21/03/2024
420

CHÚA NHẬT LỄ LÁ – Năm B

Lời Chúa: Mc 11, 1-10; Is 50, 4-7; Pl 2, 6-11; Mc 14,1 – 15,47
------------------------------

Mục lục

  1. Ông này là Con Thiên Chúa (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

  2. Gương Khiêm Nhường(Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB)
  3. Sự thương khó Đức Giêsu (Lm. Thái Nguyên)

  4. Dáng đứng của tình yêu (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

  5. Tình yêu là minh chứng (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

  6. Ca vang Hosanna  (Lm. Vũ Đình Tường)

  7. Suy niệm Tin mừng Chúa Nhật Lễ Lá_B  (Jorathe Nắng Tím)

  8. Con đường thập giá (Lm. Đaminh Trần Quang Hiền)

  9. Cõi khổ  (Trầm Thiên Thu)

  10. Tự tin tiến bước (Lm.Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)

  11. Người chết vì yêu (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

  12. Thông hiệp cuộc tử nạn của Đức Kitô (Lm. Xuân Hy Vọng)

  13. Sống vì yêu, chết cũng vì yêu (Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương)

  14. Vua vinh quang: Chịu đau khổ trên thập giá  (Lm. Ngọc Dũng, SDB)

  15. Lạy Thiên Chúa của con, Sao Ngài bỏ rơi con?  (Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa)

ÔNG NÀY LÀ CON THIÊN CHÚA

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Phụng vụ khai mạc Tuần Thánh bằng trình thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, mà chúng ta quen gọi là “Bài Thương Khó”. Bằng những góc nhìn và điểm nhấn khác nhau, tất cả bốn tác giả Tin Mừng đều kể lại cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Bài Thương Khó trích Tin Mừng Thánh Máccô được đề nghị cho năm Phụng vụ B. Tác giả dẫn chúng ta đi theo Chúa Giêsu từ làng Bêtania, nơi có gia đình thân thiết với Người. Chúng ta cùng với Chúa Giêsu trải qua những sự kiện quan trọng: bữa tiệc Vượt Qua (cũng gọi là bữa tối cuối cùng), sự phản bội của Giuđa, việc thiết lập Bí tích Thánh Thể, việc Chúa cầu nguyện trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu bị bắt, cuộc đối chất và xét xử và lên án tử cho Người bởi Công nghị Do Thái, sự phản bội của Phêrô, cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và Philatô, chặng đường thập giá và cuộc khổ nạn của Người. Lời tuyên xưng “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa” ở phần cuối của trình thuật, như một đáp số cho mọi vấn nạn đặt ra về một Con người bị treo và chết trên thập giá.

Những gì được liệt kê trên đây giống như một cuốn phim quay nhanh, giúp chúng ta có một cái nhìn tổng quát về cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, đồng thời rút ra những bài học quan trọng và hữu ích cho đời sống Đức tin. Hãy cùng chiêm ngắm chân dung Chúa Giêsu được diễn tả trong Bài Thương khó:

Cuộc thương khó của Chúa là cuộc thương khó vì tình yêu. Chúa Giêsu đã trung thành cho đến chết, trung thành với tình yêu vô biên của Chúa Cha. Người cũng trung thành với tình yêu vô biên đối với nhân loại.

Chúa Giêsu đã chấp nhận cuộc thương khó này một cách hoàn toàn tự nguyện.  Người đã bẻ gẫy quyền lực của sự chết trong con người, tức là quyền lực tội lỗi. Tội lỗi đã khiến một số luật sĩ và Biệt phái hận thù và kích động bạo lực nơi dân chúng. Tội lỗi cũng khiến Philatô và đám đông hằn học ùa theo những lời vu khống. Tội lỗi cũng khiến cho các môn đệ sợ hãi chạy trốn và cuối cùng, tội lỗi khiến cho Phêrô chối Thày mình mà không hề ngượng ngùng.

Đối diện với cơn sóng tội lỗi và bạo lực hung dữ, Chúa Giêsu vẫn thể hiện một tình yêu cho đến cùng. Người vẫn nhìn con người với cái nhìn yêu thương, ngay cả khi bị đóng đinh trên thập giá. Đó là cái nhìn mời gọi tình yêu và sống cho tình yêu.

Đương nhiên, khi thấy bạo lực và sự chết, Chúa Giêsu đã run sợ, vì Người là Thiên Chúa nhưng cũng là con người. Trên thập giá, Người đã cảm thấy cô đơn và dường như bị Chúa Cha bỏ rơi. Tuy vậy, vượt trên tất cả, đó là lòng trung thành của Người. Người đã chấp nhận cuộc thương khó, như Người đã chấp nhận hạ mình mang lấy thân phận nô lệ phàm nhân. Sự chết của Người là sự chết tự trao ban, cũng như sự sống của Người đã hiến dâng trọn vẹn cho sứ mạng được Chúa Cha trao phó. Cây thập giá là dụng cụ để thi hành cuộc thương khó, đã trở thành dấu chỉ để nhận ra môn đệ của Người. Cây thập giá cũng là điểm quy tụ muôn dân, để cùng quy hướng về Đấng Cứu độ: “Một khi được giương cao lên khỏi mặt đất, tôi sẽ kéo mọi người lên với tôi” (Ga 12,32).

Màu áo đỏ của Phụng vụ lễ Lá nhắc lại cho chúng ta sự sỉ nhục của đám quân lính Rôma. Sự sỉ nhục này, lạ thay, lại mang tính tiên tri. Bởi lẽ vào lúc Chúa chịu thương khó, Đấng sẽ bị đóng đinh trên thập giá được phủ bằng áo khoác đỏ. Màu đỏ là sắc màu y phục của vua chúa. Chiếc áo này khẳng định với chúng ta: Chúa Giêsu là Vua và ngai toà của Người chính là cây thập giá.

Vị vua cao cả đã hiến thân làm người nô lệ. Vị Vua Giêsu đã tự huỷ mình ra không, như Thánh Phaolô nói với chúng ta trong Bài đọc II. Vị Vua này không giống như các vua chúa trần gian. Đó là Vị Vua yêu thương nhân loại. Người muốn cho con người được hiện hữu và được hạnh phúc. Đó cũng là Vị Vua đến trần gian để bẻ tan xiềng xích, kêu gọi con người xoá bỏ hận thù và bạo lực do tội gây nên.

Thánh Máccô đã kể với chúng ta, viên đại đội trưởng đứng đối diện với Đức Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy, liền nói: “Quả thật, ông này là Con Thiên Chúa“. Viên đại đội trưởng là một quân nhân Rôma, tức là người ngoại đối với người Do Thái. Ông cũng là người tham gia thi hành án tử trong vụ Chúa Giêsu. Lúc Người còn sống thì ông lại không tin Người, nhưng chính lúc Người tắt thở thì ông lại nhận ra Người là Con Thiên Chúa. Cái chết thánh thiện và tự nguyện của Chúa Giêsu chính là một bằng chứng hùng hồn cho thân thế và sự nghiệp của Người.

Hôm nay và những ngày sắp tới của Tuần Thánh, chúng ta suy tư cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu Kitô. Khi chiêm ngắm Chúa Giêsu trên thập giá, chúng ta hãy tuyên xưng Người là Con Thiên Chúa, là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cũng cầu nguyện cho thế giới hôm nay nhận ra nơi Đấng chịu đóng đinh tình yêu vô bờ bến của Thiên Chúa đối với nhân loại. Xin cho thế giới mở rộng tấm lòng để đón nhận Chúa Giêsu. Một khi đón tiếp Người, cuộc sống sẽ có ý nghĩa, gia đình sẽ hạnh phúc, lương tâm sẽ thanh thản và thế giới sẽ bình an.

Về mục lục

GƯƠNG KHIÊM NHƯỜNG

Emmanuel Nguyễn Thanh Hiền, OSB

Qua Lời Tổng Nguyện của Chúa Nhật Lễ Lá, năm B này, các nhà phụng vụ muốn chúng ta ý thức rằng: Chúa đã muốn cho Đấng Cứu Thế mang thân phận người phàm và chịu khổ hình thập giá, để nêu gương khiêm nhường cho thiên hạ noi theo. Xin Chúa cho chúng ta biết đón nhận bài học Người để lại trong Cuộc Thương Khó, và thông phần Vinh Quang Phục Sinh với Người.

Đức Giêsu là mẫu gương khiêm nhường thực thi thánh ý Chúa Cha, như trong bài đọc một của giờ Kinh Sách, thư gửi tín hữu Hípri đã tường thuật lại: Đức Kitô nói: Hy lễ và hiến tế, lễ toàn thiêu và lễ xá tội, Chúa đã chẳng ưa, chẳng thích, mà đó chính là những thứ của lễ được dâng tiến theo Lề Luật truyền. Rồi Người nói: Này con đây, con đến để thực thi ý Ngài. Thế là Người bãi bỏ các lễ tế cũ mà thiết lập lễ tế mới.

Đức Giêsu đã trở nên hiền lành và khiêm nhường, để nâng chúng ta lên, như trong bài đọc hai của giờ Kinh Sách, thánh Anrê Cơrêta đã nói: Người là Đấng hiền lành, đã vượt lên trên phía mặt trời lặn, tức là lên trên thân phận yếu hèn của chúng ta. Người vui mừng vì trước kia đã tỏ cho chúng ta thấy Người hiền lành như thế, nên đã tới chung sống với chúng ta, để nhờ dây thân thích với chúng ta, Người nâng chúng ta lên và đưa chúng ta đến với Người.

 Đức Giêsu là Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã khiêm nhường chấp nhận tất cả, như trong bài đọc một của Thánh Lễ, ngôn sứ Isaia cho thấy: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Trong bài đọc hai của Thánh Lễ, thánh Phaolô cũng đã cho thấy Đức Giêsu đã đi đến cùng của mầu nhiệm tự hủy: Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu.

Người Tôi Trung của Thiên Chúa đã khiêm nhường chấp nhận mọi sỉ nhục, khinh chê, như trong bài Đáp Ca, Thánh Vịnh 21, vịnh gia đã cho thấy: Lạy Chúa con thờ, muôn lạy Chúa, Ngài nỡ lòng ruồng bỏ con sao? Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi. Thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: “Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” Câu Tung Hô Tin Mừng, mà các nhà phụng vụ đã chọn cho ngày lễ hôm nay cũng cho thấy sự tự khiêm tự hạ của Người: Vì chúng ta, Đức Kitô đã tự hạ, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự. Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu.

Trong bài Tin Mừng, thánh Máccô tường thuật lại Cuộc Thương Khó của Đức Kitô. Quyết định của Chúa, ai dò cho thấu. Đường lối của Người, ai theo dõi được. Tại sao Chúa lại chọn cách thức khiêm nhường, tự hủy, để biểu tả tình yêu của Người? Đây là một mầu nhiệm. Đức Giêsu ngồi trên lưng lừa để vào thành thánh Giêrusalem. “Ngựa” được dùng để chiến đấu ngoài sa trường, biểu tượng cho sự mạnh mẽ, oai hùng, còn “lừa” được dùng để chỉ sự khiêm nhường, ôn nhu. Đức Giêsu đích thực là vị Vua Hòa Bình, mang bình an đến cho nhân loại. Noi gương Đức Giêsu hiền lành và khiêm nhường trong lòng, chúng ta hãy lấy hết lòng khiêm nhường, trí khiêm hạ, và hoàn toàn khoét rỗng chính mình, để dọn đường: đón Đức Giêsu đi vào tận sâu thẳm tâm hồn chúng ta. Ước gì chúng ta biết cởi bỏ những chiếc áo, đính đầy những quyến luyến lệch lạc của thú vui trần thế, để mặc lấy Đức Kitô, Đấng đã chấp nhận bị lột trần trụi trên thập giá, để che đậy sự tủi hổ mà tội lỗi đã mang lại cho chúng ta. Ước gì được như thế!

Về mục lục

SỰ THƯƠNG KHÓ ĐỨC GIÊSU

Lm. Thái Nguyên

Suy niệm

Hôm nay, cùng với toàn thể Giáo hội, chúng ta cử hành biến cố Đức Giêsu khải hoàn vào thành Giêrusalem với tư cách là Đấng Mêsia, đồng thời với tư thế sẵn sàng chịu đau khổ và chịu chết vì chúng ta.

Theo lời Thiên Chúa hứa, dân Israel từng ngày mong chờ hoàng tử nhà Đavít đến giải thoát họ khỏi ách đô hộ của đế quốc. Khi Chúa tiến vào thành thánh, dân chúng đã nhiệt liệt tung hô: các môn đệ “lấy áo choàng của mình trải lên lưng lừa”, dân chúng thì “chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước kẻ theo sau reo hò vang dậy”. Đối với họ, ngày giải phóng đã đến, vị anh hùng đã xuất hiện.

Thế nhưng Đức Giêsu vào thành không phải với phong thái của vị tướng oai phong hiển hách ngồi trên lưng chiến mã, nhưng lại ngồi trên lưng lừa, là hình ảnh của một vị vua hòa bình, hiền từ và khiêm nhường. Đây là hình ảnh đã được tiên báo bởi ngôn sứ Dacaria: “Hỡi thiếu nữ Giêrusalem, hãy vui sướng reo hò! Vì kìa Đức Vua của ngươi đang đến với ngươi: Người là Đấng Chính Trực, Đấng Toàn Thắng, khiêm tốn ngồi trên lưng lừa…” (9, 9-10).

Vua Giêsu ngồi trên lưng lừa diễn tả một vị vua hoàn toàn khác, và cũng không mang ý nghĩa giải phóng theo kiểu người Do Thái chờ mong. Ở đây, hình ảnh ‘thủ lãnh cưỡi lừa’ đúng là thích hợp với câu tung hô “Hôsanna!” theo nghĩa ‘hãy cứu chúng tôi!’. ‘Cứu chúng tôi’ không phải bằng quyền lực thống trị như bất kỳ lãnh tụ nào khác, nhưng “cứu chúng tôi cho khỏi mọi sự dữ”, bằng lòng từ bi và thương xót của “Đức Vua đang đến… hiền hậu ngồi trên lưng lừa”. Thật vậy, đối với Chúa Giêsu, mục đích tối hậu của hành trình lên Giêrusalem là “thánh giá”, nghĩa là trao ban chính bản thân mình cho nhân loại, “yêu mến cho đến tận cùng” (Ga 13,1). Cuộc đời tràn ngập đau khổ nên Phật giáo coi “Đời là bể khổ”. Nhiều người đã tìm nhiều cách để tránh khổ và diệt khổ. Nhưng Đức Giêsu không tránh khổ, cũng không diệt khổ. Ngài “vác” lấy đau khổ (thập giá), và Ngài dạy môn đệ mình: “Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình mà theo”.

Phụng vụ Lễ Lá được tiếp nối bằng việc công bố bài thương khó, cho ta thấy rõ hơn chân dung của vị vua hòa bình, cũng là người tôi tớ đau khổ của Thiên Chúa, vì Ngài đến thế gian là để thi hành ý muốn của Chúa Cha (x. Dt 10,9), để cứu độ nhân loại. Nhưng rồi Ngài cảm thấy chính Cha dường như cũng vắng bóng: “Lạy Thiên Chúa tôi, tại sao Ngài bỏ tôi?”. Ðức Giêsu không chỉ đã đi đến tột cùng của nỗi cô đơn, mà còn bị hành hình một cách ô nhục, tan nát cả tấm thân: đầu bị quấn mão gai nhọn để làm ông vua hề; khuôn mặt thánh thiện bị tát tai và khạc nhổ; tấm thân ngời sáng bị phơi ra cho những trận roi cầy nát; đôi bàn tay thi ân giáng phúc bị co quắp dưới những mũi đinh đóng chặt; đôi bàn chân đi rao giảng Tin Mừng cũng bị đóng cứng; Đấng trong sạch vô ngần bị lột áo quần phơi mình trần ra nhục nhã. Không còn gì hãi hùng hơn mà một con người có thể chịu. Cuộc thương khó của Chúa vẫn kéo dài đến tận thế vì con người và cho con người.

Cái chết của Chúa Giêsu trên Thập giá là một bày tỏ về tội lỗi của loài người chúng ta. Mãi mãi Thập giá là biểu trưng của sự độc ác của con người, là đỉnh cao của trí tuệ con người trong việc sáng chế ra những phương thế hành hạ và loại trừ nhau, là bản án của tội lỗi nhân loại trải qua mọi thời đại. Nhưng Thập giá không chỉ là một mạc khải về tội lỗi con người, mà còn là mặt trái của ánh sáng tình yêu: một tình yêu kiên trung và tha thứ cho đến cùng.

Cùng với Mẹ Maria đứng dưới chân Thập giá, ta hãy để tâm hồn mình hòa nhập vào những nỗi thống thiết của Chúa Giêsu. Hãy cảm nhận cái nhìn tràn đầy yêu thương và trìu mến của Chúa trên cuộc đời mỗi người chúng ta. Nhờ đó, ta biết tận dụng mọi khổ đau để thông phần với Chúa mà cải hóa đời mình trong tiến trình hoàn thiện.

Cầu nguyện

Lạy Chúa! Chúa đã cho con biết,
nguyên nhân của sự dữ bởi loài người,
khi dùng tự do để phạm tội,
ngược lại đường lối của tình yêu.

Vì tội lỗi mà có đau khổ và sự chết,
như hậu quả của vòng vây nghiệp chướng,
khiến cuộc đời mang nặng những sầu thương,
và do đó đánh mất cả thiên đường.

Sự dữ có mặt ở mọi nơi mọi thời,
hiện hữu dưới mọi hình thức gọi mời,
luôn khơi dậy từ ham muốn của lòng người,
tàng ẩn ngay trong những thứ đẹp tươi.

Sự dữ khiến nhiều người đặt câu hỏi:
Nếu Thiên Chúa toàn năng,
sự dữ sao lại có?
Nếu Thiên Chúa là tình yêu,
sự toàn năng của Người có hay không?

Chúa Giêsu đã trả lời trên thập giá:
quyền năng của Thiên Chúa là tình yêu,
khi trao hiến Con Mình cho nhân loại.
để đền thay sự bại hoại của gian trần,

Sự dữ hay tội lỗi cũng chính là thách đố,
đều có chỗ trong chương trình tạo dựng,
để con người có cơ hội mà minh chứng,
lòng thành tin hay bất tín của mình.

Xin cho con sức mạnh lòng yêu mến,
để dẹp tan những bóng tối tội đời,
những ích kỷ kiêu căng và gian dối…
để tim con từ đây được biến đổi,
trọn cuộc đời để phụng sự Chúa thôi. Amen.

Về mục lục

DÁNG ĐỨNG CỦA TÌNH YÊU

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài là người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Ngài đón nhận Thập giá tủi nhục thất bại, và đã biến đổi Thập giá thành nguồn ơn cứu độ, tình thương tha thứ cho nhân loại tội lỗi.

Phụng vụ bước vào Tuần Thánh với khởi đầu là Chúa nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Thương khó, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó.Việc cử hành hôm nay mang hai sắc thái có vẻ nghịch nhau : mới mừng cuộc khải hoàn của Chúa Kitô, rồi lại cảm thông nỗi thống khổ của Người. Phụng vụ hôm nay kết hợp hai khoảnh khắc trái ngược nhau; cuộc chào đón Đức Giêsu vào Giêrusalem và thảm kịch Thương khó; lễ hội “Hosanna” và những tiếng la ó lặp đi lặp lại “Đóng đinh nó vào thập giá!”; cuộc khải hoàn và sự thất bại bề ngoài qua cái chết trên thập giá.

Bài Thương khó kể lại từng chặng đường đau thương của Đấng Cứu Thế. Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Thầy. Giuđa chỉ điểm bắt Thầy bằng một nụ hôn giả dối. Các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Thầy. Chúa Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Họ khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào da thịt. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để rồi thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thơ, mau kiệt sức và chóng chết. Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài mà nói:  Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền!.  Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Ngài như thế.

Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).

Cuộc khải hoàn rước lá của Chúa Giêsu là một dấu chỉ của chiến thắng vinh quang chung cuộc. Việc kiệu lá cho thấy rõ ý nghĩa đích thực của đau khổ và thập giá. Tương tự trong sự kiện “biến hình” trên núi Tabo: Chúa Giêsu cho ba tông đồ thoáng thấy vinh quang thần tính. Khi xuống núi, Ngài ra lệnh cho ba tông đồ phải bảo mật cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết, nghĩa là cho đến khi ý nghĩa của biến cố được tỏ bày. Cũng chính ba tông đồ thân tín chứng kiến cơn hấp hối của Chúa ở vườn Cây Dầu. Sau Phục sinh, Chúa Kitô cũng giải thích cho hai môn đệ trên đường Emmau: “Đức Kitô không phải chịu đau khổ như thế rồi mới vào vinh quang của Người sao ?” (Lc 24,26).

Như vậy ngay từ Lễ Lá, hai sắc thái, hai cục diện của mầu nhiệm Vượt Qua được trình bày rõ ràng. Lễ Lá trình bày hai cục diện theo thứ tự đảo ngược : vinh quang trước, khổ nạn sau. Nhưng thứ tự đó biểu lộ thực chất của mầu nhiệm Vượt Qua. Mầu nhiệm Vượt qua cơ bản là một mầu nhiệm đạt tới vinh quang và sự sống. Sự chết chỉ là bước đi qua, là phương tiện để đạt tới mục đích là vinh quang Phục Sinh. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Chúa Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Chúa Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng.

Trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền. Tình yêu ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh.

Bước vào Tuần Thánh, chúng ta cùng theo Chúa Giêsu trên con đường Thập giá.

Theo Chúa không chỉ khi gặp may mắn, thành công, bình an mà còn chấp nhận khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại.

Theo Chúa không là con đường “xuôi chèo mát mái” hoàn toàn hạnh phúc an lành, mà còn là con đường chọn lựa quyết liệt với những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực thế gian.

Theo Chúa Giêsu là đi con đường thập giá vừa lên dốc, vừa nhiều ổ gà ổ voi và vừa là con đường một chiều. Con đường ấy hẹp chứ không thênh thang theo những trào lưu dễ dãi, giả dối, ích kỷ, hận thù, bạo lực… nên cần phải sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung.

Tuần Thánh, cùng đi vào hành trình thương khó của Chúa, chúng ta gặp thấy nhiều tình huống tăm tối của “nhân tình thế thái” như vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình Yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh đối với Chúa Cha và lòng xót thương với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Cảm nếm và thông phần với nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng vẫn luôn nhận ra lòng xót thương nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài theo Tin Mừng kể lại. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta càng yêu Thập giá của Chúa hơn, yêu thập giá của mình hơn và kính trọng thập giá của người khác hơn.

Theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là một thách đố lớn trong bối cảnh thời nay. Xác tín rằng, có Chúa cùng đồng hành, Ngài luôn thấu hiểu nâng đỡ, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên hành trình theo Ngài. Nếu can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

Về mục lục

TÌNH YÊU LÀ MINH CHỨNG

Bông hồng nhỏ

Chiều nay, Thầy Giêsu đang ở làng Bêtania. Làng quê nhỏ bé ấy là một làng quê bình yên và rất đỗi thân thương. Nơi đây là điểm dừng chân quen thuộc của Thầy Giêsu và các môn đệ sau những ngày rong ruổi rao giảng Tin Mừng đây đó.

Chiều dần buông. Nhà ông Simôn Cùi đã đầy thực khách. Khách khứa đã đông đủ quanh bàn tiệc. Thầy Giêsu ngồi dùng bữa với họ. Đang dùng bữa, có một người phụ nữ đến. Chị mang theo một bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất, đây là thứ dầu thơm đắt tiền. Sự xuất hiện bất ngờ của vị khách không mời mà đến đã khiến cho khách dự tiệc xôn xao và làm cho chủ nhà rơi vào tình thế khó xử. Bất chấp những ánh mắt nghi kị, không thân thiện của những người khác, chị vẫn bước đến bên Thầy Giêsu. Mọi ánh mắt đều đổ dồn về phía chị, ánh mắt của chị lại chỉ hướng về phía Thầy. Ánh mắt của Thầy khiến chị thêm vững dạ an tâm. Chị đến, quỳ gối bên Thầy, lấy ra bình bạch ngọc  đựng dầu thơm mà chị đã dành dụm tiền để mua. Chị đập vỡ bình, lấy dầu xức trên đầu Thầy. Mùi thơm tỏa ra tràn cả căn phòng. Có vài người lấy làm bực tức nói với nhau: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo”. Rồi họ gắt gỏng với chị (x. Mc 14, 3-5). Người ta muốn đuổi chị đi. Chị đâu phải là khách dự tiệc. Chị là người không được chào đón ở đây.

Trước thái độ bực tức, gắt gỏng của họ, Thầy đã lên tiếng bênh vực chị. Thầy biết, Thầy hiểu thấu tấm chân tình của chị. Đối với chị, Thầy có một chỗ đứng rất đặc biệt trong trái tim, Thầy là người rất quan trọng trong cuộc đời chị. Chắc chắn, chị đã cảm nhận được tình yêu và sự đón nhận mà Thầy Giêsu  đã dành cho mình. Chị không chỉ kính trọng Thầy mà chị còn yêu mến Thầy. Tình yêu chân thành của chị đã vượt thắng mọi nghi ngại và khó khăn. Thầy đã đến trong cuộc đời chị, Thầy đã đón nhận chị, đã yêu thương chị vô điều kiện. Ba trăm quan tiền quả là một số tiền lớn có thể giúp ích được cho những người nghèo khó. Hành động của chị có phải là một hành động quá phí phạm không? Có lẽ, đối với những khách dự tiệc, Thầy Giêsu chỉ là một người không mấy quan trọng trong cuộc đời của họ. Thầy chỉ là một con người bình thường như bao người khác. Họ trách móc chị chỉ vì thương người nghèo hay họ chỉ đang ghen tị với tâm hồn quảng đại của chị? Họ thương người nghèo thật tâm hay họ chỉ tiếc ba trăm quan tiền? Còn chị, chị chẳng nói với Thầy Giêsu câu gì nhưng Thầy đã đón nhận tấm chân tình của chị. Thầy để cho chị làm việc chị muốn. Thầy cũng hiểu thấu tâm địa của những người đã buông lời trách móc chị: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu!” (Mc 14, 6-8). Thầy biết họ chỉ cố ý sinh chuyện để gây lôi thôi, rắc rối cho người khác. Thầy biết có gì trong lòng họ. Thầy nhắc cho họ nhớ rằng, chẳng bao lâu nữa, họ sẽ không còn được thấy Thầy. Không còn được thấy Thầy, họ có đau lòng không? Thầy khẳng định chị đã làm cho mình một việc nghĩa. Tuyệt vời thay! Tình yêu của chị đã chiến thắng tất cả: một tấm lòng yêu Chúa chân thành.

Lạy Chúa! Cảm tạ Chúa đã yêu thương con và đón nhận con vô điều kiện. Xin cho con cũng biết mạnh dạn diễn tả lòng yêu mến Chúa bằng hành động, bằng những việc làm phục vụ anh chị em. Trước những khó khăn và thử thách trong cuộc đời, xin cho con luôn hướng nhìn lên Chúa, lắng nghe và thi hành điều Chúa muốn dành cho con. Xin thanh luyện ý hướng làm việc thiện trong con để tất cả những gì con làm đều xuất phát từ lòng yêu mến Chúa chân thành. Amen.

Về mục lục

CA VANG HOSANNA

Lm Vũđình Tường

Dân chúng vui mừng vang ca đón chào Đức Kitô, ngồi trên lưng lừa tiến vào thành thánh Jerusalem. Người ta mượn con lừa của người nông dân, trải áo vải trên đó cho Đức Kitô cưỡi lừa tiến đi. Hai bên đường, dân chúng người vỗ tay, kẻ bẻ vội cành lá bên đường hoan ca, đón chào. Trên đường đi có chỗ người ta còn rải cành lá tươi trên mặt đường cho Đức Kitô tiến bước. Đám đông ca vang tận trời xanh. Tiếng vang vọng đó vang xa mãi, xa mãi cho đến khi chúng biến mất vào không trung. Danh vọng trần gian là thế đó, chúng đến rất mau, ra đi rất lẹ. Đến ồn ào, náo nhiệt. Đi âm thầm, lặng lẽ, từ từ biến mất. Đức Kitô vào thành thánh trong vinh quang. Vinh quang đó dài không quá vài giờ. Sau đó là cuộc thương khó kéo dài vài ba ngày.

Người phản bội lại là người thân cận càng làm cho sự việc trở nên tồi tệ hơn. Juda Iscariot là một trong số mười hai đệ Đức Kitô tuyển chọn. Juda ngầm cấu kết với nhóm Thượng Tế đền thờ phản bội Đức Kitô. Ông đồng í chỉ điểm cho họ bắt Đức Kitô. Để trả công, nhóm Thượng Tế chi cho ông ba chục đồng bạc. Ngay sau đó nhóm Thượng Tế cấu kết với Kinh Sư và Kì Mục tìm cách thực hiện cho bằng được í tưởng triệt tiêu Đức Kitô. Họ đồng í kết liễu cuộc đời Đức Kitô bằng bản án tử hình. Việc đưa ra toà xét xử cách chóng vánh, chỉ là hình thức trá hình, che mắt quần chúng. Nếu ai đó thắc mắc, họ có cách biện báo.

Điều gì dẫn đến việc Juda phản bội Đức Kitô đến nay vẫn còn là một bí ẩn. Bởi chỗ Juđa không thiếu tiền. Cần bất cứ điều gì Đức Kitô đều cung cấp đầy đủ. Ông hiện đang giữ chức thủ quĩ cả nhóm, lúc nào cũng sẵn tiền đủng đỉnh. Juda quí mến Đức Kitô, nhưng có lẽ ông quí tiền hơn nên tìm cách bán Thầy.

Kẻ thù không chung bàn, chung tiệc. Điều này cho thấy Đức Kitô biết Juđa phản bội nhưng Ngài vẫn yêu mến Juđa, vẫn coi ông là một trong số các môn đệ, và vẫn mời ông ngồi chung bàn với Ngài. Trong bữa Tiệc Li, Đức Kitô cầm bánh, dâng lời tạ ơn rồi trao cho các môn đệ. Juđa cũng nhận phần bánh Đức Kitô trao. Đức Kitô loan báo tin buồn. Ngài cho biết trong số những kẻ ngồi chung bàn có kẻ phản bội Ngài.

Các tông đồ lần lượt lên tiếng ‘Chắc chắn không phải là con’ Mk 13,20. Đến lượt Juđa, ông cũng lên tiếng như thế. Đức Kitô biết Juđa nói dối, nhưng Ngài không chất vấn. Cho đến giờ này, ngoài Đức Kitô ra, không môn đệ nào biết việc Juđa rấp tâm thực hiện.

Sau khi nhận bánh từ tay Đức Kitô, ông ăn bánh; liền sau đó ra đi lẩn mình trong bóng tối. Các môn đệ khác nghĩ, Juđa ra đi vì ông cần mua thêm gì đó chuẩn bị cho ngày lễ Vượt Qua. Các ông đã sai lầm. Juđa ra đi không phải để mua mà để bán. Ông ra đi bán Thầy, bán tình thương Thầy dành cho. Ông bán tình nghĩa giữa các môn đệ, bán lòng Thầy tin ông. Bán tình thân hữu. Một khi Juđa đồng í bán Đức Kitô, nhóm Thượng Tế chắc chắn không để cho Juđa đổi í. Sự việc đến lúc này coi như ngoài tầm kiểm soát của Juđa. Juđa không có khả năng thay đổi sự việc. Juđa nhắm mắt bước đi trong bóng tối.

Sau bữa Tiệc Li, các môn đệ theo Đức Kitô lên vườn Cây Dầu. Tại đây, Đức Kitô một mình cầu nguyện, còn các môn đệ khác, phần vừa say, vừa mệt đều thiếp đi. Đức Kitô trở lại lần thứ hai thấy các ông vẫn còn đang ngon giấc. Lần thứ ba, Ngài bảo các ông. Thức dậy đi. Giờ đã đến, Kẻ nộp Thầy đã xuất đầu, lộ diện. Các ông tỉnh cơn ngủ. Juđa đến ôm Đức Kitô hôn Người. Đức Kitô thân thiện, nhỏ nhẹ nói với ông:

Juđa, anh dùng cái hôn mà nộp Con Người sao? Lk 22,48.

Đến lúc này ngoài Đức Kitô ra không còn ai có thể cứu vãn tình thếu. Đức Kitô tạo cho Juđa cơ hội cuối để Juđa thống hối. Juđa bỏ lỡ cơ hội ngàn vàng đó. Khi phạm tội người ta bỏ ngàn vàng đổi lấy đồng bạc. Thiệt thòi thế mà nhiều người vẫn coi đó là hành động khôn ngoan. Tội làm cho người ta ra mù quáng. Tự cho cái khờ dại của mình là khôn. Juđa từ chối sự giúp đỡ của Đức Kitô và của các môn đệ khác.

Juđa nhận tiền. Ông rất vui. Niềm vui đó mau chóng tàn phai khi ông biết người ta sẽ giết Thầy ông, Đức Kitô. Ông hối hận, mang tiền trả lại nhóm Thuợng Tế. Họ không nhận, ông quăng tiền lại, tháo chạy. Tội sinh ra tội. Ông phạm tội khác lớn hơn tội cũ. Ông tin là tội ông không thể tha. Ông thật sai lầm. Tình Chúa cao hơn tội ông phạm. Tình Chúa mạnh hơn tội ông phạm. Thay vì quay về thống hối, ăn năn, ông tự kết liễu đời mình. Kết liễu cuộc đời đã không giải quyết được gì, còn làm cho vấn đề trở nên phức tạp hơn.

Sau khi đóng đanh Đức Kitô vào thập giá, nhóm Thượng Tế, Kinh Sư và Kì Mục mở tiệc mừng. Niềm vui vừa trọn ba ngày. Tin Đức Kitô sống lại từ cõi chết làm cho các ông giật nảy mình, mất ăn, mất ngủ cho đến khi các ông nhắm mắt lìa đời. Niềm vui trần thế chóng qua, mau tàn là thế.

Đức Kitô chịu đau khổ trong tay con người và sau ba ngày Ngài sống lại vinh quang. Ngày nay vẫn còn nhiều người không hiểu là Đức Kitô chọn cách chết đau thương trên thập tự để diễn tả tình thương cứu rỗi dành cho nhân loại. Ngài sống lại vinh quang, ban cho những ai tin vào Ngài nhiềm vui sống lại, tươi mát như cây lúa mới trổ sinh bông trái từ hạt lúa mì gieo vào lòng đất.

Về mục lục

SUY NIỆM TIN MỪNG CHÚA NHẬT LỄ LÁ_B

Jorathe Nắng Tím

Cùng Giáo Hội cầm lá trên tay đón mừng Đức Giêsu tiến vào thành thánh, chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta tâm hồn luôn sẵn sàng với Chúa: sẵn sàng trong mọi vị thế, sẵn sàng trong mọi tình trạng, sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh để bất cứ ở đâu và lúc nào, mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại cũng là niềm vui cứu độ của chúng ta.

Tin Mừng được công bố khi chủ tế làm phép lá và cùng cộng đoàn rước lá hoàn toàn trái ngược với nội dung của thư thánh Phaolô gửi giáo đoàn Philípphê và bài Thương Khó trong thánh lễ: một bên là quang cảnh dân chúng tự phát phấn khởi tung hô, hân hoan đón rước Đức Giêsu khi Ngài vào thành Giêrusalem, ở đó “nhiều người lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại chặt nhành chặt lá ngoài đồng mà rải. Người đi trước, kẻ theo sau, reo hò vang dậy : “Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Chúc tụng triều đại đang tới, triều đại vua Đavít, tổ phụ chúng ta. Hoan hô trên các tầng trời!”(Mc 11, 8-10); còn một bên là cảnh tượng Đức Giêsu chịu bắt bớ, tra khảo, hành hạ, bị kết án tử hình, vác thập giá đến nơi chịu đóng đinh, chết ô nhục trên thánh giá, và chôn trong mồ.

Hai hình ảnh đối nghịch của cùng một con người: hình ảnh Đấng Thiên Sai, với triều đại đang tới rất huy hoàng, vì là triều đại của vua Đavít, trung thần của Thiên Chúa Giavê, và tổ phụ Ítraen, bên cạnh là hình ảnh “tên phản quốc, kẻ phạm thượng, đứa phá rối trật tự xã hội”như những lời cáo buộc tàn nhẫn của các thượng tế, kỳ mục, kinh sư được đám đông nhao nhao nhất trí khi điên cuồng la lớn trước toà Philatô: “Đóng đinh nó vào thập giá”(Mc 15,13).

Hai tình trạng đối nghịch trên cùng một con người: tình trạng được mọi người thần tượng, trông đợi, ủng hộ, và tình trạng bị mọi người bủa vây, truy lùng, như lời thánh vịnh: “Quanh con bầy chó dữ đã bao chặt. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được ngắn dài, chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn”(Tv 21,17-19).

Hai vị thế hoàn toàn xa lạ ở cùng một con người: vị thế Con Thiên Chúa đến để cứu độ con người, Đấng minh quân đến giải phóng dân và vị thế tội đồ, người có tội, kẻ gây xáo trộn xã hội, và tôn giáo cần phải loại trừ, tiêu diệt.

Sở dĩ những người Do Thái hôm ấy đã “thay lòng đổi dạ ”qúa đột ngột với Đức Giêsu, vì họ không hề sẵn sàng đi theo Ngài. Vì không sẵn sàng đi theo, nên ở những khoảnh khắc nguy hiểm, bị đe dọa, họ đã đứng ra bên lề đường, và bỏ mặc Ngài độc hành tang thương. Bằng chứng là khi thấy những phép lạ Ngài làm, họ tung hô Ngài là vua, xưng tụng Ngài là Đấng Cứu Thế đến từ Thiên Chúa, nhưng vì không sẵn sàng đi theo Ngài đến cùng, nên khi bị mua chuộc, tuyên truyền hay bị dọa dẫm, nạt nộ, họ không ngần ngại quay lưng phản bội và giơ cao tay đả đảo Ngài.

Cũng vì không sẵn sàng đi theo Ngài, nên họ đã lầm tưởng về Ngài: họ lầm tưởng Ngài đến để làm theo ý họ, kiểu ý dân là ý trời (vox populi, vox Dei), mà không biết Ngài đến để làm theo ý Cha Ngài, mà ý Chúa Cha là Ngài từ bỏ “địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên như phàm nhân, sống như người trần thế… và hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8), để trở nên giá cứu chuộc muôn dân.

Không đi theo Ngài, họ đã lầm tưởng Ngài là nhà giải phóng chính trị sẽ đưa Ítraen là dân riêng của Giavê Thiên Chúa ra khỏi ách thống trị của đế quốc Rôma, và cứu họ khỏi cuộc sống thiếu thốn, cơ cực vì chính sách thuế má hà khắc của đế quốc và chính quyền tay sai tham nhũng, bóc lột, mà không biết sứ vụ của Ngài là thực thi thánh ý Thiên Chúa trong công trình cứu chuộc toàn thể nhân loại, một sứ vụ thiêng liêng bao trùm mọi dân tộc, mọi thời, mọi nơi, cho đến tận thế.

Thực vậy, không mấy người đã biết Đức Giêsu là ai, ngay các môn đệ của Ngài. Như Phêrô, nếu biết rõ thầy mình, ông đã không lên tiếng can ngăn Ngài đừng lên Giêrusalem để rơi vào tay các thượng tế, kinh sư, ở đó “họ sẽ lên án xử tử Người và sẽ nộp Ngưòi cho dân ngoại. Họ sẽ nhạo báng Người, khạc nhổ vào Người, họ sẽ đánh đòn và giết chết Người”(Mc 10,33-34). Cũng vì không biết rõ Đức Giêsu, nên nhiều người, kể cả các môn đệ, đặc biệt là Tôma, đã không tin Ngài sống lại từ cõi chết.

Cùng Giáo Hội cầm lá trên tay đón mừng Đức Giêsu tiến vào thành thánh, chúng ta xin Chúa ban cho chúng ta tâm hồn luôn sẵn sàng với Chúa: sẵn sàng trong mọi vị thế, sẵn sàng trong mọi tình trạng, sẵn sàng trong mọi hoàn cảnh để bất cứ ở đâu và lúc nào, mầu nhiệm Chúa chịu chết và sống lại cũng là niềm vui cứu độ của chúng ta.

Về mục lục

CON ĐƯỜNG THẬP GIÁ

Lm. Đaminh Trần Quang Hiền

Đối với các Tông Đồ, việc Đức Giêsu khải hoàn tiến vào Giêrusalem để khai mào vương quốc, vương quốc mà các ông hằng mơ tưởng, thế là mộng công hầu khanh tướng của các ông đã thành hiện thực.

Đối với Chúa Giêsu thì đàng sau cái vẻ thành công bên ngoài đó, Người đã nhìn thấy rõ tương lai, là việc Người bị chối bỏ, bị kết án. Hơn thế nữa, việc tiến vào Giêrusalem gợi nhớ đến ngày Người sẽ đến trong vinh quang, là ngày tất cả mọi người sẽ đi vào trong vương quốc Chúa Cha, ngày họ sẽ nhận Người là Vua đã đến cứu họ, và họ sẽ nhận Người làm Chúa của họ.

Nhưng cuộc rước lá còn nhắc nhở chúng ta về nghịch lý mà những người có mặt trong buổi Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem đã phạm phải. Họ cắt nghĩa sai sứ mệnh của Chúa Giêsu. Bởi tuy Người có tiến vào thành thánh như một vị vua nhưng là để khai trương Nước của Thiên Chúa Cha. Vị vua mà người Do Thái đón đợi là một Đavid mới, một vị vua làm cho họ được thống trị trên các dân tộc. Còn việc Đức Giêsu đến trần thế hoàn toàn khác với niềm mong chờ này của họ.

Cũng vì lẽ đó mà dân chúng đã thay lòng đổi dạ, họ tung hô Chúa Giêsu nhưng ít ngày sau đó chính họ lại quay lưng, kết án Ngài. Một Philatô hèn nhát, nhượng bộ đám dân náo loạn bỏ rơi Chúa Giêsu thay vì phải trả lại sự công chính cho Người. Ngay cả các tông đồ là những người thân cận với Chúa Giêsu cũng đã phản bội. Giuđa đã nộp Người bằng cái hôn thân tình. Phêrô chối Thầy 3 lần.

Chúa nhật Lễ Lá hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn lại chính bản thân mình. Tôi cũng có thể là một trong những môn đệ hay đám đông đang khước từ, kết án Chúa Giêsu trong cuộc sống của mình. Tôi cũng có thể là một Philatô vì không dám sống theo sự thật của Tin Mừng, đã bao lần tôi sống trong giả dối, chạy theo quyền lực, tiền bạc, xác thịt để khước từ Thiên Chúa, sợ theo Chúa đòi buộc tôi phải từ bỏ chính mình. Tôi cũng có thể là một Giuđa phản bội lại Thầy mình, một Phêrô chối Thầy, đánh mất giá trị của tình thầy trò, đánh mất giá trị của người môn đệ, làm rạn nứt mối tương quan mật thiết với Chúa Giêsu chỉ vì một chút lợi lộc của vật chất, tiền bạc, danh vọng. Với một lối sống theo chủ nghĩa hưởng thụ, duy vật chất tôi đã chối bỏ Thiên Chúa ra khỏi cuộc đời của mình. Thiên Chúa không còn là giá trị tuyệt đối, là ưu tiên trong cuộc sống của tôi nữa.

Bước vào Tuần Thánh và cao điểm là Tam Nhật Vượt Qua mời gọi mỗi người chúng ta nhìn lại thái độ sống là người Kitô hữu của mình, để chớ gì chúng ta biết can đảm sống theo những giá trị của Tin Mừng mà Chúa Giêsu mời gọi chúng ta bước đi, dám đặt Thiên Chúa lên trên những bậc thang giá trị trần thế khác.

Chuẩn bị bước vào Tuần Thánh, Giáo Hội mời gọi mỗi người kitô hữu hãy cùng bước theo Đức Giêsu trên con đường thập giá. Chúng ta không chỉ theo Chúa khi gặp may mắn, thành công, bình an nhưng dám chấp nhận theo Chúa ngay cả khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại. Bước theo Chúa không phải là con đường hoàn toàn bình an, hạnh phúc, mà là một con đường chọn lựa quyết liệt giữa những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực để đặt Thiên Chúa chính là giá trị tuyệt đối, là hạnh phúc viên mãn của mình.

Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là đi ngược dòng đời, ngược lại với những trào lưu chạy theo sự dễ dãi, thoải mái, sự giả dối, ích kỉ, hận thù, bạo lực… để dám sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung mà Tin Mừng của Chúa Giêsu mời gọi.

Đi theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá quả thật là một thách đố rất lớn trong bối cảnh ngày nay, nhưng chúng ta tin rằng chúng ta không đơn độc vì có Chúa cùng vác thập giá với chúng ta. Ngài luôn thấu hiểu, nâng đỡ, đồng hành với chúng ta, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên bước đường đi theo Ngài. Và nếu chúng ta can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, thì chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

Về mục lục

CÕI KHỔ

Trầm Thiên Thu

Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa

Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua

Đời là bể khổ. Chỗ nào cũng khổ, ngay ở những nơi mà người ta coi như “thiên đàng” thì cũng vẫn đầy nỗi khổ. Ai cũng khổ, đủ kiểu và đủ mức. Thánh Rosa Lima cho biết: “Thiếu gánh nặng đau khổ thì không thể đạt đến đỉnh cao ơn thánh. Những tặng phẩm ơn thánh gia tăng khi các cuộc giao chiến gia tăng.” Đau khổ có giá trị đặc biệt lắm. Văn hào Victor Hugo nói: “Đau khổ như hoa quả, Thiên Chúa không để nó phát triển trên những cành quá yếu ớt.” Nhận xét thật là độc đáo.

Đau khổ có giá trị, Thánh Madeleine Sophie Barat ví von: “Một thanh sắt được thành hình trên một cái đe và nhờ ngọn lửa thế nào, thì dưới sức nặng thử thách và trong ngọn lửa đau khổ, linh hồn chúng ta cũng sẽ thành hình đúng như Thiên Chúa muốn về nó như vậy.” Người ta nên khôn là nhờ đau khổ. Sướng quá hóa rồ dại mà thôi.

Khởi đầu Tuần Thánh là Lễ Lá. Những chiếc lá xanh biếc. Màu xanh tượng trưng niềm hy vọng. Hy vọng là khởi đầu ước mơ, hướng tới mục đích. Hy vọng rất cần cho cuộc sống. Có bốn hướng nhìn: Nhìn lại phía sau để rút kinh nghiệm, nhìn tới phía trước để thêm hy vọng, nhìn ra xung quanh để thấy thực tế, nhìn vào nội tâm để nhận diện chính mình.

Chỉ vài ngày trước lễ Vượt Qua, Chúa Giêsu cưỡi một con lừa nhỏ vào Thành Giêrusalem, có các môn đệ lội bộ theo sau. Dân chúng đông lắm, như Thánh Gioan cho biết: “Dân chúng lũ lượt tuôn đến mừng lễ. Thoạt nghe tin Đức Giêsu tới Giêrusalem, họ cầm nhành lá thiên tuế ra đón Người và reo hò: Hoan hô! Hoan hô! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Chúa! Chúc tụng vua Israel!” (Ga 12:12-13) Thật tuyệt vời!

Cuộc đời vui buồn lẫn vào nhau. Vui để rồi buồn. Buồn để rồi vui. Buồn càng nhiều, vui càng rộn rã. Tương tự, đau khổ để rồi hạnh phúc. Đau khổ càng nhiều, hạnh phúc càng lớn. Đó là hệ lụy tất yếu, và cũng là Thánh Ý Chúa, Thánh Ý mầu nhiệm.

Phần đầu của bài thứ ba trong số các Bài Ca Người Tôi Trung là trình thuật Is 50:4-7, đề cập đau khổ của Người Tôi Trung – Người Tôi Tớ Đau Khổ: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui. Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.” Các động thái đó không là miễn cưỡng, mà là tự nguyện – vì yêu thương và thương xót những sinh linh mà Người Tôi Trung quý mến. Họ là ai? Là chính mỗi tội nhân chúng ta. Thật lạ lùng!

Ai cũng sợ đau khổ, càng sợ hơn khi đau khổ quá lớn, đến tột cùng. Nhưng dù đau khổ tới đâu, Người Tôi Trung vẫn một lòng tín trung: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” Chẳng ai muốn sầu khổ, nhưng có nếm sầu khổ rồi mới biết thương những người “kém may mắn” hơn mình. Nếu chưa đau khổ, người ta không thể hình dung ra đau khổ. Chưa bị tù thì không thể cảm nhận khổ nhục nơi lao lý, và cũng khó hiểu được ý nghĩa của sự tự do đích thực.

Chắc hẳn chúng ta đã nhiều lần đọc hoặc nghe Phúc Âm tường thuật cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, nhưng có thể nói rằng vẫn có chút gì đó “chưa đủ” nếu chưa xem phim “The Passion of Christ” (Cuộc Khổ Nạn của Chúa Giêsu) của đạo diễn Công giáo Mel Gibson. [https://vimeo.com/413740746 – 180 phút] Quân lính đánh đập Chúa Giêsu rất dã man, khó có ai có thể tưởng tượng được như vậy. Mel Gibson có trí óc tinh tế, và ông cho diễn như thật. Đặc biệt, sau khi đóng vai Chúa Giêsu, diễn viên Jim Caviezel đã gia nhập Công giáo.

Đau khổ có tác dụng khác nhau, tùy mỗi người: “Cùng một đau khổ, nhưng nó minh chứng, thanh luyện và làm thuần thục những người lành; nhưng nó lại kết án, phế truất và loại bỏ những kẻ xấu.” (Thánh Augustinô) Khi gặp đau khổ, người kiêu ngạo thì nguyền rủa – nguyền rủa người khác, trách móc đất trời, thậm chí nguyền rủa chính mình, vùng vẫy như con giun bị đạp; còn người khiêm nhường thì chấp nhận, cảm thấy tủi thân, có trách thì chỉ tự trách mà thôi: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Buồn lắm, buồn phát khóc, buồn như chết được!

Tác giả John Piper giải thích rõ ràng trong cuốn “It Is Well with My Soul” thế này: “Đau khổ làm cho chúng ta SÁM HỐI, đau khổ làm cho chúng ta LỆ THUỘC vào Thiên Chúa, đau khổ làm cho chúng ta TUÂN THEO Đức Kitô, đau khổ chuẩn bị cho chúng ta TẬN HƯỞNG Thiên Chúa, đau khổ PHƠI BÀY TỘI LỖI của chúng ta.”

Không ai hiểu được đau khổ. Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí. Buồn này chưa qua, sầu khác đã tới. Nước mắt không chỉ mặn mà còn chua và cay. Cây muốn lặng mà gió chẳng ngừng. Dù cô đơn, lạc lõng, đau khổ vẫn đeo bám, cứ tiếp tục chồng lên nhau: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa!” (Tv 22:17-20)

Đức Giêsu Kitô đã phải chịu như vậy. Dù là Con Yêu Dấu của Thiên Chúa Cha, nhưng Ngài vẫn phải đau khổ đến tột cùng để làm trọn sứ vụ cứu độ chúng sinh. Chắc chắn không một phàm nhân nào phải chịu đau khổ như Ngài. Chính Ngài cũng phải chịu đựng theo nhân tính, khổ tinh thần và đau thể lý, chúng ta không thể tưởng tượng nổi. Ngay cả những người chịu đóng đinh trong lễ hội Cutud (Philippines) chỉ là một phần nhỏ so với Con Người Giêsu mà thôi, chưa thấm vào đâu, nhưng chúng ta cũng phải khâm phục sự chịu đựng của họ.

Mặc dù cô đơn, đau khổ, nhục nhã, nhưng Người Tôi Trung vẫn quyết một lòng vì Danh Chúa. Hình ảnh này đã và đang được thể hiện nơi các vị tử đạo. Một lần hứa là trọn trăm năm, trước sau như một, không gì có thể lay chuyển: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương.” (Tv 22:23)

Về sự tự nguyện của Người-Tôi-Trung-Đau-Khổ, Thánh Phaolô cho biết: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:6-8) Sự tự nguyện luôn cao cả, quý giá, đáng khâm phục, đáng noi gương. Bất cứ tình yêu nào cũng phải tiết ra chất hy sinh, nếu không thì không đáng gọi là tình yêu. Dám chết vì người khác là sự hy sinh cao nhất, vì Chúa Giêsu xác định: “Không có tình thương nào cao cả hơn tình thương của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình.” (Ga 15:13)

Thánh Phaolô giải thích và kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Đức Giêsu Kitô đã nêu gương để chúng ta noi theo, nhờ đó mà được vĩnh viễn ở với Ngài.

Chuỗi đau khổ bắt đầu từ khoảnh khắc hiển hách. Thật lạ lùng! Trình thuật Mc 14:1-15 (≈ Mt 26:1-5, 26:6-16; Lc 22:1-6; Ga 11:45-53, 12:1-8) như một thước phim sống động chứng tỏ điều đó: Hai ngày trước lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men, các thượng tế và kinh sư tìm cách dùng mưu bắt Đức Giêsu và giết đi, vì họ nói: “Đừng làm vào chính ngày lễ, kẻo dân chúng náo động.” Họ muốn giết Ngài trước ngày lễ, nhưng không thể, vì Chúa không muốn vậy. Loài người muốn không phải là Trời muốn: “Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên.”

Tại nhà ông Simon Cùi ở làng Bêtania. Khi Đức Giêsu dùng bữa, một phụ nữ đến với chiếc bình bạch ngọc đựng dầu thơm cam tùng nguyên chất, rất thơm và quý giá. Cô đập ra, đổ dầu thơm trên đầu Người. Chắc hẳn cô biết mình tội lỗi, nhưng cô không có ý “mua chuộc” hoặc “lấy lòng” Chúa Giêsu. Chắc hẳn cô tâm phục khẩu phục Con Người thánh thiện và cao cả này. Cô tin nên cô mới “ngồi lì” để xin Ngài thương xót. Cô có lý. Niềm hy vọng của cô rất rộng lớn và sâu thẳm. Thiện chí của cô đã được đáp đền.

Bạn bè của ông Simon Cùi biết rõ cô, thế nên có vài người tỏ vẻ bực tức: “Phí dầu thơm như thế để làm gì? Dầu đó có thể đem bán lấy trên ba trăm quan tiền mà bố thí cho người nghèo.” Ôi chao, ra cái điều nhân đức lắm. Bảo là thương người nghèo hay tiếc của? Họ hy vọng gì? Có lẽ chúng ta cũng thường có động thái này khi muốn chứng tỏ “bản lĩnh đạo đức” của mình, nhưng ngày nay chúng ta có “phong cách” tinh vi hơn. Thử “nhìn” các thành viên trong hội này hoặc đoàn nọ thì sẽ nhận thấy. Đôi khi thấy mà kinh dị. Đáng quan ngại lắm!

Bực tức trong lòng chưa đủ, họ còn gắt gỏng với cô. Lòng ghen tức của con người thật là kinh khủng! Nhưng Đức Giêsu ôn tồn bảo họ: “Cứ để cho cô làm. Sao lại muốn gây chuyện? Cô ấy vừa làm cho tôi một việc nghĩa. Người nghèo thì lúc nào các ông chẳng có bên cạnh mình, các ông muốn làm phúc cho họ bao giờ mà chẳng được! Còn tôi, các ông chẳng có mãi đâu! Điều gì làm được thì cô đã làm: cô đã lấy dầu thơm ướp xác tôi, để chuẩn bị ngày mai táng. Tôi bảo thật các ông: Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.” Chúa Giêsu không thích nói nhiều, nhưng lúc này Ngài phải nói dài một chút để họ có thể hiểu ra. Vậy mà họ vẫn cố chấp.

Chúng ta cũng chẳng ưa nữ tội nhân này, chúng ta khinh miệt cô, nhưng Chúa Giêsu đã làm cho cô hãnh diện: “Hễ Tin Mừng được loan báo đến đâu trong khắp thiên hạ thì nơi đó việc cô vừa làm cũng sẽ được kể lại để nhớ tới cô.” Quả thật, cô “nổi tiếng” từ xưa tới nay, nhất là vào Tuần Thánh, dịp Lễ Vượt Qua.

Bất cứ điều gì phải đến rồi sẽ đến. Thánh sử Máccô kể ngắn gọn sang một cảnh khác: “Giuđa Ítcariốt, một người trong Nhóm Mười Hai, đi gặp các thượng tế để nộp Người cho họ. Nghe hắn nói, họ rất mừng và hứa cho tiền. Giuđa liền tìm cách nộp Người sao cho tiện.” (Mc 14:10-11) Vì mê tiền, ông Giuđa đã “đi đêm” với bọn bất lương. Ông cũng có cách hy vọng riêng: Có tiền tiêu xài hoặc làm việc gì đó. Tiền dù rất “bạc bẽo” nhưng nó có ma lực cực mạnh, khó có thể cưỡng lại. Tiền cần thiết nhưng nguy hiểm, Thánh Phaolô đã xác định: “Cội rễ sinh ra mọi điều ác là lòng ham muốn tiền bạc, vì buông theo lòng ham muốn đó, nhiều người đã lạc xa đức tin và chuốc lấy bao nỗi đớn đau xâu xé.” (1 Tm 6:10) Khinh suất là chết chắc – bất kỳ ai. Mê tiền là một dạng thờ ngẫu tượng!

Vào ngày thứ nhất trong tuần Bánh Không Men, ngày sát tế Chiên Vượt Qua, các môn đệ hỏi Thầy Giêsu xem Thầy muốn ăn lễ Vượt Qua ở đâu. Ngài sai hai môn đệ đi, và dặn họ vào thành, gặp một người mang vò nước đến đón thì cứ đi theo người đó. Người đó vào nhà nào thì họ vào theo và hỏi chủ nhà xem phòng dành cho tiệc Vượt Qua ở đâu. Chúa Giêsu cho biết rằng chính ông ấy sẽ chỉ cho một phòng rộng rãi trên lầu, đã được chuẩn bị sẵn sàng, và họ có nhiệm vụ dọn tiệc. Mọi thứ đã được Thiên Chúa quan phòng và tiền định.

Vào buổi chiều, Đức Giêsu và Nhóm Mười Hai cùng tới. Đang khi dùng bữa, Người nói: “Thầy bảo thật anh em, có người trong anh em sẽ nộp Thầy, mà lại là người đang cùng ăn với Thầy.” Tá hỏa tam tinh. Thầy biết rồi sao? Kẻ thù thì dễ thấy mà đề phòng, người thân thiết thì biết họ trở tay lúc nào mà đề phòng? Nguy hiểm lắm. Quả thật, bạn bè và người thân đôi khi còn đáng sợ hơn kẻ thù. Sự thật cuộc đời quá phũ phàng!

Sau tiệc, qua việc chỉ điểm của ông Giuđa, bọn thủ ác đã tra tay bắt Chúa Giêsu. Thấy chướng mắt, ông Phêrô có sẵn gươm liền tuốt ra, vung chém đứt tai tên đầy tớ của thượng tế. Hú hồn! Có lẽ Phêrô chỉ hoảng mà chém đại thôi, chứ cũng đang run lắm. Nhưng Chúa Giêsu bảo ông cất gươm, rồi Ngài chữa lành tai cho nạn nhân. Thế mà chúng vẫn cứng lòng tin, không chịu sám hối, vẫn quyết bắt giết Con Thiên Chúa!

Một “khoảng tối” bao trùm, nhưng đoạn phim buồn chưa khép lại ở đây. Còn một “khoảng đen” khác, cuối cùng sẽ là “vùng sáng” huy hoàng. Màu xanh hy vọng vẫn tươi sắc xanh biếc… Hy vọng vẫn vươn lên, không bao giờ dừng lại.

Cuộc đời có nhiều thứ đan xen nhau: Lúa – cỏ, tốt – xấu, lành – dữ, hiền – ác, trắng – đen, mưa – nắng,… Trong một lần thị kiến, Thánh Faustina được Chúa Giêsu cho biết: “Con đừng ngạc nhiên vì đôi khi bị tố cáo bất công. Chính Ta đã từng uống trước chén đau khổ bất công này vì yêu con.” (Nhật Ký, #289)

Với cảm nghiệm sâu sắc, Thánh Faustina xác định: “Đau khổ là đại hồng ân; qua đau khổ, linh hồn trở nên giống Đấng Cứu Độ; trong đau khổ, tình yêu trở nên tinh tuyền; càng chịu đau khổ, tình yêu càng tinh khiết.” Chính thánh nữ đã chân thành cầu nguyện: “Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những đau khổ nội tâm, về sự khô khan, về sự sợ hãi, về nước mắt, về sự lưỡng lự, về sự tăm tối nội tâm, về sự cám dỗ, về sự thử thách, về sự giày vò mà con không thể diễn tả, nhất là về những điều mà không ai hiểu, về giờ chết với sự chiến đấu dữ dội và cay đắng. Lạy Chúa Giêsu, con tạ ơn Ngài về những thập giá nho nhỏ hằng ngày, về sự đối nghịch với các nỗ lực của con, về sự gian khó của đời sống cộng đoàn, về sự hiểu lầm, về sự bẽ mặt vì người khác, về sự khó chịu mà người ta đối xử với con, về sự nghi oan, về sức khỏe yếu kém của con, về sự hy sinh, về sự chết cho chính con, về sự kém hiểu biết, về các kế hoạch thất bại của con.” (Nhật Ký, #57) Ước gì mỗi chúng ta cũng can đảm như vậy.

Lạy Thiên Chúa, chúng con biết thế gian là cõi tạm nhưng đầy đau khổ, xin giúp chúng con can đảm chấp nhận mọi đau khổ vì yêu mến Ngài, vì yêu thương tha nhân, vì muốn cứu các linh hồn và để đền tội ở đời này. Xin gia tăng tín lực và ái lực để chúng con đủ sức đi theo Đức Giêsu Kitô tới hơi thở cuối cùng. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

TỰ TIN TIẾN BƯỚC

Lm. Jos DĐH

Mưa nắng thất thường, đó là tiếng lóng, chỉ những người không có lập trường, dở tính hay xấu nết, xã hội đều tẩy chay. Người đời cho rằng: quân tử nhất ngôn là quân tử dại, người đại khái mới đúng là khôn, nếu bạn sống vô trách nhiệm, làm việc vu vơ cho qua lần chiếu lệ, cùng lắm bạn bị mang tiếng là tiểu nhân. Con người tự nhiên dễ ảo tưởng với năng lực của mình: mạnh vì gạo, bạo vì tiền; không ốm không đau, làm giầu mấy chốc. Theo bạn, như thế nào là người quân bình, người tự tin, để bước những bước thật vững chắc, không sợ dự luận: ai ơi giữ chí cho bền, dù ai xoay hướng đổi nền mặc ai ? Kinh nghiệm ở trường đời vẫn là câu trả lời: ý chí quyết tâm, tình yêu và lòng bao dung, mới thực sự là lực đẩy người người đi đến cùng tận của hạnh phúc.

Trong khi Đức Giêsu tự tin trên hành trình tiến về Giêrusalem, dù khổ đau thập giá và mùi tanh của chết chóc đã tới sát gần Ngài ? Đức Giêsu vào thành hôm đó trong tiếng hoan hô, chúc tụng, nhưng rồi chẳng mấy chốc, họ lại gào to hét lớn, “đóng đinh nó vào thập giá” ! Người tín hữu chúng ta hôm nay được mời gọi theo Thầy Giêsu vào thành, theo Thầy chí thánh tiến bước vào tuần thương khó, ta hãy tự hỏi: tôi đang tự tin theo Thầy vào thành, hay tôi lo lắng, sợ hãi, khi phải vào thành ? Ta cùng Thầy Giêsu vào thành chắc không phải để hưởng bổng lộc, vào thành không phải loáng thoáng như ôn lại kỷ niệm xa xưa, hoặc tìm kiếm một chút rung động lấp vào khoảng trống cuộc đời mù mịt của ta !

Chỉ cần một chút bình tĩnh, người ta sẽ hiểu không gian ồn ào vì ai ai cũng mưu cầu một cuộc sống phúc lộc dư đầy. Phải mất khá nhiều mơ ước, người ta mới nhận ra: tự tin, chính là nhân tố giúp ta trưởng thành, đủ ý chí quyết tâm đi tới cùng đích an vui hạnh phúc. Đức Giêsu đi Giêrusalem để hoàn tất sứ mạng Chúa Cha ủy thác, dù ưu tư, sợ hãi, vẫn bủa vây giăng mắc nơi phận người mà Ngài luôn ý thức, đó là tên cám dỗ, là cạm bẫy thế gian. Có phải sự hiệp thông trọn vẹn nên một trong tình yêu với Thiên Chúa là Cha, Đức Giêsu hằng lấy đức ái để minh chứng về lòng bao dung của Thiên Chúa từ bi nhân hậu. Đúng như kinh nghiệm của tiền nhân: người ta không thể nói hết về tình yêu của Thượng Đế, cũng không bao giờ diễn tả hết ý nghĩa về Thiên Chúa làm người, làm Đấng cứu độ trần gian.

 Người kitô hữu chúng ta hiểu như thế nào về ơn gọi làm người, về niềm tin theo Chúa, làm môn đệ Chúa ? Chúng ta vì yêu, hay vì miễn cưỡng phải đi Giêrusalem, khi sự dữ, sự xấu xâm nhập, tấn công tư bề, không khỏi làm chúng ta nhụt chí, nản lòng, sợ đủ thứ ! Trong khi mọi người mong muốn có Thầy Giêsu cùng vào thành, có Thầy đi suốt hành trình làm môn đệ của mình: không gian vắng lặng, giầu tình giầu nghĩa, con vua thời lại làm vua, vẫn chỉ là ước mơ. Đức Giêsu vào thành, Đức Giêsu sẽ còn mãi mãi cùng các môn đệ trên hành trình trần thế, Ngài sẽ là sức mạnh, là Thầy, là Bạn đồng hành, là sự tự tin cho những ai cậy trông vào tình yêu của Đấng đã chiến thắng thế gian. Vũ trụ này rộng lớn nhất là biển, to lớn hơn biển là bầu trời. Rộng lớn hơn bầu trời là sự độ lượng của tình yêu và lòng bao dung. (Victor Hugo).

Có phải biết trước Thầy Giêsu vào thành để làm vua, người ta sẽ mau lẹ không để Thầy cô đơn một mình, có thể còn “tiền hô hậu ủng”, cùng theo Thầy tiến bước với hy vọng được một chút địa vị bổng lộc ?  Nếu đúng thật, Đức Giêsu vào thành làm vua, vua tình yêu, yêu đến cùng, yêu đến độ chịu chết treo thập giá, hầu cứu nhân loại khỏi chết đời đời, chúng ta vẫn mạnh mẽ cùng Ngài tự tin tiến bước vào thành chứ ? Người không vững lập trường sẽ luồn lách, né tránh như câu thành ngữ: khi vui thì vỗ tay vào, đến khi hoạn nạn có còn mấy ai !  Người không có niềm tin vững chắc, lúc bình an, chẳng khó gì khi họ tung hô, chúc tụng, song không mấy chốc họ lại “đả đảo”, đóng đinh nó đi, giết nó đi !

Vào thành Giêrusalem thiên quốc, tự tin tiến bước cùng Thầy Giêsu trên hành trình trần thế, chắc chắn không phải là toan tính hơn thiệt, là tìm kiếm vật chất địa vị, nhưng là vì yêu, vì thao thức muốn cùng Đức Giêsu hoàn tất bổn phận và trách nhiệm của người theo Chúa. Quen một người là do duyên phận, hiểu biết một người cần phải nhẫn nại và kiên trì, nhưng thủy chung và ở bên nhau đến trọn đời, nhất định phải có tình yêu và lòng vị tha. Nếu chỉ đứng xa xa vì dấu, quan sát thôi, hẳn bạn sẽ bị cười chê là quân đạo đức theo mùa: thấy quan tài đưa vào nhà, ta mới đổ lệ. Dù bạn đang là nông dân hay đại gia, dù bạn là linh mục tu sĩ, hay là người tín hữu bình dân, sớm tối chỉ biết cầu nguyện bằng kinh mân côi, tất cả vẫn cần được lòng thương xót của Đấng là Thiên Chúa cứu độ. Xin hãy hiệp lời cầu nguyện với nhau, với Thầy Giêsu, hầu tất cả sẽ đủ tự tin, đủ tình yêu và sức mạnh của Chúa, bước theo Chúa vào thành Giêrusalem thiên quốc cách trọn vẹn thật sự. Amen.

Về mục lục

NGƯỜI CHẾT VÌ YÊU

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Chúa nhật Lễ Lá là khởi đầu cho hành trình đi vào tuần thương khó với Chúa Giê-su. Gọi là tuần thương khó vì xét theo nhân tính thì Chúa Giê-su cũng trải qua đau khổ tê tái khi bị người đời ngược đãi, khi bị tòa án kết án bất công và khi bị đám đông đã từng reo hò khi Chúa vào đền thờ, khi Chúa cho họ ăn bánh no nê, khi Chúa cứu chữa bệnh nhân và phục sinh kẻ chết, thế mà họ lại quay lưng để cùng nhau đòi đóng đinh Chúa vào thập giá.

Thế nên, cha nhạc sỹ Văn Chi khi viết bài “Người chết vì yêu” đã miêu tả đây là cái chết cô đơn vì yêu. Dầu rằng ai cũng biết Chúa Giê-su luôn sống cho tình yêu, yêu cả nhân trần tội lỗi, Ngài yêu cả những con người mang nặng tính yếu đuối xác thịt mọn hèn, nhưng yêu nhiều, cho đi rất nhiều mà lại chẳng nhận lại được bao nhiêu, có chăng là tình phụ bạc với người mình yêu. Bài hát với giai điệu mượt mà thiết tha như sau:

“Ngày đó chiều nắng vàng trên đồi Goltha vắng. Chiều đó, có ai cô đơn chết vì yêu. Yêu, yêu nhân trần tội lỗi, yêu con người đắm đuối chết đớn đau u sầu”.

Và rồi, tác giả đã giải thích người đó chính là Chúa Trời, một vì Thiên Chúa yêu nhân loại đến nỗi xóa mình là Thiên Chúa để cúi xuống với nhân loại lầm than, để hát lên khúc hát yêu thương giữa thế gian đọa đầy.

“Người đó là Chúa Trời, làm người nơi dương thế. Tình mến chứa chan khơi trên mắt buồn vương. Cơn đam mê bừng rực sáng, yêu thương bằng cái chết tiếng kêu vang vọng đêm trường”.

Phận số của người sống vì yêu thường là vậy. Yêu là cho đi nhưng nhận lại chẳng bao nhiêu. Yêu là yêu cho đến cùng nhưng người đi cùng lại chẳng có bao nhiêu. Thế nên, mới có câu thơ viết rằng:

“Triệu người quen có mấy người thân
Khi lìa trần có mấy người đưa?
Lệ xóa cho em được không những kỷ niệm đắng
Lời nói yêu thương ngày xưa có trở về tìm?”

Cuộc đời Chúa Giê-su dường như cũng trải qua những chuyện thế thái nhân tình phụ bạc ấy. Mới hôm qua họ no say bổng lộc Chúa. Họ tung hô Chúa. Họ ca ngợi Chúa. Và hôm sau cũng chính những con người ấy khi mất bổng lộc, khi không còn thấy Chúa là mối lợi nên đã quay lưng. Họ dửng dưng trước bất công mà Chúa phải chịu. Họ còn toa rập với phường gian ác để la hét đòi đóng đinh Ngài vào thập giá.
Thật đau lòng vì:

Chút lợi danh, tính toan mưu kế
Mà lãng quên chữ nghĩa, chữ nhân

Con người chỉ kết bạn với những ai có lợi cho họ và dường như lại luôn xa lánh những ai không có lợi, và càng bỏ rơi những ai đang lâm cảnh bi ai. Con người thường tính toán khi giao tiếp, thường tìm bạn khi có lợi và rời xa nhau khi mối lợi không còn:

Vẫn chạy theo sa hoa, hào nhoáng
Người sang kết bạn, kẻ khó quay lưng
Tính chi li xem có lợi cho mình
Thì miệng mới cười, nói lời nhân ái

Con người hôm nay cũng tính toán với Chúa thật chi li. Họ đến với Chúa tính từng giây. Họ sum vầy bên nhau quanh ly rượu thâu đêm. Họ bám vào Chúa khi gặp gian nan. Họ rời xa Chúa để tìm kiếm công danh tiền tài.

Con người hôm nay tính toán với Chúa nên họ cũng tính toán với nhau. Có bao nhiêu người sống với nhau lấy tình nghĩa làm đầu? Liệu rằng ở giữa hàng ngàn, hàng vạn người kia có mấy ai là tri kỷ, mấy ai là người thật lòng đáng cho ta tin tưởng? có tiền là có tất cả nhưng có mấy ai đem tiền để mua lấy nghĩa nhân? Tình người dường như không được mua và càng không thể cho không?

Xin Chúa giúp chúng ta biết đi vào tuần thương khó trong sự hy sinh hãm mình để đồng cảm với Chúa Giê-su. Xin cho chúng ta cũng đừng bao giờ lấy tình yêu để mà cân đo đong đếm. Vì tình yêu luôn phải cho không, biếu không mới là tình yêu đích thực. Ước gì chúng ta luôn là người môn đệ trung tín với Chúa dầu phải bước đi trong khổ giá vẫn trung kiên. Amen

Về mục lục

THÔNG HIỆP CUỘC TỬ NẠN CỦA ĐỨC KITÔ

 Lm. Xuân Hy Vọng

Một trong những tâm lý phức tạp của con người mà ít nhiều chúng ta từng trải nghiệm hằng ngày trong cuộc sống, đó là: tâm lý số đông. Mặc cho sự việc thế nào, hoặc chưa biết thực hư, chân tướng ra sao, cứ thấy nhiều người đồng thuận, thì chúng ta thường nghiêng theo không một chút mảy mảy cân nhắc, nhận định!

Trong thời điểm dịch bệnh vẫn đang tiếp diễn, có lẽ nhiều nơi không cử hành Lễ Lá, hay đơn giản tham dự Thánh lễ trực tuyến, nhưng lễ Chúa Nhật tưởng niệm Cuộc Thương Khó của Đức Giê-su nhắc nhở chúng ta điều gì, và mỗi lần chúng ta tham dự Lễ Lá (như chúng ta thường gọi) với tâm tình nào? Phải chăng chúng ta nghiêng về tâm lý số đông như dân chúng thời đó: cầm lá vạn tuế tung hô, đón Chúa vào thành Giê-ru-sa-lem, rồi sau đó cũng chính đám đông này la to: “Đóng đinh nó vào thập giá!” (x. Mc 15, 13.14), hay chúng ta cùng hiệp thông, tham dự vào cuộc Thương Khó – Tử Nạn của Đức Ki-tô, hầu được thánh hoá và được nhận lấy vinh quang Phục Sinh của Ngài?

Trong Kinh Thánh, ít nhất ba lần, Đức Giê-su tiên báo cho các Tông đồ biết về thân phận và sứ mệnh của Ngài, đó là: người Tôi tớ trung tín của Thiên Chúa (x. Mt 16, 21-22; Is 50, 4-7). Hơn nữa, Ngài đã từng tỏ lộ rõ rệt: “Tôi đến thế gian không phải làm theo ý tôi, nhưng để làm theo ý Đấng đã sai tôi” (x. Ga 6, 38). Trong mọi việc, Ngài hằng vâng phục, thực hiện theo chương trình cứu độ của Chúa Cha, “Thiên Chúa sai Con của Người đến thế gian, không phải để lên án thế gian, nhưng là để thế gian, nhờ Con của Người, mà được cứu độ” (Ga 3, 17), và “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ez 33, 11). Thật vậy, sứ mệnh của Đức Giê-su là hoàn tất ý định của Chúa Cha, cho dù “…bị đánh, bị giật râu, bị nhạo cười và bị phỉ nhổ. Nhưng vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn; nên tôi trơ mặt chai như đá, tôi biết tôi sẽ không phải hổ thẹn” (x. Is 50, 6-7). Ở điểm này, chúng ta khác hoàn toàn với người Tôi Trung của Chúa! Chúng ta bất tuân phục, chúng ta luôn tìm mưu cầu ích lợi riêng tư, cá nhân. Hầu như chúng ta muốn người khác làm theo ý mình, tệ hơn là bắt người khác tùng phục bản thân ta! Mỗi lần chúng ta cử hành Lễ Lá, chúng ta cùng nhau nhìn kỹ vào Đức Giê-su, học sống như Ngài: biết vâng phục và thực hiện Thánh ý Chúa nơi cuộc sống mình.

Hơn nữa, vì hết lòng yêu thương chúng ta, người Tôi Tớ tín trung của Thiên Chúa đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mà mặc lấy thân phận xác phàm yếu hèn của con người, hầu giải thoát chúng ta khỏi tội lỗi, cứu chuộc chúng ta khỏi sự huỷ diệt, và đưa chúng ta về với nguồn cội tình yêu là Thiên Chúa Cha, “…tuy là thân phận Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Ngài huỷ bỏ chính mình, nhận lấy thân phận tôi đòi, trở nên giống loài người, với cách thức bề ngoài như một người phàm” (x. Pl 2, 6-7). Ngược lại với A-đam nguyên tổ, Đức Ki-tô khiêm nhường, hạ mình, vâng phục Thiên Chúa đến nỗi tự nguyện chết trên thập tự, “Chúa Kitô vì chúng ta, đã vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá” (Pl 2, 8). Phải chăng, mỗi khi tham dự Lễ Lá, chúng ta được thông phần vào cuộc Thương Khó – Tử Nạn của Chúa Giê-su Ki-tô, chúng ta cũng nên soi lại mình đã sống khiêm hạ mỗi ngày chưa? Một trong bảy mối tội đầu dẫn đến nhiều tội lỗi khác như thể ‘tội mẹ đẻ ra tội con’, chính là: thói ngạo mạn, tính kiêu căng, lòng tự mãn. Chính tật xấu này mà thường đưa đẩy chúng ta tới sự bất tuân, không biết vâng phục Thánh ý Chúa, được thể hiện qua Giáo Hội và qua các giáo huấn của Giáo Hội.

Ước gì, Lễ Lá mỗi năm đều không trôi qua như một lễ hội bên ngoài, mà là cơ hội, thời khắc giúp chúng ta ngày càng được hiệp thông với cuộc Tử Nạn của Đức Ki-tô, hầu đón nhận ơn sủng cao quý thông phần vào vinh quang Phục Sinh của Ngài!

Lạy Chúa Giê-su lòng con

Tuy là Thiên Chúa, chẳng màng vinh quang

Tự huỷ chính mình vô hạn

Mặc lấy xác thân, cơ hàn thế nhân.

Vâng phục, khiêm hạ thánh ân

Chết treo thập giá, muôn phần vì con.

Do đó, Chúa Cha suy tôn

Ban cho danh hiệu muôn muôn đời đời. Amen!

Về mục lục

SỐNG VÌ YÊU, CHẾT CŨNG VÌ YÊU

Lm. Phaolô Phạm Trọng Phương

Trong thực tế ai ai cũng ham sống sợ chết, phương chi là chết thay cho người khác lại là chuyện hiếm hoi. Tuy nhiên, chuyện khó có thể xảy ra theo cái nhìn người đời, thì lại được diễn tả nơi hình ảnh Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời Thiên Chúa làm người. Hôm nay, toàn thể Giáo hội hoàn vũ bắt đầu bước vào Tuần Thánh, tuần mà mọi người chúng ta được mời gọi bước theo Đức Giê-su trong những giờ cuối cùng ngang qua cuộc thương khó và sự chết trên thập giá của Ngài.

Thiên Chúa là Tình Yêu đã sáng tạo con người từ hư vô trở nên mà có và trở nên giống hình ảnh của Thiên Chúa. Người luôn mong muốn con người được sống và hạnh phúc. Qua mọi thời, tình yêu đó được diễn tả ngang qua các ngôn sứ, các thủ lãnh, các vua chúa để dẫn dắt dân đi đúng đường ngay nẻo chính. Dân sai lạc thì Người lại đến qua trung gian để nhắc nhở và răn dạy. Thế nhưng mà thay vì biết ơn và sống trung thành, thì con người lại vô tình bội nghĩa và bất trung lần này lượt khác với Thiên Chúa, là Đấng luôn trung tín và yêu thương.

Vì Thiên Chúa là Tình Yêu nên Người không mệt mỏi để tha thứ cho con người. Vì yêu nên sẵn sàng trao ban và hy sinh cho người mình yêu, thậm chí “Thiên Chúa yêu thương thế gian đến nỗi ban Con Một mình để ai tin vào Ngài có sự sống đời đời (Ga 3,16)”. Con Một của Thiên Chúa là Đức Giê-su Ki-tô, Ngôi Lời nhập thể. Ngài đã đáp lời xin vâng Chúa Cha để chấp nhận mang thân phận con người ‘bởi phép Đức Chúa Thánh Thần mà Người xuống thai, sinh bởi Bà Maria đồng trinh’ và giống con người mọi đàng ngoại trừ tội lỗi. (x. Dt 4,15). Ngài là Thiên Chúa thật và là con người thật. Ngài đã sống ẩn dật suốt 30 năm tại làng Nazaret trong gia đình Thánh Gia. Sau đó, Đức Giê-su bắt đầu công khai rao giảng Nước Trời cho tất cả mọi người ở mọi nơi mọi lúc. Ngài là hiện thân của Lòng Thương xót của Thiên Chúa ở với nhân loại tội lỗi. Thiên Chúa vô hình được tỏ lộ rõ ràng nơi Đức Giê-su Ki-tô hữu hình. Lời giảng đầy uy quyền (x.Mc 1,2) đã thốt ra từ môi miệng của Ngài để khích lệ, kêu gọi, khuyên răn, ngăm đe kẻ có tội; chăm sóc và an ủi kẻ bệnh tật; rao giảng và giải thích Lời Thiên Chúa cho muôn người,…Bên cạnh lời nói, Đức Giê-su đã thể hiện tình yêu của Thiên Chúa qua việc thi thố các phép lạ là làm cho kẻ điếc nghe được, câm nói được, mù được sáng, què đi được, bệnh tật được chữa lành, kẻ chết được cứu sống,…(x. Lc 7, 19-23). Ngài hiện diện ở đâu là niềm vui và sự chữa lành đến ở đó. (x. Mc 6,53-56; Mc 5, 21-43; Ga 4, 43-54). Ngài gần gũi, thân thiện và tiếp đón những người thu thuế, người tội lỗi, người phong hủi, mà người Do Thái cho ô uế và đáng khinh.(x. Lc 19: 1-10; Mc 1, 40-45). Một tình yêu quảng đại và rộng lớn khi Đức Giê-su không ngần ngại đến với dân ngoại cũng như thương xót họ.(x. Mt 15, 21-28; Lc 10,29-37; Lc 17,17-18),…

Mặt khác, vì yêu nên Đức Giê-su luôn tìm mọi phương cách để giúp con người sở hữu được bình an và niềm vui. Trong sứ vụ rao giảng của mình, Đức Giê-su đã chọn cho mình những môn đệ riêng để dạy dỗ, hướng dẫn và đào tạo nhằm giúp các ông cộng tác vào công cuộc loan báo Tin Mừng của Ngài. (x. Lc 6,12-16). Ngài yêu thương các ông hết mực với tình yêu chân thành và trung tín như bạn hữu. “Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết. (Ga 15,15)”. Thế nhưng mà trong số các ông lại có những người dám cả gan phản bội và chối bỏ Ngài. Dẫu biết rằng sứ vụ của Đức Giê-su đến trần gian là để yêu thương, để phục vụ và hiến dâng mạng sống cho muôn người, nhưng không thể không kể đến một phần cộng tác của con người trong sự đau khổ và cái chết của Ngài.

Ngài yêu và Ngài phục vì Nước Chúa để cứu độ con người, nhưng cũng vì đó mà Ngài cũng bị kết án, bị bắt, bị hành hình, phỉ nhổ, đánh đập, đóng đinh và chết nhục nhã trên cây thập tự. Dẫu cho sự phản bội và phản trắc của các môn đệ nói riêng, của mỗi chúng ta nói chúng, Đức Giê-su đã tha thứ tất cả vì yêu: “Lạy Chaxin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23, 34).

Nhìn vào cái chết đau thương của Đức Giê-su trên thập giá, một phần để tố cáo tội ác của con người, một phần để biểu lộ tình yêu cao vời khôn ví của một vị Thiên Chúa làm người. Đúng như lời Chúa đã nói Vì Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một mình, để tất cả những ai tin Con Ngài thì không phải hư mất, nhưng được sống đời đời, vì Thiên Chúa không sai Con của Ngài giáng trần để luận phạt thế gian, nhưng để thế gian nhờ Con Ngài mà được cứu độ.”(Ga 3, 16-17). Quả thật, Đức Giê-su đã sống trọn vẹn cuộc sống vì yêu dẫu cho con người vô tình tệ bạc và khinh mạn dể duôi. Cái chết vì yêu của Đức Giê-su cũng không ngừng diễn tả tình yêu khôn dò khôn thấu của Thiên Chúa, Đấng đầy lòng nhân hậu và bao dung là luôn luôn mong muốn cho con người được tha thứ và sống muôn đời.

Thật vậy, chết vì yêu của Đức Giê-su không chỉ là điểm kết thúc nhưng là điểm mở ra cho muôn người để từ nay ai “Nếu chúng ta cùng chết với Đức Ki tô, chúng ta sẽ cùng sống lại với Ngài” (Rm 6,8). Đức Giê-su sống vì yêu cho nên Ngài cũng chết vì yêu. Như vậy, vì yêu mà Đức Giê-su đã hy sinh tất cả, ngay cả mạng sống cho loài người chúng ta, chúng ta cũng cố gắng bám rễ sâu vào Ngài, lắng nghe Lời Ngài và đem ra thực hành nơi đời sống thường ngày những điều Ngài dạy, nhất là ‘giới răn yêu thương’. Chiêm ngắm cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, chúng ta tự nhận ra tội của mình để ăn năn hối cải, dốc lòng chừa và quyết tâm làm mới lại nơi Bí tích Giao hoà. Chiêm ngắm cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, chúng ta được mời gọi noi gương Ngài chấp nhận mọi khổ đau, mọi khó khăn và gian nan trong cuộc sống hằng ngày. Chiêm ngắm cái chết của Đức Giê-su trên thập giá, chúng ta được mời gọi hãy yêu như Ngài đã yêu, hãy sống như Ngài đã sống, biết tha thứ như Ngài và hãy cùng chết với Ngài thì sẽ được sống lại như Ngài.Amen.

Về mục lục

VUA VINH QUANG: CHỊU ĐAU KHỔ TRÊN THẬP GIÁ

Lm. Ngọc Dũng

Phụng vụ hôm nay đưa chúng ta vào tuần thánh. Như chúng ta biết chỉ có tuần này trong toàn năm phụng vụ được gọi là “tuần thánh.” Điều này không có nghĩa là 53 tuần khác trong năm không là thánh. Đối với người Kitô hữu, ngày nào cũng được gọi là ngày thánh, vì được thánh hiến cho Thiên Chúa. Thật vậy, thời gian thuộc về Thiên Chúa và Ngài đã thánh hiến thời gian. Tuần này được gọi là “tuần thánh” vì trong tuần này chúng ta tưởng niệm Mầu Nhiệm Vượt Qua của Đức Giêsu Kitô, mầu nhiệm mà qua đó Thiên Chúa, qua Đức Giêsu Kitô, cứu chúng ta khỏi quyền lực tội lỗi và biến chúng ta thành dân riêng của Ngài. Qua mầu nhiệm này, Đức Giêsu Kitô đã đánh bại thần chết hầu mang lại cho chúng ta sự sống vĩnh cửu.

Để giúp chúng ta cử hành cách thánh thiện phụng vụ hôm nay và sống trọn vẹn tuần thánh, chúng ta hãy để Lời Chúa hướng dẫn chúng ta qua các bài đọc. Nhìn vào Chúa Giêsu trong các bài đọc hôm nay, chúng ta có thể rút ra những điểm sau đây để suy niệm, để học hỏi và để đem ra thực hành.

Thứ nhất, Chúa Giêsu là vua của gia đình và của cuộc đời chúng ta. Phụng vụ hôm nay bắt đầu với nghi thức làm phép lá và rước lá. Hình ảnh “Chúa Giêsu tiến vào Giêrusalem” nhắc nhở chúng ta về việc Chúa Giêsu cũng đang tiến vào gia đình, vào tâm hồn của mỗi người chúng ta. Chúng ta sẽ chào đón Ngài như thế nào? Mỗi năm trong phụng vụ của ngày Lễ Lá, chúng ta thường tập trung quá nhiều vào những chiếc lá mà chúng ta cầm trên tay trong suốt thánh lễ. Khi về đến nhà chúng ta tìm một nơi cao trọng để đặt những chiếc lá đã được làm phép. Điều đó rất tốt! Tuy nhiên, chúng ta phải nhớ rằng những chiếc lá chúng ta cầm trên tay phải tượng trưng cho những nhân đức, những việc tốt, hay những quyết định từ bỏ lối sống tội lỗi của mình để đón Chúa vào trong gia đình và tâm hồn của chúng ta.

Thứ hai, Chúa Giêsu là người tôi tớ đau khổ của Giavê và là người đau khổ cho và với chúng ta. Trong bài đọc 1 hôm nay, Ngôn sứ Isaia nói về người tôi tớ đau khổ của Giavê. Ngôn sứ trình bày cho chúng ta những đặc điểm quan trọng sau đây của người môn đệ, người tôi tớ đau khổ của Giavê mà mỗi người chúng ta được mời gọi để trở thành: (1) là người nói năng như một người môn đệ, đó là “biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức” (Is 50:4); (2) là người lắng tai nghe như một người môn đệ mà “không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui” (Is 50:5); (3) là người sẵn sàng đón nhận đau khổ mà người khác mang lại cho mình, đó là “đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu.Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” (Is 50:6). Chúng ta có thể làm những điều này vì chúng ta biết rằng Thiên Chúa luôn ở bên chúng ta để phù trợ (x. Is 50:7). Tóm lại, điểm thứ hai mà lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta suy gẫm là xét lại đời sống theo Chúa Giêsu của chúng ta: chúng ta có trở nên giống Ngài mỗi ngày trong lời ăn tiếng nói, hay trong hành động của chúng ta không?

Thứ ba, Chúa Giêsu là mẫu gương của sự tự hạ và khiêm nhường. Trong bài đọc 2, Thánh Phaolô giới thiệu cho các tín hữu Philiphê mẫu gương của Chúa Giêsu, Đấng “vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2:6-8). Hôm nay, Thánh Phaolô chỉ ra mẫu gương khiêm nhường và sống cho người khác của Chúa Giêsu cho chúng ta, những người đang sống trong một thế giới mà trong đó con người tìm đủ mọi cách để đặt chính mình và lợi ích của mình lên hàng đầu. Chúng ta nhìn nơi Chúa Giêsu, vì yêu thương chúng ta, Ngài đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang của mình và sẵn sàng chết cho chúng ta, ngay cả khi chúng ta còn là tội nhân. Là môn đệ của Ngài, chúng ta được mời gọi sẵn sàng đón nhận một đời sống thật đơn sơ và khiêm nhường, một đời sống hoàn toàn sống và chết cho Thiên Chúa và cho người khác, nhất là những người trong gia đình và cộng đoàn của chúng ta. Chính trong sự khiêm nhường và tự hạ của chúng ta mà Thiên Chúa sẽ nâng chúng ta lên như Ngài đã siêu tôn Chúa Giêsu: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu” (Pl 2:9). Đừng tự nâng mình lên, nếu không chúng ta sẽ bị hạ xuống. Nhưng chúng ta hãy hạ mình xuống để được Thiên Chúa nâng lên.

Thứ bốn, Chúa Giêsu chịu đau khổ và chịu chết vì tội lỗi chúng ta. Điểm này được rút ra từ bài Tin Mừng hôm nay. Trong phụng vụ năm B, chúng ta nghe bài Thương Khó của Chúa Giêsu trích từ Tin Mừng Thánh Máccô. Cuộc Thuơng Khó của Chúa Giêsu bao gồm những sự kiện quan trọng sau:

Thứ nhất, cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu bắt đầu với người phụ nữ xức dầu chân Chúa Giêsu, bữa Tiệc Ly và việc thành lập Bí Tích Thánh Thể (Mc 14:1-16). Trong sự kiện này, Chúa Giêsu tiên báo việc Giuđa sẽ nộp Ngài, Phêrô sẽ chối Ngài và các môn đệ khác sẽ bỏ Ngài. Qua việc chia sẻ bữa ăn với các môn đệ và thành lập Bí Tích Thánh Thể, Chúa Giêsu diễn tả một tình yêu trung thành, và yêu cho đến cùng. Đây là một tình yêu mạnh hơn sự chết, hay nói cách khác, là tình yêu không dừng lại ở cái chết, nhưng luôn hiện diện mãi với người mình yêu. Qua sự kiện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta hãy diễn tả một tình yêu trung thành và vô điều kiện cho mọi người, đặc biệt cho chồng, cho vợ, cho con cái, cho cha mẹ, cho bạn bè và ngay cả cho kẻ thù của chúng ta.

Thứ hai, Chúa Giêsu tiên báo người sẽ nộp Ngài (Mc 14:17-21). Trong sự kiện này, Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về bao nhiêu lần chúng ta đã nộp Ngài khi chúng ta chiều theo những cám dỗ của ma quỷ và những đam mê xác thịt. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta trở thành Giuđa. Chúng ta nộp Chúa Giêsu khi chúng ta không sống đúng với ơn gọi Kitô hữu [ơn gọi thánh hiến] của mình. Khi làm như thế, chúng ta đã trao nộp Chúa Giêsu cho những người thuộc tôn giáo khác hay những người yếu lòng tin để họ “đóng đinh” Ngài qua việc “không tin” hay “mất niềm tin” vào Ngài.

Thứ ba, Chúa Giêsu tiên báo việc Phêrô sẽ chối Ngài (Mc 14:26-31). Hình ảnh của Phêrô, một người có khi rất can đảm để bảo vệ Thầy mình, nhưng khi gặp khó khăn và nhất là khi đối diện với sự mất mát về quyền lợi và tính mạng, thì lại chối Thầy, cũng chính là hình ảnh con người của chúng ta. Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta hãy cẩn thận khi chúng ta nghĩ rằng mình đang mạnh, vì chúng ta có thể chối Ngài khi đối diện với khó khăn và thử thách trong cuộc sống. Chúng ta chỉ không chối Chúa Giêsu khi chúng ta sống kết hiệp mật thiết với Ngài trong cầu nguyện. Và chúng ta cũng nhớ rằng Chúa Giêsu luôn cầu nguyện cho chúng ta để chúng ta không chối Ngài như Ngài đã cầu nguyện cho Thánh Phêrô.

Thứ tư, Chúa Giêsu cầu nguyện trên núi Ôliu trong khi các môn đệ của Ngài ngủ (Mc 14:32-42). Hình ảnh Chúa Giêsu cầu nguyện trước khi chịu đóng đinh gợi cho chúng ta nhớ lại hình ảnh của Ngài chịu cám dỗ trong sa mạc. Trong Tin Mừng Thánh Maccô, cầu nguyện được xem là phương thế hữu hiệu mà Chúa Giêsu sử dụng để chống lại cám dỗ. Cái chết trên thập giá là “cám dỗ cuối cùng” của Chúa Giêsu, nên Ngài đã cầu nguyện để làm theo thánh ý của Chúa Cha và để vượt thắng được cám dỗ. Chúng ta cũng như các môn đệ xưa, “gánh nặng nhưng dịu ngọt” của cám dỗ nhiều lần làm chúng ta ngủ quên trong đam mê vì chúng ta không cầu nguyện. Hãy để Lời Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta: “Anh [chị] em hãy cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ.” Thật vậy, “sao anh [chị] em lại ngủ? Dậy mà cầu nguyện, kẻo sa chước cám dỗ.”

Thứ năm, Chúa Giêsu bị nộp vì một cái hôn, bị bắt và bị đánh đập (Mc 14:43-72). Sự kiện này gợi nhớ trong chúng ta những lần chúng ta dùng danh nghĩa của tình yêu để làm lợi cho chính mình. Chính tình yêu giả tạo của chúng ta đã làm cho nhiều người phải bị tổn thương và đau khổ. Qua sự kiện này, Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đừng yêu nhau với tình yêu giả tạo, nhưng hãy yêu nhau với một tình yêu chân thật và vô điều kiện.

Thứ sáu, Chúa Giêsu bị kết án tử bởi Philatô (Mc 15:1-22). Chúa Giêsu bị trao nộp và bị kết án như một người “phản động.” Bên trong bản án này hàm chứa mối hận thù của những người nghĩ rằng họ nhân danh Thiên Chúa để bảo vệ Ngài; họ hận thù khi nghe Chúa Giêsu gọi Thiên Chúa là Cha và tuyên bố rằng Ngài và Thiên Chúa của họ là một. Sự kiện này khuyến cáo chúng ta về thái độ nhân danh Thiên Chúa để kết án người khác, nói đúng hơn là thái độ xem mình thánh thiện hơn người khác để rồi kết án anh chị em của mình.

Thứ bảy, Chúa Giêsu bị đóng đinh giữa hai tên gian phi (Mc 15:23-28). Chi tiết quan trọng nhất trong sự kiện này là lời cầu nguyện của Chúa Giêsu cho những kẻ đóng đinh Ngài vào thập giá: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm.” Giáo Hội dạy chúng ta rằng, không chỉ người Do Thái xưa, nhưng cả chính chúng ta cũng là những người đã đóng đinh Chúa Giêsu và thập giá mỗi khi chúng ta phạm tội. Tuy nhiên, Chúa Giêsu đã diễn tả tình yêu của Ngài cách tuyệt đối và vô điều kiện khi Ngài cầu xin Chúa Cha tha thứ cho chúng ta. Về phần mình, chúng ta có dốc lòng tránh xa tội lỗi và sẵn sàng tha thứ cho người khác không?

Thứ tám, những phản ứng khác nhau của người chứng kiến cái chết của Chúa Giêsu (Mc 15:29-32). Trước sự đau đớn và cái chết của Chúa Giêsu trên thập giá, có người “buông lời cười nhạo,” có người “chế giễu,” một trong hai người cùng chịu đóng đinh với Ngài thì “nhục mạ” Ngài, người kia thì bảo vệ Ngài và đặt niềm tin vào Ngài và xin Ngài nhớ đến mình khi Ngài vào vương quốc của Ngài, viên đại đội trưởng thì tôn vinh Thiên Chúa, và toàn thể dân chúng thì “đấm ngực” ăn năn. Chúng ta thuộc vào nhóm nào trong những nhóm trên? Trong sự kiện này, chi tiết quan trọng là: “Vào giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ khắp mặt đất mãi đến giờ thứ chín.  Vào giờ thứ chín, Đức Giêsu kêu lớn tiếng: “Ê-lô-i, Ê-lô-i, la-ma xa-bác-tha-ni!” Nghĩa là: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” Nghe vậy, một vài người đứng đó liền nói: “Kìa hắn kêu cứu ông Êlia.” Rồi có kẻ chạy đi lấy một miếng bọt biển, thấm đầy giấm, cắm vào một cây sậy, đưa lên cho Người uống mà nói: “Để xem ông Êlia có đến đem hắn xuống không.” Đức Giêsu lại kêu lên một tiếng lớn, rồi tắt thở” (Mc 15:33-37). Bức màn trong đền thờ chia cách giữa “nơi cực thánh” và phần “phạm tục” bị xé ra làm đôi. Điều này nói cho chúng ta rằng, với cái chết của Chúa Giêsu, Ngài đã phá đổ bức tường tội lỗi ngăn cách chúng ta với Thiên Chúa. Liệu chúng ta có chạy đến với Ngài để hòa giải với Ngài không? Và liệu chúng ta có sẵn sàng phá đổ bức tường chia cắt chúng ta với anh chị em của mình không?

Thứ chín, Chúa Giêsu được chôn trong mồ (Mc 15:42-47). Điều đáng buồn trong sự kiện này là không một ai trong nhóm 12 hiện diện. Những người thân tín nhất của Ngài đã bỏ Ngài. Nhiều lần trong cuộc sống, chúng ta cũng bỏ Chúa Giêsu trong những giây phút mà chúng ta tưởng Ngài “đã chết,” không còn hiện diện với chúng ta. Trong những lúc dường như không cảm nghiệm được sự hiện diện của Chúa Giêsu, chúng ta vẫn phải kiên trì ở lại, đừng trốn chạy. Vì nếu chúng ta không đến với một Đức Kitô, Đấng chết và chôn trong mồ vì chúng ta thì làm sao chúng ta có thể chứng kiến được sự phục sinh vinh hiển của Ngài. Chỉ qua đau khổ mới đến vinh quang, qua nấm mồ mới đến thiên đàng!

Về mục lục

LẠY THIÊN CHÚA CỦA CON, SAO NGÀI BỎ RƠI CON?

Lm. Giuse Tạ Xuân Hòa

Từ Trên cây thập giá, Thánh Marcô tường thuật lại cho chúng ta lời nói cuối cùng của Chúa Giê-su: “Lạy Thiên Chúa, Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mc 15,34). Trên đồi Golgotha chiều ấy, Giê-su trần trụi trên Thập giá. Không có ai đứng dưới cây thập giá mà chỉ có một số phụ nữ đứng xa xa mà nhìn. Chúa hoàn toàn cô đơn. Mọi người đã bỏ rơi Ngài. Và trong nội tâm sâu thẳm của Chúa, Ngài cũng cảm nhận dường như Thiên Chúa cũng bỏ rơi Ngài. Sau lời nói cuối cùng này, Chúa kêu lớn tiếng rồi trút hơi thở. Chứng kiến cái chết của Chúa, một viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa thấy Người tắt thở như vậy liền nói: Quả thật, người này là Con Thiên Chúa. (x Mc 15,39). Tôi thích câu nói này của viên đại đội trưởng. Ông không nói vị thánh này, hay ông chúa này là Con Thiên Chúa. Ông chỉ thốt lên NGƯỜI này là Con Thiên Chúa.

Là một con người với thân xác nặng nề, Chúa cũng giống như bạn và tôi.

Chúa cảm thấy bị bỏ rơi khi nhìn thấy một đám đông hung tợn. Họ lên án Chúa và hô lên đóng đinh Chúa vào thập giá. Chúa là đấng vô tội nhưng lại bị kết án như tội nhân. Không ai tìm được chứng tố cáo Chúa. Cuối cùng, Chúa bị kết án chỉ bởi vì Ngài dám xưng mình là Con Thiên Chúa. Thật đáng nực cười biết bao khi Đấng đến từ cung lòng Thiên Chúa, lại bị kết án bởi Ngài nhận thật về điều đó. Kẻ giết người thì được tha còn người vô tội lại bị đóng đinh vào thập giá.

Chúa cảm thấy bị bỏ rơi khi trong nhóm 12 thân tín lại có những người phản bội. Giuđa bán đứng Thầy mình để lấy tiền. Dấu hiệu để người ta bắt Chúa là một nụ hôn. Thật nghiệt ngã biết bao. Nụ hôn là dấu chỉ của tình yêu lại trở thành dấu hiệu của phản bội. Phê-rô, vị tông đồ trưởng đầy nhiệt huyết khi theo Chúa. Ông quyết tâm dù phải chết cùng thầy, ông cũng không chối thầy. Thế mà chỉ phải đối diện với một đầy tớ gái, ông đã không đủ can đảm để nhận mình là đệ tử của Giê-su. Và khi gà chưa gáy lần thứ hai thì ông đã chối thầy đến ba lần. Một người bán, một người chối, còn nỗi đau nào lớn hơn cho một người thầy đã vất vả dạy dỗ học trò?

Chúa cảm thấy bị bỏ rơi khi mà tất cả mọi người đều nhục mạ Chúa. Chúa phải chịu đánh đòn, đội vòng gai và vác thập giá bước đi trong sự nhạo cười của đám đông. Ngay cả nhóm môn đệ thân tín nhất cũng không thể thức và nguyện cầu cùng Chúa. Trong giờ phút quyết định của sống và chết, Chúa cũng buồn sầu đến chết được. Ngài mời ba môn đệ thân tín cùng cầu nguyện với Ngài. Nhưng rồi các ông ngủ gục. Có vẻ như không chỉ có ba môn đệ thân tín ngủ, mà cả trần gian này đều ngủ. Không mấy ai thức cả. Vì thế mà Chúa thấy cô đơn lạc lõng làm sao.

Và cuối cùng trên thập giá, Giê-su thốt lên những lời cuối cùng rất đỗi con người: Chúa ơi sao Chúa bỏ con?

Chúng ta đã quá quen thuộc với việc thần thánh hóa Chúa Giê-su đến nỗi quên luôn khía cạnh con người của Ngài. Cái gì chúng ta cũng coi như là Chúa làm nên dễ dàng. Chúng ta thường hay nói với nhau rằng cái đó thì chỉ Chúa mới làm được còn mình là con người làm sao mà làm được. Vì thế, chúng ta không chịu làm và không dám làm. Tôi nhớ có lần giải thích cho một số người lời nói của Chúa: “Anh em hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho kẻ ngược đãi anh em” (Mt 5,43). Có một người nói với tôi rằng yêu kẻ thù thì chúng con chịu không làm được. Chúa mới làm được thôi. Con là con người thì làm sao mà làm được điều đó. Hôm nay tôi khẳng định lại với các bạn rằng câu nói trên của Chúa, chúng ta hoàn toàn có thể làm được. Chỉ có tình yêu mới hóa giải được hận thù. Bao lâu chúng ta chưa tha thứ thì bấy lâu chúng ta còn nô lệ cho chính bản thân mình. Chúng ta sẽ chẳng bao giờ có được giây phút bình yên.

Chúa nhật Lễ Lá hôm nay khởi đầu tuần Thánh, tuần thương khó của Chúa, tôi mời bạn hãy đọc lại cuộc thương khó của Chúa trong Tin Mừng. Hãy nhìn Giê-su như một con người thực thụ để bạn có thể hiểu và rút ra được bài học cho riêng mình. Chúa đã trải qua tất cả mọi cung bậc cảm xúc của kiếp người và Ngài đã chiến thắng. Ngài chiến thắng không phải bằng sức lực của riêng mình mà là sức mạnh đến từ chính Chúa Cha, Đấng Ngài luôn kết hợp nên một. Cuộc sống của bạn và tôi mỗi ngày cũng phải đối diện với nhiều thử thách. Đừng bao giờ chúng ta chiến đấu một mình. Hãy để cho Chúa Cha hành động trong chúng ta. Hãy để cho sức mạnh Thiên Linh hướng dẫn chúng ta. Chắc chắn c húng ta sẽ có thể vượt qua và hoàn thành tốt đẹp vai trò và sứ mạng của mình trên trần gian này.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...