26/05/2023
1292

CHÚA NHẬT LỄ HIỆN XUỐNG

Lời Chúa: Cv 2, 1-11; 1Cr 12, 3b-7.12-13; Ga 20, 19-23

——
 

Mục lục

1. Đấng ban sự sống (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Thần Khí đổi mới  (Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm)

3. Hoa trái Chúa Thánh Thần (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Lễ ngũ tuần-Cộng đoàn yêu thương được thành lập  (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

5. Hãy nhận lấy Thánh Thần (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

6. Đấng Bảo Trợ âm thầm (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

7. Lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống.  (Jorathe Nắng Tím)

8. Say  (Trầm Thiên Thu)

9. Hãy nhận lấy Thánh Thần. (Lm. Giuse Phạm Thanh Minh)

10. Kiệt tác của Chúa Thánh Thần (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

11. Cuộc đổi mới kỳ diệu  (Jos Hồng Ân)

12. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Lễ Hiện Xuống  (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

13. Nhận lấy hồng ân (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

14. Thánh Thần là ai và làm gì?  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

15. Can đảm dấn thân cho Tin mừng (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)


 

ĐẤNG BAN SỰ SỐNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Một câu chuyện vui kể lại, có anh thanh niên đang học giáo lý dự tòng, khi học kinh Chúa Thánh Thần, anh học mãi mà không thuộc. Khó nhất là nhiều lần cứ lặp đi lặp lại “Chúa Thánh Thần xuống… Chúa Thánh Thần lại xuống….”. Anh sốt ruột nói với bà sơ dạy giáo lý: “Sao không thấy Chúa Thánh Thần lên mà thấy cứ xuống hoài ?”. Bà sơ trả lời: “Nếu Chúa Thánh Thần mà lên thì thế giới này sẽ bị hủy diệt còn ghê gớm hơn là bom nguyên tử!”

Kinh “Chúng con lạy ơn Đức Chúa Thánh Thần…” mà chúng ta thường đọc mỗi khi khởi đầu giờ cầu nguyện, nhắc lại một biến cố quan trọng trong lịch sử cứu độ: đó là ngày lễ Ngũ Tuần, khi Chúa Thánh Thần đến để canh tân Giáo Hội. Kể từ ngày ấy, Chúa Thánh Thần luôn hiện diện để nâng đỡ và bảo trợ Giáo Hội. Sở dĩ người tín hữu cầu xin Chúa Thánh Thần, vì họ xác tín rằng, mọi hành vi và mọi dự tính, nếu muốn thành công, cần có ơn của Chúa Thánh Thần, vì Ngài là Đấng Bảo trợ đến từ nơi Chúa Cha.

“Thày sẽ sai Đấng Bảo trợ đến với anh em” (x.Ga 16, 7). Chúa Thánh Thần đã đến để quy tụ nhóm các môn đệ đang hoang mang sợ hãi, biến đổi lòng họ và làm cho họ trở thành những nhân chứng trung kiên của Đấng Phục Sinh. Bài trích Sách Tông đồ Công vụ đã minh chứng điều đó. Phêrô là một người dân chài chất phác và ít học. Tuy vậy, nhờ ơn Chúa Thánh Thần, ông đã trở nên một con người hoàn toàn mới: can đảm, uyên bác, mạnh mẽ và khôn ngoan. Lời giảng của ông có sức thuyết phục đến nỗi trong ngày đầu tiên này, có tới ba ngàn người gia nhập Đạo.

Lịch sử Giáo Hội nói chung, cụ thể nhất là ở miền Bắc Việt Nam, cho thấy sức mạnh kỳ diệu của Chúa Thánh Thần. Trong những năm tháng khó khăn, thiếu vắng linh mục, không có lớp giáo lý, không có những hoạt động tông đồ, nhưng Chúa Thánh Thần vẫn âm thầm hoạt động. Ngài tác động nơi những ông trùm, bà quản, văn hóa rất khiêm tốn, nhưng lại mạnh mẽ lạ thường. Lý lẽ của họ rất đơn giản mà đã thuyết phục được nhiều người, cả những người lương dân và những người có chức quyền trong xã hội. Kiến thức của họ rất  sơ sài mà lại là nền tảng cho một đức tin chắc chắn. Có những cụ ông cụ bà đạo đức thánh thiện truyền lại đức tin cho con cháu chỉ bằng những lời kinh đơn sơ. Nhờ những “chứng nhân đức tin” này mà biết bao ngôi thánh đường được gìn giữ, biết bao cộng đoàn đức tin được duy trì, tồn tại …. . Chúa Thánh Thần hoạt động nơi người tín hữu và ban cho họ sức mạnh, soi sáng cho họ biết những gì cần phải làm. Giáo Hội tồn tại là nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, thông qua những con người bình dân và trung tín ấy. Là Đấng Bảo trợ, Chúa Thánh Thần vẫn đang hướng dẫn và làm cho Giáo Hội phát triển.

Và hôm nay, hai mươi thế kỷ sau sự kiện Ngũ Tuần, Ngôi Ba Thiên Chúa vẫn đang từng giờ từng phút bảo trợ Giáo Hội và làm cho Giáo Hội sống. Cũng như Chúa Thánh Thần luôn làm cho vũ trụ được sống, Ngài cũng luôn luôn thông truyền sức sống siêu nhiên cho Giáo Hội  “Ngài rút hơi thở chúng đi, chúng chết ngay, và chúng trở về chỗ tro bụi của mình. Nếu Ngài gởi hơi thở tới, chúng được tạo thành, và Ngài canh tân bộ mặt trái đất” (Tv 103,29). Nếu một ngày nào đó, không có ơn Chúa Thánh Thần nâng đỡ, vũ trụ sẽ trở về thời kỳ hỗn mang và Giáo Hội sẽ trở thành một cái xác không hồn. Chính Chúa Thánh Thần làm cho Giáo Hội của Chúa Kitô lan tỏa một vẻ đẹp diệu kỳ. Vẻ đẹp ấy thể hiện qua tình hiệp nhất giữa các tín hữu, qua sức mạnh của đức tin, qua tính linh thiêng của những nghi thức phụng vụ. Chúa Thánh Thần còn làm cho vẻ đẹp Giáo Hội rạng ngời nơi khuôn mặt và cuộc đời các tín hữu, giúp họ dấn thân hy sinh, kiên vững trung thành sống chết vì Chúa.

Sách Giáo lý của Giáo Hội công giáo đã liệt kê những biểu tượng chỉ Chúa Thánh Thần như: nước, sự xức dầu, lửa, áng mây và ánh sáng, dấu ấn, bàn tay, ngón tay, chim bồ câu. Tất cả những biểu tượng trên diễn tả những nhu cầu cần thiết để con người có thể sống  và đạt được hạnh phúc trên trần gian.

Ca Tiếp liên của phụng vụ hôm nay diễn tả những hoạt động đa dạng của Ngôi Ba Thiên Chúa. Ngài luôn thực thi sứ mạng “bảo trợ” trong suốt đời sống con người và đời sống đức tin “Nếu không có Chúa hộ phù, trong con người còn chi thanh khiết?”.

Nhờ sự bảo trợ của Chúa Thánh Thần mà các tín hữu được liên kết với nhau trong tình hiệp thông. “Tất cả chúng ta đã lãnh nhận cùng một Thần Khí duy nhất là Thánh Thần, nên một cách nào đó chúng ta được kết hợp với nhau và với Thiên Chúa. Mặc dầu chúng ta nhiều người và mặc dầu Đức Kitô đã làm cho Thần Khí của chúa Cha và của Người cư ngụ trong mỗi người chúng ta” (thánh Cyrillô thành Alexandria). Bài đọc I và bài đọc II trong Phụng vụ đều diễn tả vai trò của Chúa Thánh Thần là Đấng liên kết mọi tín hữu nên một. Lễ Ngũ Tuần hàn gắn những chia rẽ đổ vỡ của thời Baben trong Cựu ước. Nhờ tác động của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội sống động như một thân thể, gồm nhiều chi thể khác nhau, nhưng cùng chung một sức sống (Bài đọc II).

Chúa Thánh Thần là quà tặng của Đấng Phục sinh cho các môn đệ, sau khi Người từ cõi chết sống lại. Cùng với Chúa Thánh Thần, Chúa Giêsu ban cho các ông sự bình an. Chúa Thánh Thần và ơn bình an đi liền với nhau. Nói cách khác, bình an là hoa trái của Chúa Thánh Thần, và bình an cũng chính là Chúa Thánh Thần. Trong cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa Đấng Phục sinh và các tông đồ, Người cũng ủy thác cho các ông quyền tháo cởi và cầm buộc. Không chỉ quyền cầm buộc và tháo cởi, Chúa còn ban cho các ông biết bao quyền năng khác, đến nỗi các ông có thể làm được phép lạ, như chính Chúa Giêsu đã làm. Khi chúng ta được tràn đầy ơn Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ thực hiện được những “phép lạ” trong cuộc sống, đó là vượt lên sự chết, canh tân đổi mới cuộc đời để sống cuộc sống mới.

Với lễ Hiện Xuống, mùa Phục Sinh được khép lại. Tuy vậy, Đấng Phục Sinh vẫn tiếp tục hiện diện giữa chúng ta. Chúa Thánh Thần sẽ giúp chúng ta nhận ra sự hiện diện ấy, đồng thời thêm sức cho chúng ta đủ can đảm để loan báo Đấng Phục Sinh cho mọi người.

Về mục lục

THẦN KHÍ ĐỔI MỚI

Gm. Phêrô Nguyễn Văn Khảm

  1. Tường thuật biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống, thánh Luca viết : “Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng một cơn gió mạnh từ trờiùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang họp” (Cv 2,1-2). Xem ra đây chỉ là một câu văn bình thường, không đáng quan tâm, nhưng nếu đối chiếu với câu đầu tiên trong sách Sáng Thế thì người đọc sẽ khám phá nội dung hết sức quan trọng. Ngay những dòng đầu tiên của bộ Kinh Thánh, sách Sáng Thế viết : “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng, chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và thần khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước” (St 1,1-2). Bản tiếng Việt dịch là “thần khí Thiên Chúa”, trong bản Do Thái là ruah, có nghĩa là khí, gió, hơi thở. Đây cũng là từ được thánh Luca sử dụng khi tường thuật biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống : “một cơn gió mạnh từ trời (ruah, pneuma)”.

Như thế, thánh Luca muốn nói biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống là khởi đầu công trình tạo dựng mới. Cũng vì thế trong phần đáp ca sau bài đọc 1 hôm nay, cộng đoàn phụng vụ hát lên : “Lạy Chúa, xin gửi thần khí tới để đổi mới bộ mặt trái đất”. Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới bộ mặt trái đất.

  1. Hội Thánh cử hành lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống năm 2020 trong bối cảnh chưa từng có : đại dịch Covid-19 gây ra những thiệt hại hết sức nặng nề, không những về số người bị nhiễm virus và số tử vong rất lớn, mà còn phải kể đến những hậu quả lâu dài về mọi mặt trong đời sống xã hội, không chỉ riêng ở một quốc gia nào nhưng trên toàn thế giới. Chính vì thế, cùng với những nỗ lực ngăn chặn sự lây lan virus, bảo vệ mạng sống người dân, bắt đầu nổi lên nhiều lời kêu gọi đổi mới : thế giới không thể tiếp tục như cũ, phải đổi mới, đổi mới vận hành kinh tế, đổi mới tổ chức xã hội, đổi mới chính trị. Cũng từ đó, câu hỏi quan trọng xuất hiện : Chúa Thánh Thần là Đấng đổi mới bộ mặt trái đất, vậy Ngài đổi mới cái gì, đổi mới thế nào? Người tin Chúa có thể góp phần ra sao vào công cuộc đổi mới của Chúa Thánh Thần?

Lời Chúa không giới thiệu bất cứ kế hoạch đổi mới nào nhưng chỉ cho thấy công trình đổi mới của Chúa Thánh Thần là đổi mới từ bên trên và từ bên trong.

Đổi mới từ bên trên : khi kể về công trình tạo dựng thưở ban đầu, sách Sáng Thế viết, “Thần khí Chúa bay lượn trên mặt nước”(St 1,2); và khi tường thuật biến cố Hiện Xuống, sách Công Vụ mô tả, “Gió mạnh từ trời ùa vào nhà” (Cv 2,1).  Cả hai bản văn đều diễn tả tác động từ bên trên, từ Thiên Chúa, vì chính Chúa là chủ thể đổi mới trái đất theo định hướng từ thưở ban đầu, tức là một thế giới trong đó con người sống hài hòa với Đấng Tạo Hóa, với nhau, với thiên nhiên vạn vật.

Lịch sử thế giới đã chứng kiến nhiều nỗ lực đổi mới xã hội, tiếc thay chỉ là những nỗ lực từ bên dưới, hành động phát xuất từ căm thù và bạo lực, thế nên người ta nhân danh đổi mới, xây dựng nhân loại mới để tiến hành những cuộc chiến tranh đẫm máu, hủy diệt lẫn nhau. Cuối cùng, đổi mới chỉ có nghĩa là một cuộc đổi ngôi : giai cấp bị trị trở thành giai cấp thống trị mới và tình hình cũng không sáng sủa gì hơn, có khi còn tệ hại hơn trước.

Đổi mới từ bên trong : bài Tin Mừng theo thánh Gioan kể rằng : “Chúa thổi hơi vào các ông và bảo, anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Hành động này của Chúa Kitô Phục sinh nhắc chúng ta nhớ lại việc Thiên Chúa tạo dựng con người đầu tiên : “Chúa là Thiên Chúa lấy bụi từ đất nặn ra con người, thổi sinh khí vào lỗ mũi, và nắm đất trở nên một sinh vật” (St 2,7). Thổi hơi luôn luôn là thổi hơi vào bên trong, hơi thở rất nhẹ, nhưng làm nên sự sống và chính là nguồn sống, hết thở là hết sống. Công trình đổi mới của Chúa Thánh Thần là đổi mới từ bên trong chứ không phải chỉ ở bên ngoài, nghĩa là đổi mới từ trong tâm hồn, cách nhìn, cách nghĩ, rồi tác động lên cách sống, cách thiết lập những tương quan xã hội.

Lịch sử thế giới cũng ghi lại rất nhiều cuộc cách mạng để xây dựng cơ cấu xã hội mới, nhưng vì chỉ đổi mới cơ cấu bên ngoài mà tâm hồn không đổi mới nên cuối cùng chính con người lại biến xã hội mới đó thành cơ chế áp bức, có khi còn  tệ hại hơn trước.

  1. Con người là hữu thể có ý chí tự do và Chúa Thánh Thần tôn trọng tự do của chúng ta, vì thế Kitô hữu được mời gọi sử dụng tự do của mình mà cộng tác với Ngài trong công cuộc đổi mới.

Vì Chúa Thánh Thần đổi mới từ bên trên, nên chúng ta phải cầu nguyện để đón nhận ơn ban, xin ơn khôn ngoan để phân định đâu là thánh ý Thiên Chúa, xin ơn can đảm để sống và làm theo Thánh Ý.

Vì Chúa Thánh Thần đổi mới từ bên trong, nên chúng ta phải cộng tác với Ngài để thanh tẩy tâm hồn, làm phát sinh những hoa quả của Thần Khí như thánh Phaolô nói : “Hoa quả của Thần khí là bác ái, vui tươi, bình an, nhẫn nhục, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ” (Gal 5,22).

Hãy bắt đầu từ chính bản thân mình. Chỉ đòi hỏi người khác và xã hội đổi mới mà chính mình không chịu đổi mới, e rằng chỉ là ngụy biện và giả hình. Vì thế, hãy xin Chúa Thánh Thần ngự đến đổi mới tâm hồn và con người chúng ta, và biến chúng ta thành khí cụ của Ngài trong công trình đổi mới thế giới. Amen.

Về mục lục

HOA TRÁI CHÚA THÁNH THẦN

L.m Giuse Hoàng Kim Toan

Chúa Thánh Thần biểu tượng nước, không khí, hơi thở, bồ câu, lửa… Các biểu tượng ấy nói lên sự đa dạng va phong nhiêu của Chúa Thánh Thần. Với Chúa Thánh Thần trong bí tích thanh tẩy, chúng ta cùng nhìn lại bí tích rửa tội đã được lãnh nhận.

Người Kitô hữu được mời gọi suốt hành trình là sống bí tích rửa tội.

Chúa Thánh Thần thanh tẩy tâm hồn người tín hữu. Đối với trẻ sơ sinh, Chúa Thánh Thần ban sự sống thần linh trong sự sống thân xác của trẻ, Đấng thanh tẩy tội tổ tông, một tội lưu truyền trong nhân loại, là một tội gốc, thời Covid người ta gọi đó là ca nhiễm số 0. Nhiều người nói tội của trẻ mới sinh có tội gì đâu mà rửa tội? Một sự liên đới trong tội cũng liên đới trong ân sủng. Cũng giống như mỗi người sinh ra đều thừa hưởng cả cái xấu cái tốt của người đi trước.

Thanh tẩy có nghĩa là sinh lại mới hoàn toàn. Chúa Thánh Thần có quyền năng tha tội, đưa người tín hữu sinh lại trong sự sống tinh tuyền. Dù đã được thanh tẩy mọi tội lỗi khi chịu bí tích thanh tẩy, nhưng con người Kitô vẫn sống trong sự yếu đuối mỏng giòn vẫn cần sinh lại luôn trong Chúa. Chúa Thánh Thần làm cho thân xác con người không còn là nơi chứa chất tội lỗi, để là nơi Đền Thờ của Thiên Chúa cư ngụ và sống trong Chúa Kitô và trong Chúa Thánh Thần.

Trong thư Thánh Phêrô tông đồ, người đã chia sẻ về đời sống thần linh của mình khi đón nhận Chúa Thánh Thần trong ngày lễ Hiện Xuống: “Bởi chưng quyền năng thần linh của Ngài đã thí ban cho ta tất cả những gì cần cho sự sống và đạo hạnh, nhờ ở trí tri về Ðấng đã kêu gọi ta do bởi vinh quang uy đức của Ngài. Nhờ đó những lời hứa vĩ đại đã được ban xuống cho ta, ngõ hầu nhờ vậy anh em được thông chia cùng một bản tính thần linh, thoát cảnh đồi bại do bởi đam mê thế tục.” (2 Pet 1, 3 – 4).

Đời sống đạo hạnh là hoa trái của Chúa Thánh Thần trong đời sống người Kitô hữu:  “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nại, nhân từ, lương thiện, hiền hòa, khoan dung, trung tín, khiêm nhu, tiết độ và thanh khiết” (Gal 5,22-23). Những đức tính này giúp cho người Kitô hữu sống trong tự do đích thật, và luôn ý thức Chúa sống trong họ, như Thánh Phaolô quả quyết: “Tôi sống không phải tôi sống mà la Chúa sống trong tôi” (Gal 2, 20). Đời sống như thế không dựa vào điều gì khác để có thể tự hào về những gì mình có thuộc về trần gian, vì tất cả Chúa là gia nghiệp đời tôi.

Chúa Thánh Thần làm cho người Kitô hữu càng ngày càng nhận biết Chúa hơn đang sống trong mình. Sự hiểu biết không hoàn toàn đến từ sự cố gắng của con người, nhờ Chúa thánh thần soi sáng, giáo huấn, trợ giúp, con người tiệm tiến trong sự nhận biết Thiên Chúa.

Thánh Augustine cầu nguyện xin Chúa “Biết Chúa để con biết con”. Nhờ Chúa Thánh Thần, biết con là một phàm nhân, biết con là người là một tội nhân. Cái “biết”  quan trọng này là sự nhận biết: “Người đã yêu thương tôi, và phó nộp minh vì tôi” (Ga 2, 20). Xác tín thật rõ ràng, không còn mông lung, đại chúng. Chính vì tôi, yêu thương tôi, và phó nộp vì tôi. Kinh nghiệm biết Chúa về chiều sâu của tâm hồn, của kinh nghiệm xuyên qua từng ngày sống và ngay cả những lầm lỗi của chính mình, nhận biết Chúa yêu thương tôi.

Chúa Giêsu phán bảo: “Hãy xin sẽ được, hãy gõ sẽ mở cho…Người sẽ ban Thánh Thần cho những kẻ xin Người” (lc 11, 9 – 13).

Xin Chúa ban Chúa Thánh Thần xuống trên chúng con, giúp chúng con sống hoàn thành ơn gọi trong bí tích rửa tội.

Về mục lục

LỄ NGŨ TUẦN-CỘNG ĐOÀN YÊU THƯƠNG ĐƯỢC THÀNH LẬP

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Lần giở lại sách Tông đồ công vụ chúng ta thấy: Vào ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống trên các tông đồ, tức thì các ngài bắt đầu nói các thứ ngôn ngữ khác để rao giảng Tin Mừng cho muôn dân đến từ khắp các nước trong thiên hạ. Ai cũng hiểu theo ngôn ngữ của mình. Ai cũng có thể đón nhận Tin mừng của các tông đồ rao giảng. Cốt lõi của tin mừng không dừng lại ở nói tiếng lạ mà là việc các tông đồ thiết lập một cộng đoàn yêu thương sau lời rao giảng của các ngài.

Theo sách Tông đồ công vụ 2, 45: “Họ bán gia tài mà phân phát cho nhau, tùy theo nhu cầu của mỗi người”. Mỗi người tín hữu theo Chúa Ky-tô thì đều coi anh em như chính mình vậy. Họ coi nhu cầu của anh em là nhu cầu của tôi. Khi anh chị em cần thì tôi vui lòng cho họ để thỏa mãn nhu cầu của họ.  Đây là hoa trái của Chúa Thánh Thần đã làm cho Hội Thánh. Chính Ngài đã làm cho mọi người đồng tâm nhất chí với nhau để rồi luôn bao bọc chia sẻ cho nhau trong khả năng của mình. Có thể nói, hoa trái của Chúa Thánh Thần chính là sự hiệp nhất yêu thương đến nỗi coi người lân cận như chính mình.

Tình yêu thương tha nhân như chính mình đòi hỏi con người không thể yêu nhau bằng lời nói suông mà còn phải cả sự dấn thân chia sẻ cho nhau. Bởi vì, nếu chúng ta được liên kết với nhau bởi quyền năng của Thánh Thần, thì bất cứ việc gì ảnh hưởng đến anh cũng ảnh hưởng đến tôi. Trongtình yêu không thể nhìn thấy một người đói lả chỉ được chúng ta dừng lại và nói “thật tội nghiệp”, hay trên đường đi chúng ta bắt gặp một người anh em bị tai nạn và dừng lại an ủi rằng: “Tội nghiệp quá! Tôi sẽ cầu nguyện cho anh.” Rồi tôi cứ tiếp tục công việc của tôi, tôi quên đi chuyện của anh. Nếu chỉ nói thế thôi thì chúng ta chưa coi tha nhân “như là chính mình”?

Cám ơn Chúa nơi Giáo hội vẫn còn những cộng đoàn yêu thương nhau hết lòng. Họ đã coi tha nhân như là chính mình để rồi luôn hướng tới những con người khổ đau trong hoạn nạn. Trong đại dịch Covid 19 ta thấy nhiều giáo xứ đã phát khẩu trang miễn phí cho cộng đoàn khi tham dự thánh lễ. Họ không để ai trong giáo xứ của mình phải thiếu thốn nhưng luôn đủ gạo đủ tình thương cho anh chị em  của mình. Và khi tình hình phải cách ly ta vẫn thấy nhiều giáo xứ vẫn phát gạo, phát cơm cho những anh chị em công nhân mất việc, cho những người bán vé số , đánh giày, lượm lặt ve chai . . . để không ai bị đói trong khu vực của mình.

Theo Giáo huấn của Hội thánh thì chúng ta được liên kết với nhau nên một thân thể duy nhất của Đức Ky-tô là nhờ Chúa Thánh Thần. Mà trong một thân thể thì một ngón tay đau , một ngón chân đau thì cả thân thể đều chia sẻ với nỗi đau của nhau. Đó là lý do người Công giáo phải luôn sống tình yêu với người lân cận trong mọi hoàn cảnh của cuộc sống.

Chúa Giê-su đã đồng hoá mình với tất cả anh chị em khổ đau , cũng là để mời gọi chúng ta nên một với Ngài trong tình yêu với người khổ đau. Xin cho mỗi người chúng ta đã được nên một với Đức Ky-tô nhờ Chúa Thánh Thần cũng biết sống yêu thương người lân cận như chính mình. Và khi chúng ta biết sống yêu thương người lân cận là chúng ta đang sống cho Chúa và làm chứng nhân cho Ngài.

Nguyện xin Thánh Thần đến uốn nắn và dạy chúng ta biết sống tình thân với Chúa, trong giáo hội và dấn thân chia sẻ đức ái với anh em.Xin cho cộng đoàn đức tin nơi các giáo xứ mãi mãi là dấu chỉ của Hội Thánh Chúa khi biết yêu thương và đùm bọc lẫn nhau. Amen

Về mục lục

HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN

Bông hồng nhỏ

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Do thái. Thầy Giêsu đã chết, các ông rơi vào nỗi sợ hãi kinh hoàng: người Do thái sẽ tìm bắt và giết các ông như cách họ đã làm với Thầy Giêsu. Mất Thầy, cuộc đời các ông rơi vào tăm tối, lòng các ông tràn ngập ưu phiền, đầy xao xuyến và sợ hãi.

Giữa lúc ấy, Chúa Giêsu phục sinh đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19). Sự xuất hiện bất ngờ của Thầy khiến lòng các ông vui sướng, các ông mừng rỡ vì có Thầy ở bên. Ở bên Thầy, lòng các ông được bình an. Các ông được xem thấy và đụng chạm vào đôi tay và cạnh sườn của Thầy. Các dấu đinh trên tay và dấu đòng đâm thâu nơi cạnh sườn của Thầy nhắc các ông về tình thương bao la của Thầy, nó cho các ông nhìn thấy chính mình, về sự phản bội, sự nhát đảm và cả về nỗi sợ hãi mà các ông đã phải đối diện, nhất là các ông hiểu rằng mình cần Chúa biết bao. Thầy vẫn như ngày nào, gần gũi và yêu thương từng người cách trìu mến. Người thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Hơi thở là sự sống, hơi thở của Thầy còn là sự sống thần linh, là chính Chúa Thánh Thần. Đón nhận Chúa Thánh Thần là các ông đón nhận sự sống mới, để đổi mới tâm hồn và đón nhận sự bình an sâu thẳm mà chính Chúa Giêsu ban tặng.

 Mỗi ngày, ta vẫn được đón nhận Chúa Thánh Thần. Ngài luôn hiện diện bên ta, ngay trong lòng ta cách âm thầm nhưng vô cùng mạnh mẽ. Ngài là Thánh Thần lửa mến, đốt lòng ta yêu mến Chúa, chọn Chúa trên hết mọi sự. Ngài là Thánh Thần tình yêu, đốt cháy nơi tâm hồn ta một ngọn lửa yêu thương mãnh liệt, để ngay cả những khi ta tưởng mình không thể yêu thương ai đó thì chỉ cần biết buông mình cho Ngài thì chính Ngài sẽ yêu thương trong ta. Ta có thể cảm nhận được tình yêu của Ngài ngay trong nhịp sống đời thường, giữa những biến cố và trong những phút giây lặng lẽ của cuộc đời. Tình yêu sẽ hóa giải những khúc mắc trong cuộc sống giữa ta và người anh chị em, hãy kiên nhẫn để Chúa Thánh Thần làm việc. Chúa Giêsu đã ban cho ta Thánh Thần của Ngài, đồng thời Ngài ban lệnh truyền yêu thương này: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20, 23). Tình yêu dẫn đến sự tha thứ và hòa giải, ta sẽ trở nên sứ giả hòa bình của Thiên Chúa. Hãy bắt đầu kiến tạo hòa bình ngay trong chính tâm hồn ta bằng việc thiết lập mối tương quan cá vị với Chúa Giêsu cách mật thiết, chính Ngài sẽ đổ tràn Thánh Thần Tình yêu trên ta.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa đã muốn ban Thánh Thần của Ngài cho con để cuộc đời con được đổi mới. Mỗi ngày, xin Chúa khơi dậy nơi tâm hồn con lòng khao khát được đón nhận Thánh Thần và biết nhận ra sự hiện diện của Ngài trong đời sống con, ngay trong chính tâm hồn con và giữa anh chị em con. Amen.

Về mục lục

ĐẤNG BẢO TRỢ ÂM THẦM

Anna Cỏ May

 “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”

Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, trong căn phòng, các cửa đều đóng kín, các môn đệ quy tụ lại với nhau trong tâm trạng sợ hãi người Do thái. Họ không dám đi đâu hay xuất hiện ở bất cứ nơi nào, cũng không dám đối diện với những ánh mắt, cử chỉ và thái độ khinh chê của dân Do thái sau khi Thầy đã bị đóng đinh. Nhưng sau ngày đó, họ đã bước ra được khỏi căn phòng bóng tối ấy và ra đi rao giảng tất cả những gì đã lãnh nhận từ Thầy Giêsu. Nhờ đâu mà các Tông đồ được như vậy?

Trong lúc các môn đệ chìm trong nỗi sợ hãi, Chúa Giêsu đã hiện ra với các môn đệ. Ngài trao ban bình an và thổi hơi vào các ông và nói: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Chúa Thánh Thần là Đấng mà Chúa Giêsu đã xin Chúa Cha ban cho các môn đệ. Ngài sống với Chúa Cha trong tâm tình con thảo nên dầu làm việc gì Ngài cũng thân thưa cùng với Chúa Cha. Vì vậy, việc trao ban Chúa Thánh Thần cho các môn đệ cũng không là ý của riêng Ngài. Các môn đệ sẽ được hưởng sự sống trong Chúa Thánh Thần. Chúa Thánh Thần là Đấng biến đổi các ông, để các ông không còn sợ hãi trước người Do thái hay lo lắng gì cho tương lai. Thay vào đó, các ông trở nên những con người tràn đầy bình an, lòng can đảm, ơn thông minh và hiểu biết (x. Ga 14,26). Ngoài ra, các ông còn được Chúa Thánh Thần trao ban sự khôn ngoan của Thiên Chúa, lòng kết hiệp với Thiên Chúa qua việc trung thành với sứ mạng chuyên lo cầu nguyện và phục vụ Lời Chúa (x. Cv 6,4). Chúa Thánh Thần giúp các ông được thông dự vào quyền năng của Thiên Chúa: “Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,23). Thánh Giám mục Syrilô đã viết: “Thánh Thần ngự trong ai thì Người biến đổi kẻ ấy để họ sống một nếp sống khác và phục hồi trong cuộc sống mới” (Kinh Sách). Như vậy, nhờ Chúa Thánh Thần và trong Chúa Thánh Thần, các môn đệ đã được biến đổi và sống một cuộc sống mới, ra đi đến với mọi người, làm cho muôn người yêu mến Chúa và trở thành môn đệ của Chúa, cùng làm vinh danh Chúa Cha.

Mỗi người kitô hữu chúng ta được lãnh nhận Chúa Thánh Thần. Vì chúng ta là những con người yếu đuối và giới hạn, không thể hiểu được mầu nhiệm Thiên Chúa Ba Ngôi, mầu nhiệm Ngôi Hai Nhập Thể, chúng ta cần được Chúa Thánh Thần ngự đến soi sáng, nâng đỡ đức tin cho chúng ta. Nhưng chúng ta có nhớ đến Ngài không? Chúng ta có cộng tác với ơn Ngài ban không? Hay chúng ta đã lãng quên và khước từ Ngài? Trong ngày lễ Chúa Thánh Thần Hiện Xuống, chúng ta hãy tỏ lòng sám hối và cầu xin Ngài đến ngự trong chúng ta, biến đổi và trợ giúp chúng ta bước đi trên con đường về quê trời. Ngài chính là Đấng Bảo Trợ mà Chúa Giêsu đã trao ban cho chúng ta trên cuộc đời lữ hành (x.Ga 14,16).

Lạy Thiên Chúa toàn năng và nhân hậu, xin cử Thánh Thần ngự đến trong tâm hồn chúng con, để biến chúng con thành môn đệ của Chúa. Xin khơi dậy nơi tâm hồn chúng con lòng khao khát được Chúa Thánh Thần ngự đến, vì chúng con đã bao lần lãng quên hay khước từ Ngài. Chúng con cầu xin nhờ Đức Giêsu Kitô Chúa chúng con. Amen.

Về mục lục

LỄ CHÚA THÁNH THẦN HIỆN XUỐNG.

Jorathe Nắng Tím

Khi Chúa Thánh Thần hiện xuống vào “ngày lễ Ngũ Tuần, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động như tiếng gió mạnh uà vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy những hình lưỡi giống như lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,1-4).

Họ đây là nhóm các Tông Đồ. “Tất cả đều đồng tâm nhất trí, chuyên cần cầu nguyện” (Cv 1,14), và vừa rút thăm trúng ông Mátthia, người “được kể thêm vào số mười một Tông Đồ” (Cv 1,26).

Thực vậy, biến cố Chúa Thánh Thần hiện xuống đã hoàn thành mỹ mãn lịch sử của Israel, dân riêng Thiên Chúa, và từ nay mở ra một kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của Giáo Hội mà Đức Giêsu đã thiết lập trên nền móng các Tông Đồ: “Anh là Phêrô, nghiã là Tảng Đá, trên tảng đá này, Thầy sẽ xây Hội Thánh của Thầy…” (Mt 16,18).

Đây là mấu chốt quan trọng trong lịch sử cứu độ nhân loại của Thiên Chúa, với sự ra đi rao giảng Đức Giêsu chịu đóng đinh đã sống lại dưới sự hướng dẫn và phù trợ của Chúa Thánh Thần, Đấng mà Đức Giêsu đã hứa xin Chúa Cha ban cho các Tông Đồ trước khi chịu khổ hình và tử nạn: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật” (Ga 14,16-17), “Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).

  1. Chúa Thánh Thần huớng dẫn Giáo Hội đến Hiệp Nhất trong sự tôn trọng các khác biệt:

Khi ban cho các Tông Đồ ơn nói các tiếng lạ, Chúa Thánh Thần muốn Giáo Hội Đức Giêsu hiệp nhất trong sự tôn trọng các khác biệt của mọi thành phần trong Giáo Hội: một Giáo Hội được sai đến với muôn dân, nói với mọi dân tộc bằng mọi ngôn ngữ, một Giáo Hội lên đường đi khắp nơi, đến tận hang cùng ngõ hẻm để loan báo Tin Mừng, một Giáo Hội không xây riêng cho mình pháo đài và khép kín để kiêu căng như ước mơ của những người xây tháp Babel trong Cựu Ước: “Thuở ấy, mọi người đều nói một thứ tiếng và dùng những từ như nhau. Trong khi di chuyển ở phía đông, họ tìm thấy một đồng bằng ở đất Sinai và định cư tại đó. Họ bảo nhau: Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên mặt đất” (St 11,1-4).

Hình ảnh các Tông Đồ ai nấy nhận lưỡi lửa của Thánh Thần, và “bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tùy theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2,4) đã nói lên tính hiệp nhất nhưng không đồng nhất, khi cùng nhận từ một Thánh Thần duy nhất những đặc sủng, khả năng khác nhau, và hoàn toàn khác với số phận của những người xây tháp Babel với tham vọng “hiệp nhất nhưng đồng nhất » đã bị Đức Chúa “làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa” (St 11,7), và kế hoạch kiêu căng của chúng đã đổ vỡ khi “Đức Chúa phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất” (St 11,9).

Lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống đã khai trương một Giáo Hội đến với muôn dân, nói với mọi dân tộc, hợp nhất mọi người với mọi khác biệt trong Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại.

  1. Chúa Thánh Thần là Tình Yêu của Ba Ngôi Thiên Chúa luôn hoạt động trong tâm hồn người đi theo Đức Giêsu:

Cảnh tượng “bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ tập” (Cv 2,2), nhắc nhớ hình ảnh “sấm chớp, mây mù dày đặc trên núi… Cả núi Xinai nghi ngút khói, vì Đức Chúa ngự trong đám lửa mà xuống; khói bốc lên như khói lò lửa và cả núi rung chuyển mạnh” (Xh 19,16.18), khi Thiên Chúa ban giao ước cho dân riêng của Ngài.

“Khi nghe tiếng sấm sét, tiếng tù và, khi thấy ánh lửa và núi bốc khói, toàn dân sợ hãi run rẩy…” (Xh 20,18), và Mười Điều Răn được khắc trên bia đá.

Khác với cảnh tượng dân riêng nhận Giao Ước ở Xinai, Chúa Thánh Thần hiện xuống, tuy có “tiếng động như tiếng gió mạnh ùa vào”, nhưng không làm các Tông Đồ sợ, trái lại, “ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần”. Đó là các ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, ơn kính sợ Thiên Chúa, kèm theo các đặc sủng để phục vụ và xây dựng Hội Thánh.

Cũng thế, khác với Mười Điều Răn đã  được khắc vào đá, Chúa Thánh Thần hiện xuống đã ghi Luật Tình Yêu của Đức Giêsu vào trái tim mỗi người, và làm hoan lạc tâm hồn bằng hoa trái ngon ngọt của Tình Yêu là “nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc, không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù, không mừng khi thấy sự gian ác, nhưng vui khi thấy điều chân thật” (1 Cr 13,4-6).

Nhờ thế, các Tông Đồ đã mạnh dạn, hân hoan lên đường rao giảng, làm chứng Đức Giêsu bất chấp mọi gian truân, thử thách, bách hại.

  1. Chúa Thánh Thần hồi sinh và đổi mới thế giới:

Thánh Thần là Đấng đã bay là là trên nước khi thế giới được tạo dựng cũng là Đấng sẽ hồi sinh thế giới đã chết bằng một tạo dựng mới, ở đó Ngài ban cho dân Chúa niềm hy vọng và sự sống như ngôn sứ Êdêkien đã tuyên sấm: “Các xương khô kia ơi, hãy nghe lời Đức Chúa. Đức Chúa là Chúa Thượng phán thế này với các xương ấy: Đây Ta sắp cho thần khí nhập vào các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Ta sẽ đặt gân trên các ngươi, sẽ khiến thịt mọc trên các ngươi, sẽ trải da bọc lấy các ngươi. Ta sẽ đặt thần khí vào trong các ngươi và các ngươi sẽ được sống. Bấy giờ các ngươi sẽ nhận biết chính Ta là Đức Chúa” (Ed 37,4-6).

Chính Thánh Thần làm cho “người chết được hồi sinh và đứng thẳng lên: Đó là cả một đạo quân lớn, đông vô kể” (Ed 37,10), một hình ảnh của dân Chúa, như Ítraen đã được Ngài mở huyệt, hồi sinh và đưa  về lại đất hứa, dù họ đã như những xương cốt đã khô, và niềm hy vọng đã tàn rụi, tiêu tan (x. Ed 37,11-14).

Với lễ Hiện Xuống, Chúa Thánh Thần làm cho mọi thụ tạo được sống, ban lại sự sống cho những tâm hồn đã chết, và hồi sinh những trái tim đã héo úa, tuyệt vọng. Là Đấng ban sự sống, Ngài làm sống Giáo Hội, đổi mới đời sống người tín hữu và làm cho mọi sự nên mới để có một “trời mới, đất mới”, như ngôn sứ Giôen đã tuyên sấm: “Ta sẽ đổ thần khí Ta trên hết thảy người phàm. Con trai con gái các ngươi sẽ trở thành ngôn sứ, người già được báo mộng, thanh niên được thị kiến” (Ge 3,1). Chính tông đồ trưởng Phêrô đã khẳng định lại điều này khi ngài giảng cho dân chúng tại Giêrusalem trong ngày lễ Hiện Xuống (Cv 2,14-21).

  1. Chúa Thánh Thần làm cho chúng ta được trở nên con cái Thiên Chúa:  

Thánh Phaolô qủa quyết: “Chẳng có ai ở trong Thần Khí Thiên Chúa mà lại nói: “Giêsu là đồ khốn kiếp!”; cũng không ai có thể nói rằng: “Đức Giêsu là Chúa, nếu người ấy không ở trong Thần Khí” ( 1 Cr 12,3).

Cũng vậy, chính Thần Khí làm cho chúng ta được trở nên con cái, mà “không còn phải là nô lệ nữa” (Gl 4,7) như thánh tông đồ dân ngoại viết cho giáo đoàn Galát: “Để chứng thực anh em là con cái, Thiên Chúa đã sai Thần Khí của Con mình đến ngự trong lòng anh em mà kêu lên: ‘Ápba, Cha ơi’!” (Gl 4,6).

“Hơn nữa, lại có Thần Khí giúp đỡ chúng ta là những kẻ yếu hèn, vì chúng ta không biết cầu nguyện thế nào cho phải; nhưng chính Thần Khí cầu thay nguyện giúp chúng ta, bằng những tiếng rên xiết khôn tả. Và Thiên Chúa, Đấng thấu suốt tâm can, biết Thần Khí muốn nói gì, vì Thần Khí cầu thay nguyện giúp cho dân thánh theo đúng ý Thiên Chúa” (Rm 8,26-27).

  1. Chúa Thánh Thần cùng với Giáo Hội lên đường truyền giáo:

Giáo Hội không thể là Giáo Hội truyền giáo, nếu không có Chúa Thánh Thần, và nhà truyền giáo không thể loan báo Tin Mừng, làm chứng Đức Giêsu, nếu không có Chúa Thánh Thần ở cùng, bởi chính Đức Giêsu phục sinh, khi hiện ra với Nhóm Mười Một, sau khi ban Bình An cho các ông đã nói: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em. Nói xong, Người thở hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giữ” (Ga 20,21-23).

Có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội an tâm lên đường, hăng say rao giảng, kiên gan làm chứng. Có Chúa Thánh Thần, Giáo Hội luôn tràn đầy sức sống, tình yêu, bình an, và hy vọng trên đường đến với muôn dân như ý muốn của Đức Giêsu. Và với ơn của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội sẽ trung thành và hoàn thành sứ vụ được trao phó.

Lậy Chúa Thánh Thần, xin hãy đến và đốt nóng tâm hồn nguội lạnh của chúng con, như đã cho “lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần” trong ngày lễ Hiện Xuống. Xin hồi sinh và thánh hoá chúng con để chúng con được trở nên nghiã tử của Thiên Chúa, để cùng với tất cả những người được Chúa kêu gọi là Giáo Hội, chúng con phấn khởi lên đường loan báo Tin Mừng “Thiên Chúa yêu thương nhân loại” dưới sự hướng dẫn và ơn trợ giúp của Thánh Thần Tình Yêu.

Về mục lục

SAY

Trầm Thiên Thu

Thánh Thần Hiện Xuống Canh Tân Thế Giới

Thần Khí Trao Ban Đổi Mới Tâm Hồn

Chúa Thánh Thần tác động mạnh mẽ nên con người biến đổi hoàn toàn, không chỉ khác thường mà rất lạ lùng, vì họ thông minh đột xuất. Thật vậy, khi thấy một số người “nói tiếng lạ,” người ta bàn tán: “Mấy ông này say bứ rồi!” (Cv 2:13) Có nhiều dạng say, nhưng khi nói say thì người ta thường nghĩ tới dạng say men rượu hoặc bia. Say là trạng thái “không bình thường” ở một con người, khiến người ta suy yếu. Tinh thần và thể lý khác nhau nhưng vẫn liên quan với nhau.

Say là một dạng điên nhẹ, say rượu bia là một dạng điên khùng, say tình là si tình – và chắc chắn không ai si tình bằng Thiên Chúa, vì Chúa Giêsu chết cho những người tội lỗi và ghét Ngài. Văn hào William Shakespeare ví von: “Một chút ái tình cũng như một chút rượu mạnh, cái gì quá cũng làm người ta mắc bệnh.” Si tình thì mới hóa tương tư – loại bệnh không ai trị được, chỉ có “đối tác” mà thôi.

Lợi và hại là hai thứ trái ngược, và thường thì “được nọ, mất kia.” Samuel Johnson xác định: “Một trong những bất lợi của rượu là nó khiến người ta nhầm lẫn ngôn từ với tư duy.” Ngày Lễ Ngũ Tuần, những người “nói tiếng lạ” mà không bất lợi, hoàn toàn hữu ích: Nói về Chúa và nói với Chúa. Họ “say” thật, say tới bến chứ chẳng ngà ngà hoặc là đà, thế nhưng chắc chắn không gì tuyệt vời hơn dạng “say Chúa” như vậy!

Chính Chúa Giêsu đã hứa với các môn đệ trước khi vì “say tình” mà chấp nhận đau khổ và cái chết: “Thầy sẽ xin Chúa Cha và Người sẽ ban cho anh em một Đấng Bảo Trợ khác đến ở với anh em luôn mãi. Đó là Thần Khí sự thật.” (Ga 14:16-17a) Chúa hứa thì chắc chắn Chúa ban, nhưng bổn phận của chúng ta vẫn phải cầu xin: “Veni Sancte Spiritus! Lạy Chúa Thánh Thần, xin ngự đến!” Và tín nhân sẽ tràn đầy hạnh phúc khi “say” Thần Khí.

Là tín nhân Kitô giáo – cách riêng là tín nhân Công giáo, ai cũng được biết rằng Chúa Thánh Thần là Thiên Chúa Ngôi Ba, được tôn xưng với nhiều danh hiệu: Thần Khí Sự Thật, Thánh Linh, Thánh Thần, Linh Khí, Đấng An Ủi, Đấng Bảo Trợ, Đấng Thánh Hóa, Đấng Canh Tân,… Ngài xuất hiện qua hình chim bồ câu, lửa, nước, và gió. Riêng về gió rất kỳ lạ, có mà không ai thấy, chỉ “thấy” gió qua vật khác – cây, mây, vải,… Chúng ta có thể cảm nhận mà không thể đụng chạm.

Chúa Thánh Thần rất quan trọng trong cuộc đời chúng ta, vì Ngài là Thần Khí Sự Sống. Ngài quan trọng đến nỗi mà Chúa Giêsu đã xác định: “Ai nói phạm đến Thánh Thần thì chẳng đời nào được tha, mà còn mắc tội muôn đời.” (Mc 3:29; Lc 12:10) Mọi tội đều được tha, nhưng tội phạm tới Chúa Thánh Thần thì mãi mãi không được tha, nghĩa là “tội cố chấp.” Không chịu nhận mình sai mà sám hối thì ai giúp được gì?

Như chúng ta đã biết rõ, khi đề cập Chúa Thánh Thần, chúng ta quen nhắc tới “bảy ơn Chúa Thánh Thần” – ơn khôn ngoan, ơn hiểu biết, ơn lo liệu, ơn sức mạnh, ơn thông minh, ơn đạo đức, và ơn kính sợ Chúa. Cách nói quen thuộc đó do quan niệm của Kinh Thánh cho rằng số 7 là con số kỳ diệu. Chúng ta cũng nói Chúa Thánh Thần có sứ vụ thánh hóa, Ngài luôn tác động trong mỗi người, và chúng ta là đền thờ Chúa Thánh Thần. (x. 1 Cr 3:16) Chúa Giêsu đã về trời để Chúa Thánh Thần đến ở với chúng ta cho đến tận thế, và Ngài không ngừng hoạt động.

Mặc dù Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng trong cuộc đời của mỗi chúng ta, thế nhưng chúng ta lại thường xuyên quên lãng Ngài. Như lời nhắc nhở, trong các giờ phụng vụ, Giáo Hội luôn cầu xin Chúa Thánh Thần ngự đến và thánh hóa mọi sự ngay từ đầu để có hiệu quả đúng theo Ý Chúa, bắt đầu các giờ kinh đều cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba.

Khi đến ngày lễ Ngũ Tuần, đúng như lời Đức Kitô đã hứa trước khi về trời, mọi người đang tề tựu ở một nơi, bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà, nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi giống như LƯỠI LỬA tản ra đậu xuống từng người một. Và ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho. (Cv 2:1-4) Thật vậy, mỗi người đều có khả năng riêng – người được ơn này, kẻ được ơn khác, không ai giống ai, không ai bất tài vô dụng như người ta quan niệm. Tài năng riêng của mỗi người chính là ơn của Chúa Thánh Thần, nhưng ơn đó không phải để giữ riêng cho mình rồi chảnh, ích kỷ hoặc kiêu căng, mà là để làm vinh danh Thiên Chúa. Của Chúa thì phải trả lại Ngài, đó là công bằng mà thôi.

Hồi đó ở Giêrusalem có những người Do Thái sùng đạo, từ các dân thiên hạ trở về, nhưng ai nấy đều nghe các ông nói tiếng bản xứ của mình. Họ sửng sốt và thán phục lắm. Đó là hiện tượng “nói tiếng lạ,” nhưng ai cũng hiểu. Các tông đồ chỉ là những người ít học, làm đủ các ngành nghề, chẳng học ngoại ngữ bao giờ, thế mà nay thông minh đột xuất, nói ngoại ngữ như gió, họ thấy nhãn tiền chứ chẳng phải chỉ nghe đồn. Mèn ơi, vô cùng lạ lùng, ngoài sức tư tưởng của phàm nhân chúng ta.

Ngay lúc đó của ngày hôm đó, các tông đồ “nói tiếng lạ” không phải để lòe bịp, khoe khoang hoặc ý đồ gì khác, mà chỉ “loan báo những kỳ công của Thiên Chúa!” (Cv 2:11) Tận mắt chứng kiến và nghe rõ ràng như vậy, ai cũng sửng sốt, có những người phân vân vì không hiểu như vậy nghĩa là gì, nhưng cũng có những người lại chế nhạo rằng các tông đồ “say” thật rồi. (Cv 2:13)

Tương tự, ngày nay khi thấy “sự lạ” hoặc thấy người khác có “cái lạ” (theo nghĩa tích cực về tâm linh), có người khâm phục và tạ ơn Chúa, nhưng cũng có người gièm pha, chê trách, ghét bỏ,… Có thể họ không nói ra bằng lời, nhưng động thái của họ đã “bật mí” tâm địa của họ. Đây là phương diện cần lưu ý và cẩn tắc, vì “cái tôi” của con người vừa to vừa lớn, choán hết chỗ của những thứ khác, cụ thể là nó “che” tầm nhìn của mình nên chỉ thấy chính mình mà thôi. Thật đáng quan ngại!

Với ít nhiều kinh nghiệm để nhận biết rằng Ơn Chúa luôn chan hòa và kỳ diệu, thế nhưng khi cầu nguyện mà không thấy “được như ý” nên chúng ta cứ tưởng Chúa không ban, thật ra Ngài ban cho chúng ta cái khác có lợi cho chúng ta hơn so với điều chúng ta muốn, bởi vì “Thiên Chúa còn cao cả hơn lòng chúng ta, và Người biết hết mọi sự.” (1 Ga 3:20) Thật vậy, “sự điên rồ nơi Thiên Chúa thì khôn ngoan hơn loài người, và sự yếu đuối nơi Thiên Chúa thì mạnh sức hơn loài người.” (1 Cr 1:24-25) Chắc chắn rằng “tất cả đều là hồng ân,” thế nên chúng ta phải biết tạ ơn, chân thành tự nhủ: “Chúc tụng Chúa đi, hồn tôi hỡi! Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, Chúa muôn trùng cao cả!” (Tv 104:1) Trí óc phàm nhân chúng ta không thể đủ sức hiểu sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.

Thật là khôn ngoan nếu biết “Fiat voluntas Dei – Xin vâng Ý Chúa” theo tâm nguyện của Lm Leo Dehon – thời Công Đồng Vatican I, vị sáng lập Dòng Hiến Sĩ Thánh Tâm, tức là Dòng Linh Mục Thánh Tâm (Oblates of Sacred Heart, Priests of Sacred Heart, tức là SCJ – Prêtres du Sacré Cœur de Jésus.) Đặc sủng của dòng này là các linh mục như nạn nhân của Chúa và sống tinh thần đền tạ Thánh Tâm Chúa Giêsu.

Thánh Vịnh gia minh định: “Công trình Ngài, lạy Chúa, quả thiên hình vạn trạng! Chúa hoàn thành tất cả thật khôn ngoan, những loài Chúa dựng nên lan tràn mặt đất.” (Tv 104:24) Không có Ngài, chúng ta chẳng làm được trò trống gì, dù là việc nhỏ nhoi, mà thậm chí là chết ngay lập tức. Thiên Chúa là sự sống, Thánh Thần là hơi thở, có Thiên Chúa thì chúng ta nên mới hoàn toàn như “sinh vật lạ,” nhưng chắc chắn rằng thiếu Thiên Chúa thì chúng ta không thể nào sống nổi: “Chúa ẩn mặt đi, chúng rụng rời kinh hãi; lấy sinh khí lại, là chúng tắt thở ngay, mà trở về cát bụi. Sinh khí của Ngài, Ngài gửi tới, là chúng được dựng nên, và Ngài đổi mới mặt đất này. Vinh hiển Chúa, nguyện muôn năm tồn tại, công trình Chúa làm Chúa được hân hoan.” (Tv 104:29-31)

Là những người Công giáo, ai trong chúng ta cũng mong được nhận thức sâu sắc và đúng đắn về Thiên Chúa, đồng thời khả dĩ định hướng sống rạch ròi: “Nguyện tiếng lòng tôi làm cho Người vui thoả, đối với tôi, niềm vui là chính Chúa.” (Tv 104:34) Chỉ có vậy mới an tâm và thẳng tiến về hướng Trời cao – Quê Hương Vĩnh Hằng.

Ngày xưa, các tông đồ là những người nhát đảm, sợ sệt, đã từng bị Thầy Giêsu trách là “kém tin,” (Mt 6:30; Mt 14:31; Mt 16:8; Mt 17:20; Lc 12:28) nhưng sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các ông trở nên can đảm, mạnh dạn, dám ăn dám nói chứ không “bỏ của chạy lấy người” như trước. Đa số các ông đã tử đạo để minh chứng niềm tin vào Đức Kitô – Đấng Cứu Độ duy nhất. Thật vậy, một Saolê hung hăng và tàn bạo bắt đạo Chúa đã trở thành một Phaolô “mềm như bún” và nhiệt thành rao truyền Đức-Kitô-chịu-đóng-đinh-và-phục-sinh sau khi được Chúa Thánh Thần tác động. Rất nhiều vị thánh trong lịch sử Kitô giáo đã cho thấy rõ sức mạnh của Chúa Thánh Thần hoạt động và biến đổi các ngài. Cầu xin Thiên Chúa Ngôi Ba cũng biến đổi mọi người – đặc biệt là biến đổi những người vô thần để họ sớm trở về với một Chúa duy nhất.

Với giáo đoàn Côrintô, Thánh Phaolô chia sẻ: “Khi đến với anh em, tôi thấy mình yếu kém, sợ sệt và run rẩy. Tôi nói, tôi giảng mà chẳng có dùng lời lẽ khôn khéo hấp dẫn, nhưng chỉ dựa vào bằng chứng xác thực của Thần Khí và quyền năng Thiên Chúa. Có vậy, đức tin của anh em mới không dựa vào lẽ khôn ngoan người phàm, nhưng dựa vào quyền năng Thiên Chúa. Thế mà điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển.” (1 Cr 2:3-7) Điều đó chứng tỏ sức mạnh của Chúa Thánh Thần đã tác động: Người nhút nhát thành can đảm, người yếu đuối thành mạnh mẽ, người dốt nát thành thông minh, người khờ dại thành khôn ngoan,… Thật tuyệt vời!

Và rồi Thánh Phaolô căn dặn: “Phần chúng ta, chúng ta đã không lãnh nhận thần trí của thế gian, nhưng là Thần Khí phát xuất từ Thiên Chúa, để nhận biết những ân huệ Thiên Chúa đã ban cho chúng ta. Để nói về những điều đó, chúng tôi không dùng những lời lẽ đã học được nơi trí khôn ngoan của loài người, nhưng dùng những lời lẽ học được nơi Thần Khí; chúng tôi dùng những lời lẽ Thần Khí linh hứng để diễn tả thực tại thuộc về Thần Khí.” (1 Cr 2:12-13)

Chắc chắn đúng như vậy và tuyệt đối như thế, bởi vì Chúa Thánh Thần vô cùng quan trọng. Chúng ta cùng nhau hiệp ý cầu xin với cả Giáo Hội qua bài Ca Tiếp Liên: “Lạy Chúa Thánh Thần, xin Ngài ngự đến, và tự trời toả ánh quang minh của Ngài ra! Lạy Cha kẻ cơ bần, xin Ngài ngự đến; Ðấng ban ân huệ, Ðấng soi sáng tâm hồn, xin ngự đến!…” Và Ngài đã đến, đang đến và sẽ đến, để không ai phải mồ côi hoặc cô độc.

Quả thật, Ca Tiếp Liên xác định: “Nếu không có Chúa trợ phù, trong con người còn chi thanh khiết, không còn chi vô tội.” Vì thế mà chúng ta phải không ngừng “xin Chúa rửa sạch điều nhơ bẩn, tưới gội chỗ khô khan, và chữa cho lành nơi thương tích, uốn nắn điều cứng cỏi, sưởi ấm chỗ lạnh lùng, chỉnh đốn lại chỗ trật đường, ban cho ơn bảy nguồn, được huân nghiệp nhân đức, được hạnh phúc cứu độ và được hoan hỉ đời đời.”

Thực sự được như thế thì vô cùng diễm phúc, vì chúng ta chỉ là phàm nhân cát bụi, tội lỗi ngập đầu, mà được Thiên Chúa ân cần săn sóc. Thảo nào ma quỷ ghen tức với chúng ta nên chúng dàn quân cám dỗ mọi nơi, mọi lúc. Chúng ta càng diễm phúc hơn vì dù chỉ là những tội nhân khốn kiếp mà được phục hồi cả “bộ ba” là nhân vị, nhân phẩm, và nhân quyền – nhờ Máu và Nước cứu độ tuôn trào từ Nguồn Mạch Thương Xót nơi Thánh Tâm Chúa Giêsu. Không chỉ vậy, Thiên Chúa còn ban cho chúng ta được Chúa Thánh Thần luôn ở với chúng ta và hứa ban hồng phúc trường sinh với Ngài trên Thiên Quốc, vì chính Chúa Giêsu, Đấng cứu độ chúng ta, muốn rằng Ngài ở đâu thì chúng ta cũng ở đó. (Ga 14:3) Đúng là còn hơn là diễm phúc hoặc đại phúc nữa. Deo gratias!

Chính Chúa Giêsu cho biết rằng Ngài về trời để dọn chỗ cho chúng ta, (Ga 14:2) vì ích lợi của chúng ta, (Ga 16:7) nhưng vì quá đỗi yêu thương chúng ta nên Ngài sợ chúng ta mồ côi, (Ga 14:18) thế nên Ngài hứa ban Chúa Thánh Thần ở hẳn trong mỗi chúng ta, (Ga 14:16) và lời hứa đó được thực hiện vào ngày Lễ Ngũ Tuần, sau khi Chúa Giêsu về trời được 10 ngày. Và lúc nào cũng là Lễ Ngũ Tuần đối với tín nhân chúng ta nếu biết mở rộng tâm hồn đón nhận Chúa Thánh Thần, để cho Ngài biến đổi.

Thánh Gioan cho biết: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20:19) Một lời chúc tuyệt vời, vì đó là “hơi ấm” mà ai cũng cần, cả trong cuộc sống đời thường và tâm linh. Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa. Ôi, không vui sao được vì Thầy đã sống lại đúng như Ngài tiên báo. Cứ tưởng Thầy chết là “chấm hết,” nào ngờ Thầy vẫn “nguyên si.” Thật là sung sướng quá chừng luôn!

Chắc hẳn lúc đó các ông sướng rơn nên không biết nói gì. Rồi Ngài lại nói với các ông: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” (Ga 20:21) Một hệ lụy tất yếu. Sướng thì sướng thật, nhưng phải có trách nhiệm, và không được ích kỷ, nghĩa là phải chia sẻ niềm vui đó cho người khác. Đó là công bình và hiệp nhất.

Chúa Giêsu vừa dứt lời thì thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” (Ga 20:22-23) Một lần nữa, Chúa Giêsu lại tiếp tục thể hiện Lòng Thương Xót một cách cụ thể: Bí tích Hòa giải. Đúng như Ngài đã từng bảo ông Phêrô khi ông hỏi Ngài về mức độ tha thứ: “Thầy không bảo là đến bảy lần, nhưng là đến bảy mươi lần bảy.” (Mt 18:22) Ngài là Đấng giàu lòng thương xót, là Thiên Chúa tình yêu, với Thánh Tâm ngùn ngụt Lửa Yêu nên Ngài dạy phải sống bao dung chứ đừng “bung dao,” phải “yêu thương kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi mình.” (Mt 5:44) Như thế mới là thực hành Lòng Thương Xót và “mới được trở nên con cái của Chúa Cha.” (Mt 5:45) Nếu không, chúng ta chẳng đáng công chi, chẳng hơn người thu thuế và người ngoại đạo. (Mt 5:46-48)

Để có thể hành động đúng như Chúa Giêsu mong muốn thì chúng ta phải thực sự can đảm, muốn can đảm thì phải có ơn Chúa Thánh Thần, muốn có ơn Chúa Thánh Thần thì phải cầu xin Ngài ngự đến. Thật vậy, không có Thiên Chúa thì chúng ta chẳng làm gì được. (Ga 15:5) Chúng ta chỉ vô dụng nếu không có Chúa Thánh Thần.

Mọi tín nhân đều là những người được Chúa Giêsu sai đi như chiên vào giữa bầy sói, vì thế phải “khôn ngoan như rắn và đơn sơ như bồ câu” (Mt 10:16), tức là cần ơn khôn ngoan của Chúa Thánh Thần. Thật vậy, Thánh Phêrô vừa cảnh báo vừa căn dặn: “Anh em hãy sống tiết độ và tỉnh thức, vì ma quỷ, thù địch của anh em, như sư tử gầm thét, rảo quanh tìm mồi cắn xé.” (1 Pr 5:8) Nhìn vào mặt trời rất chói mắt, những ai theo Đức Kitô đều bị ma quỷ tìm cách phá – rõ ràng và cụ thể là luôn có bách hại Kitô giáo, càng ngày càng tinh vi hơn.

Thật thú vị với các biểu tượng về Chúa Thánh Thần: Bồ câu hiền lành và thân thiện với mọi người, tượng trưng hòa bình (bình an, an bình); Lửa có tính “nhiệt” (nóng, dương); Nước có tính “hàn” (lạnh, âm), âm dương hòa quyện Đất Trời; Gió làm hạ nhiệt, gió từ quạt máy không thể so với làn gió nhẹ từ thiên nhiên. Lửa, Gió và Nước là những thứ rất mềm, nhưng lại “cứng” hơn mọi thứ khác, và không ai có thể “cắt đứt” chúng. Chúa Thánh Thần cũng vậy, khi Ngài đã hành động thì không một sức mạnh nào có thể cưỡng lại. Ngoài ra, lửa có một đặc điểm khác là càng chia sẻ càng thêm nhiều, chứ không giảm bớt. Quả là kỳ diệu vô cùng!

Lạy Thiên Chúa toàn năng hằng hữu, xin tạ ơn Ngài đã cho chúng con được làm người và làm con cái của Ngài. Xin ban Thần Khí để chúng con được sống dồi dào và đủ sức hoàn thiện theo Thánh Ý Ngài, nhờ đó chúng con có thể can đảm làm nhân chứng nhân sống động và hiệu quả. Xin cho chúng con được say Tình Ngài, trở nên khí cụ bình an của Ngài, xin Lửa Thánh Thần “thiêu đốt” và “uốn nắn” chúng con nên mới mỗi ngày một hơn, đồng thời luôn bảo vệ chân lý của Ngài.

Lạy Thiên Chúa nhân lành, tạ ơn Ngài đã thương Việt Nam cách riêng trong cơn đại dịch Corona, không để chúng con chịu thiệt thòi như những quốc gia khác. Xin Chúa tiêu diệt virus ở những nơi khác, nhất là những nơi tâm dịch. Xin Chúa thêm sức cho mọi người, và xin cho những người thiệt mạng vì đại dịch được về hưởng Thánh Nhan Ngài. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu Kitô Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

HÃY NHẬN LẤY THÁNH THẦN.

Lm. Giuse Phạm Thanh Minh

Cách đây 50 ngày, Giáo hội mừng lễ Chúa Giêsu Phục Sinh, và Chúa Nhật tuần trước, lễ Chúa Giêsu lên trời. Hôm nay Giáo hội mừng lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống và cũng là thánh lễ kết thúc Mùa Phục Sinh.

Trong thánh lễ hôm nay, cộng đoàn chúng ta suy ngắm hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử ơn cứu độ, và sự hiện diện hoạt động của Ngài nơi các Tông đồ và trong Giáo hội để chúng ta biết sống niềm tin theo sự hướng dẫn của Ngài.

  1. Hoạt động của Chúa Thánh Thần trong lịch sử cứu độ

Chúng ta không thể tìm trong Cựu ước Mạc khải trọn vẹn về Chúa Thánh Thần như trong Tân ước, nhưng chúng ta có thể tìm trong đó rất nhiều tư tưởng phong phú và nhiều màu sắc về thực tại được gọi là Thánh Thần Thiên Chúa.

Trước hết, trong sách Sáng thế, câu đầu tiên ghi: “Lúc khởi đầu, Thiên Chúa sáng tạo trời đất. Đất còn trống rỗng chưa có hình dạng, bóng tối bao trùm vực thẳm, và Thần Khí Thiên Chúa bay lượn trên mặt nước.” (St 1,2)

Như vậy, sự hiện diện của “Thần Khí Thiên Chúa” bay là là trên mặt nước là một cách diễn tả quyền năng của Thiên Chúa biến đổi hư vô, tối tăm và sự chết thành sự hữu, ánh sáng và sự sống. Và qua Lời Thiên Chúa phán mọi sự được tạo dựng: Ánh sáng, trời đất, tinh tú, cỏ cây, súc vật…

Còn khi tạo dựng sự sống con người-biến xác thể bùn đất thành thân thể sinh động-Thiên Chúa trao ban hơi thở, Thần Khí của Ngài cho con người để con người có sự sống: “Thiên Chúa đã nắn hình người với bụi lấy từ đất đai và Người hà hơi vào mũi nó và người đã thành mạng sống” (x.St 2,7)

Như thế “thổi hơi” gợi lại công trình sáng thế, đặc biệt với con người. Và qua lời tiên báo về việc tái tạo Israel của ngôn sứ Ezechiel (x.Ed 37,9), ngôn sứ cũng nói về việc Thiên Chúa trao ban Thần khí mới, quả tim mới cho con người. Như thế, Thần Khí Thiên Chúa đã thực hiện việc tạo dựng mới.

Rồi trong Tân ước, cũng chính Thần Khí, hơi thở của Thiên Chúa luôn hiện diện từ khi Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người cho đến ngày Giáo hội được khai sinh.

Mở đầu sứ vụ, Đức Giêsu được Thần Khí Thiên Chúa Thánh hiến và sai đi loan báo năm hồng ân của Thiên Chúa. Trên bước đường truyền giáo, Ngài đã rao giảng về lòng thương xót vô biên của Thiên Chúa, luôn rộng lượng thứ tha cho người tội lỗi ăn năn hối cải để được ơn tha tội.

Trong ngày Phục sinh, Chúa Kitô sống lại hiện ra với các Tông đồ, Thánh Gioan nhấn mạnh: “Ngài thổi hơi trên họ và nói với họ: Hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Thần Khí nơi Chúa Kitô Phục sinh làm cho các Tông đồ nên những con người mới: từ sợ hãi nên vui mừng hân hoan. Thần Khí đã tác động và biến đổi các Tông đồ kể từ lễ Ngũ Tuần sau Phục sinh, trở thành những chứng nhân can đảm, bất khuất, vượt qua mọi khó khăn, dù bị tù đày để loan báo Tin Mừng (x.Cv 2,28)

  1. Chúa Thánh Thần, sức mạnh các hoạt động Tông đồ:

Biến cố Ngũ tuần cũng gọi là lễ Hiện Xuống là bước khởi đầu cho những hoạt động kế tiếp mà Thánh Thần thực hiện trên toàn thế giới và trong cuộc sống con người.

Sách Công vụ Tông đồ mô tả sự kiên này một cách thi vị và theo trình tự thời gian: 40 ngày sau khi sống lại, 10 ngày sau khi lên trời: “Chúa Thánh Thần ngự đến trong khung cảnh tiếng động, gió mạnh và lưỡi lửa đậu trên đầu mỗi người và ai nấy được đầy tràn Thánh Thần” (Cv 2,1-4).

Còn bài Tin mừng thánh lễ hôm nay (Ga 20,19-22), Thánh Gioan tường thuật lại Chúa Giêsu Phục sinh hiện ra đứng giữa các Tông đồ và nói rằng: “Bình an cho anh em. Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em… Hãy nhận lấy Thánh Thần”.

Như thế trước lúc về trời, Chúa Giêsu đã truyền cho các Tông đồ rao giảng sự thống hối và làm phép rửa cho muôn dân được tha tội và được ơn cứu độ.

Vì thế, sứ vụ chính yếu của Người Tông đồ là rao giảng sự thống hối và cầu bình an cho mọi người. Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Corintô đã quả quyết: “mọi sự đều do tự Thiên Chúa, Đấng đã giảng hoà ta lại với chính mình Người nhờ Đức Kitô và đã ban cho chúng tôi được giúp việc giảng hòa” (2Cr 5,18). Nhưng chỉ trong sức mạnh của Thánh Thần, người Tông đồ mới đảm nhận được sứ vụ cao cả ấy. Chính Thánh Phaolô đã cảm nghiệm được những hoa trái phát sinh khi có Thánh Thần trong mình, Ngài nói: “Hoa trái của Thánh Thần là bác ái, hoan lạc, bình an, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hòa, tiết độ”.

Ngày xưa, Thánh Thần của Đấng Phục Sinh đã đến, Ngài mở ra cho các môn đệ một chân trời mới của cuộc sống mới. Các môn đệ đã mạnh dạn đi vào thế giới, mang tin vui đến cho mọi người, dù hoàn cảnh có thuận buồm xuôi gió hay gặp những trắc trở gian nan. Ngày nay, người Kitô hữu cũng lãnh nhận Thánh Thần, để có thể đi ra khỏi cánh cửa khép kín vì sợ hãi, mà mở rộng cõi lòng đón nhận và đến với tha nhân với vòng tay nối kết mang nguồn vui ơn cứu độ của Chúa đến cho con người. Do đó, lễ Hiện xuống không chỉ là ngày khai sinh Giáo hội, mà lễ Hiện xuống vẫn đang tiếp diễn, nghĩa là, Chúa Thánh Thần vẫn hoạt động trong Giáo hội, để canh tân thế giới ngày nay.

  1. Vai trò thiết yếu của Chúa Thánh Thần trong đời sống Kitô hữu:

Ngày nay trước viễn cảnh một thế giới ngập tràn bạo lực và khủng bố, chỉ dựa vào những giải pháp trần thế nhân loại không thể đẩy lùi được bao lực và khủng bố, bởi vì “oán không bao giờ diệt được oán”. Vậy chỉ có tình thương tha thứ “dĩ hòa vi quý” mới là giải pháp tối ưu giải quyết tận căn của chủ nghĩa bạo lực và khủng bố.

Do đó, điều quan trong trong công việc: “Tông đồ giáo dân” người Kitô hữu phải trở nên “khí cụ bình an của Chúa” (Mt 10,12; Rm 12,18) phải cảm nghiệm được tình yêu thương của Thiên Chúa đang ở trong mình và biết chia sẻ tình yêu đó với mọi người xung quanh (1Tx 2,8). Để thực thi được sứ mạng đó, Giáo hội phải truyền giáo, nhất là: “Giáo hội tại Châu Á phải là một Giáo hội truyền giáo. Theo ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, thế mà hôm nay rất ít người Châu Á biết Chúa và tin theo Chúa”. Quả thật Châu Á, trong đó có Việt Nam, có số dân đông nhất năm châu, mà chỉ có 3% dân số tin theo Chúa. Đó là nỗi thao thức của Người Kitô hữu trong Giáo hội.

Vì thế, hơn bao giờ hết, người tín hữu cần ý thức vai trò quan trọng thiết yếu của Chúa Thánh Thần, vì Ngài chính là căn nguyên sự sống và hoạt động của Giáo hội. Không có Thánh Thần thì cũng chẳng có điều chi thành tựu. Ngài đến để thông ban sự sống, để thánh hóa, để canh tân, để khai mở một cộng đoàn gia đình nhân loại mới trong Đức Kitô. Là Thần Chân Lý, Ngài đến để soi sáng cho mọi người biết điều hay lẽ phải, thúc giục người tội lỗi trở về nẻo chính đường ngay, hướng dẫn và đổi mới tâm tư nên người thánh thiện, biến đổi thế giới nên công bình bác ái.

Vậy cộng đoàn phụng vụ hãy mở rộng cõi lòng để đón Chúa Thánh Thần. Xin Người ban lửa thiêng để tấm lòng được ấm áp và lộ trình cuộc đời được soi sáng, tránh xa u mê lầm lạc, luôn biết đi theo và đi đúng con đường Ngài chỉ dẫn.

Hãy canh tân và đổi mới tâm hồn ngõ hầu người tín hữu trở thành đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Hãy làm điều gì cho Chúa, cho Hội Thánh và có ích cho anh chị em mình. Cụ thể như tận tình yêu thương, kính trọng phẩm giá của những người bất hạnh, nghèo khổ…

“Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em” lệnh truyền đó của Chúa Giêsu hôm nay cũng được chuyển đạt đến người Kitô hữu chúng ta, để chúng ta lên đường với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, chúng ta nhiệt tâm làm chứng cho sự thật, cho Tin Mừng cứu độ của Thiên Chúa trong thời đại hôm nay như các Tông đồ ngày xưa.

Về mục lục

KIỆT TÁC CỦA CHÚA THÁNH THẦN

Lm. Inhaxiô Trần Ngà

Muốn tìm hiểu một nhà văn, người ta cần đọc các tác phẩm của nhà văn đó; muốn biết rõ tài nghệ một kiến trúc sư, người ta cần nhìn xem công trình xây dựng của ông ta. Tương tự như thế, muốn hiểu thêm về Chúa Thánh Thần, chúng ta hãy nhìn xem kiệt tác của Ngài là thánh Phao-lô.

Phao-lô tàn phá Hội Thánh

Ban đầu, Phao-lô là một thanh niên nhiệt thành trong đạo Do Thái. Anh có ác cảm với Chúa Giê-su và môn đệ của Ngài. Thế là anh tìm mọi cách bắt bớ những người theo Chúa Giê-su và rắp tâm tiêu diệt Hội thánh non trẻ của Ngài bằng mọi giá (Gal 1,13).

“Anh đến gặp các thượng tế, xin thư giới thiệu đến các hội đường ở Đa-mát, để nếu thấy người nào theo Đạo, bất luận đàn ông hay đàn bà, thì bắt trói giải về Giê-ru-sa-lem” để trừng trị (Cv 9,1-2).

Phao-lô xây dựng Hội Thánh

Thế rồi, sau biến cố ngã ngựa trên đường vào thành Đa-mát để bắt bớ các Ki-tô hữu, Phao-lô đột nhiên chuyển hướng 180 độ và đổi đời cách lạ lùng. Từ một người “hằm hằm đe dọa giết các môn đệ Chúa[1]”, Phao-lô trở nên người hăng say, nhiệt thành, dốc hết tâm lực xây dựng Hội thánh Chúa bất chấp gian khổ, đói khát, ngục tù xiềng xích và cái chết. Ngài viết về đời tông đồ của mình như sau:

Trong công cuộc loan báo Tin mừng, tôi đã vượt lên những người khác, “hơn nhiều vì công khó, hơn nhiều vì ở tù, hơn gấp bội vì chịu đòn và bao lần suýt chết. Năm lần tôi bị người Do-thái đánh bốn mươi roi bớt một; ba lần bị đánh đòn; một lần bị ném đá; ba lần bị đắm tàu một đêm một ngày lênh đênh giữa biển khơi! Tôi còn hơn họ, vì phải thực hiện nhiều cuộc hành trình, gặp bao nguy hiểm trên sông, nguy hiểm do trộm cướp, nguy hiểm do đồng bào, nguy hiểm vì dân ngoại, nguy hiểm ở thành phố, trong sa mạc, ngoài biển khơi, nguy hiểm do những kẻ giả danh là anh em. Tôi còn phải vất vả mệt nhọc, thường phải thức đêm, bị đói khát, nhịn ăn nhịn uống và chịu rét mướt trần truồng. Ngoài ra, nỗi ray rứt hằng ngày của tôi là mối bận tâm lo cho tất cả các Hội thánh! Có ai yếu đuối mà tôi lại không cảm thấy mình yếu đuối? Có ai vấp ngã mà tôi lại không cảm thấy lòng sôi lên?” (2C 11, 23- 29).

Và khi từ giã các vị kỳ mục trong giáo đoàn Ê-phê-sô để lên Giê-ru-sa-lem, thánh Phao-lô nói với các ông rằng: “Giờ đây, do Thánh thần thúc đẩy, tôi đi Giê-ru-sa-lem, mà không biết những gì sẽ xảy ra cho tôi ở đó… Khi tôi đến thành nào, thì Thánh Thần cũng khuyến cáo tôi rằng xiềng xích và gian truân đang chờ đợi tôi. Nhưng mạng sống tôi, tôi coi thật chẳng đáng giá gì, miễn sao tôi chạy cho hết chặng đường, chu toàn nhiệm vụ tôi đã nhận từ Chúa Giê-su, là long trọng làm chứng cho Tin mừng về ân sủng của Thiên Chúa” (Cv 20, 22-24).

Như thế, thánh Phao-lô vui lòng chịu đựng tất cả mọi gian lao khốn khó và sẵn sàng chịu chết, miễn sao hoàn thành sứ mạng cao quý mà Chúa Giê-su đã giao phó cho ngài.

Đến đây, một câu hỏi lớn chợt đến với chúng ta: Bởi đâu một thanh niên trước đây căm ghét đạo thánh Chúa, bắt bớ các tín hữu, rắp tâm tiêu diệt Đạo Chúa cho bằng được… bỗng dưng lại trở thành một tông đồ hăng say, nhiệt thành, sẵn sàng hy sinh mạng sống và dốc hết tâm lực để xây dựng Hội thánh mà trước đây anh quyết tâm đạp đổ?

Thánh Phao-lô cho ta câu trả lời chính xác: Nhờ Chúa Thánh Thần.

Chính Chúa Thánh Thần soi sáng dạy dỗ cho Phao-lô am hiểu tường tận giáo lý Chúa Giê-su, đã tuyển chọn thánh Phao-lô và Barnaba làm tông đồ cho dân ngoại, đã bắt buộc Phao-lô lên Giê-ru-sa-lem chịu nhiều khốn khổ để làm chứng cho Chúa Giê-su[2], đã ban sức mạnh và lòng nhiệt thành cho Phao-lô để sống chết vì Chúa Giê-su.

Như thế, ta có thể quả quyết rằng: Thánh Phao-lô là “kiệt tác” của Chúa Thánh Thần.

Nhìn vào “tác phẩm” tuyệt vời này, ta biết Chúa Thánh Thần luôn hoạt động mạnh mẽ trong Giáo hội, đã đào tạo một tên đồ tể giết hại tín  hữu Chúa trở nên một tông đồ nhiệt thành, dốc hết tài năng, trí tuệ và tâm huyết của mình để phụng sự Hội thánh Chúa Ki-tô.

Ngoài ra, Chúa Thánh Thần còn tác động nhiều cách khác nhau để giúp cho nhận loại nhận biết và tôn thờ Thiên Chúa.

Lạy Chúa Thánh Thần,

Chúa đã đào tạo hung thần Phao-lô, người bắt đạo năm xưa, trở nên vị tông đồ số một, thì xin Chúa cũng đoái nhìn đến chúng con và đào tạo chúng con nên những tông đồ nhiệt thành trong xã hội hôm nay, để chúng con nối gót thánh Phao-lô, không ngại gian nguy khó nhọc, kiên tâm bền chí giới thiệu Chúa cho bao người chung quanh. Amen.

Về mục lục

CUỘC ĐỔI MỚI KỲ DIỆU

Jos. Hồng Ân 

Chúa Giêsu về trời thực hiện lời Ngài đã hứa ban Chúa Thánh Thần (x. Ga 14, 16) để củng cố niềm tin của các môn đệ và tăng cường sức mạnh giúp các ông can đảm, mạnh dạn tuyên xưng đức tin và đi ra rao giảng Tin Mừng cho muôn dân.

Chúa Thánh Thần hiện xuống tuôn đổ muôn ơn của Ngài trên các môn đệ. Chúa Thánh Thần nhắc lại và giúp các môn đệ hiểu rõ hơn những điều Chúa Giêsu đã dạy khi còn tại thế, nhất là về thân thế sự nghiệp của Chúa Giêsu, về cái chết ô nhục trên thập giá và sống lại vinh quang của Người: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14, 26).

Ngày Chúa Thánh Thần hiện xuống là một cuộc biến đổi kỳ diệu: bộ mặt trái đất được canh tân; chỗ trật đường lạc lối được chỉnh đốn lại; điều cứng cỏi được uốn nắn; chỗ lạnh lùng được sưởi ấm; chỗ khô khan được tưới gội; nơi thương tích được chữa cho lành, nơi sầu khổ được ủi an… Chúa Thánh Thần hiện xuống đem lại cho các môn đệ nguồn sống mới, niềm vui mới, biến đổi các ông từ những con người yếu đuối, hèn nhát, không dám công khai đi lại, không dám họp nhau cầu nguyện, trở thành những con người can trường rao giảng sứ điệp của Tin mừng. Khi chưa nhận được Chúa Thánh Thần, các ông ẩn trốn ở trong nhà với cửa đóng then cài, vì sợ người Do-thái: “Nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do-thái” (Ga 20, 19). Nhưng khi nhận được ơn Chúa Thánh Thần, các ông đã trở thành những con người mạnh mẽ trong đức tin, vững vàng trong đức cậy, nồng nàn trong đức mến. Các ông đã cam đảm, mở cửa, công khai đi lại, hăng hái rao giảng Chúa Kitô chịu đóng đinh, chịu chết và sống lại hiển vinh, bất chấp mọi cấm cản, mọi cực hình, mọi hiểm nguy đe dọa. Các ông còn dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô.

Chúa Thánh Thần biến đổi các môn đệ từ những con người quê mùa, ít học, trở thành những con người thông thái, nói những điều chưa hề được nghe nói bao giờ: nói được các thứ tiếng mới lạ, nói tiên tri… làm được những việc lạ lùng, mà sức con người không thể làm được: trừ quỷ, chữa bệnh… “Ai nấy đều được tràn đầy ơn Thánh Thần, họ bắt đầu nói các thứ tiếng khác, tuỳ theo khả năng Thánh Thần ban cho” (Cv 2, 4). Người nghe ai cũng ngạc nhiên “Họ sửng sốt, thán phục và nói: những người đang nói đó không phải là người Ga-li-lê cả ư? Thế sao mỗi người chúng ta lại nghe họ nói tiếng mẹ đẻ của chúng ta?” (Cv 2, 7-8).

Khi thổi hơi để ban Thánh Thần cho các môn đệ, Chúa Giêsu chúc bình an và sai các ông đi rao giảng Tin Mừng, làm chứng nhân cho Chúa: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em” (Ga 19, 21). Như vậy, việc lãnh nhận Thánh Thần còn có mục đích quan trọng là để làm công việc của Thiên Chúa. Sách Công Vụ Tông Ðồ kể lại, ngay sau khi lãnh nhận Chúa Thánh Thần, các tông đồ lập tức làm việc cho Thiên Chúa, rao giảng và làm chứng cho Tin Mừng.

Thánh Thần được ban xuống trên những ai xứng đáng lãnh nhận ơn của Ngài với năng lực kèm theo, không phải để phục vụ cho lợi ích của riêng mình hay phục vụ vì lợi ích của một nhóm người, hoặc một đảng phái nào đó…, mà phục vụ vì lợi ích chung của nhân loại, không phân biệt tôn giáo, không phân biệt giàu nghèo, không phân biệt chủng tộc: “Thần Khí tỏ mình ra nơi mỗi người một cách, là vì ích chung” (1Cr 12, 7). Vì thế, những ai lãnh nhận được ơn của Thánh Thần phải dùng ơn ấy để phục vụ mọi người, nhất là để loan báo Tin Mừng, giúp cho con người được thăng tiến về đời sống vật chất cũng như tinh thần, giúp cho phẩm giá của mọi người được tôn trọng, nhất là thăng tiến về đời sống tâm linh, giúp mọi người nhận biết và yêu mến Thiên Chúa, để canh tân Giáo Hội, xã hội và thế giới ngày càng tốt đẹp hơn.

Chúa Thánh Thần ban ơn để biến đổi và thánh hóa chúng ta từ những con người yếu đuối, hèn kém, trở nên những con người mạnh mẽ, can đảm, để chúng ta làm việc cho Nước Chúa, nói về Chúa cho muôn dân, làm chứng cho Chúa trước mặt người đời. Chúng ta phải trung thành với ơn Chúa, phải dùng khả năng Chúa ban để phục vụ Chúa, và mưu ích cho đồng loại. Như Thánh Phaolô đã nói: “Tôi không làm cho ân huệ của Thiên Chúa ra vô hiệu” (Gl 2, 21). Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hoạt động trong ta, hãy sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần. Thánh Phaolô đã khuyên: “Anh em hãy sống theo Thần Khí, và như vậy, anh em sẽ không còn thoả mãn đam mê của tính xác thịt nữa. Vì tính xác thịt thì ước muốn những điều trái ngược với Thần Khí” (Gl 5, 16-17).

Chúng ta hãy để Chúa Thánh Thần hướng dẫn, đổi mới chúng ta, để ta nhận được hoa trái của Thần Khí là: “Bác ái, hoan lạc, bình an, nhẫn nhục, nhân hậu, từ tâm, trung tín, hiền hoà, tiết độ” (Gl 5, 22-23). Với những ơn đặc sủng của Chúa Thánh Thần, chúng ta sẽ trở thành những “chiến sĩ Phúc Âm”, ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời cho muôn dân nước, can đảm tuyên xưng đức tin trước mặt thiên hạ, thà chết chẳng thà bỏ đạo, bất chấp mọi ngăn cản, mọi cực hình, mọi hiểm nguy đe dọa của ma quỷ; của thế gian; của kẻ vô thần; của tà thần… Chúng ta không chỉ tuyên xưng đức tin trên môi miệng mà còn phải tuyên xưng bằng việc làm cụ thể. Hơn thế nữa, chúng ta còn phải dùng chính mạng sống mình để làm chứng cho Tin Mừng Chúa Kitô.

Về mục lục

CHÚ GIẢI VÀ SUY NIỆM LỜI CHÚA-LỄ HIỆN XUỐNG

Lm. Inhaxiô Hồ Thông

Sau triều đại của Chúa Cha trên dân Thiên Chúa mà Mùa Vọng nhắc nhớ, sau việc Chúa Con đến trên trần gian mà chúng ta tưởng niệm từ mầu nhiệm Nhập Thể đến Thăng Thiên, Phụng Vụ hôm nay cử hành Chúa Thánh Thần, Đấng tỏ mình ra vào lễ Ngũ Tuần, làm Giáo Hội tăng trưởng và Ơn Cứu Độ được sinh hoa kết trái.

Cv 2: 1-11

Trong sách Công Vụ Tông Đồ, thánh Lu-ca tường thuật Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ, Đức Trinh Nữ, vài người phụ nữ và vài anh em của Đức Giêsu, khi họ cùng nhau tề tựu trong phòng Tiệc Ly. Biến cố này rất gần với biến cố Xi-nai mà lễ Ngũ Tuần Do thái tưởng niệm vào đúng ngày nầy.

1Cr 12: 3b-7, 12-13

Trong thư gởi tín hữu Cô-rin-tô, thánh Phao-lô nhắc nhở rằng những đặc sủng khác nhau làm chứng tác động của Chúa Thánh Thần. Những ai đã lãnh nhận bí tích Thánh Tẩy đón nhận những ân ban Thánh Thần. Vì chỉ có một Thánh Thần để hình thành nên một thân thể.

Ga 20: 19-23

Tin Mừng Gioan tường thuật việc Đức Giê-su trao ban Thánh Thần cho các môn đệ ngay khi Ngài sống lại. Vào buổi chiều Phục Sinh, Đức Giê-su hiện ra ở giữa các môn đệ của Ngài, thổi hơi trên họ và nói: “Anh em hãy lãnh nhận Thánh Thần”. Chắc hẳn những ân ban Thánh Thần chỉ bày tỏ sau nầy. Tuy nhiên, thánh Gioan nhấn mạnh rằng biến cố Vượt Qua là biến cố khai sinh Giáo Hội. Thánh Thần ở với Giáo Hội ngay từ ngày đầu tiên của cuộc Phục Sinh.

BÀI ĐỌC I (Cv 2: 1-11):

Sau khi đã chứng kiến Chúa Giê-su về trời, các Tông Đồ quay trở về Giê-ru-sa-lem tuân theo lời dặn của Đức Giê-su trước khi Ngài chia tay với các ông: “Còn anh em, hãy ở lại trong thành, cho đến khi nhận được quyền năng từ trời cao ban xuống” (Lc 24: 49).

Nơi họ tụ họp là “lầu trên” (Cv 1: 13). Có lẽ là phòng Tiệc Ly, nơi Đức Giê-su đã đồng bàn lần cuối cùng với các ông và Ngài đã thiết lập bí tích Thánh Thể: đó cũng là căn phòng cửa đóng then cài mà Đức Giê-su đã hiện ra vào buổi chiều Phục Sinh, đó cũng là căn phòng mà Chúa Thánh Thần sẽ ngự xuống trên các ông vào ngày lễ Ngũ Tuần.

  1. Mọi người đang tề tựu một nơi:

Không nên hiểu “mọi người đang tề tựu” như “buổi họp mặt của một trăm hai mươi người” vài ngày trước đây để chọn ông Mát-thi-a làm Tông Đồ thay thế ông Giu-đa (Cv 1:15). Đúng hơn là một nhóm người hạn định hơn được thánh Lu-ca mô tả ở 1: 13-14: các Tông Đồ, vài người phụ nữ, Đức Ma-ri-a thân mẫu của Đức Giê-su và anh em của Đức Giê-su.

Họ tề tựu một nơi, trầm tư và cầu nguyện trong khi chờ đợi biến cố mà Đức Giê-su đã hứa: Chúa Thánh Thần ngự xuống. Ấy vậy, một sự trùng hợp đáng ngạc nhiên. Để tỏ mình ra, Chúa Thánh Thần chọn ngày Đại Lễ Do thái được gọi là “Lễ Ngũ Tuần”, ngày lễ dân Do thái tưởng niệm biến cố Thiên Chúa ký kết Giao Ước với dân Ngài trên núi Xi-nai trong tiếng sấm chớp và dưới dấu chỉ của lửa. Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được bày tỏ kín đáo hơn, nhưng tương tự : “Bỗng từ trời phát ra một tiếng động, như tiếng gió mạnh ùa vào đầy cả căn nhà nơi họ đang tụ họp. Rồi họ thấy xuất hiện những hình lưỡi lửa tản ra đậu xuống từng người một”.

  1. Lễ Ngũ Tuần:

Lễ Ngũ Tuần được xác định vào ngày thứ năm mươi sau bảy tuần lễ Vượt Qua, bởi vì bảy tuần (7 x 7) là dấu chỉ của sự viên mãn, vì thế lễ nầy còn được gọi là “lễ Các Tuần”, ngày cuối cùng là ngày thứ năm mươi, ngày cử hành Đại Lễ. Chữ “tuần” được kể ra ở đây không là một tuần lễ gồm bảy ngày, nhưng là một “tuần trăng”. Người Do thái theo âm lịch, vì thế mỗi tuần trăng gồm mười ngày: thượng tuần, trung tuần và hạ tuần (5 x 10 = 50).

Lễ Ngũ Tuần Do thái tự nguồn gốc đã không tưởng niệm Giao Ước Xi-nai, nhưng là lễ Mùa, lễ kết thúc thời kỳ Vượt Qua được khai mạc bởi việc dâng tiến bó lúa đầu tiên (Đnl 16: 9-10). Tuy nhiên, các lễ hội của Ít-ra-en đều đã trải qua một tiến trình tinh thần hóa: từ bình diện tự nhiên đến bình diện Lịch Sử Thánh, bởi vì Lịch Sử đối với dân Chúa chọn cốt thiết là hành động của Thiên Chúa. Lễ Vượt Qua trở thành lễ tưởng niệm cuộc giải thoát khỏi Ai-cập, lễ Lều (lễ thu hoạch trái cây) ghi nhớ cuộc hành trình trong hoang địa. Sau cùng, lễ Ngũ Tuần, dù tương đối muộn thời, được nối kết với những biến cố Xuất Hành. Khi Giao Ước được k‎ý kết  trên núi Xi-nai, năm mươi ngày sau cuộc giải thoát khỏi Ai-cập, lễ Ngũ Tuần cử hành sinh nhật của cuộc giải thoát nầy. Vào thời kỳ tiếp cận với kỷ nguyên Kitô giáo, lễ Ngũ Tuần còn hơn ngày lễ tưởng niệm, nó là dấu chỉ hằng năm làm mới lại giao ước. Vào ngày lễ này, dân Chúa lập lại lời thề hứa trung thành với Đức Chúa.

  1. Xi-nai và Tiệc Ly:

 Trên núi Xi-nai, lời hứa Giao Ước và ân ban Lề Luật đã được cử hành đặc biệt long trọng, mà tác giả Kinh Thánh mô tả theo lối hành văn gần với ngoa dụ. Những biểu tượng được mượn phần lớn trong các tôn giáo như giông tố kèm theo những cuộc thần hiển. Trong Do Thái giáo, có một ghi nhận đặc thù: Đức Chúa, Thiên Chúa duy nhất và siêu việt, từ chối tất cả mọi hình ảnh về Ngài, chấp nhận dấu chỉ lửa (hay ánh sáng, đám mây rực sáng) và gió (cuồng phong hay cơn gió thoảng) gần với hơi thở, đồng nghĩa với “thần khí”. Đây là những hình ảnh phi vật chất nhất diễn tả vừa tính siêu việt của Thiên Chúa vừa sự gần gũi thân cận của Ngài. Khác với người Hy-lạp, người Do thái không suy tư cao siêu về sự hiện hữu của Thiên Chúa, nhưng có kinh nghiệm về sự hiện diện của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng siêu việt, nhưng cũng là Đấng rất gần gũi. Đây là hai mặt bất khả phân ly của một thực tại về sự hiện diện của Thiên Chúa trong Cựu Ước.

Việc Chúa Thánh Thần ngự xuống trên các Tông Đồ được mô tả theo những cuộc thần hiển Cựu Ước. Hơn nữa, những hình ảnh truyền thống nầy trở nên phong phú nhờ những đóng góp của văn chương Khải Huyền. Trận cuồng phong loan báo cuộc tụ họp muôn dân vào ngày Chung Thẩm. Những lưỡi lửa thuộc vào cũng một hình tượng của thời chung cuộc nầy. Thánh Lu-ca nối kết chúng trực tiếp vào ân ban ngôn ngữ mà các Tông Đồ đón nhận. Rõ ràng kỷ nguyên Ki-tô giáo được loan báo bởi cùng những dấu chỉ thời cánh chung.

Cuối cùng truyền thống Kinh Sư suy niệm biến cố Xi-nai đã khai triển những hàm chứa của biến cố nầy. Như là tiếng của ông Mô-sê được phân chia thành bảy mươi ngôn ngữ ngỏ hầu tất cả mọi dân tộc đều có thể nghe hiểu. Ngoài ra, làm thế nào không gợi ra lời nguyện ước của ông Mô-sê : “Phải chi Đức Chúa ban Thần Khí trên toàn dân của Người để họ đều là ngôn sứ !” (Ds 11: 29).

Như vậy, có một sự liên tục từ Cựu Ước đến Tân Ước. Tân Ước đáp trả cho một sự mong chờ của Cựu Ước. Mười hai Tông Đồ có mặt ở phòng Tiệc Ly để tiếp tục sự nghiệp của Đức Ki-tô. Nhưng những khác biệt thì sâu xa.

  1. Phép rửa trong Thánh Thần:

“Và ai nấy đều được đầy ơn Thánh Thần”. Thánh Gioan Tẩy Giả đã loan báo trước: “Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước…Còn Đấng đến sau tôi…Người sẽ làm phép rửa cho anh em trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3: 11). Tất cả các Tông Đồ đã lãnh nhận phép rửa không trong nước nhưng “trong Thánh Thần và lửa”. Giáo Hội khởi đi từ ngày lễ Ngũ Tuần Ki-tô giáo.

Những biến cố Xi-nai thiết lập triều đại Lề Luật trong khi những biến cố Tiệc Ly khai mạc kỷ nguyên Thánh Thần. Xưa kia một dân duy nhất làm đối tượng của việc Thiên Chúa tuyển chọn. Từ nay, mọi người đều được mời gọi dự phần vào cùng một ơn cứu độ. Vì thế, ân ban Thánh Thần đầu tiên là ân ban ngôn ngữ, ân ban cho phép các Tông Đồ ngỏ lời với đám đông thính giả dù sinh trưởng ở đâu cũng đều nghe các Tông Đồ dùng tiếng nói của họ mà loan báo những kỳ công của Thiên Chúa. Khi kể ra một danh sách dài về nguồn gốc khác nhau của họ, thánh Lu-ca nhấn mạnh chiều kích phổ quát của sứ điệp Tin Mừng.

Như vậy, lễ Ngũ Tuần đối lập với chuyện tích Tháp Ba-ben (St 11), theo đó việc ngôn ngữ khác nhau và việc muôn dân bị phân tán ra khắp nơi như một án phạt; giờ đây, Giáo Hội của Đức Ki-tô dâng hiến cho nhân loại khả năng hiệp nhất.

Một ân ban Thánh Thần khác, có thể hiểu biết ngay tức khắc, đó là ân ban Sức Mạnh. Ngay khi được tràn đầy Thánh Thần, các Tông Đồ mở tung cửa căn phòng trước đây vẫn còn cửa đóng then cài và cất cao giọng loan báo Tin Mừng trên công trường. Chỉ sau vài tuần xảy ra biến cố bi thảm của đồi Sọ, họ dạn dĩ phục hồi quyền Đấng chịu đóng đinh và làm chứng về sự Phục Sinh của Ngài.

  1. Sự hiện diện của Đức Ma-ri-a:

Như chúng ta đã ghi nhận trước đây, diễn ngữ: “mọi người đang tề tựu một nơi” bao gồm Đức Ma-ri-a và vài phụ nữ. Đức Ma-ri-a phải có mặt vào ngày Giáo Hội được khai sinh trong Thánh Thần: thân mẫu của Đức Giê-su đã được nối kết với Chúa Thánh Thần: Thánh Thần đã ngự xuống trên Mẹ trong căn phòng Na-da-rét thầm lặng kín đáo, trong đó Thiên Chúa lặng lẽ đến ở giữa nhân loại. Giờ đây là tình mẫu tử khác, tình mẫu tử Thân Thể mầu nhiệm của Con Mẹ mà Đức Ma-ri-a từ nay đảm nhận.

Vài phụ nữ khác, chắc hẳn có bà Ma-ri-a Mác-đa-la, cũng đón nhận Thánh Thần. Những người phụ nữ nầy sẽ không phải dãi dầu sương gió rong ruổi dặm trường để làm chứng cho Đức Giê-su Phục Sinh. Các bà sẽ không chịu cảnh bắt bớ tù đày như các Tông Đồ, nhưng các bà làm chứng theo cách khác. Các bà hoạt động nhiều đến nổi truyền thống sẽ gọi bà Ma-ri-a Mác-đa-la là “Tông Đồ của các Tông Đồ”, nghĩa là Tông Đồ tuyệt hảo nhất.

BÀI ĐỌC II (1Cr 12: 3b-7, 12-13)

Thánh Phao-lô viết từ Ê-phê-xô, có lẽ vào mùa xuân 55, gởi cho các tín hữu Cô-rin-tô, mà thánh nhân đã thiết lập vài năm trước đây, vào khoảng những năm 50-52.

Đây là một cộng đoàn năng động nhưng cũng gặp phải nhiều bất đồng nội bộ đã khiến cho thánh nhân bận lòng không ít. Đó là đối tượng của thư thứ nhất gởi tín hữu Cô-rin-tô, một cộng đoàn sống giữa thế giới ngoại giáo và trong một thành phố rộng mở cho những ảnh hưởng ngoại lai, nhất là những thần bí Đông Phương vào lúc đó đang sôi động. Những trào lưu nầy không phải không gây nên vài nguy hiểm đối với cách sống của các Ki-tô hữu.

Ngoài ra, và đây là nét chung không riêng gì cho cộng đoàn Cô-rin-tô, trong những năm khởi đầu của mình, những cộng đoàn tín hữu thiếu cơ cấu, chưa được tổ chức chặt chẻ, khuôn mẫu thì yếu và chưa đủ. Ở Cô-rin-tô, ông A-pô-lô và ông Ti-mô-thê không thường xuyên hiện diện. Các tín hữu ngẫu hứng tùy tiện. Ân ban Thánh Thần được bổ sung vào những thiếu thốn ban đầu. Quả thật, ơn đặc sủng thì nhiều, sau đó càng lúc càng hiếm.

Các tín hữu Cô-rin-tô xem ra đã được ban cho những đặc sủng khác nhau, thường gây xôn xao dư luận hay phô trương. Vì thế, thánh nhân đòi hỏi họ trước tiên phải hiểu căn nguyên của những đặc sủng nầy.

  1. Căn nguyên duy nhất của các đặc sủng: Thiên Chúa Ba Ngôi.

Phải lưu ‎ý rằng thánh Phao-lô đặt những đặc sủng và hoạt động Ki-tô hữu dưới dấu chỉ Thiên Chúa Ba Ngôi, khởi đầu là Chúa Thánh Thần:

– Những đặc sủng thì đa dạng, nhưng luôn luôn chỉ có một Thánh Thần.

– Nhiều thừa tác vụ khác nhau trong Giáo Hội, nhưng luôn luôn chỉ có một Đức Chúa (Đức Kitô).

– Nhiều họat động khác nhau, nhưng luôn luôn có một Thiên Chúa (Chúa Cha), Đấng họat động trong mọi người.

  1. Mục đích duy nhất của các đặc sủng: vì lợi ích chung.

Thánh nhân đưa ra “luật vàng”: tiêu chuẩn của các đặc sủng phải là vì lợi ích của cộng đoàn, nghĩa là nếu không vì ích lợi của cộng đoàn thì những đặc sủng chỉ là giả hiệu. Tiếp theo là sự so sánh nổi tiếng về một thân thể duy nhất với nhiều bộ phận: một Đức Ki-tô, một Giáo Hội, bất chấp nhiều bộ phận khác nhau.

Nguyên tắc của sự duy nhất chính là Thánh Thần, Đấng duy nhất và từ Ngài mọi đặc sủng được ban cho tất cả mọi tín hữu. Sức sống của Chúa Thánh Thần trào dâng trong chúng ta như nguồn nước hằng sống: “Tất cả chúng ta đầy tràn một Thánh Thần duy nhất”.

TIN MỪNG (Ga 20: 19-23)

Phụng Vụ hôm nay đề nghị cho chúng ta Tin Mừng Gioan trong viễn cảnh lễ Ngũ Tuần. Quả thật, đoạn Tin Mừng nầy thường được gọi lễ Ngũ Tuần theo Tin Mừng Gioan: “Đức Giê-su thổi hơi trên các ông và bảo: ‘Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần’”. Chúng ta sẽ thấy lễ Ngũ Tuần theo Tin Mừng Gioan không mâu thuẫn với lễ Ngũ Tuần được tường thuật trong sách Công Vụ, nhưng bổ túc cho nhau: “Giáo Hội được khai sinh kể từ biến cố Phục Sinh” ngay cả nếu những ân ban Thánh Thần sẽ được bày tỏ sau nầy.

Vài nét đặc trưng của đoạn Tin Mừng hôm nay đáng được nhấn mạnh hay ghi nhớ.

  1. Giáo Hội được khai sinh dưới dấu hiệu Thiên Chúa Ba Ngôi:

Vào ngày này, cộng đoàn nhỏ bé nầy hình thành nên Giáo Hội của Đức Giê-su. Chính Đức Giê-su Phục Sinh đã ủy thác cho họ sứ mạng tiếp tục sự nghiệp của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”, và Ngài thổi hơi trên các ông: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần”. Giáo Hội được khai sinh dưới dấu hiệu của Thiên Chúa Ba Ngôi. Đây là một trong những lời dạy cốt yếu của bản văn Tin Mừng nầy.

  1. Cuộc sáng tạo mới:

Đức Giê-su thổi hơi trên họ, lập lại cử chỉ của Đấng Sáng Tạo, Đấng làm sinh động con người bằng cách thổi hơi sự sống của chính mình vào con người. Động từ được thánh Gioan sử dụng ở đây chúng ta không gặp thấy ở bất cứ nơi nào khác trong Tân Ước, nhưng đích thật động từ của sách Sáng Thế để chỉ hành động của Đấng Sáng Tạo trong việc tạo dựng con người đầu tiên (St 2: 7).

Đây cũng là động từ mô tả những bộ xương khô được hồi sinh trong một thị kiến nổi tiếng của ngôn sứ Ê-dê-ki-en: “Ngươi hãy nói với thần khí: Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân nầy cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Vì thế, động từ này cốt yếu đánh dấu “một cuộc sáng tạo mới”, một thế giới mới được khai sinh. Đức Giê-su làm cho các môn đệ của Ngài trở thành nhân tố của nhân loại được tái sinh. Để làm như vậy, Ngài tái tạo họ và tăng cường họ bằng cách thổi Thần Khí của Ngài trên họ, Ngài ban cho họ quyền tha thứ cho anh em của mình mà Ngài đã hứa với họ: máu của Ngài đổ ra để tha thứ tội lỗi. Đó là sự phong nhiêu của cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài.

  1. Biến cố Ngũ Tuần và biến cố Vượt Qua:

Thánh Gioan thường hằng nhắm đến biến cố tuôn đổ Thánh Thần như được nối kết với biến cố Vượt Qua. Thánh nhân đã diễn tả tư tưởng nầy ở nơi lời công bố của Đức Giê-su khi Ngài nói về chính mình là “dòng nước hằng sống”, được chính thánh nhân giải thích : “Đức Giê-su muốn nói về Thần Khí mà những kẻ tin vào Người sẽ lãnh nhận. Thật thế, bấy giờ họ chưa nhận được Thần Khí, vì Đức Giê-su chưa được tôn vinh” (Ga 7: 39).

Lễ Ngũ Tuần kín đáo và thân tình nầy mà Tin Mừng Gioan giữ lại, chỉ là khúc dạo đầu của lễ Ngũ Tuần ngoạn mục, ở đó tác động Thần Khí sẽ biến đổi ngay tức khắc các môn đệ. Tuy nhiên, khi đặt biến cố Vượt Qua và biến cố Ngũ Tuần một cách nào đó bên cạnh nhau, thánh Gioan nhấn mạnh sự duy nhất sâu xa của hai biến cố nầy. Hai ngày đại lễ được nối kết rồi trong Do thái giáo. Đến phiên mình, thánh Gioan khẳng định sự bền vững của chúng trong viễn cảnh mới.

Về mục lục

NHẬN LẤY HỒNG ÂN

Lm. Jos DĐH.

Khi nói tới sức mạnh, khuynh hướng chung vẫn được nhắc tới là sức mạnh đồng tiền, sức mạnh quen biết: nhất thân, nhì thế, tam quyền, tứ chế. Khi sử dụng ngôn ngữ diễn tả sự việc, người ta thường nói bằng: ngôn ngữ bác học, ngôn ngữ bình dân, dù sao thì hiểu, biết, và cùng nhau hành động, đó mới là cùng đích của mỗi người nơi cuộc sống này. Người đẹp vì lụa, lúa tốt vì phân, sẽ không còn phải là phát hiện mới, khi mà xã hội loài người từ lâu đã biết chú ý đến cái đẹp hình thức và nội dung, cái đẹp toàn tiện nơi một người lý tưởng. Món quà học trò mơ ước nơi người thầy của mình là tiếp thu được kiến thức, niềm vui cha mẹ mong đợi ở con cháu là nên người tài đức, và đích đến của mỗi người nơi trần thế phải là hạnh phúc.

Bằng ngôn ngữ của tình yêu, hồng ân được ban cho các môn đệ chẳng phải là sự hiểu biết thông thường, cũng không phải là sức mạnh tiền của, quyền lực, hay sự thông thái toàn diện, hạnh phúc thế trần. Đấng phục sinh ban tặng học trò món quà mà các ông chưa bao giờ nghĩ tới: bình an cho các con. Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các môn đệ chiều hôm đó không được Thầy cho quyền lựa chọn quà vật chất hay tinh thần, các ông còn được thôi thúc mở lòng đón nhận hồng ân: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần, các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai thì tội người ấy bị cầm lại”. Hãy lãnh nhận hồng ân Thánh Thần, hiện vẫn còn sống động và tự do nơi người tín hữu theo Đức Kitô, vì chưng, sức mạnh của tình yêu, hay ngôn ngữ của hiệp thông, đều khởi đi từ mầu nhiệm cứu độ giữa tình Chúa và tình người trong Đấng phục sinh.

Sống trên đời, khổ đau túng thiếu vật chất, cần được bổ túc giúp đỡ, tài giỏi giầu có, cần khôn ngoan chia sẻ, biết sử dụng số vốn mình đang sở hữu. Niềm tin kitô giáo chỉ có ý nghĩa khi tình hiệp thông liên đới với Đấng là Đầu, là Thân, và mọi phần tử được chuyển thông sức sống, hầu sinh hoa trái thánh thiện. Đấng phục sinh chiến thắng thế gian và sự chết là vì yêu thương, là muốn cứu tất cả nhân loại khỏi trầm luân, do đó, quà tặng hay ơn ban không những cần được linh hoạt, mà người nhận lãnh phải hết sức khôn ngoan, biết sử dụng món quà đặc biệt đó theo ý Đấng ban tặng. Kinh nghiệm cho thấy: sở hữu được tri thức ở đời, ai cũng phải chăm chỉ, nỗ lực học hỏi, có được bình an hạnh phúc nơi tâm hồn, tưởng chừng hết sức đơn giản, đó là bạn biết sử dụng, biết chia sẻ vốn tài nguyên mà mình đang có.

Để trở nên thành toàn cho cuộc sống mình, ai cũng cần có vốn, cần biết đầu tư công sức: khi nghèo ta phải ra ngoài tìm việc, kiếm sống, ít có thời gian ở nhà với gia đình, người thân. Đủ sống, đủ giầu, ta có của ăn của để rồi, ở nhà với gia đình, hạn chế ra ngoài giao du, đó là nghệ thuật sống, đó là khôn ngoan thế gian. Hồng ân mà Đấng phục sinh trao ban cho các tông đồ là gì, quà tặng vô cùng cao quý, học trò Thầy Giêsu và chúng ta hôm nay đã và đang thực hành thế nào ? Món quà Đấng phục sinh thông ban không phải là vật chất, đôi mắt tinh tế và đầu óc thông thái, cũng vô ích, trước hồng ân rất trọng đại. Chỉ những ai là học trò, là môn đệ, mắt đức tin và trí lòng mới đủ cảm nhận: ơn bình an, tình yêu phục vụ, thực sự phát huy niềm vui sự sống. Đúng như lời Thầy Giêsu đã từng cầu nguyện cho các môn đệ: “không ai biết Con trừ ra Cha, và không ai biết Cha trừ ra Con và kẻ Con muốn mạc khải cho”. (Mt 11, 27)

Người ta có chia sẻ câu chuyện về “quà tặng cuộc sống” như sau: người cha già trước khi từ giã cuộc đời, ông gọi đứa con trai duy nhất đến và nói đôi lời trần tình với con. Ta xin lỗi con vì không để được cơ nghiệp vật chất nào cả, nhưng ta tự hào vì con trai ta đã khôn lớn như hôm nay. Hy vọng rằng sau khi ta về với cội nguồn, con trai ta sẽ phát hiện được hồng ân cao trọng nơi tổ tiên dòng tộc nhà mình. Người con trai lặng thinh, đầy ắp kỷ niệm trước cảnh bắt buộc phải chia tay lúc này. Phận làm con, có bao giờ ta đã suy nghĩ gì về món quà mà hiện tại cha mẹ để lại cho mình không ?

Các môn đệ năm xưa không ai ý kiến, kèo nài, thắc mắc,… các ông thinh lặng “như thể” đã hiểu “tài sản quí”, “quà tặng thiết thực”, Thầy ban tặng: “các con hãy nhận lấy Thánh Thần,….”. Có phải tình yêu đã thay lời muốn nói, có phải giá trị tinh thần thiết thực hơn cho tương lai phía trước đối với tình cha con, thầy trò ? Quà tặng cuộc sống là lời hay ý đẹp, là kiến thức để hiểu, để biết và để sống ở đời này. Tài sản vật chất tiền của, là nhu cầu nuôi sống thân xác qua ngày tháng năm. Đấng phục sinh đã nói với các môn đệ, và đang nói với ta “nhận lấy hồng ân” nào ? Có phải là “hồng ân Thánh Thần, hồng ân sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa”, sẽ hoạt động trong tương quan yêu thương không ? Amen.

Về mục lục

THÁNH THẦN LÀ AI VÀ LÀM GÌ?

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Hôm nay là một ngày đặc biệt, ngày đại lễ Chúa Thánh Thần hiện xuống, ngày sinh nhật của Giáo Hội. Phụng vụ Lời Chúa nói nhiều đến Chúa Thánh Thần. Có lẽ trong Ba Ngôi Thiên Chúa, Chúa Thánh Thần là Đấng thường bị quên lãng, ít được biết đến. Hơn nữa, nói về Chúa Thánh Thần là một điều gì đó rất khó khăn. Bởi lẽ, Người là Đấng thiêng liêng sáng láng vô cùng, một khuôn mặt bí nhiệm và ẩn dấu nhất trong Thiên Chúa. Để giúp chúng ta hiểu điều gì đó về Người, tôi mời gọi anh chị em suy niệm về Chúa Thánh Thần là ai và Người có vai trò gì qua tước hiệu Đấng Bảo Trợ?

1- Đấng Bảo Trợ là ai?

Như chúng ta biết, mạc khải về Chúa Thánh Thần là một mạc khải tiệm tiến.

Trong Cựu Ước, Thánh Thần được đề cập đến rất nhiều lần qua các hình ảnh như hơi thở, gió, nước, lửa…, nhưng chưa được quan niệm như một vị Thiên Chúa, chỉ là một hành động, một sức mạnh thần linh, là nguyên lý, hay sự sống đến từ Thiên Chúa. Bởi vì, Cựu Ước chỉ tin vào Thiên Chúa duy nhất, nghĩa là niềm tin độc thần. Phải đợi đến mạc khải Tân Ước, chúng ta mới biết rõ hơn về Người.

Chúa Giêsu đến mang đến cho chúng ta một sự mới mẻ về mầu nhiệm Thiên Chúa, theo đó, Thiên Chúa không phải là một vị Thiên Chúa đơn độc, nhưng là một Thiên Chúa có Ba Ngôi, một cộng đoàn: Chúa Cha, Chúa Con và Chúa Thánh Thần hiệp nhất và yêu thương.

Trong Tin Mừng Gioan, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về ngôi vị tính và thần tính của Chúa Thánh Thần qua danh hiệu Đấng Bảo Trợ (Paracletus): “Khi Đấng Bảo Trợ đến, Đấng mà Thầy sẽ sai đến với anh em từ nơi Chúa Cha, Người là Thần Khí sự thật phát xuất từ Chúa Cha” (Ga 15, 26).

Ở đây, Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta biết: Chúa Thánh Thần không còn là một hành động, nhưng là một chủ thể, không phải là một cái gì, nhưng là một ngôi vị, không phải là một thụ tạo, như một số lạc giáo chủ trương, nhưng là Tạo Hóa. Người phát xuất từ Chúa Cha, nên Người ngang hàng với Chúa Cha và Chúa Con. Người là Thiên Chúa Ngôi Ba. Vì thế, chúng ta phải phụng thờ và tôn vinh Người như là Thiên Chúa cùng với Chúa Cha và Chúa Con. Đó là niềm tin mà Giáo Hội tuyên xưng qua hàng thế kỷ, được Công Đồng Constantinople I (431) định tín: Chúng tôi tin Chúa Thánh Thần là Đức Chúa và là Đấng Ban Sự Sống.

2- Vậy Người có vai trò gì đối với mỗi người chúng ta?

Được sai đến với tư cách là Đấng Bảo Trợ khác, Thánh Thần đóng vai trò thay thế cho Chúa Kitô, để hướng dẫn, bảo vệ và đồng hành với các môn đệ và mỗi người chúng ta trong cuộc sống mỗi ngày.

Trong bài Tin Mừng, Chúa Giêsu cho chúng ta biết những việc cụ thể Người làm: “Thầy còn nhiều điều phải nói với anh em, nhưng bây giờ anh em không có sức chịu nổi. Khi nào Thần Khí sự thật đến, Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn. Người sẽ không tự mình nói điều gì, nhưng tất cả những gì Người nghe, Người sẽ nói lại và loan báo cho anh em biết những điều sẽ xảy đến” (Ga 16, 12-13). Quả thật, Chúa Thánh Thần đến không thực hiện một chương trình cứu độ khác, nhưng Người tiếp tục và hoàn tất công trình cứu độ mà Chúa Kitô đã thực hiện. Thánh Thần nhắc lại cho họ những gì Chúa dạy, soi sáng cho họ hiểu lời nói và việc làm của Chúa Kitô. Người hướng dẫn họ đến với Chúa Kitô là đường, là sự thật và là sự sống. Chúa Thánh Thần giúp chúng ta hiểu biết tất cả những điều này. Nếu không có Chúa Thánh Thần thì không ai có thể nói rằng “Đức Giêsu là Chúa” (1 Cr 12, 3).

Bằng chứng rõ ràng về vai trò của Chúa Thánh Thần qua biến cố Hiện Xuống: Trước đó, dầu các môn đệ sống gần gũi bên Chúa Giêsu, diện đối diện với Người, nhưng họ chưa có thể nhận biết Người là ai, vì họ chưa đón nhận sự soi sáng của Chúa Thánh Thần. Sau khi Chúa chết, các môn đệ đều thất vọng, hoang mang và sợ sệt, luôn nhốt mình ở trong phòng kín, nhưng khi Chúa Thánh Thần hiện xuống, họ can đảm ra đi loan báo Tin Mừng Phục Sinh, nói được tiếng lạ, chữa lành các bệnh tật và trừ quỷ.

Vì thế, các giáo phụ gọi Chúa Thánh Thần là “sự thông hiểu các mầu nhiệm Thiên Chúa.” Thánh Basiliô Cả có một tóm tắt rất ý nghĩa: “Con đường để hiểu biết Thiên Chúa đi lên từ Ngôi Thánh Thần qua Ngôi Con tới Ngôi Cha. Ngược lại, sự tốt lành, sự thánh thiện và sự cao trọng Thiên Chúa đến từ Chúa Cha, qua Con Một yêu dấu tới Chúa Thánh Thần.”

3- Để cho Chúa Thánh Thần hướng dẫn

Chúa Thánh Thần là quà tặng của Đấng Phục Sinh ban cho Giáo Hội và cho mỗi người chúng ta, như là Đấng Bảo Trợ. Người không phải là Thiên Chúa ở trên, nhưng là Thiên Chúa ở trong chúng ta. Người ngự trong lòng mỗi người chúng ta vì chúng ta là đền thờ của Người. Người hiện diện và đồng hành với mỗi người chúng ta để ban sức sống, soi sáng và hướng dẫn chúng ta tới chân lý toàn vẹn là Chúa Kitô. Để được Người hướng dẫn, tôi mời gọi chúng ta thực hành ba việc sau đây:

1) Mỗi ngày chúng ta hãy nhớ đến Người, ý thức về sự hiện diện và hoạt động của Người, nhất là hãy nhạy bén với hoạt động của Chúa Thánh Thần, và để cho Người hướng dẫn chúng ta qua ước muốn, suy nghĩ, lời nói và hành động của chúng ta.
2) Trước khi làm gì, chúng ta hãy cầu nguyện xin Người hướng dẫn và soi sáng cho chúng ta.
3) Mỗi sáng thức dậy, chúng ta hãy nhớ ngay đến Chúa Thánh Thần và thầm nguyện với Người, xin Người là Đấng Bảo Trợ của con trong ngày mới. Amen!

Về mục lục

CAN ĐẢM DẤN THÂN CHO TIN MỪNG

Lm. JB Nguyễn Minh Hùng

 Sau ngày Chúa Kitô bị giết, kể cả sau khi Người sống lại, các môn đệ của Chúa Kitô rất sợ hãi. Họ trở thành những kẻ bạc nhược, mất hết can đảm, mất hết ý chí vươn lên. Ngay cả khi ở trong nhà, họ vẫn đóng kín cửa. Thánh Gioan nói rõ, “họ đóng kín cửa nhà vì sợ người Dothái” (Ga 20, 20).

Vậy mà ngày lễ Ngũ tuần năm ấy, mọi sự khác hẳn. Đó chính là ngày Chúa Thánh Thần ngự đến trên các tông đồ dưới hình lưỡi lửa. Từ đây, đánh dấu thời điểm các tông đồ không còn biết sợ, nhưng mở bung cửa nhà, lên tiếng tuyên xưng đức tin Chúa Kitô Phục sinh và thi nhau rao giảng ơn cứu độ của Chúa Kitô ngay lập tức bằng mọi ngôn ngữ, không một chút sợ hãi….

Lưỡi tượng trưng cho lời nói. Hình lưỡi có ý nhấn mạnh công tác truyền giáo của các môn đệ Chúa Kitô. Bởi khi thực hành công tác truyền giáo, các môn đệ nối tiếp sứ mạng của Chúa Kitô trong sự trợ lực và nâng đỡ lớn lao của Chúa Thánh Thần.

Còn lửa tượng trưng cho tình yêu và lòng nhiệt thành. Các môn đệ Chúa Kitô sẽ là những người mang trong mình tình yêu của Thiên Chúa, họ hãy nhiệt thành suốt đời truyền bá Tin Mừng tình yêu của Chúa.

Chính Chúa Thánh Thần là nguồn tác sinh tình yêu và lòng nhiệt thành này nơi các môn đệ của Chúa Kitô, để càng ngày các môn đệ càng hăng hái hơn trong trách vụ loan báo Tin Mừng của mình. Như vậy, hình lưỡi lửa trong ngày lễ Hiện Xuống, chính là hình ảnh của Chúa Thánh Thần gắn liền công tác truyền giáo của các môn đệ Chúa Kitô.

Lãnh nhận ơn Chúa Thánh Thần ngay trong ngày Người ngự đến, lòng các tông đồ được biến đổi nên dũng cảm phi thường. Từ những kẻ chỉ biết sợ, từ đây, các tông đồ quyết tâm sống chết cho Tin Mừng mà mình lãnh nhận. Không chỉ mở bung cửa nhà tiệc ly, họ còn tỏa ra khắp thế giới làm cho niềm tin vào Chúa Phục sinh lan rộng không ngừng.

Chính ngày Chúa Thánh Thần ngự đến là cột mốc đánh dấu thời gian lòng can đảm bùng lên mạnh mẽ nơi Hội Thánh Chúa Kitô.

Lòng can đảm đó cần thiết cho mỗi chúng ta là những Kitô hữu khi nối tiếp sứ mạng các tông đồ. Chúng ta cũng phải lên đường truyền giáo. Cuộc lên đường của chúng ta là đời sống mỗi ngày trong trách nhiệm sống đức tin, sống tình yêu thương, sống ơn hiệp nhất để làm chứng cho Tin Mừng của Chúa.

Lòng can đảm đó càng cần thiết khi ta quyết giữ lòng mình sốt sắng, mến yêu Chúa, lo tuân giữ luật Chúa giữa một thế giới nhiều cám dỗ, nhiều đau khổ mà nhân loại gây ra cho nhau.

Như các tông đồ xưa, ta sốt sắng cầu nguyện cùng Chúa Thánh Thần, mở lòng đón nhận Chúa Thánh Thần, xin Người ban cho ta lòng can đảm, để ta dấn thân cho Tin Mừng suốt đời ta.

Sách Công vụ Tông đồ từng ghi nhận sự hiện diện của Đức Maria nơi tông đồ đoàn khi họ cầu nguyện tại nhà tiệc ly, sau khi Chúa Kitô về trời.

Chúng ta cũng hãy cậy nhờ lời chuyển cầu của Đức Mẹ để làm phát sinh hoa trái của ơn Chúa Thánh Thần trong tâm hồn mình. Cậy nhờ Đức Mẹ, không chỉ vì Đức Mẹ xứng đáng dâng lời cầu nguyện hơn ta, mà còn vì Đức Mẹ cảm nghiệm thâm sâu về Chúa Thánh Thần qua cả một chiều dài của đời sống kết hiệp cùng Chúa Kitô trong suốt cuộc đời của Mẹ. Hơn nữa, Mẹ đã nhận được chính Chúa Thánh Thần là quà tặng của Thiên Chúa trao ban, để từ nơi Mẹ, Chúa Kitô nhập thể làm người.

Với vai trò thật lớn lao của Đức Mẹ như thế, càng khiến chúng ta phó thác cho lời chuyển cầu của Đức Mẹ trong việc hưởng nhờ hoa trái của ơn Chúa Thánh Thần trong suốt đời ta. Như vậy sự cầu nguyện của ta và công nghiệp của Đức Mẹ sẽ là bí quyết chắc chắn dẫn ta đến cùng Thiên Chúa, hưởng nhờ hoa trái của ơn Chúa Thánh Thần và ngày càng xứng đáng là Con Thiên Chúa.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...