29/11/2020
1305
30        16        Đ         Thứ Hai tuần 1 MV.
THÁNH ANRÊ, TÔNG ĐỒ
Lễ kính.
Rm 10,9-18; Mt 4,18-22
TRỞ THÀNH KẺ LƯỚI NGƯỜI
          Dừng lại một chút, ta thấy vào một buổi sáng đẹp trời, sau khi giảng cho đám đông dân chúng nghe về Hiến chương Nước Trời, từ trên núi xuống Đức Giêsu đi dọc theo biển hồ Galilê và thấy hai anh em ông Simôn Phêrô đang quăng chài xuống biển. Người liền cất tiếng gọi “Các anh hãy đi theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Đi được một quãng, Chúa Giêsu gọi thêm hai người con ông Dêbêdê là Giacôbê và Gioan đang vá lưới trong thuyền. Lập tức, các ông bỏ thuyền và người cha lại mà đi theo Đức Giêsu.
          Biển hồ Galilê có hình bầu dục dài 21km rộng 12km, còn được gọi là hồ Giênêzarét (Lc 5,1). Thánh kinh cựu ước gọi là biển Kinnerét (Ds 34,11; Gs 12,13) hay biển Tibêria (Ga 6,1). Tibêria hiện nay là một thành phố sầm uất ở Galilê cách Giêrusalem khoảng 100km. Biển hồ Galilê nhận nguồn nước từ sông Giorđan đổ vào trước khi chảy qua biển Chết.
          Biển hồ Galilê là một địa danh rất quan trọng được Đức Giêsu chọn để khởi đầu cho công cuộc loan báo Tin Mừng. Tại đây Chúa Giêsu đã dẹp yên bão tố, đi trên mặt nước mà đến với các môn đệ; đã thực hiện phép lạ hóa bánh ra nhiều nuôi 5.000 người. Từ rất lâu, trên biển hồ Galilê đã hình thành một làng chài đánh bắt  rất thịnh vượng với khoảng 230 chiếc thuyền thường xuyên hoạt động trên hồ. Trước một cảnh sống nhộn nhịp của những ngư dân, chỗ này người vá lưới, phân loại cá, chỗ kia người quăng chài, vậy mà Chúa Giêsu vẫn nhận ra được những ngư dân có tay nghề để chọn gọi và sẽ huấn luyện họ trở thành “những kẻ lưới người như lưới cá”. Điều này cho thấy Thiên Chúa yêu thương luôn dành cho chúng ta một dự phóng tương lai tốt đẹp và Chúa biết rõ khả năng “tay nghề” của mỗi người.
          Vừa nghe Chúa Giêsu gọi, cả bốn môn đệ đều nhanh chóng ngừng mọi công việc, rời bỏ thuyền và người cha thân yêu để ra đi. Phải chăng các ông là những người nhẹ dạ dễ tin và có vẻ bất hiếu khi bỏ người cha lại trên thuyền? Hành vi của bốn môn đệ thể hiện thái độ dứt khoát, có lẽ trước đó các ông đã thoáng nghe và biết Đức Giêsu nên khi được gọi các ông đã mau mắn đáp lời và đi theo. Khởi đi từ công việc sinh sống hàng ngày, Chúa Giêsu hướng các ông đến một sứ mạng thiêng liêng mà không phủ nhận trách nhiệm đối với gia đình. Từ đây các ông đã thực sự tham gia vào một công việc ý nghĩa và lớn lao hơn, đó là “lưới người như lưới cá”, các ông đã đặt kế hoạch của Thiên Chúa lên trên công việc và bổn phận của gia đình.
          Chúa Giêsu gọi bốn môn đệ trong hai gia đình, nghĩa là giữa họ có mối quan hệ huyết thống. Điều này cho thấy, Chúa Giêsu không xem nhẹ quan hệ gia đình ruột thịt nhưng đưa dẫn các môn đệ vào một tương quan lớn hơn là gia đình của Thiên Chúa. Đây là một quan hệ bền vững không một thế thực nào có thể phá hủy. Nhờ đó chúng ta càng thấy được ân huệ lớn lao khi được gia nhập vào trong cộng đoàn Hội Thánh có Chúa Giêsu làm chủ. Khi bước theo Chúa, chúng ta sẽ phải trải qua nhiều khó khăn vất vả nhưng trong Hội Thánh chúng ta luôn được bảo vệ và gìn giữ khỏi mọi sự dữ.
          Ở mọi hoàn cảnh sống với nhiều ngành nghề khác nhau, Thiên Chúa vẫn mời gọi chúng ta tham gia vào công cuộc truyền giáo của Giáo hội. Thiên Chúa vẫn mời gọi từng phút giây khi mỗi người vẫn đang bận rộn với công việc của mình. Hãy để cho Chúa huấn luyện chúng ta trở thành người thợ lành nghề. Mỗi người hãy nên thánh trong bổn phận hàng ngày. Là bậc cha mẹ, chúng ta hãy chu toàn trách nhiệm với gia đình, giáo dục con cái sống theo Lời Chúa dạy. Là con cái, hãy sống hiếu thảo xứng phận làm con. Là những người lãnh đạo, hãy lưu ý đến lợi ích của cộng đồng, khuyến khích mọi người nỗ lực vun đắp xây dựng sự an bình trong xã hội.
          Qua phép Thanh tẩy, tất cả chúng ta đều được mời gọi trở thành môn đệ vì chúng ta là chi thể trong một thân thể nhiệm mầu là Đức Giêsu. Chính thánh Phaolô tông đồ đã xác tín về điều này khi nói: “Ví như thân thể người ta chỉ là một, nhưng lại có nhiều bộ phận, mà các bộ phận của thân thể ấy tuy nhiều, nhưng vẫn là một thân thể, thì Đức Kitô cũng vậy. Tất cả chúng ta dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều đã chịu phép rửa trong cùng một Thần Khí để trở nên một thân thể” (1 Cr 12, 12-13).
          Trong bốn môn đệ đầu tiên được Đức Giêsu chọn gọi có ông Anrê. Nếu theo Tin mừng Gioan, ta thấy lúc đầu Anrê là môn đệ của Gioan Tẩy Giả. Ông đã gặp Đức Giêsu lần đầu tiên khi còn đang ở với Gioan Tẩy Giả. Hôm ấy, Gioan Tẩy Giả đã giới thiệu về Đức Giêsu là “Chiên Thiên Chúa” và ông Anrê đã đi theo Người. Sau đó Anrê giới thiệu Chúa Giêsu cho anh mình là Simôn cũng được gọi là Phêrô (Ga 1, 35-42). Vì thế môn đệ Anrê mới có biệt danh là “người đầu tiên được gọi”. Sau thời gian sinh hoạt với phái Tẩy giả, Anrê quay trở lại với công việc, cùng với người anh là Simôn tiếp tục đánh bắt cá trên biển hồ Galilê và đã có duyên được Đức Giêsu chọn gọi.
          Từ đó Anrê bắt đầu cuộc phiêu lưu mới với Thầy Giêsu rong ruổi khắp nơi rao giảng Tin mừng. Ông hiện diện trong nhiều biến cố quan trọng của Thầy Giêsu. Chính ông đã phát hiện trong đám đông một em bé có năm chiếc bánh lúa mạch và hai con con là chất liệu để Chúa Giêsu hóa bánh ra nhiều cho dân chúng ăn no nê (Ga 6, 1-15). Môn đệ Anrê cũng được Chúa Giêsu cho biết những điều quan trọng, biết về sự sụp đổ của đền thờ Giêrusalem và về cuộc thương khó sắp xảy đến. Chúa Giêsu cho biết Người sẽ chịu cực hình như hạt lúa chịu mục nát trong lòng đất để nảy sinh một mùa bội thu. Ông Anrê hiểu được sứ mạng của Thầy Giêsu và nhận đó là Tin mừng mà ông sẽ rao giảng. Sau khi Chúa Giêsu chịu chết và phục sinh, môn đệ Anrê dành trọn cuộc đời còn lại để rao giảng Tin mừng ở Tiểu Á và Hy Lạp. Truyền thống vẫn cho rằng thánh Anrê là vị tông đồ của người Hy Lạp. Để làm chứng cho Tin mừng, thánh Anrê xin được đóng đinh trên cây thập giá có hình chữ X, khác với thập giá của Chúa Giêsu. Thánh nhân qua đời ở Patát. Thi hài của ngài được bảo quản tại đền thờ thánh Phêrô ở Rôma và sau đó được di dời về Patát vào năm 1964.
          Mừng lễ thánh Anrê tông đồ là dịp để chúng ta nhìn lại ơn gọi nên thánh của chính mình. Thiên Chúa luôn thể hiện tình thương của Người qua việc chọn gọi chúng ta gia nhập vào gia đình Hội Thánh, tham dự vào sứ mạng loan báo Tin mừng. Cuộc sống xã hội hôm nay cần biết bao những ngư phủ nhiệt thành tài giỏi ra đi “lưới người như lưới cá”. Ước gì chúng ta lắng nghe tiếng Chúa mời gọi và sẵn sàng đáp lời như thánh Anrê tông đồ xưa.
Chúa cần đến tôi
"Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5). Điều Chúa cần nơi chúng ta chính là tấm lòng khiêm tốn thực thi thánh ý Người.
Khi một chiếc tầu hỏa xuyên châu lục chạy vèo qua khung cửa, một giám mục đã già đang nói với một linh mục trẻ vừa mới ra khỏi chủng viện về đời sống đầy những biến cố của ông. Rồi ông quay lại linh mục trẻ và yêu cầu ông này kể lại ơn gọi của mình.
Linh mục kiểu cách đáp lại:
 ”Ồ, nói ra thì rất đơn giản, tất cả những gì con muốn nói là vì Chúa đã cần đến con.”
 Giám mục nhận xét:
 ”Này anh bạn trẻ, đây là sự trùng khớp thật thú vị: Nếu như tôi còn nhớ, trong Tin Mừng chỉ có một lần Chúa nói Người cần một cái gì đó. Trong Lu-ca 19:34 nhân dịp Người sắp sửa vào Giê-ru-sa-lem một cách vinh quang, Người nói Người cần một con lừa.”
 Lời Khuyên:
Thánh Kinh có câu: "Lòng con chẳng dám tự cao, mắt con chẳng dám tự hào Chúa ơi” (Tv 130, 1). Ai sống khiêm tốn thì sẽ được Thiên Chúa yêu thương và được mọi người quý mến.
"Thiên Chúa chống lại kẻ kiêu ngạo, nhưng ban ơn cho kẻ khiêm nhường” (1Pr 5,5). Điều Chúa cần nơi chúng ta chính là tấm lòng khiêm tốn thực thi thánh ý Người.
MỘt đứa trẻ khoe với mẹ.Mẹ ơi hôm nay con được chọn làm văn nghệ. Bà mẹ bảo rằng: thế con được chọn vào vai gì? Đứa bé trả lời: cô giáo chọn con làm khảnh giả chỉ để vỗ tay thôi.
Andre la bóng mờ cùa người khác. Ông chỉ dẫn người khác đến với Chúa. Ông vỗ tay khi người khác  được Chúa tiếp nhận, ân thưởng.
Lần đầu Phê-rô
Lần hai em bá
Làn ba những người Hy Lạp
ANREÂ
VỊ TÔNG ĐỒ GIÀU TÌNH BẠN
(Ga l,41-42)
Ông đang lắng tai nghe Yoan Tẩy Giả. Ông là một trong những người đã đến để nghe vị tiên tri man dã này. Ông  nghe rõ Yoan dang nói, tay chỉ về phía Giêsu :
"Đây Chiên Thiên Chúa..." (Ga l,29-36).
Tò mò và kích thích ông theo Giêsu . Đức Giêsu thấy ông theo bèn hỏi ông muốn gì. An rê và bạn ông thưa rằng họ muốn tiếp chuyện với Người. Chắc hẳn chỉ là một buổi nói chuyện bình thường vì họ còn nhớ rõ thì giờ: "Lúc đó khoảng giở thứ mười". (Ga 1,39)... Một giờ đầy ý nghĩa đối với An rê, giờ của quyết định, giờ của cơ hội, giờ thay đổi cả cuộc đời ông. Ông ra về với một niềm xác tín: "Giêsu là Chiên Thiên Chúa", Giêsu là Đấng Messia, Đấng được Thiên Chúa sai đến mà bao thế hệ hằng mong đợi.
Bấy giờ An rê chỉ còn nghĩ đến một người: đó là anh mình.
Simôn Phêrô. Ông bắt buộc phải nghĩ đến Phêrô, ông dã sống dưới bóng anh mình từ tấm bé, luôn luôn là Phêrô thế này, Phêrô thế nọ. Lúc nào cũng Phêrô. Phêrô là trung tâm điểm. Phêrô là vì sao sáng. Phêro là kẻ dứng đầu. An rê biết rằng Phêrô có những khả năng mình không có. Dù sao thì anh Phêrô cũng phải gặp Chúa Giêsu:
"Trước hết, ông đến gặp anh mình" (Ga l,41).
An rê là môn đệ đầu tiên theo Chúa Giêsu nhưng lại không hề được ghi đầu trong bất cứ danh sách tông đồ nào. Luôn luôn là Phêrô đứng đầu rồi mới đến An rê. Trong Tin Mừng Mácô và Tông Đồ Công Vụ, tên ông ghi đến hạng thứ tư. Có lẽ suốt đời mọi việc đều xảy ra như thế.
Ở trường, Phêrô là người trả lời nhanh nhất.
Ngoài sân chơi, Phêrô là quản trò.
Khi giao thiệp, bạn bè vây quanh Phêrô.
Trong công việc chài lưới. Phêrô giải quyết mọi việc.
Phêrô ra lệnh và An rê trong bóng mờ lủi thủi thi hành.
Khi gáp An rê, người ta thường hỏi:
'Anh tên là gì ? À, nhớ ra rồi. Anh là em của Phêrô".
Đóng vai phụ đâu phải là dễ, nhất là phải đóng suất đời,
ngày này qua ngày khác,
tuần này qua tuần nọ,
tháng này đến tháng kia,
trong mọi việc, 
trong mọi lúc,
trong mọi nơi. 
Sống nấp bóng một người anh chói lòa đâu phải dễ!
Và bây giờ, An rê đã khám phá ra Đức Giêsu Ki tô trước,  được một lần ông sẽ đứng đầu, được một lần ông có dịp nổi.
Nếu ông biết rằng ông đứng đầu trong một trường hợp ngoại lệ, nếu ông biết rằng thế giới sẽ chống lại ông, thì chắc hắn ông đã không đưa Phêrô đến gặp Chúa.
Nhưng An rê không phải loại bi quan yếm thế, ông đã học cách tạo nên những âm thanh tuyệt diệu trên những phím đàn hạng hai.
"đầu tiên ông đến gặp anh mình và nói rằng: 'Chúng tôi đã gặp Đấng Messia. rồi ông đưa Simon Phêrô đến gặp Đức Giêsu. (Ga l,41-42).
Ông không do dự, không nghi ngờ, ông khẳng định.
Nếu ông nghi ngờ thì hắn Phêrô đã không bị thuyết phục. Phêrô là anh cơ mà. Nhưng An rê nói như đinh đóng cột:
'Chúng tôi đã gặp Đấng Messia."
Phêrô nghe em mình nói. Ông lắng nghe với tất cả con người nóng bỏng và hướng ngoại của mình. Chúng ta dễ hiểu vì sao An rê phải là một con người đóng vai phụ.
Đời sống của An rê đã khiến anh mình phải nể phục:
An rê êm dịu, trầm tĩnh và khiêm nhường.
Phêrô không cười vào mặt. không mỉa mai An rê.
Phêrô đã chấp thuận để An-rê dẫn đến gặp Đức Giêsu. 
Có thể An rê không có tài thuyết phục của Phêrô, 
nhưng ông đã đem Phêrô đến gặp Chúa. 
Có thể không bao giờ chúng ta có một Phêrô 
nếu tiên vàn không có một An rê.
Chúng ta gặp lại An rê trong Kinh Thánh vài tháng sau.
Một đám đông nghe Chúa giảng suất ngày. Trời đã xế và Người phải trở về. Đối với một số người. đường đi xa xăm lắm.
Những người đàn bà đã thấm mệt, những đứa trẻ đã lả người.
Họ không còn lương thực. Tông đồ của Chúa Giêsu nghĩ ngợi hoang mang.
Rồi An rê bước tới, Phúc âm lại bảo "An rê, em của Phêrô"  (Ga 6,8) để nhận diện ông: Suốt đời, ông chỉ là một bóng mờ  An rê nói:
"Đây có một em bé với 5 chiếc bánh và 2 con cá..." (Ga 6,9).
"Đây có một em bé..."
Có lần các môn đệ thấy các em bé quấy rầy Chúa Giêsu nên đuổi các em đi. Trong số các môn đệ ấy, chắc chắn không có anh đâu. Anh An rê nhỉ ?
Anh luôn chú ý đến các trẻ em.
Chỉ mình anh mới nhìn ra một cậu bé lẫn lộn giữa năm ngàn người lớn và đưa em ra.
Anh đã dưa bàn tay vạm vỡ cho em nắm gọn với ấm áp chân tình.
Anh kể cho em nghe những kỹ thuật đưa mồi, bắt cá, kéo lên thuyền, và anh cũng không quên nói về nhưng lần "lưới người" mà anh đóng góp.
Em bé đã rút bữa ăn trưa nghèo nàn, đạm bạc để muốn cùng anh chia sẻ.
Giờ đây ta gặp An rê hai lần.
Một An rê chân thành, tươi mắt, ấm áp, hiền hòa. khiêm tốn.
Và rỗi lần thứ ba ta gặp lại nhằm vào ngày lễ cuối cùng của cuộc đời Đấng Cứu Thế.
Đức Giêsu vào Yêrusalem vinh dự tràn đầy. Vài người gốc Hy Lạp đến Yêrusalem (Ga 12,20). Họ đến dự lễ Vượt Qua. Họ nghe nói về Giêsu Nazareth. Họ muốn gặp Người. Phi líp không biết phải làm gì. Không biết Chúa Giêsu có bỏ thì giờ để tiếp dân ngoại không. Chẳng phải sứ vụ của Người là hoàn toàn cho dân Do Thái sao ? Hay là đến hỏi Phêrô và Gioan xem sao ? Không được!
Philíp đoán rằng thế nào họ cũng trả lời như sau: "Bảo những người Hy Lạp đó về đi. Chúa Giêsu đến cho dân Do Thái. Người không có giờ đâu. Rồi một ý nghĩ lóe lên trong dầu: Ơ nhỉ, sao mình không hỏi An rê ? An rê là một người biết điều, ông ta biết sẽ phải làm gì . An rê lại là một người bạn tốt, ông sẽ giúp ý kiến hợp tình hợp lý. Và Phi líp đã nói với An rê.
Và thế là Allrê, không một giây do dự, cùng Philíp đã dẫn những  người gốc Hy Lạp đến gặp Chúa Giêsu, và chắc hẳn đó là diều làm Chúa hài lòng.
'Và người ta sẽ từ Phương Đông. Phương Tây, từ Phương Bắc, Phương Nam mà đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa" (Lc 13,29).
Còn Thầy. một khi Thầy được giương lên khỏi mặt đất. Thấy sẽ kéo mọi người  lên với Thầy" (Ga 12,32).
Ngoài ba lần ấy, ta không côn gặp lại An rê nữa.
Ngoài danh sách các tông đồ, không nơi nào khác có tên ông. Ông chỉ xuất hiện có ba lần và lần nào cũng chỉ có một việc là đem một ai dó đến gặp Chúa.
Đầu tiên. ông tự đem chính mình và anh mình.
Kế đến là một cậu bé.
Và sau cùng là những người khách Hy Lạp.
An rê. người bạn chân tình.
An rê. người giới thiệu kẻ khác cho Chúa Giêsu.
Thiếu ông là thiếu mất sự thành công. 
Những An rê mang những Phêrô cho Giáo Hội. Những An rê không phải là những người được chú ý, được quảng cáo, được rọi đèn, được hoan hô.
Họ không phải là nhưng vai chính, 
họ chỉ là những vai phụ.
Họ là những người bị quên lãng:
'Tôi nhớ anh rồi!... anh là em của Phêrô."
Họ suốt đời đóng vai phụ .
Họ là những con người tầm thường, nhưng thiếu họ thì không có gì hoàn tất.
Họ là những người khả năng hạn hẹp,  những người mà Chúa chỉ ban chữ một nén. không được 5.  không được 10.  nhưng nén bạc duy nhất đó họ sử dụng cho Chúa Kitô ehứ không nần nặc giữ lấy cho mình. '
Chúng ta nhớ đến những Phêrô, còn những An rê chúng ta quên đâu mất.
Những An rê không viết dược những Thánh Thư nảy lửa,
không giảng dược những bài giảng hùng hồn không đem về cho Chúa một lần 3000 linh hồn khi xuất hiện không có một phép lạ cỏn con nào... nhưng họ đem dược cho Chúa một Phêrô, để Phêrô viết Thánh Thư, rao giảng Lời Chúa, . . .rửa tội hàng ngàn, làm phép lạ trong lòng nhân thế
Chúng ta nhớ đến Phêrô, Còn An rê thì chúng ta quên đâu mất.Thánh Âu-tinh đã trở lại và là người đặt nền tảng thần học cho Giáo Hội. Nhưng ít ai nhớ tới bà mẹ Monica suốt 20 nạm trời cầu nguyện. hãm mình để xin ơn trở lại cho con mình. Monica thì nhiều người quên, nhưng Âu-tinh chắc ai cũng nhớ. Vị linh mục tại Paris đã hướng dằn Charles de Foucauld và đem Charles trở về với Chúa. Cha ấy tên gì ? Tôi quên mất rồi.
Ta nhớ tới Phêrô. còn những An rê thì ta quên đâu mất.
Không những Chúa Giêsu đã chọn An rê. Người lại chọn An rê là môn đệ đầu tiên. Vì sao ? Vì những người một nén cần thiết cho Nước Trời.
Không thể làm được gì nếu không có nhóm thân thiện,
Những đoàn người khiêm nhường sẵn sàng giới thiệu Chúa Giêsu.
Trong lịch sử Giáo hội, có những giai đoạn cần đến những Phêrô, Phaolô, Inhaxiô, Phanxicô Xaviê... Nhưng con đường  trường kỳ vẫn là con dường rao giảng từ người này đến người kia, từng người một. . .
Trong chương trình của Thiên Chúa không thể thiếu vắng An rê. Chúa cần đến An rê với tài năng chỉ :một nén" Không phải ai cũng có thể là Phêrô. Nhưng bất cứ ai cũng có thể là An rê . Đó là lý do vì sao Chúa chọn An rê. Đó là dường lối mà 13 tông đồ đã thay đổi thế giới. Những tín hữu đầu tiên đã tản mác ra, không lên tòa giảng nói năng hùng hồn, nhưng chỉ kể lại đơn sơ mộc mạc chứng tích Chúa Giêsu qua đời sống chứng nhân tận hiến và chân tình. Và vô tình hay hữu ý, họ đã noi gương An rê, đi từ người này đến người khác, giới thiệu những linh hồn cho Chúa
Kitô, và chính họ đã đảo lộn thế giới (CV 17,6) 
Chúa Ki tô cần con người,
Chúa Ki tô cần những An rê.
Không phải Chúa cần đến những người thông suốt thần học
Không phải những kẻ có bằng cấp cao,
Không phải những người thông suốt mọi vấn dề...Nhưng Chúa cần những người giàu tình bạn chân thành những người tài năng có "một nén"
nhưng người với một trái tim, một tâm hồn,
những người với một đam mê, một mục đích
những người sống làm chứng, ra đi để kể câu truyện: 
Chúng tôi đà gặp đấng Messia... " 
Chúa Ki tô kêu gọi mọi giáo hữu đi khắp nơi để loan báo Tin Mừng rằng Thiên chúa đã đến thế gian trong Đức Giêsu, rằng Người đã đau khổ, đã chết, rằng Người đã sống lại từ cõi chết,  và dã sống lại cho đến muôn dời. 
rằng đây là biến cố lớn nhất lịch sử, là bằng chứng rõ ràng nhất của tình Giêsu.
'Ké nào chiếm được các linh hồn, kẻ ấy khôn ngoan".
Đó là con đường duy nhất để thay đổi thế giới,
con dường cho những An rê giàu tình bạn,
nhưng người chỉ nhận "mót nén" tài năng.
An rê , anh đang ở đâu ?
Có những người đang chờ gặp Chúa Giêsu của anh . . .
Chúng ta không biết gì về An rê trong lịch sử Giáo Hói tiên khởi. An rê biến mất trong bóng tối.
Theo những tài liệu góp nhặt thì ông qua Hy Lạp và rao
Giảng ở vùng Akaia. Ông tử đạo tại dây và chết. Trên thập giá hình chừ X. Vài thế kỷ sau, hài cốt của ông dược đem qua Tô Cách Lan. Chiếc tàu chở hài cốt bị đắm gần bờ biển. Nơi đó ngày nay gọi là Bờ Biển Thánh An rê (St Andrew's Bay ). An rê trở thành bổn mạng của quốc gia Tô Cách lan.

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...