CHÚA NHẬT 6 THƯỜNG NIÊN_A
Lời Chúa: Hc 15, 16-21; 1 Cr 2, 6-10; Mt 5, 17-37
-------------------------------------------
1. Sống theo sự thật (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
2. Đường lối khôn ngoan (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
3. Hoàn thành lề luật (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
4. Sống yêu thương như Chúa dạy (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)
5. Chỉ một chữ yêu (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
6. Luật để làm gì? (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
7. Tôn trọng phẩm giá con người (Lm. Inhaxio Trần Ngà)
8. Đừng giận ghét (Lm. Inhaxio Nguyễn Văn Đức)
9. Lề luật mang dáng đứng tình yêu (Lm. Giuse Trương Đình Hiền)
10. Hãy nên hoàn thiện (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)
11. Thầy bảo cho anh em biết (Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu, SJ)
12. Công chính hơn (Lm. Phêrô Trần Đức Cường)
13. Anh em phải công chính hơn các kinh sư (Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)
14. Thầy đến để kiện toàn lề luật (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
15. Luật của Chúa Giêsu (PM. Cao Huy Hoàng)
16. Thanh toán nợ đời (Trầm Thiên Thu)
17. Chu toàn luật của Thiên Chúa với lòng yêu mến (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
18. Tinh thần mới trong lề luật cũ (Giuse Vinhson Ngọc Biển, SSP)
19. Kiện toàn lề luật và đức công chính mới (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)
20. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 6 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên
Sống trên đời, lý tưởng và mẫu mực mà chúng ta chọn lựa không phải là một vĩ nhân nơi trần thế. Lý tưởng sống của người tín hữu là chính Chúa Giêsu, Đấng đã tuyên bố: Ta là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Nhờ việc chuyên chăm thực hiện giáo huấn của Đức Giêsu, chúng ta có thể sống theo sự thật và nên hoàn hảo trong cuộc đời trần thế, là bảo đảm hạnh phúc Nước Trời.
Tự bản chất, con người dễ dàng dối trá với người khác và dối trá với cả chính mình. Vì dối trá, người ta sẵn sàng xúc phạm đến tha nhân, thậm chí xúc phạm cả Thiên Chúa. Đức Giêsu dạy chúng ta trong Tin Mừng hôm nay: “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”. Bài Tin Mừng hôm nay là tổng hợp nhiều nội dung giáo huấn, nhằm giúp con người sống ngay thẳng trước mặt Chúa và đối với anh chị em đồng loại. Trong giáo huấn này, Chúa khuyên chúng ta, lòng bác ái trung thực đối với tha nhân còn quan trọng hơn của lễ dâng cho Chúa. Chính vì vậy, khi dâng lễ, nếu trong lòng còn những uẩn khúc và mâu thuẫn đối với người khác, thì điều ưu tiên là hãy làm hòa với nhau, vì Chúa chỉ nhận của lễ dâng của người có tâm hồn bình an thanh thản. Thông thường, người ta dễ dàng nói những lời hoa mỹ đối với Chúa, nhưng lại dùng những lời thô tục hoặc cứng cỏi với tha nhân. Sống theo sự thật là tạo mối tương quan chân thành với Chúa cũng như với anh chị em mình.
Nhờ sống theo sự thật mà chúng ta dễ dàng thực thi Luật Chúa. Chúa Giêsu giảng dạy như một nhà cải cách luật pháp. Người không dừng lại ở chữ nghĩa hay những công thức lý thuyết khô cứng, nhưng chú trọng đến tinh thần, đến tâm hồn của người giữ luật. Quả thật, người muốn nên hoàn thiện không chỉ giữ con mắt giác quan bề ngoài, nhưng còn giữ tâm hồn và ý tưởng của mình ngay thẳng trung thực. Vì sống ngay thẳng, nên người ta không cần thề thốt. Chúa Giêsu lên án những thói quen nơi người Do Thái bình dân thời bấy giờ. Họ thường lấy Danh Thiên Chúa hoặc Đền thờ Giêrusalem để thề, để chứng minh cho sự trung thực của mình. Chúa nói: đừng thề chi cả, nhưng có thì nói có, không thì nói không; thêm thắt đặt điều là do ác quỷ mà ra. Quả vậy, trong con người chúng ta vẫn có “ác quỷ” tức là mầm mống của sự dối trá. Bổn phận của người tin Chúa là phải làm sao để mầm mống của sự thật lớn lên và sinh hoa kết trái, đẩy lui ảnh hưởng của sự dối trá đang hủy hoại tâm hồn và làm cho con người lạc hướng.
Tác giả sách Huấn Ca dạy chúng ta hãy khôn ngoan trong cách sống và trong nhận định của mình. Nhờ khôn ngoan mà chúng ta chọn lựa những gì ích lợi thiêng liêng và bền vững, đem lại hạnh phúc cho bản thân và cho những người xung quanh. Ông đã dùng một hình ảnh đơn sơ dễ hiểu: Đức Chúa đặt trước mặt con người lửa và nước, nếu muốn gì thì giơ tay mà lấy; Đức Chúa đặt trước mặt họ cửa sinh và cửa tử…Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội (Bài đọc I). Như thế, Thiên Chúa ban cho con người có tự do để chọn lựa sự sống hay sự chết cho mình, để rồi họ phải lãnh trách nhiệm về những chọn lựa cũng như những hệ lụy của chọn lựa ấy. Vì con người hay lạm dụng tự do, nên Chúa đã thiết lập lề luật làm nền tảng để lượng giá những hành động của họ. Lề luật của Thiên Chúa là mẫu mực cho mọi lề luật của loài người, nên luật đó có giá trị ưu tiên. Mọi dân luật đều phải dựa trên luật của Thiên Chúa đã khắc ghi vào lương tâm con người.
Nếu sự khôn ngoan là một chọn lựa và tìm kiếm để nên hoàn thiện, thì theo nhãn quan Kitô giáo, Chúa Giêsu chính là Đức Khôn Ngoan của Thiên Chúa Cha. Đức Khôn Ngoan đã nhập thể, mang lấy thân phận con người để chung chia phận người với chúng ta. Thánh Phaolô quả quyết: rao giảng Đức Kitô là rao giảng sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Đón nhận sự Khôn Ngoan chính là đón nhận Thiên Chúa. Chính vì vậy, lý tưởng của người Kitô hữu là chính Chúa Giêsu, là Sự Khôn Ngoan vĩnh cửu và là Đấng Cứu độ trần gian. Thánh nhân cũng mời gọi chúng ta hãy hành xử theo sự khôn ngoan đích thực, chứ không phải lẽ khôn ngoan theo quan niệm thế gian. Trong tiến trình tìm kiếm sự Khôn Ngoan, có Thần Khí giúp đỡ chúng ta, để chúng ta không nản chí và không thất vọng.
Hành trình đức tin là hành trình tiến theo Sự Thật và tìm kiếm sự Khôn Ngoan của Thiên Chúa. Xin Chúa cho chúng ta được ơn kiên trung, để mặc dầu giữa những biến động của trần gian, chúng ta vẫn luôn gắn bó với Chúa Giêsu, Đấng là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Một khi trung thành với Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ dễ dàng sống trung thực đối với anh chị em mình.
.
Lm. Jos. DĐH.
Không biết từ bao giờ, cha ông chúng ta đã biết lưu ý con cháu: khôn cho người ta vái, dại cho người ta thương. Đâu phải tự nhiên mà các công trình xây dựng, thường thấy xuất hiện câu châm ngôn: an toàn là trên hết. Cũng đâu phải tình cờ mà các đấng bậc lại quả quyết: không phải hễ thứ gì long lanh sáng đều là vàng, không phải cứ trái đỏ đều chín. Người ta có thể đói khát do lười biếng, có thể thành đạt vì ý chí tốt quyết tâm cao, nhưng chắc chắn nhờ kiến thức rộng, người ta tự tin giải gỡ biết bao bài toán khó nơi cuộc sống. Đâu là cơ hội để làm giầu, phương pháp học nào, giúp ta trở thành người khôn ngoan, bằng suy nghĩ rất riêng tư, ai cũng có câu trả lời, nhưng thành bại, khôn hay khờ ra sao, lại là điều vô cùng mông lung. Đâu là đường lối khôn ngoan, nhiều người vẫn mơ được, ước thấy, căn bản hơn cả đó là được bình an hạnh phúc ở hiện tại và tương lai.
Mọi người mọi thời đều có thể nói một cách xác tín, bậc cha mẹ nào cũng yêu thương và muốn con cháu mình: đi đúng đường, về đúng lối. Đức Giêsu là Con Thiên Chúa, Ngài đã từng thân thưa: “lạy Cha, nếu có thể, xin cất chén này khỏi con, nhưng đừng theo ý Con, một theo ý Cha”. Trong tư cách là thầy dạy đức tin, Đức Giêsu hôm nay đã nói với các học trò: “chúng con đừng tưởng Thầy đến để huỷ bỏ lề luật và các ngôn sứ, Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn”. Rõ ràng Chúa Giêsu gián tiếp cho thấy Ngài tôn trọng lời răn dạy của tiền nhân, vì tất cả đều đến từ Thiên Chúa. Khôn ngoan đối đáp người ngoài, nhiều người vẫn cho đó là “khôn lỏi” ; khôn ngoan không loại trừ nhau, biết coi nhau là “huynh đệ”, biết cùng nhau tiến tới niềm vui thật, đạt tới sự sống và hạnh phúc thật, đó mới đáng gọi là khôn ngoan.
Xưa kia các môn đệ là những học trò trực tiếp nghe lời quả quyết của Đức Giêsu: “cho dù trời đất có qua đi, thì một chấm một phết trong lề luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Đức Giêsu có nghiêm khắc không, “giáo hội” của Đức Giêsu hôm nay có cứng quá không, khi đòi buộc những ai thuộc về Đức kitô, người tín hữu muốn đạt tới sự khôn ngoan thật, đều phải biết duy trì tính bất di dịch việc sống đức tin: mến Chúa yêu người. Đồng ý rằng, cái gì mới cũng đẹp, điều gì hợp lý cũng thu hút được đám đông, nhưng đường lối khôn ngoan dẫn đưa đến hạnh phúc phải là “nền tảng vững chắc” cho đạo làm người, đạo làm con Chúa. “Đường lối chuẩn mực” chính là lề luật, là hàng rào che chắn để sự xấu không xâm phạm không làm hại ai.
Hẳn Đức Giêsu rất muốn các học trò hiểu luật lệ do ông Môisê chỉ dạy, qui định do các ngôn sứ loan báo đều đến từ Thiên Chúa, đó là đường lối khôn ngoan, là con đường dẫn tới sự sống đời đời. Đức Giêsu kiện toàn, làm mới, bằng cách mời gọi mọi người hãy đặt tình yêu thương vào trong lề luật, trong qui định mà Thiên Chúa qua các đấng bậc hướng dẫn chia sẻ cho chúng ta. Không những nghiêm túc với lời răn dạy của người xưa, Đức Giêsu còn nói: “nếu các người không công chính hơn các luật sĩ biệt phái, các ngươi sẽ không được vào Nước Trời”. Nhìn xem, phân biệt thật giả tốt xấu đã là khó, biết tiên liệu, cân nhắc điều đẹp ý Chúa để tập luyện, để sống, còn phức tạp biết bao !
Truyện cổ tích Thạch Sanh – Lý Thông, từ xa xưa đã phản ánh một chân lý ở hiền gặp lành, Thạch Sanh luôn nghĩ tốt, sống tốt với mẹ con Lý Thông ; dù bị hại nhiều lần, Thạch Sanh vẫn được giải oan, được cứu thoát, và đạt tới hạnh phúc. Ngày hôm nay, người trẻ vô cùng bi quan khi nói: lấy vợ lấy chồng là hên xui, kết hôn chỉ là bổn phận, vì Thạch Sanh thì hiếm, người tình trong mơ thì mãi là cuộc tình đẹp không xuất hiện. Cổ nhân có câu: sang trọng đâu phải đợi khi có chức tước, giầu có đâu phải đợi khi tủ đầy tiền. Có khi nào bạn và tôi ước ao sẽ là người hiền đức chưa, liệu tôi và bạn có dám quảng đại, xả thân, sống như người quân tử không ? Chúa Giêsu mời gọi các thành viên gia đình nhân loại hãy quyết tâm, hãy can đảm: “nếu tay nên dịp tội, nếu mắt nên dịp tội, hãy loại bỏ, chẳng thà các chi thể bị khiếm khuyết mà vào nước Thiên Chúa còn hơn có đủ mà phải vào chốn cực hình”.
Ngày hôm nay, giáo hội, xã hội, đều kêu gọi mỗi người hãy tôn trọng nhân phẩm con người, và chúng ta không thể dửng dưng đợi chờ người anh chị em nghĩ tốt sống tốt với mình, rồi ta mới bác ái yêu thương họ. Cũng không thể đợi tới lúc già lão bệnh tật ta mới ăn chay hãm mình ; không thể nói người ta sống sao, tôi sẽ cư xử với họ như vậy, vì đường lối khôn ngoan phải là biết nghĩ tốt, sống đúng đẹp với thiên luật, là không lỗi phạm đạo lý căn bản: tốt đạo – đẹp đời. Sau hết, Chúa Giêsu còn lưu ý chúng ta, đừng thề thốt chi cả, vì con người giới hạn, hãy cậy dựa vào tình yêu và sức mạnh của Thiên Chúa, để chúng ta biết nói có với Chúa và tha nhân, và nói không với ma quỷ. Amen.
.
Lm Giuse Hoàng Kim Toan
Giao ước ký kết giữa Thiên Chúa và dân được tuyển chọn là bước khởi đầu để con người sống với nhau và với Chúa trên căn bản mười điều răn. Dần dần, vì những khung lề luật ấy mở rộng ra như là những định chế để họ bám theo cách máy móc, mất đi ý nghĩa về lòng kính mến Chúa trên hết mọi sự. Lề luật dẫn đến không còn vâng phục Thiên Chúa mà chỉ theo hình thức. Sự yếu kém của lề luật không chỉ ra căn rễ của tội lỗi.
Lề luật mang tính hình thức.
“Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân.” (Mc 7, 7). Tính giới hạn của lề luật là sống vị luật, không kèm theo giá trị cốt lõi của lề luật. Luật mang tính hướng dẫn đời sống, song cũng vì thế mà có nhiều cách né luật để theo tự do của mình.
Tuân giữ lề luật một cách nghiêm chỉnh, người thanh niên vẫn thiếu một điều chính yếu, hiến dâng tất cả (Xem Mc 10, 17 – 21). Tuân thủ mọi điều răn một cách nghiêm túc, người thanh niên còn thiếu một điều vượt trên lề luật, buông bỏ tất cả để theo Chúa.
“Nói mà không làm” (Mt 23, 3). Dạy người khác tuân giữ lề luật nhưng chính họ lại không thực thi. Lề luật áp dụng trên người khác còn chính mình thì không.
Lề luật trói buộc người khác chứ không làm cho người ta tự do trong lề luật, như luật lệ ngày Sabat mà luật sỹ thường hay hỏi Chúa được phép làm hay không được phép làm? Chúa Giêsu hỏi lại họ, làm những việc lành, cứu chữa hay là mặc kệ (Xem Mt 12, 9 – 13).
Lề luật cần trở về với đúng nghĩa của nó như điều răn thứ nhất mời gọi: “Kinh mến Chúa trên hết mọi sự”.
Lề luật cần chỉ rõ căn nguyên tội lỗi.
Lề luật có khi che giấu tâm trạng bên trong, như luật không báo thù nhưng lòng vẫn căm phẫn. Như luật chớ ngoại tình những lòng vẫn dâm ô. Chúa Giêsu bảo cái gốc rễ sự xấu ở trong con người ra chứ không phải cái bên ngoài vào (Mc 7, 15). Thanh tẩy tâm hồn để việc giữ luật được nên trọn.
Lề luật để giới hạn con người trong chừng mực chứ không có chức năng chữa lành căn nguyên tội lỗi. Quyền năng tha tội đến từ Thiên Chúa, chứ không do con người giữ lề luật mà tẩy trừ tội lỗi. Chúa Giêsu chữa cho người bất toại: “Hãy vững lòng, tội lỗi của con đã được tha” (Mt 9, 2) thay vì nói hãy trỗi dậy mà đi!.
Tuân giữ lề luật của Chúa trên hết đó là quyền làm con Thiên Chúa. Như Thánh Vịnh có chép: “Hy sinh cùng lễ vật, Người đã chẳng màng, Người đã mở tai tôi, lễ toàn thiêu cùng tạ tội, Người đã chẳng đòi. Bấy giờ tôi nói: Này tôi đến! trong cuốn sách đã chép dạy tôi: “Phải thi hành điều thỏa lòng Người. Lạy Thiên Chúa tôi, tôi mộ mến luật Người tận đáy lòng” (Tv 40 8 – 9).
Hoàn thành lề luật như Chúa Giêsu muốn dạy: Hoán cải nội tâm và Tin vào Tin Mừng. Nhờ vào quyền năng của Chúa để được tha thứ. Thực thi mọi sự trong lòng kính mến Chúa. Tình yêu làm cho lề luật được hoàn thành.
.
Lm.Jos Tạ duy Tuyền
Theo thống kê của Bộ Y Tế trong dịp tết Canh Tý đã có hang ngàn người vì đánh nhau mà phải nhập viện. Đa số người nhập viện là thanh thiếu niên có sức khoẻ nhưng không làm chủ được bản thân.
Vì đâu mà người Việt nên nỗi? Đừng đổ lỗi cho thầy cô giáo, vì môi trường giáo dục nào cũng dạy học sinh phải trở thành người biết yêu thương, giúp đỡ mọi người. Đừng đỗ lỗi cho tôn giáo, vì tôn giáo nào cũng dạy biết yêu thương. Nhiều người Việt Nam rất sùng đạo, điển hình là ngày tết số lượng người đến lễ Chùa có lẽ còn đông hơn đi du lịch. Vậy tại sao nhiều người vẫn bạo lực và bất khoan dung với nhau?
Người Công giáo luôn được Kinh Thánh dạy dỗ biết sống hiền lành và khiêm nhường , biết sống bao dung và ôn hoà như Đức Ky-tô, thế mà ở đâu đó ta vẫn thấy người có đạo đã sống thiếu tình yêu. Thậm chí, có người còn nói rằng tin đạo chứ không tin người có đạo. Bởi vì vẫn còn đó những người mang danh Ky-tô hữu mà sống thiếu bác ái, thiếu công bình và thiếu tình yêu. Họ đi lễ nhưng không dám sống thánh lễ trong cuộc đời của họ. Họ có đạo nhưng hành động của họ lại ngược với giáo huấn của Chúa. Họ vẫn đến nhà thờ nhưng vẫn trộm cắp gian tham, vẫn ăn gian nói dối, vẫn cãi nhau , chửi nhau giữa chốn chợ đời …
Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy sống theo tinh thần Phúc Âm. Hãy ăn ở ngay lành. Hãy làm việc thiện. Hãy từ bỏ những tính hư nết xấu, những đam mê tội lỗi. Đừng có đạo mà sống xa rời tình nghĩa với anh em, xa rời tình nghĩa với Chúa. Đạo không dừng lại ở việc tuân giữ điều này điều kia mà còn thể hiện tình liên đới, sự chia sẻ, cảm thông với anh em. Đạo Chúa còn coi trọng sự hoà giải với nhau hơn cả việc đến dâng của lễ. Vì khi “anh em sắp dâng lễ vật trước bàn thờ mà sực nhớ có người đang bất bình với anh, thì hãy bỏ của lễ mà đi làm hoà trước đã rồi hãy trở lại mà dâng lễ”.
Sống giữa một xã hội đầy hận thù như vậy, người ky-tô hữu chúng ta được mời gọi phải sống triệt để giới răn yêu thương để làm chứng cho Tin mừng. Yêu thương thì “chín bỏ làm mười”. Yêu thương thì nhẫn nại đến nỗi “người ta có tát má này thì đưa má kia cho người ta tát”. Yêu thương thì luôn sống bao dung và sẵn lòng cầu nguyện cho kẻ đã xúc phạm đến mình.
Nguyện xin Chúa là Đấng đã tha thứ cho mọi tội khiên của nhân loại xin cũng tha thứ cho những yếu đuối của chúng ta, và xin Ngài giúp chúng ta cũng biết sống tha thứ và hoà giải với nhau. Amen
.
Bông hồng nhỏ
Chúa Giêsu là một người thầy vĩ đại vì Ngài không dạy mà còn sống như lời mình đã dạy. Bao người mộ mến đi theo Chúa và được Người yêu thương. Thế nhưng, trước những việc làm tốt đẹp của Chúa Giêsu, các người Biệt phái và những người Pharisêu tỏ ra rất khó chịu, họ tìm cách giết Người. Các môn đệ cũng lầm tưởng theo kiểu thế gian về những việc Thầy đang làm. Hôm nay, Chúa Giêsu khẳng định với các môn đệ rằng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Chúa Giêsu đã kiện toàn điều gì nơi Lề Luật?
“Anh em đã nghe Luật dạy rằng,… còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết”. Đó là cách Người gợi nhắc cho các môn đệ nhớ lại điều Luật xưa đã dạy và lắng nghe điều Thầy dạy ngay lúc này đây. Tất cả những gì Luật Môsê chỉ dẫn, các môn đệ đều phải giữ nhưng bấy nhiêu thôi thì chưa đủ. “Nếu anh em không sống công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (Mt 5,20). Các kinh sư và những người Pharisêu chỉ sống công chính bằng việc giữ Luật mà bỏ qua lòng nhân ái. Sự công chính mà Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Người phải sống đó là luật yêu thương. Luật yêu thương sẽ giúp chúng ta vươn cao hơn mãi. Tình yêu sẽ làm cho con tim của chúng ta triển nở hơn mỗi ngày. Chúa Giêsu nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc sống yêu thương. Yêu thương là luôn đi bước trước. “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình” (Mt 5, 23-24). Ai trong chúng ta sẵn sàng bỏ qua tự ái để đi làm hòa với người khác? Của lễ nào là của lễ đẹp lòng Thiên Chúa? Đó chẳng phải là tình yêu thương, lòng vị tha chúng ta dành cho nhau sao. Nếu như lòng tự ái của chúng ta cao quá, chúng ta vẫn ở lại dâng lễ vật đang khi tình huynh đệ đang bị rạn nứt thì nào có đẹp lòng Chúa đâu. Để có thể làm một bước đi mới như Chúa đòi hỏi, chúng ta cần để cho lòng mình lắng lại, để cho tình yêu chiến thắng ích kỷ và hận thù trong lòng, nhờ ơn Chúa, chúng ta mới có thể bước đến với người anh em, nhất là đến với người mà ta không mấy dễ chịu. Mỗi ngày, trước những chọn lựa, trong những chọn lựa và sau những chọn lựa của chính mình, chúng ta hãy tự hỏi: “Trong trường hợp này, con muốn như thế. Còn Chúa, Chúa muốn con làm gì?”.
Lạy Chúa Giêsu! Để sống được điều Chúa dạy, mỗi ngày Chúa vẫn mời gọi con vượt qua chính mình. Xin Chúa thanh luyện tâm hồn và trái tim con, xin thánh hóa ánh mắt con, lời nói của con và những hành động con dành cho anh chị em con. Xin Chúa luôn ở lại trong trái tim của con, trong lý trí và ở lại trên ánh mắt của con, trong lời nói của con, trên từng việc con làm, để tất cả chỉ vì một chữ yêu mà con trở nên môn đệ của Chúa. Amen.
.
Anna Cỏ May
Đi tới đâu, ở bất cứ nơi nào, chúng ta điều phải tuân thủ luật lệ ở đó. Có bao giờ chúng ta suy nghĩ và tự hỏi: Luật đặt ra để làm gì? Tại sao mọi người đều phải tuân giữ?
Mỗi người có một lối suy nghĩ và có câu trả lời riêng. Tuy nhiên, điểm cốt yếu chính là luật đề ra để nhắm đến lợi ích cho đất nước và đem lại cuộc sống hạnh phúc cho mọi người. Chúa Giêsu cũng khẳng định luật lập ra để phục vụ cho con người. Ngài đã nói với các môn đệ: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn” (Mt 5,17). Ngài nhấn mạnh luật phải dựa trên tình bác ái yêu thương và phục vụ giữa con người với nhau. Bởi vì, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong lề luật cũng không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành (x Mt 5.18).
Chúa Giêsu đã nói: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời”(Mt 5,19a). Vì vậy, luật Chúa Giêsu trao cho Giáo hội mà chúng ta đang thực hành chính là các điều răn. Các điều răn đó xuất phát từ Lời Chúa là Kinh Thánh. Khi tuân giữ các điều răn đó là chúng ta cũng đang tuân giữ luật xã hội. Như thế, chúng ta đã đạt đến sự sống ở đời này và cả đời sau. Thế nhưng, ngày hôm nay, chúng ta dễ rơi vào lối sống của thuyết tương đối, nghĩa là khi phạm luật, chúng ta tự nhủ với mình hoặc với người khác rằng “phạm một lần có sao đâu”, hay một câu nói khác để biện minh cho hành động sai của mình. Từ lối suy nghĩ và hành động biện minh dẫn tới biết bao tai hại xảy ra cho đất nước và cho mọi người. Bao lâu, chúng ta không tuân giữ luật trong tình bác ái là chúng ta đang sống một cuộc sống ích kỷ và vô tâm với người khác, gây ra sự xáo trộn cho xã hội và Giáo hội. Còn khi chúng ta tuân giữ và dạy người khác tuân giữ là chúng ta đang làm chủ luật và xây dựng đất nước, hướng đến cuộc sống Nước Trời. Chúng ta sẽ trở nên người công chính ngay khi ở đời này.
Lạy Chúa, chúng con xin lỗi Chúa vì đã bao lần chúng con thờ ơ trong việc tuân giữ luật Chúa. Xin Chúa cho mọi người chúng con ý thức và bắt đầu lại việc thi hành luật yêu thương. Từ đó, mỗi người chúng con được sống hạnh phúc và đất nước được an bình. Amen.
.
Lm. Ignatiô Trần Ngà
Con người có phẩm giá rất cao quý
Một hôm, vị linh mục giảng tĩnh tâm cho giới trẻ giáo xứ nêu đề tài sau đây cho hai nhóm thanh niên thảo luận: “Các bạn hãy cho ý kiến: phẩm giá của bức tượng Đức Mẹ (đề cập đến bức tượng Đức Mẹ chứ không đề cập đến Đức Mẹ đâu nhé) và phẩm giá của các Kitô hữu đang sống chung quanh ta, bên nào trọng hơn?”
Thấy câu hỏi dễ ợt, không cần suy nghĩ, nhóm A giơ tay phát biểu trước: “Tất nhiên là phẩm giá của tượng Đức Mẹ cao trọng hơn.”
Nhóm B trầm tĩnh hơn, sau khi suy nghĩ chín chắn, phát biểu ngược lại: “Phẩm giá người Kitô hữu cao trọng hơn.”
Nhóm A nhao nhao phản đối, nhưng rồi đại diện nhóm B bày tỏ lập luận của nhóm mình như sau:
Sở dĩ chúng tôi quả quyết phẩm giá người tín hữu cao trọng hơn phẩm giá của tượng Đức Mẹ là vì những lý do sau:
– Thứ nhất: Tượng Đức Mẹ không phải là hiện thân của Đức Mẹ mà chỉ là hình hài tượng trưng cho Đức Mẹ, do bàn tay người phàm tạo ra bằng thạch cao hoặc bằng gỗ đá, không có linh hồn, không có sự sống; trong khi những con người chung quanh ta đây thực sự là hình ảnh sống động của Thiên Chúa, là hiện thân của Chúa Giêsu, có linh hồn, có sự sống, có trí khôn, do chính Ba Ngôi Thiên Chúa dựng nên theo hình ảnh Chúa.
– Thứ hai: Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Tẩy để tái sinh các tín hữu, cho họ trở nên con Thiên Chúa, cho họ được tháp nhập vào thân mình Chúa như cành nho tháp vào thân nho, như bàn tay nối liền cơ thể, để các tín hữu được trở nên chi thể của Chúa Giêsu. Các bức tượng thánh không được vinh dự đó.
– Thứ ba: Các tín hữu đều được lãnh nhận dồi dào Chúa Thánh Thần trong ngày lãnh nhận Bí Tích Thêm Sức; ảnh tượng Đức Mẹ không được đặc ân rất cao quý nầy.
– Thứ tư: Chúa Giêsu lập Bí Tích Thánh Thể để ban Thịt Máu Ngài cho các tín hữu, cho họ được trở nên đồng huyết nhục với Ngài, cho họ được tiếp nhận sự sống thần linh của Ngài. Các bức tượng thánh không được vinh dự tuyệt vời như thế.
– Thứ năm: Mai đây, các bức tượng thánh sẽ bị mai một theo thời gian, còn các tín hữu sống theo đường lối Chúa sẽ được lên thiên đàng hưởng phúc đời đời với Chúa. Không một bức tượng thánh nào được diễm phúc lớn lao như thế.
Đến đây thì nhóm A không thể chống chế được và tất cả đều chấp nhận rằng phẩm giá người tín hữu nói riêng, của con người nói chung, là rất cao cả. Chưa có một chủ nghĩa, một học thuyết nào của nhân loại đề cao phẩm giá con người đến thế.
Cuối cùng, vị linh mục giảng tĩnh tâm kết luận: Như thế, chúng ta chấp nhận rằng con người có phẩm giá rất cao và mọi người đều đáng được kính trọng tương xứng với phẩm giá của mình. Tuy nhiên, khi đề cao phẩm giá người Kitô hữu hơn tranh ảnh thánh không có nghĩa là bác bỏ việc tôn kính ảnh tượng thánh. Đúng ra, chúng ta phải tôn kính ảnh tượng Đức Mẹ và các thánh như Giáo Hội dạy, và mong sao chúng ta cũng có lòng tôn trọng tương xứng đối với anh chị em chung quanh.
Không được xúc phạm con người
Vì con người có phẩm giá cao cả như thế, nên Chúa Giêsu rất mực tôn trọng họ, kể cả những người tội lỗi và Chúa đã mạnh mẽ cảnh báo rằng: người nào xúc phạm đến con người, chà đạp danh dự con người, làm tổn thương phẩm giá con người sẽ phải gánh lấy những hình phạt nặng nề:
“Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” (Mat-thêu 5, 22)
Ngoài ra, Chúa Giêsu cũng nhắc nhở chúng ta rằng tha nhân là hiện thân của Ngài và tất cả những gì chúng ta làm cho các anh chị em chung quanh là làm cho chính Chúa. (Mat-thêu 25,40)
Vì thế, khi chúng ta giận ghét anh em mình là giận ghét Chúa, tội đó đáng bị đưa ra toà; khi ta mắng anh em là ngốc, là khùng, chửi anh em là quân phản đạo… là chúng ta xúc phạm đến chi thể của Chúa Giêsu, tức là xúc phạm đến chính Ngài, vì thế nên đáng bị vạ lửa địa ngục như Lời Chúa phán.
* * *
Từ lâu nay, vì đánh giá thấp về người khác nên chúng ta cho rằng việc chửi mắng họ là chuyện thường tình. Nay Chúa Giêsu cho biết đó là một xúc phạm nặng đến phẩm giá cao cả của người khác, đồng thời cũng là xúc phạm đến Chúa nên phải bị luận phạt nặng nề.
Ước chi nhận thức nầy giúp chúng ta có thái độ tôn trọng tha nhân nhiều hơn và tuyệt đối không bao giờ chửi mắng, xúc phạm bất kỳ ai.
.
Lm Inhaxiô Nguyễn Văn Đức
Chương 5,6,7 của Tin Mừng Matthêu nói về đức công chính của người môn đệ với hai nội dung chính: Tin, cầu nguyện và thể hiện niềm tin ấy trong đời sống thực hành luân lý hằng ngày.
Qua bài Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy các môn đệ thực hành niềm tin bằng cách: đừng giận ghét. Chúa dạy như vậy có khả thi không? Bởi vì trên đời này, dù một người hiền lành đến mấy cũng không tránh khỏi đôi lần nổi giận. Chính Chúa Giêsu cũng đã nổi giận với những người buôn bán trong Đền thờ kia mà!
Thưa, giận thì được nhưng đừng ghét! Nói cách khác, chúng ta không chấp nhận tội lỗi nhưng chúng ta không ghét người tội lỗi; ghét có nghĩa là loại trừ họ. Đến như nhạc sĩ Phạm Duy mà còn hát: kẻ thù ta đâu phải là người, giết người đi thì ta ở với ai?
Chúa Giêsu tố cáo tội lỗi nhưng lại thương những người tội lỗi và thường đứng về họ trước sự chỉ trích của những người tự cho mình là người công chính:”bọn đĩ điếm và tội lỗi sẽ vao nước Trời trước các ngươi”. (Mt 21,32). Chúa Giêsu không chỉ nói đến sự giận dữ mà Ngài còn muốn phải làm hòa trước khi thể hiện niềm tin Chúa khi dâng lễ và cầu nguyện. (Mt 5,23-24)
Chúng ta biết giận là một trong thất tình: hỷ, nộ, ái, ố, ai, lạc, dục thuộc về bản tính con người.Giận là tức. Khi giận thường mất khôn và nói quá lời. Tức ai thì nói cho đã tức nhưng sau đó lại hối hận. Cũng có lúc hối hận thì đã muộn rồi. Vậy trong thực tế, một người nóng tính, hay giận (như Phêrô, nóng lên, liền chém đứt tai tên đầy tớ Thầy cả thượng phẩm) có thể chừa hay từ bỏ tính nóng giận của mình không?
Từ bỏ hẳn thì không,vì nó thuộc bản chất con người, nhưng làm chủ được nó thì có thể. Một người biết mình nóng tính, nên thường ngày tập sống tha thứ, tập sống dịu dàng, vui vẻ với mọi người; từ từ người đó sẽ làm chủ được những cơn nóng giận của mình.
Vậy lời Chúa dạy hôm nay: đừng giận ghét, thì ta phải hiểu rằng: ta không được ghét ai, nghĩa là loại trừ họ, đó là điều trái với đức thương yêu, nhưng đồng thời ta cũng phải tập làm chủ nhưng cơn nóng giận của mình. Việc đó có thể làm được với ơn Chúa và nhất là với đời sống cầu nguyện, vì đó là cách thức chúng ta dễ nâng tâm hồn lên với Chúa để Ngài thanh luyện tâm hồn chúng ta thuộc về Chúa và gần gũi với tha nhân hơn.
.
LỀ LUẬT MANG DÁNG ĐỨNG TÌNH YÊU
Lm. Giuse Trương Đình Hiền
Sau khi dân Ít-ra-en được Mô-sê dẫn ra khỏi đất Ai Cập, thoát khỏi cuộc đời lầm than nô lệ, thì Thiên Chúa muốn họ hướng về tương lai trong một niềm hy vọng ngút ngàn để xây dựng cuộc đời mới trong tự do, tươi sáng.
Và để làm nền tảng cho cuộc sống mới của Đoàn Dân Được Tuyển Chọn, Chúa đã trao ban cho họ một “bảng hiến pháp” tuyệt vời, đó là MƯỜI ĐIỀU RĂN, mà Ngài đã long trọng khắc ghi vào bia đá, giao cho Mô-sê từ trên đỉnh núi Si-Nai trong khung cảnh uy hùng khói bốc, lửa dậy.
– Kể từ đây, họ sẽ được tự do thờ phượng một Thiên Chúa đích thực mà không còn phải nô lệ cho những thần tượng giả tạo hay những thứ mê tín dị đoan của người Ai Cập và dân ngoại. (Điều răn I)
– Kể từ đây, họ sẽ chọn Thiên Chúa là Cha đang đồng hành và hiện diện giữa họ, để họ có thể gặp gỡ và thân thưa cách thân tình, phụ tử, chứ không còn là một thần tượng xa vời, kết buộc con người bằng những lời thề thốt giả tạo. (Điều răn II).
– Kể từ nay, họ có một ngày nghĩ lễ Sabat tuyệt vời trong tuần để dành riêng thờ Chúa và sống đậm đà tình huynh đệ cộng đoàn, chứ không phải nơm nớp lo sợ cúi đầu để thờ phượng lung tung những thần tượng trống rỗng và bị trói buộc mỗi phút mỗi giây trước những quyền lực phù phiếm và trần tục. (Điều răn III)
Do Thái không còn có thể xảy ra việc giết người, ngoại tình, trộm cướp, làm chứng gian, cáo tội đồng loại….(Các điều răn V, VI, VII, VIII)
– Kể từ nay trong cộng đồng và trong xã hội Do Thái không ai còn nghĩ đến chuyện ham muốn nhà cửa hay mê vợ của kẻ khác, hoặc muốn chiếm hữu tớ trai tớ gái hoặc bò lừa và bất cứ vật gì của người đồng loại….(Điều răn IX, X)
Đây quả thật là giấc mơ cho tương tai hoàn toàn được giải phóng và tự do, giải phóng khỏi sự sợ hãi của những tộc ác và tự do khỏi những cơn cám dỗ, khỏi những khuynh hướng làm ác.
Nhưng rồi, qua bao nhiêu thăng trầm lịch sử, cho tới thời Chúa Giêsu, Bản Luật Mười Điều Răn đó, đã được người Do Thái chú giải, bày đặt, thêm thắt thành hàng ngàn khoản luật nhỏ, đến độ biến thành một “mớ bòng bong lề luật” truyền khẩu chi li, rườm rà, gần như che khuất hết vẽ đẹp rạng ngời và trong sáng thánh thiện của Mười Điều Răn. Thay vì Giới Luật của Chúa nhằm để giải thoát và cho con người được tự do trong tình yêu, lề luật đã trở thành những thứ giây chằng chịt trói buộc, biến mối tương quan giữa người và Thiên Chúa trở nên xa cách và người với người trở nên lạnh lùng.
Vì luật họ để mặc những anh chị em bịphung cùi chết dần chết mòn trong hoang mạc với cuộc sống hoàn toàn bị cách ly, gạt bỏ.
Vì luật, họ chẳng thèm giao tiếp với những anh chị em thu thuế, những người Samari, những bà con lương dân thấp cổ bé miệng.
Vì luật họ khinh thường và loại trừ những hạng người như cô gái làng chơi Maria Mađalêna, hay chàng Gia-kê trưởng ty thuế vụ, hoặc người mù từ lúc mới sinh lê lết bên bờ cuộc sống…
Họ đã biến tôn giáo mặc khải trở thành tôn giáo của luật lệ, và biến lề luật trở thành những chữ viết vô hồn trong sách vở của họ hay trên những tua áo họ mang trên mình mà hoàn toàn không còn chút sức sống của tình yêu, của con tim để dành cho Thiên Chúa là Cha và cho mọi người là anh em.
Chính Đức Kitô đã phê phán nặng nề thái độ nầy của đám biệt phái, luật sĩ đương thời: “Còn các ông, tại sao các ông dựa vào truyền thống của các ông mà vi phạm điều răn của Thiên Chúa” (Mt 15,3)
Đức Kitô đã đến để đem lại sức sống và vẽ đẹp tuyệt vời cho lề luật. Hôm nay, Ngài chính thức tuyên bố với những tay biệt phái bảo thủ, từng theo dõi mọi lời rao giảng và mọi hành vi của Ngài, những điều mà họ hoàn toàn dị ứng với nếp nghĩ và ứng xử tôn giáo của họ.
“Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng không thể qua đi được, cho đến khi mọi sự được hoàn thành.”
Và điều cốt yếu mà Đức Kitô muốn thiết lập để kiện toàn Lề Luật đó chính là Tình Yêu. Tình yêu dành cho Thiên Chúa và Tình Yêu đối với con người. Mọi luật lệ đều phải quy chiếu vào nội dung cơ bản nầy. Đức Kitô muốn những ai là môn sinh của Ngài phải chu toàn Lề Luật trong tinh thần đó:
“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.
Sự công chính mới mà Ngài muốn các môn sinh của Ngài thực hiện không được dừng lại trên việc tuân thủ cách hình thức và đúng mực theo quy định của Lề Luật; nhưng tiên vàn đó là thái độ tinh thần và con tim làm nền tảng và định hướng cho mọi ứng xử.
Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người. Ai giết người, thì đáng bị đưa ra tòa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai giận anh em mình, thì phải bị đưa ra tòa. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì phải bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì phải bị lửa hỏa ngục thiêu đốt. Vậy, nếu anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ đó lại trước bàn thờ, đi làm hòa với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. …
Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. …
Qua những lời tuyên bố cụ thể đó, Chúa Giêsu muốn nội tâm hóa lề luật, để con người không chỉ dừng lại trước việc thực thi và tuân thủ máy móc; nhưng là phải có một trái tim, một tinh thần, một tình yêu thực sự đối với Thiên Chúa cũng như đối với tha nhân.
Thánh Phaolô nhắc nhở chúng ta: “Ai yêu thương thì đã chu toàn lề luật” (Rm 13,8) và thánh Augustinô cũng nhắc nhở: “Bạn hãy yêu thương đi rồi làm theo ý bạn muốn” (Ama et fac quod vis).
Chúng ta đang sống trong một xã hội mà “luật lệ thì đầy dẫy”, nhưng người ta chỉ muốn xài “luật rừng”.
Luật cấm giết người ai mà không biết. Nhưng mỗi ngày có biết bao nhiêu vụ giết người man rợ đã xảy ra. Vào đúng ngày Lễ Tình Nhân hôm qua (14/2/2014), tại Đà Nẵng đã xảy ra một vụ án mạng kinh khủng. Một chàng thanh niên đã đâm chết người yêu rồi nhảy lầu tự tử.
Luật thương mại, sản xuất có đầy đấy chứ. Nhưng ngoài thị trường hàng giả, hàng nhái đầy dẫy. Luật giao thông có đấy, nhưng hàng ngày biết bao tai nạn thương tâm vì người ta bất cần luật…
Luật cấm mê tín dị đoan có đấy chứ. Nhưng từ cán bộ trung ương đến hàng hàng lớp lớp dân chúng thay nhau mà cướp ấn của Đền Trần trong ngày hội khai ấn vừa qua tại Ninh Bình để mong được cầu tài và phúc lộc vật chất, cho dù phải dẫm đạp lên nhau, sống chết mặc kệ.
Phải chăng vì con người hôm nay đã đánh mất cái tâm, cái tinh thần tương thân tương ái, cái trái tim để yêu thương và tương kính lẫn nhau.
Như vậy, chúng ta, những người được chính Đức Kitô dạy bảo: “Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.”, chúng ta phải là chứng nhân cho một thế giới mới, một thế giới được giải thoát khỏi những u mê lầm lạc của mê tín dị đoan và nô lệ cho những thần tượng giả mạo; một thế giới đầy tình huynh đệ yêu thương trong mái nhà của con cái cùng một Cha chung duy nhất.
Và con đường để thực thi đời sống chứng tá đó không gì khác là cùng nhau tuân giữ và thực hành Lề Luật của Thiên Chúa trong tinh thần yêu thương mà Đức Kitô đã dạy. Nói cách khác, luật của người Kitô hữu là luật mang dáng đứng tình yêu.
.
Lm Antôn Nguyễn Văn Tiếng
“Các con hãy nên hoàn thiện, như Cha các con trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt.5,48).
Đó là mục đích cuối cùng của Chúa Giêsu, nâng con người lên “hoàn thiện” để trở về địa vị cao cả đích thực của con người là “làm con Thiên Chúa”, Đấng là Cha trên trời – Đấng hoàn thiện.
Nhưng con đường nào dẫn con người đến hoàn thiện?
Luật trần gian
Một người phụ nữ ngoại đạo có một đứa con gái yêu một chàng trai Công Giáo. Nhiều người trong thân tộc của bà không đồng ý, vì họ đều là những tín đồ ngoan đạo của tôn giáo mà họ đang theo. Chàng trai chỉ cưới cô gái nếu cô gái cùng chung niềm tin với mình. Cô gái cũng mến mộ đạo Công giáo và muốn vào đạo. Sự quyết định cuối cùng là của người mẹ. Bà nói: “Tôi đồng ý cho con tôi vào đạo Công giáo. Tôi muốn nó lập gia đình với một người có Đạo. Đạo nào cũng được, miễn đừng vô đạo thôi”.
Từ “vô đạo” ở đây, có lẽ theo ý bà, là “không có đạo”, “không theo một tôn giáo nào”. Chứ còn từ “vô đạo” mà nói chung chung, thì nghe nặng lắm. Thí dụ người ta nói: tên ấy là quân vô đạo. Vì theo cách hiểu thông thường, đạo là “phép tắt đối xử trong xã hội, ai cũng phải biết và phải tuân thủ, giữ gìn: đạo làm người, ăn ở sao cho phải đạo, đạo vợ chồng” (Đại từ điển Tiếng Việt, Nguyễn Như Ý chủ biên).
Vì không phải ai cũng sống theo “đạo làm người”, nên con người phải đặt ra bộ luật rõ ràng, minh bạch để người ta tuân giữ và thưởng phạt khi cần thiết. Luật, do đó, nó chứa đựng “đạo lý con người”, như “kim chỉ nam” để con người sống cho ra người, sống đúng đạo làm người.
Nhưng, “Luật trần gian” có giới hạn của nó. Lòng tham, sự yếu đuối, cùng với khát vọng vô bờ bến, con người không thể sống tốt chỉ với những luật lệ trên giấy trắng mực đen đó. Người ta có thể lòn lách để trách né luật lệ, và có khi dùng chính luật lệ đó để bảo vệ sự an toàn cho mình và sống lạnh lùng đối với tha nhân.
Luật Thiên Chúa theo cách giảng dạy của trần gian
Thiên Chúa yêu thương con người và muốn con người trở về địa vị nguyên thủy của mình là “làm con Thiên Chúa”. Thiên Chúa giáo huấn cho con người một cách tiệm tiến theo dòng Lịch Sử Cứu Độ, và Ngài muốn con người được sống thăng hoa và ngày một trở nên thánh thiện với giáo huấn của Ngài qua các ngôn sứ, mà đỉnh cao trong Cựu Ước là Mười Điều Răn được truyền qua Môsê trên núi Si-nai.
Nhưng, Giới Luật Thiên Chúa cũng bị giới hạn qua cách suy nghĩ, cách diễn tả, và cách sống của con người.
Toàn bộ “Lề luật”, trong sách Luật Do Thái, được rút và diễn nghĩa từ Cựu Ước, gồm 613 điều luật, trong đó điều cấm là 365, còn điều phải làm là 248, không tính những điều luật phụ. Thoáng nhìn qua, có vẻ như rất minh bạch. Luật có hai loại “khinh luật”, và “trọng luật”, khinh luật thì bị phạt, còn trọng luật thì phải bị tử hình.
Nhưng, tuy dù là “Luật Thiên Chúa”, phàm nhân đã cắt nghĩa theo cách hiểu và ý muốn của con người, nên Luật Thiên Chúa đã thành ra gánh nặng và phương tiện trục lợi cho con người.
“Họ bó những gánh nặng mà chất lên vai người ta, nhưng chính họ thì lại không buồn động ngón tay vào” (Mt. 23,4).
“Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không, còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc” (Mt. 13,18).
“Thiên Chúa dạy: Ngươi hãy thờ kính cha mẹ; kẻ nào nguyền rủa cha mẹ, thì phải bị xử tử. Còn các ông, các ông lại bảo: ‘Ai nói với cha mẹ rằng: những gì con có để giúp cha mẹ, đều là lễ phẩm dâng cho Chúa rồi, thì người ấy không phải thờ cha kính mẹ nữa’. Như thế các ông dựa và truyền thống của các ông mà hủy bỏ lời Thiên Chúa.” (Mt. 15,4).
Lời Thiên Chúa không được hiểu đúng và làm đúng, vì không có sự chân thật trong lòng người. Nhưng làm sao có sự chân thật khi con người không có Tình Yêu Chân Thật đối với Thiên Chúa?
Cuối cùng, lối sống đạo đức giả của những người có trách nhiệm giảng dạy phân phát Lời Chúa đã biến đổi Lời Chúa thành thứ “Giới luật phàm nhân” phục vụ cho quyền lợi riêng họ.
“Những kẻ đạo đức giả kia, ngôn sứ Isaia thật đã nói tiên tri rất đúng về các ông rằng: ‘Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta. Chúng có thờ phượng Ta thì cũng vô ích, vì giáo lý chúng giảng dạy chỉ là giới luật phàm nhân” (Mt.15,7).
Luật Thiên Chúa theo cách giảng dạy của Chúa Giêsu
“Thưa Thầy, trong lề luật, điều răn nào trọng nhất?”
Chúa Giêsu đã trả lời ngay ông tiến sĩ luật hỏi Ngài câu hỏi đó: “Ngươi hãy yêu mến Chúa là Thiên Chúa của ngươi hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là giới răn thứ nhất và trọng nhất” (Đnl.6,5).
Nghĩa là, Luật Thiên Chúa còn đó! Đúng như lời Ngài đã khẳng định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc giáo huấn của các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, và cho đến khi mọi sự được hoàn thành, thì một chấm một phết trong sách luật cũng không thể bỏ đi được” (Mt5,17-18).
Chúa Giêsu đến, như Ngài đã nói, là để kiện toàn lề luật.
“Kiện toàn” ở đây không phải là để “đánh bóng” Lời Chúa theo ngôn ngữ loài người, mà giúp con người mở rộng lòng ra để biết đón nhận và sống Lời Chúa đúng theo thánh ý Chúa hơn. “Ta sẽ ban tặng các con một trái tim mới, Ta sẽ đặt vào lòng các con một tinh thần mới, Ta sẽ lấy trái tim chai đá ra khỏi lòng các con, và ban tặng các con một trái tim bằng thịt biết yêu thương. Ta sẽ đặt Thần Khí của Ta vào lòng các con để làm cho các con theo đúng luật của Ta” (Ez.36,23-27).
“Trái tim mới” ấy, trái tim “biết yêu thương” ấy, là trái tim theo mẫu mực “Trái Tim Giêsu”.
Vì không có “tình yêu” nào như “Tình Yêu Giêsu”. Không có trái tim nào như “Thánh Tâm Giêsu”.
Vì chỉ có “Trái tim Giêsu” mới yêu Chúa Cha đến mức vâng phục trọn vẹn thánh ý Thiên Chúa.
“Lạy Cha, nếu Cha muốn, xin tha cho con khỏi uống chén này. Tuy vậy, xin đừng theo ý con, mà theo ý Cha” (Lc.22,42).
Vì chỉ có “Trái Tim Giêsu” mới yêu con người đến hiến mạng vì con người. “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người hiến mạng sống vì bạn hữu mình” (Ga.15,13).
“Tình yêu Giêsu” là tình yêu giao hòa giữa con người và Thiên Chúa, giữa con người với nhau. Là Hiến Lễ Tình Yêu con người dâng lên Thiên Chúa và là Lễ Vật Tình Yêu con người trao tặng nhau.
“Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt.5,23-24).
Và, tất cả đều bắt đầu từ “một Tình Yêu”. “Yêu như Giêsu”.
Khởi nguồn là Tình Yêu con người đối với Thiên Chúa. Một tình yêu sâu đậm vượt trên tất cả. Phải có một tình yêu như thế, con người mới có thể yêu tha nhân đến quên mình, khi nhận ra hình ảnh Thiên Chúa nơi anh em mình.
“Nhưng điều răn thứ hai cũng giống như điều răn ấy, là ngươi hãy yêu thương kẻ khác như chính mình ngươi” (Lv.19,18).
“Ta mình trần, các ngươi đã cho mặc. Ta đau yếu các ngươi đã đến thăm,Ta bị tù đầy các ngươi đã đến với Ta… Những gì các ngươi làm cho một trong các anh em bé mọn của Ta, là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt.25,36).
Điệp ngữ “Anh em đã nghe Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết” được lập đi lập lại nhiều lần, cho thấy sự dứt khoát và quyền năng của Chúa Kitô trên Lề Luật.
“Ngày Sabát được tạo nên cho con người, chứ không phải con người cho ngày Sabát. Bởi đó, Con Người làm chủ luôn cả ngày Sabát.” (Mc.2,27-28).
Lề Luật sẽ được kiện toàn nhờ lòng người thăng tiến, nhưng xem ra, con người vì tội lỗi, tham vọng và tư lợi, đã làm Lề Luật trở nên thứ ách nặng nề, nó chỉ còn là thứ trang điểm bề ngoài cho một nền đạo đức giả tạo và trên đà băng hoại. Chính vì thế, Chúa Giêsu đã lưu ý các môn đệ của Ngài, cũng chính là giáo huấn chúng ta: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và nhóm Pharisêu, thì anh em sẽ chẳng vào Nước Trời”.
“Họ đeo những hộp kinh thật lớn, mang những tua áo thật dài” (Mt.23,5).
“Người Pharisêu đứng riêng một mình, cầu nguyện rằng: ‘Lạy Thiên Chúa, xin tạ ơn Chúa, vì con không như bao kẻ khác: tham lam, bất chính, ngoại tình, hoặc như tên thu thuế kia. Con ăn chay mỗi tuần hai lần, con dâng cho Chúa một phần mười thu nhập của con” (Lc.18,11).
Điệp ngữ “Anh em đã nghe Luật dạy rằng… Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết…” được lập đi lập lại nhiều lần, cho thấy rõ khoảng cách mức độ thăng tiến mà Chúa đòi hỏi nơi con người để Luật Chúa được kiện toàn sánh với cách con người đang “tuân giữ Luật Chúa” còn rất xa.
Một tên xã hội đen tìm được một tình yêu chân chính, anh quay lại nẻo thiện lương, hòa nhập vào xã hội, và sống hạnh phúc đời thường. Anh có vợ đẹp, con ngoan. Anh chạy xe lôi, cuộc sống vừa đủ, có phần vất vả, nhưng anh cảm thấy thanh thản tâm hồn và bằng lòng với cuộc sống hiện tại. Một ngày kia, một người đàn ông mang kính râm gọi xe anh. Khi xe chạy đến một đoạn đường vắng, khách bảo dừng lại. Người khách bất ngờ rút súng chĩa thẳng vào anh. Hắn kể tội anh khi anh còn thuở giang hồ. Anh quỳ xuống xin tha. Anh xin lỗi vì nợ giang hồ, nhưng anh xin cho anh được sống để nuôi vợ con. Một tiếng nổ khô khan. Anh nằm xuống cùng với ước mơ hoàn lương không trọn.
Sự “sòng phẳng” và “công bình” kiểu con người hiểu và mong muốn không thể giúp con người hoàn thiện được.
“Anh em đã nghe Luật dạy ‘ Mắt đền mắt, răng đền răng’. Còn Thầy, Thầy bảo anh em: đừng chống cự người ác, trái lại, nếu bị ai vả má bên phải, thì hãy giơ cả má bên trái ra nữa” (Mt.5,38).
Hoàn Thiện theo Gương Chúa Giêsu
Cuối cùng, chỉ có Tình Yêu – và Tình Yêu như Đức Kitô – mới nâng con người lên đỉnh “hoàn thiện”. Chỉ có Tình Yêu như Đức Kitô mới giúp con người có thể sống với Lề Luật kiện toàn mà thánh ý Thiên Chúa mong muốn qua Giáo Huấn Chúa Giêsu.
Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế, Ngài đến để kiện toàn Lề Luật.
Kiện toàn Lề Luật để con người được trở nên hoàn thiện,
Hoàn thiện theo gương của Ngài – Đức Kitô,
“Ta là Ánh sáng thế gian” (Ga.8,12).
“Thầy là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống”(Ga.14,6).
và hoàn thiện như “Cha trên trời”, là Đấng hoàn thiện.
Lạy Chúa,
Xin cho con được trở nên hoàn thiện,
nhờ bền lòng vững chí,
bước đi theo con đường Thập Giá Đức Kitô. Amen.
.
Lm. Antôn Nguyễn Cao Siêu
Suy Niệm
Thiên Chúa là một nhà giáo đầy kinh nghiệm. Ngài đòi hỏi con người phải vươn lên, vươn cao lên mãi, nhưng Ngài không đòi hỏi điều vượt quá khả năng của họ.
Khi ban Mười Điều Răn cho dân Israel, qua ông Môsê, Ngài đưa họ ra khỏi tình trạng sống theo luật rừng. Luật Môsê là một tiến bộ lớn trong nền luân lý, nhưng vẫn chỉ là bước chuẩn bị cho luật của Đức Giêsu.
Luật mới này không phá bỏ, nhưng kiện toàn luật cũ.
Kitô hữu không chỉ xét mình theo Mười Điều Răn, mà hơn nữa còn xét mình theo tinh thần Bài giảng Trên núi. Lời của Chúa Giêsu phải là thước đo để ta xét mình. Có khi nào bạn tự kiểm dựa trên một đoạn Tin Mừng không?
Đoạn Tin Mừng hôm nay mời ta nhìn lại miệng và mắt, hai giác quan dễ được dùng để phạm tội.
Miệng là nơi phát xuất những lời lăng mạ, dối trá. Lời nói biểu lộ tâm hồn con người: lòng có đầy mới tràn ra miệng (x.Mt 12,34). Khi đêm về, nhìn lại những gì mình đã nói, ta thường thấy có rất ít yêu thương và sự thật, nhưng lại đầy ắp cái tôi ích kỷ, lọc lừa.
“Ai không vấp ngã về lời nói, ấy là người hoàn hảo, có khả năng làm chủ được toàn thân (Gc 3,26).
Mắt là cơ quan tiếp thu thế giới bên ngoài. Mắt không chỉ là cửa sổ, mà là cửa chính của tâm hồn. Các cơn cám dỗ thường qua cửa đó mà đến với ta.
Mắt thích nhìn cái đẹp. Eva nhìn trái cấm, Đavít thấy người phụ nữ khỏa thân.
Cái nhìn đem lại khoái lạc và thổi bùng lên ngọn lửa thèm muốn, khiến người ta dám làm chuyện trái luân thường đạo lý.
Chúng ta đang bị bao vây trong một thế giới đầy hình ảnh. Tivi, phim ảnh, sách báo, video, thời tranh, quảng cáo… tất cả tìm cách lôi cuốn cái nhìn của ta, kích thích khoái lạc nơi con mắt và cả thân xác.
Những điều cao quý và thiêng liêng như thân xác, như đời sống thầm kín vợ chồng lại bị trở thành tầm thường, dung tục. Tình yêu chỉ còn là vội vã chiếm đoạt thân xác nhau trong cơn mê say nhất thời, chứ không phải là sự trân trọng hiến dâng chính mình trong một quyết định chín chắn và đầy trách nhiệm.
Đức Giêsu nói đến thứ ngoại tình do cái nhìn thèm muốn.
Làm sao tôi giữ được đôi mắt trong suốt của trẻ thơ?
Làm sao để trí tưởng tượng và trí nhớ không bị vẩn đục?
Làm sao để tôi nhìn người phụ nữ như chị, em của tôi?
Làm sao để chính người phụ nữ không tự biến mình thành đồ chơi để người khác ngắm nghía?
Gợi Ý Chia Sẻ
“Thành thật thường thua thiệt”, bạn có thấy điều đó đúng không? Bạn có nghĩ rằng thành thật là đức tính nền tảng cho mọi tương quan giữa người với người không?
Nơi giới trẻ đã có nhiều biểu hiện của sự trụy lạc, sa đọa. Bởi đâu có những tệ nạn như thế? Giới trẻ công giáo đóng góp gì để bầu khí xã hội được thanh khiết?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin biến đổi con,
xin biến đổi con từ từ qua cầu nguyện.
Mỗi lần con thấy Chúa, xin biến đổi ánh mắt con.
Mỗi lần con rước Chúa, xin biến đổi môi miệng con.
Mỗi lần con nghe lời Chúa, xin biến đổi tai con.
Xin làm cho khuôn mặt con ngời sáng hơn sau mỗi lần gặp Chúa.
Ước chi mọi người thấy nét tươi tắn của Chúa trong nụ cười của con, thấy sự dịu dàng của Chúa trong lời nói của con.
Thế giới hôm nay không cần những Kitô hữu có bộ mặt chán nản và that vọng.
Xin cho con biết nhẫn nại và can đảm cùng đi với Chúa và với tha nhân trên những nẻo đường gập ghềnh. Amen.
.
Lm. Phêrô Trần Đức Cường
“Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì không được vào Nước Trời”
Phụng Vụ Lời Chúa trong Chúa Nhật thứ VI thường niên mời gọi chúng ta sống công chính để được vào Nước Trời. Tuy nhiên không phải bất cứ thứ công chính nào mà phải là “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” mới được hưởng hạnh phúc đó. Thế nào mới là “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu”?
Trong thời Chúa Giêsu, các kinh sư và người Pharisêu tuy thuộc hai nhóm khác nhau nhưng rất nhiều kinh sư cũng đồng thời thuộc nhóm Pharisêu (Cv 23,9) như ông Ga-ma-li-ên (Cv 5,34), hoặc phần lớn ủng hộ lập trường của nhóm Pharisêu. Theo Phúc Âm kể lại, những kinh sư và người Pharisêu thường đứng chung một phe để chống lại Chúa Giêsu. Chính Chúa Giêsu khi lên án người Pharisêu cũng gộp chung cả giới kinh sư vào một nhóm (Mt 23; Lc 11,37-53).
Các kinh sư và người Pharisêu là những người chuyên môn am hiểu Kinh Thánh; họ chuyên giải thích và áp dụng luật Môsê, một hệ thống luật chi li phức tạp mà ngoài họ ra, không mấy ai dám nói mình thông thạo. Càng ít người hơn dám nói mình chu toàn đầy đủ những khoản luật đó. Thế mà họ thì dám. Họ dám tự hào mình là những người tự hào mình là người công chính (Lc 18,9-14). Phúc Âm thánh Luca, khi nói về ông bà Dacaria và Êlisabét là “người công chính trước mặt Thiên Chúa” đã mô tả đó là những người “sống đúng theo mọi điều răn và mệnh lệnh của Chúa, không ai chê trách được điều gì” (Lc 1,6). Nói về công chính, các kinh sư và người Pharisêu phải được kể là những nhà quán quân. Không những họ giữ mọi điều răn giới luật “không ai chê trách được điều gì” mà còn làm hơn những gì luật đòi hỏi nữa.
Giữ luật được bằng họ đã khó, thế mà Chúa Giêsu gọi họ là “những kẻ làm ra bộ công chính trước mặt người đời” (Lc 16,14) và còn yêu cầu phải công chính hơn họ mới được vào Nước Trời. Sự “công chính hơn” mà Ngài yêu cầu đó hệ tại điều gì? Cách giữ luật của các kinh sư và người Pharisêu không được Chúa Giêsu coi là công chính mà trái lại còn bị Ngài lên án là giữ luật theo hình thức bên ngoài, để tìm kiếm hư danh, chú trọng những tiểu tiết mà bỏ qua điều cốt yếu, hoặc thậm chí chỉ nói mà không thực hành (x. Mt 23,1-32; Lc 11,37-48). Vậy muốn công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu thì các môn đệ Chúa Giêsu phải tránh được những sai lầm mà họ đã vấp phải. Chúa Giêsu đối chiếu cho chúng ta những phương diện khác nhau giữa cách giữ luật của người Pharisêu và cách giữ luật như Chúa dạy để chúng ta biết thế nào là “công chính hơn”.
Trước tiên để trở nên “công chính hơn”, Chúa dạy phải giữ luật với cả tấm lòng, từ tận đáy lòng và là tấm lòng yêu mến. Quả thật khi giận ghét, người ta muốn loại trừ kẻ khác ra khỏi ý thức của mình, và hành vi giết người chính là đẩy tư tưởng đó trở thành hành động loại trừ sự hiện diện của người khác khỏi cuộc sống dương gian này. Vì thế, nếu chúng ta khử trừ khỏi tâm hồn chúng ta lòng giận ghét thì có thể nói chúng ta đã khử trừ tận gốc rễ hành vi giết người. Để trở nên “công chính hơn” Chúa Giêsu dạy: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà.” Cũng thế, để khỏi ngoại tình bằng hành động, trước tiên phải loại bỏ những ước muốn ngoại tình trong tư tưởng đã.
Mặt khác điều làm cho chúng ta nên công chính không phải là công việc chúng ta làm mà là do tác động của ân sủng Chúa thánh hoá chúng ta. Chính Thiên Chúa là nguyên lý và xác định chuẩn mực cho cuộc sống của chúng ta từ tư tưởng, cho đến lời nói và việc làm. Chính vì thế, Chúa dạy ‘trọn lời thề với Thiên Chúa” và “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’; thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.
Và trên hết, “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” có nghĩa là công chính như Chúa Giêsu Kitô và trong Chúa Giêsu Kitô. Khi chứng kiến Chúa Giêsu chịu đóng đinh chịu chết trên thập giá viên đội trưởng Rôma đã tuyên xưng: “Người này đích thực là người công chính” (Lc 23,47). Sự công chính được trọn vẹn nơi Chúa Kitô hiến thân mình chịu chết để đền bù tội lỗi cho nhân loại.
Nói tóm lại sự công chính mà Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ của Ngài là sự công chính có nền tảng và động lực nơi chính Thiên Chúa là nguồn mạch mọi sự thánh thiện, sự công chính ấy phải phát xuất từ tâm hồn con người, được thực hiện với tình yêu mến trong sự kết hợp với Chúa Kitô chịu đóng đinh. Một cách cụ thể, để “công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu” chúng ta không chỉ giữ luật Chúa bằng công việc hình thức bên ngoài mà giữ với lòng yêu mến Chúa, giữ luật không vì lý do nào khác ngoại trừ vì Chúa muốn như thế, và để làm đẹp lòng Chúa. Và nhất là sự công chính cao cả nhất chính là noi theo và kết hợp với mẫu gương của chúng ta là Chúa Giêsu tự hiến thân mình để đền bù tội lỗi qua việc chính chúng ta cũng biết hy sinh quên mình và phục vụ anh chị em trong tinh thần khiêm tốn.
.
ANH EM PHẢI CÔNG CHÍNH HƠN CÁC KINH SƯ
Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện
Trích từ bài giảng trên núi trong Mt, bài Tin Mừng hôm nay (5,17-37) nói về những cách hành xử cần phải có của người đồ đệ Đức Giêsu đối với người thân cận. Nhưng trước hết là lời khẳng định rằng chính Đức Giêsu là Đấng đến nói cho chúng ta biết ý muốn đích thực của Thiên Chúa: Người đến để kiện toàn Sách Thánh.
- “Thầy đến để kiện toàn Luật Môsê và lời các ngôn sứ” (cc.17-20)
Những người hiểu biết sự lớn lao của các lời hứa và niềm mong chờ Đấng Mêsia sẽ có thể phải cảm thấy rất hụt hẫng trước chân trời mà Đức Giêsu mang đến. Người ta trông chờ phúc lạc và cơ nghiệp đã được hứa ban, nhưng Người lại tuyên phúc cho những người nghèo khó, sầu buồn, khóc lóc, đói khát và bị bách hại. Vì thế, Đức Giêsu muốn tránh sự hiểu lầm và sự thất vọng cho các đồ đệ của Người khi họ đi theo Người. Chính trong bầu khí và ý hướng như thế mà Người tuyên bố một cách rõ ràng: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành” (cc.17-18).
Động từ “kataluô” có nghĩa là “phá đổ” (một công trình xây dựng chẳng hạn), chứ không có nghĩa là bãi bỏ một luật. Trong Mt, động từ này luôn được dùng cho đền thờ (x. 24,2; 26,61; 27,40). “Luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ” là cách thức người Do Thái gọi bộ Kinh Thánh của họ, tức là bộ Cựu Ước theo quan điểm Kitô giáo. Động từ “kiện toàn” (pleroô) liên tục được Mt sử dụng để chỉ sự thực hiện các sấm ngôn (x. 1,22; 2,15.17.23; 4,14; 8,17…). Vì thế, cách nói “kiện toàn lời các ngôn sứ” ở đây là dễ hiểu. Nhưng không chỉ lời các ngôn sứ được kiện toàn, mà cả “Luật Môsê” nữa, tức là những gì do Môsê viết. Thật ra, vẫn tồn tại một cách hiểu, theo đó, Đấng Mêsia sẽ thực hiện cuộc xuất hành chung cục mà cuộc xuất hành do Môsê lãnh đạo khi xưa chỉ là hình ảnh báo trước. Trong thực tế, Mt vẫn hiểu Lề Luật và các ngôn sứ là sấm ngôn về Đấng Mêsia. Sứ mạng của Chúa Giêsu là một sứ mạng tích cực, chứ không phải một sứ mạng tiêu cực. Người là điểm đến của tất cả Cựu Ước, và toàn thể Cựu Ước tìm được sự kiện toàn nơi Người và nhờ Người.
Vậy Đức Giêsu khẳng định rằng Người không đến để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn ý muốn của Thiên Chúa được thể hiện trong Sách Thánh. Người thực hiện và đưa đến mức độ viên mãn trọn vẹn những gì Thiên Chúa hứa trong Sách Thánh. Và Người quả quyết rằng dẫu “một chấm một phết” (dịch sát là “một chữ i hoặc một cái sừng”, tức là chữ yod, mẫu tự nhỏ nhất trong bảng chữ cái Hípri) cũng sẽ không mất hiệu lực. Nói cách khác, ngay cả những chi tiết nhỏ nhất trong chương trình của Thiên Chúa được mạc khải trong Sách Thánh cũng sẽ vẫn giữ nguyên hiệu lực “cho đến khi mọi sự được hoàn thành”.
“Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế, thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế, thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời” (c.19). Cách nói “sẽ được gọi là nhỏ / lớn trong Nước Trời” không có ý nói về một phẩm trật thứ hạng trong Nước Trời, nhưng là một cách nói của người Do Thái để diễn tả sự bị loại ra hay được thuộc về Nước Trời.
“Vậy, Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời” (c.20). Dịch sát sẽ là: “…nếu sự công chính của anh em không vượt hơn các kinh sư…”. Vấn đề không phải chỉ là sự công chính theo nghĩa luân lý, đạo đức. Trước hết, đó là sự công chính do tin vào Đức Giêsu, Đấng kiện toàn tất cả Sách Thánh, sau đó mới là chuyện luân lý. Vậy sự công chính của các đồ đệ sẽ siêu vượt hơn hẳn sự công chính của các kinh sư, là vì nó được gắn vào và tùy thuộc vào Đấng làm cho mọi sự nên thành toàn, chứ không phải chỉ vì đời sống luân lý của các đồ đệ siêu vượt hẳn so với các kinh sư. Các kinh sư, ở mức độ cao nhất, chỉ có thể gắn sự công chính của mình trên nền tảng các lời hứa của Thiên Chúa trong Sách Thánh; nhưng chính Chúa Giêsu mới là Đấng kiện toàn các lời hứa ấy. Vì thế, có thể nói: ở câu 20 này, Chúa Giêsu đòi hỏi các đồ đệ của Người phải gắn bó thiết thân với Người và đặt sự công chính của mình trên nền tảng là chính Người, thay vì chỉ hài lòng với sự công chính theo kiểu các kinh sư, tức là sự công chính dựa vào việc tuân giữ Luật Môsê.
Như thế, một đàng Chúa Giêsu quả quyết rằng Người không hủy bỏ “Luật Môsê và các lời ngôn sứ”, nhưng đàng khác, Người cho thấy sự hơn hẳn của Người so với các thực tại thuộc nhiệm cục cũ mà không hề làm đứt đoạn sự tiếp nối sâu xa từ Cựu Ước sang Tân Ước.
- Giáo huấn về đức công chính mới
Đức Giêsu bắt đầu giáo huấn của Người về sự công chính hơn hẳn của người môn đệ bằng cách tập trung chú ý vào ba đề tài quan trọng: tránh xung đột với tha nhân; thủy chung; và sống trong sự thật. Đây không phải là một bài trình bày cặn kẽ và đầy đủ về các đề tài, mà chỉ là phần nêu lên những luận điểm chính yếu được hiểu như để làm mẫu mà thôi.
Hãy đi làm hòa trước đã (cc.21-26)
Đức Giêsu nói: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người, thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt. Vậy, nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình. Anh hãy mau mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công, kẻo người ấy nộp anh cho quan toà, quan toà lại giao anh cho thuộc hạ, và anh sẽ bị tống ngục. Thầy bảo thật cho anh biết: anh sẽ không ra khỏi đó, trước khi trả hết đồng xu cuối cùng” (cc.21-26).
Đức Giêsu đặt điều răn không được giết người trong một quan điểm khác với “Luật dạy người xưa”. Sẽ là chưa đủ nếu chỉ tránh hành động bề ngoài. Thái độ độc ác bên trong và sự giận dữ cay nghiệt đối với người anh em, cũng đã là những cách hành xử đáng bị kết án rồi. Các cách hành xử ấy được trình bày theo hướng ngày càng gia trọng, cả về tội phạm lẫn về hình phạt.
Sau đó, Chúa Giêsu chuyển sang trình bày khía cạnh tích cực trong thái độ của các đồ đệ, những người có nhiệm vụ tác tạo hòa bình. Cần phải hết sức duy trì và bảo vệ sự hiệp nhất thuận hòa, chứ không chỉ là tránh xung đột. Chính thái độ sống tích cực đó quyết định giá trị của việc thờ phượng. Cách nói “hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ” không nên được hiểu sát mặt chữ, mà cần phải được hiểu là một kiểu nói diễn tả ý muốn hòa giải và tha thứ ngay trong lòng. Sẽ là hoàn toàn vô ích việc đến gần Thiên Chúa đang khi vẫn còn hiện hữu trong sự chia rẽ, bất hòa.
Hãy thủy chung (cc.27-32)
Đức Giêsu nói tiếp: “Anh em đã nghe Luật dạy rằng: Chớ ngoại tình. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân bị ném vào hoả ngục. Nếu tay phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy chặt mà ném đi; vì thà mất một phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục” (cc.27-30).
Luật cấm hành vi bên ngoài, sự ngoại tình. Đức Giêsu đòi hỏi một trái tim tinh sạch, một sự thuần khiết ngay từ trong lòng. Ngoại tình là bất chính, nhưng ngay cả sự thèm muốn bất chính cũng đã là ngoại tình rồi. Nói cách khác, quyền lực cuối cùng thúc đẩy và quyết định trong lãnh vực tính dục nói riêng và trong tương quan với phụ nữ nói chung, không được là những sức mạnh tự nhiên và bản năng bột phát của những thèm khát và khoái lạc tính dục.
Để nhấn mạnh tầm quan trọng của sự thuần khiết ngay từ trong lòng, Chúa Giêsu đưa ra lời khuyến nghị thà móc mắt phải và chặt tay phải còn hơn là “toàn thân bị ném vào hỏa ngục”. Tất nhiên sẽ là quá ngô nghê và không chính xác nếu chúng ta hiểu các lời khuyến nghị này theo sát mặt chữ. Điều quan trọng là chúng ta không được phó mặc các quan năng của mình cho bản năng thấp hèn, nhưng phải biết làm chủ chúng một cách có trách nhiệm. “Con mắt” biểu tượng cho ước muốn; “bàn tay” biểu tượng cho hành động. Cần phải loại bỏ tất cả những ước muốn xấu xa ngược với sự tinh sạch trong lòng.
Không chỉ tôn trọng vợ người khác, mà còn phải cư xử đúng đắn với vợ mình và tôn trọng sự hiệp thông trong tình yêu và sự sống với vợ của chính mình. Đức Giêsu nói: “Luật còn dạy rằng: Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình” (cc.31-32). Sự hiệp thông sự sống và tình yêu giữa hai vợ chồng là thực tại thiện hảo bất khả chuyển nhượng. Nguồi ta phải ra sức bảo vệ và vun đắp cho sự hiệp thông đó.
Hãy sống trong sự thật (cc.33-37)
Đề tài thứ ba trong vấn đề tương quan với người thân cận mà Chúa Giêsu ban lời giáo huấn là đề tài liên quan đến sự thật. Đức Giêsu nói: “Anh em còn nghe Luật dạy người xưa rằng: Chớ bội thề, nhưng hãy trọn lời thề với Đức Chúa. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được. Nhưng hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (cc.33-37).
Sở dĩ có chuyện thề thốt trong xã hội, là vì có sự thiếu chân thành giữa người với người. Sự thề thốt, tự nó, đã là một bằng chứng rõ ràng của sự trục trặc trong tương quan giữa người với người. Các kinh sư và các người Pharisêu phận biệt hai loại thề: thề nhân danh Đức Chúa và lấy sự vật mà thề. Họ cho rằng loại thứ nhất có tính ràng buộc, còn loại thứ hai thì không, tức là người ta có thể rút lại lời thề.
Trong Nước Thiên Chúa, sự chân thật là quy luật sống và “phúc thay ai tinh sạch trong lòng”. Vì thế, sự thề thốt hoàn toàn không còn giá trị. Và Đức Giêsu dạy: “Đừng thề chi cả”.
Thực ra, cc.33-37 không nhắm nói trước hết đến chuyện thề thốt, mà là muốn nói về sự nhất mực liêm khiết của người đồ đệ: “Hễ “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm thắt điều gì là do ác thần” (c.37).
.
Lm. Giuse Nguyễn An Khang
Sau khi đã mở đầu bài diễn từ trên núi bằng 8 mối phúc. Đến phần thân bài Đức Giêsu tuyên bố: “Ngài đến không để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn lề luật”. Kiện toàn thế nào? Phải chăng một nét chấm, một nét phẩy trong sách luật không bỏ qua? Phải chăng giữ luật từng chi tiết, từng điều luật nhỏ nhất? Đức Giêsu không kiện toàn luật theo kiểu đó, bởi Ngài đã chẳng tuân giữ luật ngày hưu lễ, chẳng quan tâm đến luật tinh sạch (Mt 15,3; 19,17; 22,36). Đàng khác, những luật được Ngài trưng ra trong đoạn Tin mừng hôm nay, đã được Ngài sửa đổi. Sửa đổi bằng cách đưa về thời nguyên sơ của nó, nghĩa là vào thời kỳ Thiên Chúa đã ban nó cho Maisen. Sửa đổi bằng cách thay đổi não trạng nệ luật của con người, giữ luật vì luật, bám sát từng chữ của luật và tuân thủ một cách nô lệ từng chữ ấy, biến luật thành chủ, con người là nô lệ, quên tinh thần của luật, là để phục vụ con người. Một khi luật đã được Đức Giêsu sửa đổi, giải thích, gạn lọc, vứt bỏ những thêm thắt của con người, kiện toàn đúng tinh thần, phù hợp với chủ ý của Thiên Chúa, sẽ có một uy quyền tuyệt đối một nét phẩy, nét chấm không bỏ qua, một sự trường tồn, trời đất sẽ qua đi, nhưng thánh ý Thiên Chúa (lề luật) sẽ không bao giờ qua. Một thứ luật như thế, một điều răn nhỏ nhất cũng quan trọng, ai thực thi sẽ là người công chính hơn những Kinh sư và Pharisiêu. Để cụ thể, Đức Giêsu đã trích dẫn sáu điều luật và đưa ra các yêu sách mới của Người. Tin mừng Chúa nhật hôm nay đề cập bốn điều:
- Giết người
Luật dậy người xưa: “Chớ giết người. Ai giết người thì đáng bị đưa ra toà”. Đức Giêsu bảo: “Giận anh em cũng đã bị kết án”. Đây là kiểu nói của người Dothái, Đức Giêsu đã dùng để nói lên tầm quan trọng của vấn đề. Giận anh em, đâu bị đưa ra toà, mắng anh em là ngốc, đâu bị đưa ra trước Hội đồng, chửi anh em là quân phản đạo, đâu đến nỗi phải xuống hoả ngục. Đàng khác, xét về mặt tâm lý, giận là một trong “thất tình”: hỷ (mừng), nộ (giận), ai (thương xót), cụ (sợ), ái (yêu), ố (ghét), dục (ham muốn), nghĩa là một trong bẩy thứ tình cảm tự nhiên mà người lành mạnh nào cũng có. Nếu ta biết yêu mình và tự trọng ta, ai đó đối xử bất công với ta tự nhiên ta nổi giận. Tuy nhiên, không nên giữ cơn giận mãi trong lòng. Khoa tâm bệnh học cho biết: cứ đè nén cơn giận mãi có thể hại cho tâm thần, không lợi cho sức khoẻ dễ bị ung thư. Thánh Phaolô nói: Đừng để cơn giận qua lúc mặt trời lặn. Tự nó, giận không có gì là xấu. Chính Đức Giêsu cũng từng nổi giận, khi thấy người ta buôn bán trong Đền thờ. Chỉ xấu khi nổi giận với anh em mình, không còn coi người anh em mình như anh em nữa, trái lại coi họ là người dưng, thậm chí là kẻ thù. Giận như thế đồng nghĩa với giết, không phải giết chết một mạng sống, mà giết chết một mối tình. Anh em không còn là anh em, mà là kẻ thù. Giận như thế bị kết án.
- Ngoại tình
Quả thực ngoại tình là một lỗi nặng, nó phá vỡ tổ ấm của người anh em, nó bị mọi nền văn minh lên án cách nghiêm khắc. Một xã hội coi thường lâu dài vấn đề này chắc chắn sẽ tự tiêu diệt. Luật Dothái dậy ném đá những người phạm tội ngoại tình. Đức Giêsu chẳng những cấm ngoại tình bằng hành động, bằng hành vi bên ngoài. Người còn cấm ngoại tình từ trong lòng. Người nói: “Ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi”. Để nói lên tầm quan trọng của vấn đề, Đức Giêsu bảo: “Nếu mắt hoặc tay anh em làm cớ cho anh em vấp phạm, thì hãy móc mắt hoặc chặt tay đó đi, vì thà rằng mất phần thân thể, còn hơn là toàn thân phải sa hoả ngục”. Đây là kiểu nói mạnh của người Dothái, Đức Giêsu đã dùng. Bởi lẽ cho dù có móc một mắt, chặt tay, cũng không làm cho người ta khỏi sa ngã. Tội bởi trong lòng mà ra, mắt, chân tay chỉ là khí cụ. Vả lại, Đức Giêsu kết án tội ngoại tình, nhưng Đức Giêsu không ném đá người phụ nữ phạm tội.
- Ly dị
Luật Maisen cho phép người Dothái ly dị và dạy rằng: “Ai rẫy vợ, thì phải cho vợ chứng thư ly dị”. Đức Giêsu bảo: “Ai rẫy vợ mình, trừ phi nố dâm bôn, và cưới vợ khác tức là phạm tội ngoại tình”. Chỉ có Matthêu ghi lại nố trừ này. Trong Tin mừng Maccô và Luca không có, và chỉ ghi rằng: Đức Giêsu cấm tuyệt đối không được ly dị. Làm sao hai tác giả đó có thể quên một điều quan trọng như thế? Có lẽ đúng là một trong các người cuối cùng soạn bản Tin mừng của Matthêu đã thêm điều khoản ấy vào, để trả lời vấn đề các tôn sư tranh luận với nhau (những lý do cho phép rẫy vợ) và cũng là vấn đề có thể làm bận tâm những tín hữu gốc Dothái. Nếu thế thì ở đây có lẽ là một quyết định của Hội thánh có giá trị địa phương và tạm thời, như sắc lệnh của Công đồng Giêrusalem về vấn đề kiêng thịt cúng, vật chết ngạt và tránh gian dâm cho giáo đoàn Antiôkia (Cv 15, 23-29).
Tuy nhiên, Giáo hội chính thống và Tin lành cho rằng, “dâm bôn” có nghĩa là ngoại tình, đây chính là lời của Đức Giêsu, bởi thế các giáo hội đó chấp nhận cho ly hôn, khi một trong hai người phối ngẫu phạm tội ngoại tình.
Nhưng có những người khác lại cho rằng từ “dâm bôn” chỉ một hôn nhân bất hợp pháp, trái với luật Thiên Chúa, như thứ hôn nhân loạn luân ngăn trở họ máu. Luật cấm lấy nhau (Lv 18,6-18; Cv 15,28-29). Những thứ hôn nhân ấy dù là hợp pháp giữa người ngoại giáo với nhau, hay được người Do thái làm thinh nơi các người theo Do thái giáo, hẳn là đã gây rắc rối, khi những người ấy theo Kitô giáo trong những môi trường thượng luật, như môi trường Matthêu. Vì thế có chỉ thị nên huỷ những hôn nhân bất hợp pháp ấy, vì đó chỉ là hôn nhân giả tạo.
Một ý kiến khác nữa cho rằng nố trừ “dâm bôn” mà Đức Giêsu cho phép rẫy vợ đây, không phải là ly dị, nhưng là ly thân. Chính Phaolô đã hiểu theo nghĩa đó, ông đã đề cập đến trong thư thứ 1 gửi giáo hữu Côrintô (1 Cr 7-11). Giáo hội Công giáo từ xưa đến nay đã hiểu như vậy, không cho ly hôn mà chỉ ly thân khi người ta phạm tội ngoại tình.
- Thề thốt
Luật dạy người xưa rằng: “Chớ bội thề, nhưng hãy giữ trọn lời thề với Chúa”. Đức Giêsu bảo: “Đừng thề chi cả, có thì nói có, không thì phải nói không, thêm thắt điều gì là do ma quỷ”.
Nhiều giáo phụ cho rằng, đây là lệnh truyền nghiêm cấm tuyệt đối của Chúa, không được thề thốt chi cả, nhiều giáo phái Tin lành cũng đồng quan điểm đó. Họ từ chối không tuyên thệ bất cứ điều gì. Thực ra Đức Giêsu không nghiêm cấm cách tuyệt đối như thế. Thánh Phaolô đã thề với giáo hữu Rôma, Côrintô, Galata, (Rm 1,9; 2 Cr 1,23; 11,3; Gal 1,20). Giáo hội không những cho phép thề trước các toà án mà còn buộc phải thề trong một vài trường hợp nữa (thề chống Duy Tân chủ nghĩa). Theo thánh Augustin, lời thề tự nó không phải là điều tốt chỉ khi gặp trường hợp đáng tiếc và nghiêm trọng mới nên thề. Trong mọi trường hợp “Có phải nói có, không phải nói không. Thêm thắt điều gì là do ma quỷ”.
Lạy Chúa toàn năng, Chúa đã ban lề luật cho chúng con, và đã cho Con Chúa sửa đổi lại theo ý Chúa. Xin cho chúng con được bước đi dưới ánh sáng của lề luật để chúng con được sống muôn đời. Chúng con cầu xin...
.
PM. Cao Huy Hoàng
Thiên Chúa ban cho con người có tự do và để con người tự do định đoạt số phận của đời mình: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử, ai thích gì, sẽ được cái đó”. (Hc 15, 16-17).
Tuy nhiên, vì không muốn con người phải hư mất, Thiên Chúa ban Lề Luật để hướng dẫn con người sử dụng tự do của mình mà đi vào cõi sống: cửa sinh“Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội”. (Hc 15, 19-20)
Mười điều răn Môisê đã nhận lãnh để truyền cho dân, là một chuẩn bị xa để con người sống công chính mà đón nhận Tin Mừng Cứu Chuộc, Tin Mừng của Cõi Sống.
Chúa Giêsu đến, Ngài kiện toàn lề luật tích cực hơn chỉ trong một luật duy nhất: “yêu thương”, như thánh Phaolô xác quyết: “Yêu thương là chu toàn lề luật”(Rm 13,10)
Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu làm hoàn hảo điều răn thứ 5, điều răn thứ 6 và thứ 9. Ngài nói với các môn đệ hai ngàn năm trước, mà nghe như đang nói với mỗi người chúng ta, trong thế giới nầy, trong đất nước nầy, trong xã hội và giáo hội hôm nay…
Yêu thương và tôn trọng nhau
Điều răn thứ 5 dạy “chớ giết người”. Giết người là có tội. Luật của Chúa Giêsu thì chi tiết hơn: giận ghét, mắng chửi người khác đã là xúc phạm đến người khác, đã là lỗi luật rồi. “Ai giận anh em mình, thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt” (Mt 5, 22-23)
Chúa Giêsu dạy chúng ta biết yêu thương và tôn trọng nhau. Yêu thương thì bao dung nhân hậu, thứ tha cảm thông, hòa nhã lịch sự. Yêu thương thì không giận không ghét, không mắng chửi. Ngài cụ thể đức công chính của chúng ta là làm hòa với tha nhân trước, dâng lễ cho Thiên Chúa sau. Như thế, lễ dâng cho Thiên Chúa chỉ có giá trị khi lòng chúng ta ngập tràn niềm yêu mến và tôn trọng tha nhân. Không đợi đến mức giết người mới thành khung tội nặng, khung án nặng, mà theo Chúa Giêsu thì chỉ cần giận ghét chửi mắng anh em là đã liệt vào khung hình phạt cao nhất rồi.
Vâng, Luật của Chúa Giêsu thật chí lý. Vì nếu, con người ta giữ được lòng yêu thương, tôn trọng, không giận ghét, không mắng chửi thì không có nguyên nhân dẫn đến việc giết người.
Nhìn thực tế cuộc sống đạo hôm nay, có thể chúng ta vẫn giữ luật điều răn thứ năm thật nghiêm túc là không giết người. Nhưng hình như chưa giữ luật yêu thương tôn trọng anh em. Chúng ta đang trách mắng nhau, chửi bới nhau thậm tệ trên các phương tiện truyền thông? Một bên mắng là “đồ ngốc”. Bên kia mắng lại là “quân phá đạo, quân phản đạo”. Thực ra, không thấy có ai dám mắng anh em là “đồ ngốc”, nhưng ý nghĩa các bài viết, các bản tin còn thậm tệ hơn cái “đồ ngốc” ấy nữa, nhất là đối với các những người lớn hơn mình về vai trò nhiệm vụ trong xã hội và giáo hội. Không ai dám kết án chúng ta đã xem thường nhau, rồi xúc phạm đến nhau tới mức nào, nhưng tự thâm tâm chúng ta có thể trả lời được, nếu không, hãy mở to mắt nhìn những hậu quả. Kìa, những phê phán, những đánh giá đầy tính chủ quan lại được tung ra trên diện rộng đã gây nên những hậu quả khó lường. Có cả những hậu quả thảm khốc là làm cho người bị mắng là đồ ngốc lẫn người bị chửi là quân phản đạo, vẫn sống nhưng là như đã chết rồi. Người chết cái uy tín, kẻ chết cái niềm tin, cái nhiệt tình. Người thứ ba đứng bên ngoài vỗ tay reo hò rằng: chúng nó tàn sát lẫn nhau.
Chúng ta không giết người, vì không có gươm giáo, súng đạn, nhưng vì thiếu chân thành, chỉ cần một chữ ký, một quyết định, một bài báo, một bản tin, một tờ rơi, một cái búng tay ra mật lệnh, một cú phone, một cái enter.. dễ chưa từng có… Người anh em ta sẽ chết ngay dưới lưỡi gươm công luận, dưới búa rìu comments phê phán, dưới họng súng truyền thông.
Cũng vậy, chúng ta không giết người, nhưng vì không tôn trọng con người là tuyệt phẩm của Thiên Chúa, nên chỉ cần một viên thuốc, một lời kích động, một phút tư vấn (về sức khỏe, về sắc đẹp, về hạnh phúc) là có hằng trăm con người đỏ hon hỏn phải tức tưởi tắt thở lúc chưa kịp sinh ra. Những can phạm, không ai khác, chính những người thân thiết nhất của con người: cha giết con, chồng giết vợ, mẹ giết con, vợ giết chồng, chủ giết tớ, cấp quan cấp trên có quyền hành giết cấp dân đen cấp dưới không phương tiện chống cự, không tiếng nói…
Giữ tâm hồn trong sạch, xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần
Điều răn thứ sáu dạy: “Chớ dâm dục”, và điều răn thứ 9 dạy: “chớ ngoại tình”. Chúa Giêsu dạy tích cực hơn: Giữ tâm hồn trong sạch, cả cho mình lẫn cho người.
Không đợi đến lúc vỡ lở, không đợi phải bắt quả tang những chuyện tình vụng trộm thì tội mới thành danh tội “dâm dục” hay “ngoại tình”, nhưng ngay khi nhìn người phụ nữ mà thèm muốn làm chuyện xác thịt mây mưa thì, theo Chúa Giêsu, đã thành tội rồi.
Chúa Giêsu rất có lý, vì nếu không giữ cho tâm hồn trong sạch, không kềm chế những ước muốn thấp hèn, thì sớm muộn, con người ta cũng không tránh khỏi cái vòng tục lụy kia nó cuốn vào chỗ phạm tội làm mất đi nhân phẩm cao quí là con cái của Thiên Chúa, là Đền Thờ Chúa Thánh Thần.
Trước đây, người phụ nữ Á Đông rất kín đáo, rất đoan trang… Tại sao chỉ sau ba bốn chục năm, các thiếu nữ bây giờ không còn đoan trang như trước nữa? Có người cho là hội nhập văn hóa Tây Phương. Có người cho là đó là nét đẹp của Thượng Đế cần phải phô trương. Có người còn cho là không có gì là tội lỗi. Nhưng cũng có câu trả lời rằng: kẻ chống Chúa Giêsu biết cách làm cho người ta không giữ lời Chúa Giêsu dạy! Như vậy là đỗ thừa cho hoàn cảnh xã hội sao? Không, thiết tưởng, người phụ nữ không còn kín đáo nữa là do họ không những không còn quí trọng đức trinh khiết của mình và của người khác, mà còn thích thú làm cớ cho mình và người khác vấp phạm.
Cách đây 8 năm, tôi lên Sàigòn, ghé thăm anh bạn bán thuốc tây trước BV Bình Dân. Vừa nói chuyện vừa xem anh bán thuốc. Tôi thắc mắc không biết các em học sinh mang bảng tên lớp 10, lớp 11 vào mua thuốc gì mà anh bạn tôi lấy tiền rồi trao cho các em cái gì đó đựng trong túi xốp đen, đi ra. Chỉ ngồi chơi một tiếng mà có ít là 6 học sinh vào mua hàng rồi ra như vậy. Thấy tôi ngẩn ngơ, không đợi tôi lên tiếng hỏi, anh bạn tôi nói: “Mình không bán thì mấy tiệm kia cũng bán cho chúng nó thôi. Bạn lấy làm lạ phải không?” “Vâng, mình chẳng hiểu gì cả”. “Chúng nó mua que thử thai đấy. Học sinh bây giờ lớp 9 lớp 10, tụi nó thử cả rồi! Có trời mới biết chúng nó ngoan như thế nào. Khổ nỗi, cha mẹ thì chỉ biết “Con tôi nó học ngày học đêm! Tội nghiệp quá!” ….
Ấy là chuyện con nít. Còn chuyện người lớn thì “không chỉ nhìn phụ nữ, phụ nam cách thèm thuồng, mà còn đưa phụ nữ về nhà mình, hoặc đưa người tình nam về nhà mình sống chung bất hợp pháp thì còn gì để nói”. Cuộc sống không công chính vì lỗi đức trong sạch của người lớn ở bậc độc thân suốt đời, cũng như của người sống bậc hôn nhân đã làm niềm tin và lòng yêu mến của bậc bề dưới, của con cái chết dần chết mòn rồi đến giai đoạn tử vong không cứu kịp.
Giá trị hôn nhân công giáo hệ tại ở tính đơn hôn và vĩnh hôn. Vì vậy, những lạc thú ngoài hôn nhân làm mất giá trị đời sống công chính của hôn nhân công giáo. Biết thế, âm mưu của người chống lại Thiên Chúa là những chủ trương thành văn hoặc bất thành văn về việc tự do quan hệ, khuyến khích phá thai, còn tạo điều kiện tốt cho những cuộc ly hôn ly dị có pháp luật bảo đảm.
Từ đó, thế hệ những đứa con vất vưởng do những cuộc ly hôn, hoặc của những đứa con vô thừa nhận làm thay đổi cách nhìn truyền thống và giá trị của chữ Hiếu. Thế hệ trẻ của những con người nầy không còn yêu thương, kính trọng cha mẹ mình, vì cha mẹ đã không chu toàn đức công chính. “Tết em muốn về với Mẹ, mà không biết phải nói gì với chồng của Mẹ. Tết, em muốn về với Ba, cũng không biết phải nói sao với vợ của Ba”. Hoặc là, đã để lại cho chúng một dấu ấn không đẹp về cách hành xử của người lớn khi chúng không biết ba chúng nó là ai. Có trường hợp đáng tiếc, khi lớn lên nó biết ba của nó là một ông lớn trong xã hội. Thiên Chúa mà ông lớn không nhìn nhận thì huống chi là con ông.
Chúa Giêsu thật chí lý khi dặn dò chúng ta giữ tâm hồn thanh sạch. Nếu đức trong sạch được trân quí nơi ý thức của mỗi cá nhân, nơi giáo dục của mỗi gia đình, nơi chủ trương của xã hội thì ắt hẳn sẽ có một xã hội đầy nhân tính, xứng nhân phẩm, trọn vẹn nhân ái đúng nghĩa mà Thiên Chúa muốn.
Ngay chính thật thà
Chúa Giêsu còn dạy thêm về sự ngay chính thật thà: “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra”(Mt 5,37)
Lòng ngay chính thật thà có thể nói sẽ hỗ trợ tốt cho việc chu toàn luật yêu thương, tôn trọng tha nhân. Và yêu thương chân thành sẽ là nền tảng vững chắc ngăn chận mọi âm mưu gian tà của những lạc thú xác thịt, của những âm mưu chia rẻ, âm mưu gây hận thù, oán trách.
Con người thời nay vẫn đồng hóa tình yêu với tính dục và cho là đó là tình yêu chân thành, mà không ngộ ra rằng đó là sự xúc phạm nặng nề đến nhân phẩm của người mình yêu. Những người yêu nhau một cách xác thịt, không tin là họ đang lừa dối nhau, và mãi sống trong sự nhầm lẫn đáng tiếc vì ai cũng đang yêu chính mình.
Người công giáo phải được giáo dục tốt từ trong gia đình về đức tính thật thà. Vì nếu nơi Thiên Chúa không có gì là gian dối, thì Ngài cũng không thể chấp nhận con cái Ngài sống cách gian tà, quỷ quyệt. Cũng vậy Thiên Chúa tôn trọng sự thật, bênh vực công lý, trung tín lời hứa, và cũng muốn con cái Ngài như vậy.
Con rắn ngày xưa phỉnh gạt bà Eva ăn trái cấm. Con rắn ngày nay còn quỷ quyệt tinh xảo hơn: không cần phỉnh gạt ai cả, nhưng mở đường gian tà thênh thang cho con người đi lên tới đỉnh danh vọng, tới đích tỷ phú, tới hạnh phúc trần gian thừa mứa chán chê! Ai không đi theo đường của nó, thì nó nhẹ nhàng quyến rủ mời mọc lịch sự chưa từng có! Ai đã theo con đường của nó, tự động sẽ phát sinh những chuyện gian tà, gây nên những hỗn độn: chê bai chỉ trích điều công chính lẫn điều không công chính, làm cho không ai phân biệt được phải trái nữa. Cái nào cũng phải. Cái nào cũng trái. Lúc ấy, nó sẽ đắc thắng.
Chuyện không đáng kể, mà cũng phải kể. Đó là chuyện có vài người không đáng kể, thích thêm mắm muối ớt tỏi làm lệch lạc sự thật đáng quí, ảnh hưởng tới một số người đáng kể. Trong khi đó, đức công chính Chúa Giêsu dạy là “có” thì phải nói “có”, “không” thì phải nói “không”. Thêm điều đặt chuyện là bởi ma quỷ mà ra”(Mt 5, 37)
Có anh bạn từ rất xa, phone cho tôi thăm hỏi: “Lâu nay làm gì mà vắng bóng thế?” Tôi trả lời “Vẫn thế thôi mà”. Anh hỏi tiếp: “Bệnh hay là định gác bút rồi?” “Không, vẫn bình thường mà?”- “Mình chả thấy bài ông đâu cả?” “Có mà. Ông đọc trang nào?” “Mình chỉ đọc độc một trang “Nhân Viên Công Lực” thôi! Chửi nghe sướng!”. “Ồ, thế thì làm sao được! Phải đọc dăm bảy trang mới khách quan ra được chứ!”. Anh bạn tôi cúp máy!
Lạy Chúa, Lời Chúa hôm nay mời gọi mọi chúng con dùng tự do Chúa ban mà đi vào đường lối của Chúa là yêu thương và tôn trọng nhau. Và khi đã yêu thương tôn trọng nhau xin cho chúng con không giận ghét mắng chửi nhau, mà còn giữ cho nhau tâm hồn trong sạch cao quí xứng đáng là đền thờ Chúa Thánh Thần ngự trị. Xin giúp chúng con tránh xa lối gian tà, nhờ tuân hành lề luật của Chúa Giêsu, Đấng là Đường, Là Sự Thật, và là Sự Sống của chúng con. Amen.
.
Trầm Thiên Thu
Có lẽ chẳng ai không bao giờ mắc nợ, cụ thể là tiền bạc, không nhiều thì ít, dù chỉ là một số tiền nhỏ – vài ngàn, vài trăm, vài triệu (theo mệnh giá tiền VN). Nói cho “sang” thì nợ là trái khoản. Và dù ít hay nhiều cũng phải thanh toán, không thể không trả nợ, vì còn nợ ngày nào thì “nặng mình” ngày đó. Khổ tâm lắm!
Về tinh thần thì còn nợ nhiều hơn: nợ cha mẹ, nợ gia đình, nợ thầy dạy, nợ hàng xóm, nợ bạn bè,… không nợ cách này thì cách khác, không trực tiếp thì gián tiếp: Nợ tình. Đúng là nợ ngập đầu! Món nợ đó không hề vay mà vẫn nợ, phải nợ, muốn nợ, Thánh Phaolô nói rằng nên mắc “món nợ tương thân tương ái” đó. (Rm 13:8) Đặc biệt nhất là ai cũng mắc nợ Thiên Chúa – kể cả người vô thần.
Được sinh ra làm người và được sống trên đời là một hồng ân cao cả, khôn tả. Và dần dần, với vốn kinh nghiệm sống, chúng ta luôn thấy có những điều trái ngược nhau nhưng lại không thể tách rời nhau, có cái này thì ắt có cái kia: Mở – đóng, cao – thấp, trên – dưới, nam – nữ, âm – dương, phải – trái, thiện – ác, đẹp – xấu, trẻ – già,… đặc biệt là sống – chết. Cái “nghịch” mà không hề ngược, vẫn xuôi, vẫn thuận. Bởi vì trí tuệ con người nhỏ bé, nông cạn, hữu hạn, không thể hiểu thấu, thế nên người ta cho đó là “cái vòng lẩn quẩn” bí ẩn, không thể lý giải. Người đời cho đó là Luật Nhân Quả, nhưng đối với người có niềm tin Kitô giáo thì đó chính là Thánh Ý nhiệm mầu của Thiên Chúa.
Về vấn đề sinh – tử, chắc hẳn ai cũng thắc mắc, đặt vấn đề, bởi vì thấy đó là một nghịch lý, thế nhưng chẳng ai có được câu trả lời thỏa đáng, chấp nhận đó là điều bí ẩn đối với con người. Thơ rằng:
Sinh ra ai cũng khóc òa
Đời vui sao chẳng cười xòa mà vui?
Đến khi chết, nước mắt rơi
Sao lại chẳng cười được thoát khổ đau?
Không chỉ là rắc rối, phức tạp, mà là nhiêu khê. Thế nhưng chẳng ai hiểu rõ cái nghịch lý đó. Khi sinh ra, ai cũng chào đời bằng tiếng khóc, đứa trẻ nào bật khóc thì cha mẹ an tâm, đứa trẻ nào không bật khóc thì cha mẹ lo lắng. Phải chăng định mệnh đã an bài như phần cứng được cài đặt mặc định? Người ta vẫn thường nói: “Đời là bể khổ!” Có lẽ vì chính Chúa Giêsu đã xác định: “Ngày nào có cái khổ của ngày ấy.” (Mt 6:34) Định mệnh đó là sự quan phòng và tiền định của Thiên Chúa.
Theo quan niệm Phật giáo, cái vòng đời lẩn quẩn đó được gọi là “vòng sinh tử” – cũng gọi là “hữu luân.” Đó là “bánh xe” của sự sinh tồn, chỉ sự luân chuyển của thế giới hữu hình. Đây là cách nói và biểu tượng của người Tây Tạng ám chỉ “vòng luân hồi” (sa.saṃsāra). Tuy nhiên, chắc chắn rằng “không có vòng luân hồi” như người ta quan niệm hoặc suy diễn. Đúng là bé cái lầm!
Thuận ngôn thì nghịch nhĩ, lời thật thì chói tai, phải như thế mới có thể nên người, nhưng Thiên Chúa không ép buộc ai và cho toàn quyền tự chọn. Khôn hay khốn là tự mình mà thôi. Sách Huấn Ca cho biết: “Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước, con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy. Trước mặt con người là cửa SINH cửa TỬ, ai thích gì, sẽ được cái đó.” (Hc 15:16-17) Rõ ràng con người được Thiên Chúa cho tự do hoàn toàn, và Ngài luôn tôn trọng quyền tự do chọn lựa của chúng ta. Lý do đơn giản, không có gì khó hiểu: “Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao, Người mạnh mẽ uy quyền và TRÔNG THẤY TẤT CẢ. Người để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người, và BIẾT RÕ TẤT CẢ những gì người ta thực hiện. Người không truyền cho ai ăn ở thất đức, cũng không cho phép ai phạm tội.” (Hc 15:18-20) Minh nhiên và rạch ròi, “lỗi tại tôi mọi đàng” chứ chẳng Nếu, Bởi, Tại, Vì… chi ráo trọi!
Yêu thương là Thiên Chúa, tốt lành tuyệt đối là Thiên Chúa, nơi Ngài chỉ có sự thiện mà thôi. Ngài toàn năng và toàn trí, đúng như Thánh Vịnh gia cảm nghiệm: “Lạy Chúa, Ngài dò xét con và Ngài biết rõ, biết cả khi con đứng con ngồi. Con nghĩ tưởng gì, Ngài thấu suốt từ xa, đi lại hay nghỉ ngơi, Chúa đều xem xét, mọi nẻo đường con đi, Ngài quen thuộc cả. Miệng lưỡi con chưa thốt nên lời, thì lạy Chúa, Ngài đã am tường hết.” (Tv 139:1-4) Chắc chắn chúng ta không thể giấu giếm được gì, cũng chẳng thể biện hộ được chi. Vải thưa không thể che mắt thánh!
Và như đã nói – tất nhiên ai cũng biết, đó là tất cả chúng ta được Thiên Chúa ban cho quyền tự do chọn lựa, tùy ý thích cài này hoặc cái kia. Đơn giản như việc ăn uống, người ta tự do ăn bất cứ thứ gì, không chịu kiêng cữ thì béo phì hoặc bệnh tật là hệ lụy tất yếu. Có triết lý này: Cái gì TỐT thì luôn ĐẸP, còn cái gì ĐẸP chưa chắc TỐT. Ai chọn cái tốt đẹp, đó là người khôn: “Hạnh phúc thay ai sống đời hoàn thiện, biết noi theo luật pháp Chúa Trời. Hạnh phúc thay kẻ tuân hành ý Chúa, hết lòng hết dạ kiếm tìm Người.” (Tv 119:1-2) Theo Việt ngữ, KHÔN ngoan và KHÔNG ngoan có cách viết gần giống nhau nhưng hoàn toàn trái nghĩa – sai một ly đi một dặm.
Là những người tin vào Đức Giêsu Kitô, chắc chắn ai cũng ước mong xác định suốt đời về tín ngôn này: “Vâng lạy Chúa, Ngài đã ban huấn lệnh, truyền chúng con tuân giữ vẹn toàn. Ước mong sao con hằng vững bước theo thánh chỉ Ngài ban.” (Tv 119:4-5) Và biết chân thành cầu nguyện liên lỉ: “Xin tỏ lòng nhân hậu cùng tôi tớ Chúa đây để con được sống và tuân giữ lời Ngài. Xin mở mắt cho con nhìn thấy luật pháp Ngài kỳ diệu biết bao.” (Tv 119:17-18) Biết hành động như vậy là người thực sự khôn ngoan, bởi vì biết chọn Đường Sống chứ không chọn Đường Chết. Khó chứ chẳng dễ, khó vì phải dứt khoát.
Tuy nhiên, muốn khôn ngoan như vậy thì chỉ có cách duy nhất là “bám vào Chúa” chứ không thể ỷ sức mình, đồng thời phải thiết tha cầu xin không ngừng: “Lạy Chúa, xin dạy con đường lối thánh chỉ, con nguyện đi theo mãi đến cùng. Xin cho con được trí thông minh để vâng theo luật Ngài và hết lòng tuân giữ.” (Tv 119:33-34) Chắc chắn Ngài chỉ chờ có vậy, nghĩa là Ngài sẽ không bao giờ ngoảnh mặt làm ngơ. Đó là sống tín thác, nhận biết mình hữu hạn, nhỏ bé, yếu đuối,…
Thánh Phaolô nói về sự khôn ngoan: “Điều chúng tôi giảng dạy cho các tín hữu trưởng thành cũng là một lẽ khôn ngoan, nhưng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian, cũng không phải của các thủ lãnh thế gian này, là những kẻ sớm muộn gì cũng phải diệt vong. Trái lại, chúng tôi giảng dạy lẽ khôn ngoan nhiệm mầu của Thiên Chúa đã được giữ bí mật, lẽ khôn ngoan mà Thiên Chúa đã tiền định từ trước muôn đời, cho chúng ta được vinh hiển.” (1 Cr 2:6-7) Thật vậy, “không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã được biết lẽ khôn ngoan ấy, vì nếu biết, họ đã chẳng đóng đinh Đức Chúa hiển vinh vào thập giá.” (1 Cr 2:8)
Đúng như đã có lời chép: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người. Còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí. Thật vậy, Thần Khí thấu suốt mọi sự, ngay cả những gì sâu thẳm nơi Thiên Chúa.” (1 Cr 2:9-10) Quả thật, chúng ta là những người rất may mắn và diễm phúc!
Vấn đề sinh – tử cũng liên quan luật pháp. Nhà có gia phong, nước có quốc pháp. Luật vị nhân sinh, nhân sinh bất vị luật. Nhưng con người yếu đuối nên dễ sa đà, thoái hóa, hư hỏng, vì thế phải có luật pháp để kiểm soát, cũng như loài ngựa dễ sinh chứng nên cần có hàm thiếc để kiềm chế. Do đó, có những người hư hỏng đã hoàn thiện nhờ nghiêm luật: “Phúc thay người được Thiên Chúa sửa trị! Chớ coi thường giáo huấn của Đấng Toàn Năng.” (G 5:17)
Khi nhập thể làm người, chính Chúa Giêsu cũng vẫn luôn tôn trọng luật pháp. Ngài đã xác định: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ Luật Mô-sê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải là để bãi bỏ, nhưng là để kiện toàn. Vì, Thầy bảo thật anh em, trước khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi, cho đến khi mọi sự được hoàn thành. Vậy ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất ấy, và dạy người ta làm như thế thì sẽ bị gọi là kẻ nhỏ nhất trong Nước Trời. Còn ai tuân hành và dạy làm như thế thì sẽ được gọi là lớn trong Nước Trời.” (Mt 5:17-19) Luật Chúa nghiêm minh nhưng vô cùng hữu ích, như Thánh Vịnh gia xác nhận: “Luật pháp Chúa quả là hoàn thiện, bổ sức cho tâm hồn. Thánh ý Chúa thật là vững chắc, cho người dại nên khôn.” (Tv 19:8)
Có nhiều thứ cần cảnh báo mà Chúa Giêsu đã cho biết, đây là một trong số các cảnh báo: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pha-ri-sêu thì sẽ chẳng được vào Nước Trời.” (Mt 5:20) Giết người, cướp của, gian dâm,… hoặc phạm những tội tày trời là điều hiển nhiên ai cũng ghét – ghét tội chứ không ghét người. Nhưng với Chúa Giêsu, tội nhỏ cũng không được phạm: “Ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” (Mt 5:21-12) Thậm chí là điều xem chừng rất nhỏ mọn: “Khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.” (Mt 5:23-25) Thực sự “căng” lắm! Nhưng đã là nghiêm luật thì có “căng” cỡ nào cũng phải làm, bởi vì chính Ngài đã nói thẳng thắn và rạch ròi: “Bạn sẽ không ra khỏi đó trước khi TRẢ HẾT ĐỒNG XU CUỐI CÙNG.” (Mt 5:26) Ôi chao, đúng là “căng” thật đấy!
Ai cũng biết rằng ngoại tình là chuyện lớn, không được “lóm lém” chi cả, nhưng Chúa Giêsu cấm cả chuyện nhỏ: “Ai NHÌN người phụ nữ mà THÈM MUỐN thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi.” (Mt 5:28) Và Ngài thẳng thắn và dứt khoát rằng “thà mù, cụt, què mà vào Nước Trời còn hơn đẹp trai hoặc đẹp gái mà phải vào hỏa ngục.” (x. Mt 5:29-30) Chúa Giêsu luôn rõ ràng, không mơ hồ, chẳng hoa mỹ hoặc bóng gió.
Ngày xưa, trong thời Cựu Ước, luật pháp cho phép người ta ly dị, nhưng thời Tân Ước thì cấm triệt để. Chúa Giêsu cho biết: “Ngoại trừ trường hợp hôn nhân bất hợp pháp, ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; và ai cưới người đàn bà bị rẫy thì cũng phạm tội ngoại tình.” (Mt 5:32) Mọi hệ lụy đều có tính liên đới, kể cả tội lỗi.
Và còn hơn thế nữa, ngay cả việc thề thốt cũng là điều cấm: “Đừng thề chi cả. Đừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Đừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Đừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Đức Vua cao cả. Đừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hoá trắng hay đen được.” (Mt 5:34-36)
Kết luận, Chúa Giêsu không dài dòng hoặc lòng vòng, mà tóm tắt cho dễ nhớ: “Hễ CÓ thì phải nói CÓ, KHÔNG thì phải nói KHÔNG. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ.” (Mt 5:37) Đó là Luật Chân Lý, Luật Sự Thật, rất ngắn gọn và đơn giản, nhưng đừng tưởng là “chuyện nhỏ,” bởi vì không dễ mấy ai dám làm đâu. Cái nhỏ mà lại quan trọng: Tế bào rất nhỏ, không thể nhìn bằng mắt thường, nhưng nó lại là “nền tảng” tạo chuỗi AND kỳ diệu.
Nếu thực sự muốn thanh toán món nợ tình thì chỉ có cách là sám hối, yêu thương mọi người và tha thứ mọi sự. Tất cả mọi trái khoản sẽ được Thiên Chúa tha bổng: “Tội các ngươi, dầu có đỏ như son, cũng ra trắng như tuyết; có thẫm tựa vải điều, cũng hoá trắng như bông.” (Is 1:18) Tuyệt vời biết bao vì chúng ta được tận hưởng Lòng Thương Xót của Thiên Chúa!
Lạy Thiên Chúa nhân hậu, xin giúp chúng con đủ sức vượt qua chính mình và thoát khỏi “vòng lẩn quẩn” của cuộc đời này, xin thêm sức mạnh và lòng can đảm để chúng con miệt mài sống theo Thánh Luật của Ngài, giữ đúng mọi điều khoản. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.
.
CHU TOÀN LUẬT CỦA THIÊN CHÚA VỚI LÒNG YÊU MẾN
Lm.Giuse Đỗ Đức Trí
Hội Đồng Giám Mục tại nước Đức vừa qua đã gây lo ngại sâu sắc cho Giáo Hội, khi họ tổ chức một công nghị trên toàn quốc để bàn về các giáo huấn của Giáo Hội. Một số vị cho rằng luật của Chúa và Giáo Hội quá khắt khe, họ muốn tìm ra một số những “giải pháp mục vụ” để nới lỏng các luật của Giáo Hội. Những vấn đề được đặt ra cho hội nghị này là việc nới lỏng luật độc thân của các linh mục, vấn đề các linh mục chúc lành cho những cặp hôn nhân đồng tính và nới lỏng những vấn đề liên quan đến luật bất khả phân ly của hôn nhân trong Giáo Hội cũng như phong chức linh mục cho phụ nữ. Toà Thánh đã lên tiếng cảnh báo, nhắc nhở Đức Hồng Y chủ tịch và cả công nghị về những sai lầm nghiêm trọng họ đang gây ra và có nguy cơ làm tổn thương đến sự hiệp nhất của Giáo Hội. Tuy nhiên, một số trong Hội Đồng Giám Mục vẫn phớt lờ cảnh báo của Toà Thánh và tìm cách biện minh cho quan điểm của mình.
Thiên Chúa không ép con người phải tin theo Ngài, Ngài để cho con người hoàn toàn tự do chọn lựa và quyết định. Một khi đã tin và chọn Chúa thì sẽ phải chấp nhận những điều kiện và lề luật của Chúa. Ai dám chọn thực thi theo giới răn lề luật của Chúa thì sẽ được sống, ai từ chối sẽ tự mình đi vào chỗ huỷ diệt. Bài đọc một sách Huấn Ca đã nói lên ý tưởng này: “Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn mà trung tín làm đẹp ý Người. Trước mặt con là nước và lửa…là cửa sinh và cửa tử, ai thích gì sẽ được cái đó.” Tác giả sách Huấn Ca cũng cho thấy Thiên Chúa là Đấng Khôn Ngoan thượng trí, Ngài nhìn thấu cõi lòng con người, mọi hành động của con người đều bày ra trước mặt Chúa. Ai sống làm sao Chúa sẽ trả cho như vậy, ai chu toàn luật Chúa với lòng yêu mến, Chúa sẽ bênh vực và bảo vệ người ấy.
Những luật sĩ và Biệt Phái Do Thái ngày xưa giữ luật cách vô hồn, họ giữ luật mà không biết mình giữ luật để làm gì, vì thế luật trở nên nặng nề đối với họ. Đức Giêsu đến rao giảng Tin Mừng, mời gọi mọi người sống tương quan Cha – con với Thiên Chúa thay vì tương quan chủ và đầy tớ; chu toàn luật Chúa là để cho mình nên xứng đáng là con của Thiên Chúa. Tuy nhiên, nhiều người nghĩ rằng Đức Giêsu sẽ cải tổ, sẽ lược bớt hoặc huỷ bỏ luật của Môsê. Vì vậy, hôm nay Chúa Giêsu công khai nói lên quan điểm của Ngài: “Anh em đừng tưởng Thầy đến để bãi bỏ luật Môsê hoặc lời các ngôn sứ. Thầy đến không phải để bãi bỏ, nhưng để kiện toàn. Vì Thầy bảo anh em, trước khi trời đất qua đi thì một chấm một phết trong lề luật cũng không qua đi.”
Không chỉ chu toàn mọi lề luật, Đức Giêsu còn làm cho lề luật nên trọn vẹn nhờ thái độ tuân giữ lề luật của Ngài. Đức Giêsu dành cả cuộc đời để chu toàn thánh ý Thiên Chúa; làm cho mọi lời Kinh Thánh nói về Ngài được nên trọn vẹn, cho dù vì thế mà Ngài bị kể vào số các phạm nhân và phải chết một cách đau đớn nhục nhã. Vì vâng phục hoàn toàn thánh ý Thiên Chúa, nên Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài và đặt Ngài làm thủ lãnh, làm chủ mọi loài trên trời dưới đất. Như thế, thái độ tuân giữ lề luật sẽ làm nên giá trị và đem lại kết quả hữu ích cho con người, chứ không phải chỉ chu toàn lề luật cách máy móc. Chúa Giêsu đã nói: “Ai bãi bỏ dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất và dạy người khác làm như thế, thì sẽ bị coi là kẻ nhỏ nhất…Còn ai tuân hành (đầy đủ) và dạy mọi người làm như thế, thì sẽ được gọi là người lớn trong nước trời.”
Các kinh sư và người Biệt Phái là những kẻ chỉ chu toàn lề luật để được mọi người ca tụng là bậc đạo đức. Họ giữ luật không phải vì Thiên Chúa mà vì bản thân mình, vì muốn tìm tiếng khen của người đời. Chúa Giêsu muốn các môn đệ của Ngài thoát khỏi lối sống hình thức, háo danh đó. Ngài muốn các môn đệ phải đi vào chiều sâu của luật, ý thức rằng luật được đặt ra không phải để kìm hãm con người, nhưng là phương thế giúp con người đứng vững và trở nên xứng đáng với tư cách là con Thiên Chúa: “Nếu anh em không ăn ở công chính hơn các luật sĩ và Biệt Phái, thì anh em sẽ chẳng được vào Nước Trời.” Như thế, Chúa Giêsu muốn chúng ta phải dám sống khác hơn, tốt hơn và thật lòng với Chúa hơn các luật sĩ và Biệt Phái thì mới có thể vào Nước Trời.
Chúa Giêsu cũng cho thấy đòi hỏi của Tin Mừng thì cao hơn, xa hơn luật cũ: “Anh em đã nghe luật dạy người xưa rằng: Chớ giết người; ai giết người thì đáng bị đưa ra toà. Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em biết: Bất cứ ai giận anh em mình thì đáng bị đưa ra toà. Ai mắng anh em mình là đồ ngốc, thì đáng bị đưa ra trước Thượng Hội Đồng. Còn ai chửi anh em mình là quân phản đạo, thì đáng bị lửa hoả ngục thiêu đốt.” So sánh này của Chúa Giêsu cho thấy mức độ, đòi hỏi, của Tin Mừng quyết liệt hơn, cao hơn luật cũ. Nếu như luật cũ dừng lại bởi luật công bằng thông thường: giết người sẽ bị trừng phạt, luật của Tin Mừng còn đòi loại trừ nguyên nhân đưa đến tội ác, đó là thù oán, nóng giận, chửi bới nặng lời. Một người có tâm hồn thanh thản bình an, sẽ loại trừ được sự nỏng nảy giận hờn, thoá mạ khi trái ý; khi tâm hồn thanh thản bình an thì mới có thể đến với Chúa cách chân thành được. Chúa muốn chúng ta trước khi đến với Chúa cần giải gỡ mọi mối bất hoà dù mình gây ra hay người khác gây ra với mình: “Nếu khi anh sắp dâng lễ vật trước bàn thờ, mà sực nhớ có người anh em đang có chuyện bất bình với anh, thì hãy để của lễ lại đó trước bàn thờ, đi làm hoà với người anh em ấy đã, rồi trở lại dâng lễ vật của mình.”
Chúa Giêsu đưa ra một số ví dụ để cho thấy luật của Tin Mừng hoàn toàn trổi vượt hơn luật của Môsê: Tội ngoại tình là tội phản bội lại tình yêu của người bạn đời, làm đổ vỡ mối dây thuỷ chung một vợ một chồng. Theo luật của Tin Mừng, tội ngoại tình được bắt đầu từ trong suy nghĩ, sự thèm muốn. Như thế, dù chỉ nhìn người khác giới mà đem lòng khát khao thèm muốn thì đã là tội trong tư tưởng rồi.
Cũng vậy, Luật Tin Mừng đòi mỗi người phải sống ngay thẳng thật thà trong lời nói, việc làm, gạt bỏ khỏi mình tất cả các hình thức gian tham, dối trá. Khi mỗi người tín hữu sống thật, nói thật và làm thật, thì không cần phải thề và cũng không cần nhân danh ai mà thề. Khi đó, lời nói của người tín hữu được bảo đảm bằng chính phẩm giá và tư cách là người tín hữu con của Chúa. Ngược lại ai nuôi dưỡng trong mình sự gian tham dối trá, nói dối, làm dối, kẻ đó thuộc về ma quỷ: Vì “có” thì nói “có”, “không” thì nói “không”; thêm điều đặt chuyện là do ác quỷ.
Có nhiều người, nhất là dân ngoại cho rằng đòi hỏi của luật Chúa quá khắt khe, khó có thể thực hiện. Thánh Phaolô trong thư Côrintô cho biết giáo lý Tin Mừng mà Ngài rao giảng không phải là lẽ khôn ngoan của thế gian và thế gian không thể hiểu được, nhưng là sự khôn ngoan nhiệm màu của Thiên Chúa, đã được tiền định cho chúng ta. Chỉ những ai tin và dám sống theo những đòi hỏi của luật Tin Mừng, thì mới là kẻ khôn ngoan đích thực. Thần Khí của Thiên Chúa sẽ thêm sức mạnh và thôi thúc để ta có thể chu toàn vuông tròn giới răn lề luật của Chúa.
Thưa quý OBACE, những đòi hỏi của giới răn lề luật của Chúa luôn là lời mời gọi và là thách đố cho chúng ta. Nhiều người đã tìm cách sống dễ dãi, lách luật bằng nhiều cách, có người lại muốn chỉ giữ một vài đòi hỏi tối thiểu của luật. Trong đời sống hôn nhân gia đình, một số người đã tự mình chối bỏ luật Chúa bằng việc tự ý bỏ nhau, nhiều người khác coi thường luật Chúa, đem nhau ra toà đời ly dị, để huỷ bỏ luật Chúa cách công khai trước mặt người đời. Đó là việc vi phạm luật Chúa hết sức nghiêm trọng.
Trong làm ăn, nhiều người đã nhắm mắt làm ngơ trước đòi hỏi sống công bằng, ngay thẳng, thật thà theo Tin Mừng. Họ biện minh cho sự gian dối của mình bằng nhiều cách để đánh lừa lương tâm của mình.
Xin Chúa giúp chúng ta biết đón nhận lề luật và giáo huấn của Chúa và Hội Thánh với lòng yêu mến. Xin cho chúng ta luôn xác tín rằng, yêu mến luật Chúa là chọn sống khôn ngoan và chu toàn luật Chúa sẽ đưa chúng ta đến gần Chúa hơn. Amen.
.
TINH THẦN MỚI TRONG LỀ LUẬT CŨ
Giuse Vinhsơn Ngọc Biển
Sau bài giảng trên núi về Tám Mối Phúc Thật, rồi sang Chúa Nhật tuần trước, Đức Giêsu nói về bản chất và sứ vụ của các môn đệ là muối và ánh sáng cho trần gian. Hôm nay, Ngài đi thêm một bước nữa để dạy cho các ông về thái độ cần có đối với Lề Luật. Mặt khác, Đức Giêsu cũng làm toát lên vai trò Thiên Sai của mình khi đến để kiện toàn Lề Luật cũ và làm cho nó hoàn thiện hơn.
- Tại sao phải kiện toàn Luật cũ?
Phải kiện toàn Luật cũ, bởi vì Luật cũ đã làm cho người ta cảm thấy nặng nề, sợ hãi và thất vọng. Vai trò của Luật trong Cựu Ước không còn giúp cho con người được hạnh phúc, trái lại, nó làm cho người phải thi hành luật thêm đau khổ và thất vọng.
Đức Giêsu đến, Ngài đã mang lại cho Luật cũ một giá trị mới, nhằm kiện toàn cho tốt hơn. Vì thế, Ngài minh định: “Các con đừng tưởng Ta đến để hủy bỏ Lề Luật hay các tiên tri: Ta không đến để hủy bỏ, nhưng để kiện toàn” (Mt 5,17). Thật thế, Đức Giêsu không hủy bỏ Lề Luật, nhưng Ngài giúp cho nó hoàn thiện hơn.
Tại sao Luật cũ cũng là Luật của Thiên Chúa truyền qua Maisen và các tiên tri mà lại phải hoàn thiện! Điều đó thật dễ hiểu, vì Luật cũ chỉ nắm vai trò dẫn đường, chuẩn bị, khai mở mà thôi, mặt khác, nó đã bị những người nắm giữ vai trò giải thích Luật lạm dụng và làm cho nó trở nên nặng nề như cái gông cái ách quá nặng để đè lên vai con người, mặc dù những người đó không đủ sức mang vác.
Vì thế, khi Đức Giêsu đến, Ngài cần phải kiện toàn và bổ xung cho hoàn chỉnh; đồng thời cũng giúp cho các môn đệ hiểu và sống cho đúng tinh thần của Luật chứ không chỉ hiểu theo nghĩa đen, nghĩa thuần túy của chữ.
Đức Giêsu đã đưa các môn đệ đi vào chiều kích mới của Luật, để con người đạt được sự viên mãn và cùng đích của Luật là tình yêu.
Như vậy, Luật tình yêu được Đức Giêsu đề cập đến cụ thể trong bài Tin Mừng hôm nay là gì?
- Tinh thần mới trong Lề Luật cũ
Trước tiên, hiểu về vấn đề giết người:
Nếu trong Cựu Ước, giới răn thứ 5 dạy chớ giết người (x. Xh 20,13; Đnl 5,17), nhưng không có tính cách triệt để, và án tử hình được chấp nhận khi con người phạm vào một số tội trọng (x. Ds 35,16-21). Cũng vậy, trong luật chiến tranh, Maisen chấp nhận được chém giết đối phương (x. Đnl 20,13.16).
Còn Đức Giêsu, Ngài đi xa hơn nữa để dạy cho các ông hiểu rằng: khi xúc phạm tới anh em mình như chửi rủa, giận giữ hay la rày, mạt sát là đã phạm tội rồi. Bởi vì: Luật cũ dạy: “Chớ giết người”, còn Đức Giêsu dạy: “Ai giận anh em mình” thì như đã phạm tội giết người. Vì thù oán anh em là đã tiêu diệt họ ngay trong lòng mình, tuy chưa giết họ thực sự, nhưng đã giết chết họ trong trái tim. Thánh Gioan Tông đồ cũng viết: “ Phàm ai ghét anh em mình thì là kẻ sát nhân. Và anh em biết: không kẻ sát nhân nào có sự sống đời đời ở lại trong nó” (1Ga 3,15).
Thứ đến, hiểu về lời thề và làm chứng:
Trong Cựu Ước, điều răn thứ 2 dạy chớ kêu tên Ðức Chúa Trời vô cớ (x. Lv 19,12) và thứ 8 dạy chớ làm chứng dối (x. Xh 20,16). Luật cũ cho phép thề, nhưng “chớ bội thề”. Còn Đức Giêsu bảo: “Thầy bảo cho anh em biết: đừng thề chi cả. Ðừng chỉ trời mà thề, vì trời là ngai Thiên Chúa. Ðừng chỉ đất mà thề, vì đất là bệ dưới chân Người. Ðừng chỉ Giêrusalem mà thề, vì đó là thành của Ðức Vua cao cả. Ðừng chỉ lên đầu mà thề, vì anh không thể làm cho một sợi tóc hóa trắng hay đen được. Nhưng hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ” (Mt 5, 34-37; x. 2Cr 1,17; Gc 5,12).
Tiếp theo, hiểu về tội ngoại tình:
Luật Maisen dạy rằng: ngoại tình là một điều sai quấy và không được phép (x. Xh 20,14; Xh 20,17b; Đnl 5,18). Còn Đức Giêsu thì nhấn mạnh đến cái tâm con người, tức là tự đáy tâm hồn: không ai biết, nhưng Thiên Chúa biết mọi sự từ thâm cung bí hiểm của con người. Vì thế, Ngài nói: “Thầy bảo cho anh em biết: ai nhìn người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi” (Mt 5, 28). Đức Giêsu coi suy tưởng để dẫn đến ngoại tình nó như là một mầm mống, để rồi từ đó sẽ mọc lên cây non và hình thành nên một lối sống. Vậy muốn diệt thì phải diệt tận gốc chứ không chỉ có cái ngọn.
Như vậy, trong vai trò Thiên Sai, Đức Giêsu đến để kiện toàn và làm cho nó tốt hơn, hoàn hảo hơn, nhân bản và đạo đức hơn nhờ vào cái gốc là bác ái và yêu thương.
Lời dạy của Đức Giêsu không đi ngược những gì Maisen đã dạy, nhưng Ngài muốn dẫn đưa con người đến mức độ trưởng thành nhằm hướng tới niềm vui trọn vẹn từ trong tâm, toát ra nơi lối sống qua mọi mối tương quan.
Sau khi chứng minh cho việc trung thành giữ Luật của mình để các môn đệ hiểu, Đức Giêsu chính thức đi xa hơn để dạy cho các ông bài học về tinh thần mới trong Luật cũ, đồng thời mời gọi các ông đi trên con đường ấy để được hoàn thiện, Ngài nói: “Thầy bảo cho anh em biết, nếu anh em không ăn ở công chính hơn các kinh sư và người Pharisêu, thì sẽ chẳng được vào Nước Trời”(Mt 5,20).
- Sứ điệp Lời Chúa
Trong cuộc sống, nơi gia đình hay bất kể một cộng đoàn lớn nhỏ nào, nếu chỉ có luật và người ta dùng luật để làm thước đo giá trị tâm linh, thì cộng đoàn ấy, gia đình đang tụt hậu và đi xa đường lối của Thiên Chúa. Họ đánh mất đi tình yêu và mất luôn bản chất của Đạo.
Thật vậy, nếu chỉ vì luật, người ta sẽ xử với nhau như beo cọp, gọi nhau bằng mệnh lệnh, và cấp dưới sẽ vì sợ mà phải thi hành. Một gia đình hay một cộng đoàn như vậy thì đâu khác gì một địa ngục ở trần gian? Bởi vì trong địa ngục thì không có tình yêu.
Có một linh mục tâm sự rằng: “rất nhiều người siêng dâng lễ, đọc kinh, tuần nào tiết ấy, nhưng thực chất họ làm những chuyện đó chỉ để cho người khác khen mình là người đạo đức, là tốt lành, hoặc coi những công việc đó như là chiếc bình phong để che đậy những điểm xấu xa bởi những thủ đoạn ám muội của mình gây ra, hoặc dựa trên những việc đạo đức giả tạo đó để rồi lên mặt dạy ông nọ, chửi bà kia và vênh vang với đời”.
Những người như vậy, họ giống như cái “xác vô hồn”, hay “thùng rỗng kêu to” hoặc như một “đàn gà công nghiệp”. Họ giống như những “mồ mả tô vôi, bên ngoài có vẻ đẹp, nhưng bên trong thì đầy xương người chết và đủ mọi thứ ô uế!” (Mt 23, 27-28); lòng họ không có lòng mến, nên tất cả chỉ là giả tạo theo kiểu: “Khẩu Phật tâm xà”; hay “bên ngoài thơn thớt nói cười, mà trong nham hiểm giết người không dao”.
Mong thay, mỗi chúng ta luôn nhớ rằng: việc giữ Luật không chỉ có biểu hiện bề ngoài, mà còn từ bên trong tinh thần. Cái bên ngoài chỉ có giá trị khi nó được thúc đẩy từ ý hướng ngay lành ở bên trong.
Cũng thế, muốn bình an, thanh thản và an vui thực sự, con người cần phải thanh tẩy tận căn từ bên trong tâm của mình. Bởi vì: “Thiện căn ở tại lòng ta, Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài” (Nguyễn Du).
Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa cho chúng con biết sống thật với lòng mình, để đáng được gọi là con Chúa và là anh chị em của nhau. Luôn có cái nhìn bao dung với người đồng loại, và mưu cầu hạnh phúc cho những người chúng con gặp gỡ. Amen.
.
KIỆN TOÀN LỀ LUẬT VÀ ĐỨC CÔNG CHÍNH MỚI
Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt
CÂU HỎI GỢI Ý
- “Làm trọn Lề luật” (5, 17) có nghĩa là gì Phải hiểu thế nào các “tương phản” (5, 21. 27. 31. 33. 38. 43) sau khi đọc đoạn khai triển về việc làm trọn Lề luật (5, 17- 20) ? Chúa Giêsu kiện toàn “điều đã được nói cho người xưa” ở điểm nào? Đâu là sự “dư dật” của đức công chính được đề ra (c. 20)?
- Hãy nêu lên trong Tin Mừng những cử chỉ Chúa Giêsu tỏ cho thấy Người không đến bãi bỏ Lề luật: ví dụ đối với Đền Thờ, việc nộp thuế, lễ Vượt Qua, việc chúc lành các bữa ăn, kinh nguyện hằng ngày, chính quyền, việc hành hương Giêrusalem v.v…
- Theo nghĩa nào Chúa Giêsu đã giải phóng Lề luật khỏi các khoản thêm thắt của Biệt phái đã khiến mục đích chân chính của Lề luật bị đổi hướng?
- Có thể ly dị vợ trong trường hợp gian dâm không? Khoản luật này có nghĩa gì? Phải chăng đây là một luật trừ?
- Sau khi kêu gọi môn đồ và dân chúng, trong các câu dẫn nhập vào Diễn từ, bằng cách phác họa cho họ thấy dung mạo con cái Nước Trời, Chúa Giêsu lập tức đề phòng một ngộ nhận: điều Người loan báo có thể xem như bãi bỏ Cựu ước (được gọi dưới cái tên Lề luật – tức bộ Ngũ Thư – và các Ngôn sứ tức là toàn thể các sách linh ứng khác), nhưng kỳ thực là không: Người không đến bãi bỏ, song để làm trọn, kiện toàn. Việc hoàn tất ấy nhắm lời Thánh Kinh xét như là tuyển tập các sấm ngôn mà Chúa Kitô đến thực hiện, và xét như là tuyển tập các luật lệ diễn tả thánh ý Thiên Chúa, mà Chúa Kitô đến kiện toàn.
- Một trong các bản tuyên tín cổ xưa nhất, có lẽ từ khoảng năm 35- 40, quả quyết như sau: “Chúa Kitô đã chết vì tội lỗi ta, theo lời Thánh Kinh. Người đã bị chôn cất, đã sống lại ngày thứ ba, theo lời Thánh kinh” (1Cr 15, 3- 5). Niềm xác tín Chúa Kitô hoàn tất Thánh Kinh như vậy đã ăn sâu vào tâm thức Kitô hữu. Nó cấu thành niềm tin của cộng đoàn nguyên thủy, và là trọng tâm của việc họ hiểu Lời Chúa. Nhờ việc hoàn tất này, Giáo Hội xuất hiện như là đích điểm của chuyển động lịch sử mà Thiên Chúa đã lèo lái, và Chúa Kitô tỏ ra như là trung tâm bảo đảm sự duy nhất của Thánh Kinh. Người là Đấng “đã được nói đến trong Lề luật Môisen và các ngôn sứ” (Ga 1, 45): Tin lời Thánh Kinh tức là tin và Người: Vì chính về Ta mà Môisen đã viết” (Ga 5, 45). Và suốt cuốn Tin Mừng, Mt đã chú tâm làm nổi bật việc Chúa Kitô hoàn tất Thánh Kinh như vậy.
- Nhưng nếu Chúa Giêsu đến hoàn tất các sấm ngôn, thì Người cũng đến trình bày một cái nhìn đúng đắn hơn về tinh thần được tiềm ẩn dưới các giới lệnh chính thức của Lề luật. Ngoài ra, công cuộc kiện toàn này còn có đặc điểm là tinh thần Tin Mừng nay thấm nhập vào pháp chế cổ xưa, là cái có mục đích chuẩn bị sự nẩy nở của Tin Mừng. Như nụ hoa kết liễu và biến mất trong đóa hoa, Cựu ước cũng nở ra trong Tân ước. Thay cho văn tự ngột ngạt đè nén, này đây tinh thần đến giải phóng con người.
Các kiểu so sánh Chúa Giêsu dùng – không một chấm một phết của Lề luật sẽ bị biến mất – thoạt nhìn tưởng là có nghĩa duy trì hoàn toàn bộ luật Cựu ước bao lâu còn vũ trụ (“trời và đất”, thành ngữ cổ điển). Nhưng các ví dụ đưa ra đi ngược lại và cho thấy Người không nhằm bảo tồn chất thể tính của các giới lệnh. Người chỉ duy trì chúng bằng cách vượt trên chúng. Không phải bằng cách chồng chất thêm điều khoản, như nhóm Biệt phái và tiến sĩ luật đã làm, song là đưa vào một não trạng có tính cách tôn giáo hơn, khả dĩ làm nổ tung các khuôn khổ cũ (9, 16- 17) mà vẫn không hủy diệt các giới răn. Đây chẳng phải là việc phá hủy, song là đổi mới canh tân. Toàn bộ đóng góp tích cực về tôn giáo của Cựu ước đều được duy trì, gạn lọc khỏi các thể chế lỗi thời và thối nát.
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Không một chấm một phết”: Phải giải thích câu này trong cái nhìn toàn bộ Tin Mừng Mt. Nếu Chúa Giêsu muốn đề nghị ở đây một sự tuân hành mặt chữ Lề luật, Người sẽ trực tiếp mâu thuẫn với thái độ của chính mình, vì xem ra Người đã chẳng giữ đúng các khoản luật nhỏ nhặt của Cựu ước, nhất là khoản về thu nhập và tinh sạch theo lễ nghi (15, 3 ; 19, 17 ; 22, 36. 38. 40 v.v…), hơn nữa Người sẽ mâu thuẫn với lời giảng huấn của mình, vì trong các ví dụ sau đó, Người sửa đổi Lề luật trên nhiều điểm quan trọng như khoản luật về ly dị của Đnl 24, 1. Do đấy phải xem thành ngữ của Chúa Giêsu là một kiểu nói Do thái, đặc biệt của các giáo sĩ, nhằm làm nổi bật uy quyền tuyệt đối và trường tồn của Lề luật, nhưng là một Lề luật đã được giải thích lại, được gạn lọc khỏi các yếu tố lỗi thời, được kiện toàn nhờ tinh thần tình yêu sinh động nó. Thứ Lề luật đã được chú giải lại như thế phù hợp với chủ ý nguyên thủy của Thiên Chúa, là Đấng đã ban nó cho Môisen đầu tiên. Chính trong chiều hướng ấy mà ta có thể xác quyết tính cách bền vững của Lề luật: trời đất sẽ qua đi nhưng thánh ý Thiên Chúa sẽ không qua bao giờ.
“Một trong những điều răn nhỏ hèn nhất”: Một lần nữa, đây không phải là bắt chước việc giữ luật theo mặt chữ của Biệt phái. Khi đã lưu ý đến văn mạch của Diễn từ, chớ quên rằng từ đây Luật chẳng phải là luật Môisen đối nghịch với tinh thần mới, nhưng là Luật Thiên Chúa với sự viên mãn mà Chúa Giêsu đã thực hiện. Nên so với Lề luật diễn tả thánh ý Chúa Cha và được Chúa Giêsu giải thích lại như thế, thì các điều răn phụ tùy cũng có giá trị riêng của chúng. Ở đây nhấn mạnh đến việc thực hành Luật Tin Mừng, có lẽ vì muốn ám chỉ tới nhóm Biệt phái “nói mà không làm” (23, 3). Lối giải thích này được xác nhận bởi cách đặt tiếp liên các động từ (“phạm – dạy … làm- dạy”); đặt việc vi phạm hay thi hành điều luật trước, và việc dạy dỗ ra sau trong cả hai lần.
Câu 20 phát biểu chủ đề của những điều sẽ nói: “‘Nếu đức công chính của các ngươi không dư dật hơn ký lục và Biệt phái …”. Lời tuyên bố long trọng này sau đấy được minh giải qua 6 ví dụ cụ thể, trong đó Chúa Giêsu đối chiếu lời Người tái giải thích Lề luật với giáo huấn chính thức của Do thái giáo. Tất cả các ví dụ đều được kết cấu theo một kiểu như nhau: trích dẫn một điều luật đoạn đề ra các yêu sách mới (“Ta bảo các ngươi…”) . Sáu ví dụ này là: giết người (cc.21- 26), ngoại tình (cc. 27- 30), ly dị cùng tính cách bất khả phân ly của hôn nhân (cc.31- 32), thề thốt (cc.33- 37), báo thù (cc.38- 42) và yêu kẻ thù nghịch (cc.43-47). Trong cả 6, sự công chính mà Chúa Giêsu rao giảng tỏ bày ra một cách sâu xa và hiện thực.
Từ luật cấm giết người (c. 21), Chúa Giêsu đi qua các yêu sách của bác ái: không nhục mạ tha nhân (c.22), song hãy làm hòa với họ. Đối với Mt, tính cách mới mẻ của Kitô giáo phát xuất từ trực giác căn bản Chúa Giêsu đã mặc khải cho môn đồ: đó là sự kiện tất cả chúng ta đều là con cái của Cha trên trời. Và sự kiện chủ yếu này đưa tới một hệ luận quan trọng: mọi người là anh em. Trước đó Chúa Giêsu đã nhấn mạnh đến điểm thứ nhất, đã luôn luôn quy chiếu về Thiên Chúa như là Cha từ đầu đến cuối Diễn từ. Ở đây Người chạm tới điểm 2, khi dùng chữ anh em 4 lần trong các câu 22- 24.
Trong mấy câu 22-24, chở đi tìm các phân biệt theo kiểu giải nghi học xa lạ với não trạng của Chúa Giêsu. Thực ra, Người chỉ muốn sử dụng những phạm trù pháp lý của môi trường mình và kiểu nói của các giáo sĩ, để kết án sự giận hờn như là một hành động giết người, dù nó xuất hiện dưới hình thức nào đi nữa. (Về ý nghĩa các chữ “đồ ngốc”, “đồ khùng”, “tòa án”, “công nghị”, xin xem chú thích của BJ)
“Khi ngươi dâng của lễ nơi bàn thờ”: Câu này không rõ ràng mấy về chi tiết. Có thể là người sắp dâng hy lễ đã làm phật lòng tha nhân, hay tha nhân đã tức giận người dâng lễ (có duyên cớ hay không, bản văn chẳng xác định gì). Giả thuyết thứ hai có vẻ đúng hơn, vì người dâng lễ đã ở bên bàn thờ khi sực nhớ lại: điều này minh chứng cơn giận không ở trong lòng anh ta nhưng cái đó chẳng quan trọng; điều đáng kể là trong hai trường hợp, thiện ích của sự bình an đòi hỏi ta phải tìm cách giải hòa với nhau, trước khi trình diện trước mặt Thiên Chúa. Đó là sự tế nhị của lòng bác ái Chúa Giêsu mà ta không mấy thích, vì nhiều khi mình là đối tượng của một sự hờn oán bất công. Câu tiếp theo (c. 25) trình bày một dụ ngôn tiềm ẩn nhằm cụ thể hóa lời giảng huấn đi trước: cũng như người ta tìm cách thỏa thuận với chủ nợ để khỏi gặp cảnh khốn khổ hơn, thì cũng vậy phải tìm cách giải hòa gấp với nhau để tránh thoát hình phạt của Thiên Chúa. Ý tưởng sau chỉ được hiểu ngầm thôi, tuy nhiên cung cách long trọng của c. 26 gợi lên điều đó.
Về vấn đề ngoại tình (cc. 27- 30), tính cách triệt để của Lề luật được đặc biệt nhấn mạnh: người Kitô hữu chẳng những sẽ không phá vỡ tổ ấm của anh em mình qua việc lấy vợ anh em, mà còn không được để phát sinh trong lòng mình ý muốn phá vỡ đó. Sự toàn vẹn của tổ ấm gia đình phải vượt lên ngay cả trên sự toàn vẹn thể lý, là cái gì rất quý đối với con người, vì con mắt giúp đi đứng, còn tay chân lại giúp hành động. Đây là kiểu nói đại ngôn cho thấy phải coi trọng đến độ nào yêu sách tuyệt đối của Lề luật. Truyền thống giáo sĩ cũng đi theo chiều hướng ấy.
“Trừ phi là nố dâm bôn”: Câu này (được Mt 19, 9 ; Mc 10, 11- 12 ; Lc 16, 18 bổ túc) không phải là dễ hiểu, vì nó nại đến nhiều ý niệm pháp lý mà ta chẳng còn quán triệt được ý nghĩa đích xác. Dù sao đại ý vẫn rõ ràng: sự bao che của luật Môisen, được bảo đảm nhờ ly thư, trở nên thất liệu trong lời Chúa Giêsu tái giải thích Lề luật. Kết luận tổng quát này dựa trên các lý chứng sau đây:
- Toàn bộ Diễn từ cho thấy Chúa Giêsu muốn vượt quá Lề luật cho đến bây giờ hãy còn hiệu lực. Thế mà trong trường hợp hôn nhân, dù công nhận sự vô hạnh (gian dâm) như là luật trừ, Người vẫn không đi xa hơn mấy lập trường của Shammai, một giáo sĩ Do thái đương thời.
- Trong Mt 5- 7, cũng như các chỗ khác, ta chẳng hề thấy Mt phát biểu một sự chế hạn nào đó khi ghi lại một huấn thị luân lý của Chúa Giêsu; thực vậy, các bản văn ấy cho thấy Người rõ ràng không muốn sa vào lối phân biệt các nố đặc biệt như các giáo sĩ thường làm, mà chỉ nhắc lại cách đại cương trật tự sáng tạo Thiên Chúa đã thiết lập.
- Mc và Lc không nói đến điều khoản này. Khó mà nghĩ rằng hai ông đã bỏ qua một lời tuyên bố thật sự biến đổi nguyên tắc bất khả phân ly của hôn nhân.
- 1Cr 7, 10- 11, lời giải thích xưa nhất về câu nói của Chúa mà Phaolô cũng biết, xác nhận luật cấm tuyệt đối không được ly dị (tuy nhiên câu 11 nói đến trường hợp ly thân mà không tái giá).
Do đó không thể chủ trương rằng trong tâm trí Chúa Giêsu, việc ngoại tình làm thành một luật trừ, như người Tin lành và Chính thống giáo vẫn kết luận từ điều khoản đó (tuy nhiên có nhiều thần học gia Tin lành mới đây đã chấp nhận cách đại cương lời kết luận của chúng tôi). Thế nhưng các nhận xét trên đây không phải là lời chú giải điều khoản của Mt. Muốn tìm hiểu, xin khảo cứu các sách chú giải chuyên môn và các bài đăng trong tạp chí.
“Ta bảo các ngươi đừng thề thốt chi cả”: Lời nghiêm cấm này xem ra tuyệt đối đến nỗi nhiều giáo phụ đã lên án mọi sự thề hứa, cũng như có nhiều giáo phái Tin lành từ chối không tuyên thệ bất cứ điều gì. Để không lại ý kiến họ, ta có thể trưng ra sự kiện thánh Phaolô (Rm 1, 9 ; 2 Cr 1, 23 ; 11, 31 ; Ga1 1, 20 ; Pl 1, 8 ) và việc thực hành trong Giáo Hội: Giáo Hội không những cho phép thề trước các tòa án, mà còn buộc phải thề trong một vài trường hợp nữa (vd thề chống Duy tân chủ nghĩa). Điều đó giả thiết lời nghiêm cấm của Chúa Giêsu không có tính cách tuyệt đối. Người muốn nói (thánh Agustinô) trong lời thề tự nó không phải là một điều tốt. Nó phải biến mất khỏi một cộng đoàn xã hội được tổ chức theo tư tưởng của Chúa Giêsu. Chỉ khi gặp trường hợp đáng tiếc và nghiêm trọng mới nên thề. Để quán triệt tư tưởng của Chúa Giêsu, ta phải xét nó trong hoàn cảnh cụ thể của nó. Các thính giả của Chúa Giêsu là những người không phải bận tâm về tính cách chính đáng trên lý thuyết của một lời thề quy định bởi quyền bính dân sự hay tôn giáo. Họ sống trong một môi trường mà văn từ của Lề luật, theo lối chú giải của Biệt phái, coi như đi đôi với một sự lạm dụng quá trắng trợn, với một sự biến đổi rõ ràng tâm tình đạo đức. Chúa Giêsu đưa ra một hướng đi quyết liệt, Người tình bày điều duy nhất phù hợp với danh dự của Thiên Chúa và phẩm giá con người, làm quy luật mà các môn đồ Người phải theo trong các hoàn cảnh sống thông thường. Nền tảng của quy luật thực tiễn này là: con người không được dùng lời mình để cam kết cái điều thuộc về Thiên Chúa; đó sẽ là một toan tính bắt Thiên Chúa phục vụ mình, một toan tính rõ ràng là vô ích phù phiếm, vì con người không thể thay đổi ngay cả màu sắc tóc mình, theo nghĩa là không thể làm mình trẻ hơn hay già hơn được.
KẾT LUẬN
Việc Chúa Giêsu tái giải thích Lề luật luôn luôn được thực hiện trong cùng một chiều hướng: khi triệt để hóa Lề luật, vượt trên mọi toan tính phân tích từng nố nhằm giảm thiểu yêu sách của nó, Người hoàn lại cho nó chiều hướng nguyên thủy là làm cho con người trở nên huynh đệ hơn, tôn trọng nhau hơn, trung thành hơn với các lời cam kết và tình yêu, ngay chính hơn đối với anh chị em mình.
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
- Con người luôn luôn bị cám dỗ rơi vào não trạng nệ luật, là não trạng bao giờ cũng dễ dàng vì gây cho ta mọi sự an lòng: ta vững tâm cho rằng mình sống đúng luật đối với Thiên Chúa và tha nhân, một khi làm tròn một quy luật nào đó. Nhưng Chúa Giêsu mời ta vượt qua các tính toán so đo ấy để đi vào bình diện tình yêu. Và mức độ của tình yêu là yêu không mức độ.
- Chúa Giêsu không chỉ hài lòng với việc chu tất hay kiêng cữ bên ngoài. Người đi tìm con người tận trong căn nguyên hành vi của họ, tận trong tư tưởng, ước muốn, ý hướng của họ: “Ngươi hãy yêu mến Thiên Chúa ngươi hết lòng, hết sức hết linh hồn ngươi “.
- Khi ban Thập điều cho Israel, Thiên Chúa đã dẫn Israel bước một bước dài trong quá trình tiến bộ về mặt luân lý: so sánh với luật rừng hay tình trạng man rợ, luật Môisen tượng trưng cho một bước tiến đáng kể cho lương tâm con người. Tuy nhiên Thiên Chúa cũng lưu ý đến sự yếu đuối của dân Israel và đến các phong tục hãy còn thô lậu của thời đại: như một nhà sư phạm khôn ngoan, Ngài đã thích ứng các yêu sách của Ngài với não trạng hãy còn thô lỗ của dân, chấp nhận nhượng bộ việc ly dị, trả thù v.v… Đó là thời kỳ thơ ấu của Israel, thời kỳ tập luyện. Nhưng Thiên Chúa đã yêu thương tạo vật đến nỗi không muốn duy trì nó trong sự sống tầm thường. Vì thế Ngài đã sai phái Con Một Ngài để Người hoàn tất công trình Ngài và dẫn đưa con người đến tình yêu hoàn hảo. Đây là một sự liên tục đáng khâm phục trong chương trình cứu rỗi của Thiên Chúa.
.
SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 6 TN_A
Lm. Inhaxio Hồ Thông
Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật VI Thường Niên Năm A đưa ra câu trả lời cho một vấn đề: sự khôn ngoan của Thiên Chúa cốt yếu là điều gì?
Hc 15: 15-20
Theo hiền nhân Si-rác, sự khôn ngoan của Thiên Chúa được bày tỏ qua việc tôn trọng sự tự do chọn lựa của con người.
1Cr 2: 6-10
Theo thánh Phao-lô, sự khôn ngoan của Thiên Chúa chính là sự khôn ngoan mà Tin Mừng công bố. Mầu nhiệm được ẩn dấu từ muôn thuở đã được Đức Ki-tô mặc khải nhờ Chúa Thánh Thần, đó là kế hoạch của Thiên Chúa trên nhân loại, tức là cho con người được dự phần vào vinh quang của Ngài.
Mt 5: 17-37
Luật Cựu Ước được xem như diễn tả sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Tuy nhiên, Chúa Giê-su công bố rằng Ngài đến để kiện toàn Lề Luật: những đòi hỏi mà Ngài thêm vào Lề Luật đem lại quyền ưu tiên cho thái độ nội tâm. Lề Luật bị vượt qua một cách sâu xa khi đặt người Ki-tô hữu dưới cái nhìn của Thiên Chúa chứ không của con người.
BÀI ĐỌC I (Hc 15: 15-20)
Bản văn này rất nổi tiếng vì nó hình thành nên một trong những tham chiếu kinh điển thần học về vấn đề sự tự do của con người. Tác giả là một bậc vị vọng ở Giê-ru-sa-lem, sống vào khoảng năm 200 trước Công Nguyên. Ông là một nhà hiền triết, nghĩa là bậc thầy dạy lẽ khôn ngoan, đã mở trường và đào tạo môn sinh; ông ghi lại những thành quả từ kinh nghiệm và những gẫm suy của ông.
Vào thời đó, dân Ít-ra-en trải qua một khúc quanh lịch sử của mình. Sau khi trở về từ cuộc lưu đày ở Ba-by-lon, tiếp đó tái thiết Đền Thờ (521 trước Công Nguyên), Do thái giáo đã ý thức về chính mình. Ấy vậy, sau những cuộc chinh phục của đại đế A-lê-xan-đê (336-323 trước Công Nguyên), Cận Đông mở rộng cửa đón nhận văn hóa Hy-lạp. Vào năm 250 trước Công Nguyên, nền văn hóa Hy lạp tràn ngập khắp miền Pa-lét-tin; những môi trường quý tộc ở Giê-ru-sa-lem sẵn lòng đón nhận nền văn hóa này. Ông Si-rác, tâm trí cởi mở và sáng suốt, thấy trước mối nguy: Do thái giáo có nguy cơ đánh mất tâm hồn của mình. Được nuôi dưỡng bởi nguồn mạch Kinh Thánh, ông Si-rác đem lại niềm tin và sức mạnh cho các truyền thống của cha ông. Lề Luật, mà ông đồng hóa với sự khôn ngoan, đem lại niềm tôn kính cho chức tư tế và Đền Thờ, cũng cho những thực hành nghi lễ. Ông biên soạn một thủ bản dạy cách ăn nếp ở cho người Do thái trung thành, những người cưỡng kháng lại những ảnh hưởng của nền văn hóa Hy-lạp.
Tác phẩm của ông được viết bằng tiếng Híp-ri. Nhưng khoảng năm mươi năm sau, vào khoảng năm 130 trước Công Nguyên, cháu nội của ông dịch tác phẩm này sang Hy ngữ. Sách của hiền nhân Si-rác là một loại bách khoa; nhiều chủ đề đa dạng được đề cập ở đây, không có trật tự xác định, nhưng chung chung được hợp thành nhóm theo chủ đề. Đoạn văn chúng ta bàn đến sự tự do của con người, gồm có ba phần:
– Khẳng định con người có quyền chọn lựa.
– Khẳng định Thiên Chúa là Đấng toàn năng và toàn tri, điều này xem ra đi ngược lại với sự tự do chọn lựa của con người.
– Giải pháp được phác họa dưới hình thức hai phủ định ở nơi câu cuối cùng.
- Con người có quyền chọn lựa
Hiền nhân Si-rắc khẳng định rõ ràng là con người có quyền quyết định số phận của mình. Thiên Chúa đã đặt trước mặt mỗi người sự chết (“lửa”) và sự sống (“nước”), tùy thuộc vào sự tự do chọn lựa của mình:
“Trước mặt con, Người đã đặt lửa và nước,
con muốn gì, hãy đưa tay ra mà lấy.
Trước mặt con người là cửa sinh cửa tử,
ai thích gì, sẽ được cái đó” (Hc 15: 16-17).
Theo truyền thống Kinh Thánh, sự sống được liên kết với việc thực thi Lề Luật:
“Nếu con muốn thì hãy giữ các điều răn
mà trung tín làm điều đẹp ý Người” (Hc 15: 15).
Chúng ta có thể trích dẫn nhiều bản văn theo nghĩa này, chẳng hạn như Đnl 30: 15-20: “Hôm nay tôi đưa ra cho anh em chọn: hoặc là được sống, được hạnh phúc, hoặc là phải chết, bị tai họa. Hôm nay tôi truyền cho anh em phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, đi theo đường lới của Người, và tuân giữ các mệnh lệnh, thánh chỉ, quyết định của Người, để anh em được sống, được thêm đông đúc, và Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em, chúc phúc cho anh em trong miền đất anh em sắp vào chiếm hữu… Nhưng nếu anh em trở lòng và không vâng nghe, thì hôm nay tôi báo cho anh em biết: chắc chắn anh em sẽ bị diệt vong, sẽ không được sống lâu trên mặt đất… Hôm nay, tôi lấy trời đất làm chứng cáo tội anh em: tôi đã đưa ra cho anh em chọn được sống hay phải chết, được chúc phúc hay bị nguyền rủa…”.
Vài bản văn Cựu Ước có thể khiến chúng ta nghĩ rằng Thiên Chúa điều khiển mọi hành động của con người – thậm chí những hành động xấu. Tuy nhiên, sự tự do của con người được khẳng định ngay từ sách Sáng Thế ở đó rõ ràng Thiên Chúa đã cho con người quyền chọn lựa giữa sự sống và sự chết. Trách nhiệm tội lỗi không thể chối cãi là trách nhiệm của con người. Các tác giả Kinh Thánh thường đề cao sự tự do chọn lựa của con người: hoặc ăn năn sám hối hay cứ ngoan cố trong sự bất tín. Nhiều lần Kinh Thánh gợi lên sự nhẫn nại của Thiên Chúa, Ngài hy vọng, chờ đợi tội nhân trở về với Ngài. Hiền nhân Si-rác cô động các giáo huấn tản mác này và phát biểu một cách thấm thía và rõ ràng.
- Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và Toàn Tri
Đối diện với sự tự do chọn lựa của con người, hiền nhân Si-rắc thắp sáng sự toàn năng và toàn tri của Thiên Chúa:
“Vì trí khôn ngoan của Đức Chúa thật lớn lao,
Người mạnh mẽ uy quyền và trông thấy tất cả” (15: 18).
Dân Hy lạp nói: “Tinh thần mực thước là giới hạn duy nhất đối với quyền năng của các thần”. Hiền nhân Si-rác, không phải là không biết tư tưởng Hy lạp, nhất là tư tưởng của phái khắc kỷ, diễn tả một ý tưởng tương tự khi đặt lên hàng đầu trí khôn ngoan của Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng, nhưng trước hết Ngài là Đấng Thượng Trí. Trí khôn ngoan này đánh dấu sự giới hạn của Ngài đối với quyền tự do chọn lựa của chúng ta, nghĩa là Ngài không thể nào biết trước sự chọn lựa của mỗi người chúng ta.
- Chúa không cho phép ai phạm tội
Trước vấn nạn này, hiền nhân Si-rác thoáng thấy một giải pháp mà ông diễn tả bằng hai câu theo hình thức phủ định:
“Người không truyền cho ai ăn ở thất đức,
cũng không cho phép ai phạm tội” (15: 20).
Thiên Chúa muốn điều thiện chứ không điều ác. Khi đối diện với sự tự do chọn lựa của con người, trí khôn ngoan của Ngài không bỏ mặc con người. Thiên Chúa lôi kéo con người hướng về điều thiện mà không áp đặt con người:
“Chúa để mắt nhìn xem những ai kính sợ Người,
và biết rõ tất cả những gì người ta thực hiện” (15: 19).
Nghĩa là Ngài trợ giúp con người bằng cách kêu mời nên thánh khi tuôn đổ muôn ân sủng của Ngài trên họ.
BÀI ĐỌC II (1Cr 2: 6-10)
Chúng ta tiếp tục đọc thư thứ nhất của thánh Phao-lô gởi tín hữu Cô-rin-tô. Trong đoạn trích vào Chúa Nhật vừa qua, thánh Phao-lô đã nhắc tín hữu Cô-rin-tô nhớ rằng thánh nhân đã trình bày Tin Mừng cho họ như thế nào: bằng những ngôn từ thật đơn sơ mộc mạc, không dùng lời lẽ hùng hồn hoặc triết lý cao siêu.
- Sự khôn ngoan của Tin Mừng
Nhưng khi ngỏ lời với những tín hữu gốc Hy lạp, thánh nhân không thể không quan tấm đến sự khôn ngoan. Thánh nhân cũng bận lòng chứng mình rằng có “sự khôn ngoan của Tin Mừng”, gắn bó với đức tin dẫn đưa chúng ta thậm chí vào tận nơi sự khôn ngoan cao cả.
Đây không là sáng kiến của thánh Phao-lô. Sự khôn ngoan của Thiên Chúa đã được trào lưu minh triết Cựu Ước ca ngợi rồi. Nhưng sự khôn ngoan này đã mặc lấy một khía cạnh mới với sự kiện Chúa Ki-tô ngự đến giữa loài người; sự khôn ngoan này bao hàm một mầu nhiệm: mầu nhiệm này đã được mặc khải ở nơi con người của Đức Giê-su. Thánh Phao-lô dùng từ “mầu nhiệm” không theo nghĩa Hy-lạp: một bí mật phải được giữ kín, nhưng theo nghĩa của các sách khải huyền Do thái: kế hoạch mà Thiên Chúa tiền định từ trước muôn đời nay được vén mở.
- Sự khôn ngoan của Thiên Chúa
Trước tiên, thánh Phao-lô đưa ra hai khía cạnh tiêu cực của sự khôn ngoan, hay đúng hơn, khía cạnh tiêu cực thứ nhất là bút chiến: sự khôn ngoan này chỉ đạt đến cho “các tín hữu trưởng thành”. Ở đây, thánh nhân nhắm đến những tín hữu Cô-rin-tô, cho thấy họ chưa trưởng thành qua những tranh cãi trẻ con. Khía cạnh tiêu cực thứ hai nhắm đến sự khôn ngoan của thế gian, tức là những thủ lãnh nắm quyền thống trị thế gian: chắc chắn vừa là những thế lực ma quỷ vừa là thế lực của những kẻ hám danh lợi trên cõi thế này, đặc biệt những quyền lực chính trị, như thánh nhân xác định sau này.
Tiếp đó, thánh Phao-lô đề cập đến khí cạnh tích cực của sự khôn ngoan Ki tô giáo, đó là biết được ý định của Thiên Chúa đã được tiền định từ trước muôn đời, nay được bày tỏ ra, tức là cho con người được dự phần vào vinh hiển của Ngài.
Không một ai trong các thủ lãnh thế gian này đã biết được kế hoạch của Thiên Chúa, vì thế, họ đã đóng đinh “Đức Chúa vinh hiển vào thập giá”. Thánh Phao-lô cho Đức Ki-tô một tước hiệu mà Cựu Ước dành riêng cho Đức Chúa. Thánh nhân thường hằng nhận ra Đức Giê-su là “Chúa”, như vậy hàm chứa Thần Tính của Ngài. Qua tước hiệu cao cả này, thánh nhân nhấn mạnh sự hiệp nhất giữa Chúa Cha và Chúa Con. Ngoài ra, khi lấy lại từ ngữ “vinh quang”, thánh Phao-lô chỉ ra rằng chính qua Chúa Ki-tô mà chúng ta mới có thể được dự phần vào vinh quang của Thiên Chúa.
- Sự khôn ngoan cao vời khôn ví
Vận mệnh vinh quang này mà Thiên Chúa dọn sẵn cho loài người không thể nghi ngờ được. Thánh Phao-lô trích dẫn khá tự do một đoạn văn của Is 64: 3: “Điều mắt chẳng hề thấy, tai chẳng hề nghe, lòng người không hề nghĩ tới, đó lại là điều Thiên Chúa đã dọn sẵn cho những ai mến yêu Người”. Sự khôn ngoan cao vời của Thiên Chúa không ai có thể đạt đến được nếu không có mặc khải, “còn chúng ta, chúng ta đã được Thiên Chúa mặc khải cho, nhờ Thần Khí”.
Đại từ “chúng ta” này chỉ ra thánh nhân và những cộng tác viên của thánh nhân. Thánh nhân thường nhấn mạnh ơn thần khải mà sứ vụ tông đồ hưởng được. Thánh nhân đã có kinh nghiệm trực tiếp về điều này. Dù thánh nhân đã không sống với Đức Ki-tô tại thế, nhưng đã lãnh nhận ơn gọi độc nhất vô nhị: ánh sáng trên đường Đa-mát không ngừng soi sáng cho thánh nhân.
TIN MỪNG (Mt 5: 17: 37)
Sau khi đã trình bày cho các môn đệ cách ăn nếp ở được chỉ ra trong bản Hiến Chương Nước Trời về các Mối Phúc, Chúa Giê-su sắp đi vào chi tiết và đối chiếu bản Hiến Chương này với Luật Mô-sê.
- Đức Giê-su kiện toàn Lề Luật
Khi khẳng định: “Trước khi trời đất qua đi, thì một chấm một phết trong Lề Luật cũng sẽ không qua đi”, Chúa Giê-su mượn kiểu nói văn chương mà các kinh sư thời đó thường lập đi lập lại: “Đừng chạm tới một chấm một phết của Lề Luật”. Qua kiểu nói này, các kinh sư lưu ý rằng họ vui thích giải thích Lề Luật, nhưng không bao giờ cho phép mình sửa đổi bất kỳ chi tiết nhỏ nhặt nào của Lề Luật.
Tuy nhiên, Chúa Giê-su hạn định lời khẳng định của mình: “cho đến khi mọi sự được hoàn thành”. Chắc chắn phải hiểu cho đến khi cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Ngài thiết lập một trật tự mới.
- Điều quan trọng của Lề Luật
Trong lời phát biểu của Chúa Giê-su, “kẻ nhỏ nhất” và “kẻ lớn nhất” không diễn tả đẳng cấp hơn kém, nhưng là kiểu nói sê-mít bày tỏ sự tán thành hay không tán thành đối với cách hành xử của một người nào đó. Việc ca ngợi Lề Luật và tuân giữ Lề Luật dù chỉ là một trong những điều răn nhỏ nhất khó ăn khớp với giáo huấn theo sau của Chúa Giê-su, Ngài sắp lật đổ thể chế Lề Luật này và thay đổi nó trên nhiều điểm quan trọng.
Nhưng đừng quên rằng thánh Mát-thêu đang ngỏ lời với độc giả Do thái cải đạo hay muốn cải đạo. Điều quan trọng là phải chỉ cho họ thấy rằng Chúa Giê-su đã không thực sự hủy bỏ Lề Luật, ít nhất những lệnh truyền luân lý của Lề Luật (những chỉ thị về nghi lễ nhất thiết trở nên lỗi thời đối với những Ki-tô hữu gốc Do thái), nhưng Ngài kiện toàn Lề Luật.
Ngoài ra, mạch văn trực tiếp không loại trừ bầu khí bút chiến chống lại những người Pha-ri-sêu. Chúa Giê-su đã trách cứ những người này không phải vì họ tuân giữ Lề Luật cho đến những chi tiết nhỏ nhặt, nhưng vì họ tin rằng việc tuân giữ này miễn cho họ khỏi thực thi những nhân đức. Phải đọc lại chương 23 ở đó Chúa Giê-su trách cứ nặng lời: “Khốn cho các ngươi, hỡi các kinh sư và người Pha-ri-sêu giả hình! Các ngươi nộp thuế thập phân về bạc hà, thì là, rau húng, mà bỏ những điều quan trọng nhất trong Lề Luật là công lý, lòng nhân và thành tín. Các điều này vẫn cứ phải làm, mà các điều kia thì không được bỏ” (Mt 23: 23).
- “Luật dạy người xưa… Còn Thầy, Thầy bảo…”
Vào thời Chúa Giê-su, Lề Luật được tán dương hết mức, dù các ngôn sứ đã kịch liệt đả kích. Lề Luật bất khả xâm phạm, nó được đồng hóa với sự khôn ngoan của Thiên Chúa. Thật ra, những luật luân lý đã làm cho lề luật cao hơn các luật của thế giới dân ngoại chung quanh.
Chúa Giê-su sắp kiện toàn Lề Luật, thậm chí đưa nó trở về sự tinh tuyền nguyên thủy khi định vị những yêu sách của Lề Luật trước tiên ở nơi lòng dạ chính trực và phân định luật yêu thương như luật cao hơn tất cả mọi luật khác.
Đức Giê-su phát biểu long trọng với một uy quyền tối cao: “Anh em đã nghe Luật dạy người xưa rằng…Còn Thầy, Thầy bảo cho anh em…”. Ngài tự đặt mình là nhà lập pháp trên ông Mô-sê, nhà lập pháp vĩ đại của dân Do thái. Đức Giê-su sắp đưa ra nhiều ví dụ, trong số đó ba ví dụ đầu tiên là sát nhân, ngoại tình, thề gian.
A. Tội sát nhân
Chúa Giê-su không chỉ kết án tội sát nhân, nhưng còn những khích động trong lòng dẫn đến tội sát nhân. Ngài đặt theo mức độ tăng dần: chỉ nóng giận, nóng giận với những lời mắng nhiếc, nóng giận với những lời chửi rủa. Những án phạt theo mức độ tăng dần: trước tiên tòa án địa phương, rồi đến Thượng Hội Đồng, và sau cùng là lửa hỏa ngục.
Nhưng sẽ không có tội sát nhân, sẽ không có tòa án, nếu luật yêu thương ngự trị giữa con người. Vì thế, trước khi dâng lễ vật lên Thiên Chúa, trước tiên phải tự mình hòa giải với người khác: “Anh hãy mau dàn xếp với đối phương, khi còn đang trên đường đi với người ấy tới cửa công”, nghĩa là đừng đợi đến lúc trình diện trước “quan tòa”, tức trước Thiên Chúa, rồi mới hối cải.
B. Tội ngoại tình
Luật kết án tội ngoại tình chỉ khi nào bắt quả tang. Chúa Giê-su công bố rằng ngay khi nhìn một người phụ nữ mà thèm muốn, thì trong lòng đã ngoại tình với người ấy rồi. Không luật pháp phàm nhân nào có thể đi xa đến như vậy; Luật mới xem những tư thế sẵn sàng trong lòng còn quan trọng hơn những hành vi bên ngoài. Chúng ta luôn luôn theo hướng đi các Mối Phúc.
Chúa Giê-su nhấn mạnh tư tưởng của Ngài bằng những hình ảnh cố ý cực đoan: “Nếu mắt phải của anh làm cớ cho anh sa ngã, thì hãy móc nó mà ném đi…”. Tiếp đó, Ngài tiếp tục khai triển tội ngoại tình. Luật cho phép chồng rẫy vợ. Chúa Giê-su tuyên bố rằng mọi hình thức rẫy vợ đều là tội ngoại tình, vì ai rẫy vợ là đẩy vợ đến chỗ ngoại tình; vì thế, người chồng phải chịu trách nhiệm về tội ngoại tình của vợ. Cũng vậy, ai cưới người đàn bà bị rẫy, thì cũng phạm tội ngoại tình. Chúa Giê-su sẽ còn tuyên bố nghiêm khắc như vậy khi Ngài nói về sự bất khả phân ly của hôn nhân: “Vì các ông lòng chai dạ đá, nên ông Mô-sê đã cho phép các ông rẫy vợ, chứ thuở ban đầu , không có như thế” (Mt 19: 8). Từ đây, chính luật yêu thương phải trổi vượt trên mọi lề luật.
Câu “ngoại trừ hôn nhân bất hợp pháp” của thánh Mát-thêu đã làm tốn không biết bao giấy mực. Phải chăng Chúa Giê-su tiên liệu một trường hợp theo đó việc ly dị có thể? Đây là điều người ta gọi “luật trừ của thánh Mát-thêu”. Bản văn được dịch sát từ: “trong trường hợp điều trơ trẽn”. Vài người đã thấy ở đây một ám chỉ đến sự bất trung của người vợ; thật ra, Lề Luật tiên liệu theo đó hình phạt của tội ngoại tình không là rẩy vợ, nhưng là ném đá. Những người khác nghĩ rằng đây là trường hợp vô hiệu của hôn nhân: việc ăn ở với nhau không cưới xin và đặc biệt loạn luân hay đồng tính luyến ái, tức là trường hợp mà Lv 18: 6-18, 22 đã tiên liệu và nhấn mạnh tính chất trơ trẽn của những hôn nhân này.
C. Tội thề thốt
Ví dụ thứ ba Chúa Giê-su trưng dẫn là tội thề thốt. Vào lúc đó việc người ta lạm dụng việc thề nguyền là một trong những vết thương của Do thái giáo. Sự tinh tế của các tiến sĩ Luật đã thiết lập vài biểu thức cam kết thật sự, những biểu thức khác chỉ cam kết cho có lệ. Thánh Mát-thêu trưng dẫn vài biểu thức này ở chương 23: “Ai chỉ Đền Thờ mà thề, thì có thề cũng như không; còn ai chỉ vàng trong Đền Thờ mà thề, thì bị ràng buộc… Ai chỉ bàn thờ mà thề, thì có thề cũng như không; nhưng ai chỉ lễ vật trên bàn thờ mà thề, thì bị ràng buộc” (Mt 23: 16-22).
Chúa Giê-su chứng minh rằng vì phải tuân giữ Lề Luật bên ngoài, người ta buộc phải thề nguyền, đó là phạm thánh và bội thề. Việc chỉ trời, ngai Thiên Chúa, hay đất, bệ chân Ngài, mà thề được mượn ở Is 66: 1-2; còn việc chỉ Giê-ru-sa-lem, thành của Đức Vua cao cả mà thề xuất phát từ Tv 48. Thêm một lần nữa, Ngài đưa vấn đề trở về chiều kích nội tâm của nó: chân thành với chính lòng mình. “Hễ ‘có’ thì phải nói ‘có’, ‘không’ thì phải nói ‘không’. Thêm thắt điều gì là do ác quỷ”.