31/03/2023
1131
Chúa Nhật Lễ Lá Năm A
Lời Chúa: Is 50, 4-7; Pl 3, 2-11; Mt 26, 14 - 27, 66
-------------------------------------


Mục lục

  1. Vượt Qua Thử Thách (Thiên San, MTG. Thủ Đức)
  2. Tình Thầy Giêsu (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  3.  Cùng đi Giêrusalem (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  4. Dâng Người giọt lệ (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
  5.  Đứng vững niềm tin (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)
  6. Chúc tụng  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)
  7. Bạn chọn thái độ nào? (Lm. Phê rô Nguyễn Văn Hương)
  8. Hai sắc thái của mầu nhiệm Vượt Qua  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  9. Ý nghĩa cuộc đời  (Trầm Thiên Thu)
  10.  Những tủi nhục của Chúa Giêsu trước khi bước vào cuộc khổ nạn (Lm. Inhaxio Tr. Ngà)
  11.  Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta  (Phanxico Xavie Trần Đức Tuân)
  12. Xin vâng theo thánh ý Chúa (Lm. Trần Bình Trọng)
  13. Chẳng lẽ con sao (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
  14.  Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật Lễ Lá_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)



 

VƯỢT QUA THỬ THÁCH

Thiên San, MTG. Thủ Đức

 Suốt cuộc đời, ai có thể tránh được những khó khăn, thử thách? Thật ra, những khó khăn, thử thách vẫn có đó bên ta nhưng điều quan trọng là trước những khó khăn thử thách vẫn thường xảy ra ấy, chúng ta đã làm gì và đâu là thái độ ta thường có? “Chúa Giêsu Kitô, tuy là Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được vị trí ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người về mọi phương diện, ngoại trừ tội lỗi. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá.” (x. Pl 2, 6-8). Ngước nhìn lên Chúa Giêsu trên thánh giá, chúng ta học được bài học của sự tự hủy vì yêu thương.

Bước vào Chúa nhật lễ Lá, Giáo hội cho chúng ta cử hành nghi thức tưởng niệm việc Chúa Giêsu bước vào thành Giêrusalem với tiếng hò reo vang dậy của dân chúng. Khi bước vào Thánh lễ, chúng ta được nghe đoạn Tin Mừng về cuộc Thương Khó của Chúa. Vinh quang trần thế mau qua là thế! Lòng người đổi thay là thế! Mới hôm nay đây rải lá, tung hô đón Người vào thành thánh nhưng ngày mai lại buông lời kết án, đòi đóng đinh Người vào thập giá. Chúng ta có nhìn thấy đâu đó hình ảnh của mình nơi những nhân vật xuất hiện trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu? Thiết nghĩ, chẳng phải chỉ một mình Chúa Giêsu gặp khó khăn thử thách trong biến cố này. Có thể nói, tất cả mọi người có mặt trong biến cố của Chúa đều gặp thách đố, mỗi người một kiểu: Có nhiều kẻ đã vấp ngã!

Đầu tiên là thách đố đối với các môn đệ. Theo Thầy bấy lâu, họ quen nghe những lời tung hô ca tụng của dân chúng dành cho Thầy của mình. Không ít lần, họ cảm thấy phổng hết mũi vì bao lời tung hô thiên hạ dành cho cả Thầy và trò. Dẫu không ít lần, họ gặp thất bại khi bị chống đối đến nỗi họ chỉ muốn xin thầy cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những kẻ chống đối. (x. Lc 9, 54). Nhưng nói cho cùng, lần này, đứng trước Cuộc Khổ Nạn của Thầy, họ mất hết hy vọng. Thử thách đối với họ quả là quá lớn. Không lớn sao được khi Thầy của mình bị bắt đem đi đóng đinh. Mười hai môn đệ thề sống chết với Thầy nhưng có ai đi trọn con đường? Kẻ này bán Thầy, kẻ kia chối Chúa, tất cả đều bỏ trốn hết. Thế mới biết, phận người thật yếu đuối trước khó khăn, thử thách.

Dân chúng thì sao? Dân chúng thì đông vô kể. Chúng ta chẳng thể biết, trong đám đông đứng lên đòi đóng đinh Thầy Giêsu hôm nào, có ai đã từng mang ơn Thầy, từng được Thầy chữa lành bệnh tật. Nếu có thì điều đó thật là điều đau đớn cho Thầy Giêsu. Đám đông dân chúng không gặp thách đố sao được khi giới cầm quyền liên tục phản đối Chúa Giêsu, không ít lần quyết định sẽ trục xuất bất cứ ai tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Kể cũng tội nghiệp. Họ chỉ biết chọn gió chiều nào theo chiều ấy. Bởi đó, khi quan Philatô ngỏ ý muốn tha Chúa Giêsu thì họ lại nghe lời xúi dục của giới cầm quyền mà xin tha Baraba. Chọn lựa đối với họ thật không dễ, nhiều người trong đám đông còn chẳng có quyền để chọn lựa.

Những người Pharisêu, biệt phái và kinh sư cũng chẳng tránh được những thử thách. Họ đã vấp ngã. Phải chăng, thử thách lớn nhất mà họ gặp phải chính là Đức Giêsu. Đức Giêsu là khó khăn, thách đố lớn nhất họ gặp phải. Những việc làm, những lời nói của Chúa Giêsu xem ra trái với đức tin và truyền thống theo cái nhìn của họ. Mặc dù, Đức Giêsu đã không ít lần khẳng định rằng, các việc Người thực hiện làm chứng Người là ai và từ đâu đến. Họ bị đặt trước những thách đố ngày càng gia tăng, những cuộc đối thoại giữa họ và Đức Giêsu ngày càng căng thẳng, nhất là khi Chúa Giêsu công khai nhận mình là Con Thiên Chúa. Xem ra điều này đi ngược với đức tin vào một Thiên Chúa duy nhất của họ. Không ít lần, nhóm Pharisêu đã giận điên lên vì những giáo huấn và việc làm của Đức Giêsu. Dân chúng dường như đã bỏ rơi họ mà chạy theo Đức Giêsu. Họ không ghen ghét sao được. Thế rồi, họ quyết định khử trừ Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu có gặp khó khăn thách đố không? Câu trả lời là “có”. Ngài gặp nhiều khó khăn, thách đố hơn ai hết. Không thách đố sao được khi các môn đệ bỏ đi hết, kẻ “chối từ”, người “bán đứng”. Không thách đố sao được khi chén đắng Cha trao quá lớn. Với bản tính nhân loại, khi phải đối iện với cái chết gần kề, Đức Giêsu cảm thấy tâm thần xao xuyến, đau đớn đến đổ mồ hôi máu. Người cảm thấy cô đơn khi không tìm được một sự chia sẻ của các môn đệ. “Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy” (Mt 26, 38); Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối.” (Mt 26, 40-41). Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cho mình khỏi uống “chén này” nhưng sau khi cầu nguyện, cuối cùng Người đã thưa lên rằng: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42).

Lạy Chúa, chẳng có ai trong chúng con tránh được những khó khăn, thách đố. Những khó khăn thách đố ấy có thể đến từ chính con người của chúng con, nó có thể đến từ người bên cạnh, từ hoàn cảnh sống… Như Chúa đã vui lòng đón nhận với sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha, xin giúp chúng con biết thay đổi cái nhìn của mình trước khó khăn thách đố vẫn thường xảy đến, để tất cả trở nên phương thế giúp chúng con sống gần với Chúa hơn. Khi chúng con biết kết hợp những đau khổ của bản thân để cùng chia sẻ với những đau đớn của Ngài trong Cuộc Thương Khó, chính là khi chúng con được cùng Chúa chia sẻ cuộc sống này. Xin Chúa thêm ơn giúp sức để chúng con lớn lên, mạnh mẽ hơn qua những khó khăn thách đố. Xin đừng để chúng con bị vấp ngã vì chúng, nhưng khi đã lỡ vấp ngã, xin giúp chúng con biết cùng Chúa đứng lên. Amen.

Về mục lục

TÌNH THẦY GIÊSU

Tuần Lễ Lá-A: Mt 26, 14-27, 66

Tiến trình: tre già măng mọc, có công mài sắt, có ngày nên kim; thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu. Từ xa xưa vẫn ngầm nói tới một quy luật: mọi thứ trên đời phải trả giá bằng công sức, tiền của, riêng tình yêu, người ta phải trả giá bằng trái tim rỉ máu, đôi khi phải cả mạng sống. Tình bạn vô cùng đẹp, nếu gặp sự khó bạn bè xuất hiện, trong khi người khác họ mặc kệ, dửng dưng. Trong tình yêu, âm thanh dễ nghe nhất, giai điệu tuyệt vời nhất, chính là điều chất chứa trong tim, họ dành cho nhau vượt lên trên những đòi hỏi của tự nhiên. Tình bạn, tình yêu, tình vợ chồng, theo tuần tự rất đẹp, luôn phản ánh một đòi hỏi lớn dần lên, cao siêu hơn, trách nhiệm to hơn. Nơi nào có tình yêu nơi đó có sự sống. Nơi nào đáng sống nhất, hạnh phúc thật, hẳn có nhiều điều tốt đẹp, dù ta không nhìn rõ, không tường tận hết, nhưng trái tim ta sẽ mách bảo.

Đích đến ở đời đâu phải ta già hay trẻ, giầu nghèo, tài cao đức rộng, tiếng tăm lừng lẫy, chính xác là ta được hạnh phúc. Đỉnh cao của đời người tín hữu, chắc không phải là hành hương “đất thánh”, là được viếng toà thánh Vatican. Cũng không phải được sống theo diễn tiến phụng vụ tuần thánh, mà cả một cuộc đời tự nguyện sống mầu nhiệm tử nạn và phục sinh với Thầy Giêsu. Mang thân phận người, Thầy Giêsu đầy tâm trạng khi đi Giêrusalem, các học trò thì hoảng loạn, dân chúng tung hô vạn tuế Con Vua Đavít, song lại đòi đóng đinh Vua Giêsu ! Mất tiền mất của, không mất, được ơn, đủ tình Giêsu, có tất cả ! Tình cha mẹ đối với con cháu, tình bạn bè, tình vợ chồng, tình thầy với trò, có bình an hạnh phúc không, cứ liên đới hiệp thông cùng Thầy Giêsu, hẳn sẽ có đáp án.

Tình đẹp, tình ngọt ngào, tình chuẩn mực, ai chẳng mê ? Tình Giêsu, tình Thầy ra đi chịu chết, chịu đóng đinh, ai chẳng sợ chẳng khiếp ? Hoa đẹp thơm, hoa tươi thắm, có ngày tàn, tình say đắm, có ngày tan, duy tình Thầy trò: là cao cả, không đắm, không say, cũng không tàn, đừng nghi ngờ. Chúng ta tìm đâu ra Người Thầy vĩ đại: biết trước đứa học trò phản bội, chối Thầy, bỏ Thầy, tham sống sợ chết, nhưng Thầy không dập tắt, không loại trừ ? Tìm nơi nao để có Vị Thầy đủ bình tĩnh, nhẫn nại, trước đám đông: vô ơn bạc nghĩa, nay tung hô, mai đả đảo ? Tìm đâu ra Người Thầy hoàn hảo, vì yêu, sẵn lòng vâng phục thánh ý Chúa Cha: “nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha” ! Tình Thầy Giêsu đã tỏ ra cho các học trò, đang minh chứng cho từng hoàn cảnh nơi chúng ta: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn cứu độ được trao ban cho nhân loại.

Tình Thầy Giêsu, tình Thầy yêu thương phục vụ, tình Thầy quảng đại bao dung, để rồi tình Thầy nhận lại trái đắng, nhận lấy tình sầu, tình buồn, tình bất công ! “Ông Phêrô thề và chối rằng: tôi không quen biết ông ấy” ! “Dân chúng đồng thanh đáp: đóng đinh nó vào thập giá” ! Tình Thầy Giêsu sẽ sống động mãi trong liên đới cầu nguyện, sẽ vĩ đại trước hoạt động “lòng Chúa xót thương”: tình thật khởi đi từ Thầy Giêsu, yêu thật, là kết quả từ khổ đau thập giá Đức Kitô. Tình Thầy trò nào đã hết, đã phôi phai, không, nhất định là không, tình Thầy trò Giêsu rất rõ ràng: yêu là yêu cả tội lỗi, cả phúc đức, bao gồm cả quá khứ của họ. Ở đời vẫn nói: im lặng là vàng, im lặng là đồng ý, im lặng để cơn giận dữ tan biến, chứ không không phải im lặng để chờ đợi lời xin lỗi. Thầy Giêsu im lặng để mở ra cơ hội sống cho các học trò, cho giới lãnh đạo tôn giáo, cho đám đông: tình Thầy sẽ không đưa ai vào ngõ cụt, có chăng họ tự đưa nhau vào đường cùng ngõ cụt.

Tình Thầy Giêsu không chỉ thu phục bằng dấu lạ: no đủ cơm bánh, thể xác được lành mạnh, số câm điếc được nghe Tin-mừng; mà còn là phép lạ biến đổi tâm tính bằng tình yêu Thánh Thần: “đúng người này là Con Thiên Chúa”. Tình Thầy Giêsu vẫn đang phản ánh một sự thật: “dù có phải đối diện với nguy hiểm, con cũng liều chết cùng Thầy”. “Thưa Thầy có phải con không” ? Hứa cho nhiều, hiểu biết nhiều, và được thương yêu nhiều, nhưng rồi lại quên, lại tự an ủi vì mang thân phận yếu đuối ! Vâng, chỉ nơi tình Thầy Giêsu mới đủ bao dung tha thứ, mới đủ thật lòng nói lời thưa vâng: uống cạn chén Chúa Cha trao. Tình Thầy Giêsu vượt qua đau khổ thập giá, tình Thầy Giêsu sống lại từ cõi chết, minh chứng Thầy đã yêu đến cùng, đã tha thứ, đã làm phát sinh sự sống mới nơi những ai tín thác vào tình Thầy Giêsu. Tình Thầy Giêsu sẽ còn nhiều điều hạnh phúc mới, trong tin yêu mới, của mỗi cá nhân sống cầu nguyện, hiệp thông. Tất cả là hồng ân, tất cả đều có cơ hội: cảm nhận tình đẹp nhất là tình Giêsu. Tình bao dung phóng khoáng nhất là tình yêu Thiên Chúa. Tình vĩ đại nhất là tình Thầy, tự hiến thân mình chịu chết và sống lại để cứu độ nhân loại. Xin Tình Thầy Giêsu, cho chúng con được thông phần vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Thầy, đến trọn đời trọn kiếp. Amen.

Về mục lục

CÙNG ĐI GIÊRUSALEM

Lm. Jos DĐH.

Chứng kiến đám đông gào thét vì sung sướng bởi những thành quả tốt đẹp khoa học mang lại cho con người ; tưởng tượng về một số đông đang la hét phản đối vì quyền lợi bị xâm phạm, không xa lạ gì với chúng ta hôm nay. Người tài được kính trọng, người đức độ được nể phục, là điều hết sức tự nhiên, dù thời xưa hay hôm nay, tất cả như muốn nói lên lời cám ơn, biết ơn những vị khôn ngoan đã đầu tư công sức, đã tập luyện để “thành nhân”. Đúng là tài cao đức rộng sống ở đâu, ở thời đại nào, cũng được mộ mến. Lý tưởng của bậc làm cha mẹ là phải học tập cho mình, phải thực hành giáo dục gương sáng cho con cháu: gieo gì gặt nấy ; gieo yêu thương, gặt nhân đức. Các đấng bậc phải trải qua năm tháng gục ngã vì tội lỗi, rồi được tha thứ, được nâng đỡ dậy. Các ngài mới đủ khả năng chỉ cho con cháu kinh nghiệm, thế giới vạn vật này chính là một tấm gương: ta nhăn mặt với chúng, chúng sẽ nhăn mặt lại ta, ta mỉm cười với nó, nó sẽ mỉm cười với ta.

Phụng vụ tuần thánh mời gọi các tín hữu cùng Đức Giêsu đi Giêrusalem, đi vào trọng tâm của tin tưởng mến yêu. Đức Giêsu tiến về Giêrusalem thực thi sứ mạng cứu độ, vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Người kitô hữu chúng ta đi vào tuần thương khó với Chúa Giêsu để thể hiện niềm tín thác, hiệp thông, đi sâu hơn nữa vào đời sống cầu nguyện, sống đức tin kitô giáo. Tại Giêrusalem, tại nhà thờ, hoặc bầu khí gia đình, hay cụ thể hơn là đền thờ tâm hồn, đều có Đức Giêsu, và có đau khổ thập giá, dù thời gian, hoàn cảnh địa lý xưa nay không giống nhau. Con cháu bất hiếu với cha mẹ ông bà, học trò phản thầy, anh chị em ganh tỵ vì quyền lợi không được như ý… Cảnh Giuđa bán Thầy, Phêrô chối Thầy, các môn đệ bỏ Thầy, từ xa xưa vẫn bị xem là hèn nhát. Tuy nhiên, mỗi người, mỗi tâm hồn sẽ phản ánh một sự thật về sự trung tín, mà chúng ta không thể sống như người thiếu hiểu biết.

Ngày hôm nay, nhân loại vẫn có rất nhiều lời chân tình: “đừng người con nào hỏi cha mẹ đã làm gì cho con” ? Đừng ai nghi ngờ Chúa Giêsu còn có hành trình đi Giêrusalem không ? Hãy hỏi ta có sẵn sàng và tin tưởng cùng với Thầy Giêsu vượt qua đau khổ để tới vinh quang không ? Tại sao Chúa Giêsu không ngăn cản đám đông dân chúng đừng trải áo, đừng tung hô “vạn tuế Con Vua Đavít”, vì Ngài đúng thật là Thiên Chúa cứu độ mà nhân loại hằng mong chờ. Và có bao giờ ta tự hỏi: tôi là gì mà Chúa phải chịu đau khổ, chịu chết vì tôi không ? Bằng sự tự do và kinh nghiệm bản thân, mỗi người dễ dàng quả quyết rằng: tôi được hạnh phúc như hôm nay là nhờ cha mẹ ông bà yêu thương hướng dẫn, giáo dục. Đức Giêsu vẫn sẵn lòng đi cùng nhân loại tiến về Giêrusalem thiên quốc là vì yêu, vì muốn cứu từng người trong chúng ta.

Hành trình đi Giêrusalem hôm xưa, có các học trò, có đám đông đã từng chứng kiến phép lạ, có các luật sĩ biệt phái, và có người chỉ a-dua theo, nhiều người trong đó được nghe giảng dạy, được ơn ban của Đức Giêsu. Hành trình hôm nay, Đức Giêsu vẫn là Thầy là Chúa, vẫn chịu đau khổ, vẫn bị tội lỗi của nhân loại đóng đinh, và Chúa vẫn đang nhắc nhớ người thánh thiện, người tội lỗi, hãy nhìn lên thập giá mà sám hối, ăn năn, hầu được dự phần vào mầu nhiệm cứu độ. Cùng đi Giêrusalem, cùng tin tưởng cậy trông Chúa, nhưng mỗi người có cùng để Chúa biến đổi tâm tính, tội lỗi của mình, để cùng chết và sống lại với Chúa không ? Ở trên thập giá năm xưa, Chúa Giêsu nhìn các học trò đầy tình yêu thương, Chúa Giêsu nhìn Philatô, nhìn những người làm khổ Chúa, nhìn cả nhân loại tội lỗi chúng ta hôm nay nữa ! Nhận biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ trần gian mới là khởi đầu, tin tưởng, sám hối, và sống giáo huấn của Chúa, bao giờ cũng là những bước kế tiếp đầy khó khăn mà ta phải bày tỏ niềm tin.

Hành trình đi Giêrusalem hôm nay, có thể ta không mưu mô như Philatô, không phải ngây ngô như các học trò nhút nhát sợ chết, cũng không phải là đối tượng thiên hạ hay mỉa mai: bạc như dân, bất nhân như lính, mau thay lòng đổi dạ ! Nhưng dù ở vị trí nào trong xã hội, hẳn chúng ta cũng chỉ là tội nhân đáng thương trước ơn gọi làm thần dân của Chúa mà thôi. Nếu đi cùng Chúa tiến về Giêrusalem, cùng Chúa bước vào tuần thương khó, chắc chắn ta vẫn được gọi là môn đệ, dù ta “lặng nhìn Chúa không biết thân thưa”, ta vẫn có những giây phút tuyệt vời vì được Thầy Giêsu ngắm nhìn, như Ngài từng nhìn và giúp các học trò của Ngài sống tốt nhất với sứ mạng của mình. Xin Chúa Giêsu chịu đau khổ thập giá, hiện diện và đi với con cái nhân loại tội lỗi là tôi là bạn ; xin cùng đi suốt, đi hoài, trợ giúp con cái Chúa vượt qua hành trình trần thế này cách trọn vẹn. Amen.

Về mục lục

DÂNG NGƯỜI GIỌT LỆ

 Bông hồng nhỏ

Trong cuộc Thương Khó của Thầy Giêsu, có rất nhiều giọt nước mắt đã rơi xuống: đó là giọt lệ thống hối ăn năn của môn đệ Phêrô khi ông nhận ra mình vừa chối Thầy ba lần; đó là giọt nước mắt đầy hối hận của môn đệ Giuđa trong nỗi đau đớn dày vò và tuyệt vọng vì đã bán Thầy. Còn có rất nhiều giọt nước mắt đã và đang rơi xuống trước cái chết của Thầy Giêsu.

Mới ngày nào, các môn đệ, đặc biệt là nhóm Mười Hai đã cùng Thầy Giêsu rảo bước khắp các làng mạc thôn xóm. Được chia sẻ những thao thức và tình yêu của Thầy, lòng các ông đã được bừng cháy, tâm hồn các ông phấn khởi hân hoan. Người ta tôn vinh Thầy, người ta cảm phục quyền năng của Thầy. Từ trong thâm tâm, các ông đều đang chất chứa những tham vọng và ước muốn về địa vị và quyền lực. Các ông có hiểu và cảm thấu những tâm tư và thao thức của Thầy ngay giờ này? Giờ mà Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, bị các kỳ mục và các kinh sư loại bỏ, bị giết chết; giờ mà người chủ chiên bị đánh và đàn chiên sẽ tan tác; giờ mà Con Người bị những người mà mình yêu thương phản bội; giờ Con Người sẽ được giương cao trên thập giá để thực thi thánh ý Chúa Cha và yêu nhân loại cho đến cùng.

Thầy Giêsu đã báo trước: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26, 31). Nghe vậy, ông Phêrô liền quả quyết: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26, 33). Ông tin tình yêu mà ông dành cho Thầy đủ mạnh để vượt qua tất cả những gian nan khốn khó. Thầy Giêsu bảo ông: “Thầy bảo thật anh: nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần” (Mt 26, 34). Ông Phêrô đáp lại: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26, 35). Đó là lòng nhiệt thành của ông. Thầy bị bắt rồi, ông vẫn theo Thầy xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao (x. Mt 26, 57-58). Ông đã không bỏ Thầy như các anh em khác, dù lo sợ  nhưng vẫn âm thầm dõi bước theo Thầy. Người ta hỏi ông, khẳng định ông là môn đệ của Thầy Giêsu, giữa lúc đó ông đã thề thốt mà chối Thầy. Tiếng gà vừa gáy, ông mới sực nhớ lời Thầy đã tiên báo rằng ông sẽ chối Thầy ba lần. Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết (x. Mt 26, 69-75). Ông nhớ đến lời của Thầy. Trong nỗi đau vì đã chối Thầy, ông nhận ra Thầy luôn là người hiểu rõ ông, hiểu rõ con người yếu hèn nơi ông. Thầy biết ông sẽ vấp ngã, sẽ phản bội nhưng vẫn chọn ông làm trưởng các Tông đồ. Thầy vẫn yêu thương ông, dù biết trước ông sẽ chối Thầy đến ba lần. Lời Thầy không làm cho ông tuyệt vọng nhưng cho ông nhận ra yếu đuối của chính mình. Trong sự vấp ngã đau thương, ông nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho mình. Rồi đây, ông sẽ đứng lên để vững bước theo Thầy. Trên con đường của người môn đệ, chắc chắn chúng ta cũng sẽ ngã nhiều lần như Phêrô, và cũng có thể sẽ ngã nhiều lần hơn thế, đau đớn hơn thế, nhưng điều quan trọng là chúng ta có can đảm để tiếp tục bước theo Thầy trên đường thập giá hay không? Có một người môn đệ cũng đã vấp ngã, đã phản bội Thầy, đó là Giuđa. Khi thấy Người bị kết án thì anh hối hận, anh trả hết bạc cho các thượng tế và kỳ mục để chuộc lại lỗi lầm. Thế nhưng, họ mặc kệ anh. Biết rằng không thể làm thay đổi ý định giết Thầy Giêsu của các thượng tế và kỳ mục, Giuđa vô cùng tuyệt vọng và đã ra đi thắt cổ (x. Mt 27, 3-5). Đau đớn và tuyệt vọng đã làm cho anh không còn thấy niềm hy vọng được tha thứ. Anh không tin vào tình thương của Thầy hay không thể tự tha thứ cho chính mình? Khi tội lỗi làm chúng ta ngã quỵ trong đau thương, chúng ta hãy vững tin vào tình thương bao la của Thiên Chúa, tin vào tình thương mà Thầy Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa Giêsu để được Người nâng đỡ, ủi an. Chính Người đã chết để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy dâng Người giọt lệ sầu thống hối và nhận lấy niềm tin và hy vọng từ chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Nơi Người, chúng ta sẽ được đón nhận tình thương bao la của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu! Tội lỗi thường làm cho chúng con ngã quỵ và vây kín chúng con trong bóng đêm của nó. Mỗi ngày, xin cho con biết chạy đến bên Chúa Giêsu Thánh thể, để nhờ ơn Chúa, con biết chân thành sám hối về các tội lỗi con đã phạm, để trong tình thương của Chúa, con dám đối diện với nỗi đau và gánh lấy sức nặng của tội; để khi “được cùng chịu đóng đinh với Chúa Kitô vào thập giá, con cũng được sống lại với Người”. Xin Chúa Giêsu nhận lấy giọt nước mắt thống hối của con và biến nó thành nước mắt của vui mừng và hy vọng. Amen.  

Về mục lục

ĐỨNG VỮNG NIỀM TIN

Anna Cỏ May

Trong các chương trình âm nhạc, khi các ca sĩ hay những người chơi âm nhạc xuất hiện thì thường có hai phản ứng: hoặc là mọi người vỗ tay hoan hô chào đón cách nồng nhiệt hoặc là ném “đá”. Tại sao chúng ta lại có phản ứng như vậy?

Khi Đức Giêsu và các môn đệ vào thành Giêrusalem, dân chúng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại nhặt nhành lá mà rải lên đường đi và reo hò vang dậy: “Hoan hô Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (x. Mt 21,8-9). Dân chúng đã từng chứng kiến quyền năng của Đức Giêsu qua rất nhiều phép lạ, nhất là qua sự sống lại của anh Ladarô. Từ đó, họ hy vọng Ngài sẽ đem lại cho họ một cuộc sống sung túc trong danh vọng tiền tài, không còn thiếu của ăn của để. Ngay cả các môn đệ, các ông vẫn luôn mong ước điều đó. Nhưng sau khi vào thành Giêrusalem, mọi sự đã thay đổi từ cái hôn của Giuđa – kẻ nộp Thầy với ba mươi đồng bạc. Trong vườn Dầu, các môn đệ bỏ chạy hết. Đám quân lính đến bắt Ngài không mất chút sức lực nào. Ngài đi vào cuộc thinh lặng. Ngài thinh lặng trước những lời tố cáo phỉ báng của các thượng tế và những người Pharisêu. Họ tố Ngài là kẻ chống lại Lề Luật, chống lại Đền Thờ và chống lại niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Dân chúng cũng đồng tình với giới lãnh đạo và đồng thanh kết án Đức Giêsu. Mặt khác, dân chúng nhìn thấy người mà mình từng đặt hy vọng bây giờ không còn gì nữa mà chỉ còn một sự đau khổ và nhục nhã. Bên cạnh đó, thượng tế Caipha cũng đã nói: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,50). Dân chúng đã nghe theo những ai có lợi thế hơn lúc này. Chỉ còn số ít ngậm ngùi trong giọt lệ khóc than với Thầy. Như vậy, dân chúng đón rước Đức Giêsu khi họ nhìn thấy vinh quang uy quyền của Ngài, nhưng lại dễ chối từ Ngài bởi lời tố cáo của người khác và cũng bởi vì nhìn thấy thực tại của Ngài giờ đây không còn có ích cho họ nữa.

Nếu chúng ta không tỉnh thức, chúng ta cũng sẽ rơi vào thái độ của dân chúng lúc bấy giờ. Trong cuộc sống hiện nay, chúng ta không chỉ phải đối diện với bệnh dịch mà còn bị thử thách đức tin. Đã có nhiều người cho rằng Thiên Chúa đang giáng phạt con người qua bệnh dịch này, khiến cho nhiều người mất đi niềm tin vào lòng thương xót và nguồn cậy trông vào sự tha thứ của Thiên Chúa. Là người Kitô hữu, chúng ta càng không thể đánh mất đức tin mà bấy lâu nay chúng ta đã đang cố gắng gìn giữ và xây dựng. Trên thánh giá, Đức Giêsu trong một thân xác đau đớn, hơi thở yếu dần, đã thưa với Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Chúng ta hãy vững tin vào Thiên Chúa mà chạy đến tựa nép bên Ngài. Vì Ngài đã nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11).

Lạy Chúa giàu lòng thương xót, xin thương chúng con trong cơn thử thách về thể xác cũng như tinh thần. Để nhờ ơn Chúa đỡ nâng, chúng con biết cùng nhau vượt qua và tiến về ngôi nhà duy nhất là Nước trời. Amen.

Về mục lục

CHÚC TỤNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Thầy trò đến núi Cây Dầu,
Giê-ru-sa-lem, đối đầu công khai.
Sai hai môn đệ hôm mai,
Đến làng trước mặt, quản cai hỏi nhờ.
Thầy cần lừa mẹ bây giờ,
Dùng xong gởi trả, cậy nhờ tựa nương.
Lời xưa ứng nghiệm tỏ tường,
Si-on thiếu nữ, bên đường tung hô.
Vua ngươi nhân ái bước vô,
Ngồi lưng lừa mẹ, chở đồ kéo lê.
Đoàn dân trải áo bên lề,
Nhành cây trải lối, Chúa về Sa-lem.
Mọi người thành phố ra xem,
Hoan hô chúc tụng, rước đem vào thành.
Tầng trời tuôn đổ ơn lành,
Con Vua Đa-vít, nhân danh Chúa Trời.
Tiên tri nhân đức cao vời,
Xuất thân làng nhỏ, gọi mời dấn thân.
Na-gia-rét đó vọng ngân,
Ngôi Hai Thiên Chúa, thế nhân cứu đời.

Bước vào Tuần Thánh là thời gian quan trọng nhất trong lịch phụng vụ. Chúng ta sẽ tưởng niệm sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bắt đầu Tuần Thánh với sự kiện Ngài vào thành Giêrusalem. Dân chúng hoan hô đón chào. Nhiều người chặt cành là vẫy chào và có nhiều kẻ trải áo xuống đường đón rước Chúa trong tiếng tung hô: Hoan hô con Vua Đavít.

Chỉ sau vài ngày, những tiếng tung hô đã trở thành những tiếng gào thét. Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá. Sau hơn 2000 năm, tiếng gào thét vẫn còn vang vọng nơi nơi. Hãy tha Baraba và giết Giêsu. Giữa thế giới trần tục hôm nay, thiên hạ vẫn lên tiếng ủng hộ những kẻ làm điều ác. Họ vẫn cứ giơ tay ủng hộ những phong trào vô luân. Nhiều người đồng ý ủng hộ những phong trào phá thai, chiến tranh, đồng tình luyến ái, tự do sống chung…Nhiều người vẫn muốn giết Chúa Giêsu, loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Những biểu tượng thánh giá bị gỡ bỏ, những dấu hiệu tôn giáo bị cấm cản.

Nhiều người muốn tha Baraba để rồi khỏi phải nghe những lời khuyên dạy về đạo đức luân lý. Họ coi những lời khôn ngoan dạy bảo của Chúa như lỗi thời không còn thích hợp với đời sống văn minh tiến bộ. Họ muốn chính họ là chủ cuộc đời trong mọi chọn lựa. Thật lạ lùng, đám đông theo Chúa, họ đã nhận lãnh biết bao hồng ân, đã chứng kiến biết bao phép lạ và đã nghe biết bao bài giảng của Chúa. Rồi trong giây phút quan trọng, họ đã quay mặt làm ngơ và giơ tay đả đảo. Họ phỉ báng nhạo cười và thách thức Chúa. Ôi, thật bạc bẽo chua cay!

Chúa cũng còn chút an ủi, một số những bạn bè thân cận âm thầm bước theo sau. Đặc biệt là các con gái thành Giêrusalem. Họ không dám lên tiếng bênh vực cho Chúa cách công khai, nhưng cảm thông và âm thầm chịu đựng.

Theo Chúa, chúng ta phải có sự chọn lựa chính xác. Chúng ta không thể làm tôi hai chủ. Chọn Chúa hay chọn Baraba. Nhiều khi chúng ta muốn trung dung và không có thái độ dứt khoát. Chọn Chúa là chọn con đường thập giá. Có thánh giá là có hy sinh và có đau khổ. Qua thập giá sẽ đưa chúng ta đến vinh quang.

Về mục lục

BẠN CHỌN THÁI ĐỘ NÀO?

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Với Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào Tuần Thánh, là tuần cao điểm của năm phụng vụ, để cử hành và tưởng niệm cuộc Khổ nạn và Phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu, Chúa chúng ta. Nếu chúng ta để ý, chúng ta thấy Phụng vụ của Lễ Lá có sự mâu thuẫn:

Trước thánh lễ, đó là nghi thức rước lá: nghi thức diễn tả thái độ vui mừng và nồng nhiệt của dân Do Thái đón tiếp Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem: họ cầm lá trong tay, rồi còn lấy áo mình trải cho Chúa Giêsu đi, một cử chỉ rất nồng nhiệt như chào đón một vị vua hay Đấng Cứu Thế.

Tuy nhiên, khi bước vào thánh lễ, các bài đọc lại diễn tả toàn là những sự đau khổ của Chúa Giêsu, đặc biệt trong bài Thương Khó.

Đây là sự tương phản mà Giáo Hội có dụng ý muốn diễn tả qua Phụng vụ này để làm nổi bật sự mâu thuẫn của thái độ hay thay đổi của con người. Sự mâu thuẫn này bắt nguồn từ lòng dạ của con người, từ trái tim của mỗi người chúng ta: mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, mâu thuẫn trong thái độ sống, giữa lời tuyên xưng niềm tin và đời sống cụ thể.

Sự thay lòng đổi dạ này là sự kiện lịch sử đã xảy ra trong vụ án Giêsu, mà Giáo Hội truyền lại cho chúng ta để chúng ta khám phá ý nghĩa của nó và giúp chúng ta sống tốt đức tin mình hơn.

1- Thái độ của người Do Thái

Trước hết, thái độ và lòng dạ của dân Do Thái: Đây là thái độ mâu thuẫn và bất nhất của họ đối với Chúa Giêsu: chỉ trong mấy ngày trước, khi Chúa vào thành Giêrusalem, họ vui mừng, tung hô, hò reo, tôn vinh Chúa là Con Vua Đavít, nhưng sau đó mấy ngày, chính họ là những người hô to: “Đóng đanh nó đi, giết nó đi.” Đó là thái độ bất nhất!

2- Thái độ mâu thuẫn của các môn đệ

Thứ đến là thái độ của các môn đệ, trong đó có thái độ của Phêrô, một môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu, trước đó, ông hùng hổ dám tuyên bố với Chúa rằng ai đến bắt Chúa thì phải bước qua xác ông. Vậy mà chỉ sau đó một thời gian ngắn, một cô gái hỏi: “Ông có phải là môn đệ Đức Giêsu không?” Phêrô đã chối đành đạch ba lần rằng: “Tôi không biết Người ấy.” Ôi người nhát đảm quá!

Một Giuđa mới ngày hôm trước ngồi ăn với Chúa, gần gũi với Chúa, thầy thầy, con con, nhưng ngày hôm sau, ông đã bán rẻ Chúa với giá 30 đồng bạc. Ông dùng nụ hôn là nghĩa cử yêu mến để làm dấu cho người ta bắt Chúa. Bên ngoài đạo đức, bên trong là dao găm, nham hiểm! Đồ hai mặt!

3- Thái độ của những người lãnh đạo tôn giáo

Họ là những Luật Sỹ, Kinh Sư hay thuộc nhóm Pharisêu. Họ duy lề luật, cứng nhắc, thành kiến và khó thay đổi trong xác tín, niềm tin của mình. Trước sứ điệp mới mẻ của Chúa Giêsu, họ không chỉ không đón nhận mà còn tìm mọi cách để chống đối Chúa Giêsu. Chính họ là những người đã gây nên vụ án của Chúa Giêsu. Họ là những người đạo đức giả, chạy theo bề ngoài, nhưng tâm địa đầy độc ác và gian thâm.

Tuy nhiên, khi suy niệm cuộc khổ nạn Chúa Giêsu, chúng ta không phải chỉ tưởng nhớ những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng khi suy niệm những thái độ sống của những nhân vật trên, chúng ta được mời gọi liên hệ đến mình, soi bóng mình trong đó. Cử hành là liên hệ với đời sống chúng ta.

Nếu hiểu như thế, khi suy ngắm những mâu thuẫn của những người Do Thái và các môn đệ đối với Chúa Giêsu, chúng ta cũng khám phá ra chính chúng ta cũng có những thái độ tương tự như thế đối với Chúa. Sự mâu thuẫn luôn có mặt trong cuộc đời và trong đời sống đức tin của mỗi người.

Mới ngày hôm qua chúng ta đọc kinh, xem lễ đạo đức lắm, nhưng hôm nay đã chối Chúa rồi.

Mới hôm qua hứa với Chúa sẽ không phạm tội, nhưng hôm nay đã phạm tội rồi.

Ở trong nhà thờ chúng ta sốt sắng tuyên xưng Chúa là Vua, Đấng Cứu Độ, nhưng ra khỏi nhà thờ, chúng ta lại sống như những người vô đạo, lừa lọc, gian dối với anh chị em mình…

Nhưng chúng ta có thể chọn theo một trong ba thái độ sau:

Thái độ thứ nhất là tuyệt vọng : Giống như Giuđa, biết mình phạm tội, nhưng ông đã tuyệt vọng trong tội lỗi, và ông đã đi thắt cổ tự tử. Đó là thái độ tuyệt vọng trước tội lỗi của mình và đánh mất niềm tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Thái độ đó đưa đến bế tắc, tự tử.

Thái độ thứ hai là cố tình ở lỳ trong tội : Những người lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ, là những người trực tiếp gây ra án chết của Chúa Giêsu, nhưng sau khi Chúa phục sinh, họ vẫn cố tình ở lỳ trong tội, không chấp nhận sám hối, không biết ăn năn để trở về với Chúa.

Thái độ thứ ba là sám hối : Đó là thái độ của Phêrô, ngài ý thức tội của mình, khóc lóc, sám hối, và khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi của mình, xin Chúa tha thứ, nhờ đó, từ kinh nghiệm về tội lỗi và sám hối, ông đã trở thành người đứng đầu trong Giáo Hội và hướng dẫn cộng đoàn, nhờ thái độ khiêm tốn và sám hối của mình.

Như thế, tuyệt vọng, ngoan cố, ở lỳ trong tội, hay là sám hối trở về, trong ba thái độ đó, anh chị em chọn thái độ nào? Câu trả lời là tùy thuộc vào quyết định của anh chị em trước mặt Chúa trong Tuần Thánh này. Amen!

Về mục lục

HAI SẮC THÁI CỦA MẦU NHIỆM VƯỢT QUA

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài là người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Ngài đón nhận Thập giá tủi nhục thất bại, và đã biến đổi Thập giá thành nguồn ơn cứu độ, tình thương tha thứ cho nhân loại tội lỗi.

Phụng vụ bước vào Tuần Thánh với khởi đầu là Chúa Nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Thương khó, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó.Việc cử hành hôm nay mang hai sắc thái có vẻ nghịch nhau : mới mừng cuộc khải hoàn của Chúa Kitô, rồi lại cảm thông nỗi thống khổ của Người. Phụng vụ hôm nay kết hợp hai khoảnh khắc trái ngược nhau; cuộc chào đón Đức Giêsu vào Giêrusalem và thảm kịch Thương khó; lễ hội “Hosanna” và những tiếng la ó lặp đi lặp lại “Đóng đinh nó vào thập giá!”; cuộc khải hoàn và sự thất bại bề ngoài qua cái chết trên thập giá.

Bài Thương khó kể lại từng chặng đường đau thương của Đấng Cứu Thế. Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Thầy. Giuđa chỉ điểm bắt Thầy bằng một nụ hôn giả dối. Các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Thầy. Chúa Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Họ khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào da thịt. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để rồi thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thơ, mau kiệt sức và chóng chết. Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền!. Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Ngài như thế.

Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).

Cuộc khải hoàn rước lá của Chúa Giêsu là một dấu chỉ của chiến thắng vinh quang chung cuộc. Việc kiệu lá cho thấy rõ ý nghĩa đích thực của đau khổ và thập giá. Tương tự trong sự kiện “biến hình” trên núi Tabo: Chúa Giêsu cho ba tông đồ thoáng thấy vinh quang thần tính. Khi xuống núi, Ngài ra lệnh cho ba tông đồ phải bảo mật cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết, nghĩa là cho đến khi ý nghĩa của biến cố được tỏ bày. Cũng chính ba tông đồ thân tín chứng kiến cơn hấp hối của Chúa ở vườn Cây Dầu. Sau Phục sinh, Chúa Kitô cũng giải thích cho hai môn đệ trên đường Emmau: “Đức Kitô không phải chịu đau khổ như thế rồi mới vào vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26).

Như vậy ngay từ Lễ Lá, hai sắc thái, hai cục diện của mầu nhiệm Vượt Qua được trình bày rõ ràng. Lễ Lá trình bày hai cục diện theo thứ tự đảo ngược : vinh quang trước, khổ nạn sau. Nhưng thứ tự đó biểu lộ thực chất của mầu nhiệm Vượt Qua. Mầu nhiệm Vượt qua cơ bản là một mầu nhiệm đạt tới vinh quang và sự sống. Sự chết chỉ là bước đi qua, là phương tiện để đạt tới mục đích là vinh quang Phục Sinh. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Chúa Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Chúa Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng.

Trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền. Tình yêu ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh.

Bước vào Tuần Thánh, chúng ta cùng theo Chúa Giêsu trên con đường Thập giá.

Theo Chúa không chỉ khi gặp may mắn, thành công, bình an mà còn chấp nhận khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại.

Theo Chúa không là con đường “xuôi chèo mát mái” hoàn toàn hạnh phúc an lành, mà còn là con đường chọn lựa quyết liệt với những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực thế gian.

Theo Chúa Giêsu là đi con đường thập giá vừa lên dốc, vừa nhiều ổ gà ổ voi và vừa là con đường một chiều. Con đường ấy hẹp chứ không thênh thang theo những trào lưu dễ dãi, giả dối, ích kỷ, hận thù, bạo lực… nên cần phải sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung.

Tuần Thánh, cùng đi vào hành trình thương khó của Chúa, chúng ta gặp thấy nhiều tình huống tăm tối của “nhân tình thế thái” như vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình Yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh đối với Chúa Cha và lòng xót thương với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Cảm nếm và thông phần với nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng vẫn luôn nhận ra lòng xót thương nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài theo Tin Mừng kể lại. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta càng yêu Thập giá của Chúa hơn, yêu thập giá của mình hơn và kính trọng thập giá của người khác hơn.

Theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là một thách đố lớn trong bối cảnh thời nay. Xác tín rằng, có Chúa cùng đồng hành, Ngài luôn thấu hiểu nâng đỡ, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên hành trình theo Ngài. Nếu can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

Về mục lục

Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI

Trầm Thiên Thu

Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa

Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua

Cuộc đời không là cuộc dạo chơi, mà là cuộc đấu tranh – khó nhất là chiến đấu với chính mình, vượt qua “cái tôi” tồi tệ của mình. Và người ta vẫn nói rằng “đời là bể khổ.” Khổ đủ thứ, khổ mọi chiều – ngang, dọc, trên, dưới, cao, thấp, dài, ngắn.

Người ta chỉ thở dài chứ không thở ngắn. Thở dài thườn thượt vì khổ, biết là khổ mà chẳng ai định nghĩa được thế nào là khổ một cách chính xác và thỏa mãn nhất. Theo cách tương đối, có thể tạm hiểu với công thức giản lược: Đau khổ = Ưu sầu + Nước mắt. Tất nhiên phải “trừ” loại nước mắt vui mừng, dù hai loại nước mắt đều có vị mặn. Người ta dễ dàng lấy vạt áo lau khô những “giọt mặn” rỉ ra từ đôi mắt, nhưng rất khó xóa “vết mặn” khỏi trái tim mình. Thật vậy, sướng hay khổ còn do mỗi người có khái niệm riêng. Có những triết lý dễ hiểu, có những triết lý khó hiểu, thậm chí là không thể hiểu: Triết lý sống động của Thập Giá. Đó cũng là loại triết lý của sự đau khổ rất đặc biệt.

Chân phước Charles de Foucauld phân tích chí lý: “Trên thế giới đau thương này có một niềm vui mà các thánh và các thiên thần trên thiên đàng không được hưởng – đó là được cùng đau khổ với người yêu dấu của chúng ta. Dù cuộc sống có gian truân đến đâu, chuỗi ngày thê lương của chúng ta có lê thê đến mấy,… chúng ta cũng đừng bao giờ rời xa chân Thập Giá trước khi Chúa muốn. Thầy Chí Thánh thật nhân lành đã cho chúng ta, những tâm hồn yêu mến Thập Giá, được cảm nghiệm sự ngọt ngào của nó, nếu không phải luôn luôn, thì ít ra là vẻ đẹp và sự cần thiết của nó.”

Là con người, chắc chắn chẳng ai chờ đợi niềm đau nỗi khổ, thế nhưng đau khổ vẫn luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố gắng hiểu suốt cả đời. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa quả. Chúa không khiến nó mọc lên trên những cành quá yếu ớt để chịu nổi nó.” Còn Elbert Hubbard nói: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Vì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống.” Ý tưởng thâm thúy. Chính đau khổ lại khiến người ta nên khôn, một sự thật vô cùng kỳ lạ!

Cuộc sống đời thường cho thấy rằng những con người có cách sống tốt đẹp là những người từng bị thất bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và họ đã tìm được con đường ra khỏi vực sâu, thoát khỏi đường hầm. Những con người này có lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời, chính cuộc đời đã làm cho họ biết cảm thông, biết quan tâm chia sẻ và yêu thương sâu sắc. Rõ ràng không phải tự nhiên mà có, nhưng phải phấn đấu không ngừng – tức là gian nan, vất vả, đau khổ,…

Quả thật là kỳ diệu đối với triết lý đau khổ. Cái xui có sần sùi nhưng là cái bùi nhùi chùi bóng cuộc đời. Kinh Thánh cho biết rằng hung tin dồn dập, nhưng ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21) Mặc dù đau khổ đến tột cùng, nhưng “ông Gióp KHÔNG hề phạm tội cũng KHÔNG buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1:22) Hai cái “không” của ông thật tuyệt vời. Ai hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản, bình an, bình lặng nhưng êm đềm.

Như để tự an ủi để vượt qua đau khổ, người ta thường nói: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm.” Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu theo góc độ nào đó về Chúa Giêsu, Đấng nhập thể làm người. Kinh Thánh cho biết cuộc đời Ngài đầy đau khổ ê chề, thế nhưng Ngài vẫn có được khoảnh khắc huy hoàng là được thiên hạ tung hô lúc Ngài cưỡi trên lưng lừa khi vào Thành Giêrusalem. Và giờ của Ngài đã đến!

Hôm nay, Giáo Hội sử dụng bài ca thứ ba trong các Bài Ca của Người Tôi Trung, tuy ngắn gọn mà súc tích: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.” (Is 50:4-5) Vẫn giữ được lòng trung tín trong lúc đau khổ như vậy thì không dễ chút nào, đức tin phải thực sự mạnh mẽ lắm.

Trong đại dịch hiện nay, mỗi chúng ta đều cần có đức tin như vậy để không bị chi phối, không bị hoảng loạn, biết sống liên đới và nâng đỡ nhau, không suy diễn lệch lạc gây ảnh hưởng xấu tới đức tin chân chính Kitô giáo.

Có điều kỳ diệu là nỗi đau khổ không làm người ta yếu đuối mà lại làm tăng sức chịu đựng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is 50:6-7) Thật là kỳ diệu, những người không có niềm tin Kitô giáo chắc chắn không thể hiểu được, và sẽ cho những người chịu đau khổ là những người điên khùng.

Trong khi đau khổ tột cùng, Thánh Vịnh gia đã thốt lên: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Thách thức quá lớn, khoảng cô đơn quá rộng, thật ê chề nhục nhã quá đi!

Người ta cảm nhận chí lý: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí.” Điều đó như một quy luật muôn thuở, giống như định mệnh vậy. Đau khổ này chồng lên đau khổ khác: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.” (Tv 22:17-20) Không còn gì để mất nữa, khốn khổ tột cùng, lo sợ run cả người, nguyện cầu không ngừng, thế nhưng vẫn chẳng nghe động tĩnh gì. Trong cơn đại dịch hiện nay, cả thế giới cũng đang có cảm giác như vậy!

Tuy nhiên, dù có thế nào thì vẫn một niềm tín thác, vẫn xưng tụng Thiên Chúa, vì đó là mục đích sống của tín nhân: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Israel tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:23-24) Và chẳng có gì tách tín nhân ra khỏi Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô. (Rm 8:39)

Sống nhờ hơi thở cầu nguyện. Cầu nguyện cũng là dưỡng chất tâm linh. Cầu nguyện mà không nghe động tĩnh gì, đó là dấu chỉ chắc chắn rằng Chúa đang xót thương. Lại thêm một điều kỳ diệu. Muốn hiểu được triết lý này thì cần phải có niềm tin Kitô giáo. Với người ngoài Kitô giáo hoặc vô thần, họ cho đó là “bùa mê, thuốc lú,” ai tin như vậy đều bị họ coi là dại dột, là dốt nát, là ngu xuẩn hoặc điên rồ. Nhưng cái dại đó lại là cái khôn kỳ diệu.

Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2:6-7) Chúa Giêsu không chỉ tự nguyện như vậy, mà còn hơn thế nữa: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:8) Đúng là mầu nhiệm, do đó mà khó hiểu. Tuy nhiên, “khó hiểu” chứ không phải là “không thể hiểu.” Nghĩa là vẫn có thể hiểu – hiểu bằng đức tin và đức mến.

Dù là dạng tình yêu nào thì cũng cần “chất” đau khổ, có đau khổ mới chứng tỏ tình yêu chân chính. Đại văn hào Victor Hugo nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong tình yêu.” Chết mà là sống. Người đời mà còn nhận định được như vậy thì kỳ lạ thật!

Sự đau khổ luôn có giá trị nhất định và thực sự độc đáo. Gian nan dẫn đến thành công, đau khổ đưa tới vinh quang. Tương tự, sự chết là đường dẫn tới sự sống, là cửa ngõ mở lối vào cõi trường sinh. Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Ai tin nhận Ngài sẽ được sống đời đời. (Ga 3:16; Ga 6:47)

Khi Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem cũng là lúc Ngài bắt đầu đi vào cõi đau khổ, rồi từ “biên giới” đầy gian khổ là Vườn Dầu tiếp tục dẫn tới “cửa ải” sự chết là Núi Sọ, thế nhưng từ Núi Sọ “chết chóc” ấy lại dẫn tới cửa sự sống là Nước Trời. Một bản đồ lòng vòng như mê cung nhưng lại thú vị và hấp dẫn, có biết bao người mong được sử dụng loại bản đồ này, và nhiều người đã đạt được mục đích – các thánh nhân, đặc biệt là các vị tử đạo. Lối hẹp mà hóa đường rộng, vị cay đắng trở thành vị ngọt ngào.

Dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, chuyện gì đến cũng sẽ đến. Đó là điều tất yếu của cuộc đời. Ngày Chúa Giêsu được người ta tiếp đón và chúc tụng nhưng Giáo Hội sử dụng bài thương khó – bộ phim trĩu nặng u buồn.

Một người trong Nhóm Mười Hai, Giuđa Ítcariốt, đành lòng bán Thầy mình để lấy một số tiền. Từ lúc đó, gã cố tìm dịp thuận tiện để nộp Thầy mình. Vật chất và tiền bạc có ma lực cực mạnh khiến người ta mù quáng, không còn đủ lý trí sáng suốt để phân biệt đâu là phải – trái. Ma lực đó khó cưỡng lại, nên nhiều người chết vì nó!

Vào ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu xem Ngài muốn họ dọn Tiệc Vượt Qua ở đâu. Ngài dặn dò họ kỹ lưỡng từng chi tiết.

Hoàng hôn buông xuống. Thời điểm quan trọng. Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Đang tiệc vui, bỗng dưng Ngài bảo có người sẽ nộp Ngài. Các môn đệ ngạc nhiên và buồn lắm, họ hỏi nhau để biết ai là thủ phạm. Không ai biết. Ngài nói: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26:23-24) Giuđa chột dạ nhưng vẫn giả nai: “Thầy ơi, chẳng lẽ con sao?” Và Ngài xác nhận là đúng, không sai!

Cũng trong dạ tiệc đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” (Mt 26:26) Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt 26:27-28) Đây là giây phút linh thiêng và xúc động, nhưng lại có nỗi buồn khi Ngài bảo: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.” (Mt 26:29) Buồn thật. Và nỗi buồn đó như đang thấm vào mỗi chúng ta trong đại dịch Corona này!

Hát thánh vịnh xong, Thầy trò cùng ra núi Ôliu. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các ông về nhiều điều cần thiết, vừa cảnh báo vừa trăn trối. Nghe Thầy nói đích danh mình là sẽ chối Thầy ba lần. Ông Phêrô nói chắc: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” (Mt 26:35) Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Nhưng rồi điều gì đến vẫn cứ đến. Sự thật là sự thật, và lời tiên báo cũng ứng nghiệm.

Bước vào Vườn Dầu – Ghếtsêmani, Ngài bảo mọi người ở lại, chỉ dẫn theo Phêrô và hai người con ông Dêbêđê đi theo. Ngài bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến cực độ nên phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26:38) Ngài đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Nhân tính thật yếu đuối, nhưng Ngài vẫn quyết tuân phục Ý Cha cho đến cùng, không theo ý riêng.

Khi trở lại chỗ ba đệ tử, Ngài thấy họ ngủ say, và Ngài nói: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy CANH THỨC và CẦU NGUYỆN, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:40-41) Cuộc chiến tâm linh thật khó khăn, nhưng không thể không chiến đấu.

Nói xong, Ngài lại đi cầu nguyện lần thứ hai: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” (Mt 26:42) Rồi Ngài quay lại, thấy các môn đệ vẫn đang ngon giấc, mắt họ nặng trĩu. Có lẽ họ thấm mệt vì có chút men và trời đã quá khuya. Phàm nhân là thế. Ngài để cho các ông ngủ mà đi cầu nguyện lần thứ ba, cũng với lời như trước. Rồi Ngài đến chỗ các môn đệ, đúng lúc kẻ nộp Ngài vừa tới. Giờ G đã điểm!

Tỏ ra tất thản nhiên và lịch sự, Giuđa đến chào và hôn Thầy, nhưng đó không là dấu yêu thương mà là dấu “chỉ điểm” cho những kẻ ác bắt Thầy. Phêrô nóng gáy nên rút gươm chém đứt tai Man-khô, đầy tớ của thầy thượng tế. Nhưng Chúa Giêsu chữa lành cho gã và bảo Phêrô không nên dùng vũ khí. Họ liền ập tới bắt trói Ngài. Thấy vậy, các môn đệ tá hỏa và chạy trốn, có kẻ mất dép, có kẻ tuột cả áo. Ai cũng nói mạnh, nhưng cũng chỉ lẻo mép nói suông. Phàm nhân yếu đuối và hèn nhát lắm, đúng là “nói trước bước không qua.”

Những kẻ thủ ác bắt Đức Giêsu và điệu đến thượng tế Cai-pha. Phêrô đi theo xa xa, đến tận dinh thượng tế, rồi vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.

Chúa Giêsu im lặng dù người ta chất vấn đủ thứ. Bởi vì có nói với họ thì cũng như nước đổ lá môn, nói với cục đá còn hơn. Cuối cùng, vị thượng tế hống hách nói: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63) Nghe chừng đạo đức lắm vì ông ta dám “nhân danh Chúa” mà tra xét. Lúc này Chúa Giêsu phải lên tiếng: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” (Mt 26:64) Như giọt nước làm tràn ly, vị thượng tế liền xé áo mình ra và bảo Đức Giêsu nói phạm thượng, rồi ông ta hỏi mọi người nghĩ sao, họ liền đồng thanh: “Hắn đáng chết!” Cố chấp và đồng lõa, thật đáng sợ!

Rồi có kẻ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài, kẻ khác tát Ngài, họ toa rập với nhau lăng mạ Ngài.

Cuộc đời có những điều tất yếu, chuyện gì sẽ đến rồi cũng đến. Phêrô được Thầy báo trước, nhưng cũng không thể vượt qua chính mình. Thiên hạ thấy ông nên bàn tán xì xầm, ông sợ nên không dám nhận mình là người quen với Đức Giêsu, và còn thề độc là không hề quen với người đang bị hành hạ bên trong kia. Và rồi có tiếng gà gáy, ông sực nhớ lời Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Mt 26:34) Ông ra ngoài và bật khóc. Có lẽ từ đó, ông rất sợ tiếng gà gáy mỗi sáng, nhưng chắc cũng phải cảm ơn con gà trống.

Theo thông lệ mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn phóng thích một người tù, tuỳ ý dân. Khi ấy có một tù nhân khét tiếng là Baraba. Người ta đồng ý thả hắn và cương quyết giết Đức Giêsu. Philatô thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngài, thế nhưng vì địa vị chức tước mà ông làm ngơ công lý, vợ ông bảo đừng nhúng tay vào vụ xử vụ này, và ông “ngây thơ” đi rửa tay để chứng tỏ mình vô can. Rất rõ nét thói giả hình, sự hèn hạ và khốn kiếp.

Quả thật, chính Philatô đem Đức Giêsu vào trong dinh và tập trung cả cơ đội quanh Ngài. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng, chúng khạc nhổ vào Ngài và lấy cây sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, cho Ngài mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Mọi thứ diễn tiến đúng quy trình của những kẻ mặt người mà lòng dạ ma quỷ.

Dọc con đường lên Núi Sọ, chúng gặp một người Kyrênê tên là Simôn, chúng bắt ông vác thập giá của Ngài, vì thấy Ngài yếu sức, sợ Ngài không thể đến nơi xử tử. Những người nói mạnh hứa chắc, những người tín cẩn, những người được chữa lành, những người được ăn no nê, họ ở đâu lúc dầu sôi lửa bỏng thế này? Tại sao chỉ thấy một mình ông Si-môn ngoại giáo vác đỡ Thập Giá cho Ngài? Cuộc đời là thế, con người là vậy ư?

Khi đến Núi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống. Sau khi đóng đinh Ngài vào thập giá, chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, rồi ngồi canh giữ Ngài. Hôm đó, cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp ở hai bên.

Ngay cả những kẻ qua người lại cũng buông lời nhục mạ và thách thức Ngài. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục thi nhau chế giễu Ngài vì họ tưởng mình đã hành động đúng với cảm giác hả hê chiến thắng. Thậm chí một tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng không tiếc lời sỉ vả và thách thức Ngài. Vào hùa với nhau làm việc xấu, thật tồi tệ!

Thật kỳ lạ, trời đang nắng mà bỗng dưng tối sầm từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (12 giờ trưa tới 15 giờ). Vào giờ thứ chín, trong nỗi cô đơn, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: “Êli, Êli, lêma xabácthani – lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46) Người ta cứ tưởng Ngài gọi ông Êlia, rồi một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Ngài uống. Rồi Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Sự tĩnh lặng như tấm màn phủ xuống…

Và ngay thời điểm đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, rồi đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ bất ngờ trỗi dậy. Thấy động đất và các sự lạ, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và phải thú nhận: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54; Mc 15:39; Lc 23:47) Ít ra cũng biết chân nhận như thế, muộn còn hơn không. Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, dù người ta cố ý bóp méo cũng không thể.

Ngẫu nhiên mà kỳ lạ: chữ Thắng và chữ Thua cùng vần T. Ở đời cũng vậy, có khi cứ tưởng Thắng mà hóa Thua, nhưng có khi thấy Thua mà lại Thắng. Và chuyện gì sẽ đến cũng lại đến. Ước gì mỗi chúng ta đều như những chiếc lá luôn xanh biếc đức tin, luôn khiêm hạ và chân thành đón nhận Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, khi vui đã đành, khi buồn mới thực sự có giá trị. Đau khổ làm cho cuộc đời có ý nghĩa lạ lùng lắm.

Trong thời gian này, chúng ta phải “chay” mọi thứ vì đại dịch Corona, thực sự là nỗi khổ niềm đau, nhưng là dịp tốt để chúng ta xét mình, biết thiếu hay thừa cái gì mà kịp thay đổi cho hợp ý Chúa.

Lạy Thiên Chúa chí thiện, trong lúc hoạn nạn này chúng con mới cảm nhận giá trị của đau khổ, biết thân phận con người mong manh mà thêm tín thác vào sự quan phòng của Ngài. Xin ban Thánh Linh để chúng con có thể hiểu được triết lý của Thập Giá, nhờ đó mà cố gắng đi xuyên qua đau khổ và luôn hướng về Ngài. Xin giúp chúng con đủ sức chịu đau khổ với Đức Kitô để được sống lại với Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

NHỮNG TỦI NHỤC CỦA CHÚA GIÊSU

TRƯỚC KHI BƯỚC VÀO CUỘC KHỔ NẠN

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Khi suy niệm về những đau buồn tủi nhục của Chúa Giê-su, chúng ta thường hướng về những cực hình Ngài phải chịu trong cuộc thương khó, mà ít khi nghĩ tới những đau thương, tủi nhục mà Ngài gánh chịu trong suốt ba năm thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng.

Giờ đây, chúng ta hãy điểm qua một vài nỗi buồn đau, tủi nhục thấm thía nhất mà Chúa Giê-su phải chịu trong thời gian này.

  1. Bị coi là người mất trí

Nỗi đau, nỗi nhục thứ nhất mà Chúa Giê-su phải chịu là bị ngay cả những người ruột thịt và cũng là những người thân yêu gần gũi nhất… xem Ngài là người mất trí, mất trí nặng đến nỗi phải “đi bắt Ngài về nhà” (Mc 3,20-21).

Chúng ta chỉ là người phàm, tầm thường kém cỏi mà còn thấy đó là một niềm đau, một nỗi nhục không chịu đựng nỗi, còn Chúa Giê-su, Ngài là Thiên Chúa thông minh thượng trí, đầy quyền năng phép tắc mà lại bị người thân thuộc của mình hiểu lầm như thế thì nỗi đau của Chúa lớn đến độ nào!

  1. Bị đồng hương phẫn nộ và hành hung

Nỗi nhục thứ hai mà Chúa Giê-su phải chịu cũng xảy ra ngay tại quê nhà. Vào ngày Sa-bát, khi rao giảng trong hội đường Na-da-rét, dân chúng không hài lòng vì Chúa Giê-su đề cập đến một số sự kiện mà họ không thích nói tới… Thế là sóng gió nổi lên, “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.” Họ đứng dậy, người thì nắm áo, kẻ nắm tay, người lôi, kẻ đẩy, kẻ khác buông lời phỉ báng nặng nề… Họ xô đẩy Ngài khỏi hội đường… Chưa hả giận, họ còn lôi kéo Ngài ra khỏi thành… Cũng chưa hả giận, “họ tiếp tục lôi kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực, (cho Ngài phải nát thịt tan xương…)  nhưng rồi Ngài băng qua giữa họ mà thoát thân.” (Lc 4, 28-29).

  1. Bị coi là người bị quỷ ám, là kẻ điên khùng

Nỗi nhục thứ ba, dù Chúa Giê-su là Thiên Chúa quyền năng, đến trần gian để đẩy lui quyền lực của Sa-tan, thế mà “các kinh sư ở Giê-ru-sa-lem cho rằng Ngài bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám”… Họ cho rằng Ngài chẳng tài cán, đạo đức gì, chỉ “dựa thế tướng quỷ mà trừ quỷ” (Mác-cô 3, 22. Lc 11,15).

Những người Do-thái khác cũng nói thẳng với Chúa Giê-su: “Chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám” (Ga 8, 48. 52).

Và khi Chúa Giê-su bày tỏ cho dân chúng biết Ngài là mục tử nhân lành sẵn sàng hiến mạng vì đoàn chiên thì nhiều người Do-thái lại nói: “Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ta làm chi! (Ga 10,19).

Xúc phạm như thế là quá đáng! Đau buồn thay, nhục nhã thay!

  1. Suýt bị ném đá

Nỗi nhục thứ tư là Chúa Giê-su suýt bị người Do-thái ném đá. Qua Tin mừng thứ tư, thánh Gioan thuật lại sự kiện này hai lần: Một lần, khi giảng trong sân Đền Thờ rằng Ngài hiện hữu trước khi có Áp-ra-ham, “họ liền lượm đá để ném Ngài. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ” (Ga 8,59).

Lần khác, khi Ngài tỏ cho dân chúng biết Ngài và Thiên Chúa Cha là một, người Do-thái lại lấy đá để ném Chúa Giê-su” (Ga 10,30-31. 11,8)

  1. Bị người Do-thái mưu toan giết hại

Nỗi đau thứ năm là Chúa Giê-su bị người Do-thái mưu toan ám hại. Người Do-thái “tìm cách giết Đức Giê-su, vì cho rằng Ngài phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình… tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa” (Ga 5,18).

Vì thế, “Đức Giê-su không muốn đi lại trong miền Giu-đê, vì người Do-thái tìm giết Ngài” (Ga 7,1. 8,40). Và khi Chúa Giê-su cho La-da-rô sống lại, các thủ lĩnh Do-Thái quyết định giết Chúa Giê-su (Ga 11,53).

Ngoài ra, Chúa Giê-su còn bị người Do-thái phê phán, chê trách, khinh dể… liệt Ngài vào “phường mê ăn tham uống, bạn bè của quân thu thuế và người tội lỗi (Lc 7,31-34), bị các luật sĩ, biệt phái dò xét, bắt bẻ đủ chuyện, bị lên án là vi phạm luật ngày Sa-bát, không rửa tay trước khi ăn, không ăn chay…

Lạy Chúa Giê-su,

Chưa có ai trong chúng con phải chịu nhiều đau buồn, tủi nhục trong đời như Chúa. Con người phàm hèn như chúng con dù có bị đồng loại sỉ nhục vẫn còn dễ chịu hơn nhiều so với Chúa là Đấng cao cả, là Chúa tể càn khôn… lại bị con người hèn mọn, chỉ đáng là tro bụi trước mặt Ngài khinh chê, phỉ báng, loại trừ…

Vì yêu thương chúng con, Chúa chấp nhận tất cả mọi buồn đau, tủi hổ…  để đền tội cho chúng con và để cứu chuộc chúng con. Chúng con hết lòng thờ lạy, cảm tạ tình yêu bao la vô bờ của Chúa.

Về mục lục

VÌ YÊU, CHÚA ĐÃ CHẾT CHO CHÚNG TA

Phanxicô Xavie Trần Đức Tuân

Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta bắt đầu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ, là tuần lễ ghi lại các biến cố cuối cùng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế ở trần gian.

Từ lúc Chúa vào thành Giêrusalem hôm nay, đến cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Tuần thánh cũng nhắc cho mỗi người chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối, mỏng dòn, bất toàn, yếu hèn và tội lỗi của mình.

Trong cuộc sống của con người, có lẽ không có gì làm cho chúng ta sợ hãi cho bằng cái chết. Cái chết là con đường chung cho mọi người. Không ai có thể chạy trốn khỏi cái chết. Tuy nhiên, khi đối diện với cái chết, mỗi người có một thái độ khác nhau. Các thánh tử đạo đã can đảm đối diện với cái chết để làm chứng cho Chúa. Và đặc biệt cái chết của Đức Giêsu. Có thể nói đây là cái chết tuyệt vời, cái chết đem lại sự hoà giải, sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho mỗi người chúng ta. Chúa đã chết để mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Trên hết, cái chết của Đức Giêsu là một cái chết tự nguyện hiến thân cho người mình yêu. Trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy buồn rầu, xao xuyến, “và mồi hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). Giữa nỗi kinh hoàng, khủng khiếp của con đường thập giá, Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha cho mình: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26,39). Nhưng cuối cùng tình yêu đã chiến thắng. Với một tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Cha và một lòng thương xót vô biên dành cho chúng ta: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”.

Như thánh Phaolô tông nói: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).

Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Đức Giêsu, ngay giữa những đau khổ cùng cực nhất trên thập giá, trong hơi thở cuối cùng đã lên tiếng cầu xin cho chính những kẻ vừa hành hạ, đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Đôi khi chúng ta cũng đã đóng đinh Chúa vào thập giá, đó là những lúc chúng ta lơ là trong bổn phận, làm ngơ trước những nghèo khó đơn côi.

Tình yêu của Đức Giêsu còn thể hiện qua ánh mắt đầy thương xót Ngài dành cho Phêrô. Dù Chúa biết là ông sẽ chối Ngài. Một tình yêu hoàn toàn vị tha, quên cả nỗi đau khổ của mình đang gánh chịu, để luôn dành trọn tâm trí của mình cho người khác. Đó là tình yêu của Đức Giêsu đã dành cho mỗi người chúng ta.

Vì yêu, Chúa đã chịu người đời phỉ báng chê cười. Vì yêu, Chúa đã trở nên nghèo khó để chúng ta được giàu có. Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Vì yêu Chúa đã chịu khổ nạn và chết trên thập giá, xin cho chúng con cũng biết chết đi cho con người tội lỗi, chết đi cho những đam mê, hận thù, ghen ghét để chúng con chỉ biết sống cho Chúa và cho tha nhân.

Lạy Chúa, vì yêu Chúa đã tự hiến mình trong bí tích Thánh Thể để nuôi sống chúng con, xin cho chúng con luôn biết khao khát và chạy đến với Thánh Thể Chúa, để chúng con tìm được nguồn sức mạnh và vững bước trên đường về quê trời. Amen.

Về mục lục

XIN VÂNG THEO THÁNH Ý CHÚA

Lm Trần Bình Trọng

Hôm nay Giáo hội mừng lễ Lá để giúp người tín hữu nhớ lại một biến cố của việc Ðức Giêsu khởi hành vinh quang vào đền thờ Giêrusalem.

Việc dân chúng đón rước Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem là một vinh quang vắn vỏi trong cuộc đời trần thế của Người. Dân chúng cầm cành lá tung hô Con vua Ðavít: Hoan hô Con vua Ðavít! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Thiên Chúa (Mt 21:9). Họ tỏ ra nhiệt thành trong việc đón tiếp Người, vì họ hi vọng rằng Người sẽ thiết lập cho họ một vương quốc trần thế, có tính cách quốc gia dân tộc.

Mặc dầu dân chúng nhiệt liệt đón tiếp Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem, và tung hô Người làm vua, họ đã nhắm sai mục đích. Ý đồ của họ là muốn Người làm vua trong nước họ để giúp họ đánh đuổi dân đô hộ là người La mã, khiến cho đất nước họ trở nên giầu có và hùng mạnh, hầu có thể vươn lên hàng bá chủ hoàn cầu. Tuy nhiên khi họ nhận ra Ðức Giêsu không thích hợp với quan niệm họ sẵn có về đấng cứu thế, họ sẵn sàng đóng đinh Người. Vì thế mới có một biến cố khác theo sau là biến biến cố khổ hình, đónh đinh trên thập giá. Ðó là lý do tại sao hôm nay khi Giáo hội mừng việc Chúa khải hoàn vào thành Giêrusalem, Giáo hội cho đọc bài Phúc âm về sự thương khó và khổ nạn của Chúa.

Người ta thường nghe khi vua chúa  hay tướng lãnh đời xưa thắng trận trở về trong ngày vinh quang thì cưỡi voi, cưỡi ngựa vào thành với vẻ oai phong lẫm liệt. Còn Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chọn cưỡi trên lưng lừa. Lừa là con vật hiền lành, dễ chịu khuất phục. Bằng việc dùng lừa để làm phương tiện đi vào thành, Ðức Giêsu muốn nói lên ý muốn vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha. Như người đầy tớ làm theo ý chủ, Ðức Giêsu đồng hoá với người tôi tớ trung thành của Giavê, được sai đến để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Như người đầy tớ đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu, và không che mặt khi người ta mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 50:6), Ðức Giêsu cũng chịu để cho người ta khạc nhổ vào mặt và đấm đánh (Mt 26:67) rồi chế giễu (Mt 27:31). Mặc dầu Người là Thiên Chúa, nhưng đã vâng phục thánh ý Chúa Cha, mặc lấy thân phận làm người, chịu khổ hình, tử nạn trên thập giá để làm giá cứu chuộc loài người. Như vậy mục đích và sứ mệnh của Chúa cứu thế là làm theo thánh ý Chúa Cha: Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha (Mt 26:39). Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê giới thiệu về Ðức Giêsu nhu sau: Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thánh giá (Pl 2:8).

Hôm nay mỗi người nên tự hỏi xem ta đã sống theo thánh ý Chúa như thế  nào? Tin theo Chúa nhưng ta vẫn có thể sống theo ý riêng khi ta muốn đạo giáo phải thế nọ thế kia, thay vì cố gắng sống theo đường lối của đạo giáo, khi ta muốn đạo giáo thay đổi cho phù họp với những ước muốn, những khuynh hướng và sở thích cá nhân của mình.

Giáo hội đang bắt đầu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong lịch sử ơn cứu độ, cũng là tuần lễ quan trọng nhất trong niên lịch phụng vụ của Giáo hội.  Trong Tuần thánh Giáo hội cử hành những màu nhiệm cứu chuộc mà Ðức Kitô đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Người tại thế, từ lúc vào thành Giêrusalem trong ngày lễ Lá đến cuộc khổ nạn và phục sinh của Người.

Trong Tuần thánh người tín hữu suy niệm về một trong những chiều hướng của đức tin: sự thương khó, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Tuần thánh là lúc người tín hữu suy niệm về kinh nghiệm sống đức tin của mình. Tuần thánh là lúc chỉ cho ta thấy những yếu điểm và tội lỗi của mình. Ta có thể giống như Phêrô và Giuđa chăng? Nếu trung thực với lòng mình, ta phải nhận có lúc ta giống Giuđa khi ta phạm tội, từ khước ơn Chúa. Có lúc ta giống Phêrô khi không dám bày tỏ đức tin, sợ bị liên lụy, bị tẩy chay, hay có khi ta không dám tỏ ra mình là người công giáo, sợ bị chê cười, nhạo báng. Ðức Kitô sắp bị nộp mình chịu chết vì tội lỗi loài người gồm tội riêng ta. Ta có thể và sẽ làm gì để đền đáp tình yêu Chúa?

Lời nguyện xin cho được tìm sống theo thánh ý Chúa:

Lạy Chúa, đường lối Chúa là đường khôn ngoan chính trực.

Con không biết Chúa muốn con làm gì và đi theo đường nẻo nào.

Xin Chúa soi sáng để con biết tìm ra ý Ngài

qua lời cầu nguyện, việc lắng nghe và ghi nhận.

Xin ban cho con lòng can đảm và kiên trì sống theo thánh ý Chúa.

Ðể như Mẹ Maria và Thánh Giuse với lời xin vâng khi sứ thần truyền,

con được vững tâm tiến bước với tâm hồn bình an. Amen.

Về mục lục

CHẲNG LẼ CON SAO

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu

Các thượng tế muốn giết Đức Giêsu, nhưng không tìm được cơ hội.
Nay cơ hội đã đến với sự tiếp tay của chính người môn đệ Đức Giêsu.
Anh Giuđa đã đến gặp các thượng tế và đề nghị nộp Ngài cho họ.
Chúng ta mãi mãi không biết hết và biết rõ những động cơ nào
đã thúc đẩy Giuđa làm chuyện kinh khủng ấy.
Giuđa, người được gọi, được chọn, được tuyển lựa,
sau một đêm thức trắng cầu nguyện của Thầy Giêsu (Lc 6, 12).
Và anh đã đáp lại, đã bỏ gia đình, nghề nghiệp, để đi theo.
Giuđa đã rong ruổi theo Thầy ngay từ đầu, chia sẻ đói no, thành công thất bại…
Không yêu thì làm sao đi theo được lâu như thế.
Giuđa, người được tin cậy và giao giữ quỹ cho cả nhóm (Ga 12, 6).
Vì là người trong nhóm Mười Hai, thuộc nhóm môn đệ thân cận,
Giuđa đã được nghe hầu hết các bài giảng hay nhất,
được chứng kiến các phép lạ lớn lao nhất của Thầy Giêsu.
Giữa anh và Thầy Giêsu hẳn đã có một sự thân thiết nào đó.
Điều gì đã diễn ra nơi trái tim của Giuđa?
Điều gì đã khiến tất cả phút chốc bị đổ vỡ không sao hàn gắn?
Chắc không phải chỉ vì ba mươi đồng bạc, một số tiền.
Phải chăng vì Giuđa thất vọng và nóng ruột
khi thấy Thầy Giêsu quá hiền từ, cả trong lối sống lẫn lời giảng,
chẳng có vẻ gì là một Đấng Mêsia sắp giải phóng dân tộc khỏi quân Rôma?
Phải chăng khi Giuđa nộp Thầy cho các thượng tế,
anh định cài Thầy vào thế phải hành động quyết liệt hơn, phải tự giải thoát mình?
Dù gì đi nữa thì chuyện Giuđa làm là không thể biện minh được.
Anh đã can dự vào cái chết của Thầy Giêsu.
Không thể phong tặng anh hùng cho Giuđa
vì bảo rằng nhờ anh mà chúng ta có được ơn cứu độ.
Giuđa đã phạm tội nghiêm trọng đến nỗi Thầy Giêsu phải đau đớn nói:
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn” (c.24).
Dầu vậy tội của Giuđa đã được Thiên Chúa dùng cho chương trình cứu độ.
Thiên Chúa là Đấng có thể biến điều dữ thành điều lành.
“Kẻ đã chấm chung một đĩa với Thầy là kẻ sẽ nộp Thầy” (c. 23).
Kẻ đồng bàn thân thiết với Thầy lại là người phản bội.
Ngay cả những môn đệ khác cũng hỏi Thầy Giêsu: “Có phải con không?”
Có phải con là người đang phản bội Thầy không?
Lúc nào chúng ta cũng có thể hỏi Chúa Giêsu cùng câu hỏi đó.
Dù mỗi ngày chúng ta cùng chia sẻ một bàn tiệc với Chúa trong Thánh Lễ,
chúng ta vẫn có thể rơi vào tội của Giuđa.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT LỄ LÁ_A

 Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta tưởng niệm cuộc Tử Nạn sinh ơn Cứu Độ của Đức Giê-su Ki-tô.

Is 50:4-7

Bài Đọc I trích từ tác phẩm của I-sai-a đệ nhị cho chúng ta thoáng thấy dung mạo của người công chính chịu đau khổ, dưới những đường nét của người tôi trung của Đức Chúa, bị nhạo báng, khinh bỉ mà không đối kháng, nhưng trọn một  niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.

Pl 2:6-11

Tiếp đó, chúng ta gẫm suy mầu nhiệm tự hạ và tôn vinh của Đức Giê-su qua bài thánh thi Ki-tô học được thánh Phao-lô ghi lại trong thư gửi tín hữu Phi-lip-phê. Đây là bằng chứng đáng chú ý về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi.

Mt 26:14-27:66

Và sau cùng, theo chu trình Phụng Vụ Năm A, chúng ta đọc và suy gẫm bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

BÀI ĐỌC I (Is 50:4-7)

Bản văn này cho chúng ta dự phần vào niềm tin tưởng của vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Vì luôn lắng nghe Thiên Chúa, chăm chú vào lời Ngài, suy niệm mỗi ngày, vị ngôn sứ không thoái thác sứ mạng của mình là đem niềm an ủi đến cho những người bất hạnh. Ông đã không nhận được bất kỳ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại, những xúc phạm và nhục hình. Ông đã bị đánh đòn, tra tấn (bị giật râu là một hình phạt rất nhục nhã), ông đã nhận những khạc nhổ vào mặt, được xem như cử chỉ khinh bỉ tột cùng, như nhiều đoạn văn Cựu Ước làm chứng.

Nhưng người tôi trung này đã đặt niềm tin tưởng của mình vào Đức Chúa. Ông đã “trơ mặt như đá,” nghĩa là “kiên vững không hề chuyển lay”. Thánh Lu-ca nói với chúng ta “Đức Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem” (Lc 9:51) chấp nhận bước vào con đường Thương Khó của Ngài, nghĩa là Ngài thu hết can đảm của mình và kiên vững trong ý định của mình.

1. Văn mạch

Bài ca được trích dẫn hôm nay là bài ca thứ ba trong số bốn bài ca được gọi “các bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), vị ngôn sứ cuối thời kỳ lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ IV tCn.

“Người Tôi Trung” được phác họa chân dung lúc thì dân Ít-ra-en, lúc thì một nhân vật đặc thù lãnh nhận một sứ mạng đặc biệt. Nhân vật này được hiểu vừa tập thể vừa cá nhân vì hai hình ảnh này được đan vào nhau trong nhiều đoạn.

Người Tôi Trung này hành xử với thái độ dịu dàng và khiêm tốn (bài ca thứ nhất). Thiên Chúa giao phó cho ngài trách nhiệm giải phóng dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai), ngài gặp phải những bách hại và sỉ nhục (bài ca thứ ba), ngài cam chịu một cái chết ê chề nhục nhã, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư).

Ở đây, có một khúc quanh quan trọng của Mặc Khải. Cho đến lúc đó, những viễn cảnh thiên sai đều tập trung vào một dung mạo của vị vua vinh hiển, hậu duệ Đa-vít, ngài sẽ đem lại sự công chính và nền hòa bình. Ấy vậy, vào lúc này không còn vua. Thể chế vương quyền Đa-vít đã bị chìm lấp trong cơn bão táp của thời cuộc, đền thờ Sa-lô-mon bị phá hủy, phần lớn dân cư Giê-ru-sa-lem bị lưu đày. Đây là thời giờ thích hợp để loan báo sứ điệp mới. Khoa sư phạm Thiên Chúa, qua những trực giác ngôn sứ, đã tiến một bước vĩ đại. Những sấm ngôn thời xưa không vì thế mà bị hủy bỏ (Đấng Mê-si-a rõ ràng vẫn thuộc hậu duệ Đa-vít), nhưng những viễn cảnh mới để lộ cho thấy “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” sẽ can thiệp, “Đấng được Đức Chúa xức dầu” sẽ thi hành sứ mạng, khởi đầu sứ mạng không huy hoàng rực rỡ, trong dáng vẻ thất bại bên ngoài, đau khổ và cái chết, trước khi đạt được vinh quang.

2. Vị ngôn sứ khiêm hạ

Dường như phải nhận ra ở nơi người tôi trung hiền lành và khiêm hạ này chính là vị ngôn sứ I-sa-ia đệ nhị. Được Thiên Chúa giao phó trọng trách an ủi những người lưu đày bất hạnh chán nãn tuyệt vọng, ông không trốn tránh công việc bội bạc này. Ông đã cố làm cho họ hiểu ý nghĩa của những thử thách của họ, kêu gọi họ hoán cải, hứa ban ơn giải thoát cho họ. Ông gặp phải thái độ thờ ơ lãnh đạm, nghi nan ngờ vực, và tính khí hung hăng của những kẻ mà nỗi đắng cay do thời gian lưu đày dài lâu đã khiến họ trở nên bực tức phẩn nộ.

3. Người công chính bị bách hại

Qua những đau khổ mà mình phải chịu, vị ngôn sứ mặc lấy dung mạo của “Người Công Chính” hoàn hảo. Bản văn mang cung giọng thời thiên sai. Đức Giê-su sẽ đích thân thực hiện sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho Ngài trong sự vâng phục hoàn hảo. Chính Ngài sẽ đem Tin Mừng đến cho những người nghèo khó, những kẻ khốn cùng. Như vị ngôn sứ vô tội, Ngài sẽ đón nhận và cam chịu những lăng nhục, khinh bỉ, nhục hình trong tâm tình cảm tạ mà không hề run sợ, “vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn.”

Bài ca thứ ba này cho chúng ta cảm thấy trước bài ca thứ tư thống thiết về Người Tôi Trung chịu đau khổ sẽ được đọc vào Thứ Sáu Tuần Thánh.

BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)

Bài Đọc II trích từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-li-phê là một bài thánh thi gồm sáu khổ thơ: ba khổ thơ đầu vạch lại ba giai đoạn về việc Đức Giê-su tự hạ mình, và ba khổ thơ sau, theo chiều hướng ngược lại, vạch lại ba giai đoạn về việc Chúa Giê-su được Chúa Cha tôn vinh.

Thật là ngạc nhiên khi gặp thấy trong một bức thư chan chứa giọng điệu nồng nàn nhưng khá quen thuộc, những cảm xúc như trào dâng ra từ ngòi bút. Chúng ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay thánh nhân chỉ trích dẫn bài thánh thi Ki-tô học của Giáo Hội tiên khởi. Dù sao đây là một chứng liệu đáng chú ý, một trong những chứng liệu cổ xưa nhất về Ki-tô học, nhất là một lời chứng có giá trị đầu tiên (trước cả Tựa Ngôn của thánh Gioan) về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su.

1. Ba giai đoạn của việc tự hạ (2: 6-8)

1)- Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa, không từ bỏ bản tính thần linh, nhưng vinh quang được gắn chặt vào đây.

2)- Ngài hủy bỏ chính mình mà mang lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như phàm nhân, nghĩa là chia sẻ mọi sự yếu đuối của họ (ngoài trừ tội lỗi).

3)- Ngài tự hạ mình hơn nữa khi chấp nhận vâng lời cho đến chết tủi nhục trên thập giá.

2. Ba giai đoạn của việc tôn vinh (2: 9-11)

1)- Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài và ban cho Ngài “danh hiệu” vượt lên trên mọi danh hiệu. “Danh hiệu” được hiểu theo nghĩa tuyệt đối, nghĩa là “danh hiệu” này được ban cho chỉ duy một mình Ngài, chính là “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” như được chỉ ra ở phần sau: Danh mà truyền thống Do thái dùng để chỉ Danh khôn tả của Thiên Chúa. “Danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” vì thế được định vị thậm chí trên tất cả mọi triều thần: “Quyền Thần”“Tổng Thần” vân vân

2)- Thiên Chúa muốn muôn loài muôn vật phụng thờ Đức Giê-su: “Để khi nghe tên Giê-su, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống”. Đó không phải vì nhân danh Giê-su (vì tên này khá phổ biến trong dân Do thái), nhưng vì Danh Đức Giêsu bất khả phân với Danh Đức Chúa, như khổ thơ trước đó vừa mới chỉ ra.

Kiểu nói: “Trên trời dưới đất và trong địa ngục”, chỉ ra toàn thể vũ trụ, chứ không chỉ nhân loại phải phụng thờ Đức Giê-su. Đây là một đề tài mà chúng ta sẽ gặp lại trong sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: ‘Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!’” (Kh 5: 13).

3)- Cuối cùng Thiên Chúa ban tặng cho Đức Giê-su quyền tối cao hoàn vũ, nghĩa là tước hiệu “Chúa”. Vì các Ki-tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Ki-tô danh hiệu này mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, đây là nét đặc trưng của lời tuyên xưng đức tin tiên khởi. Thánh Phao-lô nhiều lần nhấn mạnh tính chất thần linh ở nơi danh hiệu này, cũng như thánh Lu-ca trong Công Vụ Sứ Đồ.

Phần cuối của bài thánh thi xác định “để Thiên Chúa Cha được vinh quang”. Chính đó cũng là một nét thần học xứng đáng được nhấn mạnh: tôn vinh Đức Giê-su là tôn kính vinh quang của Thiên Chúa Cha. Phụng vụ Ki-tô giáo sẽ theo nghĩa này: “muôn ngàn lời chúc tụng Đức Ki-tô, tôn vinh Đức Chúa Cha”.

3. Mẫu gương phải noi theo

Thánh Phao-lô quý mến cộng đoàn tín hữu Phi-lip-phê mà thánh nhân đã thiết lập vào năm 49-50 và là cộng đoàn đầu tiên trên đất Châu Âu. Phi-lip-phê là một thành phố quan trọng của miền Ma-kê-đô-ni-a, được gọi theo tên vua Phi-lip-phê, phụ hoàng của đại đế A-lê-xan-đê, người xâm chiếm miền này vào năm 360 tCn.

Khi viết cho cộng đoàn tín hữu Phi-lip-phê, thánh nhân đang bị giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô. Thánh nhân mong ước những Ki-tô hữu Phi-lip-phê thân yêu của mình biết sống trong sự hiệp nhất và đặc biệt trong sự khiêm hạ sâu xa theo mẫu gương của Đức Giê-su.

TIN MỪNG (Mt 26: 14-27: 66)

Tin Mừng hôm nay là “Bài Thương Khó Đức Giê-su theo Tin Mừng Mát-thêu”. Như các tác giả Tin Mừng khác, thánh Mát-thêu dành một chỗ rộng lớn cho bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô trong sách Tin Mừng của mình. Như vậy, chúng ta có lời chứng cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã hiểu biến cố Tử Nạn không là một sự cố xấu hổ và nhục nhã mà biến cố Phục Sinh đã xóa đi, nhưng trái lại là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Sự thách đố của Thập Giá đã được các Kitô hữu tiên khởi đảm nhận, bất chấp điều kỳ chướng đối với người Do thái vốn ưa thích những điềm thiêng dấu lạ, bất chấp điều ngu xuẩn trong cái nhìn tự hào là khôn ngoan của người Hy lạp, và bất chấp một cái gì hoàn toàn ngược với lẽ khôn ngoan bình thường.

Trung thành với viễn cảnh Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu cho thấy cuộc Thương Khó của Đức Giê-su ứng nghiệm Kinh Thánh khi trích dẫn minh nhiên hay mặc nhiên vô vàn những lời Kinh Thánh.

Giu-đa phản bội (26: 14-15)

Việc Giu-đa phản bội Thầy mình được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Cả ba đều nhấn mạnh rằng Giu-đa là “một người trong Nhóm Mười Hai”, việc xác định này nêu bật tính bỉ ổi hành động phản bội của hắn. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất mô tả cuộc mặc cả của Giu-đa: “Tôi nộp ông ấy cho quí vị, thì quí vị muốn cho tôi bao nhiêu”. Trong khi đó tại thánh Mác-cô và thánh Lu-ca chính các thượng tế đề nghị cho hắn tiền. Như vậy, thánh Mát-thêu nhấn mạnh trách nhiệm của tên phản bội và chuẩn bị bài tường thuật về cái chết của hắn mà chỉ mình thánh ký tường thuật (27: 3-10). Thánh Mát-thêu cũng là thánh ký duy nhất kể ra giá thương lượng giữa hai phía là “ba mươi đồng bạc”, tức giá mua bán một nô lệ (x. Xh 21: 32). Qua số tiền này, thánh Mát-thêu nhằm cho thấy rằng Kinh Thánh đang được ứng nghiệm. Theo ngôn sứ Da-ca-ri-a chính với số tiền ô nhục này Ít-ra-en đã dùng để tẩy chay vị mục tử nhiệm mầu mà Chúa đã gửi đến cho họ (Dcr 11: 11). Sự ám chỉ này khó mà thoát khỏi những người Kitô hữu gốc Do thái, vốn am tường Kinh Thánh.

Bữa ăn từ biệt (26: 17-19)

Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men là hai ngày lễ đi đôi với nhau; lễ Vượt Qua diễn ra một ngày, lễ Bánh Không Men kéo dài bảy ngày. Nhưng từ lâu cả hai ngày lễ này trở thành một ngày đại lễ. Khi thánh Mát-thêu nói: “ngày thứ nhất trong tuần bánh không men”, thánh ký chỉ rõ lễ Vượt Qua. Trước khi bắt đầu tường thuật việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, thánh Mát-thêu gợi lên lễ Bánh Không Men, để loan báo rằng Đức Giê-su sẽ là bánh mới, hoàn toàn tinh tuyền, của lễ Vượt Qua mới.

Lễ Vượt Qua phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; con chiên sát tế trong sân Đền Thờ phải được ăn mừng trong thành đô. Đức Giê-su là một nhà giảng thuyết lưu động không nơi cư ngụ: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu qua đêm”. Các sách Tin Mừng đều tường thuật rằng khi chiều xuống, Đức Giê-su ra khỏi thành (Mc 11: 19), hoặc đến Bê-ta-ni-a (Mt 21: 17 và Mc 11: 19), hay đi ra núi Ô-liu (Lc 22: 39) để qua đêm. Hơn nữa, Ngài và các môn đệ đều là những người Ga-li-lê đến mừng lễ ở Giê-ru-sa-lem được xem đất khách quê người. Vì thế các môn đệ lo lắng hỏi: “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.

“Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca xác định “một người mang vò nước”. Thật kỳ lạ, thánh Mát-thêu lại thích vô danh hơn.

“Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy”. Động từ “ăn mừng” hay “cử hành” chưa nói lên hết sắc thái tinh tế của bản văn. Theo nguyên văn, động từ “làm” hay “thực hiện” ở đây có một nét nghĩa rất mạnh để chỉ hành vi sáng tạo. Đức Giê-su sắp sáng tạo một lễ Vượt Qua đặc biệt, lễ Vượt Qua của Ngài.

Loan báo sự phản bội (26: 20-25)

Cả bốn tác giả Tin Mừng đều tường thuật lời loan báo này: “một người trong anh em sẽ nộp Thầy”; tất cả đều nhấn mạnh nghi thức đồng bàn, chia sẻ cùng của ăn thức uống giữa Đức Giê-su và ông Giu-đa. Theo quan niệm của người xưa, một cử chỉ như vậy nói lên lời cam kết “đồng sinh đồng tử”“đồng hội đồng thuyền”. Như vậy, nêu bật sự bỉ ổi của hành vi phản bội.

Đức Giê-su tế nhị không nêu đích danh ai. Khi không nêu đích danh ai, Ngài thử kêu gọi lần sau cùng để đánh thức tiếng lương tâm người bạn đồng hành này nhớ lại những ngày tháng Thầy trò sống chung với nhau mà hồi tâm chuyển hướng.

Bầu khí trở nên ngột ngạt. Ấy vậy, Đức Giê-su trong những tình thế nghiêm trọng, thích gợi lên tước hiệu thiên sai “Con Người” của mình, dưới tước hiệu này Ngài thu nhận mầu nhiệm con người của Ngài. Sự kiện Ngài bị nộp là nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa đã được Kinh Thánh loan báo, tuy nhiên điều ấy vẫn không giảm thiểu đi tí nào trách nhiệm của kẻ phản bội. Số phận y rất tồi tệ và ngay bây giờ y biết là tội phản bội của mình đã bị Thầy biết rồi. “Khốn cho kẻ đã nộp Con Người…”. Đây không là lời nguyền rủa; chúng ta không thể nào tưởng tượng rằng Ngài có thể thốt lên những lời nguyền rủa như thế vào giờ phút Ngài sắp đổ mình để chuộc muôn người; nhưng đúng hơn đây là một ghi nhận đáng buồn. Đức Giê-su đã không bao giờ nguyền rủa ai. Có những lần Ngài đã đe dọa khi loan báo những trừng phạt: “Khốn cho các ngươi…”, nhưng đây không là những lời nguyền rủa, nhưng là những lời cảnh báo.

Trong khi các môn đệ khác buồn rầu hỏi: “Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?”, thì Giu-đa đành lòng hỏi Đức Giê-su một cách giản dị: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?”; hắn đã mất đi sự kính trọng đối với Thầy rồi, vì chỉ xem Thầy mình chỉ là một kinh sư như bao nhiêu kinh sư khác, hắn muốn dứt tình đoạn nghĩa với Thầy.

Thiết lập bàn tiệc Thánh Thể (26: 26-29)

Tại thánh Mát-thêu, như tại thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, Đức Giê-su mừng lễ Vượt Qua Do thái với các môn đệ Ngài; qua việc thiết lập Thánh Thể, Ngài sắp biến đổi lễ này thành lễ Vượt Qua Ki-tô giáo. Có cả sự tiếp nối lẫn sự đoạn tuyệt, cả sự song đối lẫn cái mới tận căn.

Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm cuộc giải thoát Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập; nhờ máu con chiên được bôi trên khung cửa, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Ngài nên đã không đánh chết họ.

Đức Giê-su loan báo cuộc giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ của tội lỗi bởi máu Ngài đã đổ ra cho “muôn người được tha tội”. Về phương diện lịch sử, cuộc giải thoát khỏi Ai-cập đã hình thành nên dân Ít-ra-en là dân Chúa chọn và cuộc tuyển chọn này đã được thánh hiến trên núi Xi-nai, bởi Giao Ước Cũ. Nhờ cuộc hiến dâng mình và máu của Ngài được chia sẻ cho hết mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Thiên Chúa mới và Giao Ước Mới được đóng ấn trong máu Ngài. Trong bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.

Như vậy, nếu khung cảnh vượt qua soi sáng việc biến đổi cử hành xưa, sự kiện bữa ăn này cũng là bữa ăn từ biệt mặc khải tất cả khía cạnh đau thương: Đức Giê-su sắp từ giã những môn đệ thân thiết của Ngài, những người mà Ngài đã yêu thương, những người mà Ngài ủy thác sứ mạng truyền đạt sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; Ngài gặp thấy phương tiện được ở với họ, khi thiết lập quà tặng của riêng Ngài này mà các môn đệ có thể tái hiện luôn mãi, như những người nối tiếp sự nghiệp của Ngài.

Thánh Mát-thêu cũng nhấn mạnh giá trị “cánh chung” của bàn tiệc Thánh Thể. Bàn tiệc này là một sự tham dự trước bàn tiệc thiên quốc: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày, Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy”. Đời sống mai hậu thường được biểu thị như một bàn tiệc; rượu như một trong những dấu chỉ của “niềm vui thời thiên sai” và niềm vui muôn đời của thế giới hậu lai. Đây là một trong những ý nghĩa của phép lạ Ca-na, tiên trưng phép lạ Thánh Thể. Nước hóa thành rượu tương xứng với rượu hóa thành máu. Sự đối xứng đáng ngạc nhiên của phép lạ nước hóa thành rượu và phép lạ rượu hóa thành máu này.

Thánh Phê-rô sẽ chối thầy (26: 30-35)

Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: “Hát thánh vịnh xong…”. Chủ yếu từ thánh vịnh 113 đến thánh vịnh 118, mà người dự tham dự hát sau bữa ăn (người ta ngâm rồi một trong những thánh vịnh này trong bữa ăn). Như vậy chúng ta khẳng định rằng bữa ăn từ biệt của Đức Giê-su đúng là một bữa ăn vượt qua.

Trên đường (đêm trăng tròn), Đức Giê-su báo trước cho các môn đệ Ngài họ sẽ bỏ rơi Ngài. Thánh Mát-thêu, luôn bận lòng quy chiếu đến Kinh Thánh, nên trích dẫn dụ ngôn người mục tử của ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Dcr 11: 4-17, 13: 7). Nhưng ngay lập tức Chúa Giê-su an ủi các ông; Ngài loan báo với họ Ngài sẽ gặp lại họ ở Ga-li-lê sau khi Ngài sống lại. Đối với những người sắp chịu cơn thử thách và sa ngã, Đức Ki-tô tinh tế cho họ hiểu rằng Ngài sẽ bỏ qua chuyện đó, thế nên Ngài hẹn gặp họ rồi. Sau khi phân ly, sẽ có hội ngộ; đàn chiên sẽ được quy tụ lại.

Thánh Phê-rô đầy nhiệt huyết cải lại. Đức Giê-su dứt khoát trả lời: nội đêm nay, thánh nhân sẽ chối Thầy ba lần. Thánh Phê-rô cam kết trung thành với Thầy và các môn đệ khác cũng vậy.

Hoạt cảnh này rất là người. Khi để cho câu chuyện này được ghi lại trong các sách Tin Mừng, các Tông Đồ chứng tỏ sự khiêm tốn của mình. Mặt khác, một hoạt cảnh như thế cho thấy Đức Giê-su làm chủ và thấy trước các biến cố. Ngài biết điều gì sắp xảy ra, như Ngài biết Ngài sắp đi đâu.

Cơn hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni (26: 36-46)

Trên triền đồi Ô-liu có một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni, ở đó Đức Giê-su cùng với các môn đệ lui vào; nhưng Ngài tách riêng họ mà cầu nguyện một mình. Ngài cảm thấy buồn rầu và xao xuyến (động từ Hy lạp: “xao xuyến”, chứa đựng ý tưởng đau đớn cùng cực). Không cảm thấy yên tâm, Đức Giê-su đem theo với Ngài “thánh Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê”, tức là thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan. Đây là ba môn đệ đã được chứng kiến cuộc Biến Hình của Ngài. Vào lúc đó khi cho họ thị kiến về vinh quang của Ngài, Ngài đã chuẩn bị cho họ quang cảnh về sự yếu đuối của Ngài vào buổi chiều tối bi thảm này. An ủi mà họ đem đến cho Ngài không gì ngoài sự hiện diện, vì các môn đệ đều ngủ thiếp đi. Thánh Lu-ca nói một cách bao dung: “Các ông đang ngủ vì buồn phiền”.

“Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện”, tức là Chúa Giê-su mặc lấy thái độ vâng phục, khiêm hạ và thiết tha. Trong Tin Mừng không gặp thấy ở đâu Đức Giê-su cầu nguyện thiết tha đến như thế.

Đức Giê-su khẩn cầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này”. Chén là một hình ảnh Kinh Thánh để chỉ một sự thử thách, một vận mệnh đau khổ. Chúng ta không loại trừ rằng chén gợi lên chén máu lễ tế xóa tội (máu tế vật được đựng trong chén và tưới trên bàn thờ).

“Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”. Đức Giê-su không phó mặc cuộc chiến nội tâm mà đối tượng là vâng phục hay không vâng phục thánh ý Cha Ngài; Ngài là một với Cha Ngài; chỉ có một ý muốn duy nhất của Thiên Chúa, chỉ có một kế hoạch duy nhất của Thiên Chúa. Nỗi xao xuyến cùng cực của Đức Ki tô nhắm đến phương thế mà ý muốn duy nhất này phải được thực hiện. Cơn hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni không phải không nhắc nhớ cơn thử thách trong hoang địa ở đó cuộc tranh luận nội tâm nhắm đến cách thế Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng của mình (x. Lc 4: 12).

Ba lần Chúa Giê-su trở lại bên các môn đệ của Ngài. Sự kiện vị Thiên Chúa làm người tìm sự nương tựa vào những anh em nhân loại của mình trong nỗi buồn phiền vô tận thật cảm động biết bao. Ngoài ra, Chúa Giê-su không muốn để mặc các môn đệ Ngài, vì họ cũng sắp trải qua sự thử thách và niềm tin của họ sẽ bị lung lay.

Lần thứ ba, Ngài không đánh thức các ông. Ngài biết từ nay Ngài sẽ không thể tin cậy vào các ông.

Đức Giê-su bị bắt (26: 47-56)

Giu-đa biết rất rõ nơi này; hắn biết rằng Đức Giê-su thường đến đây. Thánh Mát-thêu nhắc lại thêm một lần nữa Giu-đa là “một người trong Nhóm Mười Hai”, để nhấn mạnh cử chỉ bỉ ổi và thói giả hình ở nơi nụ hôn của hắn. Kẻ phản bội được hộ tống bởi đám đông được trang bị gươm giáo gậy gộc, mà các thượng tế và kỳ mục sai đến; vì thế, cốt là những người lính canh Đền Thờ, và những thành phần bất hảo đã nhặt những gậy gộc trên đường.

Những người này được sai đi bắt Đức Giê-su lại không biết Ngài, hơn nữa, vào đêm tối, họ có nguy cơ bắt nhầm người. Giu-đa đã cho họ một dấu hiệu: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!”. Theo lẽ thường tình, một môn đệ thường chào “thầy mình” theo cách này; nhưng lần này, Giu-đa đã cho nụ hôn của mình một ý nghĩa khác: sự phản bội.

Đức Giê-su trả lời hắn: “Này bạn”. Cách xưng hô này đượm vẻ trách cứ nhưng nhẹ nhàng không công phẫn: “Bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi”. Tin Mừng Mát-thêu trích dẫn hai lần biểu thức trách cứ khởi đầu với: “Này bạn” như ông chủ vườn nho trả lời cho một người trong những người thợ làm vườn nho giờ đầu tiên: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20: 13), hay vua trả lời cho khách mời dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới: “Này bạn, làm sao bạn vào đây…” (Mt 22: 12).

Tiếp đó, thánh Mát-thêu nêu lên một người môn đệ chém đứt tai tên đày tớ của thượng tế. Nhờ thánh Gioan, chúng ta biết người môn đệ này là thánh Phê-rô, và nhờ thánh Lu-ca, chúng ta biết đó là tai phải (những phần thân thể ở bên phải được xem như cao quý hơn ở bên trái).

Đức Giê-su quở trách cách sử dụng bạo lực, Ngài không muốn các môn đệ Ngài bắt chước nhóm Nhiệt Thành; nhưng Ngài còn muốn cho họ hiểu rằng dù Ngài là chủ tể của mọi biến cố và nếu Ngài muốn các đạo binh thiên quốc có thể bảo vệ Ngài, nhưng Ngài tự ý nộp mình. Ở nơi sự phục tùng bên ngoài của Ngài, một ý định bao la được phơi bày ra, ý định ấy vượt quá mọi nhân vật của tấn thảm kịch.

“Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết”. Trước những người xét xử Ngài, Đức Giê-su sẽ không có bất kỳ một người biện hộ nào, bất kỳ nhân chứng nào để bênh vực cho Ngài, Ngài một thân một mình tiến bước vào cuộc Tử Nạn. Tuy nhiên hai môn đệ mon men theo Ngài từ xa xa cho đến dinh thượng tế Cai-pha, là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Và thánh Gioan sẽ hiện diện dưới chân thập giá.

Đức Giê-su trước thượng hội đồng (26: 57-68)

Đức Giê-su bị điệu đến trước Cai-pha, vị thượng tế đương nhiệm, có quyền tối thượng của Ít-ra-en. Chính quyền Rô-ma đã để cho người Do thái quyền độc lập tôn giáo và vài quyền điều hành. Vị thượng tế là lãnh tụ hàng giáo sĩ và là người chủ tọa Thượng Hội Đồng. Thượng Hội Đồng này gồm có: các thượng tế (vị thượng tế đương nhiệm, các vị thượng tế mãn nhiệm và các tư tế có trách nhiệm thường hằng trong Đền Thờ), các kỳ mục (những quý phái giáo dân, những người giàu có, những người đứng đầu các gia đình thế giá) và các kinh sư (những tiến sĩ luật, phần lớn giáo dân, thuộc tầng lớp trung lưu hay khiêm hạ. Họ được dân chúng kính trọng và đa số họ là những người Pha-ri-sêu).

Thượng Hội Đồng thường hội họp ở Đền Thờ, nhưng vào đêm này, khuôn viên Đền Thờ đóng cửa; vì thế Thượng Hội Đồng nhóm họp trong tư dinh thượng tế Cai-pha. Số thành viên Thượng Hội Đồng tổng cộng 70 người, không tính vị thượng tế chủ trì hội nghị. Số người tối thiểu để buổi họp này có thể tiến hành là hai mươi ba thành viên. Chắc chắn phiên tòa xét xử Đức Giê-su có hơn số người này.

Đức Giê-su cần thiết phải ra trước tòa án Do thái. Giả như Ngài đã bị giao nộp liền ngay vào chính quyền Rô-ma, Ngài sẽ được liệt vào số phận của những người kháng chiến, vì thế sẽ được vinh dự người ái quốc. Lời tuyên trước tiên đến từ giáo quyền Ít-ra-en để làm mất uy tín của Đức Giê-su.

Thánh Mát-thêu nêu bật trò cười của phiên xử: “Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình”. Cuối cùng hai nhân chứng được đưa ra để xuyên tạc lời nói của Đức Giê-su. Trước đây Đức Giê-su đã nói: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2: 19), bây giờ, những chứng nhân tố cáo cố ý bóp méo lời Ngài: “Tên này đã nói: ‘tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa…’”.

Sau khi giữ thinh lặng, Đức Giê-su long trọng khẳng định phẩm chất Thiên Sai của Ngài. Khi bị hạ nhục, Ngài công bố tính chất siêu việt của mình; Ngài tự nhận mình là “Con Người”. Đối với những kẻ tự phụ xét xử Ngài, Ngài công bố rằng chính Ngài là vị thẩm phán đích thật sẽ đến trên mây trời, mặc lấy uy quyền của chính Thiên Chúa.

Bấy giờ, vị thượng tế bằng cử chỉ đóng kịch xé áo mình ra. Chung chung, việc xé áo là dấu chỉ tang chế. Nhưng vị thượng tế không có quyền xé áo để tang cho bất kỳ ai, dù cha hay mẹ đi nữa (Lv 21: 10); ông phải dành cử chỉ này cho những việc công nghiêm trọng, nhất khi thực hiện chức năng xét xử của mình, ông phải công bố sự phẩn nộ của mình.

Lời tuyên án của Thượng Hội Đồng chỉ lời kết án về phương diện đạo đức, lời nói phạm thượng: “Hắn đáng chết!”. Chính quyền Rô-ma đã lấy đi quyền thi hành án tử khỏi tòa án Do thái này. Ngay từ phiên xử đầu tiên này, Đức Giê-su chịu những lời nhục mạ bỉ ổi.

Làm thế nào chúng ta biết được những chi tiết và những diễn biến của phiên họp Thượng Hội Đồng này? Chẳng có gì là khó cả. Giữa những thành viên Thượng Hội Đồng có những người thiện cảm với Đức Giê-su, như ông Giô-xép thành A-ri-ma-thê và có thể ông Ni-cô-đê-mô. Vả lại, sau này, theo lời chứng của sách Công Vụ, một đám đông tư tế đón nhận đức tin vào Đức Giê-su (Cv 6: 7).

Thánh Phê-rô chối thầy và hối hận (26: 69-75)

Như các môn đệ khác, thánh Phê-rô đã chạy trốn vào lúc bắt Đức Giê-su. Đoạn, như thánh Gioan, ông đổi ý và cả hai cùng theo Ngài xa xa khi những người lính gác dẫn Đức Giê-su đi.

Trong khi thánh Gioan quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế, còn thánh Phê-rô thì ở bên ngoài sân trong ở đó những lính canh đã nhóm một bếp lửa để sưởi ấm vì trời lạnh.

Cả bốn Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh thánh Phê-rô chối Thầy. Vị lãnh tụ Giáo Hội đã để cho tình tiết chẳng có gì là vinh dự này truyền lại cho thế hệ sau và chỉ mình thánh nhân mới có thể cho những chi tiết, điều này thật đáng lưu ý. Sự khiêm hạ của thánh nhân, sự day dứt sâu xa về sự sa ngã của mình được diễn tả ngay tức khắc bởi những dòng nước mắt thảm thiết. Phải chăng mẫu gương của ông có thể là một bài học vào giờ của những cuộc bách hại đó sao? Thánh Phê-rô khiến chúng ta cảm động vì ngài là một vị thánh rất là người.

Nỗi tuyệt vọng của ông Giu-đa (27: 1-10)

Dường như một phiên tòa khác nữa đã xảy ra sau phiên tòa ban đêm. Thánh Mát-thêu nói: “Trời vừa sáng”. Theo luật, phiên tòa thứ hai này cần phải có. Khi bản án nghiêm khắc đã được tuyên án, hội đồng cần thời gian suy nghĩ. Theo pháp luật, kỳ hạn này phải là hai mươi bốn tiếng. Phải chăng thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô đã rút ngắn kỳ hạn này? Tất cả mọi biến cố đều được rút ngắn. Phiên tòa thứ hai này phải khẳng định hay giảm khinh, nhưng không được nghiêm khắc hơn. Đối với trường hợp Đức Giê-su, những thành viên Thượng Hội Đồng khẳng định lời tuyên án đầu tiên. Nhưng không có quyền thi hành án tử, họ giao nộp kẻ họ kết án cho chính quyền Rô-ma. Quả thật, phiên tòa tôn giáo được chuyển sang phiên tòa chính trị. Nếu chỉ vì tội phạm thượng chống lại Thiên Chúa Ít-ra-en, viên tổng trấn không thể tuyên án án tử hình Ngài được. Vì thế, một phiên tòa khác nữa bắt đầu.

Giữa phiên tòa Do thái và phiên tòa Rô-ma, thánh Mát-thêu đưa vào tình tiết mà chỉ mình thánh ký tường thuật: Giu-đa treo cổ tự tử. Thánh Lu-ca nêu lên điều này trong sách Công Vụ, vào lúc chọn Mát-thi-a thay thế cho kẻ phản bội: những chi tiết khác biệt đáng kể. Thánh Lu-ca không xác định đây phải chăng là tai nạn hay tự tử (Cv 1: 18-19).

Xem ra Giu-đa đã không lường được những hậu quả hành động phản bội của mình. Khi biết Thượng Hội Đồng kết án Thầy mình và giao nộp cho quan tổng trấn Phi-la-tô, hắn hối hận đến mức hoàn toàn tuyệt vọng. Hắn ném đồng tiền vào Đền Thờ rồi đi treo cổ tự tử.

Thánh Mát-thêu cho thấy sự việc này ứng nghiệm lời Kinh Thánh khi trích dẫn bản văn  Giê-rê-mi-a (Gr 18: 2-12) được phối hợp với bản văn Da-ca-ri-a (11: 12-13): “Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Ít-ra-en đã đặt khi đánh giá Người. Và họ lấy số bạc đó mà mua Thuở Ruộng Ông Thợ Gốm, theo những điều Thiên Chúa đã truyền cho tôi”.

Tình tiết này được sử dụng như chuyển tiếp giữa hai phiên tòa; nhưng về phương diện thời gian, nó không được định vị vào lúc này. Các thượng tế không thể vừa có mặt tại dinh Phi-la-tô vừa ở tại Đền Thờ với Giu-đa.

Đức Giê-su trước Phi-la-tô (27: 11-14)

Quan tổng trấn Phi-la-tô đại diện chính quyền Rô-ma. Ông có một dinh cư ở miền Giu-đê. Thật ra, kể từ năm thứ sáu sau Công Nguyên, A-kê-la-út, con và kế vị Hê-rô-đê đại đế, bị chính quyền Rô-ma truất quyền cai trị miền Giu-đê. Chính quyền Rô-ma lo sợ những phong trào phản loạn dấy lên ở Giê-ru-sa-lem hay trong miền.

Dinh thự quen thuộc của các tổng trấn Rô-ma là thành Xê-da-rê duyên hãi, thành phố lớn mới và thoáng mát. Nhưng vào những ngày đại lễ, đặc biệt lễ Vượt Qua có đông đảo dân chúng từ khắp nơi về mừng lễ, thì vị tổng trấn có mặt ở Giê-ru-sa-lem. Đó là lý do tại sao vị tổng trấn có mặt vào lúc đó ở Thành Thánh. Vì thế, Đức Giê-su mới có thể đối mặt trực diện với quan tổng trấn Rô-ma này.

Ngay tức khắc, quan tổng tra hỏi Đức Giê-su trên bình diện chính trị: “Ông là vua dân Do thái sao?”. Chỉ duy tham vọng này, chính quyền Rô-ma mới có thể kết án tử Ngài, và đây là bản án mà Phi-la-tô sẽ truyền viết trên một tấm bảng đóng vào thập giá trên đầu Ngài: “Người này là Giê-su, vua dân Do thái”.

Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài nói đó”. Đức Giê-su tránh trả lời trực tiếp: thay vì trả lời với đại từ ngôi thứ nhất, thì lại là đại từ ngôi thứ hai, nhưng câu trả lời này không kém phần khẳng định; Ngài đã trả lời theo cùng cách như vậy cho Giu-đa khi Giu-đa hỏi Ngài: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” “Chính anh nói đó”.

Qua câu trả lời của mình, Đức Giê-su muốn cho Phi-la-tô hiểu: “Tôi đích thật là vua, nhưng không như ông nghĩ”.

Các thượng tế và các kỳ mục tố cáo Ngài trước chính quyền Rô-ma. Những lời tố cáo này được thánh Lu-ca tường thuật: “Tên này sách động…ngăn cản nộp thuế cho hoàng đế Xê-da…lại còn xưng mình là Mê-si-a, là vua nữa” (Lc 23: 1-5). Nhưng Đức Giê-su im lặng khiến quan tổng trấn rất đổi ngạc nhiên. Chung chung những bị cáo, không có luật sư, tự mình biện hộ cho mình. Việc Phi-la-tô ngạc nhiên có thể bày tỏ sự bối rối trước mầu nhiệm của can phạm này mà người ta đã giao nộp cho ông và nhân phẩm của người này thì thật khác thường.

Ân xá vào dịp lễ Vượt Qua (27: 15-25)

Theo tập tục Do thái vào dịp lễ Vượt Qua, người ta phóng thích một tù nhân, chắc chắn để tưởng nhớ cuộc giải thoát khỏi Ai-cập mà người ta tưởng niệm vào ngày này. Phi-la-tô biết tập quán này; ông đề nghị cho dân chúng chọn giữa tên sát nhân khét tiếng và Đức Giê-su.

Chúng ta có thể ngạc nhiên về quyền được ban cho dân chúng; đây không là trường hợp ngoại lệ. Ở Rô-ma, trong những cuộc giác đấu ở hý trường, việc dân chúng quyết định tha hay giết buộc hoàng đế phải chuẩn theo. Trong truyền thống Do thái, chúng ta gặp thấy việc dân chúng được dự phần vào sự quyết định được kể ra nhiều lần như vụ án của bà Su-san-na và hai kỳ mục trắc nết.

Việc Ba-ra-ba được phóng thích nêu bật những trách nhiệm khác nhau: trách nhiệm của Thượng Hội Đồng xúi dục dân chúng chống lại Đức Giê-su; trách nhiệm của dân chúng để cho mình bị thao túng nên chọn tên sát nhân khét tiếng hơn Đức Giê-su; cuối cùng, trách nhiệm của Phi-la-tô, ông đã quá tin nên đã trù tính dân chúng sẽ bênh vực Đức Giê-su, nhờ đó ông thoát mình khỏi việc lên án một người vô tội. Nhưng ông đã không lường trước cuộc vận động của các thượng tế, cho dù ông biết rằng chính chỉ vì ghen tuông mà người ta đã nộp Ngài cho ông. Nhưng Phi-la-tô nhượng bộ dân chúng; ông muốn lấy lòng dân địa phương, đồng thời muốn tránh bị tố cáo lên chính quyền Rô-ma và về phương diện chính trị, bị xem là nhu nhược trước một kẻ tự cho mình là “vua dân Do thái”.

Như vậy, quan tổng trấn đưa ra quyết định sau cùng, và chính ở nơi hình phạt Rô-ma mà Đức Ki-tô bị kết án: đóng đinh vào thập giá, chứ không hình phạt Do thái: ném đá.

Tuy nhiên, trong câu chuyện này, thánh Mát-thêu tường thuật hai sự kiện xem ra chỉ là phụ, qua đó thánh ký muốn ghi nhận rằng lương dân, chứ không phải dân Do thái, đã nhận ra Đức Giê-su vô tội: bà vợ của Phi-la-tô, được báo trong giấc mộng, không muốn chồng mình kết án một người công chính. Mặt khác, chính Phi-la-tô rửa tay để nói rằng ông không nhúng tay vào máu của người vô tội này. Rõ ràng thánh Mát-thêu quy trách nhiệm về cái chết của Đức Giê-su nhiều hơn cho dân Do thái và các vị lãnh đạo của họ.

Đức Giê-su chịu đánh đòn (27: 26)

Đánh đòn tự nó là một hình phạt, tội nhân khó sống sót qua trận đòn. Đánh đòn xem ra cũng đã là một biện pháp đi trước việc đóng đinh vào thập giá; nó làm cho nạn nhân kiệt sức vì mất nhiều máu và vì thế rút ngắn cơn hấp hối rất đau đớn của nạn nhân trên thập giá.

Đức Giê-su bị nhục mạ (27: 27-31)

Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho quân lính thi hành án lệnh. Ấy vậy, chúng ta đã nhấn mạnh rồi, quân lính Rô-ma rất có ác cảm với dân chúng, nhất là những lần chúng phải đối đầu với dân chúng trong những cuộc bạo loạn. Đây là dịp để chúng trút ác tâm của chúng trên tên Do thái này được trao vào tay chúng. Tất cả quân lính ở dinh thự quan tổng trấn tụ lại để chế nhạo Đức Giê-su. Hoạt cảnh thật hung tợn và tàn nhẫn.

Chúng kết một vòng gai nhọn rồi đội trên đầu Ngài; chúng khoắc cho Ngài một tấm áo choàng đỏ, chắc chắn áo choàng của quân đội Rô-ma mặc khi thắng trận, điều này lại càng nhục mạ Ngài thêm nữa.

Đường Thập Giá (27: 32-44)

Cuộc hành hình chỉ có thể diễn ra ở bên ngoài thành: khuôn viên thành là đất thánh không thể bị vấy bẩn bởi những thi thể tội nhân được. Đồi Sọ gần với cửa tây Giê-ru-sa-lem.

Dù đoạn đường tương đối ngắn mà Đức Giê-su phải đi qua vai mang thập giá, nhưng Ngài yếu nhược bởi những cư xử thô bạo, vì thế quân lính trưng dụng một người qua đường, ông Si-mon người Ky-rê-nê, để vác đỡ thập giá với Ngài.

Khổ hình thập giá là sáng kiến của người Rô-ma. Xi-xê-ron mô tả khổ hình này là “cái chết kinh khiếp nhất và tàn bạo nhất”. Người Rô-ma dành việc hành hình này chỉ cho tầng lớp hạ lưu nhất: những người nô lệ. Ta-sít gọi nó “khổ hình của những kẻ nô lệ”.

Sau khi đã đóng đinh tay chân Ngài vào thập giá, “chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau”. Điều này phù hợp với luật Rô-ma: áo quần nạn nhân thuộc những lý hình. Đồng thời sấm ngôn của Tv 22 được ứng nghiệm: “Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (Tv 22: 19).

“Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một bên phải, một bên trái”. Điều này tăng thêm sự nhục mạ đối với Đức Giê-su: Ngài bị liệt vào hàng những kẻ gian phi.

Ở dưới chân Đồi Sọ, có một con đường dẫn đến Giê-ru-sa-lem. Chỗ hành hình này được chính quyền nhắm đến: cảnh tượng những nạn nhân hấp hối trong đau đớn phải có hiệu quả ngăm đe đối với khách bộ hành. Đó là lý do tại sao các thánh ký nêu lên những lời thóa mạ của những người qua đường.

Trên thập giá, Đức Giê-su chịu những lời nhục mạ của ba loại người: người Do thái qua đường nhận ra Ngài; các thành viên Thượng Hội Đồng đến chứng kiến cuộc hành hình; sau cùng hai tên gian phi. Thánh Mát-thêu không nói về “người trộm lành” mà thánh Lu-ca nêu lên trong bài tường thuật của mình.

Như vậy, Đức Giê-su thật sự bị bỏ rơi và thật sự phó nộp vào tay những kẻ thù Ngài.

Đức Giê-su chết trên thập giá (27: 45-50)

“Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất”. Việc bầu trời trở nên sầm tối vào giữa trưa thường xảy ra vào mùa xuân. Thánh ký đọc thấy ở đây một dấu chỉ, mà lối phóng dụ của ông diễn tả: cái chết của Đức Giê-su trên thập giá có một tầm mức hoàn vũ.

Chúng ta không thể không nghĩ đến sấm ngôn của A-mốt, gợi ra ngày của Chúa là ngày tang chế của người con một: “Trong ngày ấy, Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt trời tối sầm giữa lúc ngày đang sáng…Ta sẽ làm cho đất này chịu tang như người ta chịu tang đứa con một và kết cục của nó như một ngày cay đắng” (Am 8: 9-10).

Những sấm ngôn khác (Giô-en, Xô-phô-ni-a, vân vân) loan báo rằng ngày Chung Thẩm đi kèm theo những dấu chỉ vũ trụ (bóng tối, trận động đất, vân vân). Nhưng đây phải là ngày thịnh nộ. Thậm chí nếu giờ Đức Giê-su chết, theo mức độ nào đó, là giờ xử án rồi, nhưng thay vì giờ thịnh nộ lại là giờ tha thứ và xót thương.

“Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con”. Đây là tiếng kêu tuyệt vọng của người Công Chính đau khổ trong Tv 22: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị người đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: ‘Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giãi gỡ đi nào!’”.

Đức Giê-su lập lại tiếng kêu của Người Công Chính bị người đời khinh bỉ. Sau khi đã nhận biết bị người đời bỏ rơi, Ngài cảm thấy chơ vơ cô quạnh tuyệt mức, ngay cả Cha Ngài đã bỏ mặc Ngài.

Thánh ký đã trích nguyên văn tiếng A-ram, tiếng mẹ đẻ của Đức Giê-su: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”. Ấy vậy, chúng ta biết rằng theo truyền thống Do thái, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để giới thiệu Đấng Mê-si-a cho những tín hữu. Lời đùa cợt thì dể dàng và ác tâm: Ông Giê-su hấp hối này còn tin mình là Đấng Mê-si-a, hắn ta gọi ông Ê-li-a!

“Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm”. Cử chỉ này được hiểu tốt hơn trong bản văn của Gioan ở đó Đức Giê-su vừa nói: “Tôi khát”. Thánh Mát-thêu ngụ ý rằng một người đưa ra lời chế nhạo: “Khoan đã, để xem ông Ê-li-a có đến cứu hắn không”.

Cả bốn thánh ký đều đã giữ lại sự cố này vì Kinh Thánh soi sáng cho nó. Chúng ta đọc ở Tv 69 lời phàn nàn của một tôi trung, nạn nhân vì lòng nhiệt thành của mình đối với Đức Chúa: “Chúa biết rõ con bị người chửi mắng, lại mang vào thân tủi hổ với nhục nhằn; những kẻ thù con Ngài nhìn thấy cả. Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời. Nỗi sầu riêng mong người chia sớt, luống công chờ, không được một ai; đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu! Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69: 20-22).

Theo thánh Mát-thêu, Đức Giê-su không uống giọt giấm nào, Ngài “kêu lên một tiếng lớn, rồi trút linh hồn”.

Tiên báo về một thế giới mới (27: 51-54)

Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất liệt kê danh sách về những dấu chỉ lạ lùng này, đi kèm theo cái chết của Đức Giê-su.

Nét đặc trưng thứ nhất có ý nghĩa nhất: bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới đất. Đây là bức màn giăng lối vào tiền sảnh, hoặc bức màn phân cách thánh điện với phần cực thánh mà chỉ vị thượng tế mới có thể vào, một năm một lần để thực hiện nghi lễ Xá Tội. Dù bức màn nào đi nữa, ý nghĩa cũng là một: lối vào Thiên Chúa từ nay được mở ra cho hết mọi người, việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn độc tôn cho dân Ít-ra-en: cái chết của Đức Giê-su trải rộng cho hết mọi người. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa, đã thôi đóng vai trò của mình; đền thờ đích thật của Thiên Chúa sẽ là thân thể phục sinh của Đức Giê-su, như chính Ngài đã loan báo.

“Đất rung đá vỡ”. Hình ảnh khải huyền mà thánh Mát-thêu mượn ở nơi những sấm ngôn liên quan đến Ngày của Chúa ở đó thế giới phải rung chuyển. Được Kinh Thánh nuôi dưỡng, thánh ký nhận ra ở nơi cái chết của Đức Giê-su ứng nghiệm các sấm ngôn này.

“Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được chỗi dậy”. Thánh Mát-thêu nghĩ đến Is 26: 19 và Đnl 12: 2-3. Các vị thánh Cựu Ước, nhờ hy tế cứu chuộc của Đức Ki-tô, vào thánh thánh, tức là Giê-ru-sa-lem trên trời. Đây là “thị kiến thần học chứ không lịch sử”. Vả lại, thánh ký cẩn trọng xác định “Sau khi Chúa chỗi dậy”. Chính chỉ biến cố Phục Sinh mới đem lại thành quả tròn đầy cho hiến tế của Đức Ki-tô.

Tại thánh Mát-thêu, những dấu chỉ vũ trụ này khiến các lính canh và viên đại đội trưởng Rô-ma kinh khiếp, trong khi tại thánh Mác-cô chính thái độ của Đức Giê-su làm xúc động một mình viên đại đội trưởng.

“Quả thật ông này là Con Thiên Chúa”. Chắc chắn viên đại đội trưởng đã nghe trong đám đông những tiếng xì xầm: “Người này cho mình là con Thiên Chúa”; ông lập lại diễn ngữ này, dù không nắm bắt hết tầm mức của nó, nhưng qua những gì ông đã chứng kiến, ông tin chắc rằng tội nhân này là một người công chính đặc biệt. Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng này là dấu hiệu tiên báo cuộc hoán cải của thế giới lương dân; đây là lời chứng đầu tiên về tính phổ quát mà bức màn trướng Đền Thờ xé ra làm đôi loan báo.

Các Thánh nữ (27: 55-56)

Thánh ký trích dẫn đích danh ba trong số những người phụ nữ trung thành này, từ đằng xa, họ chứng kiến cơn hấp hối của Đức Giê-su.

1. Trước hết, bà Ma-ri-a Mác-đa-la, người mà Đức Giê-su đã trừ bảy quỷ, từ đó, bà đã luôn luôn theo Ngài để phục vụ Ngài.

2. Bà Ma-ri-a, mẹ của các ông Gia-cô-bê hậu và ông Giô-xếp, hai người anh em họ của Chúa.

3. Bà mẹ các con ông Dê-bê-đê (ông Gia-cô-bê và ông Gioan). Như vậy, không chỉ thánh Gioan hiện diện dưới chân thập giá, nhưng mẹ của thánh nhân cũng có mặt.

Sự hiện diện của các bà ở đây rất quan trọng vì lời chứng của các bà sẽ bổ khuyết cho lời chứng của nhóm Mười Hai vào những thời điểm mà các ông không có mặt. Các bà đã theo Đức Giê-su từng bước trên con đường thập giá, chứng kiến cái chết của Ngài trên thập giá và cuộc mai táng của Ngài. Các bà là những người đầu tiên chứng kiến ngôi mộ trống, dấu chỉ đầu tiên cuộc Phục Sinh của Ngài, và là những người đầu tiên gặp gỡ Đấng Phục Sinh và nhận sứ mạng của Đấng Phục Sinh là ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các ông.

Mai táng đức Giê-su (27: 57-61)

Theo tập quán Rô-ma, để tính ngăm đe có hiệu quả tốt, thi hài của tội nhân phải bị phơi bày trong nhiều ngày. Luật Do thái thì hoàn toàn khác: không được để mặt trời lặn trên thi thể của tội nhân. Đnl 21: 22 xác định, “xác nó không được để qua đêm”. Mặt khác, nếu không có ai can thiệp, thi hài của Đức Giê-su có nguy cơ bị ném vào một hố chung cùng với thi thể của hai tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài. Cuối cùng, theo cách tính của người Do thái, buổi chiều bắt đầu ngày sa-bát, ngày người ta kiêng cữ mọi công việc.

Vì thế, phải vội vã, vì thời gian gấp rút. Ấy vậy, gần nơi hành hình có một ngôi mộ trống. Chính nơi ngôi mộ này mà ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê, chủ nhân của ngôi mộ này và là môn đệ của Đức Giê-su, nghĩ đến việc mai táng Đức Giê-su. Trong khi Đức Giê-su còn sống, ông không dám bày tỏ sự thiện cảm của mình, vì ông là một thành viên Thượng Hội Đồng. Lúc này, ông can đảm đứng ra xin Phi-la-tô được tháo thi thể Đức Giê-su khỏi thập giá để mai táng. Quan tổng trấn chấp thuận.

Trước những biến cố này, chúng ta không thể không nghĩ đến lời của Đức Giê-su: “Nếu hạt giống không mục nát đi…nó không sinh nhiều hoa trái”. Ngày khi Đức Giê-su vừa tắt thở, những dấu chỉ kiểm chứng lời này: một lương dân công bố tính siêu việt của Ngài, dân chúng đến xem ra về vừa đấm ngực ăn năn (thánh Lu-ca kể sự kiện này), một người môn đệ thầm lặng vượt lên trên nỗi sợ hãi của mình, đích thân đến xin Phi-la-tô thi thể Đức Giê-su và mai táng.

Vì thế, Đức Giê-su, vị sứ giả nghèo khổ này, trước đây vài ngày, thân thể Ngài đã được xức dầu thơm hảo hạng, nay an nghỉ trong ngôi mộ của nhân vật giàu có, đã được đục sẵn trong núi đá và hoàn toàn mới, như thử những dấu hiệu vinh dự này báo trước việc Ngài đi vào trong vinh quang của mình.

Thực tế, ngôi mộ của những người giàu có là một căn phòng ở giữa có một ghế dài để đặt thi thể, bên ngoài có một phiến đá lớn lấp cửa mộ. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a, mẹ của ông Giô-xếp, “quay mặt vào mồ” quan sát việc mai táng. Chính hai bà này vào sáng sớm ngày thứ nhất sẽ là những người đầu tiên chứng thực ngôi mộ trống.

Như vậy, ngày đau thương hoàn tất một cách trang nghiêm, giữa những tấm lòng lòng trung thành và yêu mến.

Lính canh mồ (27: 62-66)

Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất kể ra việc canh mồ. Ngôi mộ phải được canh giữ theo lệnh Phi-la-tô, đó là chuyện thường tình. Nhưng đàng này lại là sáng kiến của các thượng tế, điều này xem ra hy hữu. Người ta tự hỏi phải chăng vào thời thánh Mát-thêu biên soạn Tin Mừng sự tranh cãi giữa những người Do thái và những Ki tô hữu vẫn còn dai dẳng, những người Do thái buộc tội những người Ki-tô hữu đã trộm xác Đức Ki-tô để phao tin đồn là Ngài đã sống lại. Cuộc tranh cãi phải nhắm đến câu hỏi phải biết ai chịu trách nhiệm canh gác ngôi mộ.

Ba tấn thảm kịch

Ba tấn thảm kịch chồng chéo lên nhau trong cuộc Thương Khó của Đức Giê-su: trước hết, tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối, rồi đến tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người, sau cùng tấn thảm kịch của tội lỗi.

1. Dân Ít-ra-en từ chối

Đức Giê-su đã không ngừng công bố một sứ điệp khó khăn; Ngài đã phá đổ những thành kiến, lên án chủ nghĩa duy luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, đoạn sự thù hận đã liên kết với nhau chống lại Ngài. Những người lãnh đạo tôn giáo đã không chấp nhận nhận ra ở nơi Ngài Đấng Mê-si-a, vì Ngài không đáp ứng hình ảnh mà họ tự mình tưởng nghĩ ra. Việc họ kiên tâm tiêu diệt Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ suy tính: Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết, nhưng do việc làm của họ, dân Ít-ra-en, dân được ký thác Lời Hứa, đã thôi không còn nữa.

2. Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người

Khi đón nhận kiếp phàm nhân như chúng ta, Đức Giê-su đã chấp nhận thân phận tử biệt sinh ly của chúng ta. Ngài đã đảm nhận vận mệnh con người trong mọi chiều kích đau khổ khủng khiếp. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến Ngài phải hứng chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài sống. Số phận này ở trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18-19). Đây là cử chỉ yêu thương tận mức, Đức Giê-su đã muốn thuộc vào số những người bị tra tấn, những người bị hành hình, những người tử đạo, ngỏ hầu những ai phải chết trong những đau đớn cùng cực nhất, và những ai phải chịu đau khổ về thể lý cũng như luân lý, đều gặp thấy ở nơi cuộc Thương Khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Cũng phải ghi nhận rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có muôn vàn ân phúc. Ở đâu có những đau khổ được liên kết với Ngài, ở đó Ngài sẽ ban muôn vàn ân sủng.

3. Tấn thảm kịch của tội lỗi

“Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Đức Giê-su cho cái chết của Ngài ý nghĩa này.

Tuy nhiên, lời này đưa chúng ta vào mầu nhiệm: “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc”“Người cứu chuộc” (goel) là người phục hồi phẩm giá cho một thành viên trong gia tộc phải lâm vào cảnh bần cùng, và chuộc lại nếu người ấy phải sa vào vòng nô lệ vì nợ nần. Đây là ý nghĩa đặc biệt của từ Hy-bá mà chúng ta dịch “Đấng Cứu Chuộc”.

Dù được Kinh Thánh soi sáng, biết bao vấn đề gợi lên trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Thiên Chúa rất mục tốt lành, Thiên Chúa-Tình Yêu, Ngài đã không muốn nhân loại một mình phải gánh chịu mọi hậu quả tội lỗi của mình. Ngài đã sai Con Ngài đến để chia sẻ gánh nặng tội lỗi và xóa đi mọi vết nhơ của tội. Đó là lý do tại sao Thánh Giá là “vinh quang” của Thiên Chúa, như thánh Gioan nói.

Về mục lục

VƯỢT QUA THỬ THÁCH

Thiên San, MTG. Thủ Đức

 Suốt cuộc đời, ai có thể tránh được những khó khăn, thử thách? Thật ra, những khó khăn, thử thách vẫn có đó bên ta nhưng điều quan trọng là trước những khó khăn thử thách vẫn thường xảy ra ấy, chúng ta đã làm gì và đâu là thái độ ta thường có? “Chúa Giêsu Kitô, tuy là Thiên Chúa, đã không nghĩ phải giành cho được vị trí ngang hàng với Thiên Chúa; trái lại, Người huỷ bỏ chính mình mà nhận lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như loài người về mọi phương diện, ngoại trừ tội lỗi. Người đã tự hạ mình mà vâng lời cho đến chết, và chết trên thập giá.” (x. Pl 2, 6-8). Ngước nhìn lên Chúa Giêsu trên thánh giá, chúng ta học được bài học của sự tự hủy vì yêu thương.

Bước vào Chúa nhật lễ Lá, Giáo hội cho chúng ta cử hành nghi thức tưởng niệm việc Chúa Giêsu bước vào thành Giêrusalem với tiếng hò reo vang dậy của dân chúng. Khi bước vào Thánh lễ, chúng ta được nghe đoạn Tin Mừng về cuộc Thương Khó của Chúa. Vinh quang trần thế mau qua là thế! Lòng người đổi thay là thế! Mới hôm nay đây rải lá, tung hô đón Người vào thành thánh nhưng ngày mai lại buông lời kết án, đòi đóng đinh Người vào thập giá. Chúng ta có nhìn thấy đâu đó hình ảnh của mình nơi những nhân vật xuất hiện trong Cuộc Thương Khó của Chúa Giêsu? Thiết nghĩ, chẳng phải chỉ một mình Chúa Giêsu gặp khó khăn thử thách trong biến cố này. Có thể nói, tất cả mọi người có mặt trong biến cố của Chúa đều gặp thách đố, mỗi người một kiểu: Có nhiều kẻ đã vấp ngã!

Đầu tiên là thách đố đối với các môn đệ. Theo Thầy bấy lâu, họ quen nghe những lời tung hô ca tụng của dân chúng dành cho Thầy của mình. Không ít lần, họ cảm thấy phổng hết mũi vì bao lời tung hô thiên hạ dành cho cả Thầy và trò. Dẫu không ít lần, họ gặp thất bại khi bị chống đối đến nỗi họ chỉ muốn xin thầy cho lửa từ trời xuống thiêu hủy những kẻ chống đối. (x. Lc 9, 54). Nhưng nói cho cùng, lần này, đứng trước Cuộc Khổ Nạn của Thầy, họ mất hết hy vọng. Thử thách đối với họ quả là quá lớn. Không lớn sao được khi Thầy của mình bị bắt đem đi đóng đinh. Mười hai môn đệ thề sống chết với Thầy nhưng có ai đi trọn con đường? Kẻ này bán Thầy, kẻ kia chối Chúa, tất cả đều bỏ trốn hết. Thế mới biết, phận người thật yếu đuối trước khó khăn, thử thách.

Dân chúng thì sao? Dân chúng thì đông vô kể. Chúng ta chẳng thể biết, trong đám đông đứng lên đòi đóng đinh Thầy Giêsu hôm nào, có ai đã từng mang ơn Thầy, từng được Thầy chữa lành bệnh tật. Nếu có thì điều đó thật là điều đau đớn cho Thầy Giêsu. Đám đông dân chúng không gặp thách đố sao được khi giới cầm quyền liên tục phản đối Chúa Giêsu, không ít lần quyết định sẽ trục xuất bất cứ ai tin nhận Đức Giêsu là Đấng Kitô. Kể cũng tội nghiệp. Họ chỉ biết chọn gió chiều nào theo chiều ấy. Bởi đó, khi quan Philatô ngỏ ý muốn tha Chúa Giêsu thì họ lại nghe lời xúi dục của giới cầm quyền mà xin tha Baraba. Chọn lựa đối với họ thật không dễ, nhiều người trong đám đông còn chẳng có quyền để chọn lựa.

Những người Pharisêu, biệt phái và kinh sư cũng chẳng tránh được những thử thách. Họ đã vấp ngã. Phải chăng, thử thách lớn nhất mà họ gặp phải chính là Đức Giêsu. Đức Giêsu là khó khăn, thách đố lớn nhất họ gặp phải. Những việc làm, những lời nói của Chúa Giêsu xem ra trái với đức tin và truyền thống theo cái nhìn của họ. Mặc dù, Đức Giêsu đã không ít lần khẳng định rằng, các việc Người thực hiện làm chứng Người là ai và từ đâu đến. Họ bị đặt trước những thách đố ngày càng gia tăng, những cuộc đối thoại giữa họ và Đức Giêsu ngày càng căng thẳng, nhất là khi Chúa Giêsu công khai nhận mình là Con Thiên Chúa. Xem ra điều này đi ngược với đức tin vào một Thiên Chúa duy nhất của họ. Không ít lần, nhóm Pharisêu đã giận điên lên vì những giáo huấn và việc làm của Đức Giêsu. Dân chúng dường như đã bỏ rơi họ mà chạy theo Đức Giêsu. Họ không ghen ghét sao được. Thế rồi, họ quyết định khử trừ Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu có gặp khó khăn thách đố không? Câu trả lời là “có”. Ngài gặp nhiều khó khăn, thách đố hơn ai hết. Không thách đố sao được khi các môn đệ bỏ đi hết, kẻ “chối từ”, người “bán đứng”. Không thách đố sao được khi chén đắng Cha trao quá lớn. Với bản tính nhân loại, khi phải đối iện với cái chết gần kề, Đức Giêsu cảm thấy tâm thần xao xuyến, đau đớn đến đổ mồ hôi máu. Người cảm thấy cô đơn khi không tìm được một sự chia sẻ của các môn đệ. “Linh hồn Thầy buồn sầu đến nỗi chết được; các con hãy ở lại đây và thức với Thầy” (Mt 26, 38); Chẳng lẽ các con không thức cùng Thầy được lấy một giờ ư? Hãy tỉnh thức và cầu nguyện để khỏi lâm cơn cám dỗ: vì tinh thần thì lanh lẹ, nhưng xác thịt thì yếu đuối.” (Mt 26, 40-41). Đức Giêsu đã xin Chúa Cha cho mình khỏi uống “chén này” nhưng sau khi cầu nguyện, cuối cùng Người đã thưa lên rằng: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha” (Mt 26, 42).

Lạy Chúa, chẳng có ai trong chúng con tránh được những khó khăn, thách đố. Những khó khăn thách đố ấy có thể đến từ chính con người của chúng con, nó có thể đến từ người bên cạnh, từ hoàn cảnh sống… Như Chúa đã vui lòng đón nhận với sự vâng phục tuyệt đối thánh ý Chúa Cha, xin giúp chúng con biết thay đổi cái nhìn của mình trước khó khăn thách đố vẫn thường xảy đến, để tất cả trở nên phương thế giúp chúng con sống gần với Chúa hơn. Khi chúng con biết kết hợp những đau khổ của bản thân để cùng chia sẻ với những đau đớn của Ngài trong Cuộc Thương Khó, chính là khi chúng con được cùng Chúa chia sẻ cuộc sống này. Xin Chúa thêm ơn giúp sức để chúng con lớn lên, mạnh mẽ hơn qua những khó khăn thách đố. Xin đừng để chúng con bị vấp ngã vì chúng, nhưng khi đã lỡ vấp ngã, xin giúp chúng con biết cùng Chúa đứng lên. Amen.

Về mục lục

TÌNH THẦY GIÊSU

Tuần Lễ Lá-A: Mt 26, 14-27, 66

Tiến trình: tre già măng mọc, có công mài sắt, có ngày nên kim; thao trường đổ mồ hôi, chiến trường bớt đổ máu. Từ xa xưa vẫn ngầm nói tới một quy luật: mọi thứ trên đời phải trả giá bằng công sức, tiền của, riêng tình yêu, người ta phải trả giá bằng trái tim rỉ máu, đôi khi phải cả mạng sống. Tình bạn vô cùng đẹp, nếu gặp sự khó bạn bè xuất hiện, trong khi người khác họ mặc kệ, dửng dưng. Trong tình yêu, âm thanh dễ nghe nhất, giai điệu tuyệt vời nhất, chính là điều chất chứa trong tim, họ dành cho nhau vượt lên trên những đòi hỏi của tự nhiên. Tình bạn, tình yêu, tình vợ chồng, theo tuần tự rất đẹp, luôn phản ánh một đòi hỏi lớn dần lên, cao siêu hơn, trách nhiệm to hơn. Nơi nào có tình yêu nơi đó có sự sống. Nơi nào đáng sống nhất, hạnh phúc thật, hẳn có nhiều điều tốt đẹp, dù ta không nhìn rõ, không tường tận hết, nhưng trái tim ta sẽ mách bảo.

Đích đến ở đời đâu phải ta già hay trẻ, giầu nghèo, tài cao đức rộng, tiếng tăm lừng lẫy, chính xác là ta được hạnh phúc. Đỉnh cao của đời người tín hữu, chắc không phải là hành hương “đất thánh”, là được viếng toà thánh Vatican. Cũng không phải được sống theo diễn tiến phụng vụ tuần thánh, mà cả một cuộc đời tự nguyện sống mầu nhiệm tử nạn và phục sinh với Thầy Giêsu. Mang thân phận người, Thầy Giêsu đầy tâm trạng khi đi Giêrusalem, các học trò thì hoảng loạn, dân chúng tung hô vạn tuế Con Vua Đavít, song lại đòi đóng đinh Vua Giêsu ! Mất tiền mất của, không mất, được ơn, đủ tình Giêsu, có tất cả ! Tình cha mẹ đối với con cháu, tình bạn bè, tình vợ chồng, tình thầy với trò, có bình an hạnh phúc không, cứ liên đới hiệp thông cùng Thầy Giêsu, hẳn sẽ có đáp án.

Tình đẹp, tình ngọt ngào, tình chuẩn mực, ai chẳng mê ? Tình Giêsu, tình Thầy ra đi chịu chết, chịu đóng đinh, ai chẳng sợ chẳng khiếp ? Hoa đẹp thơm, hoa tươi thắm, có ngày tàn, tình say đắm, có ngày tan, duy tình Thầy trò: là cao cả, không đắm, không say, cũng không tàn, đừng nghi ngờ. Chúng ta tìm đâu ra Người Thầy vĩ đại: biết trước đứa học trò phản bội, chối Thầy, bỏ Thầy, tham sống sợ chết, nhưng Thầy không dập tắt, không loại trừ ? Tìm nơi nao để có Vị Thầy đủ bình tĩnh, nhẫn nại, trước đám đông: vô ơn bạc nghĩa, nay tung hô, mai đả đảo ? Tìm đâu ra Người Thầy hoàn hảo, vì yêu, sẵn lòng vâng phục thánh ý Chúa Cha: “nếu chén này không thể qua đi được mà Con phải uống, thì xin theo ý Cha” ! Tình Thầy Giêsu đã tỏ ra cho các học trò, đang minh chứng cho từng hoàn cảnh nơi chúng ta: Thiên Chúa là tình yêu, là ơn cứu độ được trao ban cho nhân loại.

Tình Thầy Giêsu, tình Thầy yêu thương phục vụ, tình Thầy quảng đại bao dung, để rồi tình Thầy nhận lại trái đắng, nhận lấy tình sầu, tình buồn, tình bất công ! “Ông Phêrô thề và chối rằng: tôi không quen biết ông ấy” ! “Dân chúng đồng thanh đáp: đóng đinh nó vào thập giá” ! Tình Thầy Giêsu sẽ sống động mãi trong liên đới cầu nguyện, sẽ vĩ đại trước hoạt động “lòng Chúa xót thương”: tình thật khởi đi từ Thầy Giêsu, yêu thật, là kết quả từ khổ đau thập giá Đức Kitô. Tình Thầy trò nào đã hết, đã phôi phai, không, nhất định là không, tình Thầy trò Giêsu rất rõ ràng: yêu là yêu cả tội lỗi, cả phúc đức, bao gồm cả quá khứ của họ. Ở đời vẫn nói: im lặng là vàng, im lặng là đồng ý, im lặng để cơn giận dữ tan biến, chứ không không phải im lặng để chờ đợi lời xin lỗi. Thầy Giêsu im lặng để mở ra cơ hội sống cho các học trò, cho giới lãnh đạo tôn giáo, cho đám đông: tình Thầy sẽ không đưa ai vào ngõ cụt, có chăng họ tự đưa nhau vào đường cùng ngõ cụt.

Tình Thầy Giêsu không chỉ thu phục bằng dấu lạ: no đủ cơm bánh, thể xác được lành mạnh, số câm điếc được nghe Tin-mừng; mà còn là phép lạ biến đổi tâm tính bằng tình yêu Thánh Thần: “đúng người này là Con Thiên Chúa”. Tình Thầy Giêsu vẫn đang phản ánh một sự thật: “dù có phải đối diện với nguy hiểm, con cũng liều chết cùng Thầy”. “Thưa Thầy có phải con không” ? Hứa cho nhiều, hiểu biết nhiều, và được thương yêu nhiều, nhưng rồi lại quên, lại tự an ủi vì mang thân phận yếu đuối ! Vâng, chỉ nơi tình Thầy Giêsu mới đủ bao dung tha thứ, mới đủ thật lòng nói lời thưa vâng: uống cạn chén Chúa Cha trao. Tình Thầy Giêsu vượt qua đau khổ thập giá, tình Thầy Giêsu sống lại từ cõi chết, minh chứng Thầy đã yêu đến cùng, đã tha thứ, đã làm phát sinh sự sống mới nơi những ai tín thác vào tình Thầy Giêsu. Tình Thầy Giêsu sẽ còn nhiều điều hạnh phúc mới, trong tin yêu mới, của mỗi cá nhân sống cầu nguyện, hiệp thông. Tất cả là hồng ân, tất cả đều có cơ hội: cảm nhận tình đẹp nhất là tình Giêsu. Tình bao dung phóng khoáng nhất là tình yêu Thiên Chúa. Tình vĩ đại nhất là tình Thầy, tự hiến thân mình chịu chết và sống lại để cứu độ nhân loại. Xin Tình Thầy Giêsu, cho chúng con được thông phần vào mầu nhiệm tử nạn và phục sinh của Thầy, đến trọn đời trọn kiếp. Amen.

Về mục lục

CÙNG ĐI GIÊRUSALEM

Lm. Jos DĐH.

Chứng kiến đám đông gào thét vì sung sướng bởi những thành quả tốt đẹp khoa học mang lại cho con người ; tưởng tượng về một số đông đang la hét phản đối vì quyền lợi bị xâm phạm, không xa lạ gì với chúng ta hôm nay. Người tài được kính trọng, người đức độ được nể phục, là điều hết sức tự nhiên, dù thời xưa hay hôm nay, tất cả như muốn nói lên lời cám ơn, biết ơn những vị khôn ngoan đã đầu tư công sức, đã tập luyện để “thành nhân”. Đúng là tài cao đức rộng sống ở đâu, ở thời đại nào, cũng được mộ mến. Lý tưởng của bậc làm cha mẹ là phải học tập cho mình, phải thực hành giáo dục gương sáng cho con cháu: gieo gì gặt nấy ; gieo yêu thương, gặt nhân đức. Các đấng bậc phải trải qua năm tháng gục ngã vì tội lỗi, rồi được tha thứ, được nâng đỡ dậy. Các ngài mới đủ khả năng chỉ cho con cháu kinh nghiệm, thế giới vạn vật này chính là một tấm gương: ta nhăn mặt với chúng, chúng sẽ nhăn mặt lại ta, ta mỉm cười với nó, nó sẽ mỉm cười với ta.

Phụng vụ tuần thánh mời gọi các tín hữu cùng Đức Giêsu đi Giêrusalem, đi vào trọng tâm của tin tưởng mến yêu. Đức Giêsu tiến về Giêrusalem thực thi sứ mạng cứu độ, vâng phục trọn vẹn thánh ý Chúa Cha. Người kitô hữu chúng ta đi vào tuần thương khó với Chúa Giêsu để thể hiện niềm tín thác, hiệp thông, đi sâu hơn nữa vào đời sống cầu nguyện, sống đức tin kitô giáo. Tại Giêrusalem, tại nhà thờ, hoặc bầu khí gia đình, hay cụ thể hơn là đền thờ tâm hồn, đều có Đức Giêsu, và có đau khổ thập giá, dù thời gian, hoàn cảnh địa lý xưa nay không giống nhau. Con cháu bất hiếu với cha mẹ ông bà, học trò phản thầy, anh chị em ganh tỵ vì quyền lợi không được như ý… Cảnh Giuđa bán Thầy, Phêrô chối Thầy, các môn đệ bỏ Thầy, từ xa xưa vẫn bị xem là hèn nhát. Tuy nhiên, mỗi người, mỗi tâm hồn sẽ phản ánh một sự thật về sự trung tín, mà chúng ta không thể sống như người thiếu hiểu biết.

Ngày hôm nay, nhân loại vẫn có rất nhiều lời chân tình: “đừng người con nào hỏi cha mẹ đã làm gì cho con” ? Đừng ai nghi ngờ Chúa Giêsu còn có hành trình đi Giêrusalem không ? Hãy hỏi ta có sẵn sàng và tin tưởng cùng với Thầy Giêsu vượt qua đau khổ để tới vinh quang không ? Tại sao Chúa Giêsu không ngăn cản đám đông dân chúng đừng trải áo, đừng tung hô “vạn tuế Con Vua Đavít”, vì Ngài đúng thật là Thiên Chúa cứu độ mà nhân loại hằng mong chờ. Và có bao giờ ta tự hỏi: tôi là gì mà Chúa phải chịu đau khổ, chịu chết vì tôi không ? Bằng sự tự do và kinh nghiệm bản thân, mỗi người dễ dàng quả quyết rằng: tôi được hạnh phúc như hôm nay là nhờ cha mẹ ông bà yêu thương hướng dẫn, giáo dục. Đức Giêsu vẫn sẵn lòng đi cùng nhân loại tiến về Giêrusalem thiên quốc là vì yêu, vì muốn cứu từng người trong chúng ta.

Hành trình đi Giêrusalem hôm xưa, có các học trò, có đám đông đã từng chứng kiến phép lạ, có các luật sĩ biệt phái, và có người chỉ a-dua theo, nhiều người trong đó được nghe giảng dạy, được ơn ban của Đức Giêsu. Hành trình hôm nay, Đức Giêsu vẫn là Thầy là Chúa, vẫn chịu đau khổ, vẫn bị tội lỗi của nhân loại đóng đinh, và Chúa vẫn đang nhắc nhớ người thánh thiện, người tội lỗi, hãy nhìn lên thập giá mà sám hối, ăn năn, hầu được dự phần vào mầu nhiệm cứu độ. Cùng đi Giêrusalem, cùng tin tưởng cậy trông Chúa, nhưng mỗi người có cùng để Chúa biến đổi tâm tính, tội lỗi của mình, để cùng chết và sống lại với Chúa không ? Ở trên thập giá năm xưa, Chúa Giêsu nhìn các học trò đầy tình yêu thương, Chúa Giêsu nhìn Philatô, nhìn những người làm khổ Chúa, nhìn cả nhân loại tội lỗi chúng ta hôm nay nữa ! Nhận biết Đức Giêsu là Đấng cứu độ trần gian mới là khởi đầu, tin tưởng, sám hối, và sống giáo huấn của Chúa, bao giờ cũng là những bước kế tiếp đầy khó khăn mà ta phải bày tỏ niềm tin.

Hành trình đi Giêrusalem hôm nay, có thể ta không mưu mô như Philatô, không phải ngây ngô như các học trò nhút nhát sợ chết, cũng không phải là đối tượng thiên hạ hay mỉa mai: bạc như dân, bất nhân như lính, mau thay lòng đổi dạ ! Nhưng dù ở vị trí nào trong xã hội, hẳn chúng ta cũng chỉ là tội nhân đáng thương trước ơn gọi làm thần dân của Chúa mà thôi. Nếu đi cùng Chúa tiến về Giêrusalem, cùng Chúa bước vào tuần thương khó, chắc chắn ta vẫn được gọi là môn đệ, dù ta “lặng nhìn Chúa không biết thân thưa”, ta vẫn có những giây phút tuyệt vời vì được Thầy Giêsu ngắm nhìn, như Ngài từng nhìn và giúp các học trò của Ngài sống tốt nhất với sứ mạng của mình. Xin Chúa Giêsu chịu đau khổ thập giá, hiện diện và đi với con cái nhân loại tội lỗi là tôi là bạn ; xin cùng đi suốt, đi hoài, trợ giúp con cái Chúa vượt qua hành trình trần thế này cách trọn vẹn. Amen.

Về mục lục

DÂNG NGƯỜI GIỌT LỆ

 Bông hồng nhỏ

Trong cuộc Thương Khó của Thầy Giêsu, có rất nhiều giọt nước mắt đã rơi xuống: đó là giọt lệ thống hối ăn năn của môn đệ Phêrô khi ông nhận ra mình vừa chối Thầy ba lần; đó là giọt nước mắt đầy hối hận của môn đệ Giuđa trong nỗi đau đớn dày vò và tuyệt vọng vì đã bán Thầy. Còn có rất nhiều giọt nước mắt đã và đang rơi xuống trước cái chết của Thầy Giêsu.

Mới ngày nào, các môn đệ, đặc biệt là nhóm Mười Hai đã cùng Thầy Giêsu rảo bước khắp các làng mạc thôn xóm. Được chia sẻ những thao thức và tình yêu của Thầy, lòng các ông đã được bừng cháy, tâm hồn các ông phấn khởi hân hoan. Người ta tôn vinh Thầy, người ta cảm phục quyền năng của Thầy. Từ trong thâm tâm, các ông đều đang chất chứa những tham vọng và ước muốn về địa vị và quyền lực. Các ông có hiểu và cảm thấu những tâm tư và thao thức của Thầy ngay giờ này? Giờ mà Con Người sẽ bị nộp vào tay người đời, bị các kỳ mục và các kinh sư loại bỏ, bị giết chết; giờ mà người chủ chiên bị đánh và đàn chiên sẽ tan tác; giờ mà Con Người bị những người mà mình yêu thương phản bội; giờ Con Người sẽ được giương cao trên thập giá để thực thi thánh ý Chúa Cha và yêu nhân loại cho đến cùng.

Thầy Giêsu đã báo trước: “Đêm nay tất cả anh em sẽ vấp ngã vì Thầy. Vì có lời đã chép: Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Mt 26, 31). Nghe vậy, ông Phêrô liền quả quyết: “Dầu tất cả có vấp ngã vì Thầy đi nữa, thì con đây cũng chẳng bao giờ vấp ngã” (Mt 26, 33). Ông tin tình yêu mà ông dành cho Thầy đủ mạnh để vượt qua tất cả những gian nan khốn khó. Thầy Giêsu bảo ông: “Thầy bảo thật anh: nội đêm nay, gà chưa kịp gáy, thì anh đã chối Thầy ba lần” (Mt 26, 34). Ông Phêrô đáp lại: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy” (Mt 26, 35). Đó là lòng nhiệt thành của ông. Thầy bị bắt rồi, ông vẫn theo Thầy xa xa, đến tận dinh thượng tế. Ông vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao (x. Mt 26, 57-58). Ông đã không bỏ Thầy như các anh em khác, dù lo sợ  nhưng vẫn âm thầm dõi bước theo Thầy. Người ta hỏi ông, khẳng định ông là môn đệ của Thầy Giêsu, giữa lúc đó ông đã thề thốt mà chối Thầy. Tiếng gà vừa gáy, ông mới sực nhớ lời Thầy đã tiên báo rằng ông sẽ chối Thầy ba lần. Ông ra ngoài khóc lóc thảm thiết (x. Mt 26, 69-75). Ông nhớ đến lời của Thầy. Trong nỗi đau vì đã chối Thầy, ông nhận ra Thầy luôn là người hiểu rõ ông, hiểu rõ con người yếu hèn nơi ông. Thầy biết ông sẽ vấp ngã, sẽ phản bội nhưng vẫn chọn ông làm trưởng các Tông đồ. Thầy vẫn yêu thương ông, dù biết trước ông sẽ chối Thầy đến ba lần. Lời Thầy không làm cho ông tuyệt vọng nhưng cho ông nhận ra yếu đuối của chính mình. Trong sự vấp ngã đau thương, ông nhận ra lòng thương xót của Thiên Chúa dành cho mình. Rồi đây, ông sẽ đứng lên để vững bước theo Thầy. Trên con đường của người môn đệ, chắc chắn chúng ta cũng sẽ ngã nhiều lần như Phêrô, và cũng có thể sẽ ngã nhiều lần hơn thế, đau đớn hơn thế, nhưng điều quan trọng là chúng ta có can đảm để tiếp tục bước theo Thầy trên đường thập giá hay không? Có một người môn đệ cũng đã vấp ngã, đã phản bội Thầy, đó là Giuđa. Khi thấy Người bị kết án thì anh hối hận, anh trả hết bạc cho các thượng tế và kỳ mục để chuộc lại lỗi lầm. Thế nhưng, họ mặc kệ anh. Biết rằng không thể làm thay đổi ý định giết Thầy Giêsu của các thượng tế và kỳ mục, Giuđa vô cùng tuyệt vọng và đã ra đi thắt cổ (x. Mt 27, 3-5). Đau đớn và tuyệt vọng đã làm cho anh không còn thấy niềm hy vọng được tha thứ. Anh không tin vào tình thương của Thầy hay không thể tự tha thứ cho chính mình? Khi tội lỗi làm chúng ta ngã quỵ trong đau thương, chúng ta hãy vững tin vào tình thương bao la của Thiên Chúa, tin vào tình thương mà Thầy Giêsu dành cho chúng ta. Chúng ta hãy ngước nhìn lên thập giá của Chúa Giêsu để được Người nâng đỡ, ủi an. Chính Người đã chết để cứu chuộc chúng ta. Chúng ta hãy dâng Người giọt lệ sầu thống hối và nhận lấy niềm tin và hy vọng từ chính cái chết và sự phục sinh của Chúa Kitô. Nơi Người, chúng ta sẽ được đón nhận tình thương bao la của Thiên Chúa.

Lạy Chúa Giêsu! Tội lỗi thường làm cho chúng con ngã quỵ và vây kín chúng con trong bóng đêm của nó. Mỗi ngày, xin cho con biết chạy đến bên Chúa Giêsu Thánh thể, để nhờ ơn Chúa, con biết chân thành sám hối về các tội lỗi con đã phạm, để trong tình thương của Chúa, con dám đối diện với nỗi đau và gánh lấy sức nặng của tội; để khi “được cùng chịu đóng đinh với Chúa Kitô vào thập giá, con cũng được sống lại với Người”. Xin Chúa Giêsu nhận lấy giọt nước mắt thống hối của con và biến nó thành nước mắt của vui mừng và hy vọng. Amen.  

Về mục lục

ĐỨNG VỮNG NIỀM TIN

Anna Cỏ May

Trong các chương trình âm nhạc, khi các ca sĩ hay những người chơi âm nhạc xuất hiện thì thường có hai phản ứng: hoặc là mọi người vỗ tay hoan hô chào đón cách nồng nhiệt hoặc là ném “đá”. Tại sao chúng ta lại có phản ứng như vậy?

Khi Đức Giêsu và các môn đệ vào thành Giêrusalem, dân chúng lấy áo choàng trải xuống mặt đường, một số khác lại nhặt nhành lá mà rải lên đường đi và reo hò vang dậy: “Hoan hô Con Vua Đavít! Chúc tụng Đấng ngự đến nhân danh Đức Chúa! Hoan hô trên các tầng trời” (x. Mt 21,8-9). Dân chúng đã từng chứng kiến quyền năng của Đức Giêsu qua rất nhiều phép lạ, nhất là qua sự sống lại của anh Ladarô. Từ đó, họ hy vọng Ngài sẽ đem lại cho họ một cuộc sống sung túc trong danh vọng tiền tài, không còn thiếu của ăn của để. Ngay cả các môn đệ, các ông vẫn luôn mong ước điều đó. Nhưng sau khi vào thành Giêrusalem, mọi sự đã thay đổi từ cái hôn của Giuđa – kẻ nộp Thầy với ba mươi đồng bạc. Trong vườn Dầu, các môn đệ bỏ chạy hết. Đám quân lính đến bắt Ngài không mất chút sức lực nào. Ngài đi vào cuộc thinh lặng. Ngài thinh lặng trước những lời tố cáo phỉ báng của các thượng tế và những người Pharisêu. Họ tố Ngài là kẻ chống lại Lề Luật, chống lại Đền Thờ và chống lại niềm tin vào Thiên Chúa duy nhất. Dân chúng cũng đồng tình với giới lãnh đạo và đồng thanh kết án Đức Giêsu. Mặt khác, dân chúng nhìn thấy người mà mình từng đặt hy vọng bây giờ không còn gì nữa mà chỉ còn một sự đau khổ và nhục nhã. Bên cạnh đó, thượng tế Caipha cũng đã nói: “Thà một người chết thay cho dân còn hơn là toàn dân bị tiêu diệt” (Ga 11,50). Dân chúng đã nghe theo những ai có lợi thế hơn lúc này. Chỉ còn số ít ngậm ngùi trong giọt lệ khóc than với Thầy. Như vậy, dân chúng đón rước Đức Giêsu khi họ nhìn thấy vinh quang uy quyền của Ngài, nhưng lại dễ chối từ Ngài bởi lời tố cáo của người khác và cũng bởi vì nhìn thấy thực tại của Ngài giờ đây không còn có ích cho họ nữa.

Nếu chúng ta không tỉnh thức, chúng ta cũng sẽ rơi vào thái độ của dân chúng lúc bấy giờ. Trong cuộc sống hiện nay, chúng ta không chỉ phải đối diện với bệnh dịch mà còn bị thử thách đức tin. Đã có nhiều người cho rằng Thiên Chúa đang giáng phạt con người qua bệnh dịch này, khiến cho nhiều người mất đi niềm tin vào lòng thương xót và nguồn cậy trông vào sự tha thứ của Thiên Chúa. Là người Kitô hữu, chúng ta càng không thể đánh mất đức tin mà bấy lâu nay chúng ta đã đang cố gắng gìn giữ và xây dựng. Trên thánh giá, Đức Giêsu trong một thân xác đau đớn, hơi thở yếu dần, đã thưa với Cha: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc họ làm” (Lc 23,34). Chúng ta hãy vững tin vào Thiên Chúa mà chạy đến tựa nép bên Ngài. Vì Ngài đã nói: “Tôi chính là Mục Tử nhân lành” (Ga 10,11).

Lạy Chúa giàu lòng thương xót, xin thương chúng con trong cơn thử thách về thể xác cũng như tinh thần. Để nhờ ơn Chúa đỡ nâng, chúng con biết cùng nhau vượt qua và tiến về ngôi nhà duy nhất là Nước trời. Amen.

Về mục lục

CHÚC TỤNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Thầy trò đến núi Cây Dầu,
Giê-ru-sa-lem, đối đầu công khai.
Sai hai môn đệ hôm mai,
Đến làng trước mặt, quản cai hỏi nhờ.
Thầy cần lừa mẹ bây giờ,
Dùng xong gởi trả, cậy nhờ tựa nương.
Lời xưa ứng nghiệm tỏ tường,
Si-on thiếu nữ, bên đường tung hô.
Vua ngươi nhân ái bước vô,
Ngồi lưng lừa mẹ, chở đồ kéo lê.
Đoàn dân trải áo bên lề,
Nhành cây trải lối, Chúa về Sa-lem.
Mọi người thành phố ra xem,
Hoan hô chúc tụng, rước đem vào thành.
Tầng trời tuôn đổ ơn lành,
Con Vua Đa-vít, nhân danh Chúa Trời.
Tiên tri nhân đức cao vời,
Xuất thân làng nhỏ, gọi mời dấn thân.
Na-gia-rét đó vọng ngân,
Ngôi Hai Thiên Chúa, thế nhân cứu đời.

Bước vào Tuần Thánh là thời gian quan trọng nhất trong lịch phụng vụ. Chúng ta sẽ tưởng niệm sự đau khổ, sự chết và sống lại của Chúa Giêsu. Chúa Giêsu bắt đầu Tuần Thánh với sự kiện Ngài vào thành Giêrusalem. Dân chúng hoan hô đón chào. Nhiều người chặt cành là vẫy chào và có nhiều kẻ trải áo xuống đường đón rước Chúa trong tiếng tung hô: Hoan hô con Vua Đavít.

Chỉ sau vài ngày, những tiếng tung hô đã trở thành những tiếng gào thét. Đóng đinh nó đi, đóng đinh nó vào thập giá. Sau hơn 2000 năm, tiếng gào thét vẫn còn vang vọng nơi nơi. Hãy tha Baraba và giết Giêsu. Giữa thế giới trần tục hôm nay, thiên hạ vẫn lên tiếng ủng hộ những kẻ làm điều ác. Họ vẫn cứ giơ tay ủng hộ những phong trào vô luân. Nhiều người đồng ý ủng hộ những phong trào phá thai, chiến tranh, đồng tình luyến ái, tự do sống chung…Nhiều người vẫn muốn giết Chúa Giêsu, loại bỏ Ngài ra khỏi cuộc sống. Những biểu tượng thánh giá bị gỡ bỏ, những dấu hiệu tôn giáo bị cấm cản.

Nhiều người muốn tha Baraba để rồi khỏi phải nghe những lời khuyên dạy về đạo đức luân lý. Họ coi những lời khôn ngoan dạy bảo của Chúa như lỗi thời không còn thích hợp với đời sống văn minh tiến bộ. Họ muốn chính họ là chủ cuộc đời trong mọi chọn lựa. Thật lạ lùng, đám đông theo Chúa, họ đã nhận lãnh biết bao hồng ân, đã chứng kiến biết bao phép lạ và đã nghe biết bao bài giảng của Chúa. Rồi trong giây phút quan trọng, họ đã quay mặt làm ngơ và giơ tay đả đảo. Họ phỉ báng nhạo cười và thách thức Chúa. Ôi, thật bạc bẽo chua cay!

Chúa cũng còn chút an ủi, một số những bạn bè thân cận âm thầm bước theo sau. Đặc biệt là các con gái thành Giêrusalem. Họ không dám lên tiếng bênh vực cho Chúa cách công khai, nhưng cảm thông và âm thầm chịu đựng.

Theo Chúa, chúng ta phải có sự chọn lựa chính xác. Chúng ta không thể làm tôi hai chủ. Chọn Chúa hay chọn Baraba. Nhiều khi chúng ta muốn trung dung và không có thái độ dứt khoát. Chọn Chúa là chọn con đường thập giá. Có thánh giá là có hy sinh và có đau khổ. Qua thập giá sẽ đưa chúng ta đến vinh quang.

Về mục lục

BẠN CHỌN THÁI ĐỘ NÀO?

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Với Chúa Nhật Lễ Lá, chúng ta bước vào Tuần Thánh, là tuần cao điểm của năm phụng vụ, để cử hành và tưởng niệm cuộc Khổ nạn và Phục sinh vinh hiển của Đức Giêsu, Chúa chúng ta. Nếu chúng ta để ý, chúng ta thấy Phụng vụ của Lễ Lá có sự mâu thuẫn:

Trước thánh lễ, đó là nghi thức rước lá: nghi thức diễn tả thái độ vui mừng và nồng nhiệt của dân Do Thái đón tiếp Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem: họ cầm lá trong tay, rồi còn lấy áo mình trải cho Chúa Giêsu đi, một cử chỉ rất nồng nhiệt như chào đón một vị vua hay Đấng Cứu Thế.

Tuy nhiên, khi bước vào thánh lễ, các bài đọc lại diễn tả toàn là những sự đau khổ của Chúa Giêsu, đặc biệt trong bài Thương Khó.

Đây là sự tương phản mà Giáo Hội có dụng ý muốn diễn tả qua Phụng vụ này để làm nổi bật sự mâu thuẫn của thái độ hay thay đổi của con người. Sự mâu thuẫn này bắt nguồn từ lòng dạ của con người, từ trái tim của mỗi người chúng ta: mâu thuẫn giữa lời nói và việc làm, mâu thuẫn trong thái độ sống, giữa lời tuyên xưng niềm tin và đời sống cụ thể.

Sự thay lòng đổi dạ này là sự kiện lịch sử đã xảy ra trong vụ án Giêsu, mà Giáo Hội truyền lại cho chúng ta để chúng ta khám phá ý nghĩa của nó và giúp chúng ta sống tốt đức tin mình hơn.

1- Thái độ của người Do Thái

Trước hết, thái độ và lòng dạ của dân Do Thái: Đây là thái độ mâu thuẫn và bất nhất của họ đối với Chúa Giêsu: chỉ trong mấy ngày trước, khi Chúa vào thành Giêrusalem, họ vui mừng, tung hô, hò reo, tôn vinh Chúa là Con Vua Đavít, nhưng sau đó mấy ngày, chính họ là những người hô to: “Đóng đanh nó đi, giết nó đi.” Đó là thái độ bất nhất!

2- Thái độ mâu thuẫn của các môn đệ

Thứ đến là thái độ của các môn đệ, trong đó có thái độ của Phêrô, một môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu, trước đó, ông hùng hổ dám tuyên bố với Chúa rằng ai đến bắt Chúa thì phải bước qua xác ông. Vậy mà chỉ sau đó một thời gian ngắn, một cô gái hỏi: “Ông có phải là môn đệ Đức Giêsu không?” Phêrô đã chối đành đạch ba lần rằng: “Tôi không biết Người ấy.” Ôi người nhát đảm quá!

Một Giuđa mới ngày hôm trước ngồi ăn với Chúa, gần gũi với Chúa, thầy thầy, con con, nhưng ngày hôm sau, ông đã bán rẻ Chúa với giá 30 đồng bạc. Ông dùng nụ hôn là nghĩa cử yêu mến để làm dấu cho người ta bắt Chúa. Bên ngoài đạo đức, bên trong là dao găm, nham hiểm! Đồ hai mặt!

3- Thái độ của những người lãnh đạo tôn giáo

Họ là những Luật Sỹ, Kinh Sư hay thuộc nhóm Pharisêu. Họ duy lề luật, cứng nhắc, thành kiến và khó thay đổi trong xác tín, niềm tin của mình. Trước sứ điệp mới mẻ của Chúa Giêsu, họ không chỉ không đón nhận mà còn tìm mọi cách để chống đối Chúa Giêsu. Chính họ là những người đã gây nên vụ án của Chúa Giêsu. Họ là những người đạo đức giả, chạy theo bề ngoài, nhưng tâm địa đầy độc ác và gian thâm.

Tuy nhiên, khi suy niệm cuộc khổ nạn Chúa Giêsu, chúng ta không phải chỉ tưởng nhớ những gì đã xảy ra trong quá khứ, nhưng khi suy niệm những thái độ sống của những nhân vật trên, chúng ta được mời gọi liên hệ đến mình, soi bóng mình trong đó. Cử hành là liên hệ với đời sống chúng ta.

Nếu hiểu như thế, khi suy ngắm những mâu thuẫn của những người Do Thái và các môn đệ đối với Chúa Giêsu, chúng ta cũng khám phá ra chính chúng ta cũng có những thái độ tương tự như thế đối với Chúa. Sự mâu thuẫn luôn có mặt trong cuộc đời và trong đời sống đức tin của mỗi người.

Mới ngày hôm qua chúng ta đọc kinh, xem lễ đạo đức lắm, nhưng hôm nay đã chối Chúa rồi.

Mới hôm qua hứa với Chúa sẽ không phạm tội, nhưng hôm nay đã phạm tội rồi.

Ở trong nhà thờ chúng ta sốt sắng tuyên xưng Chúa là Vua, Đấng Cứu Độ, nhưng ra khỏi nhà thờ, chúng ta lại sống như những người vô đạo, lừa lọc, gian dối với anh chị em mình…

Nhưng chúng ta có thể chọn theo một trong ba thái độ sau:

Thái độ thứ nhất là tuyệt vọng : Giống như Giuđa, biết mình phạm tội, nhưng ông đã tuyệt vọng trong tội lỗi, và ông đã đi thắt cổ tự tử. Đó là thái độ tuyệt vọng trước tội lỗi của mình và đánh mất niềm tin vào lòng thương xót của Thiên Chúa. Thái độ đó đưa đến bế tắc, tự tử.

Thái độ thứ hai là cố tình ở lỳ trong tội : Những người lãnh đạo tôn giáo lúc bấy giờ, là những người trực tiếp gây ra án chết của Chúa Giêsu, nhưng sau khi Chúa phục sinh, họ vẫn cố tình ở lỳ trong tội, không chấp nhận sám hối, không biết ăn năn để trở về với Chúa.

Thái độ thứ ba là sám hối : Đó là thái độ của Phêrô, ngài ý thức tội của mình, khóc lóc, sám hối, và khiêm tốn nhìn nhận tội lỗi của mình, xin Chúa tha thứ, nhờ đó, từ kinh nghiệm về tội lỗi và sám hối, ông đã trở thành người đứng đầu trong Giáo Hội và hướng dẫn cộng đoàn, nhờ thái độ khiêm tốn và sám hối của mình.

Như thế, tuyệt vọng, ngoan cố, ở lỳ trong tội, hay là sám hối trở về, trong ba thái độ đó, anh chị em chọn thái độ nào? Câu trả lời là tùy thuộc vào quyết định của anh chị em trước mặt Chúa trong Tuần Thánh này. Amen!

Về mục lục

HAI SẮC THÁI CỦA MẦU NHIỆM VƯỢT QUA

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nội dung chính yếu của cử hành phụng vụ Tuần Thánh là cuộc thương khó của Chúa Giêsu. Ngài là người tôi tớ đau khổ của Đức Giavê. Ngài đón nhận Thập giá tủi nhục thất bại, và đã biến đổi Thập giá thành nguồn ơn cứu độ, tình thương tha thứ cho nhân loại tội lỗi.

Phụng vụ bước vào Tuần Thánh với khởi đầu là Chúa Nhật Lễ Lá. Cử hành phụng vụ hôm nay khởi sự bằng việc làm phép lá và đi kiệu lá. Cộng đoàn đi kiệu để tưởng niệm việc Chúa Cứu Thế khải hoàn tiến vào thành Giêrusalem. Ngay sau đó là Thánh Lễ tưởng niệm cuộc Thương khó, đặc biệt với việc đọc Bài Thương khó.Việc cử hành hôm nay mang hai sắc thái có vẻ nghịch nhau : mới mừng cuộc khải hoàn của Chúa Kitô, rồi lại cảm thông nỗi thống khổ của Người. Phụng vụ hôm nay kết hợp hai khoảnh khắc trái ngược nhau; cuộc chào đón Đức Giêsu vào Giêrusalem và thảm kịch Thương khó; lễ hội “Hosanna” và những tiếng la ó lặp đi lặp lại “Đóng đinh nó vào thập giá!”; cuộc khải hoàn và sự thất bại bề ngoài qua cái chết trên thập giá.

Bài Thương khó kể lại từng chặng đường đau thương của Đấng Cứu Thế. Ba môn đệ thân tín đã bỏ rơi Thầy. Giuđa chỉ điểm bắt Thầy bằng một nụ hôn giả dối. Các môn đệ sợ hãi bỏ Thầy mà chạy trốn. Phêrô thề là không hề quen biết Thầy. Chúa Giêsu cô đơn trước đám đông cuồng nộ. Họ bị kích động đòi đóng đinh Ngài. Họ coi Ngài còn thua Baraba là tên phiến loạn. Họ khạc nhổ, đánh đập, vả tát vào mặt, dùng roi quất vào da thịt. Đôi bàn tay bầm tím xuyên thâu những mũi đinh nhọn. Đôi bàn chân bị đinh đóng xuyên qua cây gỗ. Đầu đội mão gai nhọn. Lưỡi đòng đâm cạnh sườn, máu và nước chảy ra. Một người bị lột bỏ trần trụi. Hai tay bị giang thẳng trói xiết chặt vào thanh gỗ ngang. Hai chân bị trói vào thanh gỗ dọc phơi ngoài trời nắng gắt cho đến chết. Chết vì nghẹt thở do các cơ vòng ngực, cơ bắp tay không còn sức trương ra, co vào để rồi thu nhận và tống không khí. Tử tội bị đóng đinh nơi cổ tay, nơi bàn chân càng thê thảm bội phần vì đau đớn nhức nhối, sức người rướn lên để thơ, mau kiệt sức và chóng chết. Bị sỉ nhục. Bị cười nhạo báng. Bị khinh khi. Kẻ qua người lại đều nhục mạ Ngài, vừa lắc đầu vừa nói: mi là kẻ phá được Đền Thờ, và nội trong ba ngày xây lại được, hãy cứu lấy mình đi ! Nếu mi là Con Thiên Chúa, thì xuống khỏi thập giá xem nào!. Các thượng tế kinh sư và kỳ mục cũng chế giễu Ngài mà nói: Hắn cứu được thiên hạ, mà chẳng cứu nổi mình. Hắn là vua Israel ! Bây giờ hắn cứ xuống khỏi thập gía đi, thì chúng ta tin hắn liền!. Cả những tên cướp cùng chịu đóng đinh cũng sỉ vả Ngài như thế.

Cái chết cô đơn, cái chết đau khổ đến với Chúa Giêsu như một chén đắng mà Chúa Cha trao phó. Chúa Giêsu xin vâng ý Cha, nhưng không vì thế mà bớt sự đau đớn. Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu than thở: “Cha ơi, nếu được, xin cho chén này rời khỏi con. Nhưng xin đừng theo ý Con, mà xin theo ý Cha” (Mt 26,39).Theo thánh ý Chúa Cha, “Chúa Giêsu đã hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây Thập giá”( Pl 2,8).

Cuộc khải hoàn rước lá của Chúa Giêsu là một dấu chỉ của chiến thắng vinh quang chung cuộc. Việc kiệu lá cho thấy rõ ý nghĩa đích thực của đau khổ và thập giá. Tương tự trong sự kiện “biến hình” trên núi Tabo: Chúa Giêsu cho ba tông đồ thoáng thấy vinh quang thần tính. Khi xuống núi, Ngài ra lệnh cho ba tông đồ phải bảo mật cho đến khi Con Người sống lại từ cõi chết, nghĩa là cho đến khi ý nghĩa của biến cố được tỏ bày. Cũng chính ba tông đồ thân tín chứng kiến cơn hấp hối của Chúa ở vườn Cây Dầu. Sau Phục sinh, Chúa Kitô cũng giải thích cho hai môn đệ trên đường Emmau: “Đức Kitô không phải chịu đau khổ như thế rồi mới vào vinh quang của Người sao?” (Lc 24,26).

Như vậy ngay từ Lễ Lá, hai sắc thái, hai cục diện của mầu nhiệm Vượt Qua được trình bày rõ ràng. Lễ Lá trình bày hai cục diện theo thứ tự đảo ngược : vinh quang trước, khổ nạn sau. Nhưng thứ tự đó biểu lộ thực chất của mầu nhiệm Vượt Qua. Mầu nhiệm Vượt qua cơ bản là một mầu nhiệm đạt tới vinh quang và sự sống. Sự chết chỉ là bước đi qua, là phương tiện để đạt tới mục đích là vinh quang Phục Sinh. Khổ đau của Thập Giá Đức Kitô không bao giờ là nỗi đau của hận thù, oán ghét mà luôn mang dáng đứng của tình yêu và sự khoan dung tha thứ. Trên thập giá, Chúa Giêsu đã cầu nguyện cùng Chúa Cha: “Xin Cha tha cho chúng vì chúng không biết việc chúng làm”. Hơn thế nữa, Ngài công bố ơn cứu độ của Thiên Chúa ngay trên thập giá, lúc mà thế trần nhìn thấy Ngài trần trụi và yếu đuối nhất, khi Ngài ôm trọn con người tội lỗi trần gian qua hình ảnh tên gian phi biết cúi mình nhận ra Chân Lý: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43). Chúa Giêsu đã xóa màu đen ghê tởm của sự dữ trong lòng con người qua việc phục hồi giá trị của mỗi nhân vị và đưa nhân loại đến với Thiên Chúa qua Tình Yêu toàn tha của Ngài. Chúa Giêsu đã dùng cạn hết mọi dấu chỉ của thế trần để biểu lộ Tình Yêu thâm sâu của Ngài cho chúng ta. Đó là màu trắng thanh khiết nhất và là ánh sáng đẹp nhất mà nhân trần này có thể chiêm ngưỡng.

Trong cuộc thương khó, Chúa Giêsu không oán trách hay hận thù ai, Ngài vượt lên trên tất cả bằng tình thương tha thứ. Chúa Giêsu đã biểu lộ sức mạnh của tình yêu, sức mạnh của niềm tin và phó thác trọn vẹn cho Thiên Chúa. Chính sức mạnh tình yêu đã làm mọi chia rẽ được hàn gắn, mọi hận thù được xóa bỏ và mọi xa cách được nên hiệp nhất. Chúa Giêsu đã hợp nhất nhân loại trong trái tim rộng mở của Ngài, trái tim chỉ có tình yêu thanh khiết. Ngài nâng con người lên giá trị cao hơn trong sự kết hiệp với tình yêu Thiên Chúa, một tình yêu Nguyên Tuyền. Tình yêu ấy không làm mờ đi bóng cây thập giá nhưng lại mang một ý nghĩa và sắc màu huyền diệu lung linh.

Bước vào Tuần Thánh, chúng ta cùng theo Chúa Giêsu trên con đường Thập giá.

Theo Chúa không chỉ khi gặp may mắn, thành công, bình an mà còn chấp nhận khi bị bỏ rơi, khước từ, đau khổ, thất bại.

Theo Chúa không là con đường “xuôi chèo mát mái” hoàn toàn hạnh phúc an lành, mà còn là con đường chọn lựa quyết liệt với những quyến rũ của vật chất, đam mê, hưởng thụ, danh vọng, quyền lực thế gian.

Theo Chúa Giêsu là đi con đường thập giá vừa lên dốc, vừa nhiều ổ gà ổ voi và vừa là con đường một chiều. Con đường ấy hẹp chứ không thênh thang theo những trào lưu dễ dãi, giả dối, ích kỷ, hận thù, bạo lực… nên cần phải sống từ bỏ, hy sinh, trung thực, yêu thương, bao dung.

Tuần Thánh, cùng đi vào hành trình thương khó của Chúa, chúng ta gặp thấy nhiều tình huống tăm tối của “nhân tình thế thái” như vu khống, phản bội, ghen tương, bất công, nhục nhã, đau khổ, sợ hãi, cô đơn, hèn nhát, cái chết. Nhưng trên hết, chúng ta gặp được một tình yêu. Tình Yêu của Đấng Chịu Đóng Đinh đối với Chúa Cha và lòng xót thương với nhân loại. Chỉ có tình yêu mới làm cho mọi khổ đau có giá trị cứu độ. Cảm nếm và thông phần với nỗi khổ đau thân xác và tinh thần của Chúa Giêsu, nhưng vẫn luôn nhận ra lòng xót thương nằm ẩn dưới từng phản ứng của Ngài theo Tin Mừng kể lại. Càng suy nghĩ về cuộc khổ nạn, chúng ta càng yêu Thập giá của Chúa hơn, yêu thập giá của mình hơn và kính trọng thập giá của người khác hơn.

Theo Chúa Giêsu trên con đường thập giá là một thách đố lớn trong bối cảnh thời nay. Xác tín rằng, có Chúa cùng đồng hành, Ngài luôn thấu hiểu nâng đỡ, Ngài chia sẻ những khó khăn, thử thách, đau khổ với chúng ta trên hành trình theo Ngài. Nếu can đảm cùng chịu đau khổ và đóng đinh cùng Ngài, chúng ta sẽ được hạnh phúc và vinh quang phục sinh với Ngài.

Về mục lục

Ý NGHĨA CUỘC ĐỜI

Trầm Thiên Thu

Lá Biếc Cùng Lá Xanh Vẫy Chào Chúa

Người Già Với Người Trẻ Mừng Đón Vua

Cuộc đời không là cuộc dạo chơi, mà là cuộc đấu tranh – khó nhất là chiến đấu với chính mình, vượt qua “cái tôi” tồi tệ của mình. Và người ta vẫn nói rằng “đời là bể khổ.” Khổ đủ thứ, khổ mọi chiều – ngang, dọc, trên, dưới, cao, thấp, dài, ngắn.

Người ta chỉ thở dài chứ không thở ngắn. Thở dài thườn thượt vì khổ, biết là khổ mà chẳng ai định nghĩa được thế nào là khổ một cách chính xác và thỏa mãn nhất. Theo cách tương đối, có thể tạm hiểu với công thức giản lược: Đau khổ = Ưu sầu + Nước mắt. Tất nhiên phải “trừ” loại nước mắt vui mừng, dù hai loại nước mắt đều có vị mặn. Người ta dễ dàng lấy vạt áo lau khô những “giọt mặn” rỉ ra từ đôi mắt, nhưng rất khó xóa “vết mặn” khỏi trái tim mình. Thật vậy, sướng hay khổ còn do mỗi người có khái niệm riêng. Có những triết lý dễ hiểu, có những triết lý khó hiểu, thậm chí là không thể hiểu: Triết lý sống động của Thập Giá. Đó cũng là loại triết lý của sự đau khổ rất đặc biệt.

Chân phước Charles de Foucauld phân tích chí lý: “Trên thế giới đau thương này có một niềm vui mà các thánh và các thiên thần trên thiên đàng không được hưởng – đó là được cùng đau khổ với người yêu dấu của chúng ta. Dù cuộc sống có gian truân đến đâu, chuỗi ngày thê lương của chúng ta có lê thê đến mấy,… chúng ta cũng đừng bao giờ rời xa chân Thập Giá trước khi Chúa muốn. Thầy Chí Thánh thật nhân lành đã cho chúng ta, những tâm hồn yêu mến Thập Giá, được cảm nghiệm sự ngọt ngào của nó, nếu không phải luôn luôn, thì ít ra là vẻ đẹp và sự cần thiết của nó.”

Là con người, chắc chắn chẳng ai chờ đợi niềm đau nỗi khổ, thế nhưng đau khổ vẫn luôn có giá trị tích cực mà chúng ta phải cố gắng hiểu suốt cả đời. Đại văn hào Victor Hugo nhận xét: “Đau khổ cũng như hoa quả. Chúa không khiến nó mọc lên trên những cành quá yếu ớt để chịu nổi nó.” Còn Elbert Hubbard nói: “Nếu bạn đau khổ, hãy cảm ơn trời! Vì đó là dấu hiệu chắc chắn cho thấy bạn đang sống.” Ý tưởng thâm thúy. Chính đau khổ lại khiến người ta nên khôn, một sự thật vô cùng kỳ lạ!

Cuộc sống đời thường cho thấy rằng những con người có cách sống tốt đẹp là những người từng bị thất bại, từng đau khổ, từng tranh đấu, từng mất mát, và họ đã tìm được con đường ra khỏi vực sâu, thoát khỏi đường hầm. Những con người này có lòng cảm kích, sự nhạy cảm và thấu hiểu đối với cuộc đời, chính cuộc đời đã làm cho họ biết cảm thông, biết quan tâm chia sẻ và yêu thương sâu sắc. Rõ ràng không phải tự nhiên mà có, nhưng phải phấn đấu không ngừng – tức là gian nan, vất vả, đau khổ,…

Quả thật là kỳ diệu đối với triết lý đau khổ. Cái xui có sần sùi nhưng là cái bùi nhùi chùi bóng cuộc đời. Kinh Thánh cho biết rằng hung tin dồn dập, nhưng ông Gióp vẫn bình tĩnh. Ông trỗi dậy, xé áo mình ra, cạo đầu, sấp mình xuống đất, sụp lạy và cầu nguyện: “Thân trần truồng sinh từ lòng mẹ, con sẽ trở về đó cũng trần truồng. Đức Chúa đã ban cho, Đức Chúa lại lấy đi: xin chúc tụng danh Đức Chúa!” (G 1:21) Mặc dù đau khổ đến tột cùng, nhưng “ông Gióp KHÔNG hề phạm tội cũng KHÔNG buông lời trách móc phạm đến Thiên Chúa.” (G 1:22) Hai cái “không” của ông thật tuyệt vời. Ai hiểu được như vậy thì cuộc đời sẽ thanh thản, bình an, bình lặng nhưng êm đềm.

Như để tự an ủi để vượt qua đau khổ, người ta thường nói: “Thà một phút huy hoàng rồi chợt tắt, còn hơn le lói suốt trăm năm.” Tuy nhiên, chúng ta cũng có thể hiểu theo góc độ nào đó về Chúa Giêsu, Đấng nhập thể làm người. Kinh Thánh cho biết cuộc đời Ngài đầy đau khổ ê chề, thế nhưng Ngài vẫn có được khoảnh khắc huy hoàng là được thiên hạ tung hô lúc Ngài cưỡi trên lưng lừa khi vào Thành Giêrusalem. Và giờ của Ngài đã đến!

Hôm nay, Giáo Hội sử dụng bài ca thứ ba trong các Bài Ca của Người Tôi Trung, tuy ngắn gọn mà súc tích: “Đức Chúa là Chúa Thượng đã cho tôi nói năng như một người môn đệ, để tôi biết lựa lời nâng đỡ ai rã rời kiệt sức. Sáng sáng Người đánh thức, Người đánh thức tôi để tôi lắng tai nghe như một người môn đệ. Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi, còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.” (Is 50:4-5) Vẫn giữ được lòng trung tín trong lúc đau khổ như vậy thì không dễ chút nào, đức tin phải thực sự mạnh mẽ lắm.

Trong đại dịch hiện nay, mỗi chúng ta đều cần có đức tin như vậy để không bị chi phối, không bị hoảng loạn, biết sống liên đới và nâng đỡ nhau, không suy diễn lệch lạc gây ảnh hưởng xấu tới đức tin chân chính Kitô giáo.

Có điều kỳ diệu là nỗi đau khổ không làm người ta yếu đuối mà lại làm tăng sức chịu đựng: “Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ. Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá. Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.” (Is 50:6-7) Thật là kỳ diệu, những người không có niềm tin Kitô giáo chắc chắn không thể hiểu được, và sẽ cho những người chịu đau khổ là những người điên khùng.

Trong khi đau khổ tột cùng, Thánh Vịnh gia đã thốt lên: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giải gỡ đi nào!” (Tv 22:7-9) Thách thức quá lớn, khoảng cô đơn quá rộng, thật ê chề nhục nhã quá đi!

Người ta cảm nhận chí lý: “Phúc bất trùng lai, họa vô đơn chí.” Điều đó như một quy luật muôn thuở, giống như định mệnh vậy. Đau khổ này chồng lên đau khổ khác: “Quanh con bầy chó đã bao chặt rồi. Bọn ác đó trong ngoài vây bủa, chúng đâm con thủng cả chân tay, xương con đếm được vắn dài; chúng đưa cặp mắt cứ hoài ngó xem. Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn. Chúa là sức mạnh con nương, cứu mau, lạy Chúa, xin đừng đứng xa.” (Tv 22:17-20) Không còn gì để mất nữa, khốn khổ tột cùng, lo sợ run cả người, nguyện cầu không ngừng, thế nhưng vẫn chẳng nghe động tĩnh gì. Trong cơn đại dịch hiện nay, cả thế giới cũng đang có cảm giác như vậy!

Tuy nhiên, dù có thế nào thì vẫn một niềm tín thác, vẫn xưng tụng Thiên Chúa, vì đó là mục đích sống của tín nhân: “Con nguyện sẽ loan truyền danh Chúa cho anh em tất cả được hay, và trong đại hội dân Ngài, con xin dâng tiến một bài tán dương. Hỡi những ai kính sợ Đức Chúa, hãy ca tụng Người đi! Hỡi toàn thể giống nòi Giacóp, nào hãy tôn vinh Người! Dòng dõi Israel tất cả, nào một dạ khiếp oai!” (Tv 22:23-24) Và chẳng có gì tách tín nhân ra khỏi Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Giêsu Kitô. (Rm 8:39)

Sống nhờ hơi thở cầu nguyện. Cầu nguyện cũng là dưỡng chất tâm linh. Cầu nguyện mà không nghe động tĩnh gì, đó là dấu chỉ chắc chắn rằng Chúa đang xót thương. Lại thêm một điều kỳ diệu. Muốn hiểu được triết lý này thì cần phải có niềm tin Kitô giáo. Với người ngoài Kitô giáo hoặc vô thần, họ cho đó là “bùa mê, thuốc lú,” ai tin như vậy đều bị họ coi là dại dột, là dốt nát, là ngu xuẩn hoặc điên rồ. Nhưng cái dại đó lại là cái khôn kỳ diệu.

Thật vậy, Thánh Phaolô phân tích: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế.” (Pl 2:6-7) Chúa Giêsu không chỉ tự nguyện như vậy, mà còn hơn thế nữa: “Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự.” (Pl 2:8) Đúng là mầu nhiệm, do đó mà khó hiểu. Tuy nhiên, “khó hiểu” chứ không phải là “không thể hiểu.” Nghĩa là vẫn có thể hiểu – hiểu bằng đức tin và đức mến.

Dù là dạng tình yêu nào thì cũng cần “chất” đau khổ, có đau khổ mới chứng tỏ tình yêu chân chính. Đại văn hào Victor Hugo nói: “Ai khổ vì yêu, hãy yêu hơn nữa; chết vì yêu là sống trong tình yêu.” Chết mà là sống. Người đời mà còn nhận định được như vậy thì kỳ lạ thật!

Sự đau khổ luôn có giá trị nhất định và thực sự độc đáo. Gian nan dẫn đến thành công, đau khổ đưa tới vinh quang. Tương tự, sự chết là đường dẫn tới sự sống, là cửa ngõ mở lối vào cõi trường sinh. Thánh Phaolô kết luận: “Chính vì thế, Thiên Chúa đã siêu tôn Người và tặng ban danh hiệu trổi vượt trên muôn ngàn danh hiệu. Như vậy, khi vừa nghe danh thánh Giêsu, cả trên trời dưới đất và trong nơi âm phủ, muôn vật phải bái quỳ; và để tôn vinh Thiên Chúa Cha, mọi loài phải mở miệng tuyên xưng rằng: “Đức Giêsu Kitô là Chúa.” (Pl 2:9-11) Ai tin nhận Ngài sẽ được sống đời đời. (Ga 3:16; Ga 6:47)

Khi Chúa Giêsu hiển hách vào Thành Giêrusalem cũng là lúc Ngài bắt đầu đi vào cõi đau khổ, rồi từ “biên giới” đầy gian khổ là Vườn Dầu tiếp tục dẫn tới “cửa ải” sự chết là Núi Sọ, thế nhưng từ Núi Sọ “chết chóc” ấy lại dẫn tới cửa sự sống là Nước Trời. Một bản đồ lòng vòng như mê cung nhưng lại thú vị và hấp dẫn, có biết bao người mong được sử dụng loại bản đồ này, và nhiều người đã đạt được mục đích – các thánh nhân, đặc biệt là các vị tử đạo. Lối hẹp mà hóa đường rộng, vị cay đắng trở thành vị ngọt ngào.

Dù vui hay buồn, dù tốt hay xấu, chuyện gì đến cũng sẽ đến. Đó là điều tất yếu của cuộc đời. Ngày Chúa Giêsu được người ta tiếp đón và chúc tụng nhưng Giáo Hội sử dụng bài thương khó – bộ phim trĩu nặng u buồn.

Một người trong Nhóm Mười Hai, Giuđa Ítcariốt, đành lòng bán Thầy mình để lấy một số tiền. Từ lúc đó, gã cố tìm dịp thuận tiện để nộp Thầy mình. Vật chất và tiền bạc có ma lực cực mạnh khiến người ta mù quáng, không còn đủ lý trí sáng suốt để phân biệt đâu là phải – trái. Ma lực đó khó cưỡng lại, nên nhiều người chết vì nó!

Vào ngày thứ nhất trong tuần bánh không men, các môn đệ đến thưa với Đức Giêsu xem Ngài muốn họ dọn Tiệc Vượt Qua ở đâu. Ngài dặn dò họ kỹ lưỡng từng chi tiết.

Hoàng hôn buông xuống. Thời điểm quan trọng. Đức Giêsu vào bàn tiệc với mười hai môn đệ. Đang tiệc vui, bỗng dưng Ngài bảo có người sẽ nộp Ngài. Các môn đệ ngạc nhiên và buồn lắm, họ hỏi nhau để biết ai là thủ phạm. Không ai biết. Ngài nói: “Kẻ giơ tay chấm chung một đĩa với Thầy, đó là kẻ nộp Thầy. Đã hẳn Con Người ra đi theo như lời đã chép về Người, nhưng khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà nó đừng sinh ra thì hơn!” (Mt 26:23-24) Giuđa chột dạ nhưng vẫn giả nai: “Thầy ơi, chẳng lẽ con sao?” Và Ngài xác nhận là đúng, không sai!

Cũng trong dạ tiệc đó, Đức Giêsu cầm lấy bánh, dâng lời chúc tụng, rồi bẻ ra, trao cho môn đệ và nói: “Anh em cầm lấy mà ăn, đây là mình Thầy.” (Mt 26:26) Rồi Người cầm lấy chén, dâng lời tạ ơn, trao cho môn đệ và nói: “Tất cả anh em hãy uống chén này, vì đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội.” (Mt 26:27-28) Đây là giây phút linh thiêng và xúc động, nhưng lại có nỗi buồn khi Ngài bảo: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy.” (Mt 26:29) Buồn thật. Và nỗi buồn đó như đang thấm vào mỗi chúng ta trong đại dịch Corona này!

Hát thánh vịnh xong, Thầy trò cùng ra núi Ôliu. Bấy giờ Đức Giêsu nói với các ông về nhiều điều cần thiết, vừa cảnh báo vừa trăn trối. Nghe Thầy nói đích danh mình là sẽ chối Thầy ba lần. Ông Phêrô nói chắc: “Dầu có phải chết với Thầy, con cũng không chối Thầy.” (Mt 26:35) Tất cả các môn đệ cũng đều nói như vậy. Nhưng rồi điều gì đến vẫn cứ đến. Sự thật là sự thật, và lời tiên báo cũng ứng nghiệm.

Bước vào Vườn Dầu – Ghếtsêmani, Ngài bảo mọi người ở lại, chỉ dẫn theo Phêrô và hai người con ông Dêbêđê đi theo. Ngài bắt đầu cảm thấy buồn rầu xao xuyến cực độ nên phải thốt lên: “Tâm hồn Thầy buồn đến chết được. Anh em ở lại đây mà canh thức với Thầy.” (Mt 26:38) Ngài đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha.” (Mt 26:39) Nhân tính thật yếu đuối, nhưng Ngài vẫn quyết tuân phục Ý Cha cho đến cùng, không theo ý riêng.

Khi trở lại chỗ ba đệ tử, Ngài thấy họ ngủ say, và Ngài nói: “Thế ra anh em không thể canh thức nổi với Thầy một giờ sao? Anh em hãy CANH THỨC và CẦU NGUYỆN, để khỏi lâm vào cơn cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng say, nhưng thể xác lại yếu hèn.” (Mt 26:40-41) Cuộc chiến tâm linh thật khó khăn, nhưng không thể không chiến đấu.

Nói xong, Ngài lại đi cầu nguyện lần thứ hai: “Lạy Cha, nếu con cứ phải uống chén này mà không sao tránh khỏi, thì xin vâng ý Cha.” (Mt 26:42) Rồi Ngài quay lại, thấy các môn đệ vẫn đang ngon giấc, mắt họ nặng trĩu. Có lẽ họ thấm mệt vì có chút men và trời đã quá khuya. Phàm nhân là thế. Ngài để cho các ông ngủ mà đi cầu nguyện lần thứ ba, cũng với lời như trước. Rồi Ngài đến chỗ các môn đệ, đúng lúc kẻ nộp Ngài vừa tới. Giờ G đã điểm!

Tỏ ra tất thản nhiên và lịch sự, Giuđa đến chào và hôn Thầy, nhưng đó không là dấu yêu thương mà là dấu “chỉ điểm” cho những kẻ ác bắt Thầy. Phêrô nóng gáy nên rút gươm chém đứt tai Man-khô, đầy tớ của thầy thượng tế. Nhưng Chúa Giêsu chữa lành cho gã và bảo Phêrô không nên dùng vũ khí. Họ liền ập tới bắt trói Ngài. Thấy vậy, các môn đệ tá hỏa và chạy trốn, có kẻ mất dép, có kẻ tuột cả áo. Ai cũng nói mạnh, nhưng cũng chỉ lẻo mép nói suông. Phàm nhân yếu đuối và hèn nhát lắm, đúng là “nói trước bước không qua.”

Những kẻ thủ ác bắt Đức Giêsu và điệu đến thượng tế Cai-pha. Phêrô đi theo xa xa, đến tận dinh thượng tế, rồi vào bên trong ngồi với bọn thuộc hạ, xem kết cuộc ra sao.

Chúa Giêsu im lặng dù người ta chất vấn đủ thứ. Bởi vì có nói với họ thì cũng như nước đổ lá môn, nói với cục đá còn hơn. Cuối cùng, vị thượng tế hống hách nói: “Nhân danh Thiên Chúa hằng sống, tôi truyền cho ông phải nói cho chúng tôi biết: ông có phải là Đấng Kitô Con Thiên Chúa không?” (Mt 26:63) Nghe chừng đạo đức lắm vì ông ta dám “nhân danh Chúa” mà tra xét. Lúc này Chúa Giêsu phải lên tiếng: “Chính ngài vừa nói. Hơn nữa, tôi nói cho các ông hay: từ nay, các ông sẽ thấy Con Người ngự bên hữu Đấng Toàn Năng và ngự giá mây trời mà đến.” (Mt 26:64) Như giọt nước làm tràn ly, vị thượng tế liền xé áo mình ra và bảo Đức Giêsu nói phạm thượng, rồi ông ta hỏi mọi người nghĩ sao, họ liền đồng thanh: “Hắn đáng chết!” Cố chấp và đồng lõa, thật đáng sợ!

Rồi có kẻ khạc nhổ vào mặt và đấm đánh Ngài, kẻ khác tát Ngài, họ toa rập với nhau lăng mạ Ngài.

Cuộc đời có những điều tất yếu, chuyện gì sẽ đến rồi cũng đến. Phêrô được Thầy báo trước, nhưng cũng không thể vượt qua chính mình. Thiên hạ thấy ông nên bàn tán xì xầm, ông sợ nên không dám nhận mình là người quen với Đức Giêsu, và còn thề độc là không hề quen với người đang bị hành hạ bên trong kia. Và rồi có tiếng gà gáy, ông sực nhớ lời Đức Giêsu đã nói: “Gà chưa kịp gáy thì anh đã chối Thầy ba lần.” (Mt 26:34) Ông ra ngoài và bật khóc. Có lẽ từ đó, ông rất sợ tiếng gà gáy mỗi sáng, nhưng chắc cũng phải cảm ơn con gà trống.

Theo thông lệ mỗi dịp lễ lớn, tổng trấn phóng thích một người tù, tuỳ ý dân. Khi ấy có một tù nhân khét tiếng là Baraba. Người ta đồng ý thả hắn và cương quyết giết Đức Giêsu. Philatô thừa biết chỉ vì ghen tị mà họ nộp Ngài, thế nhưng vì địa vị chức tước mà ông làm ngơ công lý, vợ ông bảo đừng nhúng tay vào vụ xử vụ này, và ông “ngây thơ” đi rửa tay để chứng tỏ mình vô can. Rất rõ nét thói giả hình, sự hèn hạ và khốn kiếp.

Quả thật, chính Philatô đem Đức Giêsu vào trong dinh và tập trung cả cơ đội quanh Ngài. Chúng lột áo Ngài ra, khoác cho Ngài tấm áo choàng đỏ, rồi kết một vòng gai làm vương miện đặt lên đầu Người, và trao vào tay mặt Ngài một cây sậy. Chúng quỳ gối trước mặt Người mà nhạo báng, chúng khạc nhổ vào Ngài và lấy cây sậy mà đập vào đầu Ngài. Chế giễu chán, chúng lột áo choàng ra, cho Ngài mặc áo lại như trước, rồi điệu Người đi đóng đinh vào thập giá. Mọi thứ diễn tiến đúng quy trình của những kẻ mặt người mà lòng dạ ma quỷ.

Dọc con đường lên Núi Sọ, chúng gặp một người Kyrênê tên là Simôn, chúng bắt ông vác thập giá của Ngài, vì thấy Ngài yếu sức, sợ Ngài không thể đến nơi xử tử. Những người nói mạnh hứa chắc, những người tín cẩn, những người được chữa lành, những người được ăn no nê, họ ở đâu lúc dầu sôi lửa bỏng thế này? Tại sao chỉ thấy một mình ông Si-môn ngoại giáo vác đỡ Thập Giá cho Ngài? Cuộc đời là thế, con người là vậy ư?

Khi đến Núi Sọ, chúng cho Ngài uống rượu pha mật đắng, nhưng Ngài chỉ nếm một chút mà không chịu uống. Sau khi đóng đinh Ngài vào thập giá, chúng đem áo Ngài ra bắt thăm mà chia nhau, rồi ngồi canh giữ Ngài. Hôm đó, cùng bị đóng đinh với Ngài là hai tên cướp ở hai bên.

Ngay cả những kẻ qua người lại cũng buông lời nhục mạ và thách thức Ngài. Các thượng tế, kinh sư và kỳ mục thi nhau chế giễu Ngài vì họ tưởng mình đã hành động đúng với cảm giác hả hê chiến thắng. Thậm chí một tên cướp cùng bị đóng đinh với Ngài cũng không tiếc lời sỉ vả và thách thức Ngài. Vào hùa với nhau làm việc xấu, thật tồi tệ!

Thật kỳ lạ, trời đang nắng mà bỗng dưng tối sầm từ giờ thứ sáu đến giờ thứ chín (12 giờ trưa tới 15 giờ). Vào giờ thứ chín, trong nỗi cô đơn, Chúa Giêsu kêu lớn tiếng: “Êli, Êli, lêma xabácthani – lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con?” (Mt 27:46) Người ta cứ tưởng Ngài gọi ông Êlia, rồi một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm, buộc vào đầu cây sậy và đưa lên cho Ngài uống. Rồi Đức Giêsu lại kêu một tiếng lớn, rồi trút linh hồn. Sự tĩnh lặng như tấm màn phủ xuống…

Và ngay thời điểm đó, bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới, rồi đất rung đá vỡ, mồ mả bật tung, xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ bất ngờ trỗi dậy. Thấy động đất và các sự lạ, viên đại đội trưởng và những người cùng ông canh giữ Đức Giêsu đều rất đỗi sợ hãi và phải thú nhận: “Quả thật ông này là Con Thiên Chúa.” (Mt 27:54; Mc 15:39; Lc 23:47) Ít ra cũng biết chân nhận như thế, muộn còn hơn không. Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi, dù người ta cố ý bóp méo cũng không thể.

Ngẫu nhiên mà kỳ lạ: chữ Thắng và chữ Thua cùng vần T. Ở đời cũng vậy, có khi cứ tưởng Thắng mà hóa Thua, nhưng có khi thấy Thua mà lại Thắng. Và chuyện gì sẽ đến cũng lại đến. Ước gì mỗi chúng ta đều như những chiếc lá luôn xanh biếc đức tin, luôn khiêm hạ và chân thành đón nhận Đức Kitô trong mọi hoàn cảnh, khi vui đã đành, khi buồn mới thực sự có giá trị. Đau khổ làm cho cuộc đời có ý nghĩa lạ lùng lắm.

Trong thời gian này, chúng ta phải “chay” mọi thứ vì đại dịch Corona, thực sự là nỗi khổ niềm đau, nhưng là dịp tốt để chúng ta xét mình, biết thiếu hay thừa cái gì mà kịp thay đổi cho hợp ý Chúa.

Lạy Thiên Chúa chí thiện, trong lúc hoạn nạn này chúng con mới cảm nhận giá trị của đau khổ, biết thân phận con người mong manh mà thêm tín thác vào sự quan phòng của Ngài. Xin ban Thánh Linh để chúng con có thể hiểu được triết lý của Thập Giá, nhờ đó mà cố gắng đi xuyên qua đau khổ và luôn hướng về Ngài. Xin giúp chúng con đủ sức chịu đau khổ với Đức Kitô để được sống lại với Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

NHỮNG TỦI NHỤC CỦA CHÚA GIÊSU

TRƯỚC KHI BƯỚC VÀO CUỘC KHỔ NẠN

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Khi suy niệm về những đau buồn tủi nhục của Chúa Giê-su, chúng ta thường hướng về những cực hình Ngài phải chịu trong cuộc thương khó, mà ít khi nghĩ tới những đau thương, tủi nhục mà Ngài gánh chịu trong suốt ba năm thi hành sứ vụ rao giảng Tin mừng.

Giờ đây, chúng ta hãy điểm qua một vài nỗi buồn đau, tủi nhục thấm thía nhất mà Chúa Giê-su phải chịu trong thời gian này.

  1. Bị coi là người mất trí

Nỗi đau, nỗi nhục thứ nhất mà Chúa Giê-su phải chịu là bị ngay cả những người ruột thịt và cũng là những người thân yêu gần gũi nhất… xem Ngài là người mất trí, mất trí nặng đến nỗi phải “đi bắt Ngài về nhà” (Mc 3,20-21).

Chúng ta chỉ là người phàm, tầm thường kém cỏi mà còn thấy đó là một niềm đau, một nỗi nhục không chịu đựng nỗi, còn Chúa Giê-su, Ngài là Thiên Chúa thông minh thượng trí, đầy quyền năng phép tắc mà lại bị người thân thuộc của mình hiểu lầm như thế thì nỗi đau của Chúa lớn đến độ nào!

  1. Bị đồng hương phẫn nộ và hành hung

Nỗi nhục thứ hai mà Chúa Giê-su phải chịu cũng xảy ra ngay tại quê nhà. Vào ngày Sa-bát, khi rao giảng trong hội đường Na-da-rét, dân chúng không hài lòng vì Chúa Giê-su đề cập đến một số sự kiện mà họ không thích nói tới… Thế là sóng gió nổi lên, “mọi người trong hội đường đầy phẫn nộ.” Họ đứng dậy, người thì nắm áo, kẻ nắm tay, người lôi, kẻ đẩy, kẻ khác buông lời phỉ báng nặng nề… Họ xô đẩy Ngài khỏi hội đường… Chưa hả giận, họ còn lôi kéo Ngài ra khỏi thành… Cũng chưa hả giận, “họ tiếp tục lôi kéo Ngài lên tận đỉnh núi, để xô Ngài xuống vực, (cho Ngài phải nát thịt tan xương…)  nhưng rồi Ngài băng qua giữa họ mà thoát thân.” (Lc 4, 28-29).

  1. Bị coi là người bị quỷ ám, là kẻ điên khùng

Nỗi nhục thứ ba, dù Chúa Giê-su là Thiên Chúa quyền năng, đến trần gian để đẩy lui quyền lực của Sa-tan, thế mà “các kinh sư ở Giê-ru-sa-lem cho rằng Ngài bị quỷ vương Bê-en-dê-bun ám”… Họ cho rằng Ngài chẳng tài cán, đạo đức gì, chỉ “dựa thế tướng quỷ mà trừ quỷ” (Mác-cô 3, 22. Lc 11,15).

Những người Do-thái khác cũng nói thẳng với Chúa Giê-su: “Chúng tôi biết chắc là ông bị quỷ ám” (Ga 8, 48. 52).

Và khi Chúa Giê-su bày tỏ cho dân chúng biết Ngài là mục tử nhân lành sẵn sàng hiến mạng vì đoàn chiên thì nhiều người Do-thái lại nói: “Ông ấy bị quỷ ám và điên khùng rồi! Nghe ông ta làm chi! (Ga 10,19).

Xúc phạm như thế là quá đáng! Đau buồn thay, nhục nhã thay!

  1. Suýt bị ném đá

Nỗi nhục thứ tư là Chúa Giê-su suýt bị người Do-thái ném đá. Qua Tin mừng thứ tư, thánh Gioan thuật lại sự kiện này hai lần: Một lần, khi giảng trong sân Đền Thờ rằng Ngài hiện hữu trước khi có Áp-ra-ham, “họ liền lượm đá để ném Ngài. Nhưng Đức Giê-su lánh đi và ra khỏi Đền Thờ” (Ga 8,59).

Lần khác, khi Ngài tỏ cho dân chúng biết Ngài và Thiên Chúa Cha là một, người Do-thái lại lấy đá để ném Chúa Giê-su” (Ga 10,30-31. 11,8)

  1. Bị người Do-thái mưu toan giết hại

Nỗi đau thứ năm là Chúa Giê-su bị người Do-thái mưu toan ám hại. Người Do-thái “tìm cách giết Đức Giê-su, vì cho rằng Ngài phá luật sa-bát, lại còn nói Thiên Chúa là Cha của mình… tự coi mình ngang hàng với Thiên Chúa” (Ga 5,18).

Vì thế, “Đức Giê-su không muốn đi lại trong miền Giu-đê, vì người Do-thái tìm giết Ngài” (Ga 7,1. 8,40). Và khi Chúa Giê-su cho La-da-rô sống lại, các thủ lĩnh Do-Thái quyết định giết Chúa Giê-su (Ga 11,53).

Ngoài ra, Chúa Giê-su còn bị người Do-thái phê phán, chê trách, khinh dể… liệt Ngài vào “phường mê ăn tham uống, bạn bè của quân thu thuế và người tội lỗi (Lc 7,31-34), bị các luật sĩ, biệt phái dò xét, bắt bẻ đủ chuyện, bị lên án là vi phạm luật ngày Sa-bát, không rửa tay trước khi ăn, không ăn chay…

Lạy Chúa Giê-su,

Chưa có ai trong chúng con phải chịu nhiều đau buồn, tủi nhục trong đời như Chúa. Con người phàm hèn như chúng con dù có bị đồng loại sỉ nhục vẫn còn dễ chịu hơn nhiều so với Chúa là Đấng cao cả, là Chúa tể càn khôn… lại bị con người hèn mọn, chỉ đáng là tro bụi trước mặt Ngài khinh chê, phỉ báng, loại trừ…

Vì yêu thương chúng con, Chúa chấp nhận tất cả mọi buồn đau, tủi hổ…  để đền tội cho chúng con và để cứu chuộc chúng con. Chúng con hết lòng thờ lạy, cảm tạ tình yêu bao la vô bờ của Chúa.

Về mục lục

VÌ YÊU, CHÚA ĐÃ CHẾT CHO CHÚNG TA

Phanxicô Xavie Trần Đức Tuân

Hôm nay cùng với Giáo hội chúng ta bắt đầu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong năm phụng vụ, là tuần lễ ghi lại các biến cố cuối cùng trong cuộc đời Chúa Cứu Thế ở trần gian.

Từ lúc Chúa vào thành Giêrusalem hôm nay, đến cuộc khổ nạn và Phục sinh của Người. Tuần thánh cũng nhắc cho mỗi người chúng ta ý thức về thân phận yếu đuối, mỏng dòn, bất toàn, yếu hèn và tội lỗi của mình.

Trong cuộc sống của con người, có lẽ không có gì làm cho chúng ta sợ hãi cho bằng cái chết. Cái chết là con đường chung cho mọi người. Không ai có thể chạy trốn khỏi cái chết. Tuy nhiên, khi đối diện với cái chết, mỗi người có một thái độ khác nhau. Các thánh tử đạo đã can đảm đối diện với cái chết để làm chứng cho Chúa. Và đặc biệt cái chết của Đức Giêsu. Có thể nói đây là cái chết tuyệt vời, cái chết đem lại sự hoà giải, sự sống mới, sự sống vĩnh cửu cho mỗi người chúng ta. Chúa đã chết để mang lại cho chúng ta sự sống đời đời.

Trên hết, cái chết của Đức Giêsu là một cái chết tự nguyện hiến thân cho người mình yêu. Trong vườn Cây Dầu, Đức Giêsu cảm thấy buồn rầu, xao xuyến, “và mồi hôi Người như những giọt máu rơi xuống đất” (Lc 22,44). Giữa nỗi kinh hoàng, khủng khiếp của con đường thập giá, Đức Giêsu đã cầu xin Chúa Cha cho mình: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này” (Mt 26,39). Nhưng cuối cùng tình yêu đã chiến thắng. Với một tình yêu trọn vẹn dành cho Chúa Cha và một lòng thương xót vô biên dành cho chúng ta: “Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”.

Như thánh Phaolô tông nói: “Đức Giê-su Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên cây thập tự” (Pl 2,6-8).

Chính tình yêu đó đã thúc đẩy Đức Giêsu, ngay giữa những đau khổ cùng cực nhất trên thập giá, trong hơi thở cuối cùng đã lên tiếng cầu xin cho chính những kẻ vừa hành hạ, đóng đinh Ngài: “Lạy Cha, xin tha cho họ, vì họ không biết việc chúng làm” (Lc 23,34). Đôi khi chúng ta cũng đã đóng đinh Chúa vào thập giá, đó là những lúc chúng ta lơ là trong bổn phận, làm ngơ trước những nghèo khó đơn côi.

Tình yêu của Đức Giêsu còn thể hiện qua ánh mắt đầy thương xót Ngài dành cho Phêrô. Dù Chúa biết là ông sẽ chối Ngài. Một tình yêu hoàn toàn vị tha, quên cả nỗi đau khổ của mình đang gánh chịu, để luôn dành trọn tâm trí của mình cho người khác. Đó là tình yêu của Đức Giêsu đã dành cho mỗi người chúng ta.

Vì yêu, Chúa đã chịu người đời phỉ báng chê cười. Vì yêu, Chúa đã trở nên nghèo khó để chúng ta được giàu có. Vì yêu, Chúa đã chết cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu Thánh Thể,

Vì yêu Chúa đã chịu khổ nạn và chết trên thập giá, xin cho chúng con cũng biết chết đi cho con người tội lỗi, chết đi cho những đam mê, hận thù, ghen ghét để chúng con chỉ biết sống cho Chúa và cho tha nhân.

Lạy Chúa, vì yêu Chúa đã tự hiến mình trong bí tích Thánh Thể để nuôi sống chúng con, xin cho chúng con luôn biết khao khát và chạy đến với Thánh Thể Chúa, để chúng con tìm được nguồn sức mạnh và vững bước trên đường về quê trời. Amen.

Về mục lục

XIN VÂNG THEO THÁNH Ý CHÚA

Lm Trần Bình Trọng

Hôm nay Giáo hội mừng lễ Lá để giúp người tín hữu nhớ lại một biến cố của việc Ðức Giêsu khởi hành vinh quang vào đền thờ Giêrusalem.

Việc dân chúng đón rước Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem là một vinh quang vắn vỏi trong cuộc đời trần thế của Người. Dân chúng cầm cành lá tung hô Con vua Ðavít: Hoan hô Con vua Ðavít! Chúc tụng Ðấng ngự đến nhân danh Thiên Chúa (Mt 21:9). Họ tỏ ra nhiệt thành trong việc đón tiếp Người, vì họ hi vọng rằng Người sẽ thiết lập cho họ một vương quốc trần thế, có tính cách quốc gia dân tộc.

Mặc dầu dân chúng nhiệt liệt đón tiếp Ðức Giêsu vào thành Giêrusalem, và tung hô Người làm vua, họ đã nhắm sai mục đích. Ý đồ của họ là muốn Người làm vua trong nước họ để giúp họ đánh đuổi dân đô hộ là người La mã, khiến cho đất nước họ trở nên giầu có và hùng mạnh, hầu có thể vươn lên hàng bá chủ hoàn cầu. Tuy nhiên khi họ nhận ra Ðức Giêsu không thích hợp với quan niệm họ sẵn có về đấng cứu thế, họ sẵn sàng đóng đinh Người. Vì thế mới có một biến cố khác theo sau là biến biến cố khổ hình, đónh đinh trên thập giá. Ðó là lý do tại sao hôm nay khi Giáo hội mừng việc Chúa khải hoàn vào thành Giêrusalem, Giáo hội cho đọc bài Phúc âm về sự thương khó và khổ nạn của Chúa.

Người ta thường nghe khi vua chúa  hay tướng lãnh đời xưa thắng trận trở về trong ngày vinh quang thì cưỡi voi, cưỡi ngựa vào thành với vẻ oai phong lẫm liệt. Còn Chúa Giêsu vào thành Giêrusalem chọn cưỡi trên lưng lừa. Lừa là con vật hiền lành, dễ chịu khuất phục. Bằng việc dùng lừa để làm phương tiện đi vào thành, Ðức Giêsu muốn nói lên ý muốn vâng phục thánh ý Thiên Chúa Cha. Như người đầy tớ làm theo ý chủ, Ðức Giêsu đồng hoá với người tôi tớ trung thành của Giavê, được sai đến để làm theo thánh ý Thiên Chúa. Như người đầy tớ đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu, và không che mặt khi người ta mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 50:6), Ðức Giêsu cũng chịu để cho người ta khạc nhổ vào mặt và đấm đánh (Mt 26:67) rồi chế giễu (Mt 27:31). Mặc dầu Người là Thiên Chúa, nhưng đã vâng phục thánh ý Chúa Cha, mặc lấy thân phận làm người, chịu khổ hình, tử nạn trên thập giá để làm giá cứu chuộc loài người. Như vậy mục đích và sứ mệnh của Chúa cứu thế là làm theo thánh ý Chúa Cha: Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha (Mt 26:39). Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philipphê giới thiệu về Ðức Giêsu nhu sau: Người đã hạ mình, vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, chết trên thánh giá (Pl 2:8).

Hôm nay mỗi người nên tự hỏi xem ta đã sống theo thánh ý Chúa như thế  nào? Tin theo Chúa nhưng ta vẫn có thể sống theo ý riêng khi ta muốn đạo giáo phải thế nọ thế kia, thay vì cố gắng sống theo đường lối của đạo giáo, khi ta muốn đạo giáo thay đổi cho phù họp với những ước muốn, những khuynh hướng và sở thích cá nhân của mình.

Giáo hội đang bắt đầu bước vào Tuần thánh. Tuần thánh là tuần lễ quan trọng nhất trong lịch sử ơn cứu độ, cũng là tuần lễ quan trọng nhất trong niên lịch phụng vụ của Giáo hội.  Trong Tuần thánh Giáo hội cử hành những màu nhiệm cứu chuộc mà Ðức Kitô đã hoàn tất vào những ngày cuối cùng của cuộc đời Người tại thế, từ lúc vào thành Giêrusalem trong ngày lễ Lá đến cuộc khổ nạn và phục sinh của Người.

Trong Tuần thánh người tín hữu suy niệm về một trong những chiều hướng của đức tin: sự thương khó, cuộc tử nạn và phục sinh của Chúa. Tuần thánh là lúc người tín hữu suy niệm về kinh nghiệm sống đức tin của mình. Tuần thánh là lúc chỉ cho ta thấy những yếu điểm và tội lỗi của mình. Ta có thể giống như Phêrô và Giuđa chăng? Nếu trung thực với lòng mình, ta phải nhận có lúc ta giống Giuđa khi ta phạm tội, từ khước ơn Chúa. Có lúc ta giống Phêrô khi không dám bày tỏ đức tin, sợ bị liên lụy, bị tẩy chay, hay có khi ta không dám tỏ ra mình là người công giáo, sợ bị chê cười, nhạo báng. Ðức Kitô sắp bị nộp mình chịu chết vì tội lỗi loài người gồm tội riêng ta. Ta có thể và sẽ làm gì để đền đáp tình yêu Chúa?

Lời nguyện xin cho được tìm sống theo thánh ý Chúa:

Lạy Chúa, đường lối Chúa là đường khôn ngoan chính trực.

Con không biết Chúa muốn con làm gì và đi theo đường nẻo nào.

Xin Chúa soi sáng để con biết tìm ra ý Ngài

qua lời cầu nguyện, việc lắng nghe và ghi nhận.

Xin ban cho con lòng can đảm và kiên trì sống theo thánh ý Chúa.

Ðể như Mẹ Maria và Thánh Giuse với lời xin vâng khi sứ thần truyền,

con được vững tâm tiến bước với tâm hồn bình an. Amen.

Về mục lục

CHẲNG LẼ CON SAO

Lm. Ant. Nguyễn Cao Siêu

Các thượng tế muốn giết Đức Giêsu, nhưng không tìm được cơ hội.
Nay cơ hội đã đến với sự tiếp tay của chính người môn đệ Đức Giêsu.
Anh Giuđa đã đến gặp các thượng tế và đề nghị nộp Ngài cho họ.
Chúng ta mãi mãi không biết hết và biết rõ những động cơ nào
đã thúc đẩy Giuđa làm chuyện kinh khủng ấy.
Giuđa, người được gọi, được chọn, được tuyển lựa,
sau một đêm thức trắng cầu nguyện của Thầy Giêsu (Lc 6, 12).
Và anh đã đáp lại, đã bỏ gia đình, nghề nghiệp, để đi theo.
Giuđa đã rong ruổi theo Thầy ngay từ đầu, chia sẻ đói no, thành công thất bại…
Không yêu thì làm sao đi theo được lâu như thế.
Giuđa, người được tin cậy và giao giữ quỹ cho cả nhóm (Ga 12, 6).
Vì là người trong nhóm Mười Hai, thuộc nhóm môn đệ thân cận,
Giuđa đã được nghe hầu hết các bài giảng hay nhất,
được chứng kiến các phép lạ lớn lao nhất của Thầy Giêsu.
Giữa anh và Thầy Giêsu hẳn đã có một sự thân thiết nào đó.
Điều gì đã diễn ra nơi trái tim của Giuđa?
Điều gì đã khiến tất cả phút chốc bị đổ vỡ không sao hàn gắn?
Chắc không phải chỉ vì ba mươi đồng bạc, một số tiền.
Phải chăng vì Giuđa thất vọng và nóng ruột
khi thấy Thầy Giêsu quá hiền từ, cả trong lối sống lẫn lời giảng,
chẳng có vẻ gì là một Đấng Mêsia sắp giải phóng dân tộc khỏi quân Rôma?
Phải chăng khi Giuđa nộp Thầy cho các thượng tế,
anh định cài Thầy vào thế phải hành động quyết liệt hơn, phải tự giải thoát mình?
Dù gì đi nữa thì chuyện Giuđa làm là không thể biện minh được.
Anh đã can dự vào cái chết của Thầy Giêsu.
Không thể phong tặng anh hùng cho Giuđa
vì bảo rằng nhờ anh mà chúng ta có được ơn cứu độ.
Giuđa đã phạm tội nghiêm trọng đến nỗi Thầy Giêsu phải đau đớn nói:
“Khốn cho kẻ nào nộp Con Người: thà kẻ đó đừng sinh ra thì hơn” (c.24).
Dầu vậy tội của Giuđa đã được Thiên Chúa dùng cho chương trình cứu độ.
Thiên Chúa là Đấng có thể biến điều dữ thành điều lành.
“Kẻ đã chấm chung một đĩa với Thầy là kẻ sẽ nộp Thầy” (c. 23).
Kẻ đồng bàn thân thiết với Thầy lại là người phản bội.
Ngay cả những môn đệ khác cũng hỏi Thầy Giêsu: “Có phải con không?”
Có phải con là người đang phản bội Thầy không?
Lúc nào chúng ta cũng có thể hỏi Chúa Giêsu cùng câu hỏi đó.
Dù mỗi ngày chúng ta cùng chia sẻ một bàn tiệc với Chúa trong Thánh Lễ,
chúng ta vẫn có thể rơi vào tội của Giuđa.

Cầu nguyện :

Lạy Chúa Giêsu,
xin cho con dám hành động
theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện,
vì xác tín rằng
Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con,
Chúa ngàn lần quảng đại hơn con,
và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá,
xin cho con dám liều theo Chúa
mà không tính toán thiệt hơn,
anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ,
can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim,
và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa
những hy sinh làm cho tim con rướm máu,
con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt
của người một lòng theo Chúa. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT LỄ LÁ_A

 Lm. Inhaxio Hồ Thông

Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật này mời gọi chúng ta tưởng niệm cuộc Tử Nạn sinh ơn Cứu Độ của Đức Giê-su Ki-tô.

Is 50:4-7

Bài Đọc I trích từ tác phẩm của I-sai-a đệ nhị cho chúng ta thoáng thấy dung mạo của người công chính chịu đau khổ, dưới những đường nét của người tôi trung của Đức Chúa, bị nhạo báng, khinh bỉ mà không đối kháng, nhưng trọn một  niềm tin tưởng vào Thiên Chúa.

Pl 2:6-11

Tiếp đó, chúng ta gẫm suy mầu nhiệm tự hạ và tôn vinh của Đức Giê-su qua bài thánh thi Ki-tô học được thánh Phao-lô ghi lại trong thư gửi tín hữu Phi-lip-phê. Đây là bằng chứng đáng chú ý về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi.

Mt 26:14-27:66

Và sau cùng, theo chu trình Phụng Vụ Năm A, chúng ta đọc và suy gẫm bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô theo thánh Mát-thêu.

BÀI ĐỌC I (Is 50:4-7)

Bản văn này cho chúng ta dự phần vào niềm tin tưởng của vị ngôn sứ I-sai-a đệ nhị. Vì luôn lắng nghe Thiên Chúa, chăm chú vào lời Ngài, suy niệm mỗi ngày, vị ngôn sứ không thoái thác sứ mạng của mình là đem niềm an ủi đến cho những người bất hạnh. Ông đã không nhận được bất kỳ lòng biết ơn nào, nhưng trái lại, những xúc phạm và nhục hình. Ông đã bị đánh đòn, tra tấn (bị giật râu là một hình phạt rất nhục nhã), ông đã nhận những khạc nhổ vào mặt, được xem như cử chỉ khinh bỉ tột cùng, như nhiều đoạn văn Cựu Ước làm chứng.

Nhưng người tôi trung này đã đặt niềm tin tưởng của mình vào Đức Chúa. Ông đã “trơ mặt như đá,” nghĩa là “kiên vững không hề chuyển lay”. Thánh Lu-ca nói với chúng ta “Đức Giê-su nhất quyết lên Giê-ru-sa-lem” (Lc 9:51) chấp nhận bước vào con đường Thương Khó của Ngài, nghĩa là Ngài thu hết can đảm của mình và kiên vững trong ý định của mình.

1. Văn mạch

Bài ca được trích dẫn hôm nay là bài ca thứ ba trong số bốn bài ca được gọi “các bài ca về Người Tôi Trung chịu đau khổ” trong tác phẩm của I-sai-a đệ nhị (ch. 40-55), vị ngôn sứ cuối thời kỳ lưu đày Ba-by-lon, vào giữa thế kỷ IV tCn.

“Người Tôi Trung” được phác họa chân dung lúc thì dân Ít-ra-en, lúc thì một nhân vật đặc thù lãnh nhận một sứ mạng đặc biệt. Nhân vật này được hiểu vừa tập thể vừa cá nhân vì hai hình ảnh này được đan vào nhau trong nhiều đoạn.

Người Tôi Trung này hành xử với thái độ dịu dàng và khiêm tốn (bài ca thứ nhất). Thiên Chúa giao phó cho ngài trách nhiệm giải phóng dân Ít-ra-en và hoán cải muôn dân (bài ca thứ hai), ngài gặp phải những bách hại và sỉ nhục (bài ca thứ ba), ngài cam chịu một cái chết ê chề nhục nhã, đoạn được tôn vinh (bài ca thứ tư).

Ở đây, có một khúc quanh quan trọng của Mặc Khải. Cho đến lúc đó, những viễn cảnh thiên sai đều tập trung vào một dung mạo của vị vua vinh hiển, hậu duệ Đa-vít, ngài sẽ đem lại sự công chính và nền hòa bình. Ấy vậy, vào lúc này không còn vua. Thể chế vương quyền Đa-vít đã bị chìm lấp trong cơn bão táp của thời cuộc, đền thờ Sa-lô-mon bị phá hủy, phần lớn dân cư Giê-ru-sa-lem bị lưu đày. Đây là thời giờ thích hợp để loan báo sứ điệp mới. Khoa sư phạm Thiên Chúa, qua những trực giác ngôn sứ, đã tiến một bước vĩ đại. Những sấm ngôn thời xưa không vì thế mà bị hủy bỏ (Đấng Mê-si-a rõ ràng vẫn thuộc hậu duệ Đa-vít), nhưng những viễn cảnh mới để lộ cho thấy “Đấng được Thiên Chúa tuyển chọn” sẽ can thiệp, “Đấng được Đức Chúa xức dầu” sẽ thi hành sứ mạng, khởi đầu sứ mạng không huy hoàng rực rỡ, trong dáng vẻ thất bại bên ngoài, đau khổ và cái chết, trước khi đạt được vinh quang.

2. Vị ngôn sứ khiêm hạ

Dường như phải nhận ra ở nơi người tôi trung hiền lành và khiêm hạ này chính là vị ngôn sứ I-sa-ia đệ nhị. Được Thiên Chúa giao phó trọng trách an ủi những người lưu đày bất hạnh chán nãn tuyệt vọng, ông không trốn tránh công việc bội bạc này. Ông đã cố làm cho họ hiểu ý nghĩa của những thử thách của họ, kêu gọi họ hoán cải, hứa ban ơn giải thoát cho họ. Ông gặp phải thái độ thờ ơ lãnh đạm, nghi nan ngờ vực, và tính khí hung hăng của những kẻ mà nỗi đắng cay do thời gian lưu đày dài lâu đã khiến họ trở nên bực tức phẩn nộ.

3. Người công chính bị bách hại

Qua những đau khổ mà mình phải chịu, vị ngôn sứ mặc lấy dung mạo của “Người Công Chính” hoàn hảo. Bản văn mang cung giọng thời thiên sai. Đức Giê-su sẽ đích thân thực hiện sứ mạng mà Thiên Chúa giao phó cho Ngài trong sự vâng phục hoàn hảo. Chính Ngài sẽ đem Tin Mừng đến cho những người nghèo khó, những kẻ khốn cùng. Như vị ngôn sứ vô tội, Ngài sẽ đón nhận và cam chịu những lăng nhục, khinh bỉ, nhục hình trong tâm tình cảm tạ mà không hề run sợ, “vì Chúa nâng đỡ tôi, nên tôi không phải hổ thẹn.”

Bài ca thứ ba này cho chúng ta cảm thấy trước bài ca thứ tư thống thiết về Người Tôi Trung chịu đau khổ sẽ được đọc vào Thứ Sáu Tuần Thánh.

BÀI ĐỌC II (Pl 2: 6-11)

Bài Đọc II trích từ thư của thánh Phao-lô gửi tín hữu Phi-li-phê là một bài thánh thi gồm sáu khổ thơ: ba khổ thơ đầu vạch lại ba giai đoạn về việc Đức Giê-su tự hạ mình, và ba khổ thơ sau, theo chiều hướng ngược lại, vạch lại ba giai đoạn về việc Chúa Giê-su được Chúa Cha tôn vinh.

Thật là ngạc nhiên khi gặp thấy trong một bức thư chan chứa giọng điệu nồng nàn nhưng khá quen thuộc, những cảm xúc như trào dâng ra từ ngòi bút. Chúng ta không biết phải chăng thánh Phao-lô là tác giả hay thánh nhân chỉ trích dẫn bài thánh thi Ki-tô học của Giáo Hội tiên khởi. Dù sao đây là một chứng liệu đáng chú ý, một trong những chứng liệu cổ xưa nhất về Ki-tô học, nhất là một lời chứng có giá trị đầu tiên (trước cả Tựa Ngôn của thánh Gioan) về niềm tin của Giáo Hội tiên khởi vào cuộc sống tiền hữu của Chúa Giê-su.

1. Ba giai đoạn của việc tự hạ (2: 6-8)

1)- Đức Giê-su, vốn dĩ là Thiên Chúa, không từ bỏ bản tính thần linh, nhưng vinh quang được gắn chặt vào đây.

2)- Ngài hủy bỏ chính mình mà mang lấy thân phận tôi đòi, đã trở nên giống như phàm nhân, nghĩa là chia sẻ mọi sự yếu đuối của họ (ngoài trừ tội lỗi).

3)- Ngài tự hạ mình hơn nữa khi chấp nhận vâng lời cho đến chết tủi nhục trên thập giá.

2. Ba giai đoạn của việc tôn vinh (2: 9-11)

1)- Thiên Chúa đã tôn vinh Ngài và ban cho Ngài “danh hiệu” vượt lên trên mọi danh hiệu. “Danh hiệu” được hiểu theo nghĩa tuyệt đối, nghĩa là “danh hiệu” này được ban cho chỉ duy một mình Ngài, chính là “Đức Giê-su Ki-tô là Chúa” như được chỉ ra ở phần sau: Danh mà truyền thống Do thái dùng để chỉ Danh khôn tả của Thiên Chúa. “Danh hiệu vượt trên mọi danh hiệu” vì thế được định vị thậm chí trên tất cả mọi triều thần: “Quyền Thần”“Tổng Thần” vân vân

2)- Thiên Chúa muốn muôn loài muôn vật phụng thờ Đức Giê-su: “Để khi nghe tên Giê-su, mọi loài trên trời dưới đất và trong địa ngục phải quỳ gối xuống”. Đó không phải vì nhân danh Giê-su (vì tên này khá phổ biến trong dân Do thái), nhưng vì Danh Đức Giêsu bất khả phân với Danh Đức Chúa, như khổ thơ trước đó vừa mới chỉ ra.

Kiểu nói: “Trên trời dưới đất và trong địa ngục”, chỉ ra toàn thể vũ trụ, chứ không chỉ nhân loại phải phụng thờ Đức Giê-su. Đây là một đề tài mà chúng ta sẽ gặp lại trong sách Khải Huyền: “Tôi lại nghe mọi loài thụ tạo trên trời, dưới đất, trong lòng đất, ngoài biển khơi và vạn vật ở các nơi đó, tất cả đều tung hô: ‘Xin kính dâng Đấng ngự trên ngai và Con Chiên lời chúc tụng cùng danh dự, vinh quang và quyền năng đến muôn thuở muôn đời!’” (Kh 5: 13).

3)- Cuối cùng Thiên Chúa ban tặng cho Đức Giê-su quyền tối cao hoàn vũ, nghĩa là tước hiệu “Chúa”. Vì các Ki-tô hữu tiên khởi đã không ngần ngại ban tặng cho Đức Ki-tô danh hiệu này mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa, đây là nét đặc trưng của lời tuyên xưng đức tin tiên khởi. Thánh Phao-lô nhiều lần nhấn mạnh tính chất thần linh ở nơi danh hiệu này, cũng như thánh Lu-ca trong Công Vụ Sứ Đồ.

Phần cuối của bài thánh thi xác định “để Thiên Chúa Cha được vinh quang”. Chính đó cũng là một nét thần học xứng đáng được nhấn mạnh: tôn vinh Đức Giê-su là tôn kính vinh quang của Thiên Chúa Cha. Phụng vụ Ki-tô giáo sẽ theo nghĩa này: “muôn ngàn lời chúc tụng Đức Ki-tô, tôn vinh Đức Chúa Cha”.

3. Mẫu gương phải noi theo

Thánh Phao-lô quý mến cộng đoàn tín hữu Phi-lip-phê mà thánh nhân đã thiết lập vào năm 49-50 và là cộng đoàn đầu tiên trên đất Châu Âu. Phi-lip-phê là một thành phố quan trọng của miền Ma-kê-đô-ni-a, được gọi theo tên vua Phi-lip-phê, phụ hoàng của đại đế A-lê-xan-đê, người xâm chiếm miền này vào năm 360 tCn.

Khi viết cho cộng đoàn tín hữu Phi-lip-phê, thánh nhân đang bị giam cầm, có thể ở Ê-phê-xô. Thánh nhân mong ước những Ki-tô hữu Phi-lip-phê thân yêu của mình biết sống trong sự hiệp nhất và đặc biệt trong sự khiêm hạ sâu xa theo mẫu gương của Đức Giê-su.

TIN MỪNG (Mt 26: 14-27: 66)

Tin Mừng hôm nay là “Bài Thương Khó Đức Giê-su theo Tin Mừng Mát-thêu”. Như các tác giả Tin Mừng khác, thánh Mát-thêu dành một chỗ rộng lớn cho bài Thương Khó Đức Giê-su Ki-tô trong sách Tin Mừng của mình. Như vậy, chúng ta có lời chứng cho thấy Giáo Hội tiên khởi đã hiểu biến cố Tử Nạn không là một sự cố xấu hổ và nhục nhã mà biến cố Phục Sinh đã xóa đi, nhưng trái lại là đỉnh cao của tình yêu Thiên Chúa đối với nhân loại. Sự thách đố của Thập Giá đã được các Kitô hữu tiên khởi đảm nhận, bất chấp điều kỳ chướng đối với người Do thái vốn ưa thích những điềm thiêng dấu lạ, bất chấp điều ngu xuẩn trong cái nhìn tự hào là khôn ngoan của người Hy lạp, và bất chấp một cái gì hoàn toàn ngược với lẽ khôn ngoan bình thường.

Trung thành với viễn cảnh Tin Mừng của mình, thánh Mát-thêu cho thấy cuộc Thương Khó của Đức Giê-su ứng nghiệm Kinh Thánh khi trích dẫn minh nhiên hay mặc nhiên vô vàn những lời Kinh Thánh.

Giu-đa phản bội (26: 14-15)

Việc Giu-đa phản bội Thầy mình được cả ba Tin Mừng Nhất Lãm tường thuật. Cả ba đều nhấn mạnh rằng Giu-đa là “một người trong Nhóm Mười Hai”, việc xác định này nêu bật tính bỉ ổi hành động phản bội của hắn. Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất mô tả cuộc mặc cả của Giu-đa: “Tôi nộp ông ấy cho quí vị, thì quí vị muốn cho tôi bao nhiêu”. Trong khi đó tại thánh Mác-cô và thánh Lu-ca chính các thượng tế đề nghị cho hắn tiền. Như vậy, thánh Mát-thêu nhấn mạnh trách nhiệm của tên phản bội và chuẩn bị bài tường thuật về cái chết của hắn mà chỉ mình thánh ký tường thuật (27: 3-10). Thánh Mát-thêu cũng là thánh ký duy nhất kể ra giá thương lượng giữa hai phía là “ba mươi đồng bạc”, tức giá mua bán một nô lệ (x. Xh 21: 32). Qua số tiền này, thánh Mát-thêu nhằm cho thấy rằng Kinh Thánh đang được ứng nghiệm. Theo ngôn sứ Da-ca-ri-a chính với số tiền ô nhục này Ít-ra-en đã dùng để tẩy chay vị mục tử nhiệm mầu mà Chúa đã gửi đến cho họ (Dcr 11: 11). Sự ám chỉ này khó mà thoát khỏi những người Kitô hữu gốc Do thái, vốn am tường Kinh Thánh.

Bữa ăn từ biệt (26: 17-19)

Lễ Vượt Qua và lễ Bánh Không Men là hai ngày lễ đi đôi với nhau; lễ Vượt Qua diễn ra một ngày, lễ Bánh Không Men kéo dài bảy ngày. Nhưng từ lâu cả hai ngày lễ này trở thành một ngày đại lễ. Khi thánh Mát-thêu nói: “ngày thứ nhất trong tuần bánh không men”, thánh ký chỉ rõ lễ Vượt Qua. Trước khi bắt đầu tường thuật việc thiết lập bàn tiệc Thánh Thể, thánh Mát-thêu gợi lên lễ Bánh Không Men, để loan báo rằng Đức Giê-su sẽ là bánh mới, hoàn toàn tinh tuyền, của lễ Vượt Qua mới.

Lễ Vượt Qua phải được cử hành ở Giê-ru-sa-lem; con chiên sát tế trong sân Đền Thờ phải được ăn mừng trong thành đô. Đức Giê-su là một nhà giảng thuyết lưu động không nơi cư ngụ: “Chim có tổ, chồn có hang, nhưng Con Người không có chỗ gối đầu qua đêm”. Các sách Tin Mừng đều tường thuật rằng khi chiều xuống, Đức Giê-su ra khỏi thành (Mc 11: 19), hoặc đến Bê-ta-ni-a (Mt 21: 17 và Mc 11: 19), hay đi ra núi Ô-liu (Lc 22: 39) để qua đêm. Hơn nữa, Ngài và các môn đệ đều là những người Ga-li-lê đến mừng lễ ở Giê-ru-sa-lem được xem đất khách quê người. Vì thế các môn đệ lo lắng hỏi: “Thầy muốn chúng con dọn cho Thầy ăn lễ Vượt Qua ở đâu?”.

“Các anh đi vào thành, đến nhà một người kia”. Thánh Mác-cô và thánh Lu-ca xác định “một người mang vò nước”. Thật kỳ lạ, thánh Mát-thêu lại thích vô danh hơn.

“Thầy sẽ đến nhà ông để ăn mừng lễ Vượt Qua với các môn đệ của Thầy”. Động từ “ăn mừng” hay “cử hành” chưa nói lên hết sắc thái tinh tế của bản văn. Theo nguyên văn, động từ “làm” hay “thực hiện” ở đây có một nét nghĩa rất mạnh để chỉ hành vi sáng tạo. Đức Giê-su sắp sáng tạo một lễ Vượt Qua đặc biệt, lễ Vượt Qua của Ngài.

Loan báo sự phản bội (26: 20-25)

Cả bốn tác giả Tin Mừng đều tường thuật lời loan báo này: “một người trong anh em sẽ nộp Thầy”; tất cả đều nhấn mạnh nghi thức đồng bàn, chia sẻ cùng của ăn thức uống giữa Đức Giê-su và ông Giu-đa. Theo quan niệm của người xưa, một cử chỉ như vậy nói lên lời cam kết “đồng sinh đồng tử”“đồng hội đồng thuyền”. Như vậy, nêu bật sự bỉ ổi của hành vi phản bội.

Đức Giê-su tế nhị không nêu đích danh ai. Khi không nêu đích danh ai, Ngài thử kêu gọi lần sau cùng để đánh thức tiếng lương tâm người bạn đồng hành này nhớ lại những ngày tháng Thầy trò sống chung với nhau mà hồi tâm chuyển hướng.

Bầu khí trở nên ngột ngạt. Ấy vậy, Đức Giê-su trong những tình thế nghiêm trọng, thích gợi lên tước hiệu thiên sai “Con Người” của mình, dưới tước hiệu này Ngài thu nhận mầu nhiệm con người của Ngài. Sự kiện Ngài bị nộp là nằm trong kế hoạch của Thiên Chúa đã được Kinh Thánh loan báo, tuy nhiên điều ấy vẫn không giảm thiểu đi tí nào trách nhiệm của kẻ phản bội. Số phận y rất tồi tệ và ngay bây giờ y biết là tội phản bội của mình đã bị Thầy biết rồi. “Khốn cho kẻ đã nộp Con Người…”. Đây không là lời nguyền rủa; chúng ta không thể nào tưởng tượng rằng Ngài có thể thốt lên những lời nguyền rủa như thế vào giờ phút Ngài sắp đổ mình để chuộc muôn người; nhưng đúng hơn đây là một ghi nhận đáng buồn. Đức Giê-su đã không bao giờ nguyền rủa ai. Có những lần Ngài đã đe dọa khi loan báo những trừng phạt: “Khốn cho các ngươi…”, nhưng đây không là những lời nguyền rủa, nhưng là những lời cảnh báo.

Trong khi các môn đệ khác buồn rầu hỏi: “Thưa Thầy, chẳng lẽ con sao?”, thì Giu-đa đành lòng hỏi Đức Giê-su một cách giản dị: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?”; hắn đã mất đi sự kính trọng đối với Thầy rồi, vì chỉ xem Thầy mình chỉ là một kinh sư như bao nhiêu kinh sư khác, hắn muốn dứt tình đoạn nghĩa với Thầy.

Thiết lập bàn tiệc Thánh Thể (26: 26-29)

Tại thánh Mát-thêu, như tại thánh Mác-cô và thánh Lu-ca, Đức Giê-su mừng lễ Vượt Qua Do thái với các môn đệ Ngài; qua việc thiết lập Thánh Thể, Ngài sắp biến đổi lễ này thành lễ Vượt Qua Ki-tô giáo. Có cả sự tiếp nối lẫn sự đoạn tuyệt, cả sự song đối lẫn cái mới tận căn.

Lễ Vượt Qua Do thái tưởng niệm cuộc giải thoát Ít-ra-en khỏi cảnh đời nô lệ bên Ai-cập; nhờ máu con chiên được bôi trên khung cửa, Thiên Chúa đã nhận ra dân của Ngài nên đã không đánh chết họ.

Đức Giê-su loan báo cuộc giải thoát khỏi cảnh đời nô lệ của tội lỗi bởi máu Ngài đã đổ ra cho “muôn người được tha tội”. Về phương diện lịch sử, cuộc giải thoát khỏi Ai-cập đã hình thành nên dân Ít-ra-en là dân Chúa chọn và cuộc tuyển chọn này đã được thánh hiến trên núi Xi-nai, bởi Giao Ước Cũ. Nhờ cuộc hiến dâng mình và máu của Ngài được chia sẻ cho hết mọi người, Đức Giê-su thiết lập một dân Thiên Chúa mới và Giao Ước Mới được đóng ấn trong máu Ngài. Trong bàn tiệc Thánh Thể, Đức Giê-su tham dự trước cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.

Như vậy, nếu khung cảnh vượt qua soi sáng việc biến đổi cử hành xưa, sự kiện bữa ăn này cũng là bữa ăn từ biệt mặc khải tất cả khía cạnh đau thương: Đức Giê-su sắp từ giã những môn đệ thân thiết của Ngài, những người mà Ngài đã yêu thương, những người mà Ngài ủy thác sứ mạng truyền đạt sứ điệp của Ngài; Ngài không muốn để họ lại một mình; Ngài gặp thấy phương tiện được ở với họ, khi thiết lập quà tặng của riêng Ngài này mà các môn đệ có thể tái hiện luôn mãi, như những người nối tiếp sự nghiệp của Ngài.

Thánh Mát-thêu cũng nhấn mạnh giá trị “cánh chung” của bàn tiệc Thánh Thể. Bàn tiệc này là một sự tham dự trước bàn tiệc thiên quốc: “Từ nay, Thầy không còn uống thứ sản phẩm này của cây nho, cho đến ngày, Thầy cùng anh em uống thứ rượu mới trong Nước của Cha Thầy”. Đời sống mai hậu thường được biểu thị như một bàn tiệc; rượu như một trong những dấu chỉ của “niềm vui thời thiên sai” và niềm vui muôn đời của thế giới hậu lai. Đây là một trong những ý nghĩa của phép lạ Ca-na, tiên trưng phép lạ Thánh Thể. Nước hóa thành rượu tương xứng với rượu hóa thành máu. Sự đối xứng đáng ngạc nhiên của phép lạ nước hóa thành rượu và phép lạ rượu hóa thành máu này.

Thánh Phê-rô sẽ chối thầy (26: 30-35)

Đoạn văn này chứa đựng một chi tiết quý báu: “Hát thánh vịnh xong…”. Chủ yếu từ thánh vịnh 113 đến thánh vịnh 118, mà người dự tham dự hát sau bữa ăn (người ta ngâm rồi một trong những thánh vịnh này trong bữa ăn). Như vậy chúng ta khẳng định rằng bữa ăn từ biệt của Đức Giê-su đúng là một bữa ăn vượt qua.

Trên đường (đêm trăng tròn), Đức Giê-su báo trước cho các môn đệ Ngài họ sẽ bỏ rơi Ngài. Thánh Mát-thêu, luôn bận lòng quy chiếu đến Kinh Thánh, nên trích dẫn dụ ngôn người mục tử của ngôn sứ Da-ca-ri-a: “Ta sẽ đánh người chăn chiên, và đàn chiên sẽ tan tác” (Dcr 11: 4-17, 13: 7). Nhưng ngay lập tức Chúa Giê-su an ủi các ông; Ngài loan báo với họ Ngài sẽ gặp lại họ ở Ga-li-lê sau khi Ngài sống lại. Đối với những người sắp chịu cơn thử thách và sa ngã, Đức Ki-tô tinh tế cho họ hiểu rằng Ngài sẽ bỏ qua chuyện đó, thế nên Ngài hẹn gặp họ rồi. Sau khi phân ly, sẽ có hội ngộ; đàn chiên sẽ được quy tụ lại.

Thánh Phê-rô đầy nhiệt huyết cải lại. Đức Giê-su dứt khoát trả lời: nội đêm nay, thánh nhân sẽ chối Thầy ba lần. Thánh Phê-rô cam kết trung thành với Thầy và các môn đệ khác cũng vậy.

Hoạt cảnh này rất là người. Khi để cho câu chuyện này được ghi lại trong các sách Tin Mừng, các Tông Đồ chứng tỏ sự khiêm tốn của mình. Mặt khác, một hoạt cảnh như thế cho thấy Đức Giê-su làm chủ và thấy trước các biến cố. Ngài biết điều gì sắp xảy ra, như Ngài biết Ngài sắp đi đâu.

Cơn hấp hối ở vườn Ghết-sê-ma-ni (26: 36-46)

Trên triền đồi Ô-liu có một thửa đất gọi là Ghết-sê-ma-ni, ở đó Đức Giê-su cùng với các môn đệ lui vào; nhưng Ngài tách riêng họ mà cầu nguyện một mình. Ngài cảm thấy buồn rầu và xao xuyến (động từ Hy lạp: “xao xuyến”, chứa đựng ý tưởng đau đớn cùng cực). Không cảm thấy yên tâm, Đức Giê-su đem theo với Ngài “thánh Phê-rô và hai người con ông Dê-bê-đê”, tức là thánh Gia-cô-bê và thánh Gioan. Đây là ba môn đệ đã được chứng kiến cuộc Biến Hình của Ngài. Vào lúc đó khi cho họ thị kiến về vinh quang của Ngài, Ngài đã chuẩn bị cho họ quang cảnh về sự yếu đuối của Ngài vào buổi chiều tối bi thảm này. An ủi mà họ đem đến cho Ngài không gì ngoài sự hiện diện, vì các môn đệ đều ngủ thiếp đi. Thánh Lu-ca nói một cách bao dung: “Các ông đang ngủ vì buồn phiền”.

“Người đi xa hơn một chút, sấp mặt xuống, cầu nguyện”, tức là Chúa Giê-su mặc lấy thái độ vâng phục, khiêm hạ và thiết tha. Trong Tin Mừng không gặp thấy ở đâu Đức Giê-su cầu nguyện thiết tha đến như thế.

Đức Giê-su khẩn cầu: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi phải uống chén này”. Chén là một hình ảnh Kinh Thánh để chỉ một sự thử thách, một vận mệnh đau khổ. Chúng ta không loại trừ rằng chén gợi lên chén máu lễ tế xóa tội (máu tế vật được đựng trong chén và tưới trên bàn thờ).

“Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà xin theo ý Cha”. Đức Giê-su không phó mặc cuộc chiến nội tâm mà đối tượng là vâng phục hay không vâng phục thánh ý Cha Ngài; Ngài là một với Cha Ngài; chỉ có một ý muốn duy nhất của Thiên Chúa, chỉ có một kế hoạch duy nhất của Thiên Chúa. Nỗi xao xuyến cùng cực của Đức Ki tô nhắm đến phương thế mà ý muốn duy nhất này phải được thực hiện. Cơn hấp hối trong vườn Ghết-sê-ma-ni không phải không nhắc nhớ cơn thử thách trong hoang địa ở đó cuộc tranh luận nội tâm nhắm đến cách thế Đức Giê-su sẽ thực hiện sứ mạng của mình (x. Lc 4: 12).

Ba lần Chúa Giê-su trở lại bên các môn đệ của Ngài. Sự kiện vị Thiên Chúa làm người tìm sự nương tựa vào những anh em nhân loại của mình trong nỗi buồn phiền vô tận thật cảm động biết bao. Ngoài ra, Chúa Giê-su không muốn để mặc các môn đệ Ngài, vì họ cũng sắp trải qua sự thử thách và niềm tin của họ sẽ bị lung lay.

Lần thứ ba, Ngài không đánh thức các ông. Ngài biết từ nay Ngài sẽ không thể tin cậy vào các ông.

Đức Giê-su bị bắt (26: 47-56)

Giu-đa biết rất rõ nơi này; hắn biết rằng Đức Giê-su thường đến đây. Thánh Mát-thêu nhắc lại thêm một lần nữa Giu-đa là “một người trong Nhóm Mười Hai”, để nhấn mạnh cử chỉ bỉ ổi và thói giả hình ở nơi nụ hôn của hắn. Kẻ phản bội được hộ tống bởi đám đông được trang bị gươm giáo gậy gộc, mà các thượng tế và kỳ mục sai đến; vì thế, cốt là những người lính canh Đền Thờ, và những thành phần bất hảo đã nhặt những gậy gộc trên đường.

Những người này được sai đi bắt Đức Giê-su lại không biết Ngài, hơn nữa, vào đêm tối, họ có nguy cơ bắt nhầm người. Giu-đa đã cho họ một dấu hiệu: “Tôi hôn ai thì chính là người đó. Các anh bắt lấy!”. Theo lẽ thường tình, một môn đệ thường chào “thầy mình” theo cách này; nhưng lần này, Giu-đa đã cho nụ hôn của mình một ý nghĩa khác: sự phản bội.

Đức Giê-su trả lời hắn: “Này bạn”. Cách xưng hô này đượm vẻ trách cứ nhưng nhẹ nhàng không công phẫn: “Bạn đến đây làm gì thì cứ làm đi”. Tin Mừng Mát-thêu trích dẫn hai lần biểu thức trách cứ khởi đầu với: “Này bạn” như ông chủ vườn nho trả lời cho một người trong những người thợ làm vườn nho giờ đầu tiên: “Này bạn, tôi đâu có xử bất công với bạn” (Mt 20: 13), hay vua trả lời cho khách mời dự tiệc cưới mà không mặc áo cưới: “Này bạn, làm sao bạn vào đây…” (Mt 22: 12).

Tiếp đó, thánh Mát-thêu nêu lên một người môn đệ chém đứt tai tên đày tớ của thượng tế. Nhờ thánh Gioan, chúng ta biết người môn đệ này là thánh Phê-rô, và nhờ thánh Lu-ca, chúng ta biết đó là tai phải (những phần thân thể ở bên phải được xem như cao quý hơn ở bên trái).

Đức Giê-su quở trách cách sử dụng bạo lực, Ngài không muốn các môn đệ Ngài bắt chước nhóm Nhiệt Thành; nhưng Ngài còn muốn cho họ hiểu rằng dù Ngài là chủ tể của mọi biến cố và nếu Ngài muốn các đạo binh thiên quốc có thể bảo vệ Ngài, nhưng Ngài tự ý nộp mình. Ở nơi sự phục tùng bên ngoài của Ngài, một ý định bao la được phơi bày ra, ý định ấy vượt quá mọi nhân vật của tấn thảm kịch.

“Bấy giờ các môn đệ bỏ Người mà chạy trốn hết”. Trước những người xét xử Ngài, Đức Giê-su sẽ không có bất kỳ một người biện hộ nào, bất kỳ nhân chứng nào để bênh vực cho Ngài, Ngài một thân một mình tiến bước vào cuộc Tử Nạn. Tuy nhiên hai môn đệ mon men theo Ngài từ xa xa cho đến dinh thượng tế Cai-pha, là thánh Phê-rô và thánh Gioan. Và thánh Gioan sẽ hiện diện dưới chân thập giá.

Đức Giê-su trước thượng hội đồng (26: 57-68)

Đức Giê-su bị điệu đến trước Cai-pha, vị thượng tế đương nhiệm, có quyền tối thượng của Ít-ra-en. Chính quyền Rô-ma đã để cho người Do thái quyền độc lập tôn giáo và vài quyền điều hành. Vị thượng tế là lãnh tụ hàng giáo sĩ và là người chủ tọa Thượng Hội Đồng. Thượng Hội Đồng này gồm có: các thượng tế (vị thượng tế đương nhiệm, các vị thượng tế mãn nhiệm và các tư tế có trách nhiệm thường hằng trong Đền Thờ), các kỳ mục (những quý phái giáo dân, những người giàu có, những người đứng đầu các gia đình thế giá) và các kinh sư (những tiến sĩ luật, phần lớn giáo dân, thuộc tầng lớp trung lưu hay khiêm hạ. Họ được dân chúng kính trọng và đa số họ là những người Pha-ri-sêu).

Thượng Hội Đồng thường hội họp ở Đền Thờ, nhưng vào đêm này, khuôn viên Đền Thờ đóng cửa; vì thế Thượng Hội Đồng nhóm họp trong tư dinh thượng tế Cai-pha. Số thành viên Thượng Hội Đồng tổng cộng 70 người, không tính vị thượng tế chủ trì hội nghị. Số người tối thiểu để buổi họp này có thể tiến hành là hai mươi ba thành viên. Chắc chắn phiên tòa xét xử Đức Giê-su có hơn số người này.

Đức Giê-su cần thiết phải ra trước tòa án Do thái. Giả như Ngài đã bị giao nộp liền ngay vào chính quyền Rô-ma, Ngài sẽ được liệt vào số phận của những người kháng chiến, vì thế sẽ được vinh dự người ái quốc. Lời tuyên trước tiên đến từ giáo quyền Ít-ra-en để làm mất uy tín của Đức Giê-su.

Thánh Mát-thêu nêu bật trò cười của phiên xử: “Còn các thượng tế và toàn thể Thượng Hội Đồng thì tìm chứng gian buộc tội Đức Giê-su để lên án tử hình”. Cuối cùng hai nhân chứng được đưa ra để xuyên tạc lời nói của Đức Giê-su. Trước đây Đức Giê-su đã nói: “Các ông cứ phá hủy Đền Thờ này đi; nội trong ba ngày, tôi sẽ xây dựng lại” (Ga 2: 19), bây giờ, những chứng nhân tố cáo cố ý bóp méo lời Ngài: “Tên này đã nói: ‘tôi có thể phá Đền Thờ Thiên Chúa…’”.

Sau khi giữ thinh lặng, Đức Giê-su long trọng khẳng định phẩm chất Thiên Sai của Ngài. Khi bị hạ nhục, Ngài công bố tính chất siêu việt của mình; Ngài tự nhận mình là “Con Người”. Đối với những kẻ tự phụ xét xử Ngài, Ngài công bố rằng chính Ngài là vị thẩm phán đích thật sẽ đến trên mây trời, mặc lấy uy quyền của chính Thiên Chúa.

Bấy giờ, vị thượng tế bằng cử chỉ đóng kịch xé áo mình ra. Chung chung, việc xé áo là dấu chỉ tang chế. Nhưng vị thượng tế không có quyền xé áo để tang cho bất kỳ ai, dù cha hay mẹ đi nữa (Lv 21: 10); ông phải dành cử chỉ này cho những việc công nghiêm trọng, nhất khi thực hiện chức năng xét xử của mình, ông phải công bố sự phẩn nộ của mình.

Lời tuyên án của Thượng Hội Đồng chỉ lời kết án về phương diện đạo đức, lời nói phạm thượng: “Hắn đáng chết!”. Chính quyền Rô-ma đã lấy đi quyền thi hành án tử khỏi tòa án Do thái này. Ngay từ phiên xử đầu tiên này, Đức Giê-su chịu những lời nhục mạ bỉ ổi.

Làm thế nào chúng ta biết được những chi tiết và những diễn biến của phiên họp Thượng Hội Đồng này? Chẳng có gì là khó cả. Giữa những thành viên Thượng Hội Đồng có những người thiện cảm với Đức Giê-su, như ông Giô-xép thành A-ri-ma-thê và có thể ông Ni-cô-đê-mô. Vả lại, sau này, theo lời chứng của sách Công Vụ, một đám đông tư tế đón nhận đức tin vào Đức Giê-su (Cv 6: 7).

Thánh Phê-rô chối thầy và hối hận (26: 69-75)

Như các môn đệ khác, thánh Phê-rô đã chạy trốn vào lúc bắt Đức Giê-su. Đoạn, như thánh Gioan, ông đổi ý và cả hai cùng theo Ngài xa xa khi những người lính gác dẫn Đức Giê-su đi.

Trong khi thánh Gioan quen biết vị thượng tế, nên cùng với Đức Giê-su vào sân trong của tư dinh vị thượng tế, còn thánh Phê-rô thì ở bên ngoài sân trong ở đó những lính canh đã nhóm một bếp lửa để sưởi ấm vì trời lạnh.

Cả bốn Tin Mừng đều tường thuật hoạt cảnh thánh Phê-rô chối Thầy. Vị lãnh tụ Giáo Hội đã để cho tình tiết chẳng có gì là vinh dự này truyền lại cho thế hệ sau và chỉ mình thánh nhân mới có thể cho những chi tiết, điều này thật đáng lưu ý. Sự khiêm hạ của thánh nhân, sự day dứt sâu xa về sự sa ngã của mình được diễn tả ngay tức khắc bởi những dòng nước mắt thảm thiết. Phải chăng mẫu gương của ông có thể là một bài học vào giờ của những cuộc bách hại đó sao? Thánh Phê-rô khiến chúng ta cảm động vì ngài là một vị thánh rất là người.

Nỗi tuyệt vọng của ông Giu-đa (27: 1-10)

Dường như một phiên tòa khác nữa đã xảy ra sau phiên tòa ban đêm. Thánh Mát-thêu nói: “Trời vừa sáng”. Theo luật, phiên tòa thứ hai này cần phải có. Khi bản án nghiêm khắc đã được tuyên án, hội đồng cần thời gian suy nghĩ. Theo pháp luật, kỳ hạn này phải là hai mươi bốn tiếng. Phải chăng thánh Mát-thêu và thánh Mác-cô đã rút ngắn kỳ hạn này? Tất cả mọi biến cố đều được rút ngắn. Phiên tòa thứ hai này phải khẳng định hay giảm khinh, nhưng không được nghiêm khắc hơn. Đối với trường hợp Đức Giê-su, những thành viên Thượng Hội Đồng khẳng định lời tuyên án đầu tiên. Nhưng không có quyền thi hành án tử, họ giao nộp kẻ họ kết án cho chính quyền Rô-ma. Quả thật, phiên tòa tôn giáo được chuyển sang phiên tòa chính trị. Nếu chỉ vì tội phạm thượng chống lại Thiên Chúa Ít-ra-en, viên tổng trấn không thể tuyên án án tử hình Ngài được. Vì thế, một phiên tòa khác nữa bắt đầu.

Giữa phiên tòa Do thái và phiên tòa Rô-ma, thánh Mát-thêu đưa vào tình tiết mà chỉ mình thánh ký tường thuật: Giu-đa treo cổ tự tử. Thánh Lu-ca nêu lên điều này trong sách Công Vụ, vào lúc chọn Mát-thi-a thay thế cho kẻ phản bội: những chi tiết khác biệt đáng kể. Thánh Lu-ca không xác định đây phải chăng là tai nạn hay tự tử (Cv 1: 18-19).

Xem ra Giu-đa đã không lường được những hậu quả hành động phản bội của mình. Khi biết Thượng Hội Đồng kết án Thầy mình và giao nộp cho quan tổng trấn Phi-la-tô, hắn hối hận đến mức hoàn toàn tuyệt vọng. Hắn ném đồng tiền vào Đền Thờ rồi đi treo cổ tự tử.

Thánh Mát-thêu cho thấy sự việc này ứng nghiệm lời Kinh Thánh khi trích dẫn bản văn  Giê-rê-mi-a (Gr 18: 2-12) được phối hợp với bản văn Da-ca-ri-a (11: 12-13): “Họ đã lượm lấy ba mươi đồng bạc, tức là cái giá mà một số con cái Ít-ra-en đã đặt khi đánh giá Người. Và họ lấy số bạc đó mà mua Thuở Ruộng Ông Thợ Gốm, theo những điều Thiên Chúa đã truyền cho tôi”.

Tình tiết này được sử dụng như chuyển tiếp giữa hai phiên tòa; nhưng về phương diện thời gian, nó không được định vị vào lúc này. Các thượng tế không thể vừa có mặt tại dinh Phi-la-tô vừa ở tại Đền Thờ với Giu-đa.

Đức Giê-su trước Phi-la-tô (27: 11-14)

Quan tổng trấn Phi-la-tô đại diện chính quyền Rô-ma. Ông có một dinh cư ở miền Giu-đê. Thật ra, kể từ năm thứ sáu sau Công Nguyên, A-kê-la-út, con và kế vị Hê-rô-đê đại đế, bị chính quyền Rô-ma truất quyền cai trị miền Giu-đê. Chính quyền Rô-ma lo sợ những phong trào phản loạn dấy lên ở Giê-ru-sa-lem hay trong miền.

Dinh thự quen thuộc của các tổng trấn Rô-ma là thành Xê-da-rê duyên hãi, thành phố lớn mới và thoáng mát. Nhưng vào những ngày đại lễ, đặc biệt lễ Vượt Qua có đông đảo dân chúng từ khắp nơi về mừng lễ, thì vị tổng trấn có mặt ở Giê-ru-sa-lem. Đó là lý do tại sao vị tổng trấn có mặt vào lúc đó ở Thành Thánh. Vì thế, Đức Giê-su mới có thể đối mặt trực diện với quan tổng trấn Rô-ma này.

Ngay tức khắc, quan tổng tra hỏi Đức Giê-su trên bình diện chính trị: “Ông là vua dân Do thái sao?”. Chỉ duy tham vọng này, chính quyền Rô-ma mới có thể kết án tử Ngài, và đây là bản án mà Phi-la-tô sẽ truyền viết trên một tấm bảng đóng vào thập giá trên đầu Ngài: “Người này là Giê-su, vua dân Do thái”.

Đức Giê-su trả lời: “Chính ngài nói đó”. Đức Giê-su tránh trả lời trực tiếp: thay vì trả lời với đại từ ngôi thứ nhất, thì lại là đại từ ngôi thứ hai, nhưng câu trả lời này không kém phần khẳng định; Ngài đã trả lời theo cùng cách như vậy cho Giu-đa khi Giu-đa hỏi Ngài: “Ráp-bi, chẳng lẽ con sao?” “Chính anh nói đó”.

Qua câu trả lời của mình, Đức Giê-su muốn cho Phi-la-tô hiểu: “Tôi đích thật là vua, nhưng không như ông nghĩ”.

Các thượng tế và các kỳ mục tố cáo Ngài trước chính quyền Rô-ma. Những lời tố cáo này được thánh Lu-ca tường thuật: “Tên này sách động…ngăn cản nộp thuế cho hoàng đế Xê-da…lại còn xưng mình là Mê-si-a, là vua nữa” (Lc 23: 1-5). Nhưng Đức Giê-su im lặng khiến quan tổng trấn rất đổi ngạc nhiên. Chung chung những bị cáo, không có luật sư, tự mình biện hộ cho mình. Việc Phi-la-tô ngạc nhiên có thể bày tỏ sự bối rối trước mầu nhiệm của can phạm này mà người ta đã giao nộp cho ông và nhân phẩm của người này thì thật khác thường.

Ân xá vào dịp lễ Vượt Qua (27: 15-25)

Theo tập tục Do thái vào dịp lễ Vượt Qua, người ta phóng thích một tù nhân, chắc chắn để tưởng nhớ cuộc giải thoát khỏi Ai-cập mà người ta tưởng niệm vào ngày này. Phi-la-tô biết tập quán này; ông đề nghị cho dân chúng chọn giữa tên sát nhân khét tiếng và Đức Giê-su.

Chúng ta có thể ngạc nhiên về quyền được ban cho dân chúng; đây không là trường hợp ngoại lệ. Ở Rô-ma, trong những cuộc giác đấu ở hý trường, việc dân chúng quyết định tha hay giết buộc hoàng đế phải chuẩn theo. Trong truyền thống Do thái, chúng ta gặp thấy việc dân chúng được dự phần vào sự quyết định được kể ra nhiều lần như vụ án của bà Su-san-na và hai kỳ mục trắc nết.

Việc Ba-ra-ba được phóng thích nêu bật những trách nhiệm khác nhau: trách nhiệm của Thượng Hội Đồng xúi dục dân chúng chống lại Đức Giê-su; trách nhiệm của dân chúng để cho mình bị thao túng nên chọn tên sát nhân khét tiếng hơn Đức Giê-su; cuối cùng, trách nhiệm của Phi-la-tô, ông đã quá tin nên đã trù tính dân chúng sẽ bênh vực Đức Giê-su, nhờ đó ông thoát mình khỏi việc lên án một người vô tội. Nhưng ông đã không lường trước cuộc vận động của các thượng tế, cho dù ông biết rằng chính chỉ vì ghen tuông mà người ta đã nộp Ngài cho ông. Nhưng Phi-la-tô nhượng bộ dân chúng; ông muốn lấy lòng dân địa phương, đồng thời muốn tránh bị tố cáo lên chính quyền Rô-ma và về phương diện chính trị, bị xem là nhu nhược trước một kẻ tự cho mình là “vua dân Do thái”.

Như vậy, quan tổng trấn đưa ra quyết định sau cùng, và chính ở nơi hình phạt Rô-ma mà Đức Ki-tô bị kết án: đóng đinh vào thập giá, chứ không hình phạt Do thái: ném đá.

Tuy nhiên, trong câu chuyện này, thánh Mát-thêu tường thuật hai sự kiện xem ra chỉ là phụ, qua đó thánh ký muốn ghi nhận rằng lương dân, chứ không phải dân Do thái, đã nhận ra Đức Giê-su vô tội: bà vợ của Phi-la-tô, được báo trong giấc mộng, không muốn chồng mình kết án một người công chính. Mặt khác, chính Phi-la-tô rửa tay để nói rằng ông không nhúng tay vào máu của người vô tội này. Rõ ràng thánh Mát-thêu quy trách nhiệm về cái chết của Đức Giê-su nhiều hơn cho dân Do thái và các vị lãnh đạo của họ.

Đức Giê-su chịu đánh đòn (27: 26)

Đánh đòn tự nó là một hình phạt, tội nhân khó sống sót qua trận đòn. Đánh đòn xem ra cũng đã là một biện pháp đi trước việc đóng đinh vào thập giá; nó làm cho nạn nhân kiệt sức vì mất nhiều máu và vì thế rút ngắn cơn hấp hối rất đau đớn của nạn nhân trên thập giá.

Đức Giê-su bị nhục mạ (27: 27-31)

Phi-la-tô trao Đức Giê-su cho quân lính thi hành án lệnh. Ấy vậy, chúng ta đã nhấn mạnh rồi, quân lính Rô-ma rất có ác cảm với dân chúng, nhất là những lần chúng phải đối đầu với dân chúng trong những cuộc bạo loạn. Đây là dịp để chúng trút ác tâm của chúng trên tên Do thái này được trao vào tay chúng. Tất cả quân lính ở dinh thự quan tổng trấn tụ lại để chế nhạo Đức Giê-su. Hoạt cảnh thật hung tợn và tàn nhẫn.

Chúng kết một vòng gai nhọn rồi đội trên đầu Ngài; chúng khoắc cho Ngài một tấm áo choàng đỏ, chắc chắn áo choàng của quân đội Rô-ma mặc khi thắng trận, điều này lại càng nhục mạ Ngài thêm nữa.

Đường Thập Giá (27: 32-44)

Cuộc hành hình chỉ có thể diễn ra ở bên ngoài thành: khuôn viên thành là đất thánh không thể bị vấy bẩn bởi những thi thể tội nhân được. Đồi Sọ gần với cửa tây Giê-ru-sa-lem.

Dù đoạn đường tương đối ngắn mà Đức Giê-su phải đi qua vai mang thập giá, nhưng Ngài yếu nhược bởi những cư xử thô bạo, vì thế quân lính trưng dụng một người qua đường, ông Si-mon người Ky-rê-nê, để vác đỡ thập giá với Ngài.

Khổ hình thập giá là sáng kiến của người Rô-ma. Xi-xê-ron mô tả khổ hình này là “cái chết kinh khiếp nhất và tàn bạo nhất”. Người Rô-ma dành việc hành hình này chỉ cho tầng lớp hạ lưu nhất: những người nô lệ. Ta-sít gọi nó “khổ hình của những kẻ nô lệ”.

Sau khi đã đóng đinh tay chân Ngài vào thập giá, “chúng đem áo Người ra bắt thăm mà chia nhau”. Điều này phù hợp với luật Rô-ma: áo quần nạn nhân thuộc những lý hình. Đồng thời sấm ngôn của Tv 22 được ứng nghiệm: “Áo mặc ngoài chúng đem chia chác, còn áo trong cũng bắt thăm luôn” (Tv 22: 19).

“Cùng bị đóng đinh với Người, có hai tên cướp, một bên phải, một bên trái”. Điều này tăng thêm sự nhục mạ đối với Đức Giê-su: Ngài bị liệt vào hàng những kẻ gian phi.

Ở dưới chân Đồi Sọ, có một con đường dẫn đến Giê-ru-sa-lem. Chỗ hành hình này được chính quyền nhắm đến: cảnh tượng những nạn nhân hấp hối trong đau đớn phải có hiệu quả ngăm đe đối với khách bộ hành. Đó là lý do tại sao các thánh ký nêu lên những lời thóa mạ của những người qua đường.

Trên thập giá, Đức Giê-su chịu những lời nhục mạ của ba loại người: người Do thái qua đường nhận ra Ngài; các thành viên Thượng Hội Đồng đến chứng kiến cuộc hành hình; sau cùng hai tên gian phi. Thánh Mát-thêu không nói về “người trộm lành” mà thánh Lu-ca nêu lên trong bài tường thuật của mình.

Như vậy, Đức Giê-su thật sự bị bỏ rơi và thật sự phó nộp vào tay những kẻ thù Ngài.

Đức Giê-su chết trên thập giá (27: 45-50)

“Từ giờ thứ sáu, bóng tối bao phủ cả mặt đất”. Việc bầu trời trở nên sầm tối vào giữa trưa thường xảy ra vào mùa xuân. Thánh ký đọc thấy ở đây một dấu chỉ, mà lối phóng dụ của ông diễn tả: cái chết của Đức Giê-su trên thập giá có một tầm mức hoàn vũ.

Chúng ta không thể không nghĩ đến sấm ngôn của A-mốt, gợi ra ngày của Chúa là ngày tang chế của người con một: “Trong ngày ấy, Ta sẽ truyền cho mặt trời lặn giữa trưa, và khiến cho mặt trời tối sầm giữa lúc ngày đang sáng…Ta sẽ làm cho đất này chịu tang như người ta chịu tang đứa con một và kết cục của nó như một ngày cay đắng” (Am 8: 9-10).

Những sấm ngôn khác (Giô-en, Xô-phô-ni-a, vân vân) loan báo rằng ngày Chung Thẩm đi kèm theo những dấu chỉ vũ trụ (bóng tối, trận động đất, vân vân). Nhưng đây phải là ngày thịnh nộ. Thậm chí nếu giờ Đức Giê-su chết, theo mức độ nào đó, là giờ xử án rồi, nhưng thay vì giờ thịnh nộ lại là giờ tha thứ và xót thương.

“Lạy Thiên Chúa, lạy Thiên Chúa của con, sao Ngài bỏ rơi con”. Đây là tiếng kêu tuyệt vọng của người Công Chính đau khổ trong Tv 22: “Thân sâu bọ chứ người đâu phải, con bị người đời mắng chửi dể duôi, thấy con ai cũng chê cười, lắc đầu bĩu mỏ buông lời mỉa mai: ‘Nó cậy Chúa, mặc Người cứu nó! Người có thương, giãi gỡ đi nào!’”.

Đức Giê-su lập lại tiếng kêu của Người Công Chính bị người đời khinh bỉ. Sau khi đã nhận biết bị người đời bỏ rơi, Ngài cảm thấy chơ vơ cô quạnh tuyệt mức, ngay cả Cha Ngài đã bỏ mặc Ngài.

Thánh ký đã trích nguyên văn tiếng A-ram, tiếng mẹ đẻ của Đức Giê-su: “Ê-li, Ê-li, lê-ma xa-bác-tha-ni”. Ấy vậy, chúng ta biết rằng theo truyền thống Do thái, ngôn sứ Ê-li-a phải trở lại để giới thiệu Đấng Mê-si-a cho những tín hữu. Lời đùa cợt thì dể dàng và ác tâm: Ông Giê-su hấp hối này còn tin mình là Đấng Mê-si-a, hắn ta gọi ông Ê-li-a!

“Lập tức, một người trong bọn chạy đi lấy miếng bọt biển, thấm đầy giấm”. Cử chỉ này được hiểu tốt hơn trong bản văn của Gioan ở đó Đức Giê-su vừa nói: “Tôi khát”. Thánh Mát-thêu ngụ ý rằng một người đưa ra lời chế nhạo: “Khoan đã, để xem ông Ê-li-a có đến cứu hắn không”.

Cả bốn thánh ký đều đã giữ lại sự cố này vì Kinh Thánh soi sáng cho nó. Chúng ta đọc ở Tv 69 lời phàn nàn của một tôi trung, nạn nhân vì lòng nhiệt thành của mình đối với Đức Chúa: “Chúa biết rõ con bị người chửi mắng, lại mang vào thân tủi hổ với nhục nhằn; những kẻ thù con Ngài nhìn thấy cả. Lời thóa mạ làm tim này tan vỡ, con héo hắt rã rời. Nỗi sầu riêng mong người chia sớt, luống công chờ, không được một ai; đợi người an ủi đôi lời, trông mãi trông hoài mà chẳng thấy đâu! Thay vì đồ ăn, chúng trao mật đắng, con khát nước, lại cho uống giấm chua” (Tv 69: 20-22).

Theo thánh Mát-thêu, Đức Giê-su không uống giọt giấm nào, Ngài “kêu lên một tiếng lớn, rồi trút linh hồn”.

Tiên báo về một thế giới mới (27: 51-54)

Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất liệt kê danh sách về những dấu chỉ lạ lùng này, đi kèm theo cái chết của Đức Giê-su.

Nét đặc trưng thứ nhất có ý nghĩa nhất: bức màn trướng trong Đền Thờ xé ra làm hai từ trên xuống dưới đất. Đây là bức màn giăng lối vào tiền sảnh, hoặc bức màn phân cách thánh điện với phần cực thánh mà chỉ vị thượng tế mới có thể vào, một năm một lần để thực hiện nghi lễ Xá Tội. Dù bức màn nào đi nữa, ý nghĩa cũng là một: lối vào Thiên Chúa từ nay được mở ra cho hết mọi người, việc Thiên Chúa tuyển chọn không còn độc tôn cho dân Ít-ra-en: cái chết của Đức Giê-su trải rộng cho hết mọi người. Đền Thờ Giê-ru-sa-lem, biểu tượng sự hiện diện của Thiên Chúa, đã thôi đóng vai trò của mình; đền thờ đích thật của Thiên Chúa sẽ là thân thể phục sinh của Đức Giê-su, như chính Ngài đã loan báo.

“Đất rung đá vỡ”. Hình ảnh khải huyền mà thánh Mát-thêu mượn ở nơi những sấm ngôn liên quan đến Ngày của Chúa ở đó thế giới phải rung chuyển. Được Kinh Thánh nuôi dưỡng, thánh ký nhận ra ở nơi cái chết của Đức Giê-su ứng nghiệm các sấm ngôn này.

“Mồ mả bật tung, và xác của nhiều vị thánh đã an nghỉ được chỗi dậy”. Thánh Mát-thêu nghĩ đến Is 26: 19 và Đnl 12: 2-3. Các vị thánh Cựu Ước, nhờ hy tế cứu chuộc của Đức Ki-tô, vào thánh thánh, tức là Giê-ru-sa-lem trên trời. Đây là “thị kiến thần học chứ không lịch sử”. Vả lại, thánh ký cẩn trọng xác định “Sau khi Chúa chỗi dậy”. Chính chỉ biến cố Phục Sinh mới đem lại thành quả tròn đầy cho hiến tế của Đức Ki-tô.

Tại thánh Mát-thêu, những dấu chỉ vũ trụ này khiến các lính canh và viên đại đội trưởng Rô-ma kinh khiếp, trong khi tại thánh Mác-cô chính thái độ của Đức Giê-su làm xúc động một mình viên đại đội trưởng.

“Quả thật ông này là Con Thiên Chúa”. Chắc chắn viên đại đội trưởng đã nghe trong đám đông những tiếng xì xầm: “Người này cho mình là con Thiên Chúa”; ông lập lại diễn ngữ này, dù không nắm bắt hết tầm mức của nó, nhưng qua những gì ông đã chứng kiến, ông tin chắc rằng tội nhân này là một người công chính đặc biệt. Lời tuyên xưng của viên đại đội trưởng này là dấu hiệu tiên báo cuộc hoán cải của thế giới lương dân; đây là lời chứng đầu tiên về tính phổ quát mà bức màn trướng Đền Thờ xé ra làm đôi loan báo.

Các Thánh nữ (27: 55-56)

Thánh ký trích dẫn đích danh ba trong số những người phụ nữ trung thành này, từ đằng xa, họ chứng kiến cơn hấp hối của Đức Giê-su.

1. Trước hết, bà Ma-ri-a Mác-đa-la, người mà Đức Giê-su đã trừ bảy quỷ, từ đó, bà đã luôn luôn theo Ngài để phục vụ Ngài.

2. Bà Ma-ri-a, mẹ của các ông Gia-cô-bê hậu và ông Giô-xếp, hai người anh em họ của Chúa.

3. Bà mẹ các con ông Dê-bê-đê (ông Gia-cô-bê và ông Gioan). Như vậy, không chỉ thánh Gioan hiện diện dưới chân thập giá, nhưng mẹ của thánh nhân cũng có mặt.

Sự hiện diện của các bà ở đây rất quan trọng vì lời chứng của các bà sẽ bổ khuyết cho lời chứng của nhóm Mười Hai vào những thời điểm mà các ông không có mặt. Các bà đã theo Đức Giê-su từng bước trên con đường thập giá, chứng kiến cái chết của Ngài trên thập giá và cuộc mai táng của Ngài. Các bà là những người đầu tiên chứng kiến ngôi mộ trống, dấu chỉ đầu tiên cuộc Phục Sinh của Ngài, và là những người đầu tiên gặp gỡ Đấng Phục Sinh và nhận sứ mạng của Đấng Phục Sinh là ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh cho các ông.

Mai táng đức Giê-su (27: 57-61)

Theo tập quán Rô-ma, để tính ngăm đe có hiệu quả tốt, thi hài của tội nhân phải bị phơi bày trong nhiều ngày. Luật Do thái thì hoàn toàn khác: không được để mặt trời lặn trên thi thể của tội nhân. Đnl 21: 22 xác định, “xác nó không được để qua đêm”. Mặt khác, nếu không có ai can thiệp, thi hài của Đức Giê-su có nguy cơ bị ném vào một hố chung cùng với thi thể của hai tên gian phi cùng bị đóng đinh với Ngài. Cuối cùng, theo cách tính của người Do thái, buổi chiều bắt đầu ngày sa-bát, ngày người ta kiêng cữ mọi công việc.

Vì thế, phải vội vã, vì thời gian gấp rút. Ấy vậy, gần nơi hành hình có một ngôi mộ trống. Chính nơi ngôi mộ này mà ông Giô-xếp thành A-ri-ma-thê, chủ nhân của ngôi mộ này và là môn đệ của Đức Giê-su, nghĩ đến việc mai táng Đức Giê-su. Trong khi Đức Giê-su còn sống, ông không dám bày tỏ sự thiện cảm của mình, vì ông là một thành viên Thượng Hội Đồng. Lúc này, ông can đảm đứng ra xin Phi-la-tô được tháo thi thể Đức Giê-su khỏi thập giá để mai táng. Quan tổng trấn chấp thuận.

Trước những biến cố này, chúng ta không thể không nghĩ đến lời của Đức Giê-su: “Nếu hạt giống không mục nát đi…nó không sinh nhiều hoa trái”. Ngày khi Đức Giê-su vừa tắt thở, những dấu chỉ kiểm chứng lời này: một lương dân công bố tính siêu việt của Ngài, dân chúng đến xem ra về vừa đấm ngực ăn năn (thánh Lu-ca kể sự kiện này), một người môn đệ thầm lặng vượt lên trên nỗi sợ hãi của mình, đích thân đến xin Phi-la-tô thi thể Đức Giê-su và mai táng.

Vì thế, Đức Giê-su, vị sứ giả nghèo khổ này, trước đây vài ngày, thân thể Ngài đã được xức dầu thơm hảo hạng, nay an nghỉ trong ngôi mộ của nhân vật giàu có, đã được đục sẵn trong núi đá và hoàn toàn mới, như thử những dấu hiệu vinh dự này báo trước việc Ngài đi vào trong vinh quang của mình.

Thực tế, ngôi mộ của những người giàu có là một căn phòng ở giữa có một ghế dài để đặt thi thể, bên ngoài có một phiến đá lớn lấp cửa mộ. Bà Ma-ri-a Mác-đa-la và bà Ma-ri-a, mẹ của ông Giô-xếp, “quay mặt vào mồ” quan sát việc mai táng. Chính hai bà này vào sáng sớm ngày thứ nhất sẽ là những người đầu tiên chứng thực ngôi mộ trống.

Như vậy, ngày đau thương hoàn tất một cách trang nghiêm, giữa những tấm lòng lòng trung thành và yêu mến.

Lính canh mồ (27: 62-66)

Thánh Mát-thêu là thánh ký duy nhất kể ra việc canh mồ. Ngôi mộ phải được canh giữ theo lệnh Phi-la-tô, đó là chuyện thường tình. Nhưng đàng này lại là sáng kiến của các thượng tế, điều này xem ra hy hữu. Người ta tự hỏi phải chăng vào thời thánh Mát-thêu biên soạn Tin Mừng sự tranh cãi giữa những người Do thái và những Ki tô hữu vẫn còn dai dẳng, những người Do thái buộc tội những người Ki-tô hữu đã trộm xác Đức Ki-tô để phao tin đồn là Ngài đã sống lại. Cuộc tranh cãi phải nhắm đến câu hỏi phải biết ai chịu trách nhiệm canh gác ngôi mộ.

Ba tấn thảm kịch

Ba tấn thảm kịch chồng chéo lên nhau trong cuộc Thương Khó của Đức Giê-su: trước hết, tấn thảm kịch của việc dân Ít-ra-en từ chối, rồi đến tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người, sau cùng tấn thảm kịch của tội lỗi.

1. Dân Ít-ra-en từ chối

Đức Giê-su đã không ngừng công bố một sứ điệp khó khăn; Ngài đã phá đổ những thành kiến, lên án chủ nghĩa duy luật và thói giả hình. Sự ghen tuông, đoạn sự thù hận đã liên kết với nhau chống lại Ngài. Những người lãnh đạo tôn giáo đã không chấp nhận nhận ra ở nơi Ngài Đấng Mê-si-a, vì Ngài không đáp ứng hình ảnh mà họ tự mình tưởng nghĩ ra. Việc họ kiên tâm tiêu diệt Ngài đã dẫn đến cái chết, nhưng không đến cái chết như họ suy tính: Đức Giê-su đã chiến thắng sự chết, nhưng do việc làm của họ, dân Ít-ra-en, dân được ký thác Lời Hứa, đã thôi không còn nữa.

2. Tấn thảm kịch của vị Thiên Chúa làm người

Khi đón nhận kiếp phàm nhân như chúng ta, Đức Giê-su đã chấp nhận thân phận tử biệt sinh ly của chúng ta. Ngài đã đảm nhận vận mệnh con người trong mọi chiều kích đau khổ khủng khiếp. Những hoàn cảnh lịch sử đã khiến Ngài phải hứng chịu khổ hình tàn bạo nhất được sử dụng vào thời Ngài sống. Số phận này ở trong kế hoạch của Thiên Chúa: “Mạng sống của tôi, không ai lấy đi được, nhưng chính tôi tự ý hy sinh mạng sống mình. Tôi có quyền hy sinh và có quyền lấy lại mạng sống ấy. Đó là mệnh lệnh của Cha tôi mà tôi đã nhận được” (Ga 10: 18-19). Đây là cử chỉ yêu thương tận mức, Đức Giê-su đã muốn thuộc vào số những người bị tra tấn, những người bị hành hình, những người tử đạo, ngỏ hầu những ai phải chết trong những đau đớn cùng cực nhất, và những ai phải chịu đau khổ về thể lý cũng như luân lý, đều gặp thấy ở nơi cuộc Thương Khó của Ngài niềm an ủi tuyệt vời. Cũng phải ghi nhận rằng ở đâu có sự hiện diện của Thiên Chúa ở đó có muôn vàn ân phúc. Ở đâu có những đau khổ được liên kết với Ngài, ở đó Ngài sẽ ban muôn vàn ân sủng.

3. Tấn thảm kịch của tội lỗi

“Đây là mình Thầy, hiến tế vì anh em. Đây là máu Thầy, máu Giao Ước, đổ ra cho muôn người được tha tội”. Đức Giê-su cho cái chết của Ngài ý nghĩa này.

Tuy nhiên, lời này đưa chúng ta vào mầu nhiệm: “Mầu Nhiệm Cứu Chuộc”“Người cứu chuộc” (goel) là người phục hồi phẩm giá cho một thành viên trong gia tộc phải lâm vào cảnh bần cùng, và chuộc lại nếu người ấy phải sa vào vòng nô lệ vì nợ nần. Đây là ý nghĩa đặc biệt của từ Hy-bá mà chúng ta dịch “Đấng Cứu Chuộc”.

Dù được Kinh Thánh soi sáng, biết bao vấn đề gợi lên trong tâm trí chúng ta. Tội lỗi là gì? Một sự xúc phạm đến Thiên Chúa rất mục tốt lành, Thiên Chúa-Tình Yêu, Ngài đã không muốn nhân loại một mình phải gánh chịu mọi hậu quả tội lỗi của mình. Ngài đã sai Con Ngài đến để chia sẻ gánh nặng tội lỗi và xóa đi mọi vết nhơ của tội. Đó là lý do tại sao Thánh Giá là “vinh quang” của Thiên Chúa, như thánh Gioan nói.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...