06/03/2024
84

CHÚA NHẬT 4 MÙA CHAY_B

Lời Chúa: 2Sb 36,14-16.19-23;  Ep 2,4-10;  Ga 3,14-21
----------------------------

Mục lục

  1.  Đấng giải thoát.  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  2. Lời Chân Thật(Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc)
  3. Thiên Chúa Yêu Chúng Ta Như Chính Con Một Ngài(Lm. Ngọc Dũng, SDB)
  4. Hòa Giải Với Thiên Chúa(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
  5. Tiến về ánh sáng cứu độ  (Jorathe Nắng Tím)
  6. Chuộng bóng tối hơn ánh sáng  (Lm. Thái Nguyên)
  7. Mùa Chay hành trình trở về  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  8. Muốn và được    (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  9. Tin vào Thiên Chúa tình yêu  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)
  10. Nhìn lên Thập giá  (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)
  11. Thập giá, tột đỉnh tình yêu  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  12. Ánh sáng, bóng tối  (Lm. Vũ Đình Tường)
  13. Thiên Chúa luôn tha thứ  (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)
  14. Tin Đấng bị treo  (Trầm Thiên Thu)
  15. Món quà tuyệt vời (Thiên San, MTG.Thủ Đức)
  16. Tình yêu và giá chuộc  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  17. Niềm tin và hành động (Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)
  18. Thiên Chúa yêu thế gian  (Lm. Giuse Nguyễn)
  19. Thập giá yêu thương, Thập giá cứu độ (Lm. Antôn Phạm Trọng Quang, SVD)
  20. Khắc sâu tâm niệm này  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)
 

ĐẤNG GIẢI THOÁT.

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Sống ở đời, chúng ta bị ràng buộc tư bề. Con người bị ràng buộc do lối sống ích kỷ, do những thành kiến mặc cảm, và cũng có thể do những tham vọng đam mê và nhất là do tội lỗi. Vì những ràng buộc này, con người trở thành nô lệ của chính mình, và họ luôn giãy giụa tìm cách để thoát ra khỏi vòng nô lệ ấy. Phụng vụ Chúa nhật IV Mùa Chay muốn khẳng định với chúng ta: Thiên Chúa là Đấng giải phóng và làm cho con người được tự do.

Dân Do Thái đang chán nản đau buồn trong cảnh lưu đày ở Babylon. Họ phải sống trong cảnh tủi nhục nơi đất khách. Không còn đền thờ, chẳng còn tư tế, vắng bóng các sinh hoạt truyền thống và các nghi thức tế tự. Lòng người Do Thái quặn đau nơi lưu đày. Họ không thể gượng vui mà hát xướng trước thái độ ngạo mạn của người bản địa. Những người đạo đức luôn hoài niệm về quá khứ. Họ hướng về Giêrusalem với đôi mắt đẫm lệ. Trong bối cảnh ấy, Chúa dùng vua Cyrus, vua Ba Tư, cứu dân khỏi ách lưu đày và quyết định cho họ trở về quê cha đất tổ. Khỏi phải nói, niềm vui của dân lưu đày vỡ oà. Họ nhận ra Cyrus là vị cứu tinh. Họ coi ông là người của Thiên Chúa đến để giải phóng dân riêng của Ngài và đưa về bến bờ tự do.

Nếu Thiên Chúa đã dùng ông Cyrus để cứu dân tộc Do Thái khỏi ách lưu đày ở Babylon, thì qua Đức Giêsu, Thiên Chúa muốn cứu độ cả thế gian, mọi nơi, mọi thời. Ngài không cứu thế gian khỏi ách nô lệ của một chế độ, nhưng là ách nô lệ của tội lỗi, của quyền lực tối tăm. Bài Tin Mừng ghi lại cuộc đàm đạo vào ban đêm giữa Chúa Giêsu và ông Nicôđêmô. Ông này là thành viên Công nghị Do Thái, tạm coi như thành viên của quốc hội. Ông cảm phục giáo huấn của Chúa Giêsu, nhưng còn nhiều điều băn khoăn nên đến gặp Người để khai thông trí tuệ. Chúa Giêsu đã nói với ông về tình thương của Thiên Chúa Cha. Tình thương ấy được chứng minh qua Ngôi Lời nhập thể, chính là người đang đàm đạo với ông về những thực tại thiêng liêng. Đức Giêsu cũng khẳng định với ông Nicôđêmô: Thiên Chúa sai con của Ngài đến để giải phóng nhân loại. Ai tin vào Người thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời. Những ai tin vào Chúa Giêsu sẽ được giải thoát khỏi ách nô lệ của tội lỗi và quyền lực tối tăm. Tình thương của Thiên Chúa được chứng minh qua mầu nhiệm thập giá. Đức Giêsu đã nhắc tới con rắn đồng được treo trong sa mạc thời ông Môisen (x. Dân số 21,3-9) như hình ảnh báo trước cây thập giá. Đương nhiên, Tin Mừng được viết sau biến cố thập giá và phục sinh, nên tác giả muốn diễn tả qua hình ảnh con rắn đồng cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá. Cũng như con rắn mang lại sức chữa lành cho dân Do Thái – những người bị rắn cắn – cái chết của Chúa Giêsu và sự phục sinh của Người cũng chữa lành những vết thương của con người do tội lỗi gây ra.

Chúa Giêsu khẳng định: một trong những điều kiện căn bản để được cứu độ hay được ơn giải thoát, đó là Đức tin vào quyền năng Thiên Chúa. Tin là tự do chọn lựa Chúa và dấn thân sống hết mình vì chọn lựa đó. Nếu bạn tin vào Chúa, bạn sẽ tìm được sự sống, sẽ được cứu độ trong ngày xét xử, sẽ được ánh sáng chiếu soi. Một khi tin vào Chúa thì những hành động của bạn sẽ là những việc thiện lương. Bởi lẽ bạn không thể tin vào Chúa mà lại có một lối sống ngược lại với điều bạn tuyên xưng.

Một cách cụ thể, tin vào Chúa là tin vào Đức Giêsu Kitô. Tin vào Chúa không chỉ có nghĩa là tin Ngài đang hiện diện, mà còn là thiện chí thực hiện những điều Chúa Giêsu dạy. “Ai khước từ Thày là khước từ Đấng đã sai Thày”(Lc 10-16). Đức Tin giải thoát chúng ta khỏi sự chết và đem lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu. Đón nhận và thực hiện lời Chúa Giêsu là tuyên xưng Đức Tin vào Thiên Chúa cách hữu hiệu nhất. Nhờ việc tuân giữ giáo huấn của Người, chúng ta trở nên những tác phẩm của Thiên Chúa, được canh tân trong Chúa Giêsu, nên con người hoàn thiện, và như thế, chúng ta làm cho ánh vinh quang của Ngài tỏa rạng qua cuộc đời của chúng ta (x. Bài đọc II).

Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu vào ban đêm đã làm cho ông Nicôđêmô thay đổi cuộc đời. Từ một người còn nghi ngờ, dè dặt, ông đã trở nên môn đệ của Chúa. Ông không còn sợ hãi nữa, trái lại, ông đã công khai biện hộ cho Chúa Giêsu nơi những người biệt phái (x. Ga7,51) và đã cộng tác trong việc an táng Chúa Giêsu (x. Ga 19,39). Một điều đáng chú ý là khi Chúa chịu chết đau thương trên thập giá, cũng chính là lúc ông Nicôđêmô sẵn sàng từ bỏ công danh sự nghiệp để công khai nhận mình là môn đệ của Chúa Giêsu. Thông thường ở đời, người ta đi theo và tôn vinh một người chiến thắng, không mấy ai chấp nhận đi theo một người bị lên án tử hình, như trường hợp ông Nicôđêmô.

Mùa Chay là thời điểm sống Đức tin một cách mãnh liệt hơn. Phụng vụ khẳng định: nếu thành tâm tin vào Chúa, chúng ta sẽ tìm được niềm vui ở đời này và hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta lựa chọn đứng về phía ánh sáng hay bóng tối? Chúng ta đang làm việc thiện hay việc ác? Chúng ta đang bảo vệ sự sống hay cổ võ sự chết? Tất cả những vấn nạn này cần được trả lời bằng cuộc sống cụ thể của mỗi người.

“Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Ngài thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”. Hãy nhìn lên cây thập giá để tôn vinh Chúa là Đấng giải phóng, để biết Chúa yêu chúng ta đến dường nào. Từ cây thập giá, chúng ta học được những bài học cần thiết trong mối tương quan với Chúa và cách ứng xử với anh chị em.

Về mục lục

LỜI CHÂN THẬT

Lm Jos. DĐH, Gp. Xuân Lộc

Mơ ước thành công, hạnh phúc, hoàn toàn chính đáng với con người qua các thời đại. Thích nghe những lời hay ý đẹp, hiểu mình, hiểu bạn, giúp nhau trải nghiệm và sống như thế nào để đạt tới cùng đích đời người ? Đâu nhất thiết phải tài giỏi, bằng cấp cao, mới lưu danh hậu thế, mới có thể chu toàn trọng trách bổn phận với gia đình xã hội. Điều mà người quân tử ngày đêm suy tư trằn trọc là “đức hạnh”, điều mà kẻ tiểu nhân lo nghĩ chính là bổng lộc, lợi ích. (Khổng Tử). Ông Nicôđêmô là thành viên của hội đồng Do-thái, là một biệt phái uy tín trong dân, ông đến gặp Đức Giêsu hẳn không phải vì uy quyền hay bổng lộc, mà là muốn được nghe, được hiểu về những điều sâu thẳm nơi tâm hồn. Đức Giêsu nhắc lại việc “nhìn lên con rắn đồng” để được sống, và tin vào Đấng chịu treo trên thập giá để được sống đời đời là do tình yêu thương của Thiên Chúa.

Cha ông chúng ta nói: chân thành và sự thật là cơ sở của mọi đức tính. Ông Nicôđêmô đến gặp Đức Giêsu ban đêm có phải đã là cởi mở, chân thành, dù tình yêu và niềm tin, ngày một ngày hai không thể hiểu ! Con rắn đồng liên quan đến chuyện sống chết ở quá khứ: cứ nhìn lên là sống, ai không nhìn lên là chết. Đức Giêsu nói ở hiện tại và tương lai, không phải chỉ là nhìn lên, mà ai cũng phải tin vào Đấng chịu treo mình trên đó mới được cứu. Gặp, đối thoại để hiểu, nhìn và tin để có sự sống đời đời, rất cần đến thời gian để tình yêu thấm nhuần. Yêu đâu phải là một tiếng, hai tiếng, ở bên nhau, mà đôi bên cần phải được chứng minh bằng thời gian. Cuộc trao đổi về “sinh lại bởi nước và Thần khí” không phải do kinh nghiệm hay bởi công thức có sẵn, nhưng từ việc tin và yêu. Thiên Chúa yêu thế gian được cụ thể bằng việc ban Con Một đến, để nhận lãnh niềm vui ơn cứu độ, tất cả đều phải tin và sống niềm tin đó.

Tiếp nối truyền thống tin yêu của cha ông, ai cũng có cơ hội gặp gỡ đối thoại, dù thao thức hạnh phúc luôn có sẵn trong mỗi người, bóng tối và ánh sáng vẫn đan xen với nhau. Người tốt kẻ xấu, lời hay ý đẹp, công việc làm ăn mờ ám, niềm vui bình an, đau khổ hạnh phúc, sống và chết, vẫn luôn chi phối con người, dù chúng ta có cơ hội để tin Đức Giêsu, Đấng đã đến ! Kinh nghiệm ở đời cho rằng: hạnh phúc đơn giản, bình dị, không cần những lời bay bổng có cánh như trong tiểu thuyết, văn thơ … Lời chân thành, việc làm rõ ràng, phản ánh vẻ đẹp của tình yêu và phong cách sống thật, vui thật, bởi chân lý không thay đổi, hạnh phúc luôn mời gọi. Lời chân thành, việc làm có tính thuyết phục, chưa chắc đã mang lại cho ta nhiều bạn bè, tuy nhiên, thành thật luôn mang đến cho ta những tình bạn đúng nghĩa.

Ông Nicôđêmô một biệt phái tìm đến Đức Giêsu, đáng được coi là chân thành, dù ông được xem là môn đệ trong “bóng tối”, vấn đề không phải là gặp, là nhìn, là nghe, quan trọng tâm hồn bình an, hạnh phúc. Người xưa nói rằng: bạn sẽ có tất cả khi niềm tin đã chín mùi, chỉ không phải tất cả sẽ đến cùng một lúc. Ông Nicôđêmô là vị thầy uy tín trong Do-thái, nhưng phải chăng ông vẫn thao thức có được một điều cao quý hơn nữa nơi Thầy Giêsu ? Người kitô hữu chúng ta cho rằng niềm tin và tình yêu ai cũng được ban tặng, còn việc thích ánh sáng và sợ bóng tối, tuỳ thuộc tự do mỗi người đang sử dụng ơn ban đức tin đó thế nào ? Dù suy nghĩ nông hay sâu, chúng ta vẫn hiểu bóng tối dẫn đến đau khổ sự chết, ánh sáng biểu lộ niềm vui và sự sống thật, hạnh phúc thật. Ông Nicôđêmô tìm gặp Đức Giêsu trong tư cách là “thọ giáo” khác với tư cách là thủ lãnh, trong khi Đức Giêsu nói lời chân thật với ông trong sứ vụ Con Thiên Chúa.

Đức Giêsu rất chân thành khi nói: “ai hành động xấu thì ghét ánh sáng, ai hành động trong sự thật thì đến cùng ánh sáng, để hành động của họ được sáng tỏ là họ đã làm trong Thiên Chúa”. Cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và chúng ta sẽ ý nghĩa biết bao, nếu mỗi người đủ khiêm tốn lắng nghe, để hiểu, để tin, để sống thật với tình yêu mà Chúa Cha đã ban tặng nơi Đức Giêsu Kitô. Có hai bạn trẻ tranh luận với nhau, một bạn nói rằng: tận cùng của tình yêu phải là hôn nhân. Bạn kia thì nói trong hôn nhân thì tận cùng phải là hạnh phúc đến lúc đầu bạc răng long. Họ đã tìm một cụ già uy tín để xin một đáp án. Cụ già đã trả lời hai bạn, chúng con hãy nhìn lên cây thập giá, suy gẫm, cầu nguyện, hẳn chúng con sẽ hiểu tận cùng của tình yêu là gì ?

Hạnh phúc mà người đời quan niệm: đủ ăn đủ mặc, đủ bình an, tình yêu, được như vậy là ổn ! Quả thực, nếu hạnh phúc chỉ cần được dồi dào vài thứ: đủ, được, giầu sang phú quý, địa vị danh vọng, vợ đẹp con ngoan, cả ông Nicôđêmô và nhiều người trong chúng ta đã đạt tới rồi. Đức Giêsu qua ông Nicôđêmô, Ngài vẫn gián tiếp mời gọi hãy nhìn lên cây thập giá, hãy tin, hãy cậy trông, hãy sống để minh chứng thứ hạnh phúc thật mà chúng ta khao khát chỉ có nơi Đấng đã đến thế gian, đã thắng thế gian. Lời nói chân thành, việc làm chân thành, tin Đức Giêsu là Thầy là Chúa, hẳn còn phải sống niềm tin Đức Giêsu Đấng cứu độ trần gian, dù khổ đau thập giá luôn là cám dỗ đáng sợ. Xin Đấng chịu treo trên thập giá, phù giúp chúng con biết tín thác vào tình yêu của Chúa, sống trọn vẹn hành trình làm con Chúa.

Về mục lục

THIÊN CHÚA YÊU CHÚNG TA NHƯ CHÍNH CON MỘT NGÀI

Lm. Ngọc Dũng, SDB

Tác giả sách Sử Biên Niên trong bài đọc 1 hôm nay kể cho chúng ta nghe về “lịch sử cứu độ” mà Thiên Chúa đã thực hiện để cứu dân Israel. Lịch sử này được viết lên với kiểu mẫu như sau: Con cái Israel lỗi phạm đến Đức Chúa – Đức Chúa giáng phạt con cái Israel – con cái Israel sám hối – Đức Chúa xót thương tha thứ. Thật vậy, bài đọc 1 đã thuật lại cho chúng ta thấy con cái Israel đã làm cho nhà Đức Chúa trở nên ô uế: “Khi ấy, tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế” (2 Sb 36:14). Dù dân Israel bất trung với Đức Chúa, Ngài vẫn không bỏ rơi họ. Ngài vẫn tiếp tục sai các sứ giả đến kêu gọi họ trở về với Ngài, “vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người” (2 Sb 36:15). Nhưng con cái Israel đã “khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa” (2 Bs 36:16). Con cái Israel đã bị lưu đày qua Babylon cho đến khi lời các Tiên Tri được ứng nghiệm (x. 2 Bs 36:22). Đức Chúa đã dùng một vị vua của “dân ngoại” để đưa con cái Israel trở về với quê cha đất tổ và tái thiết lại ngôi nhà của Đức Chúa. Nhìn vào lịch sử này, chúng ta thấy Đức Chúa luôn trung thành với lời hứa của Ngài dù cho dân Israel không trung thành với lời hứa của mình. Lịch sử này phản ánh lịch sử cuộc đời mỗi người chúng ta. Nhiều lần chúng ta cũng bất trung với Đức Chúa, đã lỗi phạm đến Ngài, nhưng Đức Chúa vẫn yêu thương và chờ đợi chúng ta quay về với Ngài. Ngài vẫn đồng hành với chúng ta, nhất là trong những nỗi truân chuyên của cuộc sống. Chúng ta có sẵn sàng phó thác đường đời để được Chúa hướng dẫn và chăm sóc không?

Trong bài đọc 2 hôm nay, Thánh Phaolô trình bày cho các tín hữu Êphêsô về những điều Chúa Giêsu đã mang lại cho những người tin vào Ngài. Thánh nhân bắt đầu với việc vẽ lên bức tranh tương phản con người bẩm sinh và con người được Chúa Kitô cứu độ. Những người sống theo bẩm sinh là những người sống “theo trào lưu của thế gian này, theo tên thủ lãnh nắm giữ quyền lực trên không trung, tên ác thần hiện đang hoạt động trên những kẻ không vâng phục” (Ep 2:1-2). Không những thế, những người sống theo bẩm sinh là những người “buông theo các đam mê của tính xác thịt, thi hành những ước muốn của tính xác thịt và của trí khôn. Bẩm sinh chúng tôi là những kẻ đáng chịu cơn thịnh nộ của Thiên Chúa, như những người khác” (Ep 2:3). Còn những người được Chúa Giêsu cứu độ là những người “được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời” (Ep 2:6). Tuy nhiên, Thánh Phaolô khuyến cáo rằng việc chúng ta được cứu độ không phải là do công trạng của chúng ta, nhưng là ân huệ của Thiên Chúa, nên chúng ta không có gì để tự phụ (x. Ep 2:8-9). Chính ân huệ của Thiên Chúa đã biến chúng ta thành những “tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta” (Ep 2:10). Những lời này giúp chúng ta nhận ra giá trị cao quý của mình. Chúng ta là những tuyệt phẩm của Thiên Chúa. Chúng ta sống là để thực hiện công trình tốt đẹp mà Ngài đã chuẩn bị cho chúng ta, đó là được chia sẻ trong tình yêu và sự sống của Ngài. Thật vậy, mục đích tối hậu của đời người là được chia sẻ trong tình yêu và sự sống của Thiên Chúa. Để đạt được điều này, chúng ta phải tránh đi lối sống “bẩm sinh” của mình và hoàn toàn sống trong sự sống mới mà Đức Kitô đã mang lại cho chúng ta.

Trình thuật Tin Mừng hôm nay được trích trong cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với Nicôdđêmô (Ga 3: 14-15) ám chỉ việc sinh ra bởi Thần Khí chỉ được mạc khải khi Ngài được giương cao trên thập giá: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” Trong ba phần từ lời giải thích của Chúa Giêsu, điều đáng để chúng ta suy gẫm đó là lời khẳng định của Ngài: rằng chỉ nơi Ngài chúng ta mới tìm được những “kiến thức cần thiết về Thiên Đàng.” Ai trong chúng ta cũng muốn lên Thiên Đàng và chúng ta loay hoay tìm đủ mọi cách để đạt đến điều đó. Nhưng nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta lại đi tìm không đúng chỗ. Chúng ta đi tìm trong sách vở để có được những tư tưởng vĩ đại về Thiên Đàng. Nhưng rồi khi trở về với thực tế của cuộc sống, thay vì sống với nhau và làm chứng cho nhau về Thiên Đàng qua đời sống yêu thương và tha thứ, chúng ta làm tổn thương nhau qua những lời ăn tiếng nói và cử chỉ không phải “của Thiên Đàng,” không phải của những người sinh ra bởi Thần Khí, mà là của những người sinh ra bởi thân xác. Để biết được Thiên Đàng là gì, hãy đến với Chúa Giêsu. Những ai có Chúa Giêsu trong đời sẽ cảm nếm được Thiên Đàng là gì và có khả năng biến nơi mình sống trở nên Thiên Đàng cho người khác nếm cảm. Một gia đình hay một cộng đoàn tu trì chỉ trở nên Thiên Đàng khi mỗi thành viên có Chúa trong con tim, và khi có Chúa Giêsu là vị trí trung tâm trong chính gia đình hay cộng đoàn của mình.

Thánh Gioan trình bày cách rõ ràng cho chúng ta mục đích Chúa Cha sai Con Một đến trong thế gian trong bài Tin Mừng hôm nay. Thánh sử đã đưa vào trong cuộc đối thoại của Chúa Giêsu với Nicôđêmô câu chuyện nói về việc Chúa Cha sai Con Một đến để mang sự sống cho thế gian. Chúng ta không thể không cảm thấy hạnh phúc và an ủi khi nghe những lời đầy yêu thương này: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Động lực để Thiên Chúa sai Con Một của Ngài là vì yêu chúng ta. Tự bản chất, Thiên Chúa là tình yêu, nên tất cả những gì Ngài làm cũng đều phát xuất từ tình yêu. Những gì phát xuất từ tình yêu luôn mang lại niềm vui và sự sống. Tình yêu luôn vượt qua sự chết và đau khổ. Nhìn từ khía cạnh này chúng ta hiểu được phần nào ý nghĩa của những lời trên. Tuy nhiên, để được sự sống muôn đời, chúng ta cần phải tin vào Con Một Thiên Chúa, là ‘sự nhập thể của tình yêu Thiên Chúa’ cho con người có thể đụng chạm đến và cảm nghiệm cách cụ thể qua đời sống thường ngày.

Đề tài đức tin trở nên tâm điểm của bài Tin Mừng: “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa” (Ga 3:17-18). Đức tin sẽ là tiêu chuẩn để phân biệt người bị lên án hoặc không bị lên án. Ở đây, chúng ta thấy một câu khẳng định mang tính Kitô học, đó là ơn cứu độ chỉ có được nơi Đức Kitô. Chính niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng yêu thế gian đến nỗi ban con một của mình là điều mang lại cho chúng ta sự an ủi và cũng là một thách đố cho chúng ta. An ủi vì chúng ta biết Thiên Chúa luôn yêu chúng ta và mọi sự Ngài làm cho chúng ta xuất phát từ tình yêu vô bờ bến của Ngài; thách đố vì chúng ta được mời gọi sống xứng đáng với tình yêu đó để không phải bị lên án. Thông thường, chúng ta nghĩ rằng đức tin là một cái gì đó rất trừu tượng. Thật ra, đức tin là ‘sự gặp gỡ cá vị giữa tôi với Chúa.’ Chính trong cuộc gặp gỡ cá vị này mà chúng ta cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa, cũng như qua đó chúng ta diễn tả tình yêu của mình dành cho Ngài. Tóm lại, chính việc gặp gỡ Chúa Giêsu mỗi ngày sẽ giúp chúng ta hiểu được tình yêu của Thiên Chúa.

Bài Tin Mừng kết thúc với hình ảnh quen thuộc trong Tin Mừng, đó là sự tương phản giữa ánh sáng và bóng tối: “Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác, thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật, thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa” (Ga 3:19-21). Như chúng ta biết, ánh sáng là một trong những biểu tượng quan trọng trong đêm vọng phục sinh và trong mùa phục sinh. Ánh sáng từ cây nến phục sinh, từ chính Chúa Giêsu phục sinh soi chiếu cho ta “biết bao điều cảm mến sướng vui.” Chính trong ánh sáng của Chúa Giêsu phục sinh mà chúng ta có thể phân biệt được bóng tối của sự chết, của con người cũ đang còn lại trong chúng ta. Thánh Gioan chỉ rõ cho chúng ta thấy ai là người sống trong ánh sáng phục sinh, đó là những người mà việc làm của họ không bị chê trách. Họ là những người luôn sống theo sự thật, nơi họ không có một dấu tích gì của Satan, cha của những kẻ gian dối. Là những người đang sống trong ánh sáng phục sinh của Chúa Giêsu, chúng ta hãy thực hiện tất cả mọi việc của mình trong Thiên Chúa, tức là trong tình yêu.

Về mục lục

HÒA GIẢI VỚI THIÊN CHÚA

 Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Tuần 4 Mùa Chay, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã sai Con Một giáng trần để thực hiện công trình kỳ diệu là cho loài người được hòa giải với Chúa. Xin Chúa ban cho toàn thể Dân Chúa khắp hoàn cầu được lòng tin sống động mà hăm hở đón mừng lễ Vượt Qua sắp tới.

Con người được hòa giải với Thiên Chúa qua trung gian các tư tế. Các tư tế cầu thay nguyện giúp cho Dân Chúa và chuyển phúc lành của Thiên Chúa đến cho Dân của Người. Trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, sách Lêvi tường thuật lại nghi thức tấn phong các tư tế trong Cựu Ước, đồng thời cho ta thấy vai trò quan trọng của cơ cấu này trong lịch sử Dân Chúa. Tư tế không chỉ là người dâng hy lễ, nhưng trên hết, tư tế là người giữ kho tàng hiểu biết về Thiên Chúa, là tôn sư dạy người ta giữ Giao Ước. Trong dòng tộc Lêvi, có nhiều người kế tiếp nhau làm tư tế, bởi vì họ phải chết, không thể giữ chức vụ đó mãi. Còn Đức Giêsu, chính vì Người hằng sống muôn đời, nên phẩm vị tư tế của Người tồn tại mãi.

Con người được hòa giải với Thiên Chúa qua cái chết của Đức Kitô. Trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Autinh đã nói: Đức Kitô đã chết để giải thoát chúng ta khỏi cái chết. Thiên Chúa đã sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án chúng ta, nhưng để chúng ta nhờ Con của Người mà được cứu độ. Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy. Ta hãy hướng nhìn lên Chúa Giêsu, Đấng đã chịu khổ hình thập giá.

 Con người được hòa giải với Thiên Chúa, bởi vì, Thiên Chúa giàu lòng xót thương, Người giận trong giây lát, nhưng yêu thương suốt cả đời. Trong bài đọc một của Thánh Lễ, sách Sử Biên Niên quyển thứ hai cho thấy: Thiên Chúa đã dùng vua Kyrô để giải cứu Dân của Người và cho tái thiết Đền Thờ Giêrusalem. Do đó, trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 136, vịnh gia đã kêu gọi: Dù cho có bị đày ải, cực khổ thế nào, thì hãy cứ cậy trông vào Chúa, đừng lãng quên Giêrusalem, đừng lãng quên Lòng Thương Xót của Chúa: Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi, lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm. Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Xion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn.

Con người được hòa giải với Thiên Chúa, bởi vì, Thiên Chúa đi bước trước đến hòa giải với con người, tuy nhiên, con người phải tin vào Đấng mà Chúa Cha sai đến. Trong bài Tin Mừng, Đức Giêsu đã nói với ông Nicôđêmô rằng: Ai tin vào Con của Người, thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin, thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa. Và đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa.

Con người được hòa giải với Thiên Chúa, bởi vì, Thiên Chúa luôn đi bước trước đến với con người, Người không tiếc gì với con người, ngay cả, ban Con Một cho con người, như câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay: Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người, thì được sống muôn đời. Thiên Chúa: Người tình vĩ đại nhất; yêu: hành động vĩ đại nhất; thế gian: con số vĩ đại nhất; đến nỗi: mức độ vĩ đại nhất; đã ban: sự trao hiến vĩ đại nhất; Con Một: quà tặng vĩ đại nhất; để: mục đích vĩ đại nhất; ai: người yêu vĩ đại nhất; tin vào: sự tín thác vĩ đại nhất; Con của Người: Ngôi Vị vĩ đại nhất; thì khỏi phải chết: sự giải thoát vĩ đại nhất; nhưng: sự khác biệt vĩ đại nhất; được: sự đảm bảo vĩ đại nhất; sống muôn đời: gia nghiệp vĩ đại nhất. Ước gì chúng ta luôn biết quảng đại đáp lại tình yêu vĩ đại của Chúa dành cho chúng ta. Ước gì được như thế!

Về mục lục

TIẾN VỀ ÁNH SÁNG CỨU ĐỘ

Jorathe Nắng Tím 

Muà Chay không là mùa tang thương, thất vọng nhưng là mùa của Yêu Thương, Hy Vọng, muà Thiên Chúa tỏ lòng nhân hậu, bao dung, và tội nhân được nhìn thấy và tiến về ánh sáng  cứu độ.

Bài đọc thứ nhất ghi lai bối cảnh lịch sử của Ítraen vào năm 586 trước công nguyên, thời điểm Đền Thờ Giêrusalem bị tàn phá bởi quân đội Babylon với cảnh tượng thật đau thương, kinh hoàng: Vua Canđê tiến đánh Ítraen ; “vua này dùng gươm giết các thanh niên ngay trong Thánh Điện của họ, chẳng chút xót thương, bất kể thanh niên thiếu nữ, kẻ đầu xanh cũng như người tóc bạc… Quân Canđê đốt nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá hủy mọi đồ đạc qúy giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm, thì vua bắt đi đày ở Babylon ; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị” (2 Sb 36,17.19 -20). Và suốt 70 năm bị lưu đầy trên đất Babylon, người dân Ítraen đã không một ngày nguôi ngoai nỗi đau mất nước, nỗi nhớ quê hương, nỗi tủi nhục không còn Đền Thánh, nỗi khổ làm thân nô lệ, nên thường rủ nhau ra bờ sông Babylon nức nở khóc tưởng nhớ Xion (x. Tv 136).

Trong nước mắt ngậm ngùi trên đất Babylon những năm tháng dài nô lệ, Ítraen vẫn được các ngôn sứ của Thiên Chúa nhắc bảo : “Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ hằng thương xót dân và thánh điện của Người” (2Sb 36,15). Và này, Thiên Chúa đã dùng tay Kyrô, vua Ba Tư cất gánh nô lệ, và trả tự do cho dân, đồng thời cho họ được trở về quê hương, xây dựng lại Đền Thờ, như chính lời vua phán : “Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên…!” (2Sb 36,23).

Ai có thể tả được niềm vui của một dân tộc từ bẩy mươi năm nay phải sống trong cảnh tang thương vì mất nước, trong sầu muộn vì phần lớn đã bị tiêu diệt, trong vất vả, nhục nhằn vì những ai sống sót phải biệt xứ làm nô lệ bỗng dưng  được trả tự do, được hồi hương, và xây dựng lại đất nước? Ai hiểu được nỗi sung sướng của những người ở tận cùng bất hạnh bỗng nhiên được Thiên Chúa xót thương, ban lại hạnh phúc đã mất?

Thực vậy, những gì Thiên Chúa đã thực hiện với dân Ngài trong Cựu Ước, Ngài cũng làm như vậy với mọi dân tộc trong Tân Ước. Nếu vì lòng thương xót, Thiên Chúa Giavê đã cứu dân Ngài khỏi những năm tháng dài nô lệ ở Babylon, thì Thiên Chúa của Đức Giêsu, Đấng “giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta”, cũng cứu chúng ta khỏi chết vì sa ngã và “cho chúng ta được sống với Đức Kitô” (Ep 2,4.5). Đây chính là niềm vui ơn cứu độ mà chúng ta được đón nhận trong Đức Giêsu, niềm vui mà không mấy khi chúng ta thấy được tầm vĩ đại, lớn lao, và giá trị vô cùng cao qúy ; niềm vui mà rất ít người cảm được sự dịu ngọt vô tận, không gì so sánh được, vì không nhận ra gánh tội rất nặng nề đáng ghê tởm và kinh sợ đè trên đời mình. Cũng như dân Ítraen năm xưa, nếu đã không phải sống bẩy thập niên nô lệ dài đẵng đẵng trên đất người, phải chịu cảnh áp bức, đầy đọa của dân mất nước, không còn quê hương, thì chưa chắc họ đã cảm nhận niềm vui được cứu thoát, hạnh phúc được về lại quê cha đất tổ, và xây dựng lại Đền Thờ.

Đó là lý do Giáo Hội mời gọi chúng ta cùng tiến về gặp gỡ Đức Giêsu là  niềm vui của tội nhân được tha bổng, của phạm nhân được trắng án, khoan hồng, của người con yếu đuối, hoang đàng được tình Cha thương xót, bao dung, khi sống niềm hy vọng của  Mùa Chay, bằng đi tìm và tiến về ánh sáng cứu độ là Đức Giêsu, như ông Nicôđêmô, để được biết mình đang hạnh phúc bơi lội trong đại dương ơn cứu độ, khi nghe từ chính miệng của Ngôi Lời : “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Qủa vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3,16-17).

Vâng, ánh sáng cứu độ phải là ngọn hải đăng cho hành trình đức tin của mỗi người, bởi không thiếu những lúc lòng ta tan nát, thất vong như tâm hồn sầu muộn  của kẻ lưu đầy “bên bờ sông nức nở khóc, trên cành dương liễu treo cây đàn, đến cả bài ca kính Chúa, cũng không sao hát nổi” (x. Tv 136,1.2.4).

Về mục lục

CHUỘNG BÓNG TỐI HƠN ÁNH SÁNG

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Ánh sáng và bóng tối của trời đất là điều mà ta chứng kiến mỗi ngày, và phân biệt dễ dàng. Thế nhưng ánh sáng và bóng tối trong tâm hồn ta thì quả là phức tạp. Ta thường mệt mỏi khi phải đối diện với những xung đột bên trong, với những giằng co của ánh sáng và bóng tối. Trong tâm hồn ta có những lúc đầy ánh sáng, là niềm vui, hạnh phúc, những ước mơ đơn sơ ngay lành, nhưng vẫn có những lúc và những vùng đầy bóng tối: bóng tối của buồn sầu chán nản, của ích kỷ tự mãn, của những mưu mô, ghen ghét, hận thù, của cả những thói quen xấu, khiến ta cứ kéo lê cuộc đời mình vì không đủ can đảm để dứt bỏ.

Ánh sáng và bóng tối gần với ta như thế, nên ta có thể để cho mình chan hòa ánh sáng, nhưng cũng có thể vùi mình trong bóng tối. Đức Giêsu trong cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô đã cho thấy: “Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng”.

Nói đến chuộng bóng tối có vẻ khó nghe, nhưng lắm lúc lại đúng với lòng mình. Có những lúc ta thấy mình cần chút bóng tối để nương náu, nhất là những lúc thất bại ê chề, những lúc hổ ngươi bẽ mặt, những lúc sai lầm lỗi phạm… Dường như bóng tối che chở ta và cho ta cảm giác an toàn. Ta thấy dễ chịu hơn khi bước đi trong bóng tối. Có những lúc bóng tối là môi trường thuận lợi để ta tự do làm điều mình muốn, sống điều mình thích. Điều nguy cơ là ta dễ bị nghiện bóng tối. Sống càng lâu trong bóng tối, ta càng ngại bước ra ánh sáng. Ánh sáng khiến ta có cảm giác bị phơi trần, bị dò xét, bị phân xử.

Đức Giêsu giải thích việc người ta chuộng bóng tối là vì các việc họ làm đều xấu xa. Thật thế, ánh sáng bắt ta phải đối diện với sự thật, mà sự thật nhiều khi rất cay đắng và chua chát. Ánh sáng chất vấn ta và đòi ta phải đặt lại nhiều vấn đề trong đời mình. Ánh sáng làm bại lộ những điều ta muốn giữ kín, thấy mình mất an toàn, bị đe dọa. Nhưng vẫn có một sự thật hiển nhiên mà ta không muốn nghĩ tới: đó là không phải không có đe dọa trong bóng tối, nhưng là vì trong bóng tối, ta không thấy mình bị đe dọa. Hãy nhớ rằng, dù có bước đi với cảm giác an toàn trong bóng tối, ta vẫn là một nạn nhân bị chộp giữ. Ta tưởng mình được tự do, nhưng thực ra là đang tránh né và cuộn tròn mình lại. Ta tưởng mình được bình an, nhưng thực sự đang bất an. Cuộc chiến giữa ánh sáng và bóng tối luôn là cuộc chiến không khoan nhượng, hoặc là ta thuộc về ánh sáng, hoặc là ta sẽ bị bóng tối kiềm giữ.

Cuộc sống mỗi người không tránh được những nhập nhằng giữa ánh sáng và bóng tối. Nhưng phúc cho ai quay về với ánh sáng: “Quay đầu là bờ”, hay “Quay đầu trở lại, là trăm năm cơ đồ”. Chỉ có một cách ra khỏi bóng tối, đó là trở lại với ánh sáng, bằng cách ngước nhìn lên con rắn đồng như dân Israel xưa. Con rắn đồng là hình ảnh tiền trưng cho Đức Kitô, Đấng cứu độ. Nếu con rắn đồng nói lên lòng tha thứ của Thiên Chúa, thì Chúa Kitô khi được treo lên cao, chính là lòng khoan dung tha thứ của Thiên Chúa đổ tràn xuống trên chúng ta. Chúng ta được cứu độ là nhờ tin tưởng nhìn lên Đức Giêsu bị treo trên thập giá.

Ước gì mỗi ngày chúng ta biết nhìn lên Thập giá Chúa, để sống cuộc đời của mình vững vàng trong tin yêu và hy vọng, trong an vui và phấn khởi, nhờ đó mà vượt qua những lôi kéo của cám dỗ và sự dữ hằng ngày, với sự quyết tâm làm nên cuộc đời mới trong ánh sáng Đức Kitô đang dọi chiếu trên cuộc đời của chúng ta.

Cầu nguyện

Lạy Chúa Giêsu!
Đời người là một hành trình vượt qua,
vượt qua bóng tối để vươn tới ánh sáng,
là sự sống huy hoàng của Chúa phục sinh.

Nhưng bóng tối vẫn bàn bạc mênh mang,
bóng tối bên trong và bóng tối bên ngoài,
khiến tâm con vẫn u hoài thổn thức.

Lắm khi con chuộng bóng tối hơn ánh sáng,
vì bóng tối cho con cảm giác được an toàn,
nó như che chở và cho con được thanh thản,
nhưng thật sự con đã để mình bị chộp giữ,
có nguy cơ nhiều cạm bẫy đang rình chờ.

Để đón nhận và bước đi trong ánh sáng,
con phải can đảm bước ra khỏi bóng tối,
dù nhức nhối và tội lỗi bị phơi trần,
nhưng an vui trong tinh thần chân thật.

Nhìn lại đời sống con hằng ngày,
vẫn còn chỗ tối tăm chưa được khai sáng;
vẫn còn cảnh mù mờ chưa được khai quang;
vẫn còn ngục thất chưa được khai phóng;
vẫn còn hỗn mang chưa được khai nguyên.

Chúa biết tình trạng không tốt nơi con,
nhưng vẫn tín nhiệm đặt con là ánh sáng,
để soi chiếu vào cảnh tăm tối trần gian,
vì có bao người đang lầm than trong bóng tối.

Xin cho con luôn ngước nhìn lên thánh giá,
là tình yêu ơn cứu độ chan hòa,
luôn thứ tha và làm tinh sáng lại đời con,
để ước muốn của Chúa nơi con được vẹn tròn. Amen.

Về mục lục

MÙA CHAY HÀNH TRÌNH TRỞ VỀ

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Mùa Chay ta luôn được mời gọi trở về với Thiên Chúa tình yêu: “Các ngươi hãy hết lòng trở về với Ta” (Ge 2,12). Trở về với Ta là trở về với vòng tay mở rộng và đôi mắt chờ mong của người Cha nhân lành.

Vì trong hành trình dương thế đã nhiều khi bận bịu với công việc trần thế hay quá đam mê tìm kiếm khoái lạc trần gian để rồi chúng ta đã có lúc nói với Chúa: “Lạy Chúa, con sẽ đến với Chúa sau… Con không thể đến hôm nay, nhưng ngày mai con sẽ bắt đầu cầu nguyện và làm điều gì đó cho tha nhân.” Và cứ thế ngày này qua ngày khác chúng ta đã khất lần khất lượt, nhưng rồi một lúc nào đó, ta mới nhận ra lạc xa tình Chúa là đánh mất đi nguồn trợ lực và thành lũy chở che của Thiên Chúa. Một mình ta chơi vơi trong dòng đời sẽ có lúc ta cảm thấy thất vọng, chán chường vì cuộc đời không như ta mơ và luôn đưa ta đến biết bao đau khổ và bất hạnh. Đó là hình ảnh tan nát cõi lòng của người con hoang đàng đã dùng tiền của, gia sản của cha mà lao vào những đam mê lầm lỗi, rồi tới một ngày thân xác tả tơi, đói khổ và bị bỏ rơi, người con mới hối hận và chỉ mong trở về cùng Cha.

Mùa Chay là một sự hạ mình khiêm tốn để thấy rằng xa rời Thiên Chúa là lạc lối đi vào thế lực của sự dữ. Sự dữ lại quá ranh ma quỷ quyệt còn ta lại quá nhỏ bé như đứa trẻ thiếu hiểu biết sự đời. Chỉ có con đường trở về với Chúa mới an toàn, vì nơi đó Chúa sẽ bảo vệ và chữa lành chúng ta.

Năm xưa trên hành trình về đất hứa Dân Do Thái cũng từng mất lòng tin cậy nơi Chúa và có lúc thờ bò vàng dẫn đến bị tai ương và bị rắn cắn. Họ đã hối hận và xin Chúa lấy tình yêu để cứu chữa họ. Chúa Cha đã truyền cho Mô-sê treo con rắn lên để bất cứ ai bị rắn cắn mà ngước lên trời cao liền được cứu thoát.

Hôm nay, Chúa Giê-su cũng mời gọi chúng ta trên hành trình dương thế nếu đã từng bị những nanh vuốt của ma quỷ và sự dữ cấu xé. Hãy tin tưởng và trông cậy vào lòng thương xót của Chúa. Hãy chìm đắm trong đại dương bao la lòng thương của Chúa để được chữa lành.  Thế nên, nếu có lần nào ta vấp ngã vì yếu đuối hãy nhìn lên Chúa trên thập giá để thấy tình thương bao la của Thiên Chúa. Một tình thương có thể phủ lấp muôn vàn tội lỗi chúng ta.  Nhìn lên thập giá, để thấy bàn tay của Thiên Chúa đang mở rộng để ôm lấy nhân loại chúng ta. Nhìn lên Thập giá để chúng ta thấy Chúa vẫn đang mời chúng ta trở về với Người để khám phá lại niềm vui được yêu thương.

Ở đời ai mà không có những bệnh tật. Bệnh thể xác và tâm hồn. Nhất là những bệnh vềtâm hồn mà chúng ta không thể tự chữa lành được. Đó là  những tội lỗi đâm rễ sâu mà chúng ta không thể tự nhổ bỏ chúng. Đó là những niềm vui bất chính mà chúng ta quá quen hưởng thụ đến nỗi khó quay trở về.

Mùa chay mời gọi chúng ta hãy trở về với Chúa và hãy nhìn lên thập giá Chúa để xin ơn chữa lành. Hãy thưa với Chúa rằng: “Lạy Chúa Giê-su, con đang ở trước mặt Chúa, với tội lỗi của con, với những đau đớn thất vọng vì tội lỗi của con. Chúa là thầy thuốc. Chúa có thể giải thoát con. Xin chữa lành trái tim con. Nếu Chúa không cứu con ra khỏi sự dữ thì con sẽ bị chết muôn đời. Con biết đó là tội lỗi nhưng con lại quá yếu đuối, xin Chúa thương cứu chữa hồn xác con”.

Với niềm tin vào lòng thương xót của Chúa chắc chắn chúng ta sẽ được chữa lành. Vì chính Chúa đã dùng cây Thập giá để cứu chuộc chúng ta và cũng chính nhờ Thập giá mà chúng ta được giao hòa với Thiên Chúa để được sống trong ân sủng và bình an của Chúa. Amen

Về mục lục

MUỐN VÀ ĐƯỢC

Lm. Jos DĐH.

Muốn ăn nên làm ra, nhiều người có suy nghĩ: một là phải chăm chỉ làm việc, hoặc là phải mưu mô mánh lới. Muốn nhiều tiền lắm của, trước hết phải nhận ra mình còn nghèo túng, chưa có của ăn của để, sau đó mới nói đến việc đầu tư và thực hiện kế hoạch làm giầu. Để sống đức thảo hiếu với bậc sinh thành, thiết nghĩ ta nên hiểu, bậc làm cha mẹ chỉ vì “chữ tình”, các ngài không sợ xấu, không sợ già, không ngại khó khăn gian khổ, miễn sao con nên người hữu ích. Muốn và được, mới chỉ là bước khởi đầu vượt qua hy vọng đến thành công. Câu thành ngữ quen thuộc mà chúng ta hằng nghe: muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học. Cho dù hoàn cảnh mỗi người không giống nhau, đích điểm đời người vẫn là hạnh phúc, là có bình an, có niềm vui thật.

Ông Ni-cô-đê-mô, một thủ lãnh người Do-thái, ông đến gặp Đức Giêsu, mà lại gặp ban đêm ? Có phải người cô thế cô thân mới cần được quan tâm, chắc cũng không phải những gia đình kín cổng cao tường, họ đáng phải chịu cảnh cô đơn, có phải chỉ duy nhất ông Ni-cô-đê-mô, phát hiện nơi Đức Giêsu, một vị thầy quả là đặc biệt ? Muốn biết Đức Giêsu là ai, người ta nên gặp Ngài, nếu muốn được thế gian, được danh vọng địa vị, cần đến với vua chúa quan quyền của họ. Thao thức được giầu có về sự bình an, về niềm vui tâm hồn, không những người ta cần gặp Đức Giêsu, tin và còn phải sống giáo huấn của Ngài ! Chắc không phải chỉ những người nghèo mới cần được ăn, cũng không phải người văn võ song toàn là không sợ chết, cũng không phải người tội lỗi mới là đối tượng của lòng thương xót Chúa.

Có bao giờ bạn và tôi đặt vấn đề: tôi đang muốn được dồi dào tình yêu của Đức Giêsu, hay mơ ước được bổng lộc, được quyền lực thế gian ? Thánh sử Gioan chắc không nói liều, nói bừa đâu: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời”. Không phải vô tình mà tiền nhân chúng ta có thể nói: người hiểu đời, coi việc lo liệu, chăm sóc cho con cháu là nghĩa vụ, là niềm vui không chờ mong báo đáp. Chúng ta không thể hiểu hết đằng sau cuộc đối thoại giữa Đức Giêsu và người biệt phái Ni-cô-đê-mô, nhưng sau khi hoàn tất sứ mạng tại trần thế, ơn ban và hồng ân cứu độ đã lan rộng trên toàn thế giới. Ước muốn được bình an và hạnh phúc thật, thao thức tìm gặp sự sống đời đời, từ người thánh thiện đạo đức, đến người tội lỗi, ai cũng có cơ hội để bày tỏ, để sống niềm tin Đức Giêsu là Thiên Chúa.

Khi trưng dẫn hình ảnh con rắn đồng ở sa mạc năm xưa, Đức Giêsu hướng mọi người tới “Đấng” sẽ chịu treo lên,  con rắn và Đấng chịu treo, chính là dấu chỉ của sự sống. Muốn sống, dân Do-thái phải nhìn lên con rắn đồng, muốn không phải chết đời đời, hãy nhìn bằng niềm tin, “Đấng” chịu treo sẽ cho ta được trường sinh. Chắc không trừu tượng đâu, khi tôi và bạn cùng ước mơ đủ ăn đủ mặc, đừng lười biếng, đừng làm việc gì trái với lương tâm chân chính. Trong đời sống thiêng liêng, muốn tâm hồn bình an, hãy liên đới cầu nguyện, đừng “lơ là” cậy trông Đức Kitô, Đấng chịu treo trên cây thập giá, hầu đủ sức mạnh và tình yêu, chu toàn thánh ý Chúa. Muốn sống hạnh phúc và được cứu khỏi chết đời đời, hãy nhìn lên thập giá Đức Kitô, sám hối ăn năn, bạn và tôi nhất định sẽ hiểu thế nào là tình yêu Thiên Chúa ban tặng thế gian.

Dân Do-thái năm xưa là hình ảnh những người vi phạm giao ước, họ muốn sống phải nhìn lên con rắn đồng. Dân kitô qua các thời đại, muốn được cứu độ, ai cũng phải vượt qua đau khổ thập giá Đức Kitô, ước muốn và được sống đời đời không phải là lý thuyết. Với toan tính hơn thiệt, người đời cho rằng: dâu hiền hơn con gái, rể hiền con trai. Với Đấng cứu độ, sẽ không còn cảnh phân biệt Do-thái hay Hylạp, đạo gốc hay đạo theo, muốn và được, sẽ không còn là ước mơ hoặc hy vọng, vì mỗi người, mỗi tâm hồn, đều được Đấng ở trên cây thập giá tẩy rửa tội lỗi, ban hạnh phúc thật cho ta. Con đường tiến tới niềm vui và hạnh phúc thật, sẽ không còn là giầu sang địa vị, nhìn lên thập giá Đức Kitô không còn là biểu tượng, mà là diễn tiến của từng tâm hồn đầy năng lực của tình yêu thương.

Cho đến khi gặp khó khăn tư bề, người ta sẽ thực sự hiểu, cha mẹ mới là bậc cứu tinh, không oán trách, không làm con cháu tổn thương. Cho đến khi ước muốn và được cứu của chúng ta có mờ nhạt vì tội lỗi, Đấng ở trên cây thập giá, vẫn có những lời nhẹ nhàng yêu thương: “lạy Cha xin tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Nhận ra Đấng ở trên thập giá là Thiên Chúa yêu thương, đã đẹp lòng Chúa rồi, nhận ra con người không thể sống bình an mà thiếu quảng đại tha thứ, phải hạnh phúc hơn. Biết cậy trông, biết sống niềm tin: “Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”. Quả thực, ước muốn của bạn và tôi đã được, đã đạt tới hạnh phúc đời đời rồi. Amen.

Về mục lục

TIN VÀO THIÊN CHÚA TÌNH YÊU

Bông hồng nhỏ

Nicôđêmô, người môn đệ thầm lặng tìm đến gặp Thầy Giêsu ban đêm. Thầy nói với ông nhiều điều lắm. Thầy báo trước cho ông biết về cuộc thương khó Người sẽ trải qua: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). Thầy cho ông biết rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Sau khi Thầy Giêsu trút hơi thở cuối cùng, ông đã đến xin quan Philatô cho lãnh thi hài của Người và mai táng trong chính ngôi mộ đã đục sẵn cho mình. Vượt qua mọi nghi ngại và sợ hãi, ông đã hành động để minh chứng tình yêu và lòng tin ông đặt nơi Thầy Giêsu.

Để đáp lại tình yêu của Thiên Chúa dành cho mình, ta cũng được mời gọi diễn tả tình yêu và đức tin của mình. Thiên Chúa yêu ta, tình yêu của Người vượt trên sự hiểu biết của ta, nhưng trái tim bé nhỏ của ta vẫn có thể đón nhận tình yêu cao vời ấy. Đó là hồng ân Thiên Chúa tặng ban cho ta. Người yêu ta không theo cách ta cảm nghĩ và hiểu biết. Ta vẫn cảm nhận được tình yêu của Người giữa cuộc sống bình an. Mọi thứ Người dành cho ta thật tuyệt vời: thời gian, sức khỏe, trí tuệ, tình yêu, sự nghiệp,… Trong nhịp sống thật bình yên ấy, tình yêu của ta cứ thế lớn lên. Mỗi ngày, ta được mời gọi cảm nếm tình yêu của Chúa ngang qua những điều bình dị. Thiên Chúa vẫn ở gần bên ta, Người lôi kéo ta đến gần Người. Khi thực hiện một việc bác ái dù nhỏ bé và âm thầm, ta vẫn cảm nhận được ánh mắt trìu mến của Người đang mỉm cười với ta. Mỗi khi ta vấp ngã, Người hối thúc lòng ta hãy đứng lên, quay trở về bên Người để được Người chữa lành cho. Ta tỏ lòng biết ơn Chúa bằng chính thái độ thờ lạy, và tôn thờ Người. Người hiện diện nơi những người anh em bé nhỏ bên cạnh ta, nơi cả những ai đã làm ta tổn thương, yêu người cả khi bị người thù ghét. Người mời gọi ta chiêm ngắm dung nhan của Đấng giàu lòng xót thương và đón nhận tình yêu của Người trong trái tim của mình. Tình yêu của Thiên Chúa sẽ làm ta trái tim ta mở ra với mọi người.

 Ta vẫn nghĩ ta đã yêu Chúa thật nhiều. Chỉ đến khi tình yêu bị thử thách, ta mới hiểu được tình yêu đích thật là gì? Theo bản tính tự nhiên, ta luôn mong đợi một cuộc sống diễn ra theo chương trình và kế hoạch ta đã vạch sẵn. Nhưng điều Thiên Chúa muốn thì cao và xa hơn, tốt lành hơn. “Lời mời gọi của Chúa luôn gây xáo trộn đời con. Bao dự định riêng tư dường như mất hút trong đời. Con mong muốn thế này Chúa lại mong muốn thế kia. Con không sao hiểu được nhưng tin vào tình thương của Ngài” (lời bài hát “Tâm tình xin vâng”, linh mục Thái Nguyên). Trong gian truân và thử thách, ta có còn tin tưởng và yêu mến Thiên Chúa không? Vâng theo thánh ý Thiên Chúa đòi buộc ta phải sẵn sàng từ bỏ ý riêng, từ bỏ kế hoạch của bản thân để đi theo chương trình của Người. Chúa Giêsu đã báo trước cho ông Nicôđêmô rằng: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời” (Ga 3, 14-15). Trên thập giá, trong đau đớn tột cùng, nhân tính của Chúa Giêsu cũng đã phải thốt lên: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15, 34). Trong nhân tính của mình, Người đón nhận đến tận cùng cùng của nỗi đau đớn, Người đi qua kinh nghiệm bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã xin vâng theo thánh ý của Chúa Cha, thực thi chương trình cứu độ nhân loại. Người một lòng yêu mến Chúa Cha nhưng ngay trong nỗi đau khổ, Người đã thốt lên như bao người tuyệt vọng, bởi Người chia sẻ với ta sự yếu đuối của phận người. Đức tin của ta cũng sẽ phải được tôi luyện qua nhiều đau khổ giống như Chúa Giêsu. Tình yêu của ta dành cho Thiên Chúa được diễn ta qua thái độ vâng phục trong những trái ý của đời mình. Tác giả thư Do thái đã cho ta thấy: “Dầu là Con Thiên Chúa, Người đã phải trải qua nhiều đau khổ mới học được thế nào là vâng phục” (Dt 5,8). Ta hãy kiên nhẫn bước đi trong thái độ tìm kiếm thánh ý Thiên Chúa theo gương Chúa Giêsu – Con Một yêu dấu của Người. Ta đã đóng đinh ý riêng của mình lên thánh giá chưa?

Lạy Thiên Chúa là Cha nhân lành! Cảm tạ Chúa đã cho con được đón nhận tình yêu cao vời của Chúa. Chúa biết con yếu đuối và dễ đổi thay. Mỗi ngày, xin Chúa cùng con diễn tả niềm tin và tình yêu vào Thiên Chúa khi kiên trì vượt qua mọi thử thách trong đời sống, nỗ lực sống đức ái như Chúa mời gọi, vâng phục trong tin yêu và hy vọng. Amen.

Về mục lục

NHÌN LÊN THẬP GIÁ

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Bất cứ ai đã đọc sách Xuất Hành trong Cựu Ước, kể lại cuộc hành trình về đất hứa của dân Do thái, đều nhớ câu truyện con rắn đồng. Đó là khi gần đến đất hứa, dân Do thái lại kêu trách Chúa và trách ông Mô-sê.

Chúa liền cho rắn bò ra khắp nơi cắn chết nhiều người. Thấy vậy, dân chúng lại ăn năn hối hận, chạy đến kêu ông Mô-sê cứu giúp. Ông Mô-sê cầu xin Chúa. Chúa bảo ông hãy làm một con rắn bằng đồng treo lên cao, để hễ ai bị rắn lửa cắn, nhìn lên rắn đồng thì được khỏi. Rắn đồng đó, như bài Tin Mừng kể lại, Chúa Giêsu dùng làm hình ảnh để chỉ về Ngài: cũng như xưa, rắn đồng bị treo lên, Ngài cũng phải bị treo lên như vậy. Và cũng thế, rắn đồng chữa cho bất cứ ai nhìn lên nó, thì Chúa cũng chữa bất cứ ai tin cậy ở Ngài. Vì thế, sau khi dùng hình ảnh để so sánh, Chúa quả quyết: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống đời đời”.

Quả thật, thập giá của Chúa đem lại sự sống đích thực, sự sống đời đời cho những ai tin tưởng, cậy trông vào Chúa. Bằng chứng cụ thể để bảo đảm điều này là người trộm lành trong Tin Mừng: khi Chúa Giêsu bị đóng đinh vào thập giá trên núi Sọ, thì có hai phạm nhân khác là hai tên trộm cướp, cũng bị đóng đinh như thế ở hai bên Chúa: Đít-ma bên phải và Ghét-ta bên trái. Khi ba thập giá được dựng lên, treo ba thân xác chơ vơ giữa nền trời, người ta nghe tiếng tên trộm Ghét-ta chửa bới, nguyền rủa, nói những lời xúc phạm và đòi xuống khỏi thập giá. Trái lại, tên trộm Đít-ma, như được ánh sáng từ thập giá ở giữa chiếu soi, anh buồn rầu, hối hận tội lỗi tầy trời của mình và quay sang Chúa Giêsu, anh tha thiết thưa: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào nước của Ông, xin nhớ đến tôi”. Trước lời khẩn nài đầy tin tưởng ấy, Chúa nói: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.

Trước khi thưa với Chúa Giêsu như trên, người trộm này đã nhìn nhận tội lỗi của mình khi anh đối chất với người bạn tù cùng bị đóng đinh với anh. Anh nói: “Mày đang chịu chung một hình phạt, vậy mà cả Thiên Chúa, mày cũng không biết sợ! Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm”. Như vậy, dầu sao trong tâm hồn người đạo chích này cũng đã dậy lên những tâm tình thống hối nồng nàn. Dĩ vãng của anh thật tồi tệ, có lẽ tệ hơn cả Ba-ra-ba, vì Ba-ra-ba thì được tha, còn anh lại bị đóng đinh. Đời anh xấu xa quá. Anh biết và thành thật cảm nhận điều đó; đồng thời anh cũng tin nhận Đấng cùng chịu án với anh thật vô tội và qua cung cách của Ngài, anh tin phải là Đấng Thánh. Nên chỉ một tia sáng từ thập giá Chúa chiếu ra đã làm rực sáng đức tin của anh. Anh đã thấy thập giá, anh đã tin vào giá trị của thập giá, và biết Đấng bị đóng đinh là ai, nên anh mới xin Ngài nhớ đến anh khi Ngài về nơi vương quốc của Ngài.

Như vậy, trên núi Sọ, đám đông dân chúng đòi Chúa xuống khỏi thập giá, thì người trộm lại đòi được đưa lên. Quần chúng cầu mong Chúa thuyết giảng một thứ tôn giáo không thập giá, còn người trộm lại tìm được niềm tin khi bị treo trên thập giá. Phải chăng sự hối cải của người trộm là chìa khóa, là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta ngày nay?

Kể từ khi thập hình của người Rô ma được áp đặt cho Chúa Giêsu, thì thập giá đã trở thành Thánh giá và bóng Thánh giá của Ngài đã bao trùm cả trái đất. Không ai có thể đứng ngoài bóng mát của Thánh giá. Không ai có thể ở ngoài vòng lôi kéo của Chúa Giêsu. Không bao giờ con người có thể loại bỏ Chúa ra khỏi lịch sử của mình nữa.

Thánh giá không chỉ được dựng lên trên nóc nhà thờ, trong cung thánh hay trong nhà của người tín hữu mà còn phải được tôn vinh giữa phố chợ, ở khắp mọi nơi. Chúa Giêsu đã không bị đóng đinh trong một thánh đường, giữa hai hàng nến cháy, nhưng trên thập giá giữa hai người trộm cướp. Ngài đã bị treo lên giữa ngã ba đường để cho mọi người qua lại đều nhìn thấy. Ngài đã chết trước sự chứng kiến của mọi người. Ngài đã chết cho mọi người. Ngài đã chết cho từng người trong nhân loại. Ngài đã chết nhân danh chúng ta để chúng ta được qui tụ vào gia đình con cái của Thiên Chúa.

Khi chiêm ngắm thập giá của Đấng Phục Sinh, chúng ta không ngừng nghe vang dội từ thập giá ấy lời nhắc nhở về một tình yêu thương cao cả dành cho tất cả chúng ta, cũng như nhắc nhở về những tội lỗi chúng ta đã phạm để thúc giục chúng ta ăn năn sám hối. Do đó, sự hối cải của người trộm lành là gương mẫu cho sự hối cải của chúng ta.

Đúng thế, ở trần gian chỉ có một điều xấu xa hơn tội lỗi, đó là không nhìn nhận tình trạng tội lỗi của mình. Không có bệnh, chẳng ai tìm đến bác sĩ. Cũng vậy, không nhận mình tội lỗi, chẳng ai đi tìm Chúa Cứu Thế. Chỉ khi nào cho mình là dại dột hay chỉ khi nào bắt đầu công nhận mình là người tội lỗi, đó là lúc khởi sự bước vào con đường của người trộm lành đưa đến hối cải. Biết mình tội lỗi, đó là điều kiện để hối cải, cũng như biết mình bệnh hoạn là điều kiện để chữa trị.

Trong Mùa Chay này, chúng ta hãy đến với Chúa và hạ mình xuống như người trộm lành, nhìn nhận mình là người tội lỗi và tin tưởng vào lòng khoan dung của Chúa, thì kể cả trong tình trạng xấu xa nhất, chúng ta vẫn được Chúa thương yêu tha thứ

Về mục lục

THẬP GIÁ, TỘT ĐỈNH TÌNH YÊU

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong Tin Mừng Chúa Nhật này, chúng ta tìm thấy một trong những câu nói đẹp nhất của Kinh Thánh: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16).

Để diễn tả tình yêu của Người đối với chúng ta, Thiên Chúa đã dùng những kinh nghiệm tự nhiền về tình yêu mà con người trao tặng cho nhau. Nhà thơ Dante cho rằng, tất cả mọi điều hữu hạn đều diễn tả điều vô hạn nơi Thiên Chúa. Mọi tình yêu con người như tình yêu vợ chồng, phụ tử, mẫu tử, bạn bè là những trang của một cuốn sách, hoặc những ngọn lửa của đống lửa; chúng có nguồn gốc và tìm thấy sự viên mãn trong Thiên Chúa.

1- Những dạng thức tình yêu Thiên Chúa

Trước hết, trong Kinh Thánh, Thiên Chúa nói với chúng ta về tình yêu của Người qua hình ảnh của tình yêu phụ tử. Tình yêu phụ tử được thể hiện bằng sự cổ võ, khích lệ và thúc đẩy. Một người cha muốn người con của mình lớn lên, bằng cách ông khuyến khích người con cố gắng hết mình. Đây là lý do tại sao chúng ta ít nghe người cha ca ngợi con mình trước mặt nó. Vì ông sợ rằng nó nghĩ mình đã hoàn hảo rồi nên không cần phải cố gắng nữa.

Nét đặc trưng khác của tình yêu phụ tử là sửa dạy. Người cha là thầy dạy hướng dẫn và uốn nắn người con trưởng thành. Một người cha đích thực đồng thời cũng là người ban cho con cái sự tự do và an toàn, nhờ đó, người con cảm thấy mình được bảo vệ trong đời sống. Đây là lý do tại sao Thiên Chúa giới thiệu mình với con người qua hình ảnh “đá tảng và thành lũy” để bảo vệ con người, một “thành lũy vững vàng” trước những gian nan thử thách và lo lắng (x. Tv 27,1).

Nơi khác, Thiên Chúa nói với chúng ta qua hình ảnh tình yêu mẫu tử. Người nói: “Có phụ nữ nào quên được đứa con thơ của mình, hay chẳng thương đứa con mình đã mang nặng đẻ đau? Cho dù nó có quên đi nữa, thì Ta, Ta cũng chẳng quên ngươi bao giờ” (Is 49,15). Tình yêu của một người mẹ được ban nhờ sự đón nhận, cảm thương và sự dịu dàng; tình mẫu tử là một tình yêu sâu nặng và mênh mông như biển cả. Người mẹ luôn luôn đồng hành, bảo vệ con mình và can thiệp cho chúng trước mặt người cha. Kinh Thánh luôn nói về sức mạnh của Thiên Chúa như là sức mạnh của người cha; nhưng Kinh Thánh cũng nói về sự dịu dàng và từ tâm của Thiên Chúa như là sự dịu dàng và từ tâm của người mẹ. Đó là sự “dịu dàng mẫu tử.”

Nhờ kinh nghiệm, con người biết đến một dạng thức khác của tình yêu, tình yêu vợ chồng, đó là một thứ “tình yêu mãnh liệt như tử thần, cơn đam mê dữ dội như âm phủ. Lửa tình là ngọn lửa bừng cháy, một ngọn lửa thần thiêng” (Dc 8,6). Thiên Chúa cũng dùng hình thức tình yêu này để nói về tình yêu vô biên của Người đối với con người. Tất cả những danh từ mang sắc thái tình yêu giữa người nam và người nữ, bao gồm cả từ “quyến rũ” cũng được dùng trong Kinh Thánh để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa đối với con người. Thiên Chúa quyến rũ chúng ta (x. Gr 20,7).

2- Đức Giêsu, sự viên mãn tình yêu

Khi đến trần gian, Chúa Giêsu kiện toàn tất cả những hình thức này của tình yêu: tình phụ tự, tình mẫu tử, tình vợ chồng (biết bao lần Người ví mình là một chàng rể (x. Mt 9,15); nhưng Người còn thêm vào một hình thức tình yêu khác: đó là tình bạn hữu. Người nói với các môn đệ: “Anh em là bạn hữu của Thầy, nếu anh em thực hiện những điều Thầy truyền dạy. Thầy không còn gọi anh em là tôi tớ nữa, vì tôi tớ không biết việc chủ làm. Nhưng Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết” (Ga 15,14-15).

Tình bạn hữu là gì? Nó có thể là một tương quan lớn hơn cả mối tương quan ruột thịt. Tương quan họ hàng hệ tại ở việc có cùng huyết tộc; tình bạn hệ tại ở việc có chung một quan điểm, lý tưởng và những quan tâm. Nó phát xuất từ lòng tin tưởng, nhờ đó tôi sẵn sàng thổ lộ cho người khác biết những tư tưởng, tâm tư, tình cảm sâu kín nhất, cũng như những kinh nghiệm riêng tư của mình.

Giờ đây, Chúa Giêsu gọi chúng ta là bạn hữu của Người, bởi vì những gì Người biết bởi Cha Trên Trời, Người đã mạc khải cho chúng ta, Người đã thổ lộ với chúng ta, tin tưởng chúng ta. Người đã xem chúng ta là những người bạn tri âm tri kỷ để chia sẻ với chúng ta những ẩn dấu của mầu nhiệm Ba Ngôi! Chẳng hạn, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết rằng Thiên Chúa ưu thích những người bé mọn và những người nghèo, hay Người yêu chúng ta như người cha nhân hậu; hoặc Người chuẩn bị một nơi vĩnh cửu cho chúng ta.

3- Thập giá, tột đỉnh tình yêu

Hơn thế, Chúa Giêsu bày tỏ tình yêu lớn lao nhất của Người đối với chúng ta khi Người bước lên thập giá. Nơi thập giá, tình yêu của Người thể hiện qua ba năng động: Thứ nhất, tình yêu tự hạ (kenosis): Con Thiên Chúa trút bỏ địa vị cao cả, mặc lấy thân phận người Tôi Tớ đau khổ. Đây là tình yêu được thể hiện bằng chính hành động và dám hy sinh mạng sống mình vì bạn hữu; Thứ đến, tình yêu đảm nhận (ricapitolatio): Con Thiên Chúa cưu mang mọi đau khổ và tội lỗi của nhân loại, Người chịu chết thay cho chúng ta; Thứ ba, tình yêu tự hiến (agape): Người tự hiến vì chúng ta một cách vô điều kiện. Đây là tình yêu ở mức cao nhất. Bởi thế, thánh Gioan quả quyết: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13).

Như thế, Chúa Giêsu mang đến cho hạn từ “bạn hữu” một ý nghĩa đầy đủ nhất khi hiến mình để cứu độ chúng ta. Nhờ đó, chúng ta đón nhận được lòng thương xót Chúa và ơn cứu độ. Chính nhờ ân sủng và lòng tin mà chúng ta được sống và được cứu độ (x. Ep 2,4-10).

Chúng ta phải làm gì đối với tình yêu Chúa dành cho chúng ta? Chúng ta làm điều gì đó rất đơn giản thôi: hãy tin tưởng vào tình yêu của Thiên Chúa, hãy đón nhận tình yêu đó, hãy nhắc lại nhiều lần với thánh Gioan: “Còn chúng ta, chúng ta đã biết tình yêu của Thiên Chúa nơi chúng ta, và đã tin vào tình yêu đó!” (1 Ga 4,16).

Đồng thời, chúng ta được mời gọi đáp trả tình yêu của Chúa bằng việc tuân giữ các giới răn, xa lánh các dịp tội và quyết tâm không phạm tội nữa. Bởi lẽ, bao lâu còn phạm tội, bấy lâu Chúa Giêsu vẫn phải hấp hối và tiếp tục chịu chết một lần nữa vì chúng ta. Như lời của Dinsmore nói: “Vẫn có một cây thập giá trong cung lòng Thiên Chúa trước khi cây thập giá đó được trồng trên một ngọn đồi bên ngoài thành thánh Giêrusalem. Và giờ đây, dù cây thập giá gỗ đã bị loại trừ, cây thập giá đó vẫn còn trong cung lòng Thiên Chúa và nó sẽ vẫn còn bao lâu vẫn còn dù chỉ một tội nhân để cho Thiên Chúa phải đau khổ.”

Ước gì trong Mùa Chay thánh này, chúng ta nhìn lên thập giá và hoán cải đời sống mình để được sống đời đời. Amen!

Về mục lục

ÁNH SÁNG, BÓNG TỐI

Lm Vũđình Tường

Sáng và tối là hai thực thể trái nghịch nhau. Nơi đâu có ánh sáng, nơi đó vắng bóng tối bởi ánh sáng xoá tan bóng tối. Nơi đâu có bóng tối, nơi đó thiếu ánh sáng. Bóng tối đi chung với hành động tối tăm, u ám, mù mờ. Ánh sáng cổ võ cho việc làm trong sáng, minh bạch. Nhân loại biết hành động minh bạch tốt lành, nhưng nhân loại thường chọn hành động thoả mãn dục vọng, hành động cách mờ ám. Nhược điểm chung của nhân loại là chiều theo đam mê xác thịt.

Câu chuyện con rắn đồng treo trên cây trong Cựu Ước là một thí dụ điển hình. Sách Dân Số 21:4-9 thuật lại chuyện dân Chúa chọn, Israel, cả một dân tộc ưa thích bóng tối trong hành trình đi về Đất Hứa. Người ta càm ràm thời gian hành trình trong hoang địa khổ sở hơn cả thời gian sống lưu đầy bên Ai Cập. Có người mạnh bạo so sánh cho là chẳng thà sống lưu đầy còn sung sướng hơn. Người ta không nhận biết thời gian hành trình trong hoang địa không phải là thời gian thử thách, mà chính là thời gian tẩy xoá, làm trong sáng cuộc sống, xứng đáng sống nơi vùng Đất Hứa. Đây là thời gian giúp con người nhận ra lòng nhân từ của Chúa, nhận ra tình yêu Chúa dành cho dân Chúa chọn, thời gian phản tỉnh, nhận ra sai lầm tội lỗi xưa để hoán cải, trở về cùng Thiên Chúa yêu thương, tha thứ. Phản tỉnh là hành trình cần thời gian tỉnh ngộ, không phải một chốc lát mà là một con đường. Con người cần cố gắng, phấn đấu để vượt qua con đường phản tỉnh. Càm ràm xảy ra bởi thiếu kiên nhẫn, sợ khó. Dưới sự lãnh đạo của Môisen, trên đường về Đất Hứa, người ta than van, trách móc, và Thiên Chúa làm ngơ để cho rắn độc hoành hành dân chúng. Người ta kêu ca, than vãn và Môisen đại diện dân chúng, cầu xin cùng Đức Chúa. Ngài phán bảo dựng một cột cây cao, treo con rắn bằng đồng trên đó, khi rắn cắn nhìn con rắn đồng sẽ thoát chết. Con rắng đồng không có khả năng cứu sống người. Thiên Chúa dậy nhìn con rắn đồng nhắc nhớ Thiên Chúa là Đấng hằng sống. Ngoài Ngài ra không ai có thể ban sự sống. Hình ảnh con rắn đồng là hình ảnh sự ác, sự chết, sự tội, dối trá, ma lanh. Rắn tượng trưng cho hình ảnh ma quỉ phủ dụ con người phạm tội. Nhìn rắn đồng nhắc nhớ mình sa ngã, phạm tội, làm mất lòng Chúa. Hãy mau quay về, thống hối, ăn năn để nhận sự sống. Nhìn con rắn đồng để nhận biết tình yêu Chúa cao hơn tội ta phạm. Lòng Chúa xót thương vượt trên mọi sự tội, cao hơn thất trung, thất tín, tôn thờ ma quỉ.

Ngày nay chúng ta nhìn hình tượng Chúa nát tan trên thập tự để nhận biết tình Chúa cao vời. Vượt lên trên mọi tội lỗi con người xúc phạm nơi trần gian. Tình yêu Chúa sáng chói đánh tan mọi bóng đen tội lỗi. Chúa trên thập tự kiên nhẫn chờ đợi con cái Chúa hồi tâm, quay về, đón nhận ơn tha thứ. Tình yêu không điều kiện này vượt khỏi trí tưởng con người. Cách thức Chúa tự nguyện chọn để ban ơn cứu độ nhân loại khó hiểu không kém. Chúa có toàn quyền chọn cách nhẹ nhàng hơn, bớt đau khổ hơn, nhưng Chúa chọn cách đau khổ cùng cực nhất, tàn ác nhất con người có thể nghĩ ra để hành hạ nhau. Chúa chọn cách nhân loại hành hạ tội phạm để nói cho con người biết Chúa tự nhận tội nhân loại, biến tội chung toàn thể nhân loại thành tội riêng để nhận lấy hình phạt tàn ác. Qua đó Đức Chúa ban ơn tha thứ, ơn hoà giải, ơn cứu độ cho nhân loại. Ngài vô tội, không phải là tội phạm nhưng tự nguyện đón nhận hình phạt dành cho tội nhân để nói lên tình thương Chúa dành tặng nhân loại. Chọn xuống thế làm người là chọn chấp nhận đau khổ, lo lắng, mệt mỏi giống hệt như mọi người.

Chúa là ánh sáng thực. Mọi hành động tối tăm, gian trá đều là kết quả con người cộng tác với ma quỉ gieo đau thương, sầu khổ cho con người. Như thế tối tăm trần gian chính là tối tăm trong tâm hồn, trong tim óc con người, từ đó sinh ra hành động tối tăm, mờ ám. Ánh sáng Chúa soi sáng con tim dẫn đến ơn cứu độ, ưa thích sự sáng, tin tưởng, phó thác và chọn làm điều trong sáng dẫn đến sự sống trường sinh. Bóng tối ma quỉ đại diện cho chỉ trích, phê bình, lên án, thích điều mờ ám, thiếu tin tưởng, thích ngờ vực, từ đó dẫn đến diệt vong.

Thiên Chúa tạo dựng vũ trụ và Ngài không để mặc cho ma quỉ hoành hành, làm hại đến điều Chúa tạo dựng. Con người nghe ma quỉ phủ dụ, ưa ngọt, ưa nịnh nên bị chúng cám dỗ phạm tội. Thiên Chúa không để mặc sự chết thống trị thế gian. Thiên Chúa ban cho nhân loại Con Chúa xuống trần cứu độ con người, giải thoát con người khỏi bóng tối tử thần. Những ai đón nhận Con Chúa đều nhận được sự sống trường sinh do Máu Thánh Con Thiên Chúa ban tặng. hãy chung lời cảm tạ tình Chúa cao vời.

Về mục lục

THIÊN CHÚA LUÔN THA THỨ

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Trong lúc thánh Giêrônimô đang quì cầu nguyện trong hang đá ở Belem để suy niệm về mầu nhiệm Ngôi Lời Nhập Thể, thì Chúa Giêsu Hài Đồng hiện ra và nói với thánh nhân:

– Giêrônimô, con có gì làm quà cho Ta trong ngày Ta giáng sinh không?

Thánh nhân trả lời:

– Lạy Chúa Hài Đồng, con xin dâng Chúa trái tim của con.

– Đúng thế, nhưng còn gì khác nữa không?

– Lạy Chúa, con xin dâng Chúa tất cả những gì con có và hết những gì con có thể.

Chúa Hài Đồng hỏi:

– Con còn điều gì khác nữa không?

Thánh nhân khẩn khoản thưa:

– Con có điều gì khác để dâng Chúa nữa đâu.

Chúa Hài Đồng bảo:

– Này Giêrônimô, hãy dâng cho Ta cả những tội lỗi của con nữa.

Thánh nhân hốt hoảng hỏi lại:

– Ồ, lạy Chúa, làm sao con dâng cho Chúa tội lỗi của con được?

– Được chứ! Ta muốn con dâng cho Ta tội lỗi của con để Ta có thể tha thứ cho con. Đó là điều Ta rất mong đợi.

Nghe thế thánh nhân bỗng bật khóc vì sung sướng.

Sau đó, thánh nhân đã đi xưng tội.

Mùa chay, mùa giao hoà giữa Thiên Chúa với con người, giữa con người với nhau, với chính mình và với thiên nhiên. Tuy nhiên, sự giao hoà đó chỉ có thể được diễn ra và được thực hiện khi chúng ta biết bắt nguồn từ Thiên Chúa. Sự giao hoà đó chính là sự thứ. Chính Chúa là nguồn mạch yêu thương và tha thứ. Ngài luôn mong muốn con người được cứu độ và đón nhận ơn tha thứ. Chúng ta sẽ thấy điều đó qua các bài đọc phụng vụ của Chúa nhật 4 Mùa Chay năm B hôm nay.

Nơi bài đọc I, (2Sb 36,  14-16.19-23), tác giả diễn tả tình trạng bất trung bất nghĩa của dân Israen: “tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giê-ru-sa-lem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa…”(2sb 36, 14-16). Dầu cho dân tội lỗi và phản bội như thế, nhưng Thiên Chúa tiếp tục yêu thương và tìm cách cứu thoát họ. Ngài đã dùng vua Ky-rô trị vì nước Ba-tư như là trung gian để cứu dân hầu đem lại sự bình an cho dân. Tình thương và sự tha thứ đó được diễn tả như sau: “Ky-rô, vua Ba-tư, phán thế này : ‘Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giê-ru-sa-lem tại Giu-đa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người, thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ ở với họ, và họ hãy tiến lên …!’ ”(2 Sb 36, 23).

Bài đọc II, Ep 2,4-10, Lòng Thương Xót của Thiên Chúa được diễn tả qua lời giảng dạy của Thánh Phaolô đối với cộng đoàn Ê-phê-xô: “Thưa anh em, Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Ki-tô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Ki-tô Giê-su trên cõi trời.” (Ep 2, 5-6). Quả thật, sự tha thứ và lòng thương xót của Thiên Chúa lớn hơn tội lỗi của con người. Ngài chỉ biết yêu, biết thương, biết tha thứ chứ không biết giận, biết thù. Ngài là một vị Thiên Chúa hay quên vì Ngài đã không chấp tội của chúng ta, không nhớ đến tội của chúng ta nhưng sẵn sàng bỏ qua tất cả những sai lỗi hầu cứu vớt con người chúng ta khỏi chết. Ngài không lên án vì Ngài là Đấng giàu lòng xót thương. Ngài không bao giờ muốn con người phải đau khổ và phải chết: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối để được sống” (Ed 18, 23).

Điều đó được diễn tả cách mạnh mẽ hơn nơi bài Tin Mừng của Thánh Gioan (3,14-21). Thánh sử Gioan trình bày như sau: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. (Ga 3, 16-17). Vì yêu nên Thiên Chúa tìm mọi cách thế để cứu độ con người, thậm chí Ngài đã chấp nhận hy sinh Con Một của Ngài để ai tin vào Con của Người, là Đức Giê-su thì khỏi phải chết nhưng được sống muôn đời. Một vị Thiên Chúa luôn yêu thương và tha thứ dẫu con người bất trung, bất nghĩa. Một vị Thiên Chúa vô hình nhưng hiện diện một cách hữu hình nơi Ngôi Hai Thiên Chúa, là Ngôi Lời Nhập Thể, là Đức Giê-su Ki-tô, luôn luôn gần gũi, thân thiện và đầy lòng nhân hậu đối với con người, nhất là những người tội lỗi.

Chúng ta trích dẫn một vài ví dụ để nói lên lòng quảng đại tha thứ của một vị Thiên Chúa ngang qua Đức Giê-su: Nơi người đàn bà ngoại tình, đáng lý ra chị phải bị ném đá cho đến chết. Nhưng may mắn cho chị đã gặp Đức Giê-su, Đấng Cứu Thế, là hiện thân của Lòng Thương Xót của Thiên Chúa Tình Yêu. Thay vì lên án và ném đá chị, Đức Giê-su đã thể hiện một vị Thiên Chúa vô cùng bao dung và nhân hậu, khi Ngài nói: “Ta không kết án chị đâu. Hãy đi và từ nay đừng phạm tội nữa” (Ga 8,11). Vì Đức Giê-su đến trần gian nhằm để cứu con người như Ngài đã khẳng định: “Con Ngưòi đến để cứu vớt, chứ không phải để huỷ diệt; Ta đến không phải kêu gọi người công chính, nhưng kêu gọi người tội lỗi” (Lc 5,32). Nơi khác, Đức Giê-su thể hiện sự tha thứ của một vị Thiên Chúa đầy quyền năng và lòng thương xót khi chấp nhận người trộm lành cùng chịu đóng đinh bên phải với Ngài. Ngài đón nhận anh ta và quên hết quá khứ tội lỗi của anh. Ngài mạnh mẽ tuyên bố: “Quả thật, Ta bảo ngươi: ngay hôm nay, ngươi sẽ ở trên thiên đàng với Ta”. (Lc 23, 43)

Bên cạnh đó, “Đức Giê-su nói với ông Ni-cô-đê-mô rằng:“Như ông Mô-sê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3, 14-15). Đức Giê-su, hiện thân của lòng thương xót của Thiên Chúa tiếp tục mời gọi con người tin vào Ngài để đón nhận sự sống đời đời. Chỉ nơi Ngài, trong Ngài và nhờ Ngài, tất cả chúng ta mới được cứu độ. Chỉ nơi Ngài sự tha thứ của Thiên Chúa, tình yêu của Thiên Chúa và Lòng thương xót của Thiên Chúa mới được tỏ lộ cách thiết thực và rõ ràng nhất. Tuy nhiên, để đón nhận ơn tha thứ của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi nhận ra tội lỗi của mình với tâm tình khiêm tốn và tin yêu. Chúng ta không chỉ đón nhận sự tha thứ từ một phía Thiên Chúa, nhưng mỗi người được mời gọi hãy biết tha thứ cho tha nhân. Chỉ qua sự tha thứ cho người khác cách chân thật, chúng ta mới thực sự đón nhận sự thứ tha của Thiên Chúa. Quả thật, nếu chúng ta tha thứ sẽ được thứ tha là vậy. Tha thứ là hành vi thứ nhất đòi buộc ta phải thực hiện nơi cuộc sống đời thường cho anh chị em chung quanh, nhờ đó, chúng ta mới dễ dàng đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa. Nói cách khác, chúng ta chỉ nhận được sự tha thứ của Thiên Chúa đích thực khi chúng ta biết tha thứ cho nhau. Chúng ta không thể đón nhận sự tha thứ của Thiên Chúa khi chúng ta mắc tội, mà lại không khoan dung với tha nhân. Chúng ta không thể tận hưởng vị ngọt của sự tha thứ của Thiên Chúa, mà lại cay đắng hận thù anh chị em ta. Chúng ta đang sống trong tình trạng hận thù, ghen ghét, bất hoà bất thuận, nói hành nói xấu, gây hấn, lỗi đức bác ái, đâm thuê, chém mướn,…mà vẫn hiên ngang dâng lễ và đón lấy sự tha thứ của Thiên Chúa. Phải chăng chúng ta đang sống trong tình trạng hai lòng/ giả tạo? Liệu điều đó có phù hợp với tâm tình Mùa chay thánh không?

Thật vậy, tình yêu của Thiên Chúa vẫn luôn trải dài trên cuộc đời chúng ta, nhưng liệu tình yêu đó có thật sự được toả lan cho anh chị em không? Thiên Chúa luôn yêu thương và luôn tha thứ cho chúng ta, cũng vậy, chúng ta cũng cố gắng sống yêu thương và tha thứ cho hết thảy những ai có lỗi với chúng ta. Tình yêu và sự tha thứ của Thiên Chúa chỉ thật sự hiện diện trong cõi lòng của chúng ta nếu chúng ta biết thực thi cử chỉ đó cho anh chị em đồng loại.

Về mục lục

TIN ĐẤNG BỊ TREO

Trầm Thiên Thu

Kinh Thánh xác định: “Họ sẽ nhìn lên Đấng họ đã đâm thâu.” (Ga 19:37) Chắc chắn họ không nhìn xem Chúa Giêsu như thế nào, chết thật hay chưa, mà họ đã thực sự run sợ và bắt đầu tin. Tục ngữ Việt Nam có câu: “Chưa đánh được người, mặt đỏ như vang; đánh được người rồi, mặt vàng như nghệ.” Thế đấy!

Niềm tin trừu tượng nhưng có thể cảm nhận. Niềm tin là gì trong đời sống chúng ta? Bác học Albert Einstein (1879-1955, Đức quốc) cho biết: “Mối liên kết giữa Thiên Chúa và con người chính là niềm tin. Nhờ niềm tin mà tất cả vạn vật trong vũ trụ này có thể tồn tại và chuyển động.” Ôi, như vậy thì niềm tin tuyệt vời biết bao!

Cũng liên quan đức tin, Thánh Piô Năm Dấu xác định: “Thiên Chúa muốn kết ước với linh hồn trong đức tin, linh hồn nào muốn cử hành hôn lễ thiên đàng ấy PHẢI bước đi trong đức tin tinh ròng, đó là phương thế duy nhất thích hợp cho sự kết hợp tình yêu.” Thánh Thomas Aquinô cho biết: “Mặc dù cái nhìn chúng ta bị giới hạn và mờ nhạt về những sự rất linh thánh, nhưng chỉ thoáng thấy những sự ấy cũng đã là hoan lạc lắm rồi. Có ba điều cần thiết cho phần rỗi con người: hiểu biết điều nào PHẢI TIN; hiểu biết điều nào PHẢI ƯỚC AO; và hiểu biết điều nào PHẢI THỰC HIỆN. Có những điều ta phải nắm giữ bằng đức tin, nhưng lý trí vẫn có thể tìm hiểu; nhờ đó, mọi người đều có thể chia sẻ tri thức về Thiên Chúa một cách dễ dàng, không hoài nghi và lầm lạc.”

Với kinh nghiệm riêng, Chân phước Charles de Foucauld chia sẻ: “Giây phút tôi nhận biết Thiên Chúa hiện hữu, tôi biết tôi không thể làm gì khác hơn ngoài việc sống cho một mình Người. Đức tin tước lột mặt nạ khỏi thế giới này và tỏ ra Thiên Chúa trong mọi sự. Đức tin làm cho không còn sự gì là không thể, làm cho những từ ngữ như lo lắng, nguy hiểm và sợ hãi trở nên vô nghĩa. Nhờ đó, tín hữu sống cuộc đời yên hàn thanh thản, với một niềm tin sâu xa – như một con trẻ được mẹ cầm tay.”

Niềm tin lệch lạc dẫn tới tội lỗi. Mê tín dị đoan là dạng tin sai lầm, khiến người ta làm những điều mâu thuẫn. Kinh Thánh cho biết về mức tăng vọt về tội lỗi ngày xưa: “Tất cả các thủ lãnh của các tư tế và dân chúng mỗi ngày một thêm bất trung bất nghĩa, học theo mọi thói ghê tởm của chư dân và làm cho Nhà Đức Chúa đã được thánh hiến ở Giêrusalem ra ô uế. Đức Chúa, Thiên Chúa của tổ tiên họ, vẫn không ngừng sai sứ giả của Người đến cảnh cáo họ, vì Người hằng thương xót dân và thánh điện của Người. Nhưng họ nhạo cười các sứ giả của Thiên Chúa, khinh thường lời Người và chế giễu các ngôn sứ của Người, khiến Đức Chúa bừng bừng nổi giận mà trừng phạt dân Người đến vô phương cứu chữa.” (2 Sb 36:14-16) Được đằng chân, lân đằng đầu. Tội chồng lên tội theo cấp số cộng, rồi cấp số nhân. Con người quá đỗi lộng hành, thế mà Thiên Chúa vẫn im lặng, làm ngơ. Không phải là Ngài không biết, mà Ngài tạo cơ hội để người ta sám hối.

Và Kinh Thánh cho biết thêm: “Quân Can-đê đốt Nhà Thiên Chúa, triệt hạ tường thành Giêrusalem, phóng hoả đốt các lâu đài trong thành và phá huỷ mọi đồ đạc quý giá. Những ai còn sót lại không bị gươm đâm thì vua bắt đi đày ở Babylon; họ trở thành nô lệ của vua và con cháu vua, cho đến thời vương quốc Ba Tư ngự trị. Thế là ứng nghiệm lời Đức Chúa phán, qua miệng ngôn sứ Giêrêmia rằng: cho đến khi đất được hưởng bù những năm sa-bát và suốt thời gian nó bị tàn phá, nó sẽ nghỉ, cho hết bảy mươi năm tròn.” (2 Sb 36:19-21) Lịch sử mãi mãi vẫn là lịch sử, không ai thể che giấu sự thật.

Lịch sử vẫn diễn biến theo dòng thời gian, và Thiên Chúa luôn hiện hữu và theo dõi từng động thái của con người. Quả thật, Thiên Chúa có mặt trong lịch sử loài người, trong lịch sử cuộc đời của riêng từng người – kể cả những người vô thần. Đó là sự thật vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, dù người ta muốn hay không muốn.

Quá khứ, hiện tại, và tương lai là ba thời (thì) chính của cuộc sống, của thời gian. Cuộc đời mỗi người cũng có ba thời như vậy, nhưng quá khứ đã qua, tương lai chưa biết, nghĩa là chúng ta không thể “nắm giữ” quá khứ và tương lai, mà chỉ có hiện tại. Như vậy, chúng ta phải cố gắng sống thời hiện tại cho tốt để không phải khóc ngày mai, và hãy quên chuyện hôm qua, bởi vì quá khứ có là nụ cười hay nước mắt thì chúng ta không thể làm gì được nữa, nhưng chúng ta có thể rút được số vốn kinh nhiệm để sống cho hôm nay và hướng tới tương lai.

Kinh Thánh cho biết: “Năm thứ nhất thời vua Kyrô trị vì nước Ba Tư, để lời Đức Chúa phán qua miệng ngôn sứ Giêrêmia được hoàn toàn ứng nghiệm, Đức Chúa tác động trên tâm trí Kyrô, vua Ba Tư. Vua thông báo cho toàn vương quốc và ra sắc chỉ như sau: Kyrô, vua Ba Tư, phán thế này: Đức Chúa, Thiên Chúa trên trời, đã ban cho ta mọi vương quốc dưới đất. Chính Người trao cho ta trách nhiệm tái thiết cho Người một ngôi Nhà ở Giêrusalem tại Giuđa. Vậy ai trong các ngươi thuộc dân của Người thì xin Đức Chúa, Thiên Chúa của họ, ở với họ, và họ hãy tiến lên!” (2 Sb 36:22-23) Chính Thiên Chúa luôn mong chờ chúng ta biến đổi, nhất là trong Mùa Chay Thánh – cơ hội thuận tiện. Càng dứt khoát thì càng dễ biến đổi, càng mau biến đổi thì càng hữu ích cho chúng ta – cả thể lý và tinh thần.

Tha phương cầu thực đã thấy khổ, càng khổ hơn khi phải lưu đày, thế nên Thánh Vịnh gia than thở: “Bờ sông Babylon, ta ra ngồi nức nở mà tưởng nhớ Sion; trên những cành dương liễu, ta tạm gác cây đàn. Bọn lính canh đòi ta hát xướng, lũ cướp này mời gượng vui lên: “Hát đi, hát thử đi xem Sion nhạc thánh điệu quen một bài!” (Tv 137:1-3) Đang buồn làm sao vui nổi, đang khóc làm sao cười được? Vậy mà ngày nay thấy có dạng “khóc thuê,” cái gì cũng thuê, thậm chí người ta còn có dịch vụ khấn thuê, dâng lễ vật thuê,… Thần linh cũng không biết tính sao. Thần linh cũng khổ lắm chứ đâu an nhàn như những kẻ tham lam, vội vàng vơ vét vào!

Tâm sự canh cánh, nỗi niềm nặng trĩu cõi lòng, Thánh Vịnh gia chia sẻ: “Bài ca kính Chúa Trời, làm sao ta hát nổi nơi đất khách quê người? Giêrusalem hỡi, lòng này nếu quên ngươi thì tay gảy đàn thành tê bại! Lưỡi xướng ca sẽ dính với hàm, nếu ta không hoài niệm, không còn lấy Giêrusalem làm niềm vui tuyệt đỉnh của tâm hồn.” (Tv 137:4-6) Khi buồn thì người ta chán mọi sự, chẳng cần gì nữa, chỉ muốn khóc, cảnh vật cũng như lây nhiễm nỗi buồn. Nước mắt thường trào ra ngoài và chảy xuôi xuống theo gò má, nhưng cũng có loại nước mắt buồn không chảy ra ngoài mà chảy ngược vào trong. Bên ngoài nhìn họ rất tĩnh mà lòng họ rất động. Nỗi buồn quá dày, nỗi đau quá lớn, đã cô đọng thành sự tĩnh lặng, bất động. Đá không đeo mà nặng trĩu!

Kiếp phàm nhân là chuỗi dài đau khổ, thấm đẫm nỗi buồn, ướt sũng nước mắt. Vì không có niềm tin vào Thiên Chúa nên người ta thất vọng, có những người tuyệt vọng nên đã tự kết liễu đời mình. Tội chất chồng lên nhau.

Là tín nhân, chúng ta cũng đau khổ nhưng vẫn hạnh phúc, bởi vì chúng ta có niềm tin vào Thiên Chúa, Đấng giàu lòng thương xót, Đấng đã chịu chết để chúng ta được sống và sống dồi dào. Thánh Phaolô nói: “Thiên Chúa giàu lòng thương xót và rất mực yêu mến chúng ta, nên dầu chúng ta đã chết vì sa ngã, Người cũng đã cho chúng ta được cùng sống với Đức Kitô. Chính do ân sủng mà anh em được cứu độ! Người đã cho chúng ta được cùng sống lại và cùng ngự trị với Đức Kitô Giêsu trên cõi trời.” (Ep 2:4-6) Tất cả là hồng ân, chúng ta chẳng làm được gì đáng công trạng, giả sử chúng ta có làm được điều gì khác thường, hơn người, thì cũng chỉ là con số không to lớn và rỗng tuếch mà thôi. Nhưng chúng ta luôn phải canh chừng “cái tôi” kẻo sinh ảo tưởng và ảo giác.

Vừa nhấn mạnh vừa giải thích tỉ mỉ, Thánh Phaolô nói: “Như thế, Người tỏ lòng nhân hậu của Người đối với chúng ta trong Đức Kitô Giêsu, để biểu lộ cho các thế hệ mai sau được thấy ân sủng dồi dào phong phú của Người. Quả vậy, chính do ân sủng và nhờ lòng tin mà anh em được cứu độ: đây không phải bởi sức anh em, mà là một ân huệ của Thiên Chúa; cũng không phải bởi việc anh em làm, để không ai có thể hãnh diện. Thật thế, chúng ta là tác phẩm của Thiên Chúa, chúng ta được dựng nên trong Đức Kitô Giêsu, để sống mà thực hiện công trình tốt đẹp Thiên Chúa đã chuẩn bị cho chúng ta.” (Ep 2:7-10) Ai cũng được Thiên Chúa đặt vào một vị trí nhất định nào đó để vinh danh Ngài, nhưng chúng ta thường đặt ra những cái “nếu” theo trí hiểu hữu hạn, vì thế chúng ta thường khen người này, chê người kia, không ưa người nọ,… Kiểu áp đặt Thiên Chúa theo ý mình như vậy là dạng ấu trĩ liên quan đức tin.

Thánh Mark khổ tu cho biết: “Các công việc là điều cần thiết và được Thiên Chúa minh nhiên an định, nhưng chúng ta nên dứt bỏ các công việc không hợp giờ giấc và dành ưu tiên cho việc cầu nguyện, nhất là nên dứt bỏ những công việc đòi hỏi chi tiêu quá đáng hoặc sinh được quá nhiều của cải dư thừa. Ai biết vì Chúa mà tự hạn chế và loại bỏ những của cải dư thừa của họ bao nhiêu, người ấy càng giữ tâm trí khỏi bị xao lãng bấy nhiêu… để dành chỗ cho việc cầu nguyện tinh tuyền và chứng tỏ một niềm tin chân thành nơi Chúa Kitô. Còn ai vì kém đức tin hoặc vì một yếu đuối nào khác mà không làm được điều ấy thì ít nhất cũng hãy thừa nhận thực trạng, tố cáo sự ấu trĩ của mình, và hãy hết sức vươn lên.” Rất tuyệt vời, nhưng cũng rất khó thực hiện.

Kinh Thánh cho biết: “Như ông Môsê đã giương cao con rắn trong sa mạc, Con Người cũng sẽ phải được giương cao như vậy, để ai tin vào Người thì được sống muôn đời.” (Ga 3:14-15) Chúa Giêsu chịu đau khổ để diệt khổ, chịu chết để chiến thắng tử thần, đó là vì tội lỗi của mỗi chúng ta: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời. Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ. Ai tin vào Con của Người thì không bị lên án; nhưng kẻ không tin thì bị lên án rồi, vì đã không tin vào danh của Con Một Thiên Chúa.” (Ga 3:16-18)

“Ngày nào có nỗi khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Đau khổ có đủ kích cỡ, đủ mức độ, không tránh đâu được. Muốn hết khổ thì chỉ có cách là “sống chung” với nó; muốn nhẹ lòng thì cứ khóc cho “trôi” bớt. Chẳng ai thương mình hơn ta thương mình, có an ủi cũng chỉ cảm thông một phần nhỏ với ít nhiều “giả dối” mà thôi. Trên Đường Thập Giá, Chúa Giêsu đã khuyên các phụ nữ ĐỪNG khóc thương Ngài, mà hãy khóc thương cho chính phận mình và con cháu. (x. Lc 23:28) Chính mình phải biết thương mình trước, để gia tăng niềm tin, rồi mới có thể biết thương người khác.

Thánh sử Gioan cho biết: “Đây là bản án: ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa. Quả thật, ai làm điều ác thì ghét ánh sáng và không đến cùng ánh sáng, để các việc họ làm khỏi bị chê trách. Nhưng kẻ sống theo sự thật thì đến cùng ánh sáng, để thiên hạ thấy rõ: các việc của người ấy đã được thực hiện trong Thiên Chúa.” (Ga 3:19-21) Lời lẽ rõ ràng và sắc bén lắm.

Bất kỳ ai muốn được Thiên Chúa xót thương thì phải chân thành ăn năn, đền tội, và không ngừng cầu nguyện: “Lạy Chúa, xin nghe con giãi bày lẽ phải, lời con than vãn, xin Ngài để ý; xin lắng tai nghe tiếng nguyện cầu thốt ra từ miệng lưỡi chẳng điêu ngoa.” (Tv 17:1) Và thành tâm xác tín: “Phần con đây, con tin cậy vào tình thương Chúa, được Ngài cứu độ, lòng con sẽ vui mừng. Con sẽ hát bài ca dâng Chúa, vì phúc lộc Ngài ban.” (Tv 13:6)

Những ngày vừa qua, thế giới “nóng” lên và khâm phục cô gái trẻ Ma Kial Sin, 19 tuổi, đã can đảm tranh đấu vì chính nghĩa, và cô đã bị quân đội bắn chết tại Mandalay, Myanmar, ngày 03-03-2021. Trên áo cô mặc có in câu: “Everything will be OK.” (Mọi thứ sẽ ổn thôi.) Cô gái này tuổi nhỏ nhưng chí lớn, dám quên mình vì đại nghĩa, và cô có niềm tin mạnh mẽ vào sự thật. Chúng ta cũng phải can đảm hành động vì sự thật, đặc biệt là trong lĩnh vực tâm linh.

Đại đế Napoléon nói: “Thế giới phải chìm đắm trong đau khổ không phải vì tội ác của những kẻ xấu, mà là vì sự im lặng của những người tốt.” Vĩ nhân Mahatma Gandhi phân tích: “Bất cứ ai bảo rằng họ không quan tâm đến chính trị thì cũng giống như kẻ đang chết đuối mà luôn mồm khẳng định họ không cần biết xung quanh mình là nước.” Tục ngữ Iran có câu rất đáng suy tư: “Nấm mồ thực sự của chúng ta không phải ở trong lòng đất mà ở trong tim của người ta.”

Thập Giá là nhục hình, nhưng đối với Thiên Chúa lại hoàn toàn khác. Cuối cùng, tướng cướp Dismas cùng chịu đóng đinh với Chúa Giêsu đã phải cầu xin: “Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!” (Lc 23:42) Và chính viên đại đội trưởng cũng đã thức tỉnh lương tâm: “Quả thật, người này là Con Thiên Chúa.” (Mc 15:39)

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con can đảm hành động vì chân lý của Ngài, thương cho phận mình và yêu tha nhân, để nhờ đó mà chúng con được cứu độ. Vì Cuộc Khổ Nạn và Bửu Huyết của Chúa Giêsu, vì Châu Lệ của Thánh Mẫu, xin Chúa thương cứu các linh hồn, cứu thế giới và chúng con – các hối nhân chân thành. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

MÓN QUÀ TUYỆT VỜI

Thiên San

Sách Sáng Thế kể lại, sau khi con người (A đam) và vợ phạm tội, con người đặt tên cho vợ mình là Eva, vì bà là mẹ của chúng sinh. Thiên Chúa may những chiếc áo bằng da và mặc cho họ (x. St 3, 20-21). Mặc dù tội lỗi và hậu quả của tội lan tràn khắp mặt đất nhưng sự sống Thiên Chúa đã ban vẫn tiếp tục phát triển. Thiên Chúa vẫn luôn yêu thương, bao bọc con người, tìm cách để khôi phục tương quan đã bị bẻ gãy bởi tội. Đức Giêsu chính là món quà tuyệt vời, là lời hứa, là trung gian giao hòa và là ơn cứu độ Thiên Chúa tặng ban cho nhân loại.

Câu chuyện nửa đêm giữa Đức Giêsu và ông Nicôđêmô mặc khải cho chúng ta biết về kế hoạch của Thiên Chúa. Đức Giêsu mạc khải cho chúng ta biết rằng: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời (Ga 3, 16). Thật vậy, Đức Giêsu chính là Con Một yêu dấu của Chúa Cha được ban cho nhân loại. Qua người con ấy, chúng ta được cứu chuộc, được giao hòa cùng Thiên chúa. Để lãnh nhận ơn cứu độ, chúng ta được mời gọi tin vào Đấng Chúa Cha sai đến. Tội lỗi đã lan tràn kể từ khi Nguyên tổ phạm tội. Là hậu duệ của các ngài, chúng ta nhận thấy rằng: “Lúc chào đời con đã vương lầm lỗi, đã mang tội khi mẹ mới hoài thai” (Tv 50, 7). Thiên Chúa không chỉ may cho con người những chiếc áo bằng da để che phủ tội lỗi và sự khốn cùng của con người mà còn ban chính Con Một làm giá chuộc tội cho cả nhân loại. Tình yêu, sự sống Thiên Chúa vẫn tiếp tục được trao ban.

Nhìn về tình yêu bao la của Thiên Chúa, chúng ta được mời gọi điều gì? Thiết nghĩ, sám hối là một trong những thái độ ta cần có để đáp lại tình yêu của Ngài. Như tác giả Thánh vịnh 50, chúng ta hãy thân thưa cùng Thiên Chúa về sự yếu hèn của ta cùng bày tỏ sự ăn năn, thống hối. Suốt Mùa Chay, mẹ Giáo hội không ngừng kêu mời con cái mình sống sự sám hối ấy, đến với Thiên Chúa qua bí tích Hòa Giải, đến với anh chị em qua nghĩa cử bác ái và trong cầu nguyện, ta ca tụng tình yêu Thiên Chúa và cầu nguyện cho mọi người. Sám hối là lời mời gọi cho tất cả chúng ta. Hơn hết, một sự sám hối chân thành rất cần đến một sự thay đổi đời sống tận căn để có thể tin yêu và sống theo những đòi hỏi của Con Một.

“Ánh sáng đã đến thế gian, nhưng người ta đã chuộng bóng tối hơn ánh sáng, vì các việc họ làm đều xấu xa” (Ga 3, 19). Kinh nghiệm cho thấy, khi phạm phải một lỗi gì đó, chúng ta thường có xu hướng che dấu tội của mình hoặc tìm cách biện minh, không muốn ai biết đến. Chúng ta cảm thấy “an toàn” khi ở trong bóng tối đó. Bóng tối sẽ giúp ta che đậy tất cả. Dường như những ai càng phạm tội, càng muốn ở lại trong bóng tối. Nhưng, sự “an toàn” ấy là giả tạo. Chúng ta sẽ sớm cảm thấy bứt rứt, khó chịu, không vui. Can đảm trở về cùng ánh sáng, bước ra khỏi tội là điều không hề dễ dàng. Như người con thứ trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”, chúng ta hãy hồi tâm và tự nhủ để biết rằng chúng ta là con cái Thiên Chúa. “Thôi ta đứng lên, trở về cùng Cha” (Lc 15, 18).

Chúng ta thuộc về ánh sáng. Thiên Chúa đã dùng chính giá máu của Người Con yêu dấu để cứu chúng ta thì tội lỗi chúng ta có lớn, có nhiều đến mấy thì Ngài cũng sẵn sàng tha thứ. “Quả vậy, Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 17). “Dù tội ta, có cao biết mấy, nhưng tình Chúa vẫn cao hơn nhiều…”. Chúng ta hãy đón nhận món quà tình yêu Thiên Chúa đã trao ban.

Về mục lục

TÌNH YÊU VÀ GIÁ CHUỘC

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Ai chúng ta đều có trái tim để yêu. Trái tim đó trao đi, nhiều khi trao gần hết, rồi chợt đến một câu hỏi: “Được gì khi trao hết tình yêu? Có nuối tiếc vì một tình yêu đã trao? Và tình yêu ấy có đáng giá không?”. Rất nhiều những câu hỏi và cuối cùng mới biết tình yêu ấy là gì khi đã trao hết. Định nghĩa về tình yêu Thiên Chúa, Thánh Gioan đã nói về giá chuộc “Tình yêu cho đến nỗi phó nộp người con duy nhất của Người” (Ga 3, 16).

Yêu là gì? Khi quen nhau một tháng, họ cùng nhau đi ăn, khi biết nhau một năm, họ cùng nhau đi du lịch. Khi thân biết nhau vài năm, họ trao nhau chiếc nhẫn đính hôn. Và sau đó họ trao nhau nhẫn cưới. Sau nữa nhiều năm, bao nhiêu hy sinh, nhẫn nại, tình yêu vợ chồng, chăm con khôn lớn. Bên ngoài công việc lao đao, bao thăng trầm, hỷ nộ, ái ố. Tất cả đều đã trải qua, vẫn chưa thể định giá tình yêu. Cho đến khi xuôi tay nhắm mắt, mới hiểu ra được tình yêu trao đi là vô giá.

Nếu tình yêu có giá, tình yêu ấy vẫn là giới hạn trong cuộc đổi trao, vẫn là những tính toán hơn thiệt. Tình yêu vẫn còn so đo. Tình yêu lời lỗ như là một thuơng vụ mua bán, sớm phai tàn, lạnh nhạt, không bao giờ là một tình yêu. Một trải nghiệm mất nhiều hơn được, cũng là cái giá của tình yêu.

Trong tình yêu, có khi trao nhầm, có khi chỉ cuộc vui chóng tàn. Một tình yêu bị bội phản, một tình yêu bị chối từ. Bao thất vọng, bao ê chề, tủi nhục, nỗi khổ của tinh yêu. Tình yêu lúc đó mới hiểu, đau thương là giá trả của tình yêu.

Một tình yêu chết cho người mình yêu, người đời cho đó là một sự điên rồ vì tình yêu. Định nghĩa cho tình yêu: Yêu là chấp nhận, yêu là hy sinh, yêu là nhẫn nhịn, yêu là tha thứ. Chẳng bao giờ đủ, vẫn tiếp tục, nhẫn nại, hy sinh, tha thứ. Không có giá để trả, để được gọi đó là tinh yêu phó nộp,Thánh Phaolô gọi đó là “sự điên rồ của thập giá” (1 Cor 1, 18).

Chúng ta không thể sống mà không biết yêu thương. Yêu thương là chấp nhận nỗi nhọc nhằn của tình yêu và chắc chắn không đến nỗi như Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta.

Xin Chúa ban cho chúng con đủ sức mạnh để yêu thương, đủ lý trí, con tim, gánh vác buồn vui cuộc đời.

Về mục lục

NIỀM TIN VÀ HÀNH ĐỘNG

Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

Tôi không nhớ đã nghe ở đâu đó câu chuyện kể rằng. Có một người đàn ông lên Thiên đàng gặp Thánh Phêrô và hỏi: Vợ con đã có ở trên này chưa? Thánh Phêrô trả lời là vợ con đã ở trên này rồi. Thế là anh ta nói với Thánh Phêrô: Thế thì con không vào đâu vì con đã sống bao nhiêu năm với nó trên trần gian và chịu muôn vàn tủi nhục vì nó. Giờ lên đây lại gặp nó nữa thì đời con tiêu hẳn rồi. Còn một người đàn ông khác lên Thiên đàng và cũng hỏi Thánh Phêrô câu hỏi tương tự và nhận được câu trả lời là vợ con chưa có trên Thiên đàng. Anh ta nói với Thánh Phêrô rằng nếu vợ con chưa có ở đây thì con cũng không vào đâu vì con không thể sống thiếu vợ con được. Cô ấy và con đã có một cuộc hôn nhân tuyệt vời. Giờ cô ấy ở đâu con sẽ đi tới đó.

Câu chuyện giả tưởng trên đây muốn diễn tả một chân lý tuyệt hảo rằng Thiên đàng hay hỏa ngục chẳng phải là một thực tại xa xăm nào. Thiên đàng hay hỏa ngục là ở đây và bây giờ. Chính chúng ta tự tạo ra Thiên đàng và cũng chính chúng ta tự tạo ra Hỏa ngục. Thiên đàng và Hỏa ngục nếu có thì cũng phải bắt đầu từ ngày hôm nay.  Đây cũng là điều mà tôi cảm nghiệm được khi đọc Tin Mừng Chúa nhật IV Mùa Chay năm B. Thánh Gioan nói với chúng ta Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi ban Con Một mình để những ai tin Con Ngài thì không bị hư mất nhưng được sống đời đời. Ai tin Người Con ấy thì không bị luận phạt. Ai không tin thì đã bị luận phạt rồi. Không cần phải đợi tới ngày cánh chung chúng ta mới bị xét xử mà ngay hôm nay, chúng ta đã bị xét xử rồi. Chúng ta đứng trước lựa chọn hoặc tin vào Thiên Chúa hoặc khước từ Ngài. Tin vào Thiên Chúa chính là tin vào tình yêu và hành động theo tình yêu. Làm như thế, chúng ta sẽ không bị hư mất. Còn nếu không làm như thế, chúng ta sẽ bị tiêu diệt. Theo Thánh Gioan thì phần nhiều trong chúng ta sẽ khước từ Ngài. Lý do là bởi vì chúng ta chuộng bóng tối hơn ánh sáng. Chúng ta sợ ánh sáng vì những việc làm của chúng ta xấu xa. Chúng ta sợ bị phơi bày sự thật trước Thiên Chúa là ánh sáng vĩnh cửu.

Nhìn vào thực tế cuộc sống, tôi thấy giữa niềm tin và cuộc sống thực luôn có một khoảng cách quá xa vời. Người ta có thể vẫn đi dự lễ, vẫn tham gia các Hội đoàn, nhưng trong cách hành xử với đồng loại thì luôn không ổn tí nào. Chúng ta cũng dễ dàng coi trọng những điều chúng ta cho là linh thiêng nhưng lại bỏ quên thực tại là những con người cụ thể chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Hồi mới ra trường, tôi vào Sài gòn và mua 1000 cây thánh giá gỗ nhỏ để tặng cho các bạn trẻ. Tôi đến Fatima Bình triệu và gặp một Sơ bán hàng ở đó. Số lượng Thánh giá lớn quá nên Sơ đó hẹn tôi đến chiều quay lại. Buổi chiều hôm đó tôi có việc nên 18h00 mới tới được. Sơ đó bảo giờ đó thì con không thể tiếp Cha được vì con phải chầu Mình Thánh Chúa với cộng đoàn. Tôi không hiểu ngày đó làm sao tôi lại có thể nói được một câu mà đến giờ tôi cũng bất ngờ. Tôi bảo Sơ đó rằng liệu Sơ có thể để lại một Giêsu trong Nhà Chầu để gặp một Giêsu giữa đời được không? Sau một chút ngần ngại, Sơ đó bảo tôi rằng thôi được Cha cứ đến. Bất cứ giờ nào con cũng sẵn sàng tiếp Cha.

Đó là một kinh nghiệm gây ngạc nhiên cho chính bản thân tôi. Nhiều khi chính tôi cũng lấy lý do này lý do nọ để từ chối tha nhân. Có những linh mục đã xua đuổi chính con chiên của mình chỉ vì họ đến không đúng ngày tiếp khách, ngày làm việc của ngài. Có những linh mục không kìm hãm được cơn giận dữ của mình nên sẵn sàng lên Tòa giảng để thóa mạ giáo dân. Thật xót xa khi chứng kiến những cảnh tượng như vậy. Làm sao chúng ta rao giảng một Thiên Chúa giàu lòng thương xót khi chính chúng ta lại thể hiện một bộ mặt đầy trái ngược? Làm sao nói về Cứu Độ, nói về Nước Trời, nói về Thiên đàng khi mà những cái nhỏ nhặt nhất chúng ta chưa làm được?

Lạy Chúa, Chúa nhật IV Mùa chay là Chúa nhật của màu hồng, Chúa nhật của niềm vui. Cũng như dân Do Thái xưa vui mừng vì được Hoàng đế Ba Tư là Cyrus cho hồi hương tái thiết Đền Thờ sau bao ngày lưu lạc tha hương, xin cho chúng con cảm nghiệm được niềm vui vì được Chúa yêu thương mỗi ngày. Nhưng niềm vui ấy chỉ thực sự trọn vẹn khi chúng con thực tâm trở về sống tình huynh đệ chan hòa yêu thương với những người chúng con gặp gỡ trên đường đời. Xin giúp chúng con thực hiện được điều đó hôm nay. Amen.

Về mục lục

THIÊN CHÚA YÊU THẾ GIAN

Lm. Giuse Nguyễn

 Trong những ngày này, Giáo hội Việt Nam sống lại kỷ niệm với Đức cố TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc, TGM. Sài Gòn khi kỷ niệm 3 năm ngày mất của ngài trong chuyến Ad Limina cùng với HĐGMVN, nghĩa là cuộc viếng mộ các thánh Tông đồ, mà cụ thể là 2 thánh Phêrô và Phaolô để bày tỏ sự hiệp thông với Giáo hội và cũng để báo cáo với Tòa thánh về hiện trạng Giáo phận của mình. Còn nhớ 3 năm trước, Giáo Hội Việt Nam bàng hoàng trước tin Đức TGM. Phaolô Bùi Văn Đọc qua đời. Không bàng hoàng sao được khi mới hôm trước Ngài còn vui vẻ, tươi cười hạnh phúc khi được yết kiến Đức Thánh Cha Phanxicô; không bàng hoàng sao được khi Ngài vừa mới chủ sự Thánh lễ tại vương cung thánh đường thánh Phaolô ngoại thành một cách rất sốt sắng… Nhưng xem ra sự ra đi của Ngài lại nằm trong hành trình trở về với yêu thương, vì Ngài đang trở về Rôma, “kinh thành muôn thuở” của người Công giáo, và hơn thế nữa trở về trong tình hiệp thông huynh đệ với Đức Thánh Cha và anh em Giám mục của mình, điều mà có lẽ chưa một vị Giám mục nào được diễm phúc. Và nhất là sự ra đi của Ngài là để trở về với Thiên Chúa là Cha yêu thương, một sự thật mà phụng vụ lời Chúa muốn gởi đến chúng ta hôm nay.

Tác giả Sử Biên Niên đã điểm lại những giai đoạn lịch sử của dân tộc Israel trước, trong và cuối cuộc lưu đày bên Babylon. Vì dân chúng phản nghịch, lại không chịu nghe lời Thiên Chúa thông qua các ngôn sứ và thủ lãnh, nên Thiên Chúa đã trừng phạt họ. Họ bị mất nước, bị lưu đày bên Babylon. Tuy nhiên, “giận thì giận mà thương thì vẫn thương”. Khi dân biết tội lỗi của mình, ăn năn sám hối, thì Thiên Chúa đã làm cho vua Kyrô thay đổi lòng dạ để ông ban sắc chỉ trả tự do cho dân của Chúa. Cho nên tất cả mọi sự đều do Thiên Chúa hành động để thanh luyện con người cho xứng với hạnh phúc cao quý Chúa ban.

Trong bài Tin Mừng, khởi đi từ cuộc đối thoại với ông Nicôđêmô về sự sống vĩnh cửu, về ơn cứu độ. Hôm nay, Đức Giêsu như độc thoại, cho thấy vấn đề không còn là riêng của ông Nicôđêmô nữa mà là vấn đề của mọi người. Ngài nói: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời”(Ga3,16). Đó là sự thật của phụng vụ lời Chúa hôm nay. Thiên Chúa yêu thế gian và muốn cứu độ tất cả mọi người. Phần con người muốn được cứu độ phải tin và đón nhận tình yêu đó; phải sống trong và trở về với yêu thương.

Như vậy tình yêu của Thiên Chúa không chỉ đem đến cảm xúc ngọt ngào theo kiểu: “Khi tình yêu đến dẫn ta đến bờ bến lạ”, mà tình yêu của Thiên Chúa thường là sự thanh luyện như việc mài cho đến khi viên ngọc sáng lên, rèn cho đến khi con dao sắc bén, tập luyện cho đến khi thuần thục, giỏi giang một bộ môn nào đó như tục ngữ Việt Nam có câu: “Ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”, hay “Thao trường đổ mồ hôi thì chiến trường bớt đổ máu”.

Chúng ta dừng lại một chút ở điểm này vì đó chính là thực tế đời sống đức tin của chúng ta. Có mấy người trong cuộc sống yên ổn, mọi sự đều tốt đẹp, không gặp điều chi phiền muộn? Dường như đa số chúng ta nếu không muốn nói là tất cả đều có “vấn đề” trong cuộc sống. Nếu không gặp “vấn đề” cho chính bản thân thì cũng sẽ gặp “vấn đề”  do người thân và hoàn cảnh. Những “vấn đề” này đến từ 2 lý do.

Lý do thứ nhất là hậu quả của những việc chúng ta đã làm như những người Do Thái trong bài đọc thứ nhất. Họ bị mất nước, bị lưu đày là do hậu quả của việc phản nghịch cùng Thiên Chúa và làm những điều ghê tởm. Những đau khổ, bệnh tật và những “vấn đề” chúng ta đang gặp phải có khi là do hậu quả chính mình làm ra: Uống rượu bia, hút thuốc lá, thức khuya, sống vô độ sẽ dễ bị bệnh; sử dụng những chất kích thích sẽ gây ảo giác dẫn đến không kiềm chế được bản thân, làm điều xấu; chạy xe tốc độ cao, không tuân thủ luật lệ giao thông sẽ dễ gây tai nạn; các hình thức cờ bạc như đánh bài ăn tiền, cá độ, đá gà có ngày sẽ “tán gia bại sản”; buôn bán không trung thực, lường gạt người khác có ngày sẽ vô tù; trộm cướp, móc túi, giựt dọc sẽ có ngày bị người ta phát hiện và đánh nhừ tử cho chừa cái thói gian tà… Và nhiều những bất trắc khác mà nếu xét lại thì chính chúng ta là nguyên nhân.

Lý do thứ hai là Thiên Chúa muốn dùng những hoàn cảnh đó để thanh luyện chúng ta. Thiên Chúa có quyền làm như thế vì Ngài là chủ, là cha, là chúa tể muôn loài, nên trước khi trao điều gì quý giá, Ngài muốn xem chúng ta có xứng đáng hay không. Sau khi thử thách đức tin của Apraham, Thiên Chúa mới cho ông trở thành “tổ phụ của những kẻ tin”. ĐHY. Phaxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận khi còn làm Giám mục ở Việt Nam đã bị tù đày một cách vô cớ suốt 11 năm trời, sau này Ngài đã được trả công xứng đáng khi được Tòa Thánh tin tưởng trao cho những trọng trách quan trọng trong Giáo hội cùng với tước Hồng Y, và hiện tại đang tiến hành hồ sở tuyên thánh cho Ngài… Cũng vậy có những người không làm điều chi gian ác, sống tốt lành, thánh thiện… nhưng vẫn gặp những bất hạnh trong cuộc đời. Ví dụ gia đình nọ có người cha rất tốt, yêu thương lo lắng cho vợ con, đọc kinh, đi lễ hằng ngày… bỗng nhiên đột quỵ, qua đời. Gia đình buồn quá sức. Nhưng qua sự kiện đó, những người thân trong gia đình đi xưng tội để cầu nguyện cho ông, sau đó đi lễ, sống đạo rất tốt. Người vợ chia sẻ: “Con cám ơn Chúa, vì nhờ ba nó mà mấy đứa con của con đã trở lại”.

Điểm chung của cả 2 lý do này là dù như thế nào chúng ta vẫn gặp những đau khổ trong cuộc đời. Nhưng như lời của thánh Phaolô trong bài đọc thứ hai: “Anh em đã chết vì phạm tội, nhưng được cứu độ nhờ ân sủng” (x. Ep2,5); nghĩa là mọi sự đều là ân sủng của Chúa để cứu độ chúng ta, và đó là tình yêu vĩ đại nhất của Ngài.

Điều đáng nói là con người chúng ta chỉ tìm kiếm thứ tình yêu êm dịu ngọt ngào. Nếu như vậy thì chúng ta chưa sống đức tin thực sự. Đức tin đòi hỏi nơi chúng ta sự tín thác vào tình yêu của Chúa và sống theo những gì Ngài chỉ dạy.

Ví dụ khi gặp những khó khăn chúng ta chỉ xin Chúa giải quyết theo ý chúng ta: “Con bị bệnh, xin Chúa cho con hết bệnh”; “Con đang thiếu nợ xin Chúa cho con trúng số để trả nợ”; “Gia đình con đang trục trặc, xin Chúa cho gia đình con yên ổn”… mà không tìm hiểu những nguyên nhân do đâu dẫn đến những khó khăn đó. Nếu do chính chúng ta thì phải giải quyết từ bản thân của mình. Có chăng là xin Chúa ban sức mạnh để con có thể sửa đổi. Ví dụ con bị bệnh vì con ăn nhậu quá sức ; gia đình con trục trặc vì con “ham của lạ” ; con thiếu nợ vì con bài bạc…

Còn nếu xét mình lại những khó khăn không phải do mình, và có những điều mình không thể chấp nhận được, thì hãy biết rằng Thiên Chúa đang có chương trình đặc biệt cho chúng ta. Ngài muốn dùng chúng ta để thanh luyện kẻ khác và chắc chắn hạnh phúc của chúng ta là rất lớn lao.

Mùa Chay là thời gian nhắc nhở về tình yêu của Thiên Chúa để mỗi người hãy lo sám hối vì những việc làm sai trái của mình kẻo không xứng đáng với công trình cứu độ của Chúa; cũng là thời gian để chúng ta hy sinh hãm mình đón nhận tất cả mọi đau khổ Thiên Chúa muốn, vì Đức Giêsu có trãi qua đau khổ mới đến vinh quang. Nhất là để nhắc nhở chúng ta về hành trình trở về với yêu thương để “Làm mọi sự vì Đức Ái”. Chỉ khi nào con người có Thiên Chúa họ mới bình an và sẵn sàng trong mọi sự.

Xin Thánh Cả Giuse là Đấng chúng con đang hướng đến trong năm đặc biệt này, giúp chúng con luôn sống theo thánh ý Chúa như Ngài đã từng sống. Xin Cha Phanxicô Trương Bửu Diệp mà chúng con vừa cử hành lễ giỗ lần thứ 75 chuyển cầu cho nỗi lòng của chúng con, để dù thế nào chúng con vẫn được bình an trong cuộc sống.

Về mục lục

THẬP GIÁ YÊU THƯƠNG, THẬP GIÁ CỨU ĐỘ

Lm. Antôn Phạm Trọng Quang

Truyền thuyết Hy Lạp kể rằng con trai của thần Thái Dương Appolon là Esculape, được coi là ông tổ của ngành y dược. Vì ông không chỉ có khả năng chữa bệnh mà còn có thể làm cho người chết sống lại.

Esculape chào đời khoảng năm 1260 trước Công nguyên. Theo truyền thuyết, mẹ ông qua đời khi ông còn trong bụng mẹ nên cha của ông phải mổ lấy con ra khỏi bụng bà. Vì không có mẹ nên cha ông bỏ ông lên núi, ông được dê cho bú và chó canh chừng nên đã sống sót. Lớn lên do bản tính thích quan sát nên ông nhận ra nhiều loài cây dược thảo có thể dùng để chữa bệnh hoặc cải tử hoàn sinh.

Chuyện cũng kể rằng, một hôm nọ, Esculape đang trên đường đi thăm bạn, ông nhìn thấy một con rắn đang tiến về phía mình, ông đưa gậy ra thì con rắn liền quấn quanh cái gậy. Như một cách phản ứng tự nhiên, ông ném cây gậy xuống đất với mục đích giết chết con rắn đi. Nhưng ngay lập tức ông lại thấy xuất hiện một con rắn khác bò tới. Miệng con rắn này ngậm một loài thảo dược dùng để cứu đồng loại của nó. Từ sau đó Esculape đã để tâm đến loài thảo duộc này, rồi dùng nó để chữa bệnh cho mọi người.

Dựa vào truyền thuyết trên, ngành y đã lấy hình ảnh con rắn quấn quanh cái gậy để làm biểu tượng cho ngành. Với hy vọng tượng trưng cho sự khôn ngoan, khả năng chữa trị bệnh và kéo dài tuổi thọ của con người.

Câu chuyện về con rắn treo trên cây gậy cũng được đề cập đến trong Cựu Ước ở Sách Dân Số chương 21. Kinh Thánh kể rằng, khi dân Israel chịu cảnh nô lệ bên Ai cập, họ đã kêu cầu xin Chúa giải thoát họ khỏi cảnh tù đầy. Thiên Chúa đã nghe tiếng kêu cầu than khóc của họ, nên Ngài đã chọn ông Môsô để dẫn đưa dân Ngài ra khởi cảnh lưu đày và đưa họ về với vùng đất hứa.

Tuy nhiên trên đường đi họ đã trách móc nặng lời và chống lại Thiên Chúa nhiều lần. Vì thế, Thiên Chúa đã để cho loài rắn độc từ trong sa mạc tiến ra cắn chết nhiều người. Ông Môsê thấy thế liền kêu van Thiên Chúa tha thứ vì sự phản bội và vô ơn của dân, đồng thời xin Người ra tay cứu sống những người bị rắn cắn. Thiên Chúa nhận ra lòng thành và truyền cho ông Môsê đúc một con rắn đồng, treo lên cây gậy, để ai bị rắn cắn mà nhìn lên con rắn đó thì sẽ được cứu sống. Nghe lời Đức Chúa, ông Môsê đã làm như vậy, thế nên dân Israel đã được thoát chết.

Con rắn đồng chính vì vậy đã trở thành biểu tượng của lòng từ bi và hay tha thứ của Thiên Chúa. Nhất là trong Tin Mừng của Thánh Gioan chương 3, Chúa Giêsu cũng dùng hình ảnh con rắn đồng nơi sa mạc để so sánh với chính Ngài, Chúa nói: “Như ông Môsê đã dương con rắn đồng trong sa mạc thế nào, Con Người cũng phải được giương cao như vậy, để tất cả những ai tin vào Người, sẽ không bị hủy diệt, nhưng được sống đời đời” (3, 14-15).

Thật vậy, việc Đức Giêsu bị treo lên trên cây thập tự nói lên tình thương của Người dành cho nhân loại, Ngài dùng chính mạng sống của mình để cứu lấy phần rỗi nhân loại chúng ta. Vì sau khi con người phạm tội, phản nghịch cùng Thiên Chúa, Thiên Chúa đã không từ bỏ con người, nhưng sai Con Một của Người là Đức Giêsu Kitô xuống thế làm người để cứu chuộc. Như lời của thánh Gioan tuyên bố: “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3, 16).

Tình yêu đó thật lớn lao, tình yêu của người dám hy sinh mạng sống vì bạn hữu của mình, đó là tình yêu mà Đức Kitô đã dành cho loài người chúng ta (x. Ga 15,13). Thiên Chúa không cần gì khác ngoài việc khao khát chúng ta hướng lòng lên ngài. Còn chúng ta, để đáp lại tình yêu đó, không cần gì khác ngoài việc đặt hết niềm tin tưởng và cậy trông vào Chúa.

Cuộc đời chúng ta gặp đầy những đau khổ và bệnh tật, không quản bệnh về thể xác, tinh thần hay cả tâm hồn. Vì thế, ngoài việc tìm thầy chạy thuốc, chúng ta cũng biết chạy đến cùng Chúa Giêsu để xin Ngài cứu giúp. Thiên Chúa là Cha nhân từ, Ngài không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ nhưng sẽ ghé mắt thương đến chúng ta, như lời Ngài đã hứa: “Anh em cứ xin thì sẽ được, cứ tìm thì sẽ thấy, cứ gõ cửa thì sẽ mở ra cho” (Mt 7,7).

Xin cho chúng ta, khi nhìn lên thánh giá, luôn cảm nghiệm được lòng từ bi hay thương xót của Ngài. Xin cho chúng ta khi nhìn lên thập giá Chúa Kitô, luôn được củng cố niềm tin về quyền năng chữa lành của Chúa. Và xin cho chúng ta, khi nhìn lên Đức Kitô chịu đóng đinh, biết cải đổi tâm hồn, trở về với Chúa tình yêu để được ơn giải thoát và đón nhận ơn cứu độ mà Thiên Chúa đã dành sẵn cho mỗi người chúng ta.

Về mục lục

KHẮC SÂU TÂM NIỆM

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

Lời phán của Chúa Giêsu: “Như Môisen giương cao con rắn ở sa mạc thế nào, Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy”, khiến ta nhớ lại câu chuyện rắn đồng trong sa mạc:

Sau khi xuất Aicập, bốn mươi năm ròng rã trong hoang địa, dân Israel gặp mọi thử thách. Họ oán trách Chúa đã để họ lầm than. Cơn thịnh nộ của Thiên Chúa đã để mặc rắn độc cắn nhiều người. Dân quá khiếp sợ. Họ nhìn nhận tội lỗi. Đấng Chí Thánh hằng ấp ủ tình yêu, một lần nữa lại đoái thương nỗi thống khổ của họ. Ngài dạy ông Môisen hãy làm một con rắn bằng đồng, treo lên cây, để bất cứ ai bị rắn cắn, nếu nhìn lên con rắn đồng, sẽ được cứu.

Con rắn đồng được giương lên, thì ngay chính lúc đó, lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa tỏa sáng và trao ban. Từ nay, Thiên Chúa cứu sống dân, những kẻ đã từng oán trách, thậm chí chống đối Ngài.

Lòng yêu thương tha thứ của Thiên Chúa mạnh vô song. Nó sẵn sàng vượt mọi thác ghềnh, mọi trở ngại, dẫu là trở ngại lớn nhất, kinh khủng nhất, để trao ban cho loài người.

Chính lòng yêu thương khiến Thiên Chúa như ném chính Người Con Duy Nhất và yêu quý nhất của mình để ban lòng tha thứ đối với trần gian vô vàn lần xúc phạm Thiên Chúa:

“Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con Một, để ai tin vào Con của Ngài (…) được sống muôn đời. Thiên Chúa không sai Con của Ngài đến luận phạt trần gian, nhưng để trần gian nhờ Con của Ngài mà được cứu độ”.

Thiên Chúa luôn ở về phía chúng ta để ra tay cứu chứ không phải phạt. Từ ngàn đời, Thiên Chúa vẫn chỉ trung thành với chính lòng yêu thương và tha thứ của mình.

Từ ngàn đời, dẫu nhân loại có tìm cách thoát ly tình yêu của Thiên Chúa, dẫu hết lần này đến lần khác, nhân loại không ngừng phản bội, chống đối chương trình tình yêu của Ngài, thì Thiên Chúa vẫn kiên nhẫn đợi chờ, kiên nhẫn mời gọi họ trở về để hưởng sự sống xuất phát từ tình yêu của chính Thiên Chúa, một thứ tình mãnh liệt không gì bằng, một thứ tình không bao giờ có cùng, không bao giờ có dấu hiệu mệt mỏi, không bao giờ chậm lại.

Lời Chúa Giêsu: “Thiên Chúa yêu trần gian đến nỗi đã ban chính Con Một…”, là một trong những lời khẳng định rõ nét nhất về khuôn mặt đích thật và cõi lòng bao dung trung nghĩa của Thiên Chúa.

Thiên Chúa yêu thế gian, yêu từng người và yêu tất cả nhân loại. Thiên Chúa vẫn một mực yêu thương, dù con người là ai, đang ở tình trạng nào.

Thiên Chúa thủy chung trong tình yêu của mình dành cho nhân loại, đơn giản là vì Ngài sinh ra nhân loại. Ngài là người Cha của tất cả. Thiên Chúa không nỡ nhìn đàn con bị hiểm nguy, nhất là bị cái chết đời đời đe dọa.

Vì thế, Thiên Chúa, trong một tình yêu quặng thắt và thổn thức, đã không ngừng trao ban tất cả, ngay cả trao ban chính Người Con Duy Nhất của mình.
Phần chúng ta, những kẻ thụ hưởng tình yêu vô cùng của Thiên Chúa, hãy luôn ý thức và cố gắng đáp lại tình yêu mà Thiên Chúa dành cho mình. Chẳng hạn:

– Một lòng tin tưởng vào tình yêu và lòng thương xót của Thiên Chúa mọi nơi, mọi lúc, mọi hoàn cảnh, dù phải đối diện không biết bao nhiêu may hay rủi, thuận lợi hay khó khăn, thành công hay thất bại…

– Siêng năng chiêm ngắm Thánh giá với hết cõi lòng sám hối và tin yêu. Chính Thánh giá là lời nói hùng hồn và chung cuộc về tình thương ngút ngàn của Thiên Chúa. Chính Thánh giá là suối nguồn ơn cứu độ dành cho tất cả mọi người.

Hãy nhìn lên Thánh giá mà thật lòng xin lỗi Chúa, thật lòng quyết tâm và đoan hứa với Chúa không để tội lỗi, không để sự sa ngã đè bẹp mình. Hãy giục lòng yêu mến Chúa nhiều hơn để sự cứu độ của Chúa không ra không, nhưng mang lại lợi ích cho chính bản thân mình.

– Hãy cảm tạ Chúa không ngừng, suốt đời chúng ta. Chúng ta phảu cưu mang lòng biết ơn Chúa, vì dù Chúa là Thiên Chúa, lại không bao giờ muốn đánh phạt, nhưng vẫn nhẫn nại để chờ đợi, để âu yếm, để cứu thoát chúng ta.

Hãy luôn khắc sâu tâm niệm này: TRONG ĐỜI NÀY, KHÔNG CÓ BẤT CỨ CÁI GÌ LỚN BẰNG TÌNH YÊU CỦA CHÚA.

Về mục lục


 

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...