14/10/2022
2890

Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 29 Thường Niên – C

Lời Chúa: Xh 17, 8-13; 2Tm 3,14 – 4,2; Lc 18, 1-8

----------------------------------------


 

MỤC LỤC

  1. Cầu nguyện với niềm tin sắt đá – ViKiNi 
  2. Không nản chí – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ.
  3. Kiên trì trong cầu nguyện – Lm. G.B. Trần Văn Hào. 
  4. Cầu thay nguyện giúp – Thiên Phúc.
  5. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 
  6. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty.
  7. Hãy làm cho ngọn lửa yêu thương được bùng cháy.
  8. Hãy kiên trì cầu nguyện – Huệ Minh.
  9. Thiên Chúa lắng nghe.
  10. Quan Tòa Chí Ái – AM Trần Bình An.
  11. Cầu nguyện.
  12. Truyền giáo, một hành trình sống đức tin.
  13. Cầu nguyện.
  14. Thiên Chúa của Người nghèo – An Phong.
  15. Cầu nguyện – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.
  16. Kiên tâm – Lm. Giuse Trần Việt Hùng.
  17. Đừng thất vọng!.
  18. Tâm hồn phải sâu rộng, cầu nguyện mới đắt lời.
  19. Dân chúng và linh mục cùng nhau cầu nguyện.
  20. Cầu nguyện tín thác và kiên trì


 

1. Cầu nguyện với niềm tin sắt đá – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Ngày 17/09/1789, người ta thấy một bà cụ già đi cạnh một tù nhân đang bị điều ra pháp trường. Bà cụ hết sức cầu nguyện, an ủi, khuyến khích con can đảm chịu chết vì đạo. Khi đầu con bị chém rơi xuống đất, bà mẹ bình tĩnh đến trước mặt quan tòa nói: Bẩm quan, khi con tôi còn sống thì thuộc quyền quan, nay con tôi đã chết, xin quan cho tôi được lãnh xác mang về chôn cất, hay ít nữa là được chiếc đầu. Quan truyền lính trao cho bà chiếc đầu. Bà cụ nhẹ nhàng lấy vạt áo bọc lấy đầu con. Đó là chiếc đầu của thánh tử đạo Linh mục Emmanuel Triệu.

Nhờ đâu ở thời sơ khai của Đạo Công Giáo Việt Nam, một Bà cụ quê mùa, mù chữ đã bình tĩnh, can đảm, sáng suốt dậy dỗ con được như vậy? Phải chăng chính là nhờ sự cầu nguyện với lòng tin sắt đá của bà đã biết dậy con mến Chúa và hiến dâng con làm Linh mục cứu các linh hồn và được ơn phúc làm thánh tử đạo.

Bà Mẹ Thánh Triệu không nài xin quan tòa minh oan cho con, nhưng bà đã cầu nguyện với niềm tin kiên trì sắt đá hơn cả bà góa xin quan tòa xử cho bà. Đây là điều Đức Giêsu muốn nhấn mạnh trong Tin Mừng hôm nay.

Sự hiệu nghiệm do lời cầu nguyện với niềm tin bền vững được bày tỏ qua câu chuyện giữa hai nhân vật điển hình: Bà góa với ông quan toà. Theo đoạn Tin Mừng này, Đức Giêsu muốn so sánh chúng ta với bà góa, và cực lắm Người phải so sánh Thiên Chúa với quan tòa.

Ông quan tòa được mô tả là người chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì. Chẳng kính sợ Thiên Chúa có nghĩa là ông vô đạo, vô lương tâm, coi trời đất bằng không. Do đó, ông vô trách nhiệm, muốn làm gì thì làm, muốn bỏ thì bỏ. Muốn xử ai theo ý ông thì xử. Ông chẳng coi ai ra gì, tức là ông là nhất, chẳng sợ cấp trên, chẳng nể cấp dưới. Chẳng ai bảo được ông, ông mặc sức độc tài, hoành hành, tác yêu, tác quái. Đó là hạng quan tòa bất công, bất nhân đã rất ngạo ngược.

Ông khác xa Thiên Chúa một trời một vực. Thiên Chúa là Đấng công minh chính đại, xét xử thưởng phạt vô cùng công bằng. Thiên Chúa lại rất nhân từ, rất thương xót mọi người, luôn luôn bênh đỡ những kẻ bé mọn kêu cầu Người. Trước một Thiên Chúa công minh và từ bi nhân ái như thế, tại sao chúng ta không biết tha thiết cầu khẩn Người?

Có lẽ chúng ta đối với Thiên Chúa còn kém quá xa bà góa đối với ông quan tòa. Bà góa là hạng người thân phận hẩm hiu, xấu hổ, cô thế, cô thân, luôn bị kẻ khác đàn áp khốn khổ. Bà quá nghèo túng chẳng có gì đút lót cho quan tòa, nhưng bà có thái độ rất đáo để, rất kiên trì, rất cương quyết. Bà tin chắc cứ kêu nài, cứ van xin, cứ quấy rầy, thế nào quan tòa cũng phải chịu xét xử. Ông không xử vì thương bà, không sợ ai, nhưng ông phải sợ sự quấy rầy. Bà không để cho ông được yên lúc nào, không để ông rảnh rỗi ăn chơi, buộc ông phải đau đầu, nhức óc, ông muốn khỏi khổ với bà, ông phải xử cho xong. Xong ở chỗ cho bà phải thắng kẻ thù bất công, vì bà không thể để cho kẻ thù ức hiếp bà. Đó là lý do chính đáng thúc đẩy bà phải kêu nài tòa xử cho bằng được.

Đối với Thiên Chúa, thân phận của chúng ta được ưu đãi hơn nhiều thân phận của bà góa đối với quan tòa. Chúng ta không bị cô thế, cô thân như bà góa, vì chúng ta có Đấng trung gian là Đức Giêsu cứu giúp chúng ta trước mặt Chúa Cha. Người đã thương yêu hy sinh chịu chết để cứu chuộc chúng ta, tuyển chọn chúng ta làm con Thiên Chúa. Bà góa cần minh oan thế nào, thì chúng ta phải khẩn thiết cầu nguyện để Chúa cứu chữa chúng ta khỏi tay ba thù hơn thế. Ba thù đó là ma quỷ, thế gian và các dục vọng xấu xa, chúng luôn luôn hãm hại chúng ta rất khủng khiếp như Thánh Phêrô nói: “Ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé” (1Pr. 5, 8). Chúng ta muốn sống đời đời, chúng ta phải siêng năng cầu nguyện kiên trì với lòng tin sắt đá thì “Thiên Chúa, nguồn mọi ân sủng, là Đấng đã kêu gọi anh em vào vinh quang đời đời của Người trong Đức Kitô, sẽ cho anh em nên hoàn thiện, vững vàng, mạnh mẽ và kiên cường”. (1Pr. 5,10).

Phải kiên cường cầu nguyện như mẹ của Thánh Emmanuel Triệu mới giải thoát con mình khỏi sợ hãi gươm chém và anh dũng hiên ngang ra pháp trường để lãnh triều thiên vinh quang tử đạo.

Phải kiên trì cầu nguyện suốt 20 năm trường như bà thánh Monica, Chúa mới ban cho đứa con tội lỗi, lạc giáo trở về làm thánh Giám mục Tiến sĩ Hội thánh.

Một đại chủng sinh đã viết: “Con lấy làm vinh dự sống trong gia đình nghèo hèn, chỉ ăn cháo, không bao giờ biết đến bánh mì và thịt, họa may đôi ba lần trong một năm. Tuy gần 20 đứa con lớn bé đang chờ chực đĩa cháo, nhưng nếu có người đến ăn xin, mẹ vẫn mời họ ngồi ăn với chúng con”. Bà mẹ đó chính là mẹ Đức Giáo Hoàng Gioan 23, một vị Giáo Hoàng vĩ đại của hòa bình, được cả thế giới mến phục, được thưởng Nobel Hòa Bình, và là Giáo Hoàng của Công đồng Vatican II vĩ đại. Nhờ đâu một bà mẹ quê mùa, nghèo khó đã biết dậy dỗ con nên người vĩ đại như vậy: Thưa chính là nhờ cầu nguyện với niềm tin sắt đá.

Liệu bây giờ, Chúa còn thấy được lòng tin kiên trì cầu nguyện nơi chúng ta nữa không?

Lạy Chúa, xin cho con mạnh bạo thưa với Chúa rằng: Chúng con vẫn còn lòng tin kiên trì cầu nguyện đó, nhưng xin Chúa luôn luôn nâng đỡ sự yếu hèn của chúng con.

 
Về mục lục


 

2. Không nản chí – Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ

Ngày 14-10-2010 là ngày vui đối với người dân Chilê.

Ba mươi ba người thợ mỏ bị sụp hầm sâu gần 700 m, được giải cứu.

Mười bẩy ngày đầu họ sống trong bóng tối, cạn kiệt lương thực.

Họ còn phải sống gần hai tháng nữa mới được cứu lên khỏi mặt đất.

“Tôi ở giữa Thiên Chúa và quỷ sứ. Tôi bị giằng co giữa hai bên.

Tôi nắm chặt lấy bàn tay Chúa, và Chúa đã cứu tôi.”

Đó là câu nói của anh Mario Sepulveda,

người thợ mỏ thứ hai được đưa lên khỏi “địa ngục”.

Khi còn ở dưới hầm, Jimmy Sanchez, anh thợ trẻ nhất nhóm đã viết lên:

“Ở đây chúng tôi có 34 người, vì Chúa chẳng bao giờ bỏ rơi chúng tôi.”

Dù người ta nhắc đến khoa học như chìa khóa cho thành công,

nhưng chính việc cầu nguyện đã cho họ sức mạnh để đứng vững.

“Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí.”

Đó là điều Đức Giêsu nhắn nhủ chúng ta qua dụ ngôn bà góa quấy rầy.

Bà là người không còn chỗ dựa vững chãi của người chồng.

Bà lại còn là nạn nhân đáng thương của một sự bất công chèn ép.

Nhất quyết không để mình bị bóc lột,

bà đã nhiều lần đến gặp quan tòa để xin ông minh xét cho (c. 3).

Tiếc thay ông này lại là một vị quan tòa bất chính (c. 6),

nên vụ kiện bị ngâm trong một thời gian khá lâu.

Nhưng bà không hề nản chí, và cuối cùng bà đã thắng.

Ông quan tòa đã phải đem ra xử vụ kiện, chỉ vì bị bà quấy rầy liên tục.

Đức Giêsu đã táo bạo khi kể dụ ngôn trên.

Ngài dám so sánh Thiên Chúa với ông quan tòa bất chính.

Dĩ nhiên, Thiên Chúa thì tốt lành và chăm lo cho con người,

ngược hẳn với ông quan tòa chẳng coi ai ra gì (c. 2).

Nhưng cả hai lại có một nét chung.

Nhiều khi chúng ta có kinh nghiệm về một Thiên Chúa như hững hờ,

như không muốn đáp lại tiếng kêu của những người chịu bất công áp bức.

Có biết bao tiếng kêu như thế vang vọng từ khắp địa cầu.

Có biết bao người chịu bách hại mà không thể lên tiếng.

“Đối phương tôi hại tôi, xin ngài minh xét cho” (c. 3).

Đó vẫn là lời kêu nài muôn thuở của những người thấp cổ bé miệng.

Chúng ta ngỡ ngàng khi thấy Thiên Chúa không lên tiếng bênh vực,

không hành động gì để giải cứu, giải oan.

Đức Giêsu mong chúng ta đừng thất vọng trước sự bất công trên thế giới,

đừng nản lòng khi lời cầu nguyện của chúng ta có vẻ rơi vào quên lãng.

Hãy tiếp tục cầu nguyện, vì Thiên Chúa tốt hơn ông quan tòa nhiều.

Nếu quan tòa cuối cùng còn xử kiện cho bà góa chỉ vì tránh bị quấy rầy,

thì huống hồ là Thiên Chúa, Đấng sẽ làm rõ trắng đen vì lòng cảm thương.

Lẽ nào Người bắt những kẻ Người tuyển chọn,

những kẻ ngày đêm kêu cứu với Người phải chờ đợi mãi? (c. 7).

Lòng tin của chúng ta vẫn bị thách đố ngày nào còn bất công trên thế giới.

Chỉ mong ta vẫn giữ được lòng tin như người thợ mỏ ở trong hầm tối.

Cầu nguyện:

Lạy Cha,

con phó mặc con cho Cha,

xin dùng con tùy sở thích Cha.

Cha dùng con làm chi, con cũng xin cảm ơn.

Con luôn sẵn sàng, con đón nhận tất cả.

Miễn là ý Cha thực hiện nơi con

và nơi mọi loài Cha tạo dựng,

thì, lạy Cha, con không ước muốn chi khác nữa.

Con trao linh hồn con về tay Cha.

Con dâng linh hồn con cho Cha,

lạy Chúa Trời của con,

với tất cả tình yêu của lòng con,

Vì con yêu mến Cha,

vì lòng yêu mến

thúc đẩy con phó dâng mình cho Cha,

thúc đẩy con trao trọn bản thân về tay Cha,

không so đo,

với một lòng tin cậy vô biên,

vì Cha là Cha của con.

(Chân phước Charles de Foucauld)


Về mục lục

 

3. Kiên trì trong cầu nguyện – Lm. G.B. Trần Văn Hào

Tôn giáo nào cũng đề cao việc cầu nguyện. Cầu nguyện là xác lập mối tương giao giữa con người với Thượng đế, giữa thụ tạo với Đấng Tạo thành. Trong Kitô giáo, cầu nguyện không những là bổn phận, nhưng còn là một nhu cầu thiết yếu để tăng triển đức tin. Như nước cần cho cá, hơi thở cần cho các sinh vật, việc cầu nguyện cũng cần thiết để chúng ta được sống và sống dồi dào.

Các tác giả Tin Mừng cũng nhiều lần thuật lại mẫu gương cầu nguyện nơi Chúa Giêsu. Chính Ngài cũng dạy các học trò phương thức cầu nguyện với Kinh Lạy Cha. Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nhấn mạnh đến sự kiên trì trong việc cầu nguyện qua dụ ngôn về một người đàn bà góa đến trước cửa quan để khẩn nài. Vậy, chúng ta phải thực hành việc cầu nguyện như thế nào?

Cầu nguyện với tâm tình con thảo cách đơn thành.

Việc cầu nguyện trong Kitô giáo khác xa với việc cầu nguyện nơi các tôn giáo khác. Sự khác biệt lớn nhất chính là đối tượng. Đấng mà chúng ta cầu khẩn không phải là một vị thần ở tít trên cao, nhưng là một người Cha rất gần gũi và thân tình. Chúa Giêsu đã nói khá nhiều về điều ấy trong cả 4 sách Tin Mừng. Một người con đến thưa chuyện với cha của mình không cần phải nhiều lời, khi người con biết rằng người bố rất yêu thương nó và biêt rõ nó đang cần gì. Thiên Chúa của chúng ta không phải là một vị quan tòa khó tính hay cáu gắt, nhưng là một người Cha nhân hậu lúc nào cũng dang rộng đôi tay ôm đón chúng ta vào lòng. Vì thế khi đến với Chúa, chúng ta phải loại bỏ sự sợ hãi, nhưng cần đơn thành trải lòng mình ra để đón nhận tình yêu mà Thiên Chúa hiến trao. Chúng ta cũng cần thâm tín rằng cầu nguyện không phải chỉ là xin xỏ điều này hay điều nọ. Chúa biết rõ chúng ta đang thiếu thốn những gì. Thái độ nội tâm căn bản cần phải có khi cầu nguyện là hoàn toàn tín thác vào Thiên Chúa là Cha nhân lành, rất quảng đại và giàu lòng thương xót. Đức Thánh Giáo Hoàng Gioan 23 kể lại một kinh nghiệm mà Ngài không bao giờ quên. Lúc còn nhỏ, Ngài đi tham dự một cuộc hành hương cùng với thân phụ. Giữa một biển người mênh mông, đứa bé đứng dưới đất không nhìn thấy gì. Thấy vậy, thân phụ của Đức Thánh Cha đã đặt Ngài trên đôi vai mình. Ngài cảm thấy rất tuyệt vời. Cũng vậy, khi chúng ta đến với Chúa, Chúa ôm chúng ta trong vòng tay trìu mến. Chúa cũng đặt chúng ta trên đôi vai Ngài. Trong vòng tay yêu thương của Chúa, chúng ta không còn lý do để sợ hãi.

Cầu nguyện với tâm tình phó thác và tin tưởng.

Tại một giáo xứ nọ, người ta tổ chức học hỏi và hội thảo về việc cầu nguyện. Câu hỏi gợi ý được nêu ra là, chúng ta phải có thái độ như thế nào khi cầu nguyện? Một vị đứng lên chia sẻ như sau: “Khi cầu nguyện, chúng ta phải quỳ gối xuống, tay chắp lại để tôn thờ Thiên Chúa, Đấng mà chúng ta đang đối diện. Đây là thái độ khiêm cung mà Đức Maria đã nêu gương, đặc biệt trong biến cố truyền tin”. Một vị khác nói: “Không đúng. Khi cầu nguyện chúng ta phải đứng thẳng lên, 2 tay giang rộng, đôi mắt hướng lên trời như Moise khi quân đội của ông tiến đánh quân A-ma-lếch (bài đọc 1 hôm nay). Có như thế, Môise mới chiến thắng. Khi mỏi chân và mỏi đôi tay, Moise ngồi xuống, 2 tay buông thõng và quân đội của ông bị thua tan tác”. Cuộc tranh luận khá sôi nổi với nhiều ý kiến trái chiều. Cuối cùng một chàng thanh niên đứng lên trình bày: “Kính thưa quý vị, khi cầu nguyện không biết chúng ta nên đứng hay nên quỳ, đôi tay giang ra hay chắp lại, cặp mắt mở to hướng về trời hay nhắm lại và cúi xuống cách khiêm cung. Quý vị đã tranh cãi khá nhiều. Riêng tôi, tôi đã trải qua một kinh nghiệm cụ thể. Tôi là thợ điện, một lần trèo lên cao để sửa chữa, tôi trượt chân và rơi xuống. Rất may, tôi bám được một cành cây. Hai chân chổng lên trời vướng vào một cành cây khác, đầu chúi xuống đất. Một tay tôi bám chặt vào thân cây, còn tay kia giơ ra vung vẩy để kêu cứu. Trong lúc nguy kịch, tôi đã cầu nguyện xin Chúa đến giúp. Không biết ở trong tư thế như vậy để cầu nguyện, tôi có đẹp lòng Chúa hay không, nhưng chắc chắn Chúa đã nhận lời tôi, bằng chứng là tôi còn được sống đến ngày hôm nay”. Lời kết luận của chàng thanh niên rất ý nghĩa để chúng ta suy nghĩ. Đến nhà thờ cầu nguyện với quần áo lịch sự và thái độ trang nghiêm sốt sắng là điều rất tốt cần phải làm. Nhưng quan trọng hơn cả là thái độ nội tâm của cõi lòng chúng ta đối với Chúa. Nếu chúng ta đến với Chúa với quần áo sạch sẽ mà tâm hồn lại quá bẩn thỉu, đầy dối gian lọc lừa, thì chúng ta cầu nguyện làm sao được. Chúng ta không thể cầu nguyện với Chúa mà tâm hồn nhét đầy dao găm hay lựu đạn của oán thù, thì những lời cầu nguyện của chúng ta hoàn toàn giả dối và rống tuếch.

Cầu nguyện với tâm tình biết ơn.

Có một bà cụ quê mùa nhưng rất đạo đức. Nhà bà quá nghèo phải đong gạo từng bữa. Một hôm nhà hết gạo, bà không biết xoay sở cách nào, nhưng vẫn thành tâm cầu nguyện xin Chúa ban lương thực hằng ngày. Anh chàng thanh niên bặm trợn nhà kế bên nghe thấy bà cầu nguyện như thế liền lấy một bịch gạo quẳng sang, lúc bà không để ý tới. Khi vừa thấy bịch gạo, bà dâng lời tạ ơn Chúa ngay lập tức. Thấy vậy, chàng thanh niên nói vọng sang: “Bà ơi, không phải Chúa cho bà đâu, bịch gạo của cháu đấy, chẳng có Chúa nào hết”. Nghe nói vậy, bà cụ lại ngước mắt lên trời và cầu nguyện tiếp: “Lạy Chúa, con cám ơn Chúa đã xui khiến anh chàng Giuđa này đem gạo đến cho con. Chúa có nhiều cách để thi ân. Con xin cảm tạ Chúa.” Tâm tình biết ơn là chìa khóa để chúng ta có thể mở toang cánh cửa của ân sủng. Mọi sự chúng ta có đều là của Chúa. Chúng ta hãy học lấy thái độ khiêm cung của người thu thuế lên đền thờ cầu nguyện chứ đừng bắt chước thái độ kiêu căng trịch thượng của ông Pharisiêu. Cũng vậy, người Samari phong hủi sau khi được chữa lành đã quay lại cám ơn Chúa, được Chúa trân quý và xem đó như động thái biểu tỏ đức tin nơi anh ta. Chúa nói: “Hãy đứng dậy mà về, lòng tin của anh đã cứu chữa anh”.

Kết luận

Pascal đã nói: “Con người nhỏ bé và yếu ớt như cây sậy. Nhưng chúng ta sẽ trở nên vĩ đại khi chúng ta biết cầu nguyện” Xin Chúa giúp chúng ta biết siêng năng cầu nguyện với sự kiên trì và thành tâm như lời Chúa dạy hôm nay.
 

 Về mục lục

 

4. Cầu thay nguyện giúp – Thiên Phúc

(Trích dẫn từ ‘Như Thầy Đã Yêu’)

Một lá thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng: “Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con. Xin Chúa cho chúng con 300 đồng nhé”.

Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.

Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. Họ cũng mở ra đọc, thư viết như sau: “Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng!”

***

Nghe xong câu chuyện, chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu bé: Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ “chỉ tiêu” chúng ta đưa ra, thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.

Tin Mừng hôm nay Chúa dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18, 1). Người muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.

Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người.

Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phao lô dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết: “Pytago đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả”. Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.

Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.

***

Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải đạo.

Xin cho chúng con biết khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng. Amen.
 

 Về mục lục


 

5. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: cầu nguyện kiên trì (Lc 17, 15)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Cầu nguyện và Tin luôn gắn liền với nhau: vì chúng ta Tin nên chúng ta cầu nguyện, và nhờ cầu nguyện nên đức tin của chúng ta được củng cố thêm. Bởi thế Chúa Giêsu dạy các tín hữu Ngài phải cầu nguyện luôn, nghĩa là không chỉ cầu nguyện khi gặp chuyện gì khó khăn, mà phải cầu nguyện trong mọi lúc.

Trong Thánh lễ này, chúng ta hãy xin Chúa dạy chúng ta biết cầu nguyện và giúp chúng ta cầu nguyện luôn, để đức tin của chúng ta ngày càng thêm vững mạnh.

  1. Gợi ý sám hối

Chúng ta thường mải mê với công việc mà lười biếng cầu nguyện.

Tuy chúng ta có cầu nguyện nhưng chúng ta không cầu nguyện cách kiên trì.

Nhiều khi chúng ta cầu nguyện mà trong lòng không mấy tin tưởng vào Chúa.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Xh 17, 8-13)

Chuyện này kể về thời dân Do Thái đang tiến vào Đất Hứa. Họ phải giao chiến với những dân đã định cư sẵn trong miền đất đó. Đoạn này thuật cuộc giao chiến với quân Amaléc:

Môsê giao cho ông Giôsuê dẫn quân đi giao chiến. Phần ông thì ở trên núi giang tay cầu nguyện.

Khi nào Môsê còn giang tay cầu nguyện thì quân Israel thắng thế; ngược lại khi Môsê mỏi mệt quá bỏ tay xuống thì quân Israel thua. Người ta mới lấy một tảng đá kê cho Môsê ngồi, lại cử thêm hai người giúp Môsê nâng tay lên. Nhờ đó Môsê có thể giang tay cầu nguyện lâu giờ, và kết quả là Israel đã toàn thắng.

Chuyện này muốn nói rằng chiến thắng không phải do sức mạnh của quân Israel, mà nhờ sự phù hộ của Chúa do lời cầu nguyện của Môsê.

  1. Đáp ca (Tv 120)

Thánh vịnh này tiếp nối ý tưởng của bài đọc I: “Ơn phù trợ tôi bởi nơi nao? Ơn phù trợ tôi đến từ Đức Chúa là Đấng dựng nên cả đất trời”

  1. Tin Mừng (Lc 18, 1-8)

Thánh Luca cho biết rõ ý nghĩa của dụ ngôn này là dạy “các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Dụ ngôn có hai vai:

bà góa: trong xã hội Do Thái, các bà góa chịu nhiều thiệt thòi và không ai bênh vực. Bà góa này có lẽ bị người ta ức hiếp nhưng vì không ai bênh vực nên chỉ còn biết chạy đến kêu cứu với thẩm phán.

thẩm phán: lẽ ra nhiệm vụ của ông là bênh vực những người bị ức hiếp. Nhưng ông thẩm phán này không bênh vực bà góa vì bà chẳng có lợi gì cho ông cả. Dù vậy, nhờ bà cứ kiên trì kêu xin nên cuối cùng ông cũng xử công bình cho bà.

* Bài học: một người bất công như viên thẩm phán mà còn phải chịu thua lòng kiên trì của bà góa. Huống chi Thiên Chúa tốt lành, Ngài sẽ mau chóng bênh vực kẻ kêu xin Ngài cách kiên trì.

Tuy nhiên, có nhiều kẻ không kiên trì nên đã mất lòng tin. Đó là ý nghĩa câu cuối cùng: “Nhưng khi Con Người ngự đến. liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?”.

  1. Bài đọc II (2 Tm 3, 14–4, 2) (Chủ đề phụ)

Phaolô biết rằng mình sắp chấm dứt cuộc đời nên viết thư cho môn đệ mình là Timôtêô để khuyên ông này giữ vững những gì đã học được từ Sách Thánh.

  1. Gợi ý giảng

* 1. Vai trò của cầu nguyện

Không ai có thể sống đời Kitô hữu tốt mà không cầu nguyện. Nhưng chúng ta phải hiểu cầu nguyện là gì và cầu nguyện thế nào.

Có 3 người bị kẹt trong một căn phòng tối tăm và chẳng có cửa gì cả. Họ làm thế nào để thoát khỏi tình trạng bế tắc này?

– Người thứ nhất là một nhà văn. Anh không có đức tin. Anh ngồi đấy và luôn miệng nguyền rủa.

– Người thứ hai là một tín hữu sốt sắng. Anh đã quỳ gối cầu nguyện rất lâu, sau đó ngồi xuống chờ phép lạ.

– Người thứ ba cũng là một tín hữu làm nghề thợ xây, vừa đạo đức vừa thực tế. Sau khi cầu nguyện, anh lấy từ túi đồ nghề ra một cây búa và một chiếc đục, rồi bắt đầu đục tường. Công việc rất lâu lắc và cực nhọc. Bụi bắn vào mặt anh, vào cả mắt anh. Mồ hôi anh nhễ nhại. Nhưng anh vẫn kiên trì đục. Thỉnh thoảng dừng lại nói “Lạy Chúa, xin cứu giúp chúng con”.

Đang lúc đó người thứ nhất vẫn ngồi ở một góc, vừa hút thuốc vừa nguyền rủa; người thứ hai ở một góc khác tiếp tục cầu nguyện.

Cuối cùng người thứ ba đã mở được một lỗ lớn trong vách tường và cả 3 người đã thoát ra khỏi căn phòng.

Trên đây là 3 thái độ khác nhau đối với sự cầu nguyện:

– Người thứ nhất coi cầu nguyện là mất giờ. Vì anh không có đức tin nên thái độ của anh cũng hợp lý thôi. Nếu bạn không tin Chúa thì cầu nguyện với Ngài sao được?

– Người thứ hai coi cầu nguyện là một sự thay thế cho làm việc, vì thế sau khi cầu nguyện xong người ấy ngồi chờ Chúa giúp. Phải thành thật nhìn nhận rằng chúng ta cũng nhiều lần cầu nguyện cách này, đặc biệt là khi chúng ta cầu nguyện cho người khác. Chỉ là những lời nói, và những lời đó trở thành một cái cớ để ta khỏi làm việc.

– Người thứ ba tin tưởng vào hiệu quả của cầu nguyện, hiệu quả ấy không thay thế làm việc, mà là trợ lực cho làm việc. Cầu xin điều gì thì đồng thời cũng cố gắng làm bất cứ việc gì có thể để đạt được điều đó. Sự cầu nguyện này khơi lên niềm hy vọng và khuyến khích lòng can đảm. Nó cũng giúp ta cảm nhận rằng Chúa ở kề bên ta và không bỏ mặc ta trong cảnh khó khăn.

* 2. Cầu nguyện luôn

Đoạn Tin Mừng hôm nay bắt đầu như sau: “Chúa Giêsu dạy các môn đệ phải cầu nguyện luôn, không được nản chí”. Nhiều người chưa thấy giá trị của sự cầu nguyện liên tục. Họ nghĩ chỉ cần cầu nguyện khi có việc cần Chúa giúp, thế là đủ. Chuyện sau đây là câu trả lời cho những người ấy.

Có một thành phố nhỏ kia có đầy đủ mọi cơ quan và dịch vụ cần thiết như bệnh viện, trường học, nhà thờ, tòa án, chợ, tiệm may, tiệm ăn v. v. Chỉ thiếu một điều là không có thợ sửa đồng hồ. Bởi vậy các đồng hồ lớn đồng hồ nhỏ của những cư dân thành phố này dần dần cái thì hư, cái thì chạy sai. Một số người quẳng đồng hồ vào tủ. Một số khác cố gắng tự mình lau chùi, sửa chữa rồi tiếp tục dùng tạm mặc dù những chiếc đồng hồ ấy chạy không được chính xác lắm.

Một ngày kia có một người thợ sửa đồng hồ đến thành phố. Mọi người rất mừng, ai nấy đều mang đồng hồ đến nhờ anh sửa. Tuy nhiên anh nói thật: “Tôi chỉ có thể sửa những chiếc đồng hồ nào còn chạy. Còn những chiếc nào đã ngưng chạy từ lâu thì tôi không sửa nỗi vì chúng rỉ sét hết rồi”.

Cầu nguyện luôn cũng giống như giữ cho chiếc đồng hồ đời ta luôn luôn chạy.

Trong bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện luôn, vì:

Sự cầu nguyện luôn soi sáng niềm hy vọng và những dự định của chúng ta.

Sự cầu nguyện luôn giúp ta phân biệt được điều gì là quan trọng, điều gì là tầm thường.

Sự cầu nguyện luôn giúp ta khám phá ra những ước vọng chân thật, những ray rứt lương tâm bị bóp nghẹt, những nỗi khát khao bị quên lãng.

Sự cầu nguyện luôn chỉ cho ta thấy những lý tưởng cao đẹp cần vươn tới.

Và nhất là sự cầu nguyện luôn giữ ta thường xuyên gần gũi với Chúa.

* 3. Hai tư thế cầu nguyện

Hồi còn bé, chúng ta được dạy chấp tay lại khi cầu nguyện. Khi tham dự Thánh lễ, chúng ta thấy Linh mục cầu nguyện giang tay. Đó là hai tư thế cầu nguyện.

Cầu nguyện chấp tay có nghĩa là chúng ta tạm dừng những hoạt động để chuyên tâm nghĩ đến Chúa. Còn cầu nguyện giang tay là để tỏ ra rằng chúng ta là những người nghèo nàn trước mặt Chúa, chúng ta làm như người ăn xin đưa hai bàn tay không ra để xin ơn Chúa.

Hai tư thế cầu nguyện trên đều tốt. Và ngay cả những khi đôi bàn tay hoặc đôi cánh tay chúng ta đều không chấp lại hay giang ra, chúng ta cũng đừng bao giờ quên ý nghĩa của hai tư thế ấy. (FM)

* 4. Cầu thay nguyện giúp

Một lá thư được viết nguệch ngoạc của một đứa trẻ gởi vào bưu điện, và địa chỉ tới là Chúa. Nhân viên bưu điện lấy làm lạ liền mở ra đọc. Thư viết rằng: “Chúa thân mến, con là Tommy, con sáu tuổi. Ba con đã chết và mẹ con phải cực khổ để nuôi sáu anh em con. Xin Chúa cho chúng con 30O đồng nhé”.

Đọc thư xong, anh nhân viên bưu điện rất xúc động và dưa cho các bạn đồng nghiệp xem. Họ quyết định quyên góp để giúp gia đình cậu bé. Số tiền tổng cộng là 100 đồng, và họ gởi tới địa chỉ cậu bé.

Vài tuần sau, họ nhận được lá thư thứ hai. Họ cũng mở ra đọc, thư viết như sau: “Lần tới, Chúa có thể gởi trực tiếp cho gia đình con, vì gởi qua bưu điện, họ giữ lại 200 đồng!”

***

Nghe xong câu chuyện, chúng ta phải bật cười vì sự ngây ngô của cậu bé, nhưng liền sau đó chúng ta lại cảm thấy hổ thẹn vì thấy bóng dáng mình thấp thoáng trong hình ảnh cậu bé: Chúng ta cầu nguyện và muốn được Chúa đáp lời tức thì theo yêu cầu chúng ta đề ra, nếu Người chậm đáp ứng hoặc đáp ứng chưa đủ “chỉ tiêu” chúng ta đưa ra, thì chúng ta lại khó chịu, và cũng chẳng thèm cám ơn Người.

Tin Mừng hôm nay Chúa dạy các môn đệ: “Phải cầu nguyện luôn, không được nản chí” (Lc 18, 1). Người muốn chúng ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.

Chúng ta không nên tìm kiếm hiệu quả tức thì. Chúa sẽ đáp lời chúng ta lúc nào và cách thức nào có lợi nhất cho chúng ta, theo như thánh ý nhiệm mầu của Người. Thời gian Chúa nhậm lời có thể sẽ lâu hơn chúng ta tưởng, cách thức Người ban ơn có thể sẽ khác với ước nguyện của chúng ta, nhưng bao giờ cũng là lúc thích hợp nhất cho linh hồn chúng ta, bao giờ cũng là cách hữu hiệu nhất cho hạnh phúc vĩnh cửu của mỗi người.

Thường chúng ta lầm tưởng rằng, hơn ai hết chúng ta là người biết rõ những điều mình cần xin. Nhưng thánh Phao lô dạy: “Chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải, chính Thánh Thần sẽ cầu thay nguyện giúp chúng ta theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8, 21-27). Vì thế, Đức Tổng Giám Mục Fulton Sheen viết: “Pytago đã cấm môn sinh của ông không được cầu nguyện cho chính họ vì họ không biết điều gì là lợi ích cả”. Khôn ngoan hơn, Socrates dạy môn đồ ông chỉ xin những điều tốt lành, vì lẽ Thiên Chúa biết tường tận những gì là lợi ích. Dốt nát và yếu đuối nên chúng ta phải xin Thánh Thần soi sáng để chúng ta làm đẹp lòng Chúa trong lúc an bình cũng như khi xao xuyến.

Như thế, cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18, 8). Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.

***

Lạy Chúa, chúng con là những người yếu đuối, bất toàn và bất nhẫn, không biết phải cầu nguyện thế nào cho phải đạo.

Xin cho chúng con biết khiêm tốn, vâng theo ơn soi sáng của Thánh Thần, để chúng con biết sống theo Thánh ý Chúa, hầu bền đỗ trong đức Tin và trung thành theo Chúa đến cùng. Amen. (Thiên Phúc)

  1. Mảnh suy tư

a/ Cầu nguyện là dầu giữ cho ngọn đèn đức tin luôn cháy sáng.

Hoa trái của cầu nguyện là đức tin

Hoa trái của đức tin là tình yêu

Hoa trái của tình yêu là phục vụ

Và hoa trái của phục vụ là bình an.

b/ Lời cầu nguyện của ta được Chúa đáp lời, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta xin, mà khi chúng ta được Chúa ban cho ý thức Chúa đang gần gũi mình.

– Lời cầu nguyện của bệnh nhân được đáp lời, không phải khi anh khỏi bệnh, mà khi anh cảm nhận được Chúa vẫn ở cạnh mình, nhờ đó anh ý thức rằng cơn bệnh không phải là hình phạt của Chúa, cũng không phải là dấu Chúa đã bỏ anh.

– Có thể sự cầu nguyện không thay đổi thế giới, nhưng nó giúp ta có thể trực diện với thế giới.

c/ Hồi còn nhỏ, chúng ta đã được dạy cầu nguyện bằng cách đọc kinh. Bây giờ đã lớn, chúng ta hãy học cầu nguyện bằng cách mở rộng cõi lòng ra cho Chúa.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, trải qua bao thế hệ, Đức Kitô đã muốn cho Hội thánh, nhiệm thể của Người, phải không ngừng tiếp tục đời sống cầu nguyện và lễ tế hy sinh mà Người đã khởi sự khi còn sống ở trần gian. Với quyết tâm tuân giữ lệnh truyền của Chúa, chúng ta cùng dâng lời cầu xin:

  1. Ngay từ đầu / các tín hữu đã chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy / luôn sống với nhau trong tình huynh đệ / siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho người Kitô hữu ngày nay / biết noi gương các tín hữu ngày xưa mà siêng năng nguyện cầu.
  2. Khiêm tốn và kiên trì khi cầu nguyện / là điều mà bài Tin mừng hôm nay muốn nói với tất cả mọi Kitô hữu / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các tín hữu / biết khiêm tốn dâng lên Chúa lời cầu khẩn thiết tha của mình.
  3. Hội thánh kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện theo lối các Giờ Kinh Phụng vụ / kể cả những người mà luật không buộc phải cử hành Thần vụ / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho mọi tín hữu biết sốt sắng tham dự các Giờ Kinh Phụng vụ / vì đây là một trong những phương tiện giúp chúng ta nên thánh.
  4. Lời kinh tuyệt vời Chúa Giêsu đã để lại cho người Kitô hữu là kinh Lạy cha / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / biết vừa đọc vừa suy niệm / và sống tinh thần của lời kinh quan trọng nhất / trong đời sống đức tin của mình.

Chủ tế: Lạy Chúa Giêsu Kitô, Chúa đã truyền cho chúng con: Phải cầu nguyện luôn và không bao giờ được chán nản. Xin Chúa cho mỗi người chúng con biết triệt để thực thi lệnh truyền của Chúa là Đấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

  1. Trong Thánh Lễ

– Trước kinh Lạy Cha: Không lời cầu nguyện nào tuyệt vời bằng lời cầu nguyện chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta. Vậy chúng ta hãy cùng với Ngài cầu nguyện bằng những lời Ngài dạy.

VII. Giải tán

Chúng ta hãy ghi nhớ lời Chúa Giêsu dạy “Hãy cầu nguyện luôn, đừng bao giờ nản chí”. Chúc anh chị em được bình an nhờ làm theo lời Chúa dạy.


Về mục lục

 

6. Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty

CHÚA MONG MUỐN THẤY NIỀM TIN NÀO KHI NGƯỜI TRỞ LẠI?

Câu chuyện dụ ngôn hôm nay trình bày một phản diện, phản diện gay gắt với niềm tin vào một Thiên Chúa như Đức Giê-su muốn trình bày! Phản diện trong hình ảnh ông quan tòa không có bất cứ niềm tin nào: ‘Chẳng kính sợ Thiên Chúa, mà cũng chẳng coi ai ra gì’. Ông không có bất kỳ một lý do nào để xót thương bà góa nghèo hèn van xin ông giúp đỡ. Cuối cùng thì chỉ vì không chịu nổi sự quấy rầy đeo bám, ông đã buộc phải ‘ra tay làm phước’ cho bà góa cô thế cô thân; cuối cùng thì vị quan tòa vô tâm đó đã ‘buộc phải’ xót thương, cho dù đó chỉ là bề ngoài và hoàn toàn bất đắc dĩ.

Khi đem một hình ảnh tiêu cực đến như thế để đối chiếu với Thiên Chúa nhân lành: “Anh em nghe ông quan tòa bất chính ấy nói đó! Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không minh xét cho những kẻ người đã tuyển chọn, hằng đêm ngày kêu cứu với Người sao?” chắc hẳn Đức Giê-su phải có một lý do gì sâu sắc lắm.

Trước hết, ông quan tòa nọ đã bị chính Đức Giê-su gán cho thuộc từ ‘bất chính’;ông bất chínhkhông phải vì đã làm điều gì phạm pháp. Không, tuyệt nhiên không! Tương tự như ông phú hộ trong câu chuyện ‘chàng La-da-rô nghèo khổ’, ông này bị Đức Giê-su gọi là ‘bất chính’ chỉ vì một lý do duy nhất: ông đã không có một chút lòng trắc ẩn, xót thương nào.

Điều này cho chúng ta một gợi ý: thay vì tin vào một Thiên Chúa công chính, như người Do Thái vẫn thường gọi, căn cứ vào giao ước đã ký kết, thì Đức Giê-su, dầu vẫn dùng các từ ngữ cũ, mời gọi các môn đệ hướng tới sự công chính theo một nội dung hoàn toàn mới. Thiên Chúa công chính vì Người từ bi và giầu lòng xót thương (xem nội dung thư thứ nhất của Gio-an, đăc biệt các câu 2:29 và 3:7). Người là trọn vẹn công chính, bởi vì Người là Thiên Chúa trọn vẹn từ nhân! Yếu tính lớn nhất của Người là “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời…, để khỏi bị lên án, nhưng được cứu độ” (Ga 3:16-18). Dấu hiệu của Thiên Chúa từ nhân đó đã được nói tới trong Cựu Ước trong hình ảnh con rắn được Mô-sê giương cao trong sa mạc. Không may các người Do Thái đã hầu như hoàn toàn quên mất hình ảnh này… Tân Ước trái lại đã biểu lộ tình yêu này bằng Thập Giá; Con Người cũng sẽ được giương cao như vậy (Ga 3:14)): Thiên Chúa của Đức Giê-su vẫn là Thiên Chúa ba lần Thánh, nhưng không phải vì sự thánh thiện cao xa tự tại nơi một mình Người. Đối với chúng ta và cho chúng ta, Người là thánh vì Người yêu mến con người tội lỗi với tất cả lòng xót thương. Tôi ngạc nhiên khi nghe Đức Giê-su nói: ‘Thiên Chúa yêu thế gian’. Sau này khi Gio-an cho định nghĩa “Thiên Chúa là tình yêu”,ông không quên giải thích liền sau đó: ‘Tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta được biểu lộ như thế này: Thiên Chúa đã sai Con Một đến thế gian, để nhờ Con Một của Người mà chúng ta được sống’ (1 Ga 4:8-9).

Thế nhưng niềm tin vào một Thiên Chúa yêu thương như thế, một phản diện gay gắt với ông quan tòa bất chính trong dụ ngôn, ngay cả đối với Ki-tô hữu chúng ta, cũng có thể trở thành rất mong manh; Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa xót thương vẫn có thể bị ngay chính các Ki-tô hữu mau chóng quên lãng.

Chưa khi nào ta bắt gặp một Đức Giê-su bi quan và ngờ vực đến thế: “Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Ngài còn thấy niềm tin trên mặt đất nữa chăng?” Tôi thiển nghĩ: nếu là niềm tin vào sự hiện hữu của Thiên Chúa, thì cho dầu có bị thử thách tới mấy đi nữa, chắc chắn nó sẽ vẫn mãi mãi tồn tại nơi nhân loại; niềm tin cầu khẩn với một Thiên Chúa quyền phép cũng sẽ không bao giờ kết thúc, kể cả khi con người đã hoàn toàn no đủ. Nhưng tin tuyệt đối vào một Thiên Chúa yêu thương, và biểu lộ lòng tin này cách mãnh liệt trong cầu nguyện với thái độ tin tưởng phó thác như thánh nữ Tê-rê-xa Hài Đồng Giê-su đã làm, thì lại luôn có nguy cơ bị nhạt nhòa, ngay cả trong chính Giáo Hội Công Giáo. Lịch sử minh chứng: đã từng có những thời kỳ mà lòng tin vào Thiên Chúa xót thương đã hoàn toàn bị lu mờ ngay trong chính nội bộ Giáo Hội, thay vào đó người ta đề cao và quảng bá một Thiên Chúa công thẳng luận phạt tới mức đáng sợ. Sự phổ biến của học thuyết Giăng-sê-nít hay Thanh Giáo một thời trong suy nghĩ của nhiều tín hữu và giáo sĩ cho thấy điều đó. Lòng tin tuyệt đối vào một Thiên Chúa yêu thương và cứu độ rất có nguy cơ bị biến mất. May mắn thay, việc quảng bá học thuyết ‘Con Tim’ của thánh Phan-xi-cô Sa-lê (Salesian spirituality), và gần đây hơn, việc phổ biến lòng tôn sùng Lòng Thương Xót Chúa cho thấy niềm tin này đang có dấu hiệu phục hồi. Rất mong lòng tôn sùng này sẽ sớm trở thành một niềm tin chân chính, chứ không chỉ là việc đạo đức bề ngoài…, để rồi, một khi trở lại trong vinh quang Thập Giá, Người sẽ vui mừng thấy niềm tin này đã lan rộng trong Hội Thánh và trên toàn trái đất.

Công việc của tôi, một linh mục của Đức Ki-tô cứu độ và xót thương, chính là thắp lên và chăm sóc cho ngọn lửa niềm tin này bừng sáng nơi tâm hồn nhiều tín hữu!

Lạy Chúa từ nhân, đã có một lần Chúa ngự đến trong giờ chết của con, và may mắn thay lần đó Chúa còn tìm thấy niềm tin này nơi con còn tồn tại chút ít. Xin Chúa tiếp tục phát huy và duy trì trong con, và trong tất cả tâm hồn các Ki-tô hữu, niềm tin vào Thiên Chúa từ ái xót thương; để bất cứ khi nào Chúa đến, cho dầu có đột ngột tới mấy, Chúa vẫn tìm thấy niềm tin này tiếp tục tồn tại, nhất là nơi con, và nơi tâm hồn các giáo dân con phục vụ, hướng dẫn. Xin Chúa tiếp tục củng cố đức tin này trong con. Amen.

 
Về mục lục


 

7. Hãy làm cho ngọn lửa yêu thương được bùng cháy

(Suy niệm của Huệ Minh)

Nỗi lòng của Chúa Giêsu yêu thương con người thật tha thiết. Ngài muốn con người nhận ra được sự thật về Tình Yêu của Thiên Chúa dành cho con người và mọi người đều là con cái Chúa nên phải yêu thương nhau. Chúa Giêsu đã ném ngọn lửa Tình Yêu Thiên Chúa vào mặt đất. Ngài muốn Lời Yêu Thương – Tin Mừng – được bùng cháy khắp nơi. “Thầy đã đến ném lửa vào mặt đất, và Thầy những ước mong phải chi lửa ấy đã bùng lên!” (Lc.12,49).

Trong Kinh Thánh, từ “lửa” được đề cập 480 lần. Lửa mang nghĩa biểu tượng thánh thiêng chỉ sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa tỏ mình ra cho ông Môsê giữa bụi gai cháy rực cháy (x. Xh 3,2). Thiên Chúa lập giao ước dưới chân núi Sinai (x. Đnl 1,33; 4,11-12.36; 5,4.22). Lửa là hình ảnh Thiên Chúa hướng dẫn dân Do thái trong sa mạc (x. Xh 13,21).

Trong Tân Ước, lửa là hình ảnh của Chúa Thánh Thần khi Người ngự xuống trên các Tông đồ dưới dạng hình lưỡi lửa vào ngày Lễ Ngũ Tuần (x. Cv 3,2). Lửa là sức mạnh của Thánh Linh, khi các Tông đồ nhận được Chúa Thánh Thần, các ông đã trở nên con người hoàn toàn mới: Can đảm ra đi rao giảng Tin Mừng (x. Cv 1,8), làm chứng, hy sinh vì Tin Mừng và vì tình yêu của Đức Kitô Phục Sinh. Lửa chính là tình yêu nồng cháy của Đức Giêsu (x. Lc 12,49).

Lửa còn tượng trưng cho sự thanh luyện, thiêu huỷ và phán xét. Đó là ngọn lửa từ trời xuống thiêu huỷ thành Sôđôma và Gômôra (x. St 19,24), mưa lửa từ trời xuống như một phần của sự phán xét trong ngày tận cùng của thế giới (x. Lc 17,29); hay là lửa soi sáng trong Ngày của Thiên Chúa (x. 1 Cr 3,13; Mt 3,11-12).

Theo các nhà chú giải Kinh thánh, lửa ấy chính là: Chân lý, là Tin Mừng, là Thần Khí và là Tình yêu của Thiên Chúa. Chúa Giêsu muốn cho “lửa” đó được bùng lên, nghĩa là muốn cho mọi người trên khắp thế giới được nhận biết Chân lý và Tình yêu của Thiên Chúa.

Khi vào trần gian, Đức Giêsu đã đưa lửa vào, và Người ước mong lửa đó bùng lên. Theo Kinh thánh, Lửa là biểu tượng hình phạt của Thiên Chúa, nhất là vào lúc tận cùng thời gian. Lửa còn là biểu tượng cho sự thanh tẩy và làm đổi mới. Chúa Giêsu sẽ thực hiện cuộc thanh tẩy tâm linh nhờ Chúa Thánh Thần.

“Lửa” mà Người nói đến trong bài Tin Mừng hôm nay đúng hơn nên hiểu về “Thánh Thần”. Người đến để cho những kẻ tin Người được Thần Khí của Thiên Chúa. Người mong muốn, đến nỗi nôn nóng thấy việc đó chóng xảy đến để loài người chóng nhận được Thánh Thần khiến họ có thể kêu lên “Abba! Lạy Cha”. Một cách cụ thể, có thể nói, trong suốt cuộc đời trần gian, Ðức Giêsu hằng mong mỏi ngày lửa Thánh Thần sẽ xuống trên các môn đệ, vì đó là mục đích cuộc giáng sinh cứu thế của Người, để tất cả loài người trở thành con cái Thiên Chúa.

“Anh em tưởng rằng Thầy đến để ban bình an cho trái đất sao?… Không phải thế đâu, nhưng đúng hơn là để gây chia rẽ”. “Sự chia rẽ là đối cực của sự bình an. Nhưng đây là sự chia rẽ vì Chúa, một sự chia rẽ đi vào qui luật của thập giá: Khi mất đi là khi tìm thấy, khi chết đi là khi được sống muôn đời. Hơn nữa, Đức Giêsu đã hứa: Thầy để lại bình an cho các con, Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Bởi thế Đức Giêsu không đến trần gian để gieo sự bất hòa, nhưng là đem đến sự hiện diện của Thiên Chúa, đồng nghĩa với sự bình an.

Sự bình an Đức Giêsu mang đến là sự bình an phải chiến đấu trong chân lý, phải được xây dựng trong khó nhọc, trước hết ở trong chính bản thân ta rồi lan tỏa chung quanh ta: đó là dám chấp nhận những mệt nhọc, đói khát, thua lỗ, nhường nhịn vì những điều lành, biết tách mình ra khỏi những đố kị và muôn vàn những cái vừa vụn vặt vừa tầm thường của cuộc sống. Lương thực của sự bình an luôn là một thách thức”

Cuộc đời theo Chúa, đón nhận lửa Chúa gieo xuống và lãnh nhận Phép Rửa Chúa chịu. Cuộc đời theo Chúa này là một cuộc đời đầy hy sinh từ bỏ, chấp nhận tách rời ra khỏi những gì cản trở ta trở nên giống Chúa và đây là sự chia rẽ mà Chúa Giêsu muốn nói đến trong đoạn Tin Mừng hôm nay. Theo Chúa, sống trung thành với Lời Chúa, lãnh nhận lửa tình yêu của Chúa trong tâm hồn và chấp nhận hy sinh như Chúa đã hy sinh trên thập giá, chấp nhận chịu Phép Rửa của Chúa. Theo Chúa như vậy, chắc chắn chúng ta sẽ được bình an thật Chúa ban cho, nhưng đồng thời chúng ta cũng bị chia rẽ, bị tách rời ra khỏi kẻ khác, nhất là khi những kẻ khác đó a dua hoạt động cho ma quỉ chống lại chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.

Chúa Giêsu đem lửa xuống trần gian và lửa ấy chính là bản thân Ngài và Phúc Âm của Ngài. Ngài đã rao giảng Tin Mừng để soi chiếu cho những người còn ngồi trong bóng tối sự chết, để sưởi ấm cho những tâm hồn giá băng cũng như để thiêu huỷ mọi tội lỗi của nhân loại.

Thiên Chúa chiếu soi chúng ta, để chúng ta được bình an. Khi cuộc sống có những lo âu, buồn chán, tuyệt vọng, chúng ta hãy tìm đến với ơn Chúa; “ơn Chúa sẽ lôi cuốn bạn, cho tới khi bạn tìm lại được nguồn vui” (thánh Bênađô). Người kitô hữu đích thực là người sống trong niềm vui, bình an và ơn cứu độ của Chúa. Người kitô hữu đích thực thắp lên ngọn lửa tình yêu của Thánh Thần trong lòng mình và nơi người khác.

Ta được mời gọi để thực hiện niềm ước mong mà Đức Giêsu đã suốt đời ôm ấp, đó là làm cho thế giới nên ấm áp hơn vì con người biết sống cho Thiên Chúa và cho nhau.

Gieo rắc ngọn lửa và ánh sáng là chấp nhận bị từ khước và đe dọa. Đức Giêsu linh cảm những gì sẽ xảy ra cho đời mình. Ngài sẽ phải chịu một phép rửa kinh khủng, sẽ phải dìm mình thật sâu trong nỗi khổ đau.

Ngài đã mời gọi mỗi người chúng ta hãy tiếp tay với Ngài để cho sứ mạng của Ngài được chóng hoàn tất. Chính vì thế mỗi người chúng ta cũng phải là một ngọn lửa truyền nóng và chiếu sáng cho những người chung quanh bằng một đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương.

Lời Chúa hôm nay tha thiết kêu gọi ta. Hãy khơi cho ngọn lửa yêu thương bừng sáng lên. Hãy đẩy lùi bóng tối chiến tranh, chia rẽ, hận thù. Hãy mở rộng tâm hồn đón nhận và ban phát yêu thương, xoá đi những nhỏ nhen, ích kỷ. Để mọi người nhìn nhau là anh em thực sự. Bấy giờ đêm mới tàn và ngày mới bắt đầu. Bóng tối nhường chỗ cho ánh sáng, ánh sáng rực rỡ phát xuất từ những trái tim chan hoà yêu thương.

 
Về mục lục


 

8. Hãy kiên trì cầu nguyện – Huệ Minh

Ta phấn khởi và nhận ra giá trị của lời cầu nguyện. Và thường khi nhớ đến câu chuyện Môsê cầu nguyện trên núi trong khi Giôsua đánh giặc, người ta vẫn để ý khía cạnh hiệu năng lạ lùng của việc cầu nguyện. Không có Môsê cầu nguyện, con cái Israel đã không chiến thắng.

Và khi cánh tay Môsê rũ xuống là lúc thất bại ngả về phía Israel. Tuy nhiên nếu chỉ hiểu câu chuyện của bài sách Xuất hành như vậy, chúng ta không biết đánh giá đúng mức một sự kiện rất ý nghĩa trong lịch sử Dân Chúa, và do đó trong đời sống đạo của chính chúng ta. Sự kiện này đã được ghi lại trong Kinh Thánh, không phải chỉ vì là một biến cố lịch sử, nhưng có thể nói, nhiều hơn là ý nghĩa sâu xa của nó.

Chúa Giêsu khuyên ta cầu nguyện luôn và không nản chí. Nếu ta ngưng cầu nguyện, chúng ta hầu như mất nhiệt tình và bỏ cuộc. Nếu ta cầu nguyện liên tục, chúng ta sẽ không bao giờ mất nhiệt tình. Cầu nguyện có nghĩa là đặt chính mình và số phận của mình trong đôi tay của Thiên Chúa. Ta cầu nguyện có nghĩa là ta trông cậy vào sức mạnh của Thiên Chúa chứ không phải sức mạnh của ta. Khi chúng ta cầu nguyện một thứ quyền lực khác trở thành có hiệu lực đối với chúng ta.

Chúa Giêsu nói với các môn đệ và với chúng ta hôm nay “Hãy cầu nguyện không ngừng và không bao giờ nên nản chí”. Một số người không nhận thấy giá trị của việc cầu nguyện thường xuyên. Họ nghĩ rằng chỉ cần cầu nguyện khi họ cảm thấy hứng thú.

Đây là một dụ ngôn dễ hiểu. Chúa Giêsu đưa ra hai tình ảnh trái ngược. Một bên là bà goá nghèo khổ, bé nhỏ, không có tiếng nói trong xã hội. Một bên là ông quan toà bất nhân, chẳng sợ trời mà cũng chẳng nể người. Thật là một hoàn cảnh tuyệt vọng cho người phụ nữ không có tiếng nói. Nhưng nhờ kiên trì, bà đã đạt được ý nguyện. Chúa kể dụ ngôn này với mục đích: dạy các môn đệ hãy noi gương bà goá, cầu nguyện luôn không được nản chí.

Ta không phải như một góa phụ, ít giá trị trước mặt xã hội. Ta là những người được Thiên Chúa ưu tuyển. Và Người không giống vị thẩm phán vô tâm; Người rất nhân hậu đối với con cái loài người. Ở đây Chúa Giêsu dường như muốn nói đến một “trường hợp cực chẳng đã”, một hoàn cảnh tệ hơn cả, để chứng tỏ rằng những trường hợp và hoàn cảnh bình thường hơn tất nhiên sẽ tốt đẹp hơn nhiều. Nếu quan hệ giữa người góa phụ và vị thẩm phán cuối cùng còn như vậy, huống nữa là quan hệ giữa người ta và Thiên Chúa chắc chắn sẽ mỹ mãn vạn phần. Miễn là người ta phải kiên tâm cầu nguyện, tức là luôn tín nghĩa với Thiên Chúa. Chính điều kiện tín thành này là khó.

Thế nên Chúa Giêsu đã kết thúc bài giáo huấn hôm nay bằng một câu hỏi có vẻ não nuột nhưng rất chân thành: “Con Người đến sẽ còn gặp được lòng tin trên mặt đất nữa không?”. Tức là các con người ưu tuyển có luôn giữ mãi lòng tín nhiệm với Thiên Chúa không? Thái độ nhàm chán của họ khi cầu nguyện không phải là dấu chỉ lòng trung tín của họ đã suy giảm rồi sao? Thế nên chúng ta phải tập kiên tâm cầu nguyện để duy dưỡng lòng tin, hầu mãi mãi nhận được lòng thương xót của Chúa.

Chúa Giêsu muốn ta hãy liên lỉ cầu nguyện và cầu nguyện cách kiên trì. Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do Thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.

Một lời cầu nguyện được đáp lại, không phải khi chúng ta có được điều chúng ta cầu xin, nhưng khi chúng ta được ban cho cảm thức về sự cận kề của Thiên Chúa. Lời cầu nguyện của một bệnh nhân được đáp lại không phải bởi bì bệnh của người ấy biến mất, nhưng bởi vì người ấy có được một cảm thức về sự kề cận của Thiên Chúa, sự bảo đảm rằng căn bệnh của người ấy không phải là một hình phạt của Thiên Chúa và Thiên Chúa không bỏ rơi người ấy. Cầu nguyện có thể không làm thay đổi thế giới cho chúng ta, nhưng nó có thể cho chúng ta lòng can đảm đối diện với thế giới.

Cầu nguyện là một sức mạnh cũng có thực như chính sức hút của trái đất, đó là sức mạnh mà Chúa Giêsu nói đến qua hình ảnh của người đàn bà góa kiên trì trong Tin Mừng hôm nay. Ông quan tòa đứng ra xử án không phải vì lòng công bình hay vì lòng tốt mà chỉ vì không chịu đựng nổi sự quấy rầy của bà góa. Thiên Chúa nhậm lời con người không phải vì sợ con người quấy rầy mà chỉ vì lòng tốt đối với con người mà thôi. Nói đến sức mạnh của lời cầu nguyện là tuyên xưng lòng nhân từ của Thiên Chúa vậy. Kiên trì trong lời cầu nguyện cũng là ân huệ của Chúa.

Chúa Giêsu bảo chúng ta phải cầu nguyện luôn, vì:

Sự cầu nguyện luôn soi sáng niềm hy vọng và những dự định của chúng ta.

Sự cầu nguyện luôn giúp ta phân biệt được điều gì là quan trọng, điều gì là tầm thường.

Sự cầu nguyện luôn giúp ta khám phá ra những ước vọng chân thật, những ray rứt lương tâm bị bóp nghẹt, những nỗi khát khao bị quên lãng.

Sự cầu nguyện luôn chỉ cho ta thấy những lý tưởng cao đẹp cần vươn tới.

Và nhất là sự cầu nguyện luôn giữ ta thường xuyên gần gũi với Chúa.

Cầu nguyện không phải là việc xin ơn này ơn nọ, theo óc vụ lợi của chúng ta, cầu nguyện không phải là việc tránh né bổn phận để Thiên Chúa làm tất cả, cầu nguyện cũng không phải là việc liệt kê ước muốn để mong chờ Chúa thực hiện. Nhưng cầu nguyện đích thực chính là việc thực hành Đức Tin, nâng tâm hồn lên cùng Thiên Chúa để đối thoại với Người, van xin Người tiếp tục ban ơn để chúng ta đủ sức thực hiện thánh ý Người. Thấu hiểu sự yếu đuối của con người nên Chúa Giêsu than thở: “Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (Lc 18,8). Vậy, cầu nguyện không phải là độc thoại mà là đối thoại liên lỉ và kiên trì với Thiên Chúa trong Đức Tin để trung thành với Chúa cho tới khi Người lại đến.

Cầu nguyện là dầu giữ cho ngọn đèn Đức Tin luôn cháy sáng.

Hoa trái của cầu nguyện là Đức Tin

Hoa trái của Đức Tin là tình yêu

Hoa trái của tình yêu là phục vụ

Và hoa trái của phục vụ là bình an.

Chúa Giêsu kêu gọi chúng ta hãy tin tưởng và phó thác cho Thiên Chúa. Lý luận của Ngài trong dụ ngôn về một quan tòa bất công thật đơn giản: nếu quan tòa bất lương đến độ không kính sợ Thiên Chúa cũng chẳng kính nể người ta, mà còn phải chịu thua trước lời van vỉ của một bà góa, thì huống chi Thiên Chúa, Ðấng trọn hảo và yêu thương con người.

Ta tưởng Thiên Chúa câm lặng và vô cảm trước nỗi khổ đau và lời kêu cầu của con người; thật ra, công lý của Thiên Chúa không phải là công lý của loài người, lẽ khôn ngoan của Thiên Chúa không phải là lẽ khôn ngoan mà chúng ta có thể thẩm định được theo tiêu chuẩn của loài người. Tư tưởng của Thiên Chúa không phải là tư tưởng của loài người. Quyền năng và tác động của Ngài vượt trên mọi tính toán, cân lường, suy tưởng và chờ đợi của chúng ta.

Cuộc sống mỗi người Kitô là một cuộc sống trong đức tin và nhờ đức tin. Vì thế mỗi người đừng để mất đức tin hay giảm sút lòng tin. Nói một cách khác tích cực hơn là để trung thành với đức tin và phát triển đời sống đức tin. Chính việc cầu nguyện sẽ giúp chúng ta sống được như vậy.

 
Về mục lục


 

9. Thiên Chúa lắng nghe

Phụng vụ Lời Chúa hôm nay không phải chỉ nhấn mạnh đến việc phải kiên nhẫn cầu nguyện, mà hơn thế nữa, còn cho chúng ta hay Thiên Chúa hằng lắng nghe và chấp nhận những lời chúng ta van xin.

Thực vậy bài đọc thứ I kể lại cuộc chiến giữa dân Do Thái và người Amalec. Điểm nổi bật đáng nhớ đó là hậu quả của việc Maisen cầu nguyện. Hễ bao lâu ông dang tay cầu nguyện thì dân Do Thái thắng còn khi nào ông bỏ tay xuống và không cầu nguyện nữa thì dân Do Thái sẽ bị thua. Như thế dân Do Thái đã không chiến đấu một mình, trái lại có Chúa ở bên cạnh và cùng chiến đấu với họ. Qua bài đọc thứ II, thánh Phaolô đã khuyên nhủ môn đệ thân tín của mình là Timôthê hãy can đảm và kiên nhẫn trong việc rao giảng Tin Mừng ở mọi nơi, trong mọi lúc và bằng mọi cách.

Nhất là qua bài đọc thứ III với câu chuyện của Chúa. Thực vậy, từ một kinh nghiệm thông thường mà ai cũng có thể chứng kiến, đó là hậu quả những lời van xin liên lỉ của một người đàn bà goá đối với thái độ của một vị thẩm phán vô lương tâm. Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hướng tới tấm lòng nhân từ của Thiên Chúa. Dĩ nhiên, Chúa Giêsu không muốn sánh ví Thiên Chúa như vị thẩm phán bất lương này. Ngài chỉ muốn cho người nghe hiểu được rằng: đến như một kẻ xấu xa như ông quan toà bất lương, thế mà cuối cùng cũng đã phải xét xử và minh oan cho bà goá khỏi tay kẻ thù. Mặc dù chỉ là để không bị quấy rầy, chứ chẳng phải vì muốn tôn trọng luật pháp, tôn trọng lẽ phải, tôn trọng sự thật, huống nữa là Thiên Chúa, Đấng đầy lòng thương xót, há lại chẳng lắng nghe tiếng kêu cầu của những người Ngài đã tuyển chọn.

Thế nhưng kiên tâm cầu nguyện không có nghĩa là lải nhải những công thức có sẵn một cách máy móc. Nhiều người nghĩ rằng: cứ đọc thật nhiều, lặp đi lặp lại mãi một câu kinh, một lời nguyện thì thế nào Chúa cũng cho được toại nguyện. Trái lại kiên tâm cầu nguyện chính là cầu nguyện với lòng trông cậy, với lòng tin tưởng vào tình thương của Chúa, Ngài luôn bênh vực sự thật, bênh vực lẽ phải, bênh vực sự công chính. Cầu xin tức là tự đặt mình vào trong mối tương quan mật thiết với Chúa, là cởi mở lòng chúng ta trước tôn nhan Ngài. Như thế chúng ta chẳng còn lo sợ việc Chúa chẳng nhận lời cầu xin. Kinh Thánh đã từng xác quyết: Thiên Chúa là Đấng giải phóng chúng ta, Ngài muốn cho chúng ta được sống hạnh phúc.

Vì thế hãy mở rộng cõi lòng đến đón nhận ơn Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ được toại nguyện.

 
Về mục lục


 

10. Quan Tòa Chí Ái – AM Trần Bình An

Sinh ra tại tiểu bang Florida, Diane Trần cho biết thân phụ của cô là người Việt và Mẹ là một phụ nữ Đại Hàn. Theo đài KHOU TV thì hoàn cảnh của Diane Trần rất đặc biệt, cô vừa đi học, vừa phải đi làm hai công việc để trợ giúp một người anh đang học đại học và một em gái còn nhỏ, vì cha mẹ vừa bất ngờ ly dị, không săn sóc gia đình nữa.

Cô hiện sống với Cha tại Willis, một thành phố nhỏ cách Houston khoảng 50 dặm Anh. Cha cô thường phải đi làm xa nhà. Những lúc thân phụ đi làm vắng nhà, Diane ở tại nhà cô bạn thân là Devin Hill và làm việc part time trong cơ sở chuyên lo về đám cưới của bà ngoại Devin, là bà Mary Elliot.

Trong khóa học vừa qua, Diane đã đi học trễ và nghỉ học tổng cộng 18 lần, vượt quá con số tối đa cho phép của luật giáo dục tiểu bang Texas là 10 lần trong vòng 6 tháng. Theo điều luật này thì học sinh đến trường sau 9 giờ sáng thì bị coi như không đến trường ngày hôm đó. Diane đã bị cảnh cáo trước đó, nhưng cô cho biết là vì phải làm 2 công việc sau giờ học và bài vở của những lớp đặc biệt, mà cô đang học quá nhiều, khiến cô quá mệt mỏi nên không nghe được tiếng đồng hồ báo thức, nên đến trường muộn.

Câu chuyện của Diane Trần cũng được truyền đi nhanh chóng trên hệ thống internet toàn cầu đã làm nhiều người bất mãn. Bà Samuel Oh của trang nhà Change.org đã có một thỉnh nguyện thư yêu cầu thẩm phán Lanny Moriarty xóa bỏ bản án cho Diane Trần. Với chỉ vài ngày, thỉnh nguyện thư này đã được cả vài trăm ngàn chữ ký. Và nhóm Children’s Education ở tiểu bang Louisiana đã tự đứng ra quyên tiền để giúp Diane Trần. Chỉ trong vòng vài ngày, nhóm này đã gây quĩ được trên 100 ngàn Mỹ kim từ những người trên khắp nước Mỹ cũng như trên 18 quốc gia khác.

Có lẽ với sự ủng hộ Diane Trần nồng nhiệt từ khắp nơi và sự can thiệp của luật sư Brian Wice nên vào trưa ngày thứ Tư, 30 tháng Năm, 2012, thẩm phán Lanny Moriarty đã xóa bỏ bản án cho Diane Trần. (theo Hiền Vy RFA)

Câu chuyện trên phản ảnh tấm lòng nhân ái của nhiều người trước bản án bất công và bất nhân của quan tòa Lanny Moriarty dành cho Diane Trần. Một cái kết có hậu như kết cuộc bài dụ ngôn “Quan Tòa Bất Công” của Đức Giêsu trong trích thuật Tin Mừng Luca Chúa Nhật 29 hôm nay. Với thái độ ân cần bênh vực, cứu giúp và che chở, Thiên Chúa luôn xót thương con người cầu nguyện cùng Ngài.

Tin yêu

Lời cầu nguyện kiên trì và phó thác dĩ nhiên không thể thiếu tâm tình tin yêu. Thiên Chúa không chỉ là Đấng Phán Xét, mà đúng hơn, là Người Cha Nhân Từ, như trong dụ ngôn đứa con hoang đàng (Lc 15,1-3.11-33). Trước tội nhân, Ngài mong đợi sự hoán cải, sám hối, vì Ngài là “Ðấng từ bi và hay thương xót, chậm bất bình và hết sức khoan nhân” (Tv 102, 8).

Khoan dung với người đàn bà tội lỗi bị bắt quả tang, đoái thương và gần gũi người thu thuế biết cải tà quy chính, thứ tha bao tội lỗi chất chồng của người gian phi chịu đóng đinh, biết ăn năn sám hối, Đức Giêsu ban Ơn Cứu Độ đến với mọi người, không giới hạn, không phân biệt cũng không thành kiến, hay cố chấp.

Do vậy, Ngài chính là cứu cánh và cùng đích của con người. Nếu không đặt hết niềm tin, niềm trông cậy và phó thác vào Ngài, thì còn biết bám víu và nương tựa nơi nào? Đáng tiếc, đến nay, tôi cứ vẫn cứng lòng, vẫn còn chạy theo thói đời, vẫn nhẹ dạ nghe theo ông thầy này bà nọ, mỗi khi làm việc gì, tổ chức chuyện gì, để biết ngày giờ tốt xấu. Tôi đâu biết Thiên Chúa âm thầm dẫn tôi an toàn trên đường đời, đầy chông gai, cạm bẫy.

Nhưng niềm tin hàng ngày tôi tuyên xưng trên môi miệng, dần dà thấm sâu vào cõi lòng sùng kính Thánh Danh Ngài. Qua bao thử thách, bao khốn khó xảy đến, tôi mới phần nào cảm nhận được Thiên Chúa Quan Phòng luôn hiện diện giải thoát tôi.

Lời nguyện thiếu tấm lòng thành kính chẳng khác chi một bài ca vô hồn, một bài kệ lấp đầy khoảng trống tâm hồn giá lạnh. Chẳng khác chi ca sĩ khéo léo, nhuần nhuyễn kỹ thuật thanh nhạc, biết luyến láy theo tiết tấu, biết phô diễn trình độ thẩm âm điêu luyện, nhưng vô cảm với lời nhạc, xa lạ với nội dung câu ca chuyển tải.

Do vậy, cầu nguyện đúng mực là kết hợp hài hòa giữa tiếng ngợi khen, tán tụng và lòng cảm tạ sâu sắc Lòng Thương Xót vô biên của Thiên Chúa. Cầu nguyện là xin vâng theo Thánh Ý Thiên Chúa. Cầu nguyện là tin yêu tuyệt đối vào Tình Yêu hải hà.

Trung tín

Hoàn toàn trung tín vào Chúa, hoàn toàn phó thác vào Chúa Quan Phòng, lời cầu nguyện còn khẳng định tâm hồn khiêm nhu, khả ái, để xứng đáng lãnh nhân hồng ân và ơn Cứu Độ.

Đừng để Đức Giêsu phải lập lại thêm lời Tiên tri Isaia than phiền: “Dân này tôn kính Ta bằng môi, bằng miệng, còn lòng chúng thì xa Ta.” (Mt 15, 8) Mọi gian dối, điêu ngoa, xảo ngôn thảy đều trở nên vô ích trước mặt Người. Chẳng thể lấy vải thưa che mắt thánh. Do vậy, điều kiện đương nhiên ắt có và và đủ của cầu nguyện là sự chân thành, tín thác và kiên trung vững bền.

Đừng nhập nhằng hư thiệt, kẻo Người bỏ rơi, không đoái thương đến nữa. “Nóng thì nóng cho hẳn, lạnh thì lạnh cho rồi. Không lạnh không nóng, dở dở ương ương, Ta sẽ mửa ngươi ra!”(Kh.3.15b-16)

Thánh Phaolô còn hết tình xác tín và giảng dạy: “ Nếu ta kiên tâm chịu đựng, ta sẽ hiển trị với Người. Nếu ta chối bỏ Người, Người cũng sẽ chối bỏ ta. Nếu ta không trung tín, Người vẫn một lòng trung tín, vì Người không thể nào chối bỏ chính mình.” (2 Tm2, 12-13)

Hy vọng

Cầu nguyện là sự hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa, dâng lên Ngài tất cả nỗi thống khổ, niềm vui mừng, nỗi hoan lạc, lẫn sự thất bại cũng như thành công, để hy vọng, cầu mong Ngài thánh hóa và cầu chúc cho được bình an và hạnh phúc.

“Người hy vọng là người cầu nguyện. Đối tượng của lời cầu nguyện cũng là đối tượng của niềm hy vọng. Người hy vọng là cộng tác viên của Thiên Chúa. Ngài tìm họ để hoàn tất việc tạo dựng và cứu chuộc của Ngài.” (Đường Hy Vọng, số 964)

“Con tin lời cầu nguyện toàn năng không? Hãy suy Lời Chúa: “Thầy nói thật với các con. Hãy xin sẽ được, hãy tìm sẽ gặp, hãy gõ, cửa sẽ mở!” Có công ty bảo hiểm nào bảo đảm cho chắc chắn hơn lời ấy không?” (Đường Hy Vọng, số 121)

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn nhớ mình nhỏ bé, tội lỗi, bất xứng, biết khiêm tốn và kiên trì như bà góa trong dụ ngôn hôm nay, để lời cầu nguyện chúng con được Chúa đoái thương đón nhận.

Lạy Mẹ Maria, xin dạy chúng con luôn biết sống mật thiết với Chúa từng phút giây, qua những lời cầu nguyện chân thành và sốt mến, để được Chúa xót thương cứu giúp luôn mãi. Amen.

 
Về mục lục


 

11. Cầu nguyện.

Có một bác nông phu ra tỉnh, chẳng may bị đụng xe, và trở nên mù loà. Các bác sĩ chuyên môn về mắt cho biết: Không thể nào chữa lành được nữa. Lúc đó, bác vừa tròn năm mươi tuổi và là cha của một gia đình gồm bà vợ và bảy đứa con. Dầu vậy bác không mất lòng cậy trông, trái lại bác luôn tin tưởng vào tình thương và quyền năng của Chúa, đồng thời kiên tâm cầu nguyện… Trong suốt ba năm liền, mỗi ngày bác đều tham dự thánh lễ và rước lễ. Ngày kia, sau khi rước lễ, bác cảm thấy vui mừng trong lòng và khi đứng dậy ra về, thì bỗng bác được khỏi, cặp mắt nhìn rõ mọi vật như khi trước. Nước mắt trào dâng, bác chạy lại bàn thờ quỳ gối tạ ơn Chúa.

Từ mẩu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng hôm nay. Chúa Giêsu nói với chúng ta rằng cần phải cầu nguyện luôn và đừng ngã lòng. Ngài đưa ra hình ảnh một ông quan toà không kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng kiêng nể người ta. Thế rồi một bà goá đến tìm ông và đòi cho được xét xử công bằng lần này qua lần khác. Vị quan toà từ chối bà lần này, thì bà lại đến vào một lần khác. Sau cùng để khỏi bị quấy rầy, vị quan toà đã nghe bà và minh oan cho bà. Rồi Ngài đã kết luận: Thiên Chúa sẽ lắng nghe và nhận lời chúng ta nếu như chúng ta biết kiên tâm cầu nguyện.

Có một sự khác biệt sâu xa giữa vị quan toà bất lương và Thiên Chúa, Cha chúng ta ở trên trời là Đấng đầy lòng thương xót, đó là vị quan toà vì không muốn bị quấy rầy mà phải thuận theo lời yêu cầu để người goá phụ không tới nữa. Thiên Chúa thì khác, Ngài hằng khao khát và luôn lắng nghe lời chúng ta van xin, cho dù Ngài thường để họ phải tiếp tục kêu cầu trong một thời gian nào đó. Và như thế, kiên trì vốn là một yếu tố căn bản của lời cầu nguyện. Đừng bỏ cuộc, trái lại hãy tiếp tục cầu xin, ngay cả khi không còn hy vọng. Đó là bài học quý giá Chúa Giêsu muốn đưa ra cho chúng ta hôm nay.

Nhiều người trong chúng ta giống như chàng thanh niên đến gặp vị linh mục, khi gặp phải điều khó khăn. Vị linh mục hỏi anh đã cầu nguyện chưa, anh trả lời: Thưa cha con đã cầu nguyện. Được mấy lần rồi. Thưa cha được một lần. Vị linh mục mới nói với anh hãy tiếp tục cầu nguyện. Cầu nguyện luôn mãi đừng nản lòng như Chúa Giêsu đã dạy. Đó là lý do hối thúc người công giáo chúng ta cầu nguyện hằng ngày. Chúng ta cầu nguyện vào ban sáng, ban tối và trước mỗi bữa ăn. Chúng ta thường xuyên đọc kinh Kính Mừng như muốn nhờ Mẹ Maria cầu nguyện thay cho chúng ta lúc này và trong cơn hấp hối. Chúng ta đọc kinh Lạy Cha mỗi ngày để xin Chúa ban xuống cho chúng ta những ơn lành hồn xác. Chúng ta đi tham dự Thánh lễ ngày thường cũng như ngày Chúa nhật. Thế nhưng chúng ta đừng quên rằng: Cầu xin chỉ là một trong những tâm tình của việc cầu nguyện mà thôi, bởi vì khi đến với Chúa trong tâm tình cầu nguyện, chúng ta còn phải thờ lạy và cảm tạ Chúa nữa.

Sự cầu nguyện được ví như một chiếc máy vô tuyến thiêng liêng, nhờ đó chúng ta được liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa mà lãnh nhận được những trợ giúp cần thiết.

 
Về mục lục


 

12. Truyền giáo, một hành trình sống đức tin

(Suy niệm của Lm. John Nguyễn)

Cách vài ngày, tôi đọc được một câu chuyện thương tâm về cái chết của cô Eleonora Cantamessa, đã đánh động tôi trước tấm gương hy sinh cao cả của cô ta. Tôi xin lược thuật lại câu chuyện sau đây.

Vào đêm Chúa Nhật ngày 8.9.2013, vào lúc 11g đêm, cô Eleonora Cantamessa 44 tuổi vừa mới đi chơi với một người bạn. Trong lúc trên đường trở về nhà, cô nhìn thấy một tai nạn đụng xe, một người đàn ông bị thương nằm trên đường và có một số xe dừng lại quanh đó. Vì là một bác sĩ, cô đã lập tức dừng xe lại để giúp đỡ nạn nhân băng bó vết thương. Nạn nhân là một thanh niên Ấn Độ, tên là Baldev Kumar đang nằm quằn quại trên vũng máu vì bị đánh vào đầu bằng những thanh sắt.

Điều cô ta không ngờ, kẻ hành hung chính là người em trai của người bị nạn, hắn ta hãm hại người anh mình vì sự tranh giành lợi lộc và chức tước cùng với 4 người đồng bọn. Trong lúc cô Eleonora đang tìm cách băng bó vết thương cho Balvev, thì tên Vicky em của người bị nạn đã phóng xe tới cán lên cả hai người chết và gây thương tích cho 6 người khác.

Bác sĩ Eleonora Cantamessa là một bác sĩ sản khoa làm việc tại bệnh viện Sant’Anna di Brescia và có một văn phòng tư ở phố Trescore Balneario. Cô điều trị miễn phí cho người nghèo, trong đó có cả những người Ấn Độ di dân. Cái chết của cô Cantamessa đã làm rúng động xã hội Ý. Thị Trưởng Alberto Finazzi đã tuyên bố một ngày để tang cho cô. Tổng Thống Giorgio Napolitano và Thủ Tướng Enrico Letta cũng đã gửi vòng hoa phúng điếu.

Đám tang của cô có rất đông người tham dự, đứng chật các đường phố vì trong nhà thờ không còn chỗ ngồi. Cộng đoàn người Ấn Độ cũng mặc quốc phục, họ giương cao biểu ngữ: “Cộng đoàn Ấn Độ chúng tôi cùng xin chia sẻ nỗi đau của gia đình”.

Trước nỗi đau cái chết của người con gái, nhưng gia đình của cô không giận dữ và oán giận. Ông Mino, bố cô Eleonora Cantamessa đã nói: “Tất cả mọi sự đều nằm ở trong kế hoạch của Thiên Chúa. Bây giờ, chính là lúc chúng ta xin ơn Chúa cứu chuộc và tái sinh cho các thủ phạm trong lúc này và sau khi thụ án.” Để tiếp nối những nghĩa cử của cô Eleonora đối với trẻ em nghèo, gia đình đã yêu cầu mọi người không mua hoa phúng điếu mà hãy dùng tiền đó để làm việc từ thiện.

Đức Giáo Hoàng Phanxicô đã gửi bức thư chia buồn với gia đình cô, Giám Mục Luciano Monari, địa phận Brescia, đọc bức thư đó trong đám tang, ngài viết: “Cô Cantamessa đã kết thúc cuộc sống nơi trần thế trong lúc thực hiện nghĩa cử cuả một người Samaria nhân lành “.

Ngày thứ Tư vừa qua tại quảng trường Thánh Phêrô, Đức Thánh Cha đã dừng lại thật lâu để an ủi gia đình của cô Eleonora Cantamessa. Ngài vỗ về lên má của bà mẹ đầy nước mắt. Sự ân cần của Đức Thánh Cha đã gây tác động mạnh mẽ cho gia đình, như lời bà Mariella Cantamessa đã tâm sự với báo Osservatore Romano rằng: “Chúng tôi có cảm tưởng khi được Đức Thánh Cha an ủi chia sẻ là chính lúc khuôn mặt của Eleonora, tuy đã mất nhưng đang được Ngài vuốt ve vậy. Chúng tôi tuy mang một nỗi buồn lớn lao nhưng cũng tự hào đã chứng kiến một hành động hào hiệp của người Kitô giáo. Chúng tôi không oán trách bất cứ ai về cái chết của Eleonora, Thiên Chuá có kế hoạch riêng cuả Ngài mà Eleonora đã chấp nhận và thực hiện và hy sinh cả mạng sống của mình. Bây giờ, việc quan trọng là truyền đạt thông điệp của sự vị tha, ngay cả việc phải giúp đỡ các gia đình Ấn Độ đang lâm vào thảm kịch này.”

Với thông điệp này, tôi thiết nghĩ, họ là những chứng nhân sống động trong thời này. Cụ thể, cô Eleonora Cantamessa được xem như là người Samaria nhân hậu. Việc làm của cô thể hiện lòng nhân ái của con người trước người bị nạn cần được giúp đỡ, nhưng không phải ai cũng có thể làm được như cô ta. Song song với việc làm của cô, chính là nơi cô đã sống và hành động theo Lời Chúa dạy với một trái tim và tấm lòng nhân ái. Cô biểu hiện đời sống đức tin mạnh mẽ qua việc làm của mình, là đốm sáng cho chúng ta nhận ra khuôn mặt của Chúa Giê-su.

Từ câu chuyện cảm động này, chúng ta có thể nhận ra thông điệp rõ nét hơn về hành động đức tin của người Ki-tô hữu. Đặc biệt với Chúa Nhật Truyền Giáo, Giáo hội mời gọi chúng ta mạnh dạn dấn thân trong việc rao giảng Tin Mừng, như là lời mời gọi cấp bách trong năm sống Đức Tin này.

Với trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta được nghe câu hỏi của Chúa Giê-su: ” Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” Đức tin là điều kiện tiên quyết cần có để chúng ta sống và rao truyền Lời Chúa, mà đức tin đó đi đôi với việc làm. Có thể chúng ta nói về đức tin rất mạnh mẽ, nhưng chúng ta không dám sống cho đức tin của mình. Có lẽ, có nhiều nguyên do khác nhau. Nhưng một trong những nguyên do đó là, con người đang chạy theo bởi các trào lưu học thuyết ảo và lối sống hưởng thụ ngày nay đã áp đặt lên tư tưởng của chúng ta. Hay nói cách khác, đời sống đức tin đang tha hóa bởi não trạng của sở hữu và quy về chủ nghĩa cá nhân. Cho nên, có một lỗ hổng rất lớn giữa hiểu biết và đón nhận đức tin.

Câu hỏi của Chúa Giê-su có thể đặt lại vấn đề cho mọi người chúng ta là những người mang danh Đức Kitô. Chúng ta đã và đang làm gì cho Nước Chúa được lớn lên và Lời Chúa đến với mọi người. Hơn nữa, chúng ta không thể rao truyền đức tin mà không sống và hành động đức tin của mình.

Ngày Khánh nhật Truyền Giáo là dịp để cho chúng ta nhìn lại hành trình sống đức tin của mình. Và qua đó, chúng ta tiếp tục sứ mạng của người Ki-tô và hãy noi gương của các nhà truyền giáo vĩ đại đã sống và chết cho giá trị Tin Mừng.

Thánh Tê-rê-sa Hài đồng Giê-su truyền giáo qua lời câu nguyện và hy sinh nơi Dòng kín. Thánh Phan-xi-cô với cuộc đời đi rao giảng cho các dân tộc Châu Á, nhờ đó nhiều người trở về với Chúa và nhận biết Đức Kitô. Mẹ Têrêsa Calcutta truyền giáo qua việc phục vụ cho người nghèo và những người bị bỏ rơi. Các thánh tử đạo Việt Nam chết để mang lại hạt giống đức tin trên quê hương Việt Nam.

Là con cháu của các ngài, nhiệm vụ của mỗi người chúng ta hôm nay là giữ lấy kho tàng đức tin và mạnh dạn dấn thân loan truyền Tin Mừng. Như lời Chúa nói: “Các con hãy đi rao giảng Tin mừng khắp thế gian, làm phép rửa cho họ, nhân danh Cha và Con và Thánh Thần”.

Lạy Chúa, xin ban thêm lòng tin cho chúng con giữa cuộc đời nổi trôi để con có thể sống và làm chứng cho Đức Kitô đã chết cho chúng con, và sự phục sinh của Ngài mang lại cho chúng con niềm hy vọng và hạnh phúc đời sau. Amen!

 
Về mục lục


 

13. Cầu nguyện

Cô giáo trẻ, phụ trách một lớp học, trong đó có một em thật ngang bướng ngỗ nghịch, tựa hồ như một con ngựa chứng trong sân trường. Sáng hôm ấy, cô giáo đến sớm và đang ngồi viết, thì Bình, tên em học trò ngang bướng ấy, xuất hiện và hỏi: Cô viết cái chi vậy? Cô trả lời: viết lời nguyện gởi cho Chúa đây. Ngài có thể làm được mọi sự, kể cả việc nhận lời cầu xin này. Cô giáo kẹp lời nguyện ấy vào trong một cuốn vở. Lợi dụng lúc cô giáo viết bài, Bình đã chớp mẩu giấy ghi lời cầu nguyện bỏ vào trong cuốn vở của mình.

Mười hai năm sau, tình cờ trong lúc dọn nhà, Bình tìm lại được mẩu giấy ngày xưa với nét chữa đã bị nhạt nhoà…Thế nhưng, vì cô giáo dùng loại tốc ký, nên Bình không thể đọc được. Anh bỏ mẩu giấy ấy vào trong ví rồi đi đến công sở. Tại đây anh nhờ cô thơ ký đọc giùm. Cô thơ ký nói: Tôi sẽ đánh máy và để trên bàn giấy của anh vì tôi nghĩ đây là chuyện riêng tư. Trên đường về và suốt buổi tối hôm đó, anh cứ đọc đi đọc lại lời cầu nguyện của cô giáo: Lạy Chúa, xin đừng để con bị thất bại trong nghề nghiệp con đã chọn lựa… Nhưng con không thể nào thành công nếu như em Bình cứ phá bĩnh hoài. Xin Chúa hãy thúc giục tâm hồn em, để em trở nên một người rất tốt hoặc là rất xấu.

Lời cầu nguyện này đã đánh động anh để rồi anh xoá bỏ một số hành động mờ ám mà anh đã định thực hiện. Anh tìm đến cô giáo cũ và nói cho cô hay là lời cầu nguyện năm xưa của cô đã làm thay đổi cuộc đời anh.

Từ câu chuyện trên và nhất là từ đoạn Tin Mừng hôm nay chúng ta rút ra được hai điểm liên quan đến việc cầu nguyện của chúng ta:

Điểm thứ nhất đó là lời cầu nguyện có một năng lực to lớn, ảnh hưởng đến toàn bộ cuộc đời chúng ta. Bác sĩ Carel, người đã từng đoạt giải Nobel, đã viết như sau: Cầu nguyện là hình thức năng lực hùng mạnh nhất mà con người có thể phát sinh ra, ành hưởng trên tâm hồn và thân xác chúng ta, không khác gì hấp lực của trái đất.

Điểm thứ hai đó là hãy kiên trì trong lời cầu nguyện của mình. Hình ảnh của Maisen qua bài đọc thứ nhất đã là một mẫu gương cho chúng ta noi theo, mặc dù mệt mỏi, Maisen vẫn cứ kiên trì cầu nguyện, nhờ sự giúp đỡ của bè bạn ông. Một em nhỏ đã kể lại cho bè bạn biết sở dĩ cậu ta có thể kiên trì cầu nguyện mỗi ngày là vì có bà mẹ giúp đỡ. Họ đồng ý với nhau là: mỗi sáng cả hai cùng thức dậy cùng một giờ, rồi mỗi người cầu nguyện riêng 15 phút trong phòng mình, đoạn cùng nhau ăn sáng, rồi bà mẹ thì đi lo công việc của mình, còn cậu thì đi đến trường. Cậu bé nói điều đã giúp cho cậu rất nhiều, đó là biết được rằng đang khi cậu cầu nguyện trong phòng mình, thì mẹ cậu cũng đang cầu nguyện trong phòng của bà.

Để thực hiện sự kiên trì trong việc cầu nguyện, chúng ta cần có một thời khoá biểu, một chương trình sống, ấn định những giờ giấc cầu nguyện đều đặn mỗi ngày, giống như hai mẹ con cậu bé đã làm.

Để kết luận, chúng ta ghi nhận một hình ảnh về sự cầu nguyện. Chúng ta có thể nói: Cầu nguyện chính là một chiếc máy vô tuyến thiêng liêng, nhờ đó mà chúng ta liên hệ trực tiếp với Thiên Chúa, để lãnh nhận được những sự trợ giúp cần thiết.

 
Về mục lục


 

14. Thiên Chúa của Người nghèo – An Phong

Xã hội loài người

Chúa Giêsu kể chuyện một quan toà bất chính, ông ta “chẳng kính sợ Thiên Chúa mà cũng chẳng coi ai ra gì”. Qua lối nói vắn gọn như thế, Chúa Giêsu muốn trình bầy cho chúng ta một con người nắm quyền hành, ngang ngạnh, “khó chơi”…; và điều đó nói lên tình trạng bế tắc, dường như không còn con đường nào để một con người nhỏ bé trong xã hội, một bà goá, có thể tìm được công lý.

“Vũ khí” của người bé mọn

Tuy nhiên, điều tưởng chừng như không thể như thế lại trở nên có thể với lòng kiên nhẫn. Lòng kiên nhẫn của bà góa đã làm cho con đường bế tắc của người yếu thế được thành tựu, nhờ vào chính sự mệt mỏi của vị quan toà cứng lòng. Người nghèo không có tiền bạc, không có sức mạnh, không có lý lẽ khôn ngoan, nhưng có một vũ khí lợi lại, đó là lòng kiên nhẫn. Chính nỗi cực nhọc của đời sống làm cho người nghèo biết kiên nhẫn và có thể đạt được mục tiêu mình mong muốn.

Dĩ nhiên, Thiên Chúa không phải là một quan án bất công. Dụ ngôn ở đây chỉ muốn củng cố kết quả của lòng kiên nhẫn trong việc cầu nguyện. Nếu như lòng kiên nhẫn có thể thay đổi lập trường của vị quán án hắc ám, thì huống hồ gì đối với Thiên Chúa.

“Vậy chẳng lẽ Thiên Chúa lại không bênh vực những kẻ Người đã tuyển chọn, ngày đêm hằng kêu cứu với Người, dù Người có trì hoãn?”

Sự kiên trì của niềm tin

Tuy nhiên, Chúa Giêsu không trình bầy ở đây một sự kiên nhẫn thuần túy con người. Chúa cho thấy căn bản của vấn đề là ở lòng tin. Chính lòng tin vào chúa giúp người ta biết kiên nhẫn. Do đó, Chúa Giêsu muốn củng cố lòng tin của người tín hữu khi khẳng định chắc chắn Thiên Chúa sẽ ra tay tiếp cứu, dù ra như Ngài có đến chậm. Đây là một vấn đề lớn của Giáo Hội sơ khai: người ta tưởng Chúa sắp đến để xét xử chung cuộc, những đợi mãi mà vẫn chưa thấy, người ta tưởng Nước của Ngài sắp tỏ hiện huy hoàng, nhưng người Kitô hữu vẫn bị bắt bớ…. Ngày nay cũng vậy, đã có rất nhiều lời tiên báo về ngày tận thế, rồi nhưng rồi mọi sự vẫn trôi qua một cách “bình thường”. Chúa Giêsu hình như hiểu rõ điều đó, Ngài phải thốt lên:

“Nhưng khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng? Thực sự ta không thể hiểu được cách làm của Thiên Chúa. Việc của ta và điều Chúa Giêsu nhắc nhở ta là: hãy vững tin, đừng sợ.; vì…”Người sẽ mau chóng bênh vực họ”

Lời nguyện:

Lạy Chúa Giêsu,

Có lẽ vì con chưa ý thức tình trạng bế tắc của đời con như bà goá nghèo nọ, nên con cũng chưa đủ lòng tin, lòng kiên nhẫn trong lời cầu nguyện. Con còn tìm nhiều đường lối khác để giải quyết đời con, nên chưa hoàn toàn tin vào Chúa. Xin tha thứ cho con.

 
Về mục lục


 

15. Cầu nguyện – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Đây là một dụ ngôn dễ hiểu. Chúa Giêsu đưa ra hai tình ảnh trái ngược. Một bên là bà goá nghèo khổ, bé nhỏ, không có tiếng nói trong xã hội. Một bên là ông quan toà bất nhân, chẳng sợ trời mà cũng chẳng nể người. Thật là một hoàn cảnh tuyệt vọng cho người phụ nữ không có tiếng nói. Nhưng nhờ kiên trì, bà đã đạt được ý nguyện. Chúa kể dụ ngôn này với mục đích: dạy các môn đệ hãy noi gương bà goá, cầu nguyện luôn không được nản chí. Bà goá nêu gương cầu nguyện cho ta ở 4 thái độ sau:

  1. Thái độ khiêm nhường. Người đàn bà này rất khiêm nhường vì bà tự biết mình bé nhỏ nghèo hèn. Bị người ta ức hiếp mà chẳng thể tự bảo vệ. Không có sức khoẻ để chống lại người ác. Không người bênh vực chống lại bất công. Không có cả tiền bạc để mua lấy sự bình an. Bà mất tất cả. Chẳng còn gì. Chẳng có gì. Nói gương bà, khi cầu nguyện ta phải rất khiêm nhường. Khiêm nhường vì biết mình nghèo nàn yếu đuối, biết mình chỉ là thân phận tro bụi. Khiêm nhường biết mình đã cùng đường, không còn nơi nương tựa. Khiêm nhường biết mình bất tài bất lực không thể thoát khỏi hoàn cảnh bi đát này.
  2. Thái độ phó thác. Bà goá này không còn nơi nương tựa. Chỉ còn trông cậy vào ông quan toà như lối thoát duy nhất. Bà đặt niềm tin vào ông quan toà. Đó là niềm hy vọng duy nhất và cuối cùng. Bà bám víu lấy ông quan toà. Bà phó thác vận mạng trong tay ông quan toà. Sự sống của bà ở nơi ông quan toà. Cũng thế, khi ta cầu nguyện, hãy hoàn toàn phó thác vận mệnh cho Chúa. Chúa là lối thoát duy nhất. Chỉ có Chúa mới có thể cứu giúp ta. Hơn nữa Chúa là người Cha toàn năng và giầu lòng thương xót. Ta là đứa con bé nhỏ, yếu ớt. Hãy đặt vận mệnh ta trong tay Chúa. Hãy tin tưởng Chúa sẽ sắp xếp cho ta những gì tốt đẹp nhất.
  3. Thái độ kiên trì. Chỉ còn một con đường duy nhất để sống, nên bà kiên trì theo đuổi cho đến cùng. Thất bại không làm bà nản lòng. Bị hất hủi không làm bà bỏ cuộc. Niềm tin của bà thật lớn lao. Sự kiên trì của bà thật bền bỉ. Bà đã đi đến cùng và bà đã thành công. Cũng thế, khi cầu nguyện ta hãy kiên trì. Kiên trì chứng tỏ sự phó thác trong tay Chúa. Kiên trì chứng tỏ ta hoàn toàn yếu hèn chỉ biết trông cậy vào Chúa. Kiên trì chứng tỏ lòng ta yêu mến Chúa tha thiết. Chắc chắn Chúa sẽ dủ lòng thương ta.
  4. Thái độ khao khát. Bà khao khát vì đó là con đường sống duy nhất. Bà khao khát được sống. Bà không ngồi đó chờ đợi. Nhưng làm hết cách, hết sức mình để đạt được khao khát đó. Bà không chán nản an nghỉ. Nhưng bà làm việc liên lỉ cho ước nguyện của mình. Cũng thế, khi cầu nguyện ta phải có lòng khao khát cháy bỏng. Lòng khao khát đó được biểu lộ trong hành động. Ta không ngồi chờ, nhưng đứng lên, ra đi và bắt tay hành động. Không lùi bước trước khó khăn, nhưng tìm hết cách để đạt được ước nguyện. Lòng khao khát chứng tỏ ta tha thiết với lời cầu nguyện. Lòng khao khát cùng với nỗ lực phấn đấu sẽ được Chúa thương chấp nhận.

Chiêm ngắm tấm gương của bà goá, ta nhận thấy rất nhiều khi ta chưa cầu nguyện cho đủ. Chưa thực hiện sự khiêm nhường nhận biết sự thực về mình. Chưa hoàn toàn phó thác vận mệnh trong tay Chúa. Chưa biết kiên trì đủ. Và nhất là chưa tha thiết tới mức ta tích cực làm hết sức mình cho nguyện ước đó. Hôm nay với bài học của Chúa, ta sẽ biết cầu nguyện hơn. Khi biết cầu nguyện hơn, chắc chắn lời cầu nguyện của ta sẽ đẹp lòng Chúa và đem lại nhiều lợi ích cho linh hồn ta hơn.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

  1. Kể ra những thái độ của bà goá mà ta cần noi theo khi cầu nguyện.
  2. Đối với bạn Chúa là gì? Có phải là nguồn hy vọng duy nhất? Hay chỉ là một chỗ cậy nhờ như những chỗ khác?
  3. Bạn có phấn đấu làm việc cho ước nguyện của mình không? Hay bạn chỉ ngồi chờ Thiên Chúa ban tặng?
  4. Trong 4 thái độ cần có, bạn thiếu thái độ nào nhất?

 
Về mục lục


 

16. Kiên tâm – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Truyện kể: Wilma Rudolph bị bạo bệnh ngay từ lúc mới sinh. Cô là một đứa trẻ sinh non thiếu tháng, bị viêm phổi, cảm hồng chẩn và bị bại liệt. Bệnh bại liệt làm cho một chân bị teo cơ và bàn chân mang tật. Tới lúc 11 tuổi, Wilma chân đi khập khễnh bị niềng bởi miếng kim loại. Tại nhà, cô bé xin chị coi chừng, trong khi cô thực tập bước đi không mang vật niềng. Cô bé tập tành mỗi ngày, nhưng sợ rằng cha mẹ của cô khám phá ra việc cô đang làm và có thể ép buộc cô phải ngưng. Cuối cùng, cảm thấy có lỗi. Cô trình bày mọi sự việc đang diễn tiến, bác sĩ qúa ngạc nhiên. Tuy nhiên, ông cho phép cô tiếp tục thực tập nhưng chỉ trong khoảng thời gian ngắn. Dù thế nào đi nữa, câu truyện rút ngắn lại. Wilma tập bước đi cho tới khi cô bé đã rời bỏ đôi nạng vĩnh viễn. Cô bé tiến bộ trong việc tập chạy. Khi cô lên 16 tuổi, cô đã thắng giải huy chương đồng trong cuộc chạy đua tiếp sức ở Melbourne Olympics. Bốn năm sau, tại Rome Olympics, cô trở thành người phụ nữ đầu tiên trong lịch sử thắng ba huy chương vàng môn điền kinh. Cô trở về với băng ghi dấu được đón chào tại Hoa Kỳ và gặp riêng tổng thống Kennedy và nhận Giải Thưởng Sullivan (Sullivan Award) như vận động viên nghiệp dư hàng đầu của quốc gia.

Trong cuộc lữ hành về Đất Hứa, dân Do-thái gặp nhiều bước gian truân cả đối nội lẫn đối ngoại. Đối đầu gian khó cả tinh thần lẫn thể chất. Thiên Chúa thanh luyện lòng dân qua rất nhiều biến cố khó khăn. Họ lo lắng về nơi ăn chốn ở và sự an toàn cuộc sống. Dân sống chết với cuộc sống bấp bênh lang thang trong hoang địa. Đi qua các vùng dân cư ngoại bang, họ phải tranh đấu để sống còn. Có nhiều nhóm dân thù nghịch đã dấy lên gây chiến với họ. Người Amalec đã đưa quân chinh phạt Israel: Trong những ngày ấy, người Amalec đến giao chiến với Israel tại Raphiđim (Xh 17, 8). Ông Môisen đã phải cầu khẩn với Thiên Chúa suốt ngày. Ông giang tay kiên tâm cầu nguyện, luôn đặt mình trước sự hiện diện của Thiên Chúa để cầu xin cho dân thắng trận: Khi ông Môsê giơ tay lên, thì dân Israel thắng trận, còn khi ông hạ tay xuống một chút, thì người Amalec thắng thế (Xh 17, 11). Ông Môisen và dân chúng một lòng kiên trì cậy trông vào quyền năng của Thiên Chúa. Quyền phép của Chúa thức hiện nhãn tiền qua từng giây phút.

Môisen đã kết hợp lòng trí một cách rất chân thành với Thiên Chúa Giavê. Ông khẩn cầu cùng Thiên Chúa trong mọi bước đường sướng khổ. Chúa đã dùng ông như khí cụ dẫn đưa Dân riêng ra khỏi Ai-cập để vào miền Đất Hứa. Chương trình cứu độ tiếp tục trải dài suốt dọc lịch sử của Dân Do-thái cả mấy ngàn năm. Đôi khi chúng ta tự hỏi, tại sao Thiên Chúa chuẩn bị chờ đợi một thời gian qúa dài để đón nhận Đấng Cứu Thế xuống trần? Chúng ta không thể nào hiểu thấu ý định nhiệm mầu của Thiên Chúa. Thiên Chúa hằng hữu đi vào thời gian và không gian hữu hạn. Thiên Chúa luôn kiên trì chờ đợi sự tiến triển của con người. Tính theo thời gian năm tháng của đời sống con người trần thế thì qúa lâu dài. Đã có biết bao nhiêu dòng dõi nối nghiệp cưu mang sứ vụ đón nhận ơn cứu độ.

Thiên Chúa bước vào tiến trình lịch sử của một dân tộc và đồng hành từng bước cùng với sự u mê, ương ngạnh và dại khờ của con người. Thiên Chúa dõi bước qua mọi trạng huống thăng trầm của lịch sử. Chúng ta biết tâm hồn, tính tình và cõi lòng của con người đổi thay chẳng tốt lành gì. Kinh Thánh đã nêu danh một số vị tiêu biểu được Chúa chọn làm người lãnh đạo như vua Saulê, Đavít, Solômon và các vua kế vị, nhưng được mấy vị tốt lành và trung tín. Thiên Chúa ưu đãi và ban muôn ân phước lộc cho các vị lãnh đạo, nhưng hầu như vị vua nào cũng nhiều lần bị sa ngã phạm tội và rơi vào tham sân si của trần đời. Dân Riêng cũng đã nhiều lần quay lưng phản bội lại với Thiên Chúa để chạy theo tôn thờ các thần dân ngoại. Thiên Chúa luôn tín trung với lời đã hứa. Chúa kiên tâm chờ đợi. Chúa đánh phạt họ, rồi Chúa lại tha.

Chúa Giêsu dùng dụ ngôn dạy các tông đồ về sự kiên trì trong lời cầu nguyện, đừng khi nào chán nản: Chúa Giêsu dạy các ông phải cầu nguyện luôn, đừng ngã lòng (Lc 18, 1). Dụ ngôn nói về sự kiên tâm của người đàn bà góa trước quan tòa. Vì bà quấy rầy qúa, nên ông đã xét xử cho bà. Chúa dùng hình ảnh việc hầu tòa để nói về sự cầu nguyện luôn. Chúng ta cần kiên trì trong cầu nguyện. Có nhiều khi điều chúng ta xin hôm nay không được, ngày mai lại đổi sang lời cầu khác. Chúng ta muốn được Chúa đáp lời cho thỏa mãn các nhu cầu ngay lập tức. Đôi khi chính chúng ta cũng không biết mình cần gì hay xin gì cho phải lẽ. Mỗi lần cầu xin chúng ta kể ra một chuỗi dài những ơn cần thiết, nhưng chúng ta lại chẳng thiết tha chờ đợi. Nghĩ rằng cầu xin rồi, Chúa muốn ban hay không cũng chẳng sao. Có thể chúng ta cầu mà chưa được vì cầu xin không đúng cách. Chúng ta dễ chán nản trong lời cầu xin là thế!

Với tâm tình khoan dung nhân hậu, Chúa Giêsu dạy chúng ta cách cầu nguyện. Không lẽ nào Thiên Chúa không nhận lời chúng ta cầu xin, nếu chúng ta thiết tha kêu cứu đêm ngày: Vậy Thiên Chúa lại không minh xử cho những kẻ Người tuyển chọn, hằng kêu cứu với Người đêm ngày, mà khoan giãn với họ mãi sao? (Lc 18, 7). Đây là chìa khóa của việc cầu nguyện. Hãy tập trung tinh thần cầu nguyện kết hợp mật thiết với Chúa. Vì không phải xin nhiều hay nói nhiều là được nhiều. Chúng ta phải biết cầu xin và biết lắng nghe. Lời cầu cần sinh ích lợi cho phần rỗi của linh hồn của chúng ta. Nhìn lại cuộc đời, Chúa đã ban cho chúng ta nhiều hơn điều chúng ta mong ước cầu xin.

Cầu nguyện cần sự kiên trì. Kiên trì chờ đợi như người mẹ mang thai chờ đợi sinh con. Người mẹ không thể cắt bớt thời gian năm tháng phát triển của thai nhi trong cung lòng. Thời gian là nguồn ân phước để cưu mang và sinh thành. Cuộc sống của chúng ta cũng thế, thời gian và môi trường chung quanh vẫn cứ trôi. Mọi loài thụ tạo theo tiến trình tự nhiên cứ phát triển. Con người cần có sự kiên nhẫn đợi chờ trong tất cả mọi diễn tiến tự nhiên. Chúng ta không thể cắt bớt thời gian để tìm đạt kết qủa ngay. Người ta nói: Dục tốc bất đạt. Trong vấn đề cầu nguyện cũng thế, cầu xin là trải lòng ra một cách khiêm tốn để nhận biết thân phận yếu hèn, tội lỗi, thiếu thốn và bất xứng, xin Chúa đoái thương và ban ơn phúc.

Thánh Phaolô khuyên chúng ta hãy biết sống lời Chúa để sinh hoa trái trong cuộc sống đạo. Tất cả chân lý mạc khải về Thiên Chúa và vũ trụ con người đã được ghi chép trong Kinh Thánh: Tất cả Kinh Thánh đã được Chúa linh hứng, đều hữu ích để giảng dạy, biện bác, sửa dạy và giáo dục trong đàng công chính (2Tm 3, 16). Lời linh hứng sống động được truyền đạt qua bao đời. Giáo Hội có một kho tàng khôn ngoan vô giá là Thánh Kinh và Thánh Truyền. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa được in ghi trong lịch sử cứu độ để giúp con người đạt tới cứu cánh của mình. Chúng ta không phải tìm nơi nguồn nào khác. Thánh Kinh giúp chúng ta tìm ra tận nguồn chân thiện mỹ.

Đừng ngại dùng Lời Chúa để rao giảng, thuyết phục và hướng dẫn. Phaolô đã nhấn mạnh: Con hãy rao giảng lời Phúc Âm, hãy xúc tiến việc đó, dầu thời thế thuận lợi hay không thuận lợi; hãy thuyết phục, hãy khiển trách, hãy khuyên lơn với tất cả lòng kiên nhẫn và quan tâm giáo huấn (2Tm 4, 2). Chúng ta không xấu hổ vì rao giảng lời Chúa. Không sợ hãi khi làm chứng nhân cho Chúa. Không hổ thẹn khi trưng dẫn lời Chúa. Chúng ta hãy can đảm đọc, lắng nghe và thực hành lời Chúa trong cuộc sống mỗi ngày.

Lạy Chúa, Chúa rất nhân từ và khoan dung đại lượng. Chúa chẳng bỏ rơi những ai chạy đến với Chúa xin ơn trợ giúp. Xin cho chúng con biết tín trung và bền vững dõi theo bước đường Chúa đã đi.

 
Về mục lục


 

17. Đừng thất vọng!

(Suy niệm của P. Trần Đình Phan Tiến – Bước Theo)

Vâng! Kính thưa quý vị, có thể nói chủ đề Lời Chúa Chúa Nhật hôm nay, là một chủ đề khá quan trọng đối với phạm vi đức tin. Theo đó, câu Lời Chúa quan trọng nhất của đoạn Tin Mừng hôm nay chính là câu cuối( Lc 18, 8b).” … Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy LÒNG TIN trên mặt đất nữa chăng? ”

Vâng! Thiên Chúa vốn dĩ là một mầu nhiệm, nên chi, không ai biết về Thiên Chúa, nếu Thiên Chúa không mặc khải cho, vì vậy, cầu nguyện không phải chỉ là xin ơn vật chất, mà chính là lúc phàm nhân bày tỏ sự đáp trả ơn mặc khải từ Thiên Chúa một cách khiêm tốn và trung thành, từ đó , khi cầu nguyện, chính là lúc phàm nhân “trả nợ “ cho Thiên Chúa ,vì họ đã “mắc nợ” Thiên Chúa. Chứ không phải Thiên Chúa mắc nợ chúng ta.

Hiểu như vậy, người ta sẽ không nản chí khi cầu nguyện, trái lại, cầu nguyện là bổn phận tâm linh, vì cầu nguyện là nâng tâm hồn lên để kết hiệp cùng Thiên Chúa là Cha nhân từ. Mặc nhiên, khi con người được kết hiệp cùng Thiên Chúa, thì họ không còn cần đến nhu cầu theo ý họ. Mà là chính Thiên Chúa mới thật là nhu cầu thiết yếu của họ.

Trở lại đoạn Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã dùng dụ ngôn của phàm nhân, có nghĩa là cách đối xử của phàm nhân mà dẫn chứng về Nước Trời. Chúa Giêsu bảo: “ đừng nản chí khi cầu nguyện” (c 1). Ông quan tòa chiếu cố đến bà góa, không phải vì ông ta tốt, mà là vì bà góa kiên trì. Một sự kiên trì dai dẵng đã làm cho quan tòa phải thực hiện lời yêu cầu của bà góa.

Như vậy , qua dụ ngôn: ” quan tòa bất chính và bà góa quấy rầy” (Lc 18, 1-8), Chúa Giêsu đã mặc khải cho chúng ta biết sự kiên trì cầu nguyện. Vì Thiên Chúa sẽ bênh vực kẻ cậy trông Ngài, dù Thiên Chúa có trì hoãn. (c7).

Và tại câu (8a), Chúa Giêsu đã khẳng định: “Thầy nói cho anh em biết, Người sẽ mau chóng bênh vực họ”. Tại sao? Thưa quý vị, thưa vì chính Người là Thiên Chúa, một lý do đơn giản như vậy.

Nhưng vấn đề là: “… Khi Con Người ngự đến, liệu Người còn thấy lòng tin trên mặt đất nữa chăng?” (c 8b). Vâng, Chúa Giêsu đã nhìn thấy trước vấn đề về “ đức tin” của con người, và Người đã cảnh báo. Có nghĩa là lòng tin của phàm nhân sẽ giảm sút đến độ không còn, nếu họ chạy theo vật chất và nhu cầu trần thế hơn nhu cầu thiêng liêng. Đó là điều đáng buồn, vì chính Chúa Giêsu đã cảnh báo như thế. Đây cũng chính là trọng tâm mà Đức Benedicto XVI đã ban hành “NĂM ĐỨC TIN” vậy. Đức Nguyên Giáo Hoàng đã tâm niệm và ấp ủ câu Lời Chúa nầy để cho ra đời năm ĐỨC TIN. Có nghĩa là “năm cầu nguyện” cho Đức Tin được bền đỗ.

Như vậy, nhân ngày KHÁNH NHẬT TRUYỀN GIÁO, chúng ta cầu nguyện cho Giáo Hội trung tín tiến bước theo Chúa Kitô một cách trọn vẹn hơn nữa trong mọi sự như ý Chúa muốn. Muốn vậy, từng Kitô hữu một phải kiên tâm cầu nguyện, để kết hiệp cùng Thiên Chúa trong mọi thời gian hầu vững tin vào Lời Chúa Giêsu, Đấng là Đường là Sự Thật và là Sự Sống.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã dạy chúng con cầu nguyện và kiên trì cầu nguyện, xin cho chúng con biết thực thi Lời Chúa dạy, để Thiên Chúa là Đấng Hằng Hữu mưu ích cho phần thiêng liêng của chúng con cho tới ngày Chúa lại đến ./. Amen.

 
Về mục lục


 

18. Tâm hồn phải sâu rộng, cầu nguyện mới đắt lời.

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)

Trong Phúc âm theo thánh Luca, dụ ngôn này đi liền sau một bài giảng của Đức Kitô về ngày tận thế, có lẽ vì vậy câu cuối đoạn Phúc Âm hôm nay là “Tuy thế, Con Người đến sẽ còn gặp được niềm tin trên trái đất nữa không?”. Có lẽ nhân vật thẩm phán bạc ngược được dùng để làm nổi bật một sự tương phản. Bên này là một kẻ không có tình người, bên kia là Đấng Thượng Đế tuyệt đối nhân hậu. Nếu như kẻ bạo ngược chán chê mới nhận lời nài xin của bà goá chỉ vì muốn được yên thân với lòng ích kỷ của mình, tại sao Thiên Chúa, Đấng vô cùng nhân hậu, không tức khắc nhận lời cầu xin của con cái Người? Theo nhận xét bề ngoài, dụ ngôn nếu vấn đề thời hạn Thiên Chúa đặt ra để nhận lời chúng ta cầu xin. Vấn đề khác sâu sắc hơn: Thiên Chúa nhận lời, điều ấy nghĩa là gì? Khi chúng ta xin Thiên Chúa một điều rõ rệt, chẳng hạn xin lương thực hằng ngày, chúng ta có biết rõ tính chất sâu sắc bí ẩn của điều chúng ta xin không? Chúng ta có nhận thức không về tầm mức điều Thiên Chúa nhận lời ban cho, vì Thiên Chúa bao giờ cũng nhận lời? Chúng ta là những sinh vật sống trong giới hạn thời gian chúng ta đo bằng ngày giờ, bằng hiện tại và tương lai. Những ước vọng của chúng ta, tức là những lời cầu nguyện, hướng lên Thiên Chúa. Chúng ta sốt ruột nến phải chờ đến ngày mai, chúng ta muốn được thoả mãn ngay hôm nay, ngay tức khắc. Vậy mà Thiên Chúa nhìn chúng ta ở ngoài giới hạn thời gian ấy, Người nhận lời chúng ta tuỳ theo viễn ảnh toàn bộ định mệnh chúng ta, bây giờ và trong tương lai. Thiên Chúa vượt ra ngoài cái hiện tại trước mắt. Chúng ta ghi nhận hai điều sau:

1) Tại sao Thiên Chúa luôn luôn nhận lời? Bởi vì Người là Cha vô cùng nhân lành. Niềm tin chắc Thiên Chúa nhận lời cầu khẩn chính là một trong những cột trụ vững chắc nhất đời sống Kitô giáo. Nghi ngờ điều ấy là tội phạm đến đức cậy. Điều ấy quá đúng đến nỗi lời cầu nguyện của chúng ta không cần dài dòng vì Thiên Chúa biết trước biết rõ hơn chúng ta điều gì cần cho chúng ta. Thế mà Thiên Chúa là Cha chúng ta, luôn luôn sẵn sàng ban cho rất hậu tất cả những điều chúng ta cần. Toàn bộ Phúc Âm khẳng định sự thật ấy. Nếu vậy tại sao phải cầu nguyện? Cầu nguyện phải chăng là không cần thiết?

2) Bởi lẽ Thiên Chúa dựng nên chúng ta, những tạo vật có tự do, Người không bắt buộc chúng ta nhận lãnh ân huệ của Người cách miễn cưỡng. Thiên Chúa chỉ đáp ứng những nguyện vọng bày tỏ cách tự do. Lượng nhân hậu của Thiên Chúa đáp ứng quá lời cầu xin của chúng ta, nhưng Người muốn chúng ta phải cầu xin. Tại sao chúng ta thấy hình như Thiên Chúa rất nhiều phen để lâu mới trả lời. Sở dĩ như vậy vì nguyện vọng nung nấu và cầu nguyện bền bỉ mở rộng khả năng lòng trí chúng ta. Cầu nguyện hữu ích trước hết cho chúng ta, cầu nguyện đào sâu mở rộng tâm hồn. Thế mà Đấng nhân hậu vô biên cần có những tâm hồn sâu rộng… Hơn nữa, khi thấy Chúa mãi chưa cho, phải chăng Người có tham vọng sẽ ban chính mình Người cho chúng ta?

 
Về mục lục


 

19. Dân chúng và linh mục cùng nhau cầu nguyện

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ – Charles E. Miller)

Thật là dễ dàng để bứt đứt một sợi chỉ nhưng khi đặt một ngàn sợi chỉ cùng với nhau trong một sợi dây bện thì thật khó mà cắt chúng ra làm hai. Cầu nguyện thì cũng giống như thế. Khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện, đặc biệt là trong khi cử hành phụng vụ, lời cầu nguyện của chúng ta có một sức mạnh vô song. Thiên Chúa rất hài lòng với lời cầu nguyện này. Khi chúng ta cùng nhau cầu nguyện, Thiên Chúa là Cha của chúng ta sẵn sàng đoái nhìn chúng ta trong Con yêu dấu của Người, là Đầu của Thân Thể, Giáo Hội của Người. Lời cầu nguyện cùng nhau trong phụng vụ như là thân mình của Đức Kitô, là lời cầu nguyện tốt đẹp nhất.

Bài đọc đầu tiên của ngày hôm nay biểu hiện được lời cầu nguyện phụng vụ chung này, Môsê cần sức mạnh để tiếp tục cầu nguyện trong cuộc chiến đấu với người Amalếch. Bao lâu Môsê đưa hai tay lên cầu nguyện thì dân Israel chiến thắng, nhưng khi ông buông tay xuống thì người Amalếch lại phản hồi và chiến thắng. Tiếp đó, Aaron, người anh em của Môsê và Hur bạn của ông đã giúp ông giữ cánh tay luôn luôn ở trong tư thế cầu nguyện, bởi đó dân Israel đã chiến thắng cuộc chiến.

Môsê và đôi tay giơ lên trong tư thế cầu nguyện thì giống như linh mục ngày hôm nay với đôi tay dâng lên cầu nguyện trong phụng vụ của Thánh Lễ. Linh mục sẽ không còn mệt mỏi như Môsê đã mệt mỏi xưa kia vì mọi người trong Thánh Lễ đã cùng hiệp lòng, cùng nâng bàn tay và cánh tay của linh mục. Giáo dân và linh mục đã cùng cầu nguyện với nhau. Linh mục sẽ không cầu nguyện cho chính ngài, ngài là vị lãnh đạo, là chủ tịch, là người thay thế và đại diện cho giáo dân, cho toàn dân. Đó là thời gian mà linh mục và giáo dân nói hoặc hát cùng với nhau như trong kinh Vinh danh hoặc trong những lời tuyên xưng. Tiếp đó giáo dân đáp lại những lời cầu nguyện mà vị linh mục đã xướng trên mọi người. Giáo dân lắng nghe cách chăm chú và cầu nguyện trong tâm hồn họ, đặc biệt là trong suốt kinh nguyện Thánh Thể.

Tư tế linh mục là dấu hiệu hợp nhất của phụng vụ, điều đó được tỏ hiện qua lời cầu nguyện dâng lên Thiên Chúa như là một dân duy nhất. Tất cả chúng ta như hằng ngàn sợi chỉ đã hình thành trong một sợi dây thừng. Không chỉ vị linh mục nơi Thánh Lễ, nhưng là mọi người đều cần thiết và xứng đáng để nâng đỡ những người bạn Công giáo, đặc biệt là sự trung thành trong lời cầu nguyện khi chúng ta cảm thấy Thiên Chúa không đáp lời chúng ta. Chúng ta tin rằng sự giúp đỡ của chúng ta đến từ Thiên Chúa nhưng có lúc khó mà hành động theo như niềm tin của chúng ta.

Chúa Giêsu hiểu sự yếu đuối của chúng ta. Đó là lý do vì dao Ngài đã nói với chúng ta về dụ ngôn sự cần thiết của cầu nguyện luôn luôn và đừng bao giờ mất hy vọng. Người góa phụ trong dụ ngôn là môt bằng chứng. Một bằng chứng về sự bền bỉ, bà đã bị từ chối, bị bỏ rơi. Chúa Giêsu đã không muốn chúng ta bỏ cuộc, không có vấn đề gì khó, hay mất bao lâu để chúng ta cầu nguyện cho một điều gì. Để chúng ta cùng nhau cầu nguyện trong suốt Thánh Lễ.

Chúng ta đến với Thánh Lễ với nhiều lý do, và có thể mọi người trong chúng ta đều được thúc đẩy bởi lý do riêng của mỗi người mà chúng ta cho là quan trọng nhưng trên hết chúng ta phải được cảnh báo để thực hành bài học của phụng vụ trong ngày hôm nay.

Là một người Công giáo, một thành phần của Giáo Hội, chúng ta có trách nhiệm hướng đến người khác. Aaron và Hur đã không bỏ rơi Môsê trong lúc ông mệt mỏi. Họ không nghĩ rằng Môsê cầu nguyện một mình hoặc họ phải chú ý tới những lời cầu nguyện riêng của họ. Thiên Chúa hài lòng với lời cầu nguyện đầy mạnh mẽ bởi vì chúng ta cầu nguyện với tất cả không phải như những cá nhân độc lập, nhưng là cùng nhau như những người Công giáo, những người của Giáo Hội được hợp nhất trong tinh thần và trong thân thể của Đức Kitô.

 
Về mục lục


 

20. Cầu nguyện tín thác và kiên trì

(Suy niệm của Lm Giacôbê Tạ Chúc)

Ai cũng biết mỗi một tôn giáo đều có cách thức cầu nguyện riêng, phù hợp với gíao lý của mình. Là người Công giáo, ai mà không biết hoặc đã từng được dạy về cầu nguyện. Hằng ngày trong các sinh hoạt Giáo xứ, Hội đoàn, các gia đình luôn có những giờ cầu nguyện. Thánh Vịnh 63 dạy:

Lạy Thiên Chúa, Ngài là Chúa con thờ,

ngay từ rạng đông con tìm kiếm Chúa.

Linh hồn con đã khát khao Ngài,

tấm thân này mòn mỏi đợi trông,

như mảnh đất hoang khô cằn, không giọt nước.

Nên con đến ngắm nhìn Ngài trong nơi thánh điện,

để thấy uy lực và vinh quang của Ngài.

Bởi ân tình Ngài quý hơn mạng sống,

miệng lưỡi này xin ca ngợi tán dương

Thi sỹ công giáo Hàn Mặc Tử với những vần thơ trong nỗi đau về thể xác cũng đã thốt lên:

Trăng! Trăng! Trăng! Là trăng, trăng, trăng!

Trăng sáng trăng sáng khắp mọi nơi

Tôi đang cầu nguyện cho trăng tôi

Tôi lần cho trăng một tràng chuỗi

Trăng mới là trăng của rạng ngời

(Trăng vàng trăng ngọc – Hàn Mặc Tử)

Lời cầu nguyện của kẻ thấp hèn

Hình ảnh người đàn bà góa là biểu tượng cho những con người cô thân cô thế, những người mà kinh thánh hay nhắc tới như là: “những người nghèo của Gia-vê”, lời cầu khẩn của bà đã bị viên Quan Tòa bỏ ngoài tai. Bà thấp cổ bé họng, kêu đâu cũng chẳng thấu. Bà làm tất cả và với một lòng kiên trì, không ngã lòng trông cậy. Vị Thẩm phán lẽ ra với nhiệm vụ của mình, ông phải lắng nghe và giúp đỡ cho bà góa này. Viên Thẩm phán quá sức bất công khi ông chẳng kính sợ Thiên, cũng không xem ai ra gì.

Thế nhưng: “nước chảy đá mòn”, bà góa nghèo thay vì bỏ cuộc thì lại đeo bám cho đến cùng. Bà không nản chí, không kiêu căng tự phụ trước thái độ lạnh lùng của vị Thẩm phán bất công. Cuối cùng bà đã được toại nguyện, viên Quan tòa bất chính buộc phải xử kiện cho bà, hay nhận lời kêu xin của bà.

Thiên Chúa trung thành với lời Người đã hứa

Với Kinh Lạy Cha, Chúa Giê-su dạy các môn đệ cầu nguyện, nhưng phải kiên trì và tín thác. Không phải một sớm một chiều, cũng không theo ý muốn của ta. Vị Quan tòa không ngay thẳng rõ ràng không mến yêu Thiên Chúa, cũng không yêu thương gì anh em đồng loại. Động lực thúc đẩy ông ra tay giúp đỡ chính là vì bà này cứ đến quấy rầy mãi. Ông giải quyết cho bà bởi vì bà cứ tới mãi và đã làm ông chấp nhận dù là cực chẳng đã. Nếu hình ảnh vị Quan tòa này để chỉ về Thiên Chúa, thì phải hiểu sao cho khỏi bị méo mó. Con người của vị Thẩm phán không có chi là tốt đẹp, bất chính, không sợ Thiên Chúa cũng không tôn trọng ai, rõ ràng ông ta xấu xa vô cùng. Thế mà, ông đã phải nghe lời van xin của một người đàn bà góa tầm thường trong xã hội Chúa Giê-su. Từ đó, mỗi người mới có thể hiểu hình ảnh của một Thiên cao cả, quyền năng, tình thương biết là dường nào. Ngài tốt lành vô cùng, Đấng thấu suốt mọi nơi bí ẩn sẽ trả công và nhậm lời những ai thành khẩn van xin Ngài. Một lối ẩn dụ quá mạo hiểm để qua đó cho thấy Thiên Chúa sẵn sàng và trả lời cho những ai dẻo dai trong vóc sức, nổ lực trong niềm tin, và tín thác trong sự quan phòng của Ngài, sẽ được Ngài nhậm lời.

Tấm gương về sự kiên trì cầu nguyện

Như Môsê quì giang tay suốt ngày cầu nguyện cho dân Do thái thắng trận, như bà goá suốt bao ngày tháng cầu xin quan toà minh xét cho bà, như thánh Mônica ròng rã 20 năm trường cầu nguyện cho người con là Augúttinô trở lại, chúng ta hãy cầu nguyện liên tục và bền chí, không hề nhàm chán, cả khi xem ra Chúa ngoảnh mặt làm ngơ.

Lạy Chúa xin cho con biết cầu nguyện trong tin tưởng để luôn một dạ sắt son, vâng theo thánh ý Chúa cho tới trọn đời. Amen.


 

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...