoài Chúa, con người không thể biết được giờ nào, ngày nào. Đó là ngày của Chúa, ngày mà Chúa sẽ phán xét mọi người, mọi giai cấp, tôn giáo, chế độ; mọi bí mật sẽ bị tiết lộ phanh phui. Con người phải tỉnh thức và sống xứng với nhân phẩm của mình. Đừng để đam mê, tiền bạc, quyền lực quyến rũ, mà quên thân phận con người. Khi biết có kẻ trộm đến nhà, liệu người ta có đề cao cảnh giác mà canh chừng đêm ngày không? Hay là để mặc cho “lũ trẻ” trông coi, mặc cho vận may, để rồi chấp nhận hậu quả là mất tất cả.    

Lạy Chúa Cha toàn năng, xin cho đoàn tín hữu chúng con hằng quyết tâm làm việc thiện, để đón chào Con Chúa đang ngự đến xét xử trần gian. Nhờ đó, chúng con sẽ được Người cho ở bên hữu, và gọi vào hưởng phúc Nước Trời.[2]

Đức Hữu



[1] Trong cả ba Tin Mừng nhất lãm, Chúa Giê-su công bố bài diễn từ này vào dịp Ngài rao giảng về sự sụp đổ Đền Thờ Giê-ru-sa-lem “không còn tảng đá nào trên tảng đá nào” (Lc 21, 6). Viễn cảnh này làm xao xuyến các môn đệ đến độ các ông liên kết nó với viễn cảnh ngày tận thế. Về phần mình, thánh Lu-ca cẩn trọng ghi nhận giữa hai biến cố này có một thời kỳ trung gian, “thời kỳ dân ngoại” ở 22, 24 ngay trước đoạn trích này: “Họ sẽ ngã gục dưới lưỡi gươm, sẽ bị đày đi khắp các dân các nước, và Giê-ru-sa-lem sẽ bị dân ngoại giày xéo, cho đến khi mãn thời của dân ngoại”. Theo thánh Mác-cô và thánh Mát-thêu, Đức Giê-su công bố diễn từ này trên núi Ô-liu, khi ngỏ lời với các môn đệ, hay chỉ một nhóm nhỏ, theo Mác-cô. Thánh Lu-ca định vị nó vào ở trung tâm Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, nơi mà việc sụp đổ sắp xảy ra (thành thánh Giê-ru-sa-lem và Đền Thờ luôn luôn là trọng tâm của những viễn cảnh sách Tin Mừng Lu-ca). Bên kia các môn đệ, Đức Giê-su ngỏ lời với đám đông; như vậy thành thánh Giê-ru-sa-lem nghe công bố ngày Quang Lâm của Đấng mà nó sẵn sàng giết chết. Người ta đặt vấn đề: tại sao Phụng vụ lại nhắc đến những biến cố hãi hùng, những tai hoạ khủng khiếp, thay vì những sứ điệp vui mừng về ngày Chúa đến?

 

[2] Lời tổng nguyện Chúa nhật I Mùa Vọng năm C



 
CHIA SẺ BÀI VIẾT
TIN LIÊN QUAN

THÔNG BÁO

VĂN KIỆN GIÁO HỘI

LIÊN KẾT NHANH

Đại Chủng Viện Thánh Giuse Xuân Lộc
Hội Đồng Giám Mục Việt Nam
Thánh Lễ Trực Tuyến
Vatican News
Bài Ca Mới
Đài Phát Thanh Chân Lý Á Châu
Tin Vui Xuân Lộc
Ban Văn Hoá. Gp Xuân Lộc
Youtube Gp. Xuân Lộc