03/02/2024
370

 

CHÚA NHẬT 5 THƯỜNG NIÊN_B

Lời Chúa: G 7,1-4.6-7;  1Cr 9,16-19.22-23;  Mc 1,29-39
---------------------------

Mục lục

1. Hành trình hạnh phúc (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hãy để Thiên Chúa chăm sóc bạn  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

3. Đức tin và chữa lành (Jorathe Nắng Tím)

4. Ngày sống của Chúa Giêsu (Lm. Thái Nguyên)

5. Sống với Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, Học viện MTG.Thủ Đức)

6. Hãy sống tích cực  (Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)

7. Đỡ dậy  (Lm. Vũ Đình Tường)

8. Một ngày mới  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

9. Số kiếp lận đận  (Trầm Thiên Thu)

10. Sống hết mình  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

11. Con người không chỉ là cái xác  (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

12. Một đời thương cảm  (Lm. Nguyễn Cao Luật, OP)

13. Xin ơn chữa lành bệnh tật xác hồn (Lm. Trần Bình Trọng)

14. Hướng nhìn lên Giêsu (Lm. Xuân Hy Vọng)

15. Nước Trời  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

16. Dấn thân  (Thiên San, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

17. Tâm tình phục vụ (Maria Bùi Thủy, Thanh Tuyển sinh MTG.Thủ Đức)

18. Chỉ còn tình yêu ở lại  (Lm. Giuse Nguyễn)

19. Thiên Chúa là sức mạnh của đời người (Lm. JB Nguyễn Minh Hùng)

20. Một con tim mới mẻ (Lm. Minh Anh)

21. Ma quỉ và chiêu trò của chúng  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)


 

HÀNH TRÌNH HẠNH PHÚC

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Một tác giả đã viết: “Hạnh phúc không phải là đích đến. Nó là một hành trình kết thành từ nhiều lựa chọn. Trên con đường đời, bạn có thể chậm rãi bước trên những lối đi êm mát với bao hoa cỏ xinh tươi quấn quýt bên mình; hoặc bạn có thể băng băng tiến về phía trước để đuổi theo những sắc mầu lấp lánh ở cuối chân trời, nơi bạn thấy hiển hiện ánh cầu vồng mê hoặc, nhưng thực ra chỉ là một khoảng không vô định. Tất cả tùy thuộc vào sự lựa chọn của bạn” (Tìm về sức mạnh vô biên, nxb Văn Hóa, tr. 7). Với những dòng trên, tác giả muốn nói với chúng ta: hạnh phúc chẳng phải ở đâu xa, mà ở bên cạnh và trong tầm tay của chúng ta. Nếu chúng ta chỉ coi hạnh phúc như một mục đích, chúng ta sẽ dồn hết sức lực để đi kiếm tìm, như thể mục đích đang ở xa xa phía chân trời. Nhưng tiếc thay, khi đi kiếm tìm hạnh phúc như vậy, chúng ta quên mất hạnh phúc đang ở xung quanh mình. Mặt trời vẫn luôn hiện hữu, nhưng những người khiếm thị lại không nhìn thấy mặt trời. Không ai dựa vào sự kiện những người khiếm thị để khẳng định mặt trời không tồn tại. Dù cuộc đời còn nhiều gian nan thử thách, những niềm vui và hạnh phúc ngọt ngào vẫn luôn hiện diện bên ta. Một cách cụ thể, trong cuộc sống, chúng ta có bao niềm vui nơi bạn bè, gia đình và môi trường xã hội. Hãy có cái nhìn lạc quan và trân trọng những giá trị đang hiện hữu xung quanh. Đối với người tin Chúa, mỗi giây mỗi phút trong đời đều là những cơ hội để chúng ta nhận ra tình thương bao la của Ngài. Mỗi hoàn cảnh đều có thể là cơ hội để ta thực thi lòng mến Chúa yêu người. Thời gian là một quà tặng vô giá của Thiên Chúa. Biết trân quý thời gian và sử dụng thời gian để làm những việc có ý nghĩa là nỗ lực đạt tới sự hoàn thiện.

Ông Gióp trong Cựu ước là một người đạo đức và sống đẹp lòng Chúa. Nhưng rồi, chỉ trong một thời gian ngắn, rất nhiều điều rủi ro xảy đến cho gia đình ông, làm ông mất hết con cái cũng như cơ nghiệp. Ông lâm vào cảnh bất hạnh chỉ trong vài ngày. Ngay người bạn đời của ông cũng xỉ vả và bỏ ông mà đi. Trong cơn đau khổ, ông đã suy nghĩ về sự vô nghĩa của cuộc đời: “Vừa nằm xuống tôi đã nhủ thầm: khi nào trời sáng; mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: bao giờ chiều buông. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng”.

Tâm trạng của ông Gióp cũng là tâm trạng của một số người trong cuộc sống của chúng ta hôm nay. Họ luôn cảm thấy cuộc đời này vô vị. Họ bất mãn và nhìn cuộc đời với lăng kính u buồn. Thay vì quan tâm đến người khác, họ chỉ muốn người khác quan tâm đến mình. Họ phàn nàn trách Chúa, trong khi Ngài ban cho họ biết bao cơ hội để cải thiện đời sống. Tuy vậy, nếu ông Gióp nhìn cuộc đời với cái nhìn bi quan, thì ông lại không bao giờ xúc phạm Chúa. Ông tin Ngài sẽ giải cứu ông và cuối cùng, Chúa đã phục hồi cho ông những gì đã mất, đem lại cho ông danh dự và niềm vui. Sau những tháng ngày gian truân, ông được bù đắp xứng đáng. Tài sản có được tăng gấp nhiều lần so với trước đó. Lòng kiên trì phó thác nơi Chúa đã giúp ông ta nhận được muôn hồng ân Chúa ban.

Như thế, mỗi người cần nhận ra những điều tốt đẹp Chúa ban, đồng thời chu toàn bổn phận của mình trong cuộc sống. Chúng ta hãy nghe thánh Phaolô nói về chính mình: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng! tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công”. Dù bất kỳ hoàn cảnh nào, thánh nhân cũng không quên sứ mạng quan trọng là giới thiệu Chúa Giêsu cho mọi người. Ông luôn tận dụng thời gian tối đa để thực thi sứ vụ loan báo Tin Mừng, vì ông coi đó là một bổn phận Chúa trao. Kể cả trong lao tù, thánh Phaolô cũng không quên nhiệm vụ quan trọng này. Nhờ việc rao giảng Lời Chúa mà ông tìm được niềm vui và nghị lực, bởi ông thấy những hiệu quả của công việc ông đã làm, đó là những cộng đoàn Kitô hữu được thiết lập và phát triển (Bài đọc II).

Nếu chúng ta cảm thấy cuộc sống lặng lẽ trôi một cách vô nghĩa, là vì chúng ta chưa biết sử dụng thời gian một cách đúng đắn, nhằm để đem lại hạnh phúc cho mình và cho tha nhân. Thời gian vẫn lặng lẽ trôi, mặc chúng ta có để ý hay không. Dòng sông cuộc đời vẫn âm thầm chảy, dù con người thánh thiện hay tội lỗi. Nếu chúng ta biết trân trọng thời gian như một quà tặng của Thiên Chúa, thì thời gian sẽ mang lại biết bao điều tốt đẹp, và mỗi ngày sống đều đong đầy ý nghĩa. Thánh Máccô kể lại một ngày sống và làm việc của Chúa Giêsu. Những cụm từ chỉ thời gian cho chúng ta thấy đó là một ngày rất bận rộn. Buổi sáng, Chúa giảng dạy và chữa bà nhạc mẫu của ông Phêrô đang cảm sốt; buổi chiều cho đến khi mặt trời lặn, Chúa chữa rất nhiều bệnh nhân, kể cả người bị quỷ ám; sáng sớm tinh mơ, Chúa đến nơi thanh vắng để cầu nguyện với Chúa Cha. Phần cuối của bài Tin Mừng hôm nay cho thấy cuộc sống của Chúa Giêsu luôn là một cuộc lên đường. Người không dừng lại ở một nơi, nhưng tiếp tục đi đến các làng mạc để loan báo Tin Mừng. Lộ trình của Chúa không có điểm kết thúc. Chúa Giêsu làm việc miệt mài, quên cả thời gian để đem niềm vui và hạnh phúc cho hết mọi người. Những việc làm của Chúa Giêsu tập trung ở ba khía cạnh: thứ nhất là rao giảng Tin Mừng; thứ hai là chữa lành các bệnh nhân đủ mọi tật nguyền; thứ ba là cầu nguyện. Ba khía cạnh này đã tạo nên sự quân bình trong đời sống. Đó cũng là mẫu mực cho đời sống Kitô hữu của chúng ta. Cần phải kết hợp khía cạnh “động” và khía cạnh “tĩnh” để tạo nên một thế quân bình. Những giây phút tĩnh lặng trong cầu nguyện sẽ giúp chúng ta nhìn lại công việc chúng ta đang làm. Những hoạt động hằng ngày là hoa trái của những suy tư và cầu nguyện trước nhan Chúa.

“Lương thực của Thày là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thày” (Ga 4, 3). Noi gương Chúa Giêsu, mỗi chúng ta hãy chuyên cần làm việc, tùy theo khả năng và địa vị của mình. Bí quyết của hạnh phúc là hãy sống vì người khác và đem cho họ niềm vui. Càng dấn thân phục vụ anh chị em, chúng ta càng thấy cuộc đời có ý nghĩa, và như thế, chúng ta càng cảm nghiệm được niềm vui. “Nhàn cư vi bất thiện”, cuộc sống quá nhàn rỗi sẽ làm chúng ta cảm thấy đơn điệu, lạc lõng và tìm đến những thú vui trần tục.

Chúng ta đang chuẩn bị đón xuân Tân Sửu. Thời điểm cuối năm nhắc chúng ta nhìn lại những việc đã làm. Cuối năm cũng là lúc nhìn lại chặng đường đã đi. Có những con đường lệch lạc được tô vẽ bằng những màu sắc hấp dẫn nhiều người muốn đi. Có những con đường ngay chính nhưng phải ngang qua cửa hẹp ít người muốn vào. Người tin Chúa cần phải cẩn trọng, vì có những ngã rẽ làm chúng ta đau khổ suốt đời.

Năm Canh Tý sắp qua có biết bao biến động, do thiên tai và nhất là do đại dịch Covid-19. Phải chăng đây là những dấu chỉ thời đại, nhắc nhở chúng ta suy tư về sự mỏng giòn của kiếp con người. Những dấu chỉ thời gian này cũng mời gọi chúng ta có trách nhiệm hơn đối với tha nhân, với môi trường và với thiên nhiên vũ trụ. Đừng đổ lỗi cho Chúa như một số người vô thần. Trái lại, hãy nhận ra quyền năng của Ngài xuyên qua những hiện tượng xảy đến trong cuộc sống.

Lời Chúa mời gọi chúng ta hãy có cái nhìn tích cực về cuộc sống hôm nay. Bởi lẽ giữa những thử thách chông gai và bon chen tính toán, tình yêu Chúa vượt lên trên tất cả. Những nhỏ nhen sẽ qua đi và tình yêu tồn tại mãi. Đừng luôn than phiền vì những người xung quanh thiếu thiện cảm. Bạn hãy tự xét mình xem mình có tạo được thiện cảm với họ hay không. Đừng quá chú trọng đến những thất bại bạn gặp trên đường đời; nhưng hãy nhớ đến những thành công nho nhỏ bạn đã đạt được. Đừng bất mãn vì cuộc đời đen bạc; hãy vui mừng vì xung quanh ta có biết bao bạn thân. Người tin Chúa còn vui mừng vì luôn được Chúa chở che, dìu dắt thương yêu trên mọi nẻo đường đời.

Hãy yêu mến cuộc sống hiện tại và hãy chuyên tâm làm việc thiện, vì tất cả những gì tốt lành chúng ta làm ở đời này, sẽ theo chúng ta đến cõi trường sinh. Ước gì ngay ngày hôm nay, chúng ta biết quý trọng những người xung quanh, vì họ là những người Chúa gửi đến cho chúng ta để đồng hành cùng chúng ta trên đường về quê trời. Như thế, hạnh phúc chẳng ở đâu xa mà ở bên cạnh và xung quanh chúng ta. Hạnh phúc không phải là một đích điểm, mà là một hành trình.

Về mục lục

HÃY ĐỂ THIÊN CHÚA CHĂM SÓC BẠN

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Đại dịch COVID-19 được ví như một “cú đấm chí mạng” với sức tàn phá ghê gớm, giáng vào nền kinh tế thế giới 2020 và tiếp tục đi qua năm 2021.

Tốc độ lây lan chóng mặt của dịch bệnh COVID-19 buộc các quốc gia phải áp đặt các biện pháp phong tỏa và đóng cửa biên giới để chống dịch đã dẫn đến kinh tế toàn cầu suy yếu, làn sóng doanh nghiệp phá sản lan rộng khắp thế giới.  Nhiều chuyên gia cho rằng sự ảnh hưởng của đại dịch này còn kéo dài nhiều năm sau nữa mới khống chế được nó.

Và hình như bệnh tật luôn theo đuổi con người như hình với bóng. Con người qua mọi thời đại cứ xóa sổ được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện, càng ngày các căn bệnh càng khó trị hơn, và mỗi thời đại đều có những căn bệnh gọi là bất trị. Rồi cũng có những loại bệnh tưởng chừng đã biến mất, nhưng nay lại quay trở lại lợi hại hơn xưa với tên gọi mới dầu vẫn chỉ là dịch bệnh lây nhiễm như Covid hôm nay!

Lời Chúa hôm nay kể lại việc Ðức Giêsu chữa bệnh cho bà nhạc gia ông Simon Phêrô. Bà đang bị cảm sốt liệt giường. Ðức Giêsu cầm tay bà nâng dậy. Bà liền khỏi cảm sốt và đi lại tiếp đãi các Ngài.

Người Do thái cho rằng cảm sốt là hình phạt của Thiên Chúa, cũng giống như bệnh dịch (x. Ds. 5, 3). Sau này người ta còn gán cho cảm sốt là do ma quỉ. Trong cái nhìn đó, bệnh tật được coi như bắt nguồn từ ma quỉ và việc chữa lành bệnh tật được xem như là sự chiến thắng quỉ ma. Vì thế, việc Ðức Giêsu chữa bệnh cảm sốt cho nhạc gia ông Simon biểu lộ ý nghĩa Thiên Chúa cứu chuộc con người khỏi ách tội lỗi, nói lên sứ mạng Thiên sai của Người.

Đây cũng là phong cách của Chúa Giê-su. Ngài luôn tất bật phục vụ mà không cần nghỉ ngơi. Cả ngày dường như Ngài dành trọn cho Thiên Chúa và tha nhân. Ban ngày phục vụ tha nhân. Đêm về Ngài dành cho Chúa Cha.

Thật hạnh phúc cho người ky-tô hữu, qua bí tích Rửa tội chúng ta được xức dầu xua trừ ma quỷ, được chữa lành bệnh tật và được trở nên con cái Chúa. Thiên Chúa đã ghi dấu ấn tín cho chúng ta thuộc trọn về Chúa để từ đây có Chúa sẽ nên thành lũy che chở cho cuộc đời chúng ta.

Nhất là trong thế giới hôm nay vẫn còn rất nhiều các tà thần ám ảnh: thần của bạc tiền, của tình dục, của quyền lực; vẫn còn các bệnh tật lan tràn đang làm biết bao người khổ đau. Xin Chúa thương chữa lành cho tất cả các bệnh nhận. Đồng thời, xin cho các tín hữu cũng biết xoa dịu, băng bó và chăm sóc những vết thương thể xác và tâm hồn của anh chị em xung quanh, nhất là những người cô thân cô thế, những kẻ bệnh hoạn tật nguyền.

Vâng, nếu cuộc đời hôm nay có nhiều tấm lòng phục vụ như Chúa, thì gia đình sẽ hạnh phúc biết bao! Nếu cuộc đời ai cũng sống có trách nhiệm với nhau, sẽ không còn những nỗi đau của cô đơn và tuyệt vọng. Nếu vợ chồng biết hy sinh cái tôi của mình để hy sinh cho nhau thì hạnh phúc sẽ ngập tràn trong mái ấm gia đình.

Thế nhưng, dòng đời vẫn còn đó những mảnh đời cô đơn và tuyệt vọng vì lối sống ích kỷ và thiếu trách nhiệm của người bạn đời. Vẫn còn đó những người con mặc cảm, tủi hận vì cha mẹ bỏ rơi, thiếu quan tâm. Vẫn còn đó những giọt nước mắt buồn đau của phận người bị ngược đãi, bị xúc phạm, bị chà đạp lên danh dự và phẩm giá làm người. Vẫn còn đó tiếng khóc than cho phận số nghèo đói, bệnh tật, già nua đang bị anh em đồng loại bỏ rơi.

Ước gì mỗi người chúng ta có được trái tim như Chúa để có thể chạnh lòng thương xót những mảnh đời khổ đau của anh em. Ước gì mỗi người chúng ta cũng có tấm lòng như Chúa để sẵn lòng dấn thân quảng đại vì hạnh phúc tha nhân. Xin cho mỗi người chúng ta luôn có trách nhiệm với nhau, với cuộc đời. Xin đừng để ai đau khổ, thất vọng vì sự thờ ơ và thiếu trách nhiệm của chúng ta. Amen

Về mục lục

ĐỨC TIN VÀ CHỮA LÀNH

Jorathe Nắng Tím

Kinh Thánh Cựu Ước có chuyện ông Gióp ở đất Út. “Ông là một con người vẹn toàn và ngay thẳng, kính sợ Thiên Chúa và lánh xa điều ác” (G 1,1). Vì được Thiên Chúa coi là người đầy tớ trung thành, luôn “kiên vững trong đường lối vẹn toàn” (G 2,3), dù rơi vào bất cứ hoàn cảnh nào, nên Xatan ganh ghét Gióp và thưa với Thiên Chúa : “Tất cả những gì người ta có, người ta đều sẵn sàng cho đi để cứu mạng sống mình. Ngài cứ thử giơ tay đánh vào xương vào thịt nó xem, chắc chắn là nó sẽ nguyền rủa Ngài thẳng mặt! ” (G 2,5), và Xatan xin Chúa cho phép thử thách Gióp. Thiên Chúa đồng ý, cho phép Xatan được thử thách Gióp, người tôi tớ trung kiên của Ngài, khi nói với Xatan : “Được, nó thuộc quyền ngươi, nhưng ngươi phải tôn trọng mạng sống nó” (G 2,6).

Gióp là hình ảnh sống động của con người bất hạnh, bởi từ có tất cả phút chốc mất hết, không còn gì ; từ phương phi vạm vỡ biến thành yếu nhược, tiều tụy, xấu xa ; từ danh giá, được trọng vọng trở thành kẻ bị mọi người khinh dể, nhạo cười, xa lánh ; từ dư dả, giầu sang, bạn bè tấp nập ra vào, kẻ hầu người hạ ngày đêm vồn vã bỗng nhiên thành kẻ thiếu ăn, thiếu mặc, cô đơn, sầu tủi, bị xỉ nhục, mắng nhiếc nặng lời.

Hình ảnh “ông ngồi giữa đống tro, lấy mảnh sành mà gãi”, vì “Xatan hành hạ khiến ông mắc phải chứng ung nhọt ác tính từ bàn chân cho tới đỉnh đầu” (G 2,7-8) thật rất đáng thương, nhưng cũng đáng sợ, đáng ngán : sợ mắc chứng bệnh quái ác như ông, ngán cảnh đau đớn, nhơ nhớp cùng mình. Chẳng thế mà vợ ông đã bảo ông : Đừng kiên vững trong đường lối vẹn toàn của ông nữa, nhưng “hãy nguyền rủa Thiên Chúa và chết đi cho rồi!” (G 2,9).

Qủa thực, cơn thử thách của Gióp rất khủng khiếp, nặng nề, đến nỗi ông đã phải đau đớn thốt lên : “Phải chi đừng xuất hiện ngày tôi đã chào đời” (G 3,3), vì “cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao ? Và chuỗi ngày lao lung vất vả, đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công, cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm : “Khi nào trời sáng ?” Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi : “Bao giờ chiều buông?… Lậy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ” (G 7,1-4.7).

Thực vậy, ông Gióp là người đã chịu mọi thử thách của ma qủy nên thấm thía những đau đớn trên thân xác và đau khổ trong tâm hồn. Ông cho chúng ta thấy mãnh lực áp đảo của sự dữ, bất hạnh trên đức tin và lòng trung thành của chúng ta đối với Thiên Chúa, bởi trước đau khổ, không phải ai cũng trung tín, và hy vọng để nói được như ông Gióp : “Chúng ta đón nhận điều lành từ Thiên Chúa, còn điều dữ, lại không biết đón nhận sao?” (G 2,10).

Câu chuyện của Gióp đã làm tiền đề cho Tin Mừng hôm nay kể về những phép lạ Đức Giêsu đã làm để chữa mọi kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và bị qủy ám đến với Ngài (x. Mc 1,34).

Nhưng tiếp liền theo trình thuật chữa bệnh, trừ qủy, thánh sử Máccô kể lại: “Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Ông Simôn vá các bạn kéo nhau đi tìm. Khi gặp Người, các ông thưa : “Mọi người đang tìm Thầy đấy!”. Người bảo các ông : “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm điều đó. Rồi Người đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường của họ và trừ qùy” (Mc 1,35-39).

Theo ngữ cảnh, thì “Mọi người đang tìm Thầy !” được hiểu là nhiều người đau bệnh, tật nguyền, bị qủy ám đang chờ được gặp Đức Giêsu để xin Ngài chữa lành. Nhưng thay vì ra gặp họ để tiếp tục chữa bệnh, trừ qủy theo lời mời của các tông đồ, Đức Giêsu đã trả lời : “Chúng ta hãy đi nơi khác… Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó”.

Điều này cho chúng ta thấy sứ vụ của Đức Giêsu là rao giảng Tin Mừng, loan báo Nước Thiên Chúa đang có mặt, ở giữa mọi người để tất cả nhận được ơn thương xót của Thiên Chúa hầu được sự sống đời đời. Còn những phép lạ chữa lành mọi thứ bệnh tật và trừ qủy Ngài làm chỉ có mục đích cho mọi người biết và tin Ngài là Thiên Chúa, Đấng có quyền trên mọi sự, mọi loài, mọi quyền lực. Nói cách khác, niềm tin vào Ngài là Thiên Chúa mới là điều quan trọng, bởi đức tin mới đem lại ơn cứu rỗi cho chúng ta, trong khi những phép lạ chỉ có mục đích củng cố niềm tin còn yếu kém của chúng ta, như Đức Giêsu đã làm phép lạ cho nước hoá thành ruợu ngon ở tiệc cưới Cana cốt để các môn đệ tin vào Ngài (x. Ga 2,11).

Vì thế, nếu chúng ta chỉ đi đạo để được phép lạ, chỉ yêu mến, phụng thờ Chúa, nếu được Chúa cho khỏi bệnh, buôn may bán đắt, hoạn lộ thênh thang, công danh lên vùn vụt thì đức tin của chúng ta không thể đứng vững khi gặp thử thách, đối mặt với nguy nan, đau khổ, bởi nếu chỉ đòi thấy những dấu lạ mới tin, chúng ta sẽ bị Chúa khiển trách như những người Do Thái yêu cầu Đức Giêsu làm phép lạ năm xưa : “Thế hệ này là một thế hệ gian ác, chúng xin dấu lạ. Nhưng chúng sẽ không được thấy dấu lạ nào, ngoài dấu lạ ông Giôna. Qủa thật, ông Giôna đã là một dấu lạ cho dân thành Ninivê thế nào, thì Con Người cũng sẽ là một dấu lạ cho thế hệ này như vậy” (Lc 11,29-30). Ý Đức Giêsu muốn nói về sự phục sinh của Ngài.

Tóm lại, bệnh tật, đau khổ không chỉ là dấu ấn của thụ tạo có giới hạn, mà còn là hậu qủa của tội lỗi nơi con người. Cũng chính vì thương xót con người, mà Đức Giêsu đã xuống thế làm người để chia sẻ thân phận người và cứu độ con người bằng sự sống, sự chết và phục sinh của Ngài để chuộc lại quyền làm con Thiên Chúa của con người, hầu con người được hạnh phúc đời đời trong sự sống của Thiên Chúa. Và đức tin của mỗi người là điều kiện để Lời Hứa cứu độ được thực hiện, đức tin mà Đức Giêsu phục sinh đã dậy cho môn đệ Tôma : “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20,29), vì ông không tin Thầy đã sống lại, mặc dù tất cả anh em môn đệ đều đồng thanh khẳng định : “Chúng tôi đã được thấy Chúa!” (Ga 20,25), cho đến khi chính Đức Giêsu phục sinh hiện ra và bảo ông : “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27).

Và như các thánh Tông Đồ năm xưa, chúng ta khiêm tốn và tín thác thưa với Đức Giêsu : “Lậy Thầy, xin thêm đức tin cho chúng con” (Lc 17,5).

Về mục lục

NGÀY SỐNG CỦA CHÚA GIÊSU

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy nhịp sống mỗi ngày của Chúa Giêsu: khởi đầu là cầu nguyện, tiếp đến là rao giảng và chữa lành bệnh tật thể xác cũng như tâm hồn. Ngày sống của Chúa Giêsu như khuôn mẫu để cho chúng ta nhìn lại nhịp sống thường ngày của chính mình.

Quan trọng hơn hết là cầu nguyện. “Từ sáng sớm… Ngài đi ra một nơi thanh vắng và cầu nguyện”. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Ngài là con người của mọi người, nhưng trước hết Ngài là người Con của Thiên Chúa. Ngài cần có không gian và thời gian yên tịnh để sống riêng tư một mình. Ngài cần sống bên Cha để tỏ bày về gánh nặng công việc, về những đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan. Người cần Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng. Ngài cầu nguyện vì khao khát được kết hiệp mật thiết với Cha. Để rồi từ Cha, Ngài đi ra với mọi người, và từ mọi người, Ngài lại trở về bên Cha, như một vận hành liên tục để kín múc và chuyển thông sự sống mới cho con người.

Cầu nguyện cần thiết đối với Chúa Giêsu như thế, huống chi đối với chúng ta, những con người luôn yếu đuối mỏng giòn. “Bí quyết nuôi dưỡng đời sống Kitô hữu là cầu nguyện. Không cầu nguyện, dù có làm phép lạ, con cũng đừng tin.” (ĐHV 122). Mọi hoạt động của chúng ta phải bắt nguồn từ cầu nguyện:“Hoạt động mà không cầu nguyện là vô ích trước mặt Chúa.” (ĐHV 118). Đây là điều không thể ép uổng, nhưng phát xuất tự con tim yêu mến, để thuộc về Chúa hoàn toàn.

Việc quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừngĐây chính là trọng tâm của sứ mạng mà Chúa Giêsu được Chúa Cha sai đến trần gian. Ngài không chỉ rao giảng Tin Mừng mà còn là Tin Mừng. Những ai đón nhận Ngài, thì Ngài cho họ làm con Thiên Chúa (x. Rm 8, 13). Là Kitô hữu, chúng ta cũng đã được sai đi để loan báo Tin Mừng: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20, 21). Mỗi người phải là một tin mừng cho những người chung quanh. Thánh Phaolô đã xác quyết: “Khốn cho tôi, nếu tôi không rao giảng Tin Mừng”. Chúng ta có cảm thấy như thế không?

Việc thứ ba là chữa lành“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Lời rao giảng của Chúa còn được thể hiện bằng hành vi yêu thương và chữa lành mọi bệnh tật. Tin Mừng của Chúa có sức giải phóng con người khỏi sự trói buộc của sự dữ và ma quỉ. Chúa Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại, nhưng Ngài không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa, để hướng mọi người đến ơn cứu độ toàn diện mà Ngài sẽ thực hiện trong biến cố tử nạn và phục sinh. Là môn đệ, chúng ta cũng phải trở nên hình ảnh sống động của Đức Giêsu trong việc xoa dịu những nỗi đau khổ của bao người xung quanh mình, phải sống với họ hết tình để chứng minh lòng thương xót của Chúa và hướng họ đến sự sống mới trong Ngài.

Điều thứ tư cho thấy Chúa Giêsu – con người của tự do“Chúng ta hãy đi nơi khác… để Thầy còn rao giảng ở đó nữa”. Ngài luôn đi qua, luôn ra khỏi những tình cảm, những thành công, những mến chuộng và tán tụng của người đời (x. Ga 6, 14-15). Ngài luôn vượt trên những thành kiến, những phân biệt, những nghi kỵ, những kỳ thị, những tập tục, những lề thói, và ngay cả những luật lệ tôn giáo và truyền thống dân tộc. Ngài không dừng lại ở một địa điểm hay thành trì nào, không bám trụ ở một vị trí hay vai trò nào, không bám lấy chức tước hay địa vị nào. Ngài buông lơi tất cả, đi qua tất cả, ra khỏi tất cả, vì Điểm Hẹn cuối cùng của Ngài là trên “đồi vinh quang” của tự do, để mang đến tự do cho con người. Theo Chúa Giêsu, chúng ta cũng là những con người của tự do: tự do để yêu thương, để phục vụ và hiến thân mình, làm cho ơn cứu độ của Thiên Chúa được lan rộng đến mọi người.

Cầu nguyện

Lạy Chúa!
Cuộc sống con vẫn ồn ào náo nhiệt,
con vẫn bị mê hoặc bởi cái “tôi”,
với những sục sôi nhiều ham muốn.

Con cần trở về trong thinh lặng,
để sống với Chúa trong yên bình,
để thấy rõ chính mình trong yên tĩnh.

Thiếu thinh lặng để gặp Chúa,
tâm con sẽ bồn chồn manh động,
và bung xung theo những thói thị phi.

Thiếu yên lặng để nghe Chúa,
con sẽ bị cuốn theo phù du thế tục,
cũng ham mê những điều phàm tục.

Thiếu trầm lặng để sống thuộc về Chúa,
con sẽ sống như bao người đang sống,
dễ vong thân xa lạc với chính mình.

Thiếu tĩnh lặng để kín múc thần lực,
con sẽ như muối không còn mặn,
như men không còn nồng,
như hạt giống vẫn trơ trơ.

Thiếu bình lặng để quy hướng về Chúa,
con sẽ luôn hối hả và đon đả,
lo chạy tìm những cái trong thiên hạ,
cứ ngỡ là vinh hoa, ai ngờ bả phù hoa.

Xin cho con biết quí chuộng thinh lặng,
là sự đều đặn mỗi ngày kề bên Chúa,
để từ đó con đến với mọi người,
đem lại sự sống mới thật thắm tươi,
là chính sự sống của Tin Mừng,
mà đời con đã trở nên nhân chứng,
để Chúa được tuyên xưng khắp mọi nơi. Amen.

Về mục lục

SỐNG VỚI CHÚA

Bông hồng nhỏ

 Một ngày làm việc của Chúa Giêsu diễn ra thật tuyệt vời. Sau khi rời khỏi hội đường, Thầy Giêsu ghé thăm nhà ông Simon, có hai ông Giacôbê và ông Gioan cùng đi theo. Đến nơi, người ta nói với Thầy về tình trạng của mẹ vợ ông Simon: bà đang lên cơn sốt. Không chần chừ, Thầy Giêsu đến ngồi cạnh bà, đỡ bà dậy. Lập tức, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. Thầy Giêsu không chỉ thuyết phục người khác bằng lời giảng dạy nhưng còn bằng chính hành động đầy yêu thương.

Chiều đến, người ta kéo đến đầy nhà, ai cũng muốn được gặp Thầy, ao ước được Thầy chữa cho lành bệnh. Trước những con người bệnh tật ấy, Thầy Giêsu chạnh lòng thương họ. Người đã chữa lành bệnh và trừ nhiều quỷ. Ai cũng thán phục Thầy. Quả thật, Thầy đã giải thoát họ khỏi nỗi khổ đau vì bệnh tật, khỏi tội lỗi và khỏi quyền lực của Satan. Được đến với Thầy, họ chẳng còn phải lo lắng hay sợ hãi gì cả. Bởi đó, người ta mong giữ Thầy lại.

Sáng sớm, khi trời còn tối mịt, Thầy đã đi ra một nơi hoang vắng mà cầu nguyện. Không thấy Thầy đâu, mọi người đều nhốn nháo. Ai cũng nóng lòng được gặp Thầy. Thế rồi ông Simon và các môn đệ khác kéo nhau đi tìm Thầy. Thầy đang ở đâu, phải kiếm Thầy cho kỳ được. Dân chúng say mê nghe những lời giảng dạy tuyệt vời của Thầy, họ ngưỡng mộ Thầy, biết ơn Thầy. Ai ai cũng yêu quý Thầy. Tìm được rồi, các ông thở phào nhẹ nhõm. Thầy lạ quá. Thầy đến nơi hoang vắng này để cầu nguyện. Thầy muốn rời khỏi sự ồn ào, sự hồ hởi, sự quấn quýt của những người hâm mộ. Thầy chỉ muốn dành một chỗ thật riêng tư để tâm sự cùng Chúa Cha. Thầy đã đến đây là vì vậy.

Trong mỗi ngày sống, ta có muốn dành một khoảng thời gian thật riêng tư để ở lại cùng Chúa không? Trong những lúc quá bận rộn với nhiều công việc, ta có dành giờ để nạp năng lượng thiêng liêng cho trái tim của mình không? Hãy nhìn, hãy nghe, hãy để tâm suy nghĩ về những gì Chúa nói với ta. Ta hãy vội vã chạy đi tìm Chúa như các môn đệ ngày xưa, để khi ở trong Người, ở bên Người, ta sẽ được Người chỉ cho biết phải làm sao. “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc xung quanh để rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy được sai đi cốt để làm việc đó” (Mc 1,38). Có những lần ta bị cám dỗ ở lại trong thành công, ở lại nơi vùng an toàn: đó là một công việc ổn định, được nhiều người biết tới, nhiều người yêu thương… Thật khó để có thể rời bỏ nơi ấy, vùng an toàn mà ta đã vất vả mới có được. Nỗi lo lắng, sợ hãi trước những thách đố của “vùng đất mới” khiến ta chùn bước. Hãy lắng nghe xem Thầy Giêsu muốn ta làm gì.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã cho con được cộng tác với Ngài trong sứ vụ mới. Xin Chúa ban Thánh Thần tình yêu soi chiếu tâm hồn con để con luôn sẵn sàng với mệnh lệnh Chúa truyền ban. Amen.

Về mục lục

HÃY SỐNG TÍCH CỰC

Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

Cuộc khủng hoảng do dịch bệnh Covid-19 gây ra đang khiến cho bao người, bao gia đình điêu đứng. Nhiều doanh nghiệp phá sản. Nhiều người mất việc làm. Không có việc làm, cuộc sống vốn khó khăn lại càng khó khăn hơn. Chắc hẳn những chuyên gia kinh tế thế giới đang cố gắng tìm một giải pháp tốt nhất để giải quyết khủng hoảng. Là những môn đệ của Chúa Kitô, chúng ta có thể làm gì để giải quyết cuộc khủng hoảng này?

Có một câu chuyện tôi đọc được trên báo kể về trường hợp của một chị phụ nữ khiến tôi cảm thấy thật xót xa. Chị lấy chồng được một người con thì chồng bỏ đi. Giờ với đồng lương quá thấp không đủ nuôi con, chị đã tìm đến với cái chết. Chị không những muốn kết thúc cuộc đời của chị mà cả đứa con nhỏ nữa. Chị đã cho nó uống thuộc độc để cả hai mẹ con cùng đi về thế giới bên kia của loài người. Cái chết như là giải pháp cuối cùng để chấm dứt khủng hoảng. Tôi hình dung ra nhiều người cũng đang rơi vào hoàn cảnh tuyệt vọng. Cũng giống như trường hợp của Gióp trong bài đọc thứ nhất hôm nay. Ông nhìn vào cuộc đời và chỉ thấy một màu xám ngắt. Chẳng có chi hạnh phúc. Chẳng thấy một tia hy vọng. Chúng ta hãy nghe những lời lẽ của Gióp:

Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy ĐỨC CHÚA, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ (G 7, 6-7)

Con người khi đứng trước cuộc đời nhiều bất công và đau khổ thường hay có thái độ hoặc là muốn chấm dứt cuộc đời, hoặc là để mặc cuộc đời trôi dạt về đâu. Thế nhưng tất cả những thái độ đó đều không phù hợp với Tin Mừng của Chúa Kitô. Bài tin mừng hôm nay cho tôi một tia sáng để tìm ra một giải pháp cho cuộc khủng hoảng, một hướng đi cho cuộc đời.

Chiêm ngắm Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay, tôi thấy dường như Chúa nói với tôi rằng hãy sống tích cực con ạ. Đừng ngồi đó mà than thân trách phận. Đừng ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối. Đừng thất vọng đến mức tự hủy hoại đời mình. Làm như thế là hèn lắm. Sống mới khó còn chết thì dễ thôi con ạ. Hãy thắp lên một ngọn nến để soi tỏ đường con đi và cho người khác cùng đi. Ta hãy xem Chúa Giêsu làm gì trong một ngày sống. Một ngày của Chúa thật bận rộn. Người tới Hội đường giảng dạy. Giảng xong, Người tới chữa bệnh cho bà mẹ vợ của Simon Phêrô. Chiều tối, Người lại chữa đủ thứ bệnh hoạn tật nguyền. Rồi sáng sớm tinh sương, Người đã thức dậy cầu nguyện. Và khi các môn đệ đi tìm Chúa, Người nói với họ tiếp tục lên đường để loan Tin Mừng cho những thành khác. Chúa dường như không có giờ để nghỉ ngơi, không có giờ để mà buồn chán. Người chữa lành những vết thương cả thể xác lẫn tâm hồn của con người. Người muốn đem lại cho con người niềm vui và hạnh phúc. Tất cả những ai gặp được Người đều được chữa lành. Chúa cũng bảo với tôi: con hãy đi và làm như vậy. Nhưng trước khi lên đường, Người bảo tôi hãy cầu nguyện. Hãy dành những giây phút đầu ngày và cuối ngày để ngước nhìn lên cao. Hãy thinh lặng để sức mạnh của Chúa đổ đầy vào trái tim ta. Tự sức ta sẽ chẳng làm được việc gì. Tôi tự hỏi tại sao những môn đệ của Chúa ngày hôm nay không đủ sức chữa lành, không đủ sức xoa dịu những nỗi đau của người xung quanh? Và câu trả lời đó là vì họ thiếu cầu nguyện.

Nhìn ra thế giới xung quanh, tôi cũng thấy tương tự như vậy. Con người chỉ lo đi tìm kiếm vật chất, còn linh hồn thì không được quan tâm đủ mức. Truyền thống của cha ông ta thật sâu sắc. Ngày tết có cả bánh chưng và bánh dày. Bánh chưng tượng trưng cho đất, còn bánh dầy tượng trưng cho Trời. Trời tròn đất vuông theo quan niệm dân gian. Cha ông ta muốn dạy chúng ta rằng con người đầu đội trời, chân đạp đất nên luôn phải có đủ hai yếu tố đó. Trong khi mưu sinh, phải lo tìm kiếm những gì thuộc cõi trời cao. Con người không chỉ là một mớ vật chất mà còn có một chiều sâu tâm linh thăm thẳm. Và để nuôi dưỡng cái chiều sâu ấy, ta chỉ có một con đường là chìm vào cõi lặng. Hãy nhìn Chúa Giêsu trong Tin Mừng hôm nay mà học đòi bắt chước. Từ sáng sớm, Người đã chìm vào cõi lặng. Ở đó, ta gặp được chính nguồn mạch sự sống và bình an. Từ nguồn mạch ấy, ta sẽ có đủ sức mạnh để lên đường. Ta sẽ sống một cách tích cực và phong phú hơn. Ta sẽ có thể chữa lành những nỗi đau nơi tâm hồn và thể xác của tha nhân. Xung quanh ta, cuộc khủng hoảng đang bao trùm. Là môn đệ của Chúa, ta được mời gọi hãy làm một cái gì đó. Hãy làm một cái gì đó, nhỏ thôi, đi từ tình thương yêu con người. Hãy bắt đầu! Đừng chờ đợi bởi ta sẽ không biết phải đợi đến bao giờ.

Lạy Chúa, xin cho con có thái độ sống tích cực, để con có thể đem Tin Mừng tình yêu của Chúa đến cho mọi người bởi vì như Thánh Phaolô nói trong bài đọc 2 hôm nay: “Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng” (1Cr 9,17).

Về mục lục

ĐỠ DẬY

Lm Vũđình Tường

Cùng đi với Đức Kitô có ông Gicacôbe and Gioan, thăm gia đình mẹ vợ ông Simon. Bà bị bệnh sốt liệt giường. Đức Kitô cầm tay bà nâng bà dậy và bệnh sốt liền biết mất, và bà phục vụ Đức Kitô và phái đoàn. Việc bà phục vụ các ngài cho biết tình trạnh bệnh tật của bà biến mất, bà khỏi hẳn, mạnh khoẻ như trước. Bà không cần phải nghỉ, tỉnh dưỡng, cho lại sức, nhưng có thể làm việc ngay. Có lẽ bà là người nấu ăn ngon nhất nhà, và bà đã làm công việc chuẩn bị bữa ăn cho toàn gia đình. Đức Kitô coi trọng việc phục vụ tha nhân, Ngài coi đây là một trong những công việc mục vụ chính trong cuộc đời Ngài công khai rao giảng. Chính Ngài xác nhận, ‘Ta đến để phục vụ, chứ không phải để được phục vụ’ Mk 10,45. Phục vụ trở thành ‘biểu tượng’ môn đệ Đức Kitô. Biểu tượng này giúp người ta nhận biết các ngài môn đệ Đức Kitô. Các ngài tự nguyện phục vụ tha nhân.

Từ ‘nâng dậy, đỡ dậy’ đóng một vai trò quan trọng trong lịch sử cứu độ. Nhân loại sa ngã do tội bất phục tòng gây nên thời tổ phụ Adong. Đức Kitô xuống thế, giải thoát, nâng con người lên, trở về tình trạng nguyên thủy, thời khởi đầu Chúa tạo dựng con người. Những ai tin theo, Đức Kitô ban cho cuộc sống mới, biến họ trở thành Kitô hữu. Ngài nâng đỡ từng người một và cuối cùng cứu độ, nâng toàn thể nhân loại đứng dậy, làm hoà cùng Thiên Chúa.

Một hôm có viên sĩ quan tên Jairus đến xin Đức Kitô chữa bệnh cho con gái ông đang hấp hối tại nhà. Khi ông còn đang nài van thì người nhà đến báo tin buồn là. Đừng làm phiền Đức Kitô nữa, con gái ông đã chết. Đức Kitô an ủi ông, ‘Đừng sợ, vững lòng tin thì sẽ được’ Mk 5,36. Ngài vào nhà ông, ‘Người cầm lấy tay nó và nói. Này bé, Thầy truyền cho con trỗi dậy’ Mk 5,41. Cháu bé đứng dậy đi lại bình thường như chưa hề mắc bệnh. Đức Kitô ban cho cháu bé cuộc sống mới, bởi lòng tin vững chắc của cha cô. Chính Đức Kitô cũng chỗi dậy từ cõi chết sau ba ngày chôn cất trong mồ. Đức Kitô đỡ con người dậy, còn chính Ngài thì Ngài chỗi dậy, không cần ai nâng dậy.

Đoạn Phúc Âm hôm nay cho biết Đức Kitô nâng bà mẹ vợ ông Simon dậy mang í nghĩa thể chất, và í nghĩa tâm linh. Về phương diện thể chất, bà hoàn toàn bình phục. Về phương diện tâm linh, bà trở thành môn đệ Đức Kitô. Có lẽ bà là người phụ nữ đầu tiên trở thành môn đệ Đức Kitô. Điều này thể hiện qua việc bà hãnh diện được phục vụ Đức Kitô và phái đoàn. Tâm hồn bà hân hoan, tràn ngập niềm vui vì được hạnh phúc đón Đức Kitô vào trong gia đình bà. Đây là một thiên ân Đức Kitô dành riêng cho gia đình mẹ vợ ông Simon. Từ một bệnh nhân thành người mạnh khoẻ, từ kẻ xa lạ trở thành thân hữu trong nhóm của Đức Kitô, từ một người ít ai biết đến bà trở thành người toàn thế giới biết đến về hành động bác ái. Về cuối đời bà còn được Đức Kitô đón nhận vào nước Thiên Chúa hằng sống. Đức kitô có hai nhóm môn đệ. Nhóm thứ nhất cùng Ngài đi nơi này, nơi khác, nghe Ngài giảng dậy và chữa bệnh. Nhóm thứ hai là các môn đệ không cùng đi đây đó với Đức Kitô nhưng ở tại nơi họ đang sống. Đại đa số chúng ta thuộc nhóm thứ hai.

Bệnh tật gây khổ đau cho con người, nhất là những gia đình nghèo khó. Khi có người nhà mắc bệnh, tình trạng kinh tế gia đình khủng hoảng, chạy tiền, mang công, mượn nợ có tiền chạy thuốc. Người đó đã không tiếp tục sinh hoạt bình thường, còn cần người mạnh khoẻ chăm sóc. Mọi sinh hoạt từ gia đình, đến xóm làng, đến cộng đoàn đều đình trệ. Đôi khi bệnh nguy hiểm còn tạo nên mối lo cho toàn làng.

Chữa bệnh và khai trừ ma quỷ là hai công việc Đức Kitô thực hiện trong lúc rao giảng. Khi chữa bệnh cho ai, Đức Kitô đụng chạm vào người đó. Tuy nhiên khi trừ ma quỉ, Đức Kitô không đụng chạm đến, nhưng ra lệnh cho ma quỉ xuất khỏi người và chúng vâng phục Ngài. Dù Ngài không đụng chạm đến ma quỉ mà kẻ chống đối Ngài cũng có lần khoác lác, ma quỉ vâng phục Đức Kitô vì Ngài là tướng quỉ. Điều vu khống, bịa đặt trên hoàn toàn do tưởng tượng mà ra, không hề có một chút sự thật nào. Đức Kitô đã không đụng chạm đến ma quỉ và Ngài còn ngăn cấm chúng không được mở miệng. Xua đuổi ma quỉ chỉ là bước đầu trong chương trình cứu độ. Bước cuối cùng là tiêu diệt sức mạnh đen tối của chúng. Chính ma qủi nhận biết điều này nên chúng than khóc, kêu la,‘Ông Giesu Nazareth, chuyện chúng tôi can gì đến ông, mà ông đến tiêu diệt chúng tôi’ Mk 1,24.

Đức Kitô loan báo ‘Nước Trời đã đến gần’. Nước trời đến gần là tin vui, tin khải hoàn, chiến thắng cho môn đệ Đức Kitô, và những ai yêu mến Ngài. Nước trời đến gần lại là tin buồn, tin chết, cho ma quỉ, chúng sắp bị tiêu diệt. Nước trời đến gần lại gây khủng hoảng, thất vọng cho những kẻ chống đối Đức Kitô.

Là môn đệ Đức Kitô chúng ta chung lời cảm tạ ơn trường sinh Ngài ban, và cùng giúp nhau tiến về nhà Cha khi cuộc đời trần thế hoàn tất.

Về mục lục

MỘT NGÀY MỚI

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Ngày ra mắt tại hội đường ở Caphanaum, Chúa Giêsu đã biểu lộ uy quyền trong lời giảng dạy và chứng tỏ quyền năng trong việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ. Sau đó, ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu đi về nhà ông Simon. Ở đây, bà mẹ vợ ông Simon đang bị cơn sốt nên nằm liệt giường. Lập tức họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. “Người lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy”. Cách xử sự của Chúa Giêsu hoàn toàn khác khi đuổi thần ô uế; Ngài ân cần “lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy”. Hiệu quả tức khắc: “cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”. Uy quyền của Chúa Giêsu không chỉ biểu lộ trong hội đường mà ngay trong nhà, không chỉ đuổi thần ô uế mà xua tan được cả cơn sốt.

Tiếng vang truyền đi rất nhanh. Đoạn kết Tin Mừng tuần trước: “lập tức danh tiếng Người đồn ra mọi nơi, khắp cả vùng lân cận miền Galilê”.Vì thế “người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người. Cả thành xúm lại trước cửa. Đức Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng không cho quỷ nói, vì chúng biết Người là ai”.

Chúa Giêsu như bị cả một đoàn người đau thương và bần khốn vây quanh; họ đặt niềm hy vọng nơi Ngài. Và Ngài đã ra tay giúp đỡ.Vì thế, dân chúng muốn giữ Ngài lại để luôn luôn họ có sự trợ giúp của Ngài. Nhưng Chúa Giêsu không để cho người ta cầm giữ lại. Ngài biết rằng nhiệm vụ của mình không phải là trợ giúp thường xuyên dân Caphácnaum, nhưng là loan báo trong toàn miền Galilê rằng Triều Đại Thiên Chúa đã gần kề.

  1. Một Ngày Mới

“Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Người đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó”.

Bắt đầu một ngày mới. Ưu tiên số một của Chúa Giêsu là cầu nguyện, sau đó là công việc rao giảng và chữa lành bệnh tật cho dân chúng. Đó là khuôn mẫu cho tất cả các môn sinh trong nhịp sống thường ngày.

a/ Cầu nguyện:

“Sáng sớm, Chúa Giêsu tìm nơi thanh vắng cầu nguyện”. Suốt ngày lo toan với bao nhiêu là công việc, tiếp xúc đủ thứ hạng người, Chúa Giêsu dành buổi sáng tinh mơ để tâm sự trao đổi với Cha. Cầu nguyện là nhu cầu thật sự của Chúa Giêsu. Ngài cần có thời gian sống riêng tư một mình. Ngài cần sống bên Cha, tâm sự về gánh nặng công việc, về nỗi đau khổ của loài người, về cuộc chiến chống Satan. Ngài thấy mình cần được Cha cảm thông và nâng đỡ, cần ánh sáng và nghị lực để làm tròn sứ mạng. Ngài cầu nguyện vì yêu mến, khao khát được kết hiệp với Cha. Một ngày mới khởi đầu như thế để múc nguồn sức mạnh cho hoạt động truyền giáo.

b/ Rao giảng

Việc quan trọng thứ hai là rao giảng Tin mừng “Ngày Sabát, Chúa Giêsu vào hội đường giảng dạy” (1,21). Người  đọc Sách Thánh và giải nghĩa: “Thiên hạ sửng sốt về lời giảng dạy của Người, vì Người giảng dạy như một Đấng có uy quyền” (1,22). Cả phương pháp và bầu khí giảng dạy của Ngài đều như một sự mạc khải mới mẻ. Chúa giảng với một uy quyền vượt xa các luật sĩ kinh sư thời đó. Chúa giảng như Đấng có thẩm quyền của chính Thiên Chúa tối cao. Chúa hoàn toàn độc lập khi giảng dạy. Ngài không trích dẫn, không dựa vào thế giá một chuyên viên nào. Vì thế, giáo lý của Chúa mới mẻ, người nghe đón nhận như luồng gió mát dịu từ thiên đàng thổi tới, lòng người cảm mến hân hoan, tâm hồn rộng mở hướng về trời cao với Chúa Cha.

c/ Chữa lành thể xác tâm hồn.

Lời giảng dạy thể hiện bằng hành vi yêu thương. Lời nói đi đôi với việc làm. Đó chính là yếu tố làm cho lời nói có sức thuyết phục: “Ra khỏi hội đường, Chúa Giêsu vào nhà ông Simon… Bà nhạc của ông Simon đang bị sốt. Chúa Giêsu đến bên giường, cầm tay bà mà đỡ dậy; cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài”. Chúa Giêsu làm một cử chỉ thân ái là cầm lấy tay bà và nâng dậy, như có lần Người cầm tay đứa con gái ông trưởng hội đường, một cô bé mười hai tuổi đã chết lại đứng dậy được (Mc 5,41), lần khác Người cầm tay cậu bé bị động kinh nằm trên đất, nâng cậu dậy và cho cậu đứng lên (Mc 9,27).

“Chiều đến, khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Căn nhà ông Simon nhỏ hẹp, các bệnh nhân phải đứng thành nhiều vòng bên ngoài chờ đợi đến lượt mình. Tất cả đều được Chúa chữa lành.

Tác giả Thánh vịnh trong bài đáp ca cũng có cùng một cảm nghiệm đó khi nói: “Chính Người chữa những kẻ dập nát tâm can, và băng bó vết thương tâm của họ”. Thánh Phêrô trong sách Công vụ Tông đồ cũng đã làm chứng: “Đi tới đâu là Người thi ân giáng phúc tới đó, và chữa lành mọi kẻ bị ma quỷ kiềm chế, bởi vì Thiên Chúa ở với Người” (Cv 10,38).

Bệnh tật đeo đuổi con người như hình với bóng. Người ta tìm ra phương cách chữa được bệnh này thì bệnh khác lại xuất hiện. Càng ngày nhiều căn bệnh mới càng khó trị và bất trị cho dù y học hiện đại tiến bộ vượt bậc. Chúa Giêsu đụng chạm đến biển khổ của nhân loại. Ngài không mong múc cạn, chỉ mong làm vơi đi, chỉ mong cùng chia sẻ và ban cho nó một ý nghĩa.

  1. Chúa Giêsu tiếp tục lên đường

Sau một ngày thành công tại Capharnaum với việc giảng dạy, chữa lành bệnh tật và xua trừ ma quỷ, Chúa Giêsu nhận được sự khen ngợi và kinh ngạc của dân thành. Người ta muốn giữ Chúa Giêsu lại cho họ. Thế nhưng Ngài phải lên đường để tiếp tục sứ vụ theo thánh ý Cha: “Hãy  đi  đến những làng, những thành lân cận”. Đây mới là trọng tâm của sứ mạng. Ngài đến không phải để tìm thành công mà để rao giảng Tin Mừng. Ngài không chỉ đến lo cho một số người, mà cho mọi người. Ngài thuộc về mọi người không trừ ai. Chúa Giêsu biết rằng nhiều nơi khác cũng đang rất cần sự hiện diện yêu thương của Ngài. Như thế, tình thương bao giờ cũng là sự thúc đẩy lên đường và biết mở rộng con tim cho hết mọi người mà không dừng lại ở những vinh quang ca tụng. Do đó, không ai được quyền chiếm hữu và giữ riêng Chúa Giêsu, nhưng có sứ mạng đem Chúa đến cho mọi người.

  1. Cầu nguyện thế nào thì sống như vậy”

Khởi đầu ngày mới bằng cầu nguyện, Chúa Giêsu tìm kiếm và nhận ra thánh ý Chúa Cha muốn gì cho đời sống hoạt động tông đồ của mình. Ngài nhận ra con đường mà Chúa Cha muốn Ngài đi và những công việc mà Chúa Cha muốn Ngài thực hiện. Chính qua việc cầu nguyện, gặp gỡ với Chúa Cha, Chúa Giêsu như tiếp thêm năng lượng cho sứ vụ. Kết thúc một ngày làm việc bằng cầu nguyện, Chúa Giêsu lại đặt trọn công việc đã làm và cả ngày sống của mình cho Thiên Chúa Cha.

Một ngày sống của Chúa Giêsu đầy ắp những hoạt động vì con người, nhưng cũng không thiếu những phút giây sâu lắng bên Chúa Cha. Hoạt động và cầu nguyện là hai nhịp luôn đong đưa, hòa quyện, làm thành cuộc sống sung mãn của Chúa Giêsu nơi thế trần. Một ngày làm việc của Ngài với bao vất vả, nhọc nhằn nhưng lại làm vơi đi đau khổ và đem niềm vui đến cho nhiều người. Theo gương Chúa Giêsu, mỗi người Kitô hữu cũng được mời gọi hãy biết sử dụng thời gian sống của mình cách hữu ích cho bản thân qua việc gắn bó với Chúa, dành thời gian cầu nguyện với Chúa; đó là động lực để thúc đẩy chúng ta dùng thời gian có ích cho tha nhân bằng đời sống yêu thương và phục vụ.

Một ngày mới của Chúa Giêsu đều đầy ắp niềm vui cầu nguyện và hoạt động. Đó chính là khuôn mẫu cho mọi tín hữu.Tông Huấn Giáo Hội tại Á Châu nói đến đời sống cầu nguyện và hoạt động của mọi tín hữu: Muốn có một đời sống Kitô hữu đích thực, mọi người cần xác tín rằng: việc truyền giáo vừa là một hoạt động có chiêm niệm, vừa là một chiêm niệm có hoạt động (số 23). Sách Giáo Lý Hội Thánh Công Giáo xác định: “cầu nguyện thế nào thì sống như vậy” (số 2725).

Các phóng viên rất thắc mặc tại sao Mẹ thánh Têrêsa Calcutta lại có thể làm được những việc mà nhiều người khác không thể làm được ? Ngay từ sáng sớm cho đến chiều tối, có những ngày quên ăn quên ngủ, Mẹ Têrêsa cùng với các chị em trong Dòng đã đi khắp hang cùng ngõ hẻm của thành phố Calcutta để tìm kiếm những người đau yếu, bệnh tật, bị bỏ rơi. Có nhiều lần Mẹ đem về nhà những người nằm dưới cống hoặc bị bỏ bê lâu ngày hôi thối, bẩn thỉu, bị mọi người tránh xa. Mẹ ôm những người ấy vào lòng, đem về đặt trên gường của mình để săn sóc. Mẹ giải thích : Vì tôi muốn họ được chết như một con người chứ không như con vật. Khi được hỏi tại sao Mẹ và các chị em của mẹ có thể làm được như thế ? Mẹ trả lời : Một ngày của chúng tôi được bắt đầu từ Thánh lễ. Chính từ Thánh Thể, chúng tôi có nguồn sức mạnh và có nguồn năng lượng cho một ngày làm việc. Các chị em trong Dòng chúng tôi mỗi ngày có ít nhất một giờ bên Thánh Thể Chúa, đó là sức mạnh cho chúng tôi. Cuộc sống thiêng liêng của người tín hữu cần phải được thường xuyên nạp năng lượng thì mới có thể sống và hoạt động tốt được.

Một ngày sống khởi đầu với kinh nguyện, thánh lễ, chúng ta được gia tăng lòng Tin Cậy Mến, nhờ đó mà nhiệt thành làm mọi việc trong ngày sáng danh Chúa.

Về mục lục

SỐ KIẾP LẬN ĐẬN

Trầm Thiên Thu

Kiếp Thế Nhân Lắm Gian Truân Khốn Khổ

Tình Thiên Chúa Hằng Bổ Dưỡng Yêu Thương

Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Còn người ta có câu nói “cửa miệng” thế này: “Đời là bể khổ.” Thật vậy, ai cũng cất tiếng khóc chào đời khi sinh ra. Chào đời là vui mà không cười, sao lại khóc? Phải chăng “định mệnh” đã an bài như phần cứng đã cài mặc định?

Thánh Vịnh gia đã than thở: “Bước đường con lận đận, chính Ngài đã đếm rồi. Xin lấy vò mà đựng nước mắt con.” (Tv 56:9) Nước mắt quá nhiều, khăn thấm không hết mà phải lấy vò đựng, chắc chắn như thế thì khổ lắm!

Là một hoàng tử sống sung sướng an nhàn, nhưng ông Thích Ca Mâu Ni đã “giác ngộ” sau khi quan sát bốn cửa thành và thấy người dân đau khổ quá. Ông nhận thức: “Sinh là khổ, lão là khổ, bệnh là khổ, và tử là khổ.” Phật giáo có bốn chân lý cao cả làm nền tảng, đó là Tứ Diệu Đế hoặc Tứ Thánh Đế: Khổ đế (chân lý về sự đau khổ), Tập đế (chân lý về sự phát sinh đau khổ), Diệt đế (chân lý về sự diệt khổ), và Đạo đế (chân lý về đường dẫn tới sự diệt khổ).

Hằng ngày, đau khổ y như ma quỷ, cứ “ám” chúng ta không ngừng. Nhưng hơn thua nhau ở cách xử lý: “Người khôn ngoan là người học được những sự thật này: Rắc rối là tạm thời, thời gian là thuốc bổ, đau khổ là ống nghiệm. Người bi quan phàn nàn về cơn gió. Người lạc quan hy vọng gió đổi chiều. Người thực tế tìm cách chỉnh cánh buồm.” (William Arthur Ward, 1921-1994, Mỹ) Dù sao cũng phải cố gắng, chắc chắn không thể tránh né!

Thật vậy, nỗi khổ bao vây tứ phía, mở mắt ra là thấy khổ, khổ suốt ngày cho tới khuya, đôi khi nằm ngủ cũng chưa yên. Vì thấy khổ quá nhiều, Chúa Giêsu đã luôn chạnh lòng thương khi người ta chịu “vòng kim cô” đau khổ. Đau khổ xuất hiện mọi nơi: Ở trên, ở dưới, ở trước, ở sau, ở bên phải, ở bên trái. Chẳng tránh đâu cho khỏi, càng tránh thì càng đau khổ, càng diệt khổ càng thấy khổ. Muốn tránh khổ, chỉ có cách “đi xuyên qua nó,” tức là coi nó như không có, sẵn sàng chấp nhận nó: “Ai muốn theo Thầy, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo.” (Mt 16:24; Mc 8:34; Lc 9:23)

Đau khổ là mầu nhiệm. Mặc dù không tỳ vết tội lỗi, nhưng Chúa Giêsu vẫn phải chịu đau khổ. (Mt 16:21; Mt 17:22; Mc 8:31; Lc 9:22; Lc 17:25) Ngài chịu đau khổ để cứu độ nhân loại. Đau khổ của chúng ta cũng có giá trị nếu kết hợp với đau khổ của Ngài.

Từ khi Nguyên Tổ nghe lời đường mật của xà tinh, mọi nơi và mọi lúc đều thấy có đau khổ. Thiên Chúa thấy sự ác lan tràn mặt đất nên Ngài buồn rầu. (St 6 :5-6) Ngài không tạo điều ác bởi vì Ngài tốt lành, từ bi và nhân hậu, chính dục vọng của con người gây ra sự dữ – tội lỗi, và tội lỗi sinh ra cái chết. (x. Gc 1:13-15) Đó là quy trình của đau khổ trên thế gian này. Tại mình chứ chẳng tại ai!

Mdc rất tốt lành, nhưng ông Gióp vẫn chịu đau khổ, và là hiện thân của đau khổ. Ông nhận xét: “Cuộc sống con người nơi dương thế chẳng phải là thời khổ dịch sao? Và chuỗi ngày lao lung vất vả đâu khác gì đời kẻ làm thuê? Tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công; cũng thế, gia tài của tôi là những tháng vô vọng, số phận của tôi là những đêm đau khổ ê chề. Vừa nằm xuống, tôi đã nhủ thầm: ‘Khi nào trời sáng?’ Mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: ‘Bao giờ chiều buông?’ Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng!” (G 7:1-4) Con người cứ thao thức cả đời, hầu như không được thảnh thơi, rồi lại lo sợ, rồi hoang mang,… Cứ thế và cứ thế, kiếp người chịu đủ thứ đọa đày, lận đận suốt kiếp. Cây muốn lặng mà gió chẳng chịu ngừng. Đúng là khổ thật!

Có vẻ như ông Gióp cảm thấy thất vọng, rồi hầu như tuyệt vọng, nhưng ông vẫn cầu xin tha thiết: “Ngày đời tôi thấm thoát hơn cả thoi đưa, và chấm dứt, không một tia hy vọng. Lạy Đức Chúa, xin Ngài nhớ cho, cuộc đời con chỉ là hơi thở, mắt con sẽ chẳng thấy hạnh phúc bao giờ.” (G 7:6-7) Buồn quá! Não nuột quá! Thê thảm quá! Tuy nhiên, chịu đau khổ mà lại là may, vì sung sướng quá có thể hóa rồ dại, có thể còn tệ hại hơn là chịu đau khổ.

Con người nhiêu khê lắm. Cái mình bảo là hên nhưng có khi lại chỉ là xui, cái mình cho là xui lại có thể là hên, giống như Tái Ông mất ngựa vậy. Tất cả đều là Thánh Ý Chúa nhiệm mầu, chúng ta không thể hiểu thấu. Thế nên chúng ta phải tạ ơn Ngài mà thôi. Thánh Vịnh gia mời gọi: “Hãy ca ngợi Chúa đi! Đàn hát mừng Thiên Chúa chúng ta, thú vị dường nào! Được tán tụng Người, thoả tình biết mấy! Chúa là Đấng xây dựng lại Giêrusalem, quy tụ dân Israel tản lạc về.” (Tv 147:1-2)

Là Đấng giàu lòng thương xót, Thiên Chúa đã từng mủi lòng và bật khóc khi thấy người khác chịu mất mát, đau khổ. (Lc 11:35) Và Kinh Thánh xác định: “Người chữa trị bao cõi lòng tan vỡ, những vết thương, băng bó cho lành. Người ấn định con số các vì sao, và đặt tên cho từng ngôi một. Chúa chúng ta thật là cao cả, uy lực vô biên, trí tuệ khôn lường! Kẻ thấp hèn, Chúa nâng đỡ dậy, bọn gian ác, Người hạ xuống đất đen.” (Tv 147:3-6) Thiên Chúa của chúng ta luôn động lòng trắc ẩn, nhất là đối với những người hèn mọn. Là người đời bình thường mà người ta còn biết nhận xét: “Cánh cửa này khép lại, cánh cửa khác mở ra.” Chắc chắn không ai phải cùng đường hoặc bí lối giữa mê cung đau khổ suốt đường lữ hành hằng ngày.

Thánh Phaolô vẫn kiên trì trong mọi gian khổ và tự nhủ: “Đối với tôi, rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (1 Cr 9:16) Không làm điều đó thì khốn, nhưng nếu làm điều đó thì phúc. Ông lý luận: “Tôi mà tự ý làm việc ấy thì mới đáng Thiên Chúa thưởng công; còn nếu không tự ý thì đó là một nhiệm vụ Thiên Chúa giao phó. Vậy đâu là phần thưởng của tôi? Đó là khi rao giảng Tin Mừng, tôi rao giảng không công, chẳng hưởng quyền lợi Tin Mừng dành cho tôi. Phải, tôi là một người tự do, không lệ thuộc vào ai, nhưng tôi đã trở thành nô lệ của mọi người, hầu chinh phục thêm được nhiều người.” (1 Cr 9:15-19) Chấp nhận và tự nguyện làm nô lệ tức là chấp nhận và tự nguyện chịu đau khổ. Kiểu “ngược đời” rất độc đáo!

Nói và làm thật, chứ không nói suông. Thánh Phaolô chia sẻ: “Tôi đã trở nên yếu với những người yếu, để chinh phục những người yếu. Tôi đã trở nên tất cả cho mọi người, để bằng mọi cách cứu được một số người. Vì Tin Mừng, tôi làm tất cả những điều đó, để cùng được thông chia phần phúc của Tin Mừng.” (1 Cr 9:22-23) Can đảm thì chắc chắn có phúc.

Có bốn “mũi dùi” luôn chĩa vào con người là Sinh, Lão, Bệnh, Tử. Lận đận mà không than thân trách phận thì người đó thực sự can đảm, có “sức mạnh” hơn người khác. Trình thuật Mc 1:29-39 (Mt 8:14-17; Lc 4:38-44) nói về việc Chúa Giêsu diệt trừ một trong bốn “mũi dùi” đó.

Khi Chúa Giêsu ra khỏi hội đường Caphácnaum và đi đến nhà hai ông Simôn và Anrê, cùng đi còn có ông Giacôbê và ông Gioan. Đó là hai “cặp bài trùng” được Chúa Giêsu gọi làm môn đệ đầu tiên. Hôm đó, nhạc mẫu của ông Simôn đang lên cơn sốt, nằm trên giường. Họ nói cho Ngài biết tình trạng của bà. Ngài lại gần, cầm lấy tay bà mà đỡ dậy. Lạ thay, cơn sốt dứt ngay và bà phục vụ các ngài. Thật tuyệt vời đối với cả người chữa lành và người được chữa lành.

Tin tức được người ta đồn rất nhanh. Khi mặt trời đã lặn, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những người bị quỷ ám đến cho Ngài. Thánh sử Máccô cho biết rõ ràng: “Cả thành xúm lại trước cửa.” Ôi, thế thì đông lắm, đông như kiến như cỏ, chắc chắn ai cũng muốn chứng kiến “sự lạ” tận mắt. Hôm đó, Chúa Giêsu chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật, và trừ nhiều quỷ, nhưng Ngài cấm quỷ nói, vì chúng biết Ngài là ai. Ngài không cho quỷ tiết lộ bí mật vì chưa đến lúc, chưa cần thiết.

Sáng sớm hôm sau, lúc trời còn tối mịt, Ngài đã dậy, đi ra một nơi hoang vắng và cầu nguyện ở đó. Hành động của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta rằng cầu nguyện là việc làm thực sự rất cần thiết, nhất là khi mới thức dậy vào buổi sáng. Không thấy Thầy đâu, ông Simôn và các bạn cùng đi tìm. Khi gặp Ngài, các ông thưa: “Mọi người đang tìm Thầy đấy!” Ôi, tìm làm gì mà sớm vậy nhỉ?

Chúa Giêsu nghe đệ tử nói vậy thì nói với họ: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó.” Chúa Giêsu luôn quan tâm và chú trọng việc cầu nguyện và hành động. Ngài với các môn đệ đi khắp miền Galilê, rao giảng trong các hội đường và trừ quỷ. Ngài diệt khổ cho những người đang phải chịu khổ. Chỉ có Thiên Chúa mới làm được điều đó.

Con người chẳng là gì nhưng lại rất chảnh – vừa hợm mình vừa giả hình, thế nên cứ tự chuốc lấy những thứ sai lầm. Vì sai lầm mà phạm tội, vì tội lỗi mà đau khổ. Cứ lận đận, lụi đụi thế mà vẫn cố chấp. Kinh Thánh cho biết: “Có sáu điều làm Đức Chúa gớm ghét, có bảy điều khiến Ngài ghê tởm: Mắt kiêu kỳ, lưỡi điêu ngoa, tay đổ máu người vô tội, lòng mưu tính những chuyện xấu xa, chân mau mắn chạy đi làm điều dữ, kẻ làm chứng gian thốt ra lời dối trá, người gieo xung khắc giữa anh em.” (Cn 6:16-19) Khi nào tránh được ảo tưởng thì không bị ảo giác, nghĩa là chúng ta thoát sai lầm, không sai lầm thì không vướng tội, tránh được tội thì khỏi khổ. Mong thay!

Chịu đau khổ là vác thập giá, chịu đau khổ để thông phần đau khổ với Đức Kitô, để đền tội của chính mình và đền tội thay cho người khác. Cuộc đời các thánh cho chúng ta thấy rằng cuộc đời các ngài rất lận đận, từng đau khổ nhiều – tinh thần hoặc thể lý, hoặc cả hai dạng. Như vậy, đau khổ là điều kỳ diệu. Đau khổ càng lớn thì hạnh phúc càng nhiều. Đau khổ có giá trị đặc biệt!

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp con ý thức và nhận thức để biết giá trị của đau khổ. Con không xin thoát khỏi đau khổ nhưng xin Ngài đừng bỏ mặc con trong đau khổ, xin tăng lực cho con, vì sáng danh Ngài, để cứu các linh hồn, cầu cho Giáo Hội, cho thế giới, cho mọi người, và đền tội con. Xin giúp con sống đúng bổn phận và can đảm hành động theo khả năng Ngài ban cho. Con chân thành cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

SỐNG HẾT MÌNH

Lm. Jos DĐH.

Truyện cổ “Cây tre trăm đốt”, là một minh chứng: sự thiện thắng sự ác. Anh nông dân hiền lành chất phác, mẹ cha mất sớm, nhà phú hộ xí dụ anh đến làm người giúp việc cho ông. Ông phú hộ lợi dụng người đầy tớ tốt lành, ông hứa sẽ gả con gái cho, nếu mày chăm chỉ làm việc. Ngày qua ngày, anh nông dân làm việc “cật lực” từ sáng tới tối, không lương bổng, bữa no bữa đói, hết sức tội nghiệp. Cho đến một ngày kia, ông gả con gái cho nhà phú hộ ở làng bên cạnh, ông gọi anh đầy tớ và bảo: mày hãy rừng sâu tìm cho ta “cây tre trăm đốt” mang về đây, ta sẽ gả con gái ta cho. Người nông dân thật thà lên rừng tìm kiếm cây tre như ý chủ, nhưng không thể tìm thấy, tủi thân, anh ta chỉ biết khóc mà thôi. Bụt thần đã hiện ra, cho anh ta một câu thần chú, giúp anh hóa giải mọi việc. Đúng là câu truyện được xây dựng trên nền tảng đạo đức: thánh nhân đãi kẻ khù khờ, cũng có ý mời gọi mọi người hãy sống hết mình.

Đồng ý rằng, người xưa đã hết sức cẩn thận khi khuyên dạy con cháu: trèo cao ngã đau, hoặc liệu cơm gắp mắm. Thực tế ở xã hội, người chăm chỉ, nhẫn nại, ít nhiều vẫn có quyền mơ tới một kết quả đẹp nhất như câu thành ngữ: trời nào có phụ ai đâu, hay học thì sang, hay làm thì có. Câu truyện cổ “Cây tre trăm đốt”, ở hiền gặp lành, người ta sống hết tình hết mình, dù không có danh cũng có phận. Với sự đơn sơ chân thành, thánh sử Marcô diễn tả một ngày làm việc của Đức Giêsu thật bận rộn. “Đức Giêsu ra khỏi hội đường, Người đến nhà Simon và Anrê chữa cảm sốt cho bà nhạc gia của họ. Đến chiều muộn, họ vẫn mang nhiều người, nhiều thứ bệnh khác nhau, Đức Giêsu chữa cho họ, xua trừ tà thần, sáng sớm Ngài đến nơi thanh vắng cầu nguyện…”. Vâng, tất cả vì yêu, vì tất cả đều là đối tượng lòng thương xót Chúa.

Một trong những nét đẹp của tình yêu là không tính toán hơn thiệt, không mưu cầu lợi ích cá nhân, dù người ta có chú trọng đến hạnh phúc hiện tại, tương lai, họ vẫn kính nể những ai dám dấn thân phục vụ không màng danh lợi thú. Xét về mặt tự nhiên, đại đa số người ta tìm gặp Đức Giêsu vì được ăn, được nghe, được chữa lành bệnh tật, muốn được xem thấy phép lạ, về mặt tâm linh, vì tình yêu, vì tác động của Thánh Thần, người ta thật hạnh phúc khi gặp được Đức Giêsu. Sống hết mình, tận dụng hết công sức khả năng, chưa chắc đã mang lại sự giầu sang địa vị, nhưng ít là người ta không phải hối tiếc vì thời gian trôi đi một cách phí phạm. Niềm vui, bình an, thành đạt, chắc chắn sẽ để lại nhiều kinh nghiệm quý báu cho hậu thế, do đó: đừng ai thở dài, hãy vươn vai mà sống, bùn ở dưới chân, nhưng nắng ở trên đầu.

Đức Giêsu trở nên vĩ đại dưới cái nhìn của các học trò, các ông vui vì Thầy của họ thật hùng biện với những bài giáo huấn, các ông hạnh phúc bởi Thầy của họ vừa tài vừa đức, chữa trị được các loại bệnh tật. Tình yêu và hoạt động của Đức Giêsu vẫn mãi là lực hút trước mọi đối tượng xã hội, dù là dân đen, là thành phần tri thức, là giáo sĩ tu sĩ, ai cũng có cơ hội để trở nên môn đệ của Đức Kitô, theo khả năng, hoàn cảnh riêng của mình. Sống đẹp trước bổn phận nơi gia đình, sống tốt trước trọng trách là người tín hữu kitô, hay sống nhiệt tâm nhiệt tình với sứ mạng được trao phó, nhất định thiên hạ sẽ nhận biết ta là môn đệ của Thầy Giêsu. Nếu Vị Thầy Giêsu đã thu hút đám đông, đã biến đổi được tâm tính các học trò, đã có ảnh hưởng đến bậc sinh thành của ta, ắt hẳn, là thế hệ con cháu chúng ta hạnh phúc biết bao, khi mỗi người đang sống, đang đặt mình vào vị trí của nhau.

Nét đẹp của đạo làm người: sống tết, chết giỗ, lời nhắc nhớ vừa mang tính biết ơn, trọng tình, trọng nghĩa, vừa nối kết tình hiệp thông với cội nguồn, dù các ngài còn sống hay đã khuất, công đức các ngài sẽ không rơi vào lãng quên. Sự trưởng thành nơi các môn đệ theo Đức Kitô, không phải là các ông biết “vận kế dụng mưu”, đúng hơn là các ông biết mình là ai, các ông nhận biết Thầy Giêsu luôn hiện diện nơi những ai đang vì yêu mà sống hết bổn phận, trọng trách của mình. Nếu ở đời cho rằng: người bi quan để cơ hội chìm vào nỗi khó khăn, người lạc quan biến khổ đau thành cơ hội, người theo Đức Kitô sẽ đủ khôn ngoan để tình yêu và hoạt động, việc làm của ta, luôn theo thánh ý Chúa. 33 năm tại trần thế, Đức Giêsu đã đụng chạm, đã giải thoát, khử trừ sự xấu của tà thần, nhưng vẫn không xuể, Ngài mời gọi các môn đệ và mỗi chúng ta hãy sống hết mình, hãy cùng Ngài tiếp tục làm cho tình yêu của Thiên Chúa là Cha hoàn thiện con người giới hạn của nhân loại tội lỗi chúng ta. Amen.

Về mục lục

CON NGƯỜI KHÔNG CHỈ LÀ MỘT CÁI XÁC

Lm. Giuse Lê Danh Tường

Trong Chúa Nhật trước chúng ta đã được thánh Marco cho thấy uy quyền trong lời giảng dạy của Đức Giêsu. Đức Giêsu đã đến để rao giảng cho người ta về mầu nhiệm Nước Trời. Ngài đã đến với sứ mạng để kéo con người lên, đưa con người trở về với Thiên Chúa trong vinh quang Nước Trời. Thế nhưng dân chúng đã hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu. Họ đã mong chờ một vị cứu tinh với nhãn quan trần tục và quẩn quanh trong thân xác ở đời này.

Sứ mệnh của Đức Giêsu

Bài Tin mừng Chúa nhật này nổi lên hình ảnh Đức Giêsu tận tụy xoa dịu những đau khổ của con người. Ngay sau khi chữa người bị thần ô uế ám nơi hội đường Capharnaum, Đức Giêsu đến nhà mẹ vợ của ông Phêrô để chữa bệnh cho bà. “Chiều đến, người ta đem mọi kẻ ốm đau và những ai bị quỷ ám đến cho Người”. Đức Giêsu đã cúi xuống để xoa dịu tất cả các bệnh nhân. Cả một ngày, Đức Giêsu đã làm việc không biết mệt mỏi vì lòng yêu thương dân chúng.

Hôm sau dân chúng lại tiếp tục kéo đến. Thế nhưng người ta đã bắt gặp cách hành xử lạ lùng nơi Đức Giêsu. Đêm đó Ngài đã đi ra một nơi vắng vẻ để cầu nguyện với Chúa Cha. Sáng ra, khi ông Phêrô mời Ngài về để tiếp tục chữa bệnh thì Ngài đã từ chối và lên đường đi nơi khác. Ngài đã không tiếp tục chữa bệnh cho họ ở đó. Phải chăng Ngài không còn thương họ nữa?

Sự thường người ta dễ dàng dừng lại trong vinh quang hiện tại để tận hưởng. Đức Giêsu đang nổi danh và được nhiều người kéo tới với Ngài. Nhưng Ngài không dừng lại với những vinh quang chóng qua ấy. Sứ mạng mà Ngài đến trong thế gian là để nâng con người lên, kéo họ ra khỏi cảnh trầm luân, đưa họ vào trong đời sống mới trong vinh quang vĩnh cửu.

Ông Gióp trong bài đọc thứ nhất đã thốt lên với tất cả trải nghiệm của ông về cuộc đời này: “Ngày của tôi qua nhanh hơn chiếc thoi đưa, nó tàn lụn đi mà không mang lại tia hy vọng nào. Hãy nhớ rằng đời sống tôi chỉ là một hơi thở!” (G 7,6-7). Nếu chỉ quẩn quanh ở đời này thì quả thực cuộc sống nó chẳng là gì. Nó vô nghĩa và trống trơn.

Thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai cũng đã khẳng định với dân thành Corintô rằng “Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả những việc đó, tôi làm vì Tin Mừng để được thông phần vào lợi ích của Tin Mừng” (Cr 1, 22-23). Ngài không tìm vinh quang ở đời này, nhưng là hướng về vinh quang bất diệt, hướng về những giá trị trường cửu.

Bệnh tật yếu đau của con người cần được chữa lành và xoa dịu. Nhưng Đức Giêsu muốn cứu giúp người ta thoát khỏi khổ đau ấy cách tận căn. Ngài muốn kéo người ta ra khỏi sự nô lệ của tử thần, ra khỏi u mê của tội lỗi, ra khỏi bàn tay thống trị của ma quỷ để được trở nên thanh sạch vui sống trong bình an hạnh phúc Nước Trời với Thiên Chúa, cả ở đời này và đời sau.

Sứ mệnh của Đức Giêsu là đưa mọi người trở về với Thiên Chúa trong vinh quang Nước Trời. Thế nhưng dân chúng lại mong chờ những thứ tạm bợ ở thế gian mà thôi.

Dân chúng hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu

Sống trong hoàn cảnh bị đô hộ bởi đế quốc Rôma, dân Do thái chỉ mong chờ vị cứu tinh đến để giải thoát họ khỏi ách nô lệ của đế quốc. Họ mong chờ có ngày được độc lập, mong chờ một vị vua tài ba lỗi lạc để lãnh đạo dân. Tất cả những gì họ mong chờ chỉ đáp ứng cho đời sống hiện tại ở trần gian.

Họ đã lầm tưởng Đức Giêsu đến để đáp ứng cho họ những chuyện đó mà thôi. Khi thấy Đức Giêsu chữa lành mọi thứ bệnh tật, có uy quyền khiến ma quỷ cũng phải tùng phục, thì dân chúng đã mường tượng ra một vị vua mà họ đang mong chờ. Ngài sẽ cứu họ khỏi đế quốc Rôma, sẽ chữa trị mọi bệnh tật cho họ, sẽ làm vua của họ.

Nếu Đức Giêsu thuận theo dân chúng để rồi họ sẽ tung hô Ngài làm vua; Nếu Đức Giêsu không ở lại với Chúa Cha nơi thanh vắng để bám chặt vào sứ mệnh chính yếu của mình, thì cả thầy lẫn trò đã chìm đắm trong vinh quang trần thế.

Việc Đức Giêsu từ chối trở lại với dân chúng và yêu cầu các môn đệ lên đường đi đến nơi khác đã khiến dân chúng phải tự hỏi Đức Giêsu là ai? Thánh Marco muốn người ta khám phá Đức Giêsu từ từ từng bước, xuyên qua những thực tại trần thế, những việc làm cụ thể của Đức Giêsu để nhận ra khuôn mặt thực của Ngài, sứ mệnh thực của Ngài. Một Đức Giêsu Cứu Thế.

Đến với Đức Giêsu – vị Cứu Chúa

Không phải chỉ những người Do thái năm xưa mới hiểu lầm sứ mệnh của Đức Giêsu. Ngày hôm nay không ít người vẫn còn đang hiểu lầm về Ngài.

Người ta tìm đến với Đức Giêsu nhưng để học hỏi những điều hay lẽ phải nơi Ngài trong thân phận là con người mà thôi. Với họ, Ngài cũng chỉ giống những hiền giả vĩ đại trong lịch sử như đức Khổng Tử, đức Lão Tử, đức Phật Thích Ca hay như một triết gia vĩ đại nào đó bên trời Tây.

Có những người đến với Đức Giêsu chỉ vì Ngài đã từng làm phép lạ chữa lành bệnh tật ai đó hay giúp họ ăn nên làm ra. Họ đến với Giêsu để cầu mong sự an nhàn thịnh vượng nơi cuộc sống hiện tại mà thôi.

Thậm chí có những người còn nhìn Giêsu như là kẻ ru ngủ nhân loại. Họ tìm cách gạt bỏ Giêsu, gạt bỏ tất cả những ai theo Giêsu. Đối với họ, Ngài là hiểm hoạ cho nhân loại nên phải đóng đinh Ngài vào cây thập giá mà treo lên khỏi mặt đất, tách Ngài rời khỏi nhân loại.

Không! Đức Giêsu là vị Cứu Chúa của chúng ta. Ngài đã đến trong thế gian với tất cả lòng yêu mến con người. Tâm hồn Ngài luôn khát khao mòn mỏi mong cứu lấy chúng ta. Ngài chính là Thiên Chúa. Ngài đã sống thân phận con người để cảm thông nâng đỡ mỗi người chúng ta.

Chúa Giêsu không chỉ cứu giúp, không chỉ chữa lành thân xác chúng ta; không chỉ chữa lành những vết thương trong tâm hồn chúng ta ở đời này. Ngài muốn kéo chúng ta lên. Ngài muốn chúng ta mở to mắt và nhìn thấy thân phận cao quý của mình mà tiến lên; Ngài muốn con người thực sự trở lại là tác phẩm kỳ diệu của Tạo Hóa. Trên hết, Ngài đưa chúng ta ra khỏi bàn tay của tử thần và đưa tất cả chúng ta vào đời sống sung mãn, vượt lên trên những bình diện hạn hẹp của cuộc sống này.

Bạn hãy đến với Chúa Giêsu, hãy chiêm ngắm Ngài trong dung nhan là một con người và là Thiên Chúa nữa. Chính Ngài sẽ nâng đỡ bạn. Chính Ngài sẽ cứu vớt bạn khỏi mọi nỗi ô nhục. Chính Ngài sẽ là nguồn bình an và là niềm hy vọng vĩnh cửu cho cuộc đời bạn.

Lạy Chúa Giêsu, vị Cứu Chúa của đời con, xin Ngài cứu lấy con cho khỏi mọi sự dữ và dẫn dắt con tiến về Trời cao.

Về mục lục

MỘT ĐỜI THƯƠNG CẢM

Nguyễn Cao Luật

Người ta vốn tóm gọn cuộc đời vào bốn chữ sinh, lão, bệnh, tử. Đã có ngày đem tiếng khóc chào đời thì cũng có ngày xuôi tay nhắm mắt từ giã cuộc đời. Đã có thời thanh xuân thì cũng có thời già lão.

Đã có lúc khoẻ mạnh sung sức thì cũng có lúc bệnh tật, thập tử nhất sinh. Trước thân phận con người như thế, đã có những thái độ khác nhau, hoặc chấp nhận vì cuộc đời là như thế, hoặc phản kháng vì thấy cuộc đời như vậy là phi lý, là không thể chấp nhận được.

Tiếng kêu thương

Đoạn văn Cựu Ước Chúa nhật hôm nay kể được là một trong những đoạn văn bi ai nhất sách Gióp, một tác phẩm cỗ xưa đặt vấn đề về đau khổ của con người. Ông Gióp, một người công chính, lâm bệnh. Vợ con ông bêu rếu, phê bình, bạn bè không thông cảm, một mình đương đầu với bệnh tật và khổ đau không dứt… Nhưng thực ra, ông Gióp chỉ là điển hình cho bất cứ con người nào đang phải đương đầu với những khổ đau và nghiệt ngã của cuộc nhân sinh. Người ta vẫn cứ phải gánh chịu những tai hoạ khổ đau, oái oăm nhất là không phải người ta tự gây ra cho mình. Lại càng khó hiểu hơn nữa khi người ta không có gì đáng phải gánh chịu những khổ đau như thế: chiến tranh, tai hoạ trong thiên nhiên như bão lụt, động đất, những hậu quả do một thiểu số gây ra… tất cả vẫn đang tiếp tục nối dài dòng người đau khổ. Cũng như ông Gióp, rất nhiều khi người ta không thể lý giải được tại sao lại có đau khổ như thế. Nhưng lời than vãn của ông Gióp dầu không giải quyết được những đau khổ riêng của ông, cũng đã nói lên được niềm trông cậy: ông xin Thiên Chúa cứu giúp.

Vị Thượng Tế biết thương cảm

Cuối cùng, lời hứa của Thiên Chúa đã hoàn thành. Đấng Cứu Thế, Con Thiên Chúa, đã đến để cứu chữa những đau khổ nhân loại phải gánh chịu. Khi loan báo Nước Thiên Chúa. Đức Giêsu đương đầu với quyền lực Ác Thần. Và tiếp theo sau đó, Người đã thuyên chữa bệnh tật cho nhiều người trong suốt một ngày. Tác giả Mác-cô trình bày một ngày trừ quỷ và chữa bệnh này như thể đó là ngày mẫu cho một đời thương cảm của Đức Giêsu. Một ngày chữa bệnh cho bà nhạc ông Phê-rô là một đời kiên trì và thương xót Hội Thánh, xua đuổi sức mạnh của Ác Thần ra khỏi Hội Thánh để Hội Thánh tiếp tục phục vụ. Một ngày chữa bệnh cho mọi người chen lấn đến xin sẽ là một đời đi khắp nơi chữa trị những khổ đau thể xác và mở mắt tâm hồn cho con người nhận ra ơn cứu thoát.

Nhưng cần đi xa hơn để thấy Đức Giêsu không phải là thầy lang chữa bách bệnh. Người đến cứu thế gian không phải bằng cách dứt khoát loại trừ mọi đau khổ ra khỏi trần gian, để từ nay trở đi không còn một khổ đau nào động đến con người nữa. Trái lại, Người đã mang lấy các tật nguyền của ta và gánh lấy các bệnh hoạn của ta (Is 53,14; Mt 8,17) và dẫu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục… (Dt 5,8). Người ta có lẽ chẳng bao giờ giải thích cặn kẽ được tại sao Đức Giêsu, Con Thiên Chúa, đã đến cứu vũ trụ và con con người bằng cách dang hai tay ra trên thập giá. Tại sao Đấng cứu loài người khỏi khổ đau và chết chóc lại đón nhận một đau khổ nhục nhã nhất như thế?

Để thiết lập một cộng đoàn biết cảm thương

“Con Người đến không phải để được người ta phục vụ, nhưng là để phục vụ và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người” (Mc 10,45). Suốt đời dong duỗi đây đó, chữa lành những người bệnh tật đau khổ, nhưng cũng là một đời không ngừng in sâu hình ảnh phục vụ theo gương Người: hy sinh mạng sống vì người khác. Khi chữa lành bà nhạc của ông Phê-rô, Đức Giêsu chứng tỏ Người có quyền trên Ác Thần và nâng cộng đoàn những người tin dậy để có khả năng phục vụ theo gương Người.

Đức Giêsu muốn cộng đoàn những người tin tiếp tục công trình loan báo Tin Mừng Người đã thực hiện. Người muốn cộng đoàn ấy nối dài lòng thương cảm của Người cho các người khác. Thánh Phao-lô đã thực hiện sứ mạng loan báo Tin Mừng như thế. Người đã trở thành nô lệ mọi người để phục vụ Tin Mừng. Mội tín hữu cũng được mời gọi như thế. Dẫu rằng ngày nay, ta không thể cầm tay một người bệnh và chữa lành người ấy ngay tức khắc như Đức Giêsu đã làm, nhưng ta không phải là không thể dùng lòng thương cảm, một lòng thương cảm mà Đức Giêsu đã kín mức từ nơi Chúa Cha, để làm cho một người bệnh cảm thấy được an ủi, một người sầu khổ cảm thấy vơi đi nỗi sầu, một người hèn kém cảm thấy mình được sống đúng giá trị của một con người. Những khi người ta làm được như vậy tức là ngày mẫu được thánh Mác-cô nói về Đức Giêsu lại được tiếp tục thực hiện, lòng thương cảm của Đức Giêsu lại tiếp tục tuôn chảy và cộng đoàn những người biết cảm thương như Đức Giêsu lại lan rộng để trở thành một cộng đoàn yêu thương như Thiên Chúa muốn.

 Lời nguyện của người được sai đi

Lạy Chúa,

Việc loài người biết nhận ra Ngài khi Ngài tự trao ban trong nước của bí tích Thánh Tẩy, trong Thánh Thể, trong Thánh Kinh… điều đó cũng dễ quan niệm được thôi. Nhưng còn việc Ngài lại cũng muốn đi sâu vào cõi thâm cung của lòng người mà lại qua trung gian của con, thì quả là khó tưởng nghĩ được.

Làm sao con người có thể nhận ra Ngài nơi con, ít ra là làm sao họ lại có thể hiểu ra rằng con là người được Ngài sai đi, là sứ giả của Chân lý Ngài, là kẻ đem lại lòng thương xót của Ngài? Mỗi lần con tự đặt ra vấn nạn này cho mình, thì hình như sứ điệp hạnh phúc mà con thông chuyển lại cho anh em con đã biến thành một gánh nặng khủng khiếp đè trên chính con.

Thật thế, con biết rõ điều đó. Chính Ngài đã sai con đi. Con là sứ giả của Ngài, dù con khốn khổ và nghèo hèn. Con là sứ giả của Ngài, đã được Ngài chọn, bất chấp mọi sự. Con loan báo Chân lý Ngài thì đó không phải là điều làm chân lý Ngài ra suy suyển. Ân sủng của Ngài vẫn tinh tuyền cho dù đi qua đôi tay trần tục của con. Phúc Âm của Ngài vẫn thực sự là một Tin Mừng, cho dù sứ giả của Ngài không sao để lộ được vẻ hân hoan trong Thiên Chúa là Đấng cứu độ mình. Lòng thương xót của Ngài vẫn bao la mặc dù được biểu lộ qua tấm lòng nhỏ bé của con. Ánh sáng của Ngài vẫn chiếu dọi, vẫn biến đỗi bóng đêm âm u của cõi chết thành ánh dương ngày cứu độ, cho dù ánh sáng ấy phải dọi qua những khung kính mờ đục của đời con, của tâm trí phàm trần khốn khổ….

Lạy Chúa, Con là người được sai đi, là sứ giả của Con Chí Ái Ngài, của Chúa chúng con. Không còn gì vĩ đại hơn, không còn danh hiệu nào vinh dự hơn….

Để đem lại Ánh sáng, để thông chia tình thương, con phải nhóm lên chất dầu của cuộc đời con….

Lạy Chúa,

Xin để cho con biết ngỡ ngàng khi thấy có những người nhận ra được lòng thương xót của Ngài, nhận ra Ngài đã sai con đi và đã đón nhận con với tư cách là sứ giả. Xin cho con cảm nhận được niềm vui chân thật và hết lòng biết ơn Ngài mỗi khi con đứng trước phép lạ ấy, mỗi khi anh em con sẵn sàng đón nhận con trong chốn thâm sâu tâm hổn họ, bất chấp sự bất xứng của con. (K. Rahner).

Về mục lục

XIN ƠN CHỮA LÀNH BỆNH TẬT XÁC HỒN

Lm Trần Bình Trọng

Gần đến tuổi xế chiều thì cơ thể con người khó thích ứng được với một số đồ ăn, thức uống và những yếu tố ảnh hưởng bên ngoài. Do đó cơ thể phát ra những chứng bệnh tật, đau yếu khác nhau. Như vậy thì ta có thể đồng hoá với dân chúng trong Phúc âm hôm nay, gồm bà nhạc mẫu của thánh Phêrô, vây quanh Chúa để xin được chữa lành bệnh tật.

Hôm nay Chúa đến chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỉ (Mc 1:34) nghĩa là đem lại tự do cho con người. Chúa dùng nhiều cách thế khác nhau để chữa trị bệnh tật loài người.

Chúa dùng loài người như là bác sĩ, nha sĩ, y tá cùng với thuốc men để chữa trị bệnh tật. Tuy nhiên Chúa cũng chữa trị bệnh tật loài người cách trực tiếp mà không cần sự cộng tác của loài người, cùng với thuốc men. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có những trường hợp Chúa không chữa trị loài người khỏi bệnh ngay, nhưng Chúa chữa trị dần dần để thử lòng tin và lòng kiên nhẫn của họ. Lại có những trường hợp Chúa muốn loài người cộng tác với đường lối chữa trị tự nhiên, bằng cách soi sáng cho người ta biết cách giữ gìn sức khoẻ như ăn uống, ngủ nghỉ điều độ, tập thể thao dưỡng sức. Vấn nạn ở đây là sự thể đã không xẩy ra như vậy. Có người đi bác sĩ thường xuyên, nằm nhà thương lâu ngày, cầu nguyện liên tục mà bệnh tật vẫn không thuyên giảm. Nhiều người còn phải mang bệnh tật lâu dài. Như vậy bệnh tật có phải là do hậu quả của tội lỗi gây ra không?

Hình như Thánh kinh Cựu ước có ám chỉ như vậy, nghĩa là những tai hoạ xẩy ra cho loài người được coi là hình phạt của Thiên Chúa. Ðạo lí nhà Phật thì cho là tại nghiệp chướng: kiếp trước làm bậy thì kiếp sau phải gánh chịu hậu quả tai hại. Ðạo lí nghiệp chướng cũng giống ý nghĩa trong câu ngạn ngữ: Ðời cha ăn mặn, đời con khát nước. Có điều khác biệt là trong thuyết nghiệp chướng thì cùng một cá nhân phải chịu hậu quả trong kiếp luân hồi; còn quan niệm cha ăn mặn, con khát nước là hai cá nhân khác nhau: cha có liên hệ huyết nhục với con, nhưng không phải là con.

Quan niệm trong câu ngạn ngữ Việt Nam trên đây còn giống quan niệm trong câu ngạn ngữ mà người ta truyền tụng trong dân Ít-ra-en: Ðời cha ăn nho xanh (chua), đời con phải ghê răng (Gr 31:29; Ed 18:2). Để sửa sai quan niệm đó, Thiên Chúa dùng miệng nhị vị ngôn sứ Giêrêmia và Êdêkien để trách dân Do thái sao cứ truyền tụng câu ngạn ngữ đó và dạy họ rằng mỗi thế hệ hay mỗi cá nhân chịu trách nhiệm về hành động của thế hệ đó hay cá nhân mình (Gr: 31:30; Ed 18:3). Quan niệm trong câu ngạn ngữ trên của dân dân Do thái chỉ đúng khi áp dụng vào một số bệnh di truyền nào đó dựa vào lí do sinh thể lí mà thôi.

Theo giáo lí Do thái giáo là đạo Cựu ước và giáo lí Kitô giáo là đạo Tân ước thì tội lỗi không cắt nghĩa được hết tại sao người ta phải mang tai họa. Sách Gióp đã chứng minh điều đó. Ông Gióp phàn nàn về những tai họa xẩy đến cho ông và gia đình ông như phải mất của cải, vợ con (G 7:1-4,6-7). Các bạn ông cho rằng những bất hạnh đó là hình phạt cho tội lỗi của ông. Tuy nhiên ông Gióp không thể chấp nhận lối giải thích đó vì ông sống đời ngay lành, công chính và cảm thấy lương tâm không bị trách móc. Vậy thì phải có lý do nào khác, điều mà người ta không hiểu được hay chưa hiểu được ở đời này. Người ta không hiểu được tại sao có những người hiền đức, ăn ngay ở lành mà phải chịu bệnh tật đau khổ? Người ta cũng không hiểu được tại sao một số trẻ em vô tội cũng phải mang bệnh hoạn tật nguyền?

Là người Kitô giáo, ta phải tin rằng Chúa có thể giải thoát loài người khỏi bệnh tật, nếu điều đó có ích lợi cho linh hồn. Tuy nhiên đức tin của người công giáo không dựa trên việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác mà thôi. Xét về phương diện nào đó thì loài người, cũng như loài vật, cỏ cây hoa lá, đều trải qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử. Việc phục hồi khỏi bệnh tật phần xác là một ân huệ và là niềm vui. Tuy nhiên đó không phải là điều quan trọng nhất trong ước muốn của người Kitô giáo.

Chúa Cứu Thế đến với mục đích chính là để chữa lành bệnh tật phần hồn của loài người, giải thoát con người khỏi tội lỗi, để phục hồi sự sống thiêng liêng bằng cách giao hoà nhân loại với Thiên Chúa. Ðó là lí do tại sao khi ta cầu nguyện, xin ơn chữa lành bệnh tật phần xác mà Chúa lại ban ơn chữa lành bệnh tật phần hồn, mà ta không hay biết.. Có những trường hợp mà việc mang bệnh tật phần xác, có thể mang lại lợi ích cho đời sống thiêng liêng, khiến người ta tuỳ thuộc vào Chúa. Nếu được chữa khỏi bệnh tật phần xác, người ta có thể lầm tưởng rằng đời sống thiêng liêng của họ là tốt lành, không gì đáng trách. Vì lợi ích thiêng liêng cho loài người, Chúa cũng có thể trì hoãn việc chữa lành. Nếu Chúa ban ơn ngay cho mỗi người, họ có thể chóng quên ơn Chúa, không đánh giá được tầm quan trọng của ơn chữa lành, khiến họ bớt tuỳ thuộc vào Chúa.

Ðó là lý do giải thích tại sao trong Phúc âm hôm nay Chúa tách biệt khỏi đám đông quần chúng để đi cầu nguyện, rao giảng trong các hội đường và trừ quỉ (Mc 1:35-39). Trong khi còn nhiều người đau yếu bệnh tật cần được chữa lành mà Chúa vẫn bỏ đi. Lý do là vì Chúa còn một sứ mệnh quan trọng hơn để thi hành là truyền bá tin mừng cứu độ, đem ơn chữa lành cho tâm hồn nữa. Chúa cũng không dùng quyền năng để tự cứu mình khỏi đau khổ và sự chết. Chúa tự ý chấp nhận đau khổ và sự chết vì Người ý thức được giá trị của đau khổ và sự chết vì yêu mến Chúa và tha nhân để mang lại ơn cứu độ cho loài người.

Ðể đi đến kết luận thực hành, thái độ người tín hữu phải có là khi đau ốm bệnh tật, người ta cần đi bác sĩ và uống thuốc chữa trị, đồng thời phải cầu xin cho được ơn chữa lành. Tuy nhiên bao lâu người ta còn mang bệnh tật, người ta cần cầu xin để được ơn can đảm và nhẫn nại chịu đựng vì yêu mến Chúa. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật không phải như một đường cùng không lối thoát. Người tín hữu chấp nhận đau khổ bệnh tật vì tin yêu và phó thác để được tham dự vào cuộc khổ nạn của Chúa. Chỉ bằng việc chấp nhận như vậy mới đem lại bình an và ơn phúc cho tâm hồn khi phải mang bệnh tật đau khổ về phần xác. Để khỏi ngã lòng trông cậy Chúa và khỏi trở nên gánh nặng cho người săn sóc, có linh mục kia vẫn cầu nguyện xin Chúa đừng để mình phải nằm trên giường bệnh lâu dài.

Lời cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh phần xác phần hồn:

Lạy Chúa, chúng con xin tạ ơn Chúa đã đến,

chữa lành bệnh tật hồn xác loài người.

Xin Chúa ban ơn chữa lành cho bệnh nhân

đau yếu, bệnh tật trong thời đại chúng con.

Xin Chúa soi sáng cho giới bác sĩ và khoa học gia,

tìm ra thuốc men và phương pháp chữa trị bệnh tật.

Xin Chúa cũng chữa lành bệnh tật của chính con:

phần xác, phần hồn, phần tâm trí, phần tình cảm

để con có thể phụng sự Chúa và phục vụ tha nhân

với hồn xác an vui và lành mạnh. Amen.

Về mục lục

HƯỚNG NHÌN LÊN GIÊSU

Lm. Xuân Hy Vọng

Anh chị em rất thân mến, trong bốn cuốn sách Phúc Âm, chi tiết về gia đình của các Tông đồ ít khi nào được tường thuật, đề cập đến; nhưng đoạn Tin Mừng hôm nay (Mc 1, 29-39) đã thuật lại một trong những sự kiện hiếm hoi, và điều này không khỏi làm chúng ta thắc mắc, tự hỏi: liệu Thánh sử Mác-cô muốn nhắn gửi chúng ta điều gì khi thuật lại sự kiện Chúa Giê-su đến thăm bà nhạc phụ của Si-mon (Phê-rô)? Phải chăng, Ngài muốn chúng ta quan sát thật kỹ, hướng nhìn về những hành động của Chúa Giê-su khi Người đến thăm bệnh nhân, đặc biệt là mẹ vợ của Si-mon (Phê-rô)? Để rồi, chúng ta học hỏi nơi Người điều gì đó chăng?

Trong anh chị em, nhiều vị đã có kinh nghiệm trong việc thăm viếng bệnh nhân, thăm những người già nua, neo đơn, không người chăm sóc, v.v…Đó là điều tốt, phải đạo nên làm. Tuy nhiên, các bài đọc Phụng vụ hôm nay giúp chúng ta đào sâu công việc Tông đồ thăm viếng bệnh nhân hơn, qua gương sống của Chúa Giê-su khi Người viếng thăm bà nhạc phụ của Si-mon (Phê-rô) “…tiến lại gần, Người cầm tay, nâng đỡ dậy” (x. Mc 1,31).

Thứ nhất, “tiến lại gần”. Hành động này tuy đơn giản, nhưng khi áp dụng trên thực tế thì khó biết bao. Chợt nghĩ chỉ là đưa chân bước, tiến lại gần người anh chị em của mình thôi mà, đâu có khó gì!!! Đối với người khác, tiến tới gần người anh chị em mình thì chẳng gì phải lo!!! Thôi thì ‘nhắm mắt, đưa chân’ ắt sẽ tiến lại gần người anh chị em mình, có gì phải sợ nhỉ!!! Hành động ‘tiến lại gần’ của Chúa Giê-su không đơn thuần vì trách nhiệm, nghĩa vụ mà phải đến viếng thăm; nhưng thiết nghĩ: Ngài tiến gần bà nhạc phụ của Si-mon với cả con tim và con người của Ngài. Để làm được như vậy, chúng ta phải chiến thắng chính bản thân, phải bỏ mình, ra khỏi những toan tính, suy tưởng, lo lắng riêng tư, phải ra khỏi nơi ‘chăn ấm, nệm êm’ của lòng mình, dám mạo hiểm, chấp nhận những thách đố có thể xảy ra ngoài ý muốn. Vừa qua trong một cuộc tiếp kiến chung, Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã đến chào một người đàn ông với khuôn mặt bị biến dạng. Khi trực diện với những gì ghê sợ, rùng rợn, con người chúng ta thường có khuynh hướng tháo lui, tránh né, chốn chạy…, nhưng Đức Thánh Cha đã tiến đến, ôm choàng lấy ông với tất cả tâm hồn của người Mục Tử, vị đại diện Chúa Ki-tô ở trần gian này. Đứng trước những người dị hình dị dạng, bệnh truyền nhiễm, những người mắc bệnh nguy cơ lây nhiễm cao, chúng ta có thể tiến lại gần họ với cả con tim mình chăng? Chúng ta có thể ra khỏi con người đầy suy tính của mình để đến với anh chị em mình, và biết chấp nhận họ không?

Thứ hai, “Người cầm tay”. Thật vậy, hành động này chỉ xảy ra khi cử chỉ “tiến lại gần” được thực hiện. Chúng ta không thể cầm tay ai đó ở tư thế đằng xa, hoặc cầm tay họ như một ‘nụ hôn gió’ hay ‘mi gió’ mà thường được ví von!!! Hơn nữa, cũng không thể nào nhờ ai đó ‘cầm tay’ người anh chị em giùm mình được! Hành động này đòi hỏi chúng ta phải trực diện với anh chị em. Thứ đến, tình trạng của bệnh nhân, những người được viếng thăm không hoàn toàn khoẻ mạnh, tráng kiện như ta, cho nên để ‘cầm lấy tay’ người anh chị em mình, chúng ta phải đặt mình vào trạng huống, hiện tình, tâm tư, lối suy nghĩ…của họ, và chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể ‘chạm đến’ con tim, mới có thể cảm thông, lắng nghe những tâm sự, với cả ưu tư, lo lắng của họ. Về điểm này, trong thư gửi cho giáo đoàn Cô-rin-tô, Thánh Phao-lô khuyên nhủ mỗi chúng ta như sau: “mặc dầu tôi tự do đối với tất cả mọi người, nhưng tôi đã đành làm nô lệ cho mọi người…tôi đã ăn ở như người yếu đau đối với những kẻ yếu đau,…tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi” (x. 1Cr 9,19.22). Theo Ngài, vì lợi ích của anh chị em, để mọi người được thông phần vào ơn cứu rỗi, Ngài đã ‘trở nên mọi sự đối với tất cả mọi người’ để Tin mừng được họ lắng nghe, đón nhận. Vì thế, đối với Ngài “rao giảng Tin Mừng không phải là lý do để tự hào, mà đó là một sự cần thiết bắt buộc tôi phải làm. Khốn thân tôi nếu tôi không rao giảng Tin Mừng!” (x. 1Cr 9,16)

Thứ ba, “nâng đỡ dậy”. Cử chỉ sau cùng này liên quan mật thiết với hai hành động trên. Tương tự, nếu chưa ‘tiến lại gần’ và ‘cầm tay’ anh chị em mình, thì ắt hẳn chúng ta không thể ‘nâng đỡ’ họ được. Chúa Giê-su đã ân cần tiến đến, cầm lấy tay và nâng đỡ bà nhạc phụ của Si-mon dậy với cả lòng mến của một vị Thiên Chúa xuống thế làm người. Người chữa lành bà với tất cả niềm cảm thông sâu xa của Con Người, và qua Người, mọi người được nhìn thấy, cảm nhận, tiếp xúc với chính vị Thiên Chúa gần gũi, trìu mến, lân tuất vô bờ. Một khi, chúng ta bỏ mình, đặt mình vào hoàn cảnh, đời sống của anh chị em, thì chỉ khi ấy, chúng ta mới có thể khuyến khích, nâng đỡ, cộng tác, động viên họ một cách hữu hiệu; và trong khoảnh khắc đó, chúng ta mới thực sự sống và rao giảng Tin Mừng mà thôi. Nào còn chần chờ gì nữa, nếu không thực hiện bây giờ thì đến khi nào chúng ta mới ra đi, sống chứng tá cho Thiên Chúa – một Thiên Chúa cao cả, nhưng lại thật gần gũi, yêu thương chúng ta liên lỉ, không chút than phiền. Hãy cùng tôi lên đường, sống Tin mừng, sống tươi vui, chia san từ ngay bây giờ vì “đời người chỉ là hơi thở” (x. G 7, 7), “vùn vụt tuổi đời tựa bóng câu” (x. Tv 144, 4).

Lạy Chúa Giê-su, xin cho chúng con biết mở lòng, bỏ mình, đến với anh chị em; biết quên đi lợi ích cá nhân, biết cảm thông, thấu hiếu anh chị em; biết dâng cho Chúa ưu tư, nguyện vọng cũng như lo lắng của bản thân, để chấp nhận, khuyến khích, cộng tác, nâng đỡ anh chị em qua mọi phương diện. Sau cùng, xin cho chúng con luôn hướng nhìn lên Chúa, để rồi luôn biết cậy trông vào Ngài.

Như Người “tiến lại gần”
Xin cho con ân cần.
“Người cầm tay” con người
Ban cho con nụ cười.
“Nâng đỡ dậy” anh (chị) em
Sống một đời trôi êm. Amen!

Về mục lục

NƯỚC TRỜI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Cuộc đời của ông Gióp là một bài học quý giá cho những ai đặt niềm tin tưởng vào Thiên Chúa. Một cuộc đời có những thăng trầm năm chìm bảy nổi. Có khi giàu sang phú quý, có lúc bị tước đoạt tất cả. Sông có khúc, người có lúc. Ông được hưởng những tháng ngày vui xướng ngập tràn, nhưng rồi bỗng một ngày ông trở thành trắng tay và rơi vào cơn cùng khốn. Khi khỏe mạnh cường tráng cũng như bệnh tật yếu đau, ông Gióp luôn một niềm cậy trông vào Chúa. Ông diễn tả cuộc đời rất thật, chân chạm đất với những nỗi lo âu sầu khổ. Ông Gióp không chạy trốn thực tại nhưng đối diện với cuộc sống trong thời gian thử thách. Sự mong ước thúc đẩy niềm hy vọng vào một ngày mới tươi đẹp. Ông luôn ý thức đời sống chỉ là một hơi thở qua mau.

Phúc âm thánh Mátcô thuật lại việc Chúa Giêsu rao giảng Tin Mừng khắp xứ Galilê. Chúa chữa cảm sốt cho bà nhạc phụ của ông Simon và tất cả các bệnh nhân người ta mang đến cho Ngài. Chúa chữa trị những người bị quỷ ám và xua trừ ma qủy. Tin Mừng cứu độ được khai mở, đó là Nước Chúa. Cả bốn thánh sử Matthêu, Mátcô, Luca và Gioan dùng từ Nước Chúa (Kingdom of God). Riêng thánh sử Matthêu dùng cả hai từ Nước Chúa và Nước Trời (Kingdon of Heaven). Chúng ta không phải chờ đợi Nước Trời đến gần mà là Nước Trời ngay trong cuộc sống hôm nay. Ngày xưa Chúa mời gọi dân chúng ăn năn sám hối vì Nước Trời đã gần đến. Năm Hồng Ân đã đến rồi. Chúa Giêsu đã đón nhận nhiều tâm hồn vào Nước của Chúa. Chúa Giêsu đã dùng nhiều dụ ngôn để diễn tả về Nước Trời như dụ ngôn người gieo giống, hạt cải, cỏ lùng, men trong bột, kho báu và viên ngọc quý và chiếc lưới thả xuống biển…

Nước Chúa đang lan rộng khắp nơi. Mọi thời đều cần nhiều chứng nhân và thợ lành nghề làm việc trong vườn nho của Chúa. Trong thư gởi tín hữu Côrintô, thánh Phaolô đã bộc bạch : Vô phúc cho tôi, nếu tôi không rao giảng Phúc âm. Thánh Phaolô đã đi cùng khắp để mang tin vui đến cho mọi người. Ngài được mang danh hiệu là Tông đồ Dân Ngoại. Ngài chịu khổ cực trăm bề để nên nhân chứng cho Đấng đã hiến mình vì nhân loại. Tôi đã nên mọi sự đối với tất cả mọi người, để làm cho mọi người được cứu rỗi. Tất cả chỉ vì phần rỗi của chúng nhân. Phaolô nhiệt thành rao giảng Lời Chúa lúc thuận tiện cũng như lúc không thuận tiện. Ngài chịu bắt bớ, đánh đập, tù đầy, giam giữ cùng mọi sự khốn khó trên đường truyền đạo. Niềm cậy trông vào ơn cứu độ thật mãnh liệt. Phaolô viết thơ giảng dạy, an ủi và khuyến khích các giáo đoàn giữ vững niềm tin.

Điều quan trọng là mỗi người chúng ta hãy sống tinh thần Nước Trời ngay trong hoàn cảnh hiện tại. Hãy an hưởng tất cả những phúc lộc của cuộc sống. Chúng ta không biết ngày giờ Chúa lại đến nhưng chúng ta chắc rằng Chúa sẽ đến đón chúng ta vào ngày sau hết. Chúa mời gọi chúng ta luôn trong tư thế sẵn sàng và tỉnh thức. Trong cuộc lữ hành, sự chuẩn bị sám hối lúc nào lúc cần thiết. Chúng ta không phải đợi nước đến chân rồi mới nhảy. Mỗi ngày sống chúng ta đều có cơ hội lắng nghe và thực hành lời Chúa. Chúng ta không cần phải lo lắng, chao đảo hay run sợ trước những tin đồn thất thiệt về ngày Chúa đến.

Một số người chủ trương: cuộc sống vắn vỏi, phải hưởng thụ và thỏa mãn mọi nhu cầu trước. Chúng ta không biết điều gì sẽ xảy ra cho ngày mai. Không cần phải bận tâm suy nghĩ và lo lắng chi về tương lai. Thế là cuộc sống bị buông thả theo dòng chảy của thời gian. Lý tưởng bị hỏa mù và cùng đích cuộc đời cũng bị rơi vào sự nghi ngờ vô định. Nhiều khi chúng ta bị lạc lõng trong cuộc lữ hành trần thế. Vì thế, muốn tiến được tới đích cùng, chúng ta cần phải có hướng đi và có mục đích để đạt tới. Điều này chúng ta đang thực hành mỗi ngày. Trong đời sống, mỗi ngày khi thức dậy, chúng ta biết việc gì phải làm, nơi nào phải đi và ý nào phải thực hiện.

Đời sống của người Kitô hữu không như thế, chúng ta biết đường đi và cùng đích là vui hưởng trong Nước Chúa. Sống tinh thần của Nước Trời từng giây phút trong đời sống, chúng ta sẽ tìm được nguồn bình an và thánh thiện. Có Chúa Kitô là Thầy, là đường, là sự thật và là sự sống dẫn đường. Phó thác, cậy trông và bám chặt lấy giáo lý của Chúa Kitô, chúng ta không sợ bị lầm lạc. Ngài chính là ngôi sao dẫn đường tới quê thật. Hãy ngước nhìn lên chiêm ngắm thập giá nơi Chúa Kitô đã hy sinh chết vì yêu, chúng ta sẽ tìm được câu trả lời cho tất cả mọi vấn nạn trong đời. Dù đường đời nổi trôi, năm chìm bảy nổi, chín cái lênh đênh, chúng ta vẫn có nơi tựa nương và phó thác cuộc đời.

Lạy Chúa, Chúa đã yêu thương chúng con vô bờ. Chúa đã hạ thân đem tin vui Cứu Độ cho nhân loại. Xin cho chúng con học theo thánh Phaolô biết xả thân đem Tin Mừng ơn cứu độ đến cho mọi người. Niềm vui hạnh phúc là mọi người nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa cùng yêu thương nhau như anh chị em để mai sau cùng chung hưởng hạnh phúc đời đời.

Về mục lục

DẤN THÂN

Thiên San

Bản chất của Giáo Hội là truyền giáo. Không phải đợi đến khi phục sinh – lên trời, Đức Giêsu mới mạc khải cho ta biết về điều đó. Nhưng trong suốt hành trình rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa, Đức Giêsu đã dần dần mạc khải cho ta. Khi các môn đệ tìm đến và báo cho Thầy Giêsu biết rằng mọi người đang tìm thì Ngài bảo: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1, 38). Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi ra đi và tiếp nối sứ mạng rao truyền Tin Mừng tình thương đến cho muôn người.

Tin Mừng hôm nay kể lại cho ta biết về một ngày của Đức Giêsu. Dường như Đức Giêsu dành hết thời gian để lo cho người khác mà không nghĩ đến bản thân. Người chữa lành cho nhiều bệnh nhân, không có giờ để nghỉ ngơi, ăn uống. Bởi đó, dân chúng quá “mê” Người, muốn níu giữ Người ở lại. Đức Giêsu còn nêu gương cho ta về việc tạo lập tương quan mật thiết, gắn bó với Thiên Chúa Cha. Người làm mọi việc là để vinh danh Chúa Cha, luôn theo thánh ý Cha. Sáng sớm, lúc trời còn tối mịt, Đức Giê su đã dậy, đi đến một nơi hoang vắng để cầu nguyện (x. Mc 1, 35). Thiết nghĩ, chúng ta cần học nơi Đức Giêsu tinh thần quảng đại, yêu thương với hết mọi người, và nhất là không quên dành thời giờ để gặp gỡ và ở lại bên Chúa.

“Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa, vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1, 38). Chúng ta nghe được gì từ lời mời gọi này? Hẳn nhiên là một thái độ dứt khoát để ra đi. Ở lại không hẳn là xấu vì ta được mọi người yêu quý, trân trọng nhưng ra đi để đến với nhiều người khác thì cần hơn. Đến đây, ta có thể nhìn về kinh nghiệm của các nhà truyền giáo. Chẳng hạn như Đức cha Francois Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte là hai Giám mục Đại Diện Tông Tòa đầu tiên của vùng Viễn Đông. Tuy công việc của các ngài ở Pháp lúc bấy giờ khá thuận lợi, nhiều người cho rằng các ngài có thể làm bao nhiêu điều tốt lành cho quê hương và có thể trở thành một kinh sĩ tốt nhưng các ngài đã can đảm rời bỏ quê hương để đến vùng Viễn Đông xa xôi, nơi còn biết bao người chưa biết Chúa (x. Tr18,Tiểu sử Đức cha Francois Pallu và Đức cha Pierre Lambert de la Motte).

 Là con người, chúng ta không tránh khỏi những quyến luyến, bịn rịn, bao mến thương mà mọi người dành cho ta, để rồi ta khó lòng rời bỏ vùng đất đã một thời gắn bó. Đặc biệt, khi ta là người đem bao mến thương đến với người khác mà không mong được đáp đền. Tuy nhiên, chúng ta cần nghĩ về lời mời gọi của Thầy Giêsu vẫn vang vọng bên tai để có thể vượt qua mọi khó khăn trở ngại. Còn nhiều người cần đến chúng ta, họ chưa biết Chúa là ai và chưa biết rằng Chúa cũng yêu thương họ. Ở lại với Chúa là cách để ta biết ta phải làm gì. Vinh quang, lời khen ngợi của người đời thì ngọt ngào và êm dịu biết bao nhưng dẫn thân cho sứ mạng loan báo Tin mừng là điều cần thiết hơn cả. Chúng ta hãy để cho Thần khí của Đức Kitô hướng dẫn để có thể dẫn thân, quên mình cho công cuộc loan báo Tin Mừng nước Thiên Chúa như Đức Giêsu và bao vị thánh, bao vị tiền bối đã làm.

Về mục lục

TÂM TÌNH PHỤC VỤ

Maria Bùi Thủy

“Rời khỏi hội đường nơi mà bao người tụ họp, Chúa Giê-su lặng lẽ cùng với hai môn đệ là Gia-cô-bê và Gio-an đến nhà Simon và An-rê.” (Mc 1, 29)

Mỗi bước chân Chúa đi chắc hẳn đều mang theo con tim, tình yêu và tâm tình phục vụ. Chúa biết rõ sứ mạng của Người là gì. Khi Chúa Giê-su tới nhà ông Simon “lập tức họ nói cho Người về tình trạng của bà”(Mc1,30)“Họ” hẳn là gia đình Simon được hàng xóm kính mến, được nhiều người đến thăm và cùng chia sẻ nỗi buồn của gia đình, điều đó đã thể hiện được sự ấm áp nơi tâm hồn của mỗi con người. Đồng thời cùng lúc đó, Thánh sử Mac-cô đã sử dụng thêm hai từ “lập tức” đã điểm tô thêm về tình người nơi gia đình nhỏ. Cuộc sống của con người luôn cần được sự cảm thông, chia sẻ, nâng đỡ nhau trong mọi lúc, mọi nơi. Đặc biệt, trong những lúc khó khăn nhất của phận người.

Hình ảnh người mẹ nằm sốt trên giường bệnh đã chạm đến trái tim của Chúa Giê-su, chạm đến Lòng Thương Xót của Người. Thấu hiểu được con người, cảm nhận được sự đau đớn ấy “Người lại gần, cầm tay bà mà đỡ dậy”(Mc1,31). Một tình yêu bao la, vô vị lợi mà Chúa đã làm nơi người mẹ của Simon. Chúa Giê-su không chỉ cứu vớt người khỏi chết về phần xác nhưng là cả về phần hồn. Vậy, còn chúng ta thì sao? Chúng ta đã làm được gì để xoa dịu nỗi đau của người khác?

Điều đặc biệt hơn hết đó là, bà được khỏi bệnh và nhanh nhẹn phục vụ các Ngài. Tinh thần phục vụ của bà đã đánh động bao con người. Bà đã quên đi bản thân, quên đi bệnh tật nơi mình, quên đi mọi thứ để phục vụ Chúa và phục vụ mọi người. Bản thân tôi và tất cả chúng ta đã có tinh thần phục vụ như thế nào? Đã nhận ra ơn của Chúa và thực thi theo điều Người muốn hay chưa?

Tất cả những điều Chúa Giê-su đã làm không để vinh danh Người mà là vinh danh Chúa Cha. Chúa Giê-su đã đi khắp nơi để chữa bệnh, trừ quỷ… Sau những lần như vậy Chúa lại tìm một nơi thanh vắng để cầu nguyện, cảm tạ Chúa Cha và xin Chúa Cha ban thêm sức mạnh để vượt qua mọi khó khăn. Ước gì trong mỗi ngày sống, chúng ta luôn biết chạy đến với Chúa, biết dành những khoảng trống trong tâm hồn cho Chúa, luôn biết để Chúa hướng dẫn và làm chủ cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Lạy Chúa Giê-su xin cho con biết quên mình, quên đi sự mệt mỏi của bản thân, quên đi ích lợi cho riêng mình mà nghĩ đến vì người khác để dùng hết ơn lành Chúa ban mà phục vụ mọi người, đặc biệt nơi những người bệnh tật, người yếu đau, người nghèo khổ. Amen.

Về mục lục

CHỈ CÒN TÌNH YÊU Ở LẠI

Lm. Giuse Nguyễn

“Thời gian như ngọn gió

Cùng theo mùa tháng năm

Tuổi theo mùa đi mãi

Chỉ còn anh và em

Chỉ còn anh và em

Cùng tình yêu ở lại…”

Tiết tấu của bài hát “Thơ tình cuối mùa thu” vang lên như một niềm tin, như một lời khẳng định về một quy luật của tình yêu: Vượt qua trăm ngàn thác lũ đời người, tình yêu sẽ trở nên đẹp diệu kỳ:

Năm 2011, Cô Lành bán vé số ở Long An, đã không tham 6,6 tỉ đồng để trả lại cho anh Tuấn những tờ vé số mà anh chưa trả tiền. Từ đó cô gái ấy chết danh là “Lành 6 tỉ 6”. Anh Tuấn, người mua chưa trả tiền cũng sẵn sàng tặng lại cho cô Lành 1 tờ vé số. Và cũng từ đó anh chết danh là “Tuấn lãng tử” vì đã cho không, biếu không người khác gần 2 tỉ đồng.

Mới đây thôi, ngày 14/01/2021, ông Nguyễn Văn Long, 51 tuổi ở Đồng Tháp, sống bằng nghề nhặt ve chai cũng đã trả lại gần 1 tỷ đồng cho người đánh rơi. Ông nói: “Số tài sản đó rất lớn, cả đời chúng tôi làm chưa có được. Nhưng tôi nghĩ nó không phải của mình, còn người đánh mất sẽ rất khổ nên vợ chồng tôi quyết tâm tìm kiếm, trả lại cho bằng được”. Họ là những con người đã khẳng định: mọi sự rồi sẽ qua đi, chỉ còn tình yêu ở lại.

Tin Mừng hôm nay thuật lại cho chúng ta một ngày làm việc mệt nhọc của Đức Giêsu cũng là để thông cảm, chia sẻ kiếp sống với con người. “Vừa ra khỏi hội đường Caphacnaum, Đức Giêsu đi đến nhà hai ông Simon và Anrê” (Mc 1, 29). Sau khi chữa bệnh cho bà mẹ vợ ông Simon thì “cả thành xúm lại trước cửa” (Mc1, 32). Trong số này đa số là những người bệnh hoạn, tật nguyền. Chúng ta có thể hình dung ra cảnh tượng một đoàn người mù có, méo miệng có, cụt tay có, cụt chân có, bại liệt có,… Nếu bây giờ thì có cả những người ung thư, lao phổi, HIV… nữa. Nhiều người bệnh hoạn như vậy thì chắc hôi hám lắm; mùi dầu, mùi thuốc, mùi cơ thể… Vậy mà Đức Giêsu cũng ân cần đến với họ, chẳng những đến, mà Ngài còn đụng chạm và chữa lành cho họ. Việc Đức Giêsu làm xuất phát từ một tình yêu muốn cảm thông, chia sẻ những đau khổ với con người. Ngài khẳng định, dù thế nào thì vẫn còn tình yêu ở lại.

Mẹ Têrêxa Calcutta đã cảm nhận được những đau khổ của nhân loại, nên Mẹ đã dấn thân vì những con người đau khổ đó. Mẹ đem về nhà dòng của mẹ những người đau yếu bệnh tật, nhất là những người đang hấp hối, chờ chết. Trong số đó có cả những người nằm dưới ống cống, bên đống rác, lở loét, hôi thối, dòi bọ đã đục khoét da thịt của họ. Vậy mà Mẹ cũng đem về, tắm rửa, thay quần áo mới và để cho họ chết một cách êm ái như một con người. Sở dĩ Mẹ và những nữ tu của Mẹ làm được điều đó là vì Mẹ đã rập khuôn đời mình với Đức Giêsu, Đấng đến để cảm thông, chia sẻ và cứu vớt con người. Mẹ cũng đã khẳng định sau tất cả mọi sự vẫn còn tình yêu ở lại.

Ở trung tâm bảo trợ xã hội tỉnh Bạc Liêu, có một người đàn ông đi chăn trâu, gặp tai nạn, bị trâu giẫm lên. Vì vậy ông bị liệt nửa người từ thắt lung trở xuống. Nằm yên một chỗ mà không tự xoay trở được. Phần thịt chết hôi hám, bẩn thỉu. Vậy mà có một cô gái không quen biết thường xuyên đến thay đồ, tắm rửa, giặt giũ cho ông như cô con gái. Cô ta làm như vậy chắc chắn không có mục đích gì, mà xuất phát từ một tình yêu thương chân thành. Tôi bắt gặp nơi cô ta hình ảnh của một Đức Giêsu, Đấng đến để cảm thông, chia sẻ và cứu giúp con người. Cô ta đã khẳng định sau tât cả mọi sự vẫn còn tình yêu ở lại.

Cuối đoạn Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu đã bảo với các môn đệ “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng mạc chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa” (Mc 1, 38). Đây là sứ mạng của người Kitô hữu, chúng ta phải “đi đến những nơi khác” không phải theo nghĩa đen, mà là nghĩa bóng, có nghĩa là ở bất cứ nơi nào chúng ta hiện diện, chúng ta phải thể hiện được gương mặt của Đức Giêsu qua việc cảm thông và chia sẻ với con người, nhất là những người đau khổ. Chúng ta phải khẳng định : sau tât cả mọi sự vẫn còn tình yêu ở lại.

Tình yêu là nét đẹp cho đời, nhất là đời Kitô hữu. Vì vậy làm gì cũng được, làm như thế nào cũng được, miễn là làm “mọi sự vì đức ái”, làm vì tình yêu là được.

Chúa Nhật cuối cùng của năm cũ là dịp để chúng ta nhìn lại một năm qua. Chúng ta đã làm gì? được gì? còn lại điều gì? Trong tất cả những điều đó, có còn tình yêu ở lại? Được tất cả mọi sự mà không có tình yêu thì cũng sẽ mất hết như quy luật của vật chất. Mất mát nhiều quá do thiên tai, dịch bệnh, làm ăn không thuận lợi, gặp những điều không mong muốn… nhưng trong mọi sự chúng ta vẫn đặt niềm tin vào Chúa và chia sẻ tình yêu với mọi người; sau tất cả vẫn còn tình yêu ở lại.

Lạy Chúa, xin cho con biết làm “mọi sự vì đức ái”, vì có tình yêu là có tất cả. Không tình yêu thì có tất cả cũng như không.

Về mục lục

THIÊN CHÚA LÀ SỨC MẠNH CỦA ĐỜI NGƯỜI

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Dù là người đạo đức, đẹp lòng Chúa, ông Gióp không thoát những thách thức của phận người. Nhiều rủi ro bỗng dưng ập đến và đổ hết lên thân phận và kiếp người của ông. Ông mất tất cả con cái và cơ nghiệp. Ông lâm cảnh bất hạnh trong nháy mắt. Người bạn đời của ông cũng xỉ vả và bỏ ông mà đi.

Trong đau đớn cùng cực, ông chỉ còn thấy trước mắt sự vô nghĩa của cuộc đời: “Vừa nằm xuống tôi đã nhủ thầm: khi nào trời sáng; mới thức dậy, tôi liền tự hỏi: bao giờ chiều buông. Mãi tới lúc hoàng hôn, tôi chìm trong mê sảng”.

Nhưng bằng đức tin mạnh mẽ, ông Gióp vượt qua cái nhìn bi quan và nỗi khốn cùng của đời mình. Ông không tự gieo và lòng nỗi nghi nan ngờ vực nào. Ông không bao giờ xúc phạm Chúa. Ông vững tin Chúa sẽ giải cứu ông.

Cuối cùng, điều ông mong mỏi nơi Chúa được Chúa đáp đền. Chúa phục hồi cho ông danh dự và niềm vui. Lòng kiên trì phó thác nơi Chúa đã giúp ông nhận được muôn hồng ân Chúa ban…

Ngoài tấm gương thánh thiện của ông Gióp, chúng ta còn thấy bài học quý giá, mạnh mẽ hơn nhiều, đó là tấm gương của chính Chúa Giêsu.

Đoạn Tin Mừng của thánh Marcô được chọn cho Chúa nhật V thường niên kể lại ngày sống và làm việc mà Chúa Giêsu trải qua. Những trạng từ chỉ thời gian được nhắc đến, cho thấy sự tất bật của ngày sống ấy:
– Buổi sáng, Chúa giảng dạy và chữa bệnh cho nhạc mẫu của thánh Phêrô;
– Buổi chiều, cho đến khi mặt trời lặn, Chúa chữa rất nhiều bệnh nhân, kể cả người bị quỷ ám;
– Sáng sớm tinh mơ, Chúa đến nơi thanh vắng cầu nguyện cùng Chúa Cha.

Phần cuối của bài Tin Mừng còn cho thấy sự ra đi dấn thân cho Nước Trời, cho linh hồn con người mà Chúa Giêsu thực hiện là một cuộc lên đường không ngơi nghỉ. Chúa không dừng lại ở bất cứ nơi nào, nhưng cứ mãi tiếp tục sứ mạng nơi bất cứ làng mạc nào để loan Tin Mừng.

Lộ trình của Chúa không có kết. Chúa miệt mài vì tình yêu mà Chúa dành cho con người. Chúa hăng say vì hạnh phúc và sự sống đời đời của chính họ.

Như ông Gióp, không thiếu đớn đau, thậm chí thách thức nặng nề như muốn đánh gục mọi nỗ lực vươn lên, mọi cố gắng chống chọi của mỗi chúng ta.

Tuy nhiên, dù đau khổ như gắn liền phận người, nhưng nó cũng cho ta trưởng thành, cứng cáp, dẻo dai hơn. Nó tạo cơ hội để những ai còn thiện chí, lòng nhân có thể đến với nhau, cảm thông, an ủi và giúp đỡ nhau…

Trong mọi cảnh huống, dù bi đát đến đâu, hãy tin, Chúa yêu ta. Chúa trung thành, bền bỉ trong tình yêu thủy chung. Đừng dại dột nghĩ, đau khổ là hình phạt, nhưng tháp nhập vào thánh giá Chúa để mạnh mẽ nâng bản thân vượt qua.

Cần thấy: như Thiên Chúa, Chúa Giêsu luôn muốn sự tốt lành. Một ngày bận rộn của Chúa cũng chỉ xoay quanh sự giải phóng con người khỏi đau khổ.

Đau khổ là một trong những sự dữ mà Chúa luôn kháng cự lại. Chúa thương xót những kẻ đau khổ. Chúa tìm và mang điều tốt lành đến cho họ. Qua mọi thời, Chúa xua đuổi bóng tối của sự dữ, nỗi đau, tội lỗi, sợ hãi, thất vọng… là những thứ mà con người phải thường xuyên đối diện.

Và trong những buổi cầu nguyện của Chúa, chắc chắn cũng là những lời cầu nguyện hướng về chúng ta, cho chúng ta và vì chúng ta.

Để đứng vững trước mọi bão táp và tội lỗi, chúng ta hãy bắt chước Chúa Giêsu: Luôn đắm chìm trong sự kết hợp với Thiên Chúa. Dù đang làm việc hay nghỉ ngơi, hãy luôn đặt mình trong cái nhìn, trong sự quan sát của Thiên Chúa.

Hãy luôn vững tin vào Thiên Chúa như ông Gióp. Hãy hăng say làm việc để tìm kiếm Nước trời và không bao giờ bỏ quên đời sống cầu nguyện theo gương Chúa Giêsu.

Về mục lục

MỘT CON TIM MỚI MẺ

Lm. Minh Anh

“Hãy lui vào nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi một chút”.
Kính thưa Anh Chị em,

Sẽ rất bất ngờ khi Tin Mừng hôm nay cho thấy một kiểu đi nghỉ khác thường mà Chúa Giêsu mời các môn đệ Ngài cùng đi; qua đó, việc ‘nghỉ ngơi’ bên Chúa sẽ làm cho họ có được ‘một con tim mới mẻ’ như con tim của Ngài, một con tim cứu độ và xót thương.

Trở về sau những ngày rao giảng thấm mệt, và dẫu không nói ra điều đó, các môn đệ vẫn không tài nào giấu được đôi mắt tinh tường của Chúa Giêsu. Sẽ không ngạc nhiên, khi với lòng trắc ẩn, Ngài lập tức mời họ xuống thuyền; Tin Mừng nói, “Thầy trò chèo tới một nơi vắng vẻ hẻo lánh”. Ấy thế, khi thuyền vừa cập bến, đã có một đám đông đợi các ngài ở đó. Như vậy, những người này đã đoán trước Thầy trò Chúa Giêsu sẽ đến đó; hoặc chí ít, đã có sự ‘rò rỉ’ thông tin từ các tông đồ. Qua đó chúng ta thấy lòng khao khát mãnh liệt được ở bên Chúa nơi những con người đang kiếm tìm Ngài. Phải chăng đây cũng là cách đám đông ‘nghỉ ngơi’ bên Chúa; và phải chăng đây cũng là cách ‘nghỉ ngơi’ Chúa Giêsu mong muốn ở mỗi người chúng ta? Lạ thay! Ngài không bực nhọc; chẳng than thở, ‘Ôi chao, những người này không để mình yên dù chỉ một chút sao?’. Không, thay vào đó, “Thấy dân chúng thật đông, Ngài động lòng thương”. Như thế, Ngài vẫn luôn giữ cho mình ‘một con tim mới mẻ’ đầy cứu độ và thương xót ngay trong khoảng trời riêng tư của Ngài, Ngài chấp nhận thay đổi kế hoạch vì người khác.

Trong cuộc sống, sau khi phục vụ người khác chu đáo tận tình, ai trong chúng ta cũng muốn được nghỉ ngơi, đó là điều dễ hiểu; cả Chúa Giêsu cũng muốn điều này cho Ngài và các môn đệ. Thế nhưng, một điều cho phép Ngài ‘làm gián đoạn’ chương trình của mình chính là sự khát khao của những con người ‘muốn ở bên Ngài’ và ‘được nuôi dưỡng bởi Lời Ngài’; Ngài sẵn sàng gác lại tất cả để thoả mãn khát khao của họ. Như vậy, nơi Chúa Giêsu, xem ra không có ‘vacation’, kỳ nghỉ; nhưng chỉ có ‘salvation’, cứu độ. Cũng thế, đối với bất cứ ơn gọi nào, bậc sống nào hay hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn có quyền và có thể nghĩ đến một khoảng riêng tư của mình; thế nhưng, nhiều lúc trách nhiệm lại buộc chúng ta chọn lựa một cách khác, ‘chọn lựa gián đoạn’ kế hoạch của mình. Chúa Giêsu muốn chúng ta có ‘một con tim mới mẻ’, con tim cứu độ giữa kỳ nghỉ và giờ nghỉ.
Chìa khoá để chúng ta có được ‘một con tim mới mẻ’ như Chúa Giêsu chính là sự sẵn sàng; sẵn sàng với thời gian, sẵn sàng với sức lực của mình. Khi điều này xảy ra, chúng ta sẽ luôn luôn biết rằng, Thiên Chúa không bao giờ thua lòng quảng đại của một ai; Người ban những ân sủng không bao giờ ngờ tới để chúng ta có thể rộng rãi trao ban. Và tuyệt vời hơn, chính trong những thời điểm ngặt nghèo ‘bất tiện’ nhất này, ‘một con tim mới mẻ’ sẽ vui tươi làm những gì chợt đến, thì Thiên Chúa lại thường cho gặt hái những hoa trái mà đôi lúc suốt nhiều năm, chúng ta vất vả mà luống công; đó là lúc mà chính Chúa thực sự có thể biến đổi người khác.

Đang đi nghỉ ở Ireland, nhà sản xuất xe hơi, Henry Ford, được yêu cầu đóng góp cho một trại mồ côi mới xây. Ford đã viết một tấm check trị giá hai nghìn bảng Anh, và thông tin đó đã xuất hiện trên các tờ báo địa phương. Oái ăm thay, biên tập viên đã vô tình bất cẩn thông báo món quà là hai mươi nghìn bảng. Giám đốc trại các em mồ côi lo lắng điện thoại xin lỗi Ford, “Tôi sẽ gọi ngay cho biên tập viên và yêu cầu anh ta sửa lại”, anh nói. “Không cần thiết phải như vậy!”, Ford trả lời; và ông nhanh chóng viết tấm check mười tám nghìn bảng bổ sung.

Anh Chị em,
Dẫu bị quấy rầy giữa kỳ nghỉ, nhưng Henry Ford đã có một tấm lòng nhân ái đáng trân trọng. Với chúng ta, được nghỉ ngơi ‘vacation’ bên Chúa Giêsu, con tim của chúng ta sẽ đầy sự cứu rỗi, ‘salvation’ hơn Henry Ford biết bao! Trong những ngày này, khi có thời giờ hơn để nghỉ ngơi, nếu không được nghỉ việc như những anh em đang sống ở hải ngoại, chúng ta vẫn có thời giờ nhiều hơn. Đây là lúc chúng ta vào nơi thanh vắng để có thời gian ở bên người thân, làng xóm và nhất là được ở bên Chúa. Hãy dừng lại để định hướng cho một năm mới, nhìn lại những gì đã qua hầu làm mới lại con tim của mình. Đó chính là cách nghỉ ngơi đúng nghĩa mà Chúa Giêsu đang mong ước; và với ơn Chúa, sang năm mới, chắc chắn chúng ta sẽ có ‘một con tim mới mẻ’.

Chúng ta có thể cầu nguyện,
““Cúi lạy Chúa tôi, một năm qua rồi; ngày giờ quý báu, đâu còn trở lui”. Cám ơn Chúa, con được bình an qua một năm thế giới đầy tai ương và biến động. Trong những ngày hôm nay, xin cho con biết dành giờ ‘nghỉ ngơi’ bên Chúa nhiều hơn, biết sống tâm tình cảm tạ và sám hối; với ân sủng biến đổi của Chúa, chắc chắn con sẽ đi vào năm mới với ‘một con tim mới mẻ’”, Amen.

Về mục lục

MA QUỈ VÀ CHIÊU TRÒ CỦA CHÚNG

   Lm. Bosco Dương Trung Tín

   Đức Giê-su chữa nhiều kẻ ốm đau mắc đủ thứ bệnh tật và trừ nhiều quỉ, nhưng không cho quỉ nói vì chúng biết Người là ai.(Mc 1.34)

  Trong cuộc đời công khai rao giảng Phúc Âm của Đức Giê-su, ngoài việc chữa lành các bệnh nhân, Đức Giê-su còn trừ quỉ nữa. Chúng ta cùng tìm hiểu xem ma quỉ là ai và chiêu trò của chúng ra sao?

   Theo sách Giáo lý công giáo, thì ma quỉ là một thiên thần sa ngã : “Đằng sau sự chọn lựa bất tuân của các nguyên tổ, có một tiếng gọi quyến rũ chống lại Thiên Chúa, vì ganh tị với con người, đã đưa nguyên tổ sa vào cõi chết. Thánh Kinh và Thánh Truyền của Hội Thánh đã cho nhân vật đó là một thiên thần sa ngã gọi là Xa-tan hay ma quỉ. Hội Thánh dạy rằng, thoạt đầu đó là một thiên thần tốt do Thiên Chúa tác tạo. “Chắc chắn quỉ dữ và các thứ ma quỉ khác đều được Thiên Chúa sáng tạo với bản tính tốt lành, nhưng tự chúng đã trở nên xấu” (x. GLCG, số 391).

    Như chúng ta đã biết, “Ngay từ lúc khởi đầu, Thiên Chúa đã tạo dựng từ hư không cả hai loài thụ tạo là loài thiêng liêng và loài có hình thể. Nghĩa là các thiên thần và vũ trụ vật chất; kế đến là con người với tính chất của hai loài trên, vừa có tinh thần vừa có thể xác” (x. GLCG, số 327).

   Đó là điều mà chúng ta tuyên xưng trong kinh Tin Kính là “Tôi tin kính một Thiên Chúa toàn năng, Đấng tạo thành trời đất, muôn vật hữu hình và vô hình”. Loài vô hình là các thiên thần và linh hồn chúng ta. Loài hữu hình là những gì chúng ta nhìn thấy được, như cây cỏ, động vật, trăng sao, sông núi,….Đặc biệt là con người chúng ta, trong con người chúng ta có cả loài hữu hình và vô hình. Hữu hình là thân xác chúng ta; còn vô hình là linh hồn chúng ta. Các thiên thần thì không có thân xác; các thụ tạo khác như động vật và thực vật thì có thân xác mà có linh hồn. Con người thì có cả thân xác lẫn linh hồn.

   Các thiên thần, : “Với tư cách là thụ tạo thần linh, các ngài có trí năng và ý chí; các ngài có ngôi vị và bất tử. Các ngài hoàn hảo hơn mọi thụ tạo hữu hình. Vinh quang rực rỡ của các ngài chứng mình điều đó” (x. GLCG, số 330).

   “Tự bản thể, các thiên thần là những tôi tớ của Thiên Chúa và là sứ giả của Thiên Chúa”(x. GLCG, số 329).

   Kinh Thánh có nói đến một tội của các thiên thần này. Việc sa ngã là do các loài thụ tạo thần linh ấy đã tự do chọn lựa từ chối Thiên Chúa và vương triều của Người cách triệt để và dứt khoát. Cuộc nổi loạn này được phản ánh trong lời của Tên Cám Dỗ nói với các nguyên tổ: “Các ngươi sẽ nên như Thiên Chúa” (x. St 3,5); Ma quỉ là kẻ phạm tội ngay từ thưở sơ khai” (x. 1Ga 3,8) và là “cha sự dối trá” (x.Ga 8,44).

   “Không phải Thiên Chúa thiếu lòng thương xót, nhưng vì các thiên thần đó đã chọn lựa dứt khoát, cho nên tội của họ không thể tha thứ được. “Sau khi sa ngã, các thiên thần không còn có thể hối cải, cũng như con người không thể ăn năn xám hối sau khi chết” (x. GLCG, số 393).

   “Thế nhưng sức mạnh của Xa-tan không phải là vô hạn. Nó chỉ là một thụ tạo, có sức mạnh vì là thuần linh nhưng vẫn là thụ tạo, nó không thể ngăn chặn công trình xây dựng Vương triều của Thiên Chúa. Xa-tan hành động nơi trần thế do thù hận Thiên Chúa” (x. GLCG, số 395). “Công việc của Xa-tan là quyến rũ con người bất tuân Thiên Chúa” (x. GLCG, số 394).

    Xa-tan “thù hận” Thiên Chúa, vì Thiên Chúa đã đẩy chúng ra khỏi thiên đàng mà vào hỏa ngục. Rồi Xa-tan cũng ganh tị với con người chúng ta nữa. Chúng ganh tị, vì con người chúng ta sau khi phạm tội có thể ăn năn xám hối và được vào thiên đàng còn nó thì không. Nó không được vào thiên đàng, nên nó sẽ đi cám dỗ con người chúng ta bất tuân Thiên Chúa, để chúng ta vào hỏa ngục với nó.

   Lại nữa vì ma quỉ, chúng vô hình nên không cám dỗ được, chúng sẽ nhập vào người khác hay tìm những người làm tay sai cho chúng, để cám dỗ con người chúng ta. Chúng ta hãy xem ma quỉ cám dỗ thế nào.

   Thiên Chúa nói với A-đam : “Hết mọi cây trong vườn, ngươi cứ ăn, nhưng trái của cây biết điều thiện điều ác, thì ngươi không được ăn; vì ngày nào ngươi ăn, chắc chắn ngươi sẽ phải chết”(x. St 2,16-17). Chúa nói điều này cho A-đam, khi đó E-và chưa có. Nhưng khi Chúa dựng nên E-và rồi, thì A-đam đã nói cho E-và biết.

   Xa-tan nói với bà E-và : “Có thật Thiên Chúa bảo : Các ngươi không được ăn hết mọi trái cây trong vườn không?”. (x. St 3,1)

    E-và nói : Không. “Trái cây trong vườn thì chúng tôi được ăn, còn trái trên cây giữa vườn, Thiên Chúa bảo : Các ngươi không được ăn, không được động tới, kẻo phải chết”. (x. St 3, 2-3)

   Xa–tan nói : “Chẳng chết chóc gì đâu. Nhưng Thiên Chúa biết ngày nào ông bà ăn trái cây đó, mắt ông bà sẽ mở ra và ông bà sẽ nên như những vị thần, biết điều thiện điều ác” (x. St 3,4-5).

   Nghe vậy, “người đàn bà liền hái trái cây mà ăn và đưa cho cả chồng đang ở đó với mình, ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra và họ thấy mình trần truồng” (x. St 3, 6-7).

    Tội của ông bà nguyên tổ không phải là tội tham ăn mà là tội không nghe lời Thiên Chúa, mà nghe lời của ma quỉ. Tội bất tuân.

   Ngay nay, chúng ta thấy, ma quỉ vẫn dùng chiêu trò này để cám dỗ con người và dường như chúng thành công rất nhiều. Những người không được nghe Lời Chúa nói đã đành, ngay cả những người được nghe Lời Chúa, như các tín hữu công giáo chúng ta, có bao nhiêu người nghe Lời Chúa và đem ra thực hành?

    Nghe ở đây có nghĩa là tuân giữ; có nghĩa là đem ra thực hành; chứ nói “nghe không” thì quả thật có rất nhiều người nghe. Người ta thích nghe lời người đời hơn là nghe Lời Chúa. Lời của người đời nghe bùi tai hơn; dễ nghe lọt tai hơn, cũng dễ làm nữa vì nó phù hợp với bản tính yếu hèn và dễ làm điều xấu hơn là làm điều tốt. Lại nữa chúng lại có ích cho bản thân và có lợi trước mắt chúng ta.

    “Mật ngọt thì chết ruồi” đấy. Ông bà ta bảo không sai mà. Thế nhưng, người ta lại thích ngọt cơ, có chết cũng cam lòng. Cứ ăn cái đã, chết tính sau.

    Ma quỉ còn cám dỗ cả Đức Giê-su nữa. Chúng ta sẽ tìm hiểu điều đó trong Chúa Nhật thứ nhất Mùa Chay.

   Do đó, chúng ta hãy coi chừng, đừng nghe lời ma quỉ cám dỗ mà hãy nghe lời Đức Giê-su dạy và đem ra thực hành trong cuộc sống của mình.

      Nếu chúng ta không nghe lời Chúa dạy, thì :

    Cuộc sống của chúng ta nơi dương thế là thời khổ dịch; với những chuỗi ngày lao lung vất vả; đâu khác đời kẻ làm thuê; tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công.

   Gia tài của chúng ta sẽ là những tháng ngày vô vọng; số phận của chúng ta sẽ là những đêm đau khổ ê chề.

   Ngày đời của chúng ta thấm thoát hơn cả thoi đưa và chấm dứt không một tia hi vọng.

    Cuộc đời của chúng ta chỉ là hơi thở; mắt của chúng ta sẽ chẳng thấy hạnh phúc thật bao giờ. (x. G 7,1-7)

    Nếu chúng ta nghe lời Chúa dạy, thì :

   Cuộc sống của chúng ta nơi dương thế, dù là thời khổ dịch; với những chuỗi ngày lao lung vất vả; đâu khác đời kẻ làm thuê; tựa người nô lệ mong bóng mát, như kẻ làm thuê đợi tiền công.

    Nhưng Gia tài của chúng ta sẽ là những tháng ngày hi vọng; số phận của chúng ta sẽ là những đêm sung sướng tràn trề.

   Dù ngày đời của chúng ta thấm thoát hơn cả thoi đưa nhưng sẽ chấm dứt trong một chùm hi vọng.

   Cuộc đời của chúng ta dù chỉ là hơi thở nhưng mắt của chúng ta sẽ thấy được hạnh phúc thật. Hạnh phúc bây giờ và hạnh phúc mai sau.

    Vậy, chúng ta hãy ăn cho ngon tất cả những gì Chúa dựng nên cho chúng ta ăn, để chúng ta mạnh về phần xác; khỏe về phần hồn; mắt chúng ta hãy mở to mà nhìn cho rõ đâu là lời của ma quỉ, đâu là Lời của Chúa; đâu là điều tốt, đâu là điều xấu mà chọn lựa và đem ra thực hành. Ma quỉ có cám dỗ, mà chúng ta không nghe, không làm theo thì chúng cũng bó tay thôi; không là gì được chúng ta đâu.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...