15/04/2023
978

CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH – Năm A

CHÚA NHẬT VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA THIÊN CHÚA

Lời Chúa: Cv 2, 42-47; 1Pr 1, 3-9; Ga 20, 19-31
-------------------------------

Mục lục

  1. Yêu Là Thế (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2. Món Quà Bình An (Thiên San, MTG. Thủ Đức)
  3. Xin thương xót chúng con và toàn thế giới  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  4. Từ ngục tối bước ra (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)
  5. Phúc cho ai không thấy mà tin  (Jorathe Nắng Tím)
  6. Chúa vẫn ngay bên  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
  7. Bình an cho anh em (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
  8. Lòng Thương Xót  (Lm. Thái Nguyên)
  9. Lòng thương xót xua tan sự sợ hãi  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)
  10. Các vết sẹo  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)
  11. Chứng thực  (Trầm Thiên Thu)
  12. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 2 Phục sinh_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)
  13. Bình an của Đấng Phục sinh  (Lm. Jos DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  14. Suy niệm tình yêu cứu độ (Lm. Phêrô Nguyễn Trọng Đường, SVD)
  15. Đại dịch Covid trở thành đại lễ Phục sinh  (Lm. Bosco Dương Trung Tín)
  16. Đặc tính của đức tin  (P.Trần Đình Phan Tiến)

 

YÊU LÀ THẾ

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

Biểu tượng của tình yêu là trái tim, trái táo, việc cửa đóng then cài, “tố cáo” bạn đang hoang mang, sợ hãi. Trong cuộc sống hiện đại, nụ cười giúp ta giải quyết nhiều vấn đề, song im lặng cũng giúp ta xa tránh vô số vấn đề rắc rối. Cứ sự thường, chỉ những ai trải qua đau khổ tột cùng, mới cảm nhận thế nào là hạnh phúc tột cùng. Thuốc duy nhất xoa dịu nỗi khổ đau, vẫn phải là yêu và thương, điều làm người ta tự tin là cảm nhận mình được khích lệ, được ủng hộ. Rõ ràng ta không kiểm soát được những gì sắp xảy ra với bản thân, nhưng ta hoàn toàn kiểm soát được suy nghĩ và thái độ của mình. Trải qua nhiều trái ngang, một số bạn trẻ nói rằng: thất tình mới biết yêu là khổ, say tình mới biết khổ vì yêu ! Khi chưa yêu, chưa cảm nhận thế nào là hạnh phúc, khi yêu rồi, mới biết hạnh phúc là sống đơn sơ trong trắng, là lúc chưa nặng tình với ai !

Yêu là chết trong lòng một tí, vì mấy khi yêu mà chắc được yêu ? (Xuân diệu). Yêu có phải là mở toang cánh cửa, nhìn mọi người và vui cười hô hố ? Đóng cửa then cài như các học trò Thầy Giêsu, có phải là yêu không ? Trang Tin-mừng hôm nay cho biết: “những cửa nhà các môn đệ họp đều đóng kín, vì sợ người Do-thái”. Ai cũng biết nói: việc người thì sáng, việc mình thì quáng. Ai cũng bảo hình thức bên ngoài không quan trọng, vẻ đẹp và sự mạnh mẽ nơi tâm hồn mới quý, đụng chạm thực tế thì lại nói: đỉa bám chân ai người ấy gỡ, quan tâm gì đến nét đẹp tâm hồn ? Hiểu theo nghĩa tích cực, các môn đệ đóng cửa để cầu nguyện là hợp lý, ở cùng nhau để nói lên tình đoàn kết; sợ bị bắt bớ, hành hạ, sợ bị làm khổ, cũng đúng thôi, vì các ông là người, là học trò, chưa phải là thầy !

Yêu là không phải nói lời hối tiếc ! Yêu là mau chóng phải chứng minh. Thầy Giêsu yêu các môn đệ, rửa chân cho các ông, yêu đến độ biết kẻ sẽ bán Thầy, chối Thầy, bỏ Thầy, nhưng vẫn yêu vẫn thương ! Yêu như người ta nói: nước mắt đàn ông không tuôn thành giòng, nước mắt đàn ông, chôn sâu trong lòng ! Yêu là cảm nhận được người mình yêu đang cần gì, đang mong gì, cả những điều thiêng liêng nhất ! Dù các môn đệ đóng cửa nhà, hay đóng cửa lòng, không muốn tiếp xúc với, Đấng phục sinh vẫn xuất hiện, vẫn mở lời cần thiết, chào chúc bình an “cho các học trò”. Yêu là thế, yêu là nghĩ đến người mình yêu trước khi ngủ, và nghĩ về người yêu đầu tiên khi thức giấc. Yêu là chứng minh: lời nói đúng chỗ sẽ làm giảm căng thẳng, sợ hãi, yêu là tỏ cho mọi người cùng cảm nhận “hành động bác ái”, chính là dấu hiệu của tình yêu bất tử.

Xuân Diệu vô cùng lãng mạn với lời tự tình: đố ai định nghĩa được tình yêu, có nghĩa gì đâu một buổi chiều, gặp em gái nhỏ, thế là yêu ! Đấng phục sinh, vượt lên trên tình yêu đôi lứa: có nghĩa gì đâu một buổi chiều, cửa đóng then cài, tất cả chỉ là “chết nhát”, ấy vậy, yêu hoài yêu mãi, và còn minh chứng cho các ông “chữ tình” nơi Thầy chẳng nhạt phai. Yêu là thế, là bén nhạy trước người mình yêu: mở lòng, mở trí, mở trái tim, thay vào đó là đóng cửa sợ hãi, là xoá tan nghi ngờ, tô đậm bình an và hạnh phúc cho người mình yêu. Tình là gì, tình là chi, yêu là chết đi, yêu là không nói lời hối tiếc, yêu là không cân đo đong đếm, mà làm sáng tỏ và làm phong phú chữ tình, chữ yêu, nên một cung bậc mới. “Bình an cho các con, như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con, các con hãy nhận lấy Thánh Thần…”.

Yêu là thế, là chứng minh cho người mình yêu: nếu bạn vấp ngã, nếu mắt tâm hồn bạn bị phủ kín nghi nan, điều đó chưa chắc là bạn đã sai đường, hãy tự tin, hãy cố gắng đứng dậy. Đấng phục sinh xuất hiện lần kế tiếp, trước sự thách thức nghi ngờ của một học trò: “hãy xỏ ngón tay con vào lỗ đinh, hãy thọc bàn tay con vào cạnh sườn, chớ cúng lòng, nhưng hãy tin”. Yêu là thế, tình là thế, Đấng phục sinh vượt lên trên tất cả những gì là bất nhân, bất nghĩa, “thế nhân” chỉ có thể tương đối hoá bằng cụm từ: “tất cả là hồng ân”. Kinh nghiệm chỉ cho chúng ta biết: hãy sợ con dê húc phía trước, cẩn thận con ngựa có thể đá phía sau, nhưng kẻ ngu ngốc phải đề phòng tứ phía. Toma hẳn đã ý thức ông không phải là loài vật, ông không là kẻ ngu ngốc, ông chính là người học trò được thương yêu: “lạy Chúa tôi, lạy Thiên Chúa của tôi”.

Yêu là thế, yêu là lời nói việc làm không bất nhất: “lạy Cha, nếu chén này không thể qua đi, nguyện theo ý Cha, đừng theo ý Con”. Yêu là thế, là giúp cho người mình yêu hiểu, tin, và sống điều mình tin: “phải qua đau khổ thập giá mới tới vinh quang phục sinh. Con Người phải chịu nhiều đau khổ, bị các kỳ lão chối bỏ, giết đi, và ngày thứ ba sẽ sống lại”. Vâng, vì “con đã xem thấy Thầy nên con đã tin, phúc cho những ai không thấy mà tin”. Đấng phục sinh vẫn đang nói với từng tâm hồn chúng ta, “bình an cho các con, nói thế rồi Ngài thổi hơi trên các ông và phán: như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai các con …”. Đừng ai cầu xin cho gánh nặng nhẹ vơi, đừng ai xin ơn biết né tránh khổ đau thập giá, nhưng hãy xin cho đủ tình yêu Chúa, xin cho đôi vai mình vững chắc. Xin Đấng phục sinh hiện diện, đỡ nâng chúng con, vì chưng: đủ đức tài thì bớt luỵ, đủ sức mạnh và tình yêu Chúa, niềm tin sẽ dẫn tới hạnh phúc. Amen.

Về mục lục

MÓN QUÀ BÌNH AN

Thiên San, MTG. Thủ Đức

Hôm ấy, khi Đức Giêsu hiện ra với các tông đồ, Tôma không có mặt. Nghe anh em kể lại, ông nói: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh ở tay Người, nếu tôi không thọc ngón tay vào lỗ đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin” (Ga 20,25). Khoảng tám ngày sau, Đức Giêsu Phục sinh tiếp tục hiện ra với các môn đệ, Tôma cũng có mặt. Người nói với Tôma: “Hãy xỏ ngón tay con vào đây, và hãy xem tay Thầy; hãy đưa bàn tay con ra và xỏ vào cạnh sườn Thầy; chớ cứng lòng, nhưng hãy tin” (Ga 20, 27); đoạn Người nói tiếp: “Tôma, vì con đã xem thấy Thầy, nên con đã tin. Phúc cho những ai đã không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Như vậy, trong tình yêu của Chúa, chẳng một ai bị bỏ quên.

Sau khi Thầy chết nhục nhã trên thánh giá, các môn đệ mất hết hy vọng. Phải chăng các cửa đều đóng kín hay tâm hồn các ông đang khép lại, co rúm, không thấy một tia sáng nào? Tin Mừng nói rõ, vì họ sợ người Do Thái. Không sợ sao được khi Thầy chẳng còn, lang thang ngoài đường, tạt qua chỗ này chỗ kia chẳng may bị bắt giống như Thầy thì khổ. Dường như tất cả các ông cùng tụ tập lại tại một nơi. Đó là sức mạnh cuối cùng các ông có thể làm được. Trong cái khổ, cái khó, hình như các ông gần nhau hơn? Giữa sự u tối của căn phòng, ẩm thấp, chật chội, tầm hồn các ông như đang héo úa. Hôm ấy, Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các ông, đang khi các cửa đều đóng kín. Ngài phá tan bầu khí ảm đảm, thổi luồng khí tươi mát, bình an tràn ngập cả căn phòng, tràn ngập tâm hồn các ông. Bình an là món quà đầu tiên Đức Giêsu dành tặng cho các tông đồ.

Đức Giêsu Phục sinh đến với các môn đệ, hối hả trao ban bình an cho các ông, cho họ xem tay, chân và cạnh sườn của Người. Người ban Thánh Thần cho các ông, sai các ông đi, trao ban bình an và tha thứ. Các môn đệ rất đối vui mừng vì được gặp lại Chúa. Như cây rừng sau một mùa khô cháy được tưới mát, các môn đệ như được hồi sinh. Tiếc là hôm ấy Tôma không có mặt. Phải chăng vì Tôma không có mặt nên Đức Giêsu Phục sinh quyết định hiện ra với các môn đệ lần nữa? Lần hiện ra này, Tôma như được Đấng Phục sinh mở mắt, mở tâm hồn. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con” (Ga 20, 28). Đức Giêsu không chỉ dành sự ưu ái cho Tôma khi hiện ra với ông mà còn nhờ trường hợp của ông mà củng cố đức tin cho chúng ta, là thế hệ của “những ai không thấy mà tin”.

Lòng thương xót của Thiên Chúa bao trùm tất cả. Đối với Ngài, không một ai bị lãng quên. Là thế hệ của “những ai không thấy mà tin”, chúng ta được Thiên Chúa chúc phúc. “Phúc cho những ai không thấy mà tin” (Ga 20, 29). Phúc vì trải qua dọc dài lịch sử, qua biết bao thăng trầm, thử thách, chúng ta vẫn được diễm phúc nhận biết Thiên Chúa là Đấng yêu thương ta. Phúc vì nhận ra món quà vô giá mà Thiên Chúa ban tặng là Đức Giêsu. Cái phúc ấy, tự ta không thể có được nhưng chính nhờ lòng nhân từ, yêu thương của Thiên Chúa. Chính Ngài đã gõ cửa lòng ta, mời gọi ta đón nhận tình yêu. Với đôi mắt xác thịt, chúng ta chẳng thể thấy gì nhưng nhờ ơn Chúa, chúng ta có thể thấy và tin những gì không thể thấy.

Nhiều người trong chúng ta, khi gặp khó khăn thử thách, chúng ta đã không ít lần kêu trách, Chúa, nghi ngờ sự hiện diện của Ngài. Đức Giêsu phục sinh hôm qua, hôm nay và mãi mãi vẫn luôn đồng hành cùng chúng ta. Ngài không hiện ra cụ thể như đã hiện ra với các tông đồ ngày xưa, nhưng Ngài đến với ta qua Bí tích Thánh Thể, qua Lời của Ngài. Để tiếp tục bước đi trong tình thương của Chúa, được trở thành người có phúc, chúng ta đừng bao giờ quên chạy đến với Thiên Chúa. Chỉ khi chăm chú và ưu tiên tìm kiếm và thực thi ý Chúa, chúng ta mới thực sự cảm nhận được sự hiện diện đầy yêu thương của Ngài. Ngài không chỉ mời gọi ta thực thi ý Ngài nhưng vẫn luôn lắng nghe, đón nhận và yêu thương chúng ta như chúng ta là. Như xưa Chúa đã kêu mời các môn đệ ra đi trao ban bình an, yêu thương và tha thứ, nay Người cũng tiếp tục mời gọi và sai chúng ta thực hiện sứ mạng đó. Đong đầy yêu thương, bình an và lòng thương xót của Đấng Phục sinh cho tất cả mọi người, mọi nơi ta hiện diện. Bởi không ai nằm ngoài vùng “phủ sóng” yêu thương của Chúa.

Về mục lục

XIN THƯƠNG XÓT CHÚNG CON VÀ TOÀN THẾ GIỚI

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Xin thương xót chúng con và toàn thế giới! Lời kinh được lặp đi lặp lại, như tiếng kêu cứu khẩn thiết lúc đang gặp gian nan. Chưa bao giờ, lời kinh cầu nguyện Lòng Thương xót lại có ý nghĩa như những ngày này, khi mà thế giới đang đau khổ chứng kiến dịch bệnh viêm phổi Vũ Hán (COVID-19) đang tàn phá nhân loại từng ngày. Các tôn giáo đều cầu nguyện cho dịch bệnh sớm bị đẩy lui. Mọi người đều mong cho cuộc sống sớm trở lại bình thường. Những lúc dịch bệnh phải cách ly, mới thấy những điều bình dị của đời sống thường ngày thật đáng trân quý. Người ta ước mong có ngày lại được đi dạo ngoài phố, được mời bạn bè mừng sinh nhật hay tân gia, được đi thăm nhau giao lưu giữa tỉnh nọ với tỉnh kia, được vào Nam ra Bắc dễ dàng bằng các phương tiện giao thông khác nhau. Những điều này quá đỗi bình thường khi chưa có dịch, nhưng nay lại là điều bị cấm để tránh dịch bệnh lây lan.

Chúa nhật thứ hai Phục sinh là Đại lễ kính Lòng Thương xót. Đây là sáng kiến và sự cổ võ của Thánh Giáo Hoàng Gioan Phaolô II. Thế giới đang cần đến lòng thương xót của Chúa để được chữa lành. Không chỉ chữa lành khỏi dịch bệnh COVID-10, nhân loại còn cần được chữa lành những căn bệnh trầm kha khác: dửng dưng vô cảm với Thượng đế và với tha nhân; sa đọa luân thường đạo lý; hôn nhân đồng tính; phá thai; thờ ngẫu thần; kiêu ngạo cho rằng nền kỹ thuật hiện đại có thể thay Thiên Chúa. Vâng, một nhân loại đang bị tổn thương nghiêm trọng cần được chữa lành.

Chúng ta vừa tưởng niệm cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu. Cái chết và sự phục sinh của Người là nguồn mạch ơn cứu độ cho trần gian. Chúa Giêsu cũng là vị Lương Y thần thiêng. Trong lúc rảo khắp xứ Galilêa để rao giảng Tin Mừng, Người đã chữa lành biết bao người đau ốm đủ mọi chứng bệnh khác nhau, thậm chí một vào trường hợp đã chết, Chúa đã cho sống lại. Chính Người đã sống lại vinh quang, ra khỏi nấm mồ tối để chiếu ánh sáng hy vọng cho con người.

Dưới cái nhìn trần gian, người ta nghĩ rằng Chúa đã chết là hết mọi chuyện. Nói đến một người đã chết mà sống lại, người ta coi như chuyện tầm phào. Điều này chẳng có gì mới, vì ngay như ông Tôma, một trong Mười hai tông đồ, cũng chẳng tin Thày mình đã sống lại. Vì vậy, ông thách thức và tìm những bằng cớ cụ thể nhãn tiền thì ông mới tin. Nếu trước đây Tôma đã ra điều kiện để tin, thì nay Chúa chấp nhận những điều kiện thách thức ấy. Khi Đấng Phục sinh hiện đến, ông Tôma chẳng còn lòng dạ nào mà xỏ ngón tay vào lỗ đinh, đặt bàn tay vào cạnh sườn Chúa. Đúng hơn, ông chẳng cần làm những điều đó, vì Chúa đang ở trước mặt ông bằng xương bằng thịt và đang nói với ông: “Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin”.

Ngày hôm nay, Giáo Hội đứng trước một thách đố lớn khi rao giảng Đấng Phục sinh. Bởi lẽ trong con mắt của đại đa số những người đương thời hôm nay, trong đó có cả những tín hữu, đó là một điều khó chấp nhận. Câu chuyện Chúa Giêsu sống lại từ cõi chết có nguy cơ bị coi như một câu chuyện cổ tích xa vời. Qua lời nói với Tôma, Chúa Giêsu phục sinh muốn gửi đến cho chúng ta một thông điệp: “Phúc thay những người không thấy mà tin”. Thông điệp ấy vẫn có giá trị đến ngày hôm nay. Là những tín hữu, chưa ai trong chúng ta được thấy Chúa trực tiếp. Chúng ta chỉ cảm nhận Chúa bằng Đức tin. Con tim và lý trí mách bảo chúng ta Chúa đang hiện diện và những ai tin vào Người thì sẽ không phải thất vọng. “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”. Đó là lời tuyên xưng Đức tin của một người đã hoàn toàn bị chinh phục. Đó cũng là tâm tình sám hối của một người đã chậm tin những chứng từ của anh em mình. Như thế, tin vào Chúa Phục sinh đòi hỏi phải có một cái nhìn vượt qua những điều khả giác để vươn tới một thực tại siêu nhiên, đồng thời xác tín vào quyền năng của Thiên Chúa. Đối với Ngài, “không có gì mà Ngài không thể làm được”. Thánh Phêrô đã khuyên chúng ta: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của Đức tin là ơn cứu độ con người” (Bài đọc II). Đức tin đem lại cho chúng ta niềm vui và sự bình an. Đây không phải bình an của thế gian, nhưng là bình an do chính Chúa Phục sinh ban tặng.

Người thời nay đang đi tìm những chứng từ để tin Chúa Giêsu đã phục sinh. Chứng từ ấy, có thể tìm thấy nơi những cộng đoàn đức tin. Cộng đoàn tiên khởi ở Giêrusalem đã làm nên những chứng từ rất sống động về sự hiện diện của Đấng Phục sinh: đó là sự hiệp nhất, chuyên cần lắng nghe Lời Chúa, sốt sắng cầu nguyện và quảng đại thực hiện đức bác ái đối với anh em đồng đạo cũng như những người chưa cùng niềm tin (Bài đọc I).

Với một lối giải thích khác về chữ nghĩa so với tác giả Sách Tông đồ Công vụ, nhưng mang cùng một nội dung, trong Tông thư “Dung mạo Lòng Thương xót – Misericordiae vultus”, công bố ngày 11-4-2015Đức Thánh Cha Phanxicô viết : “Tất cả mọi hoạt động mục vụ của Giáo Hội cần phải được thấm đẫm sự dịu dàng và không một chứng từ nào của Giáo Hội trước thế giới lại vắng bóng lòng thương xót” (số 10).  Ngài cũng nói đến sứ mạng của Giáo Hội là loan báo lòng thương xót của Thiên Chúa và ngài nhắn nhủ Giáo Hội hãy đảm nhận trách vụ “vui mừng loan báo sự tha thứ”, “là sức mạnh làm tái sinh vào cuộc sống mới và mang lại can đảm để hướng nhìn về tương lai trong niềm hy vọng” (số 12). Quả thật, khi Giáo Hội thực hiện được lời mời gọi của Đức Thánh Cha Phanxicô trên đây, thì Giáo Hội trở nên hình ảnh sống động của Đấng Phục sinh, giống như cộng đoàn Kitô hữu tiên khởi. Thực hành lòng thương xót, chính là một chứng từ khả tín của cộng đoàn Kitô hữu. Nhờ đó mà những người đồng bào của chúng ta nhận ra lòng nhân hậu của Thiên Chúa.

“Phúc cho ai không thấy mà tin!”. Vâng, giữa thảm họa đại dịch COVID-19 này, càng cần hơn nữa Đức tin để chúng ta đáng được Chúa xót thương, can thiệp cứu vớt. Trong ngày Đại lễ Kính Lòng Thương xót của Chúa, chúng ta hãy cùng đồng thanh kêu xin: Vì cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu Kitô, xin thương xót chúng con và toàn thế giới!

Về mục lục

TỪ NGỤC TỐI BƯỚC RA

Lm Giuse hoàng Kim Toan

Thời gian cách ly chỉ là một khía cạnh nhỏ của tù ngục đã cảm thấy nặng nề, khó chịu. Ai cũng mong muốn thoát ra nhanh. Trong ngục tối, một tình cảnh hoàn toàn nằm trong sự chết nhiều mặt, lòng khát khao bước ra vùng ánh sáng, chân lý càng rạo rực, cháy bỏng. Suy niệm dựa trên chia sẻ của Đức Hồng Y Joseph Ratzinger trong cuốn sách “Đấng chịu đâm thâu”.

Kinh nghiệm về ngục tối cho chúng ta thấy đó là tình trạng mất tự do, không còn được gặp gỡ người khác, làm những việc bình thường mình mong muốn. Hai tình trạng đó cũng chưa nói hết được tình trạng bị nhốt trong ngục tối. Một ngục tù thật sự không có ánh sáng, mất hẳn một chiều kích thân phận người sinh ra trong trời đất, chỉ còn đất trong vùng tối tăm mà thiếu ánh sáng của trời.

Trong ngục tối của sự chết, cũng là một ngục tối của tâm hồn tội lỗi. Không còn nhìn thấy người chung quanh, chỉ thấy chính mình trong sự tối tăm của lòng ích kỷ. Bóng tối không chỉ nơi mình mà còn ảnh hưởng tới người khác, bởi sự thối rữa của sự chết.

Ngục tối của u minh. Sự chết vì thiếu hiểu biết là sự chết không đáng có. Một sự tối của tâm hồn chai cứng, không đón nhận điều mới trong cuộc sống hay một nhận thức mới về những điều con người ngày càng khám phá ra. Sự tối tăm của những ý thức định kiến về người khác, không thay đổi, không nhận ra điều mới, sự khác đi của người anh chị em, trong sự sống mới, như trường hợp bà Maria gặp Chúa phục sinh và không nhận ra Người đang hỏi bà: “bà tìm ai?” (Ga 20, 15).

Ngục tối của con người chỉ đi tìm những lạc thú trần gian, những điều chóng qua mà đánh mất thực tại siêu nhiên, chân lý, sự toàn thiện. Con người dễ bị những thực tại trước mắt che khuất tầm nhìn phương xa. Giữa chốn u mê, bờ ảo, con người ở trong bóng tối luôn chọn lựa sai lầm, hết sai lầm này đến sai lầm khác, như những lần vấp ngã mà cuối cùng kiệt sức không đứng dậy được nữa. Chặng đường thập giá của Chúa Giêsu ngã xuống đất ba lần, đó là ba lần Chúa ngã thay cho con người vấp phạm, yếu nhược để cùng Chúa đứng lên, bước tiếp trên con đường thập giá đến cùng để phục sinh. Sức mạnh của tình yêu là vực dậy, đứng lên, Chúa là Tình Yêu tiếp sức cho con người.

Chúa Giêsu an nghỉ trong mồ. Đó là thời gian đặc biệt ý thức thời gian nếu Chúa vắng mặt, sự dữ, bóng tối lộng hành. Các tông đồ về căn phòng đóng kín, sợ hãi. Sự vắng thiếu Thiên Chúa trong thời đại của chúng ta cũng gây nên những điều khiếp sợ. Không có Thiên Chúa, con người chỉ có sự chết gieo vào trong mọi mặt đời sống, chiến tranh sinh học, virus, không cần nhiều bom đạn, sự chết cũng tràn lan, nền kinh tế đi vào suy thoái. Văn minh mặt nạ, khoảng cách giao tiếp,  và máy thở phát triển. Trong thời gian đặc biệt này, nhiều người, nhiều quốc gia ý thức về đời sống cầu nguyện, xin Chúa nghiêng trời ngự xuống cứu giúp, thương xót nhân loại cần có Chúa hiện diện, phá tan âm mưu đen tối của con người ác hại.

Con người giết chết Thiên Chúa để làm chủ theo ý riêng mình, nhưng thực tại là ngõ cụt, sự chết của chính mình. Giáo Hội cổ xưa đã dùng cụm từ này như thánh thi dành cho những người tân tòng khi chịu phép rửa: “Ta không dựng nên người cho ngục tối. Hãy chỗi dậy, và Đức Kitô sẽ ban cho người ánh sáng”. Đấng Phục Sinh bước ra từ ngục tối, đã mang lấy bóng tối của Adam xưa, cùng một dòng dõi con người để sống lại trong Adam mới. Đấng đã mang lấy tất cả để trở nên tất cả cho mọi người, như lời tiên tri Isaia đã loan báo: “Ta sẽ đặt ngươi làm ánh sáng muôn dân để ngươi mang ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is, 49,6).

Chúa bước ra khỏi mồ là một hành trình mới, Người về cùng với Chúa Cha. Con người cũng được ở trong Chúa Giêsu Kitô phục sinh, sẽ bước ra từ ngục tối trần gian của mình để bước tới phía trước, phía bình minh chiếu rạng, về cùng với Thiên Chúa. Từ nay, con người của phục sinh là con người đi tìm “sự công chính và Nước Thiên Chúa”. Tìm gặp Chúa cũng là tìm gặp lại anh chị em của mình là những con người cùng chung sống trong hạnh phúc và yêu thương.

Xin Chúa phán bảo con điều quyết liệt của Người: “Hãy đi ra! Ta không làm cho ngươi thành một ngục tù!”. Xin Chúa Phục Sinh ban cho chúng con một sức sống mới để bước tới, về phía Thiên Chúa.

Về mục lục

.PHÚC CHO AI KHÔNG THẤY MÀ TIN

Jorathe Nắng Tím   

Trong “Tám Mối Phúc Thật” không có mối “phúc cho ai không thấy mà tin”, nhưng “Phúc cho ai không thấy mà tin” lại là mối phúc nền tảng của tất cả các mối phúc khác.

Thực vậy, phải được phúc “không thấy mà tin” mới tin được Nước Trời của người có tâm hồn nghèo khó, Đất Hứa dành cho ai ăn ở hiền lành, người sầu khổ sẽ được Thiên Chúa ủi an, khao khát sống đời công chính sẽ được Thiên Chúa cho thỏa lòng, có lòng thương xót sẽ được Thiên Chúa xót thương, có tâm hồn trong sạch sẽ được nhìn thấy Thiên Chúa, yêu chuộng và xây dựng hoà bình sẽ được Thiên Chúa gọi là con, và những ai bị bách hại, vu khống vì Danh Thiên Chúa sẽ nhận phần thưởng Nước Trời (x. Mt 5,3-12), bởi tất cả những điều vừa kể, những phần thưởng vừa kê đều thuộc đức tin, nằm trong những gì không thấy, không kiểm chứng được bằng khoa học thực nghiệm, mà chỉ duy nhất niềm tin mới có thể lý giải, chứng thực, bảo đảm.

Phải được phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới dám dấn thân tin Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, Đấng Cứu Độ duy nhất, vì không như các tông đồ, chúng ta đã không thấy Ngài, không nghe Ngài nói, không sống với Ngài bằng xương bằng thịt. Nhưng dù không thấy, không nghe, không ở cùng, sống với, chúng ta vẫn yêu mến Ngài, nhờ hồng phúc “không thấy mà tin”.

Phải được phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới tin Đức Giêsu đã chết và đã sống lại với quyền năng của Thiên Chúa, để chúng ta được sống lại và sống mãi với Ngài trong vinh quang của Thiên Chúa.

Và trên tất cả, phải có phúc “không thấy mà tin”, chúng ta mới tin Thiên Chúa là Thiên Chúa của lòng thương xót, công trình cứu chuộc của Ngài đến từ lòng thương xót của Ngài đối với nhân loại, và những ai có lòng thương xót dù chịu nhiều vất vả, thiệt thòi, bất công, khổ nhục vì thương xót sẽ không bao giờ mất ơn Bình An của Đức Giêsu phục sinh, Đấng giầu lòng thương xót đã chết vì xót thương.

Điều này được Tin Mừng Gioan khẳng định qua trình thuật Đức Giêsu phục sinh hiện ra với các môn đệ (Ga 20,19-29).

Đức Giêsu phục sinh đã hiện ra với các môn đệ khi các ông sợ người Do Thái truy lùng, bắt bớ, nên tất cả cửa nẻo nơi các ông ở đều đóng kín, khóa chặt (x. Ga 20,19). Các ông đang rất sợ: sợ mọi người, sợ bất cứ chuyện gì, vì các ông vừa qua một cơn giông bão dữ dội, khủng khiếp, ở đó toàn bộ giáo lý của lòng thương xót đã bị xóa bỏ, toàn bộ công cuộc của lòng thương xót đã bị phá hủy, tiêu tan, và Đức Giêsu, Thầy của các ông, Thiên Chúa của lòng thương xót đã bị giết chết thảm thương, ô nhục. Bao nhiêu cố gắng rao giảng lòng thương xót, bao nhiêu phép lạ làm chứng Thiên Chúa là Đấng xót thương, bao nhiêu con người đã được lòng thương xót chở che, chữa lành, ủi an, nâng đỡ nay không còn gì, không còn một ai. Chính cái trống vắng phũ phàng, phản bội của đám đông hôm nào hoan hô, ủng hộ đã làm các ông sợ ; chính cái tiêu điều trở mặt của nhiều người đã nhận lòng thương xót từ bàn tay Đức Giêsu đã làm các ông ngao ngán tình đời, và muốn tránh xa mọi người; chính cái băng giá dửng dưng, hờ hững, làm mặt không quen, ra điều không biết của những người  trước đây đã  phủ phê hạnh phúc với lòng thương xót của Đức Giêsu đã khiến các ông rùng mình, không còn muốn giao lưu, gặp gỡ người nào.

Tóm lại, các ông đang sợ, và rất sợ con người, những con người trước đây các ông đã học với Thầy Giêsu để biết cảm thương, chạnh lòng, giúp đỡ; những con người mà Thầy các ông không ngừng nhắc bảo phải thương yêu,tha thứ, và cầu nguyện, dù họ không tốt, không tử tế, không dễ thương, không công chính.

Khi còn ở với Thầy, các môn đệ không thấy lòng thương xót là một mạo hiểm, một thách đố, một đe dọa. Các ông chỉ thấy khi Thầy chết, và khi mặt thật gian ác, đểu cáng, phản bội, hai hàng của nhiều người lộ nguyên hình. Lúc đó các ông mới thấy lòng thương xót là một thử thách đầy nguy hiểm: nguy hiểm vì có thể chết vì xót thương ; nguy hiểm vì bị hiểu lầm, chụp mũ, vu khống vì thương xót; nguy hiểm vì thương xót thường mang đến bất lợi, tai ương, phiền phức cho người hay chạnh lòng xót thương.

Vì thế, cái sợ đang làm các ông run rẩy tái xanh mặt, cái sợ đang làm các ông rùng mình, rởn tóc gáy chính là “sợ thương xót”. Sợ phải thương xót như Thầy dặn dò, truyền dậy, nên các ông tự đóng chặt cửa lòng, như đóng chặt cửa phòng, để không phải thương xót ai, khép kín tâm hồn, khoá kỹ trái tim để không ai lọt vào lòng thương xót.

Hơn ai hết, trong lúc này, lúc mà Thầy bị kết án tử hình, chết đóng đinh, và chôn kín trong mồ; lúc mà không còn dám tin ai, vì chung quanh toàn những khuôn mặt đe dọa, những ánh mắt  mang “hình viên đạn” rình rập, dò xét, các môn đệ của Đức Giêsu thấm thía thân phận bèo bọt của người có lòng thương xót, và số phận hẩm hiu của những người có trái tim hay chạnh lòng xót thương, mà điển hình và nổi bật nhất chính là Đức Giêsu, Thầy các ông.

Nhưng hôm nay, trong lúc cửa nhà các ông đóng kín, cửa lòng các ông khép chặt, và tâm hồn các ông tan hoang, chán nản thì Đức Giêsu phục sinh hiện đến giữa các ông với ơn Bình An của Ngài. Kèm theo lời chúc “Bình An cho anh em!” (Ga 20,19), Đức Giêsu trấn an các ông, bằng chỉ cho các ông các vết thương trên thân xác Ngài, như dấu chứng của tình yêu thương xót vô bờ bến.

Khi cho các ông xem các dấu đinh và vết thương sâu hoắm của lưỡi đòng đâm thâu cạnh sườn, Đức Giêsu không khoe khoang thành tích chịu đau khổ, cũng không có ý cường điệu mức độ bi hùng của cuộc khổ nạn Ngài vừa trải qua, nhưng chỉ muốn các ông nhận diện một cách sống động qua thương tích thập giá trên mình Ngài lòng thương xót của Thiên Chúa, để các ông hiểu rằng: không lòng thương xót sẽ không có Thánh Giá, không Thánh Giá sẽ không có ơn cứu độ, và không ơn cứu độ, không con người nào được sống đời đời trong bình an của Thiên Chúa.

Như thế, lòng thương xót là nền tảng của giáo lý đức tin, là động cơ của mọi hoạt động tông đồ, là điều kiện để nhận được ơn Bình An, là đòi hỏi không thể miễn giảm của ơn gọi làm người Kitô hữu, bởi một lý do không cần biện minh, vì hiển nhiên: Thiên Chúa của Đức Giêsu là Thiên Chúa của Lòng Thương Xót.

Thực ra, khi Tôma từ chối lời chứng của các anh em: “Chúng tôi đã được thấy Chúa!”, và thẳng thừng thách thức: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25), ông đã không chỉ từ chối tin sự sống lại từ cõi chết của Đức Giêsu, mà sâu thẳm hơn, chính là từ chối tin Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng thương xót, vì  những ngày qua, ông đã tận mắt thấy sự sụp đổ  bẽ bàng của mọi công trình truyền giáo, cũng như cái chết tang thương của Đức Giêsu, và cho rằng: “kết qủa” cuối cùng là thất bại chua cay của lòng thương xót, sai lầm không thể cứu vãn của lòng thương xót, sụp đổ toàn bộ của lòng thương xót mà Đức Giêsu là người chủ trương, kêu gọi, loan truyền, làm chứng.

Đây cũng là lý do Đức Giêsu đã hiện ra với các môn đệ với thân xác còn nguyên các vết thương của Thánh Giá, như dấu ấn không bao giờ phai mờ của lòng thương xót. Cũng vậy, khi bảo Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy” (Ga 20,27), Đức Giêsu muốn Tôma chạm vào chính lòng thương xót còn rướm máu của Ngài, sờ vào lòng thương xót còn bầm tím của Ngài, và “đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” Thầy là Thiên Chúa của Lòng Thương Xót, tin lòng thương xót của Thầy mãi tồn tại bao la, quyền năng vô biên và trung tín đến cùng.

Vâng, cũng như các môn đệ, đặc biệt Tôma, niềm tin vào một Thiên Chúa của lòng thương xót ở chúng ta không ngừng bị thử thách, bởi tin một Thiên Chúa toàn năng, thông biết mọi sự, chí công vô tư, công bình thưởng phạt dễ hơn tin một Thiên Chúa nhân hậu, từ bi, bao dung, thương xót; tin một Thiên Chúa “dựng nên trời đất muôn vật hữu hình và vô hình” dễ hơn tin một Thiên Chúa làm “Chiên gánh tội, xoá tội trần gian”; tin một Thiên Chúa oai phong lẫm liệt, Chúa các đạo binh dễ hơn tin một Thiên Chúa khiêm hạ qùy xuống rửa chân cho các môn đệ, giao du thân mật với đám dân nghèo không nhà, và phường tội lỗi; tin một Thiên Chúa “phán một lời thì mọi sự liền đã” dễ hơn tin một Thiên Chúa khiêm nhường và hiền lành như con chiên để loài người đưa ra xử án, rồi bắt vác thập tự đến chỗ hành hình đóng đinh; tin một Thiên Chúa “phép tắc vô cùng” dễ hơn tin một Thiên Chúa bao dung, thương xót vô cùng; tin một Thiên Chúa ngự toà vinh quang có triều thần tung hô, thờ lậy dễ hơn tin một Thiên Chúa tự đồng hoá mình với người bé nhỏ nhất giữa những người bé nhỏ thiếu ăn, thiếu mặc, bệnh tật, tù đầy, bị truy nã, tỵ nạn, bị đàn áp bất công; tin một Thiên Chúa tự hữu và “hằng có đời đời” dễ hơn tin một Thiên Chúa tự nguyện đi vào khổ nạn và chịu chết như con người vì thương xót con người ; tin một Thiên Chúa chí thánh chí tôn dễ hơn tin một Thiên Chúa mồ hôi nhễ nhãi giữa trưa nắng bên bờ giếng Giacóp đắm thắm và ân cần lắng nghe tâm sự buồn của người đàn bà tình duyên truân chuyên, dang dở; tin một Thiên Chúa được mọi người chúc tụng, tôn vương trên đường vào thành thánh Giêrusalem dễ hơn tin một Thiên Chúa bị xỉ vả, hành hạ trên đường Thánh Giá  của lòng thương xót đi về Gôngôtha; tin một Thiên Chúa biến hình sáng láng và lên trời quang vinh dễ tin hơn một Thiên Chúa trở thành tử thi được tháo xuống khỏi Thánh Giá và an táng trong phần mộ của người khác, và tin một Thiên Chúa đã định nghiã tình yêu đích thực là “yêu cả kẻ thù và cầu nguyện cho người ngược đãi anh em” (Mt 5,44), và chỉ những người yêu  như thế mới đáng được gọi là con Thiên Chúa (x. Mt 5,45) thì qủa thực là một điều không dễ chút nào, nếu không nói là một thách đố vượt sức người có hạn.

Và như Tôma phủ phục thưa với Đức Giêsu: “Lậy Chúa của con, lậy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28), sau khi ông hiểu ra: Đức Giêsu chính là Thiên Chúa của lòng thương xót, Thiên Chúa đang mang trên mình thương tích của lòng thương xót mà ông đã được sờ tận tay, thấy tận mắt, chúng ta cùng nài xin Chúa ban cho chúng ta đức tin để dám tin Đức Giêsu là Thiên Chúa của lòng thương xót, dám đón nhận và sống ơn gọi Kitô hữu là “nên hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5,48), bằng  thương xót như Chúa Cha là Đấng giầu lòng thương xót, bởi tin là tin Thiên Chúa của lòng thương xót, tin Thiên Chúa luôn rộng lượng xót thương, tin Thiên Chúa  xót thương  ai có lòng thương xót, tin duy nhất Lòng Thương Xót mới ban ơn Bình An, và chúng ta sẽ là những người được Thiên Chúa chúc phúc, vì  đã “không thấy mà tin”.

Về mục lục

CHÚA VẪN NGAY BÊN

Bông hồng nhỏ 

Ai trong chúng ta cũng đang sống, nhưng chúng ta có thật sự sống và sống dồi dào không? Sau cái chết ô nhục của Thầy Giêsu, cuộc sống của các môn đệ bị đảo lộn, các ông rơi vào một nỗi sợ khủng khiếp: Người Do thái sẽ tìm giết các ông. Các ông đang sống mà như đã chết, nỗi sợ bóp nghẹt và vây kín tâm hồn các ông. Sống trong nỗi sợ quả là khủng khiếp! Ai sẽ ở bên cạnh và giải thoát chúng ta khỏi bao điều sợ hãi?

Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần, nơi các môn đệ ở, các cửa đều đóng kín vì các ông sợ người Dothái. Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” (Ga 20,19). Sự xuất hiện bất ngờ của Thầy Giêsu đã mang lại niềm vui nơi tâm hồn các môn đệ. Thầy hiểu rõ điều các ông đang cần đó là sự bình an. Vắng Thầy, các ông mất bình an, đầy hoang mang và lo sợ. Bây giờ, các ông hạnh phúc biết bao khi được thấy Chúa, được đụng chạm vào thân xác phục sinh của Chúa. Các ông nhận được Thánh Thần, để Người hướng dẫn và giải thoát các ông khỏi mọi nỗi sợ hãi, để các ông can đảm làm chứng nhân cho Chúa Phục Sinh.

Có một môn đệ tên là Tôma, ông đã vắng mặt khi Chúa hiện đến. Nghe các anh em nói: “Chúng tôi đã thấy Chúa”, ông không tin. Ông muốn được tận tay đụng chạm đến Chúa. Ông không phải là người dễ dàng đón nhận niềm tin từ người khác truyền lại. Ông cũng sẽ được Chúa cho toại nguyện vì Chúa yêu thương ông, Chúa không vì sự cứng lòng tin nơi ông mà lãng quên ông. Lòng quảng đại của Chúa trải dài, để qua ông, nhiều người sẽ nhận ra mình thật có phúc, vì dù không thấy Chúa nhưng họ vẫn một lòng kính tin.

Các Tông đồ là những chứng nhân của Chúa Phục Sinh. Ngày hôm nay, chúng ta là những người môn đệ được thừa hưởng đức tin mà các Tông đồ truyền lại. Mỗi người tín hữu cũng sẽ được sống đức tin mỗi ngày, họ sẽ nói cho mọi người biết rằng: “Tôi đã thấy Chúa!” hay “Chúng tôi đã thấy Chúa!”. Điều này quả không phải là điều đơn giản. Các Tông đồ đã không thuyết phục được ông Tôma, có lẽ vì chính cuộc sống của họ chưa chứng tỏ được điều đó họăc vì Tôma chưa được thấy Chúa tận mắt. Chỉ khi Tôma được sống tương quan cá vị với Chúa, được đụng chạm đến Chúa của mình, ông mới reo lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Có thể, chúng ta không thể thuyết phục người khác bằng chính lời nói của mình, nhưng chúng ta có thể dùng chính đời sống chứng tá của tình thương mà diễn tả niềm tin và niềm hạnh phúc của chúng ta. Tại sao ngay giữa những sóng gió của cuộc đời, người tín hữu vẫn bình an và dường như họ còn sống dồi dào hơn nữa? Bởi vì người Kitô hữu được sống trong bình an của Chúa, tình thương mà họ nhận được từ Chúa Phục Sinh không ngừng lan tỏa đến mọi người. Đó là một sự lôi cuốn và thu hút, dù âm thầm nhưng rất mạnh mẽ, nó sẽ làm cho nhiều người phải để tâm suy nghĩ. Ai cũng có quyền được trở nên người có phúc, được cảm nếm hạnh phúc có Chúa trong đời. Thế nhưng, trên thế giới vẫn còn rất nhiều người chưa có được hạnh phúc ấy. Đó cũng là trách nhiệm của mỗi người Kitô hữu chúng ta. Chính khi chúng ta không hết lòng sống đức tin, không để Chúa hiện diện trong tâm hồn mình, không đón lấy Thánh Thần của Thiên Chúa, mà chỉ say mê chạy theo thói đời, chúng ta làm cản trở ơn Chúa đến với anh chị em chúng ta. 

Cuộc sống vẫn luôn có những sóng gió và thử thách. Giữa những gian nan và bao nỗi sợ đang chi phối, chúng ta hãy cùng quây quần bên nhau để cầu nguyện. Chính Thánh Thần tình yêu sẽ đến xua tan bóng đêm của sự dữ, và bình an của Chúa Phục Sinh sẽ ngập tràn trong tâm hồn mỗi chúng ta.

Lạy Chúa Phục Sinh! Xin Chúa đến và diện diện trong tâm hồn chúng con, xin Ngài đến xua tan bao nỗi sợ hãi đang bủa vây giăng mắc và đóng kín tâm hồn chúng con. Xin Thánh Thần Chúa ban sức mạnh, tình yêu và sự khôn ngoan để giúp chúng con can đảm sống chứng tá cho Chúa giữa đời. Để khi cảm nhận được bàn tay Chúa đỡ nâng, được cảm nhận sự hiện diện của Chúa, chúng con cũng reo lên bằng cả đời sống của chúng con: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20, 28). Amen.

Về mục lục

BÌNH AN CHO ANH EM

Anna Cỏ May

 “Bình an cho anh em” (Ga 20,19).

Thấy Thầy của mình uy quyền là thế mà vẫn bị các vị lãnh đạo khép vào tội chết, nên dù có một vài người nói rằng Thầy đã sống lại nhưng các môn đệ vẫn lo lắng và sợ hãi trước ánh mắt và cử chỉ của người Do thái và với chính con người của mình. Các ông đã giấu mình trong căn phòng đóng kín cửa. Bấy giờ, Chúa Giêsu hiện đến giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em” (Ga 20,19). Ngài đến để trao ban bình an cùng đem lại niềm vui và sức sống cho các ông. Sức sống mà các ông lãnh nhận là sức sống của Chúa Thánh Thần. Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần” (Ga 20,22). Sức sống Chúa Giêsu không chỉ trao cho các môn đệ mà Ngài còn trao ban cho những ai nhận biết và tin vào Ngài cũng như những kẻ kém lòng tin. Ông Tôma, sau khi nghe anh em nói về cuộc gặp gỡ với Thầy, đã nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin” (Ga 20,25). Tám ngày sau, cũng tại căn phòng đóng kín cửa, Chúa Giêsu đến, đứng giữa các ông và bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin” (Ga 20,27). Dù lòng ông có cứng như đá, nhưng đứng trước tình yêu và lòng thương xót của Chúa, ông đã thốt lên: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” (Ga 20,28). Ông đã tin nhận Chúa.

Chúng ta cũng đang trong tâm trạng của các môn đệ là lo lắng và sợ hãi. Lo vì dịch bệnh lan tràn quá nhanh và kéo theo nhiều nỗi lo khác, sợ vì mình sẽ chết bất cứ lúc nào. Đứng trước cái lo và sợ, chúng ta hãy đóng cửa của sự hận thù, tức giận, ghen ghét và ích kỉ lại; và mở cửa của trái tim tình yêu, lòng bác ái; cùng nhau quy tụ lại cầu nguyện với Mẹ Maria trong ngôi nhà của mình, để mời Chúa đến trao ban bình an và giải thoát chúng ta khỏi nỗi lo sợ. Nhờ đó, chúng ta được sống trong Thần Khí của Chúa mà xác tín rằng: “Chúng ta có sống là sống cho Chúa mà có chết là chết cho Chúa” (Rm 14, 8).

Lạy Chúa! Chúa biết rõ chúng con đang ở trong tình trạng nào, xin Chúa mau đến giải thoát chúng con khỏi nỗi lo sợ mà cho chúng con sống trong bình an của Chúa. Xin cho chúng con vững tin phó thác mọi sự cho Ngài và cộng tác với Ngài bằng sự yêu thương, nâng đỡ và chia sẻ cho nhau, cùng nhau vượt qua mọi sóng gió cuộc đời mà tiến về miền đất hứa. Amen.

Về mục lục

LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Thái Nguyên

Đức Giêsu Phục Sinh bất ngờ xuất hiện giữa các tông đồ. Ngài trao ban bình an và cho họ xem các vết thương. Thân xác chiến thắng của Chúa vẫn mang dấu tích của cuộc khổ nạn. Các môn đệ vui mừng vì được thấy Thầy, và hơn nữa còn được Thầy ủy thác sứ mạng: “Như Cha đã sai Thầy, Thầy cũng sai anh em”.

Chỉ có một người không vui là ông Tôma, vì ông vắng mặt khi Chúa hiện ra. Có vẻ giữa ông và nhóm anh em có cái gì xa cách. Sự xa cách này trở nên rõ rệt hơn khi ông thẳng thắn từ chối tin vào lời chứng của các bạn. Ông không tin vào ai khác, chỉ tin vào giác quan của mình. Trước sự thách thức và cố chấp của ông, Chúa Giêsu lại hạ mình để hiện ra một lần nữa. Ngài trách ông cứng lòng trước những lời chứng của anh em. Rõ ràng con người Tôma có cái gì bất ổn, bất thường, lập dị, tách biệt. Nhưng may là ông trở về với đời sống cộng đoàn, nên đã chứng kiến việc Chúa phục sinh.

Đức tin của chúng ta hôm nay dựa trên đức tin của những người đã thấy Chúa, đã sờ chạm vào Chúa. Tất cả các tông đồ đều đã hy sinh mạng sống mình để làm chứng là Đức Kitô đã sống lại, Ngài là Đấng cứu độ duy nhất cho loài người… Tiếp nối các tông đồ đã có hàng triệu người cảm nhận được sự hiện diện của Chúa Phục Sinh, đã dâng hiến đời mình vì niềm tin ấy, trong số đó có hằng ngàn cha ông chúng ta đã hiên ngang đổ máu mình để lưu truyền đức tin lại cho con cháu hôm nay, cụ thể là 118 thánh tử đạo Việt Nam.

Quanh chúng ta cũng vẫn có nhiều anh chị em đạo đức, đầy lòng tin mến. Họ đã được ơn “thấy và chạm đến” Chúa một cách nào đó, nên họ rất chuyên chăm trong đời sống cầu nguyện, sốt sắng trong thánh lễ, và tích cực làm việc tông đồ. “Thấy và chạm” đến Chúa nghĩa là “cảm nghiệm” hay “cảm nhận” về sự hiện diện của Chúa khi nghe Lời Chúa, khi Rước Mình Chúa, khi phục vụ anh chị em, khi thăm viếng và cứu giúp những người bệnh tật, nghèo hèn, khốn khó…

Để làm chứng cho Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng ta cũng không cần phải nổi bật cái gì hết, mà chỉ cần nổi bật lòng thương xót của Chúa. Thương xót nói theo thánh Phaolô là: đón nhận tất cả, tha thứ tất cả, tin tưởng tất cả, hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả. Tuy nhiên, thương xót không có nghĩa là làm ngơ trước tội lỗi và sai lạc của người khác, cũng không phải là dung túng hay nhượng bộ cho những xấu xa vẫn xảy ra trong đời ta. Thương xót là muốn cho nhau một cuộc sống tốt hơn, là tìm cách dẫn đưa anh em về đường ngay nẻo chính. Muốn vậy, nhiều khi chính mình phải hy sinh và chấp nhận thương đau.

Cũng như xưa, con người ngày nay làm sao có thể tin Chúa được, nếu họ không thấy chứng tích của những khuôn mặt đẫm mồ hôi vì phục vụ, hay của những cuộc đời xả thân hy sinh cho tha nhân? Con người ngày nay cũng đang đòi kiểm nghiệm những chứng tích tình yêu nơi Giáo hội, nơi các bạn trẻ. Đạo của bạn là đạo tình yêu ư? Xin đừng nói nhiều, hãy cho tôi xem những chững chứng tích tình yêu của bạn đi! Mahatma Gandhi đã từng tuyên bố với người công giáo như thế.

Ước gì mỗi người chúng ta nhận ra rằng mình được diễm phúc trở nên Kitô hữu là nhờ lòng thương xót Chúa, để suốt đời ta biết sống cho mọi người, nhất là những người bé nhỏ nghèo hèn, là đối tượng ưu tiên của lòng Chúa xót thương. Quả thật “Phúc thay ai có lòng thương xót, vì họ sẽ được Chúa xót thương”. 

Cầu nguyện

Lạy Cha!
Thương xót không chỉ là hành động của Cha,
mà còn là tiêu chuẩn để biết ai là con cái,
để nối dài lòng thương đoái của Cha.

Thương xót không loại trừ công bằng và sự thật,
không dung túng cho những điều tai ác xấu xa,
nhưng để người ta biết kiên nhẫn vượt qua,
để đón nhận những hồng ân cao cả,
xứng đáng với những gì con người “là”.

Thương xót cũng là hành động cao quí nhất,
cho thấy phẩm chất sâu nhất của con người,
là hành vi thờ phượng cao hơn cả,
vì điều Chúa muốn không phải là lễ vật,
mà là cuộc sống với tất cả lòng nhân.

Lạy Chúa Giêsu!
Chúa đã nhập thể làm người thế,
là để thể hiện lòng thương xót của Cha,
ngay trên thập giá Chúa vẫn nói lời thứ tha,
trước lòng dạ vô tâm và bạc ác của con người,
vì muốn gánh hết mọi tội đời cho thiên hạ.

Chúa gọi chúng con nên hoàn thiện như Cha,
không phải là không còn gì thiếu sót,
mà hãy có lòng nhân từ và tha thứ,
không xét đoán và càng không lên án,
luôn bao dung và đại lượng vô vàn,
vì thương xót là tình yêu không giới hạn.

Xin cho tim con được đầy lòng thương xót,
dù nhiều khi rất đắng đót trong đời,
nhưng nhờ vậy mà phát sinh con người mới,
để tình yêu Chúa hằng tỏa sáng khắp nơi.

Đời con đã được Chúa xót thương,
nên con chẳng mong ước được gì hơn,
là thân con trở thành lòng thương xót Chúa,
loan báo tin vui ơn cứu độ cho đời. Amen.

(Trích sách: Lời nguyện của người trẻ, số 28)

Về mục lục

LÒNG THƯƠNG XÓT XUA TAN SỰ SỢ HÃI

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Cho đến hôm nay, số người nhiễm Virus Vũ Hán tại Việt Nam vẫn cứ tăng dường như mỗi ngày. Các quốc gia đang chạy đua để bào chế vắc-xin và thuốc đặc trị. Việt Nam có phác đồ điều trị theo hoàn cảnh của Việt Nam và kết quả cho thấy đến nay chưa có người chết. Đó là một tín hiệu đáng mừng cho Việt Nam. Tuy nhiên, con Virus Vũ Hán vẫn là mối đe doạ cho hết mọi người, mọi nhà, mọi quốc gia. Bên cạnh sự nguy hiểm của Virus Vũ Hán, còn có những thứ virus khác đang huỷ hoại tâm hồn con người. Đó là thứ “virus hoảng loạn, sợ hãi”, khiến cho nhiều người bị tê liệt trong tâm hồn, mất kiểm soát trong hành động và lâu dài nó làm suy nhược ý chí của con người.

Thưa quý OBACE, cái chết của Chúa Giêsu năm xưa cũng đã khiến các tông đồ của Chúa rơi vào tình trạng hoảng loạn, sơ hãi. Các ông sợ hãi đến độ đánh mất tất cả ý chí, suy nghĩ, chỉ còn sống co cụm lẩn trốn với nhau trong nhà vì sợ người Do Thái. Các ông sợ hãi đến độ tuy còn thở nhưng như những người đã chết. Trong tình cảnh đáng thương như thế, Chúa Giêsu Phục Sinh đã hiện ra đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em.” Sự bình an là món quà đầu tiên và hết sức cần thiết cho các tông đồ, mà Chúa Giêsu đem đến cho các ông lúc này. Để củng cố cho sự yếu đuối của các tông đồ, Chúa Giêsu còn cho các ông xem tay và cạnh sườn Người, cho các ông được đụng chạm đến Người bằng xương bằng thịt sau khi Người đã từ cõi chết sống lại.

Thánh Gioan ghi lại: “Các môn đệ vui mừng vì được thấy Chúa.” Tâm hồn và cuộc đời các ông như hoang mạc khô cháy, chết chóc, nay đón nhận được nguồn nước và bắt đầu hồi sinh. Tuy nhiên, Chúa Giêsu Phục Sinh còn muốn biến đổi hoàn toàn các ông, xua tan tất cả những sợ hãi chết chóc trong tâm hồn và ban cho các ông một sức sống mới: “Ngài đã thổi hơi trên các ông và phán: Các con hãy nhận lấy Thánh Thần. Các con tha tội cho ai thì tội người ấy được tha, các con cầm tội ai, thì tội người ấy bị cầm lại.” Như vậy, sức mạnh mới mà Chúa Phục Sinh ban tặng cho các tông đồ chính là Chúa Thánh Thần, để từ đây các ông không còn sợ hãi nữa. Hình ảnh Chúa thổi hơi trên các ông còn nhắc cho chúng ta nhớ đến hình ảnh ngày xưa Thiên Chúa đã thổi hơi vào mũi con người, để cho nó có sự sống. Hôm nay, Chúa Phục Sinh cũng thổi hơi trên các tông đồ để biến các ông từ những xác chết trở thành những con người mang sự sống của Chúa Phục Sinh. Cùng với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, Chúa Phục Sinh còn trao cho các ông quyền cầm buộc và tha thứ. Từ đây, các tông đồ sẽ dùng quyền năng của Thiên Chúa, nhân danh Thiên Chúa tiếp tục ban ơn tha thứ cho nhân loại.

Chúa Nhật hôm nay được gọi là Chúa Nhật Lòng Thương Xót của Chúa, bởi vì câu chuyện cho thấy, Chúa Giêsu Phục Sinh không chỉ quan tâm cách chung đến các tông đồ, nhưng Ngài thấu hiểu tâm hồn của từng người, cụ thể là Tôma. Trong lúc hoảng loạn do cái chết của Thầy và sợ hãi vì nghĩ rằng người Do Thái sẽ tìm cách tiêu diệt tất cả những ai liên quan đến Thầy Giêsu, Tôma đã bỏ anh em tông đồ để tìm kiếm một nơi trú ẩn đâu đó. Chiều Chúa Nhật tuần trước khi Chúa Phục Sinh hiện ra với các tông đồ, đã không có mặt của Tôma. Vì vậy, anh đã không thể đón nhận được niềm tin Phục Sinh. Không những thế, anh quyết liệt đòi cho bằng được đụng chạm đến vết thương của Thầy, đòi có một kinh nghiệm cá nhân gặp được Thầy: “Nếu tôi không nhìn thấy vết đinh, nếu tôi không thọc bàn tay vào cạnh sườn Người, thì tôi không tin.”

Chúa Giêsu Phục Sinh đã thấu hiểu và cảm thông với một tâm hồn đã từng bị tổn thương vì cuộc khổ nạn thập giá của Ngài, Ngài không muốn để anh trở nên mặc cảm hay lạc lõng giữa anh em. Vì thế, Chúa đã gọi đích danh anh: “Tôma! Đặt ngón tay con vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy. Hãy đưa bàn tay ra mà xỏ vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin.”Lòng thương xót của Chúa Phục Sinh đã đổ vào trái tim và tâm hồn của Tôma, phá tan sự sợ hãi và nghi ngờ. Chúa cho Tôma được đụng chạm đến dấu đinh và vết thương của Chúa là được chạm vào lòng thương xót của Chúa. Tôma đã được biến đổi hoàn toàn, anh tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa tôi! Lạy Thiên Chúa của tôi.”

Tin mừng Gioan còn cho thấy một điểm giáo lý quan trọng qua câu chuyện: Sở dĩ Tôma không đón nhận được Tin Mừng Phục Sinh bởi vì Tôma đã tách khỏi các tông đồ, có nghĩa là tách khỏi cộng đoàn Giáo Hội. Giáo Hội đón nhận mầu nhiệm phục sinh từ nơi Chúa Giêsu và trở thành nhân chứng đáng tin nhất của mầu nhiệm này. Vì thế, chỉ những ai hiệp thông, hiệp nhất hoàn toàn với Giáo Hội, mới có thể đón nhận được niềm tin phục sinh và có cùng một cảm nhận, một niềm vui với Giáo Hội. Lời Chúa nói với Tôma: “Vì con đã thấy Thầy, nên con tin, phúc cho những ai không thấy mà tin”, là lời Chúa chúc phúc cho chúng ta, là những người tin vào Chúa Phục Sinh không phải vì được thấy Chúa, nhưng nhờ lời rao giảng và làm chứng của Giáo Hội.

Các tông đồ đã hoàn toàn vượt qua sự sợ hãi trước đây, được đón nhận một tinh thần mới, sức sống mới của Chúa Thánh Thần, các ông đã hoàn toàn trở nên những con người mới. Sách Công Vụ Tông Đồ kể lại sự can đảm hiên ngang của các tông đồ sau sự kiện phục sinh. Các tông đồ lên đường đi khắp nơi rao truyền sức sống mới cho các dân tộc, làm cho họ trở nên một dân mới: “Mọi người đều kính sợ vì các tông đồ đã làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Còn các tín hữu chuyên cần nghe các tông đồ giảng dạy, luôn hiệp thông với nhau tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng.”

Chúa Phục Sinh đã biến đổi các tông đồ từ những con người nhát đảm sợ hãi, nay trở nên mạnh mẽ hiên ngang; từ những con người bình dân kém cỏi, nay các ông trở nên uyên bác thông thái; từ những con người trước đây còn phân bì, tị nạnh nhau, nay các ông trở nên những con người nhiệt tâm, nhiệt thành với sứ mạng loan báo Tin Mừng Phục Sinh. Với sức mạnh của Chúa Thánh Thần, các tông đồ đã quy tụ về cho Chúa một đoàn dân mới sống trong tình huynh đệ, yêu thương, trong cùng một đức tin, một việc phụng thờ và một tình bác ái: “Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau và để mọi sự làm của chung…Họ đồng tâm nhất trí ngày ngày lên Đền Thờ. Khi tham dự lễ bẻ bánh họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa và được mọi người thương mến.”

Thưa qúy OBACE, thánh Phêrô mời gọi chúng ta cùng tạ ơn Thiên Chúa vì Ngài đã cho chúng ta được tái sinh để sống con người mới, cuộc sống mới, nhờ Chúa Giêsu Phục Sinh. Vì thế, chúng ta được mời gọi sống trong niềm vui, hy vọng và hân hoan, cho dù có trải qua những gian nan thử thách. Chúng ta không thể để mình rơi vào tình trạng hoảng sợ trước nghịch cảnh như những người không có niềm tin. Trái lại, chúng ta được mời gọi sống trong sự tin tưởng và phó thác cho lòng thương xót của Chúa. Sống tin tưởng phó thác không có nghĩa là chúng ta thụ động ỷ nại vào Thiên Chúa mà không có sự nỗ lực cố gắng của bản thân. Ví dụ: dịch bệnh đang diễn ra trên thế giới là hết sức nguy hiểm, chúng tin tưởng vào tình yêu quan phòng của Chúa, nhưng vẫn phải khôn ngoan và biết áp dụng những cách phòng tránh để gìn giữ sức khoẻ cho mình và cho cộng đồng.

Trong thời đại ngày nay, ma qủy dùng nhiều cách để gieo sự hồ nghi và làm lung lạc đời sống đức tin của người tín hữu, đặc biệt niềm tin vào Chúa Phục Sinh. Những lúc gặp khó khăn trong đời sống đức tin, noi gương Tôma, hãy quay trở về với Giáo Hội, trình bày những khó khăn của mình với Giáo Hội. Vì khi liên kết mật thiết với Giáo Hội, đức tin của chúng ta sẽ được nuôi dưỡng, được củng cố nhờ các thánh lễ và các bí tích. Nơi thánh lễ mỗi ngày, chúng ta sẽ gặp được Chúa Phục Sinh và được đụng chạm đến lòng thương xót của Ngài, Ngài sẽ ban lại cho chúng ta sự bình an.

 Xin Chúa Phục Sinh thổi hơi trên chúng ta, ban cho ta sự sống mới của Ngài. Xin Ngài cũng ban Thánh Thần của Ngài xuống trên chúng ta, cách riêng những người trẻ, để Thánh Thần là sức mạnh, biến chúng ta thành những con người mới, can đảm mạnh mẽ, không sợ hãi, sống và làm chứng cho Chúa Phục Sinh trong thời đại công nghệ hôm nay. Amen.

Về mục lục

CÁC VẾT SẸO

Lm. Giuse Nguyễn Hữu An

Trong mùa Phục Sinh, các bài đọc sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến với các môn đệ Ngài đều “cho các ông xem tay chân và cạnh sườn” là những vết thương cuộc khổ nạn của Ngài. Chính trong cộng đoàn bị thương tích, đau đớn và vỡ mộng này, Chúa Giêsu đã đến, mang theo những lời tha thứ và chữa lành: “Bình an cho anh em”.

Điều quan trọng được Thánh Kinh ghi nhận là thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang thương tích của cuộc khổ nạn, vẫn còn lỗ đinh ở chân tay và vết giáo đâm ở cạnh sườn. Tin Mừng phục sinh là Tin Mừng về các vết thương đã lành nay thành những vết sẹo.Tôma muốn sờ đến để biết chắc Thầy đã sống lại. Khi Chúa Phục Sinh mời gọi Tôma: “hãy đặt ngón tay vào lỗ đinh và hãy đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn”, chắc hẳn Tôma đã nhìn thật lâu những dấu đinh. Khi ấy, Tôma khám phá thật sâu một Tình Yêu.Tình yêu hy sinh mạng sống và đủ mạnh để lấy lại.Tình yêu khiêm hạ cúi xuống để chinh phục ông. Các vết sẹo của Thầy đã chữa lành vết thương hoài nghi của Tôma. Lòng ông tràn ngập niềm cảm mến tri ân.  Ông thoát ra khỏi sự cứng cỏi, khép kín, tự cô lập, để bước vào thế giới của lòng tin. Tôma đã tin vượt quá điều ông thấy. Ông chỉ thấy và chạm đến các vết sẹo của Thầy, nhưng ông tin Thầy là Chúa, là Thiên Chúa của ông.

Tại sao thân xác phục sinh của Chúa Giêsu vẫn còn mang các thương tích của cuộc khổ nạn? Các vết sẹo ấy có ý nghĩa gì đối với chúng ta?

  1. Những vết sẹo giúp các môn đệ nhận ra Chúa

Chúa Giêsu phục sinh giúp các môn đệ nhận ra Ngài nhờ những vết sẹo. Ngài cho họ xem những vết sẹo ở tay và cạnh sườn. Những vết sẹo nói lên một điều quan trọng: Thầy chính là Đấng đã bị đóng đinh và đâm thâu; Thầy đã chết nhưng Thầy đã thắng được tử thần. Các môn đệ mặc dầu được tiên báo trước về cuộc Phục sinh (Mt 18,31-34), nhưng những tang tóc và lo sợ xâm chiếm hết tâm hồn họ lúc này. Cho nên để họ được an tâm và bình an hơn, Chúa nói: “hãy xem chân tay Thầy đây…”. Thân xác phục sinh của Chúa bây giờ vẫn còn mang những dấu vết của cuộc thụ nạn như các dấu đinh, lằn roi… Chúa bảo họ cứ sờ vào đó để khỏi còn phải nghi ngờ về bóng ma hay thần linh nào khác “Chính Thầy đây mà! Cứ rờ xem, ma đâu có xương thịt như anh em thấy Thầy có đây” (Lc 24,39); “Người đưa tay chân ra cho các ông xem” (Lc 24,40). Bàn tay mang dấu đinh là bàn tay nhen lửa và nướng cá bên biển hồ Tibêria. Bàn tay trao tấm bánh đời mình trong bữa Tiệc Ly bây giờ trao tấm bánh mình mới nướng cho môn đệ.(x.Ga 21,1-14).

Chúa Giêsu phục sinh mang các vết sẹo như là chiến tích vĩnh cửu. Các Tông đồ đã thấy được thân xác vinh quang phục sinh của Chúa.

Thân xác Chúa phục sinh cũng là thân xác trước khổ nạn, nhưng nay không còn bị lệ thuộc vào không gian vào thời gian như thân xác trước nữa. Chúa ra khỏi mồ (Lc 24,3), Chúa vào giữa nhà các Tông đồ đang cửa đóng then cài (Ga 20,19), Chúa đi trên biển (Ga 21,7). Vì thế, thánh Phaolô gọi thân xác phục sinh của Chúa là thân xác thiêng liêng, chí thiện (1Cr 15,40). Thánh Thần tràn ngập trong thân xác ấy.Thân xác Chúa Kitô Phục Sinh được Kinh Thánh gọi là: bất tử (1Cor 15,53), bất diệt, linh thiêng (1Cor 15,44), bất khả thực (Kh 7,16), huyền diệu (Mt 28,1; Ga 20,19). Lanh lẹ (Lc 24,26). Chúa Kitô Phục Sinh đã cởi bỏ tất cả những yếu hèn của nhân loại như đói khát, mệt mỏi. Dù Chúa có ăn uống chút ít, song đó không phải là nhu cầu tự nhiên. Nhưng Chúa làm như vậy để các Tông đồ xác tín hơn rằng Ngài đã sống lại thật với cùng một thân xác trước kia.

  1. Những vết sẹo là chứng tích của tình yêu cao cả

Thương tích trên thân thể phục sinh của Chúa Giêsu là một nhắc nhở rằng, Ngài là Thiên Chúa nhưng cũng là một con người như chúng ta, và Ngài đã chịu đau khổ để thông cảm với mọi đau khổ của loài người và để làm gương cho chúng ta.

Khi nhìn đến Chúa Giêsu với các thương tích của cuộc khổ nạn, chúng ta sẽ cảm thấy an ủi hơn, gần gũi hơn với Thiên Chúa và cố gắng vươn lên, không chìm đắm trong buồn sầu cay đắng, không tầm thường hóa cuộc đời trong tội lỗi và vững tin rằng, sự sống lại vinh hiển có giá trị hơn đời này gấp bao lần mà chính Chúa Giêsu đã mở đường đi về sự sống mới.

Qua cuộc khổ nạn mà các vết sẹo vẫn còn lưu lại trên thân thể, Chúa Giêsu Phục Sinh muốn nói với chúng ta rằng sự đau khổ, trong ý nghĩa tích cực là những hy sinh có giá trị cứu độ. Với các vết sẹo ấy, Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta rằng, đau khổ không là một bất hạnh cần phải lẫn tránh, mà tội lỗi gây ra đau khổ mới là điều xấu xa cần phải tránh xa.

Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại đến nỗi ban chính Người Con Một; và Người Con Một đã yêu cho đến cùng, đã chịu khổ nạn với trái tim bị đâm thâu khi tự hiến trên thánh giá. Chúng ta cũng phải đáp trả sao cho cân xứng với tình yêu ấy.

3Những vết sẹo là dấu chứng của phục sinh

Thân xác Chúa Phục Sinh mang những vết sẹo cuộc khổ nạn. Những cái sẹo ấy sẽ ở mãi với Ngài trên thiên quốc. Những cái sẹo gợi lên những kỷ niệm buồn phiền, thất bại, đớn đau. Nhưng nếu không có những cái sẹo thì cũng chẳng có phục sinh. Chúa Giêsu vượt thắng sự chết, đập tan quyền lực của tử thần, Ngài phục sinh và bước vào một cuộc sống mới viên mãn hơn, vững bền hơn. Dẫu rằng vẫn còn đó những dấu vết của thương đau, những vết sẹo của bạo lực bất công, nhưng giờ đây Ngài đã khởi sự một sự sống bất diệt, vượt trên vòng lao lý của khổ đau, của giới hạn kiếp người, Ngài đã bước vào thế giới của niềm vui, của Tình Yêu!

Đức Giêsu đã không lạ lẫm với đau đớn, âu lo, thất bại và nỗi cô đơn. Người biết sự phản bội của bạn hữu. Người đã mang lấy những vết thương hữu hình và vô hình vì nhân loại. Chúng ta cũng vậy, không chỉ mang lấy những vết thương của mình, mà còn cưu mang những thương tổn của những người ta yêu mến, những người gặp hoạn nạn và bệnh tật. Chúng ta cũng thổn thức với những âu lo, đau khổ của thế giới trong những tháng ngày dịch bệnh virut Vũ hán. Giờ đây, ánh sáng của Thiên Chúa đã chiếu sáng xuyên qua bóng tối của ngôi mộ, chúng ta không còn phải lo sợ về cái chết cuối cùng nữa.Con người chúng ta, ai cũng thường mang những vết sẹo trên thân xác. Có những vết sẹo gợi lại cả một vùng trời kỷ niệm. Nếu hiểu cuộc phục sinh của Chúa Giêsu là sự vượt qua nghịch cảnh để bước vào đời sống mới, thì mỗi khi một cá nhân, một gia đình hoặc một tập thể vượt qua được những nghịch cảnh của đời mình thì cũng có thể gọi đó là sự phục sinh! Trước khi thụ nạn, Chúa Giêsu đã từng nói với các môn đệ về những thống khổ như là nỗi đau quặn của một phụ nữ khi sinh nở, để sau đó có được niềm vui khi một mầm sống mới được khai sinh (Ga 16, 20-22).

Ngày 23/9/1968, cha Piô Năm Dấu, vị linh mục nổi tiếng dòng Capucinô đã qua đời trong một tu viện tại nước Ý. Ngài nổi tiếng vì được Chúa in năm dấu thánh trên thân thể suốt 50 năm. Năm dấu thánh đó là năm vết thương của Chúa được in trên hai tay, hai chân và cạnh sườn cha Piô. Những vết thương đó thường rỉ máu và làm cho ngài đau đớn khôn tả. Ngài được khám nghiệm y khoa và được kiểm chứng bằng khoa học nhiều lần. Nhưng tất cả các nhà chuyên môn đều không thể giải thích được hiện tượng này và cũng không có cách nào chữa trị được các vết thương đó.Ngày 02/5/1999 ngài được phong chân phước và ngày 16/6/2002 được phong hiển thánh bởi Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II.

Cha thánh Piô đã được in năm dấu thánh để được hiệp thông với sự đau khổ của Chúa Giêsu. Đó cũng là những chứng tích niềm tin cho một thế giới “cứng lòng tin” hôm nay. Chúng ta cũng hãy mang lấy những dấu tích đau thương của Chúa không phải nơi thân xác nhưng trong tâm hồn và cuộc sống chứng nhân, để làm cho niềm tin được tỏa sáng đến mọi người.

Như mùa xuân sau đông tàn, Phục sinh mãi mãi vọt lên trong đời sống chúng ta những chồi lộc ân sủng, những sức sống tươi trẻ. Tin vào Đấng Phục Sinh là thắp lên ánh sáng mới, là đón nhận tình yêu mới cho mùa xuân tâm hồn.

Về mục lục

CHỨNG THỰC

Trầm Thiên Thu

Sự thật mãi mãi là sự thật, và chỉ có sự thật mới có thể giải thoát con người. (Ga 8:32) Về ngữ nghĩa, chữ giải thoát và giải phóng có nghĩa tương tự – theo Phật giáo là giác ngộ, nhưng thiết nghĩ nên tránh chữ “giải phóng” trong thời đại ngày nay. Muốn “giải phóng” người khác thì mình phải hơn người khác, kẻ kém cỏi hơn không thể “giải phóng” người hơn mình – bất cứ lĩnh vực nào.

Bởi vì cuộc đời có nhiều thứ giả dối nên người ta càng cần sự thật. Muốn biết sự thật thì phải kiểm chứng xem thực – hư ra sao, không nên nhẹ dạ cả tin trong xã hội nhiễu nhương ngày nay. Đức tin vẫn cần lý trí. Có lẽ vì vậy mà Tôma tông đồ chưa tin ngay dù đã nghe nhiều người nói, mà muốn kiểm chứng sự thật về Người Thầy chí thánh của mình.

Ngôn ngữ biểu hiện bằng chữ. Mà chữ thì phải có nghĩa. Nghĩa phải rõ ràng, chính xác, không thể hàm hồ. Và rồi người ta đã có chủ nghĩa thực chứng (positivism). Đó là học thuyết triết học cho rằng các định đề không thể xác minh được khi đối chiếu với bằng chứng thực tiễn thì chí ít cũng không thể chấp nhận đó là một bộ phận của khoa học, nghiêm túc nói thẳng nói thật thì đó là điều vô nghĩa.

Chủ nghĩa thực chứng là khuynh hướng nhận thức luận của triết học và xã hội học, cho rằng phương pháp khoa học là cách thức tốt nhất để lý giải các sự kiện của tự nhiên, xã hội và con người. Khái niệm này được phát triển ở đầu thế kỷ 19 bởi triết gia và nhà xã hội học Auguste Comte, người Pháp. Từ chủ nghĩa này dẫn tới chủ nghĩa duy vật và vô thần, cũng dính líu Hội Tam Điểm. Hội này theo chủ nghĩa duy tâm mơ hồ, tôn kính các thực thể trừu tượng như Tính Nhân Đạo, Khoa Học, Lý Luận, và muốn loại bỏ Giáo Hội. Thực sự rất nguy hiểm đối với đức tin Công giáo!

Tên gọi Hội Tam Điểm (Anh ngữ: Freemasonry, Pháp ngữ: Franc-maçonnerie, nghĩa là “nền tảng tự do”) dùng để chỉ một tập hợp các hiện tượng lịch sử và xã hội rất khác nhau tạo dựng từ môi trường hội nhập mà việc tuyển chọn thành viên dựa theo nguyên tắc bổ sung và các nghi lễ gia nhập có liên quan các ẩn dụ về người thợ xây đá. Việt ngữ gọi hội này là “Tam Điểm” vì các hội viên người Pháp thường gọi nhau là frère (sư huynh, sư đệ) hoặc maître (sư phụ), viết tắt F hoặc M và thêm vào phía sau dấu ba chấm như ba đỉnh hình tam giác đều.

Đầu thế kỷ 20, các nhà xã hội học Đức (Max Weber và Georg Simmel) đã phản đối thuyết thực chứng và lập nên trường phái Phản Thực Chứng (Anti-Positivism) trong xã hội học.

Chúa Nhật kính Lòng Chúa Thương Xót (LCTX), CN II PS, được Thánh GH Gioan Phaolô II chính thức thiết lập vào ngày 30-4-2000, ngày tuyên thánh Nữ tu Faustina Kowalska (1905-1938). Cách gọi khác nhưng chỉ một ý nghĩa. Cũng vậy, Tình Yêu Chúa, Thánh Tâm Chúa, và LCTX vẫn là một. Chính Chúa Giêsu đã mặc khải cho Thánh nữ Faustina, vị Tông đồ tiên khởi của LCTX, về ước muốn của Ngài: “Ta muốn một tấm hình được làm phép trọng thể vào Chúa Nhật sau Đại lễ Phục Sinh, và Ta muốn tấm hình đó được tôn kính công khai để mỗi linh hồn đều biết đến tấm hình đó.” (Nhật Ký, số 341) Và điều đó đã được phổ biến toàn cầu ngày nay, đặc biệt trong cơn đại dịch corona này, con người càng cần đến LCTX hơn bao giờ hết.

Trong Nhật Ký, Thánh Faustina cho biết lời hứa của Chúa Giêsu: “Ta muốn ban ơn tha thứ hoàn toàn cho các linh hồn nào xưng tội và rước lễ trong ngày lễ kính Lòng Thương Xót của Ta.” (số 1109) Đó là Ơn Toàn Xá mà Người Trộm Lành Dismas (Dimas) đã được lãnh nhận ngay trước khi Chúa Giêsu trút hơi thở cuối cùng, khoảng 3 giờ chiều ngày Thứ Sáu Tuần Thánh. Cũng từ Giờ Cứu Độ đó, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót của Thiên Chúa đã tuôn trào chan hòa mãi đến muôn đời cho mọi người, chỉ với một điều kiện đơn giản là thật lòng SÁM HỐI và TIN TƯỞNG vào LCTX – Lạy Chúa Giêsu, con tín thác vào Ngài.

Trên đường lữ hành trần gian, đức tin rất quan trọng. Thánh Phaolô nói: “Người ta được nên công chính vì tin, chứ không phải vì làm những gì Luật dạy.” (Rm 3:28) Ngoài Tám Mối Phúc, còn có Mối Phúc đặc biệt liên quan đức tin, có thể gọi là “mối phúc thứ chín,” do chính Chúa Giêsu xác nhận: “Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Và chắc chắn rằng “bất kỳ ai tín thác vào Ngài, Đức-Kitô-làm-người-chịu-chết-và-phục-sinh, sẽ không phải thất vọng.” (x. Rm 10:11; 1 Pr 2:16) Trong tình trạng “cách ly xã hội” ngày nay, mỗi người có thể tự kiểm chứng xem đức tin của mình như thế nào khi không thể cùng nhau tham dự Phụng Vụ với cộng đoàn.

Đức tin chân chính khác với mê tín dị đoan, mặc dù cũng liên quan niềm tin. Trong niềm tin lệch lạc có liên quan tử vi. [1] Có người lý luận rằng tử vi là khoa học, không có tội. (sic!) Coi chừng! Tử vi cũng gọi là “tử vi đẩu số,” một hình thức bói toán để biết trước vận mệnh con người được xây dựng trên cơ sở triết lý Kinh Dịch với các thuyết âm dương, ngũ hành, can và chi,… Người ta lập lá số tử vi với Thiên bàn, Địa bàn và các Cung sao – gọi là “chấm tử vi.” Căn cứ vào giờ, ngày, tháng, năm sinh theo âm lịch và giới tính để lý giải những diễn biến xảy ra trong đời người. Vậy không phải là dị đoan ư? Miệng leo lẻo nói tin Chúa mà lòng có tin chưa? Tương lai chúng ta phó thác trong tay Chúa hay tử vi? Tin thật trong lòng hay tin bằng môi miệng?

Câu nói đơn giản mà thâm thúy: “Tốt gỗ hơn tốt nước sơn.” Đúng vậy, cái “phẩm” quan trọng hơn cái “lượng.” Rễ càng sâu thì cây càng vững, loại cây nào có rễ ăn nổi thì dễ đổ khi gặp mưa gió. Vấn đề đức tin cũng vậy, nếu không có chiều sâu thì chỉ là đức tin trống rỗng, hào nhoáng bề ngoài mà thôi. Một thực tế minh nhiên.

Đề cập cách sống đức tin, Thánh Faustina cho biết: “Tôi đã thấy rõ thánh ý Chúa đang và sẽ được thực hiện đến từng chi tiết cuối cùng. Những nỗ lực điên cuồng của kẻ thù không thể cản trở chi tiết nhỏ nhặt nhất trong những điều Chúa đã tiền định. Chẳng hề gì nếu có những lần công cuộc dường như hoàn toàn bị tiêu tan; vì chính khi ấy, công cuộc lại càng được củng cố hơn nữa.” (Nhật Ký, số 1659) Những cái nhỏ mà quan trọng, vì chính cái nhỏ lại là cái cơ bản thiết yếu.

Thánh Vịnh gia luôn giữ vững niềm tin: “Dẫu cho hồn xác suy tàn, thì nơi ẩn náu, kỷ phần lòng con, muôn đời là Chúa cao tôn.” (Tv 73:26) Chỉ người nào có đức tin son sắt như vậy mới có thể nói như Thánh Phaolô: “Không có gì tách được chúng ta ra khỏi tình yêu của Thiên Chúa thể hiện nơi Đức Kitô Giêsu, Chúa chúng ta.” (Rm 8:39) Tin vào Chúa là tin vào Tình Yêu của Ngài, là tín thác vào Lòng Thương Xót của Ngài. Đức tin càng trong ngần càng sâu sắc và mạnh mẽ.

Kinh Thánh kể ngắn gọn nhưng hàm súc: “Ngày xưa, các tín hữu chuyên cần nghe các Tông Đồ giảng dạy, luôn luôn hiệp thông với nhau, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh, và cầu nguyện không ngừng. Mọi người đều kinh sợ, vì các Tông Đồ làm nhiều điềm thiêng dấu lạ. Tất cả các tín hữu hợp nhất với nhau, và để mọi sự làm của chung. Họ đem bán đất đai của cải, lấy tiền chia cho mỗi người tuỳ theo nhu cầu. Họ đồng tâm nhất trí, ngày ngày chuyên cần đến Đền Thờ. Khi làm lễ bẻ bánh TẠI TƯ GIA, họ dùng bữa với lòng đơn sơ vui vẻ. Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến. Và Chúa cho cộng đoàn mỗi ngày có thêm những người được cứu độ.” (Cv 2:42-47) Trong thời gian này, mọi hoạt động cũng xảy ra “tại tư gia” chứ không như trước đây – trong đó có việc tham dự Thánh Lễ online. Sinh hoạt gia đình là cách kiểm chứng đức tin của tín nhân.

Chỉ một đoạn ngắn gọn nhưng cho thấy rõ nét của một xã hội đại đồng, một cộng đoàn lý tưởng, luôn đầy ắp tình yêu thương, tình liên đới và sự hiệp nhất. Sống trong tình yêu thương như vậy là sống trong lòng thương xót, ai cũng thể hiện lòng thương xót với nhau ở mọi góc độ và mọi cấp độ, không chi li, không so đo, không tính toán, không phe cánh, không vụ lợi, biết quên mình vì người khác,… Những ai sống đúng lòng thương xót như vậy thì chắc chắn được Thiên Chúa cứu độ.

Điều đó được chứng thực bằng những hoạt động nhân đạo trong hoàn cảnh khó khăn giữa cơn đại nạn này: Máy ATM Gạo, những phần thực phẩm chia sẻ cho những hoàn cảnh khó khăn,… Câu nói nhẹ nhàng mà thấm thía: “Nếu bạn khó khăn, cứ lấy một phần; nếu bạn ổn, xin nhường cho người khác.” Nhưng vẫn lấn cấn nỗi buồn khi thấy có những người còn tham lam, nỡ lòng “cướp” phần của những người nghèo, đánh cắp lòng nhân đạo của người khác. Họ dư tiền nhưng thiếu (hoặc không có) lòng tự trọng.

Thiên Chúa bất biến, trước sau như một, mãi mãi là Đấng giàu lòng thương xót: “Muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương.” (Tv 118:2-3) Thật vậy, Thiên Chúa muốn mọi người đều được hưởng Ơn Cứu Độ, không muốn ai phải hư mất. Mỗi chúng ta đều có chung nhiệm vụ phải loan báo LCTX, chứng tỏ cho mọi người biết Ngài qua cách sống của mình để tuyên xưng: “Chúa là sức mạnh tôi, là Đấng tôi ca ngợi, chính Người cứu độ tôi.” (Tv 118:14)

Đức Kitô Giêsu là “tảng đá thợ xây nhà loại bỏ” nhưng lại “trở nên đá tảng góc tường.” (Tv 118:22) Đó là công trình vĩ đại vô song của Thiên Chúa. Vì thế, các tín nhân hiệp nhất đồng thanh: “Đây là ngày Chúa đã làm ra, nào ta hãy vui mừng hoan hỷ!” (Tv 118:24) Chúa Giêsu đã phục sinh, trao ban cho nhân loại mọi thứ để có thể đạt tới Cõi Trường Sinh.

Vui mừng phấn khởi, Thánh Phêrô xưng tụng: “Chúc tụng Thiên Chúa là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta! Do lượng hải hà, Người cho chúng ta được tái sinh để nhận lãnh niềm hy vọng sống động, nhờ Đức Giêsu Kitô đã từ cõi chết sống lại, để được hưởng gia tài không thể hư hoại, không thể vẩn đục và tàn phai. Gia tài này dành ở trên trời cho anh em, là những người, nhờ lòng tin, được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ, hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ bày tỏ ra trong thời sau hết.” (1 Pr 1:3-5) Đó là lời chứng của một người đã trải nghiệm các cung bậc sống, thực sự là lời chứng đáng tin vì hoàn toàn chính xác. Thánh Phêrô là nhân chứng sống, để nhờ đó, chúng ta có thể kiểm chứng và chứng thực đức tin của mình.

Vừa nhắn nhủ vừa động viên, Thánh Phêrô nói: “Trong thời ấy, anh em sẽ được hân hoan vui mừng, mặc dầu còn phải ưu phiền ít lâu giữa trăm chiều thử thách. Những thử thách đó nhằm tinh luyện đức tin của anh em là thứ quý hơn vàng gấp bội, vàng là của phù vân mà còn phải chịu thử lửa. Nhờ thế, khi Đức Giêsu Kitô tỏ hiện, đức tin đã được tinh luyện đó sẽ trở thành lời khen ngợi, và đem lại vinh quang, danh dự.” (1 Pr 1:6-7) Lửa thử vàng, gian nan thử sức. Qua gian khổ mà vẫn trung tín thì mới chứng tỏ đức tin sắt son, không nao núng trước mọi cám dỗ. “Không thấy mà tin” là một Mối Phúc, nhưng miệng nói tín thác vào LCTX mà lại tin vào tử vi thì hoàn toàn bất xứng. Việc lặp đi lặp lại “lời tín thác” cũng chỉ như niệm thần chú, nói như vẹt, chứ trong lòng chưa thực sự tin tưởng. Vô ích mà thôi, bởi vì “đức tin không có hành động là đức tin chết.” (Gc 2:17 và 26)

Đúng như vậy, chính Chúa Giêsu cũng đã minh định: “Không phải bất cứ ai thưa với Thầy: ‘Lạy Chúa! lạy Chúa!’ là được vào Nước Trời cả đâu! Nhưng chỉ ai thi hành ý muốn của Cha Thầy là Đấng ngự trên trời, mới được vào mà thôi.” (Mt 7:21) Thánh Phêrô lý giải rạch ròi: “Tuy không thấy Người, anh em vẫn yêu mến, tuy chưa được giáp mặt mà lòng vẫn kính tin. Vì vậy, anh em được chan chứa một niềm vui khôn tả, rực rỡ vinh quang, bởi đã nhận được thành quả của đức tin, là ơn cứu độ con người.” (1 Pr 1:8-9)

Ga 20:19-31 là trình thuật Tin Mừng quen thuộc nói về tình trạng “cứng lòng tin” của tông đồ Tôma. Trong một bộ phim hoặc cuốn truyện, nhân vật phản diện thường không được người ta có cảm tình. Thế nhưng chúng ta quên rằng, chính nhân vật phản diện đó lại làm “nền” để nhân vật chính diện được nổi bật. Có lẽ Thánh Tôma cũng là “đích nhắm” của chúng ta mỗi khi nói tới đức tin, nhất là trong Mùa Phục Sinh hằng năm.

Rất có thể tông đồ Tôma là người sống thực tế, cần cụ thể, cái gì cũng phải rạch ròi, không thích mơ hồ hoặc lập lờ nước đôi. Chúng ta cứ chê ông cứng lòng, nhưng chúng ta cũng vẫn cứng lòng đó thôi, bằng chứng là chúng ta chưa thực sự tin vào Kinh Thánh và các chứng cớ của Giáo Hội, thế nên đức tin của chúng ta đôi khi vẫn “nghiêng ngả” Trong khi gặp gian khổ, và chúng ta vẫn “chạy đua” về các “sự lạ” ở chỗ này hoặc chỗ nọ vì “máu xám” tò mò hoặc hiếu kỳ hơn là “máu đỏ” đức tin. Như vậy không gọi là cứng lòng tin thì gọi là gì? Đến lượt chúng ta cần kiểm chứng chính mình ngay trong lúc chống chọi với con virus Vũ Hán giữa “mùa dịch” này.

Thánh sử Gioan kể: Vào chiều ngày thứ nhất trong tuần, ngày Chúa Giêsu phục sinh, các môn đệ ở trong phòng đóng kín cửa vì họ sợ người Do-thái, trong “khoảng sợ hãi” đó có thể có phần họ “ớn” vì biết đâu họ cũng bị lôi cổ ra hành hình nếu bị phát hiện. Nếu vậy thì cũng ớn lạnh xương sống lắm. Nhưng bất ngờ Đức Giêsu đến, đứng giữa các ông và nói: “Bình an cho anh em!” Nói xong, Ngài cho các ông xem tay và cạnh sườn. Các môn đệ vui mừng vì được gặp lại Thầy, tỏ tường chứ không nghe kể lại. Rồi Ngài lại nói: “Bình an cho anh em! Như Chúa Cha đã sai Thầy thì Thầy cũng sai anh em.” Nói xong, Ngài thổi hơi vào các ông và bảo: “Anh em hãy nhận lấy Thánh Thần. Anh em tha tội cho ai thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai thì người ấy bị cầm giữ.” Thật tuyệt!

Tuy nhiên, lúc đó không có mặt tông đồ Tôma, cũng gọi là Điđymô. Sau đó, các môn đệ khác nói với ông về việc thấy Chúa nhãn tiền, nhưng ông nói chắc nịch: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin.” Coi bộ “căng” dữ nha! Nhưng không, chuyện đâu còn có đó.

Một tuần sau, các tông đồ lại quy tụ, lần này có ông Tôma. Các cửa vẫn đóng kín mít. Ngày xưa họ “cách ly” vì sợ người Do Thái. Ngày nay chúng ta “cách ly” vì sợ dịch bệnh. Lúc đó Đức Giêsu hiện đến, đứng giữa và chúc bình an cho họ. Rồi Ngài bảo ông Tôma: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa, nhưng hãy tin.” Ôi chao, ngại hết sức! Biết rồi còn nói, Thầy kỳ ghê! Ngại lắm, thế nên ông vội sụp lạy và thưa: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!” Chắc là ông không dám kiểm chứng bằng tay đâu. Đó cũng là một dạng thú tội. Chúa Giêsu nói với ông: “Vì đã thấy Thầy, nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin!” (Ga 20:29) Và Ngài cũng đang nói với mỗi tín nhân như vậy trong hoàn cảnh của chúng ta ngày nay.

Sau khi Chúa Giêsu sống lại, cả hai lần Ngài hiện ra đều vào “ngày thứ nhất trong tuần,” khi các tông đồ đang tụ họp nhau. Điều đó cho thấy việc thờ phượng Chúa ngày Chúa Nhật là việc quan trọng trong đời sống tâm linh của các Kitô hữu, đó cũng là ngày nhận phúc lành bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh trao ban cho các tín nhân.

Thánh sử Gioan cho biết thêm: Đức Giêsu đã làm nhiều dấu lạ khác nữa trước mặt các môn đệ; nhưng những dấu lạ đó không được ghi chép lại. Còn những điều đã được chép ở đây là để anh em TIN rằng Đức Giêsu là Đấng Kitô, Con Thiên Chúa, và để anh em tin mà được sự sống nhờ danh Ngài. Về đức tin, Thánh Giacôbê cũng có cách nói tương tự: “Phúc thay kẻ đặt niềm tin vào Đức Chúa và có Ngài làm chỗ nương thân.” (Gr 17:7)

Đức Kitô Giêsu là Thiên Chúa – Thiên Chúa tình yêu, giàu lòng thương xót, và yêu thương nhân loại đến cùng. (Ga 13:1) Chính vết thương nơi Thánh Tâm Ngài là ấn tín của tình yêu vô biên và vô điều kiện, là nơi tuôn trào Máu và Nước trường sinh, Nguồn Mạch Lòng Thương Xót. Cũng chính Máu và Nước đó đã làm cho viên đội trưởng Longinô sáng mắt, [2] và rồi ngay tại chân Thập Giá, khi đối diện với Ông Giêsu trên Núi Sọ vào chiều Thứ Sáu Tuần Thánh, ông đã phải thú nhận rằng Chúa Giêsu “là Con Thiên Chúa, là người công chính.” (Mt 27:59; Mc 15:39; Lc 23:47) Sự thật minh nhiên, không thể chối cãi.

Chúa Giêsu được Chúa Cha trao trọn quyền, thế nên chỉ có thể đến với Chúa Cha qua Ngài, vì Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất, là con đường, là sự thật và là sự sống. (Ga 14:6)

Năm nay, niềm vui phục sinh không tưng bừng bề ngoài, nhưng vẫn rộn rã trong lòng mỗi tín nhân. Lời Thầy Giêsu nói trước khi Ngài chịu chết và sống lại vẫn âm vang: “Anh em đừng xao xuyến! Hãy tin vào Thiên Chúa và tin vào Thầy. Trong nhà Cha Thầy, có nhiều chỗ ở; nếu không, Thầy đã nói với anh em rồi, vì Thầy đi dọn chỗ cho anh em. Nếu Thầy đi dọn chỗ cho anh em, thì Thầy lại đến và đem anh em về với Thầy, để Thầy ở đâu, anh em cũng ở đó.” (Ga 14:1-3) Lời này là động lực thúc đẩy mạnh mẽ giúp chúng ta tiến bước lữ hành cho đến cuối đường đời, khi hoàn tất mọi sự, đồng thời là lúc chúng ta được gặp và sống với Đức Kitô Phục Sinh đời đời.

Lạy Thiên Chúa chí thánh hằng thương xót, xin hướng chúng con về phía Ngài, nơi có sự bình an đích thực; xin giúp chúng con vững tin vào Con Một Ngài, Đấng đã chết và sống lại để chúng con được sống viên mãn. Cúi xin Ngài gia ân thương xót chúng con và toàn thế giới. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Phục Sinh, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

—–

 [1] Tử vi là tên một loài hoa tím – TỬ là tím, VI là huyền diệu. Khoa chiêm tinh tướng mệnh Đông phương dùng loại hoa tím này để chiêm bốc. Người Công giáo không tin, vì Thiên Chúa đã quan phòng và tiền định mọi sự.

[2] Đội trưởng Longinus (cổ ngữ Hy Lạp: Λογγῖνος, Longĩnos) kém thị lực, khi ông cầm ngọn giáo đâm vào Trái Tim Chúa Giêsu, Máu và Nước chảy theo ngọn giáo xuống tay, ông lấy tay dụi mắt và được sáng mắt, ông đã thật lòng tin Đức Kitô là Con Thiên Chúa và ông đã nên thánh, Giáo hội có đặt tượng Thánh Longinô ở Đền Thờ Thánh Phêrô (Rôma).

Về mục lục

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 2 PHỤC SINH_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Với cuộc Phục Sinh của Đức Giê-su Ki-tô, một thời đại mới bắt đầu. Vì thế, Chúa Nhật II Phục Sinh gợi lên:

Cv 2: 42-47

– Trước hết, cuộc sống mẫu mực của cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi.

1Pr 1: 3-9

– Đoạn, cuộc sống nội tâm của người Ki-tô hữu thường hằng được biến đổi bởi niềm hy vọng bao la.

Ga 20: 19-31                                                      

– Sau cùng, các Tông Đồ đã thay đổi, từ thất vọng và nghi ngờ đến niềm vui và đức tin, khi gặp gỡ Đức Giê-su đã sống lại và đang sống.

BÀI ĐỌC I (Cv 2: 42-47)

Trong suốt Mùa Phục Sinh, Bài Đọc I được trích dẫn từ sách Công Vụ Tông Đồ. Tác phẩm này của thánh Lu-ca, tiếp theo sau sách Tin Mừng của ngài, cấu tạo nên, cùng với các thư của thánh Phao-lô, chứng liệu cốt yếu về cuộc sống của Giáo Hội tiên khởi.

Thánh Lu-ca là một lương dân gốc Hy-lạp trở lại đạo. Thánh nhân kinh ngạc trước sức lan tỏa quá nhanh chóng của Ki-tô giáo. Vì thế, thánh nhân tìm kiếm lời giải thích và khám phá câu giải đáp: trước tiên, ở nơi tác động của Chúa Thánh Thần (sách “Công Vụ Tông Đồ” cũng được gọi là sách “Tin Mừng của Chúa Thánh Thần”), nhưng cũng ở nơi lời chứng mạnh mẽ của các Tông Đồ và đời sống gương mẫu của các Ki-tô hữu tiên khởi.

Thánh Lu-ca phác họa ba bức tranh mô tả đời sống của các Ki-tô hữu tiên khởi, chắc chắn được lý tưởng hóa khá nhiều, nhưng thánh nhân muốn đưa ra một khuôn mẫu và thúc đẩy mọi người cùng nhau ra sức sống lý tưởng Ki-tô giáo. Thật ra cộng đồng Kitô hữu tiên khởi, cộng đồng Giê-ru-sa-lem, đã sống mạnh mẽ niềm tin của mình, dưới tác động của Chúa Thánh Thần và sự hướng dẫn của các Tông Đồ.

Vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm A này, chúng ta chiêm ngắm bức tranh thứ nhất (Cv 2: 42-47), bức tranh thứ hai (Cv 4: 32) vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm B, và bức tranh thứ ba (Cv 5: 12) vào Chúa Nhật II Phục Sinh năm C. Bằng những đường nét đặc trưng, thánh Lu-ca tổng hợp bầu nhiệt huyết của cộng đoàn Ki-tô hữu cách tuyệt vời: chuyên cần lắng nghe giáo huấn của các Tông Đồ, luôn luôn sống hiệp thông huynh đệ, siêng năng tham dự lễ bẻ bánh và cầu nguyện không ngừng. Tác giả trở lại trên những điểm khác nhau này, theo nguồn cảm hứng của mình, chứ không theo trình tự hợp lý.

1. Chuyên cần lắng nghe giáo huấn của các Tông Đồ

Thánh Lu-ca đặt ưu tiên giáo huấn của các Tông Đồ. Chính trên lời chứng của các ngài mà niềm tin của Giáo Hội tựa vào. Giáo huấn này, được lặp đi lặp lại không ngừng, sẽ là nền tảng của việc soạn thảo các sách Tin Mừng sau này.

“Mọi người đều đem lòng kính sợ, vì thấy các Tông Đồ làm nhiều việc phi thường, cùng nhiều dấu lạ”. Quả thật, sách Công Vụ kể lại một số những việc phi thường để bảo đảm cho giáo huấn của các ngài. Những phép lạ này cho thấy có một sự nối kết liên tục giữa hoạt động của các Tông Đồ và hoạt động của Đức Giê-su.

2. Luôn luôn sống hiệp thông huynh đệ

Chắc chắn thánh Lu-ca mượn thuật ngữ “hiệp thông” (“koimonia”) từ thánh Phao-lô, vì từ ngữ này chúng ta không bao giờ gặp thấy trong các sách Tin Mừng, nhưng thánh Phao-lô sử dụng nhiều lần. Vả lại, thánh Lu-ca sử dụng từ ngữ này chỉ một lần ở nơi này.

Từ “hiệp thông” này, trước hết chỉ ra mọi người “đồng tâm nhất trí”. Sách Công Vụ nhấn mạnh các Ki-tô hữu tiên khởi “một lòng một ý” với nhau. Từ “hiệp thông” này cũng hàm chứa ý tưởng tượng thân tương ái: “Họ để mọi sự làm của chung; họ đem bán của cải đất đai, lấy tiền chia cho nhau, tùy theo nhu cầu của mỗi người”. Thánh Lu-ca sẽ khai triển “cộng đoàn bỏ mọi sự làm của chung” này trong bức tranh thứ hai: “Không một ai coi bất cứ cái gì mình có là của riêng, nhưng đối với họ, mọi sự đều là của chung” (Cv 4: 32). Chúng ta đừng quên rằng thánh Lu-ca là tác giả Tin Mừng về đức nghèo khó vật chất. Về khía cạnh này, thánh nhân nhấn mạnh giáo huấn của Đức Ki-tô và thích nhắc nhớ rằng lý tưởng Tin Mừng đã được thực hành ngay từ buổi đầu.

Như đa số các cộng đoàn Ki-tô hữu tiên khởi, cộng đoàn Giê-ru-sa-lem có lẽ đa số thuộc tầng lớp xã hội nghèo hèn, trong đó vài người thậm chí sống trong cảnh túng thiếu, như trường hợp các bà góa, nếu không được trợ cấp sẽ phải lâm cảnh ngặt nghèo như được nêu lên sau này (Cv 6: 1).

Thật ra, truyền thống Do thái giáo đã thực hiện tình tương thân tương ái như vậy rồi, đặc biệt ở Giê-ru-sa-lem. Hễ vào áp lễ sa-bát, người ta phân phát thực phẩm cho những người nghèo khổ nhất. Có lẽ cộng đoàn Ki-tô hữu được gợi hứng từ tổ chức này và đã mở rộng ra cho đến việc đặt mọi sự đều là của chung và hưởng theo nhu cầu hằng ngày. Nhưng điều cốt yếu chính là tinh thần mới chi phối việc tương thân tương ái triệt để này: tinh thần huynh đệ chân thật ở đó không còn có những phân chia giai cấp xã hội và ở đó mọi người đều coi nhau là “anh chị em”.

Cuối cùng, ở nơi sự hiệp thông mà những Ki-tô hữu tiên khởi sống, chúng ta nhận thấy một sắc thái cánh chung: chờ đợi cuộc tụ họp sau cùng. Đây là niềm hy vọng không thể nào chối cãi ở giữa lòng thế hệ Ki-tô hữu tiên khởi.

3. Siêng năng tham dự lễ bẻ bánh

Các tín hữu “siêng năng tham dự lễ bẻ bánh”, đây là diễn ngữ thánh Lu-ca thường dùng để chỉ “bàn tiệc Thánh Thể”.

Việc cử hành này, diễn ra trong các tư gia, bao gồm cầu nguyện và rao giảng (chúng ta biết như vậy nhờ những đoạn Công Vụ Tông Đồ khác). Thánh Lu-ca phân biệt rất rõ nét giữa bữa ăn hằng ngày với “lễ bẻ bánh”“Còn lễ bẻ bánh thì làm tại tư gia, và họ ăn uống với nhau rất đơn sơ vui vẻ”. Tuy nhiên, tự nguồn gốc, dường như bàn tiệc Thánh Thể đã được liên kết với một bữa ăn. Chúng ta đừng quên rằng vào lúc đó những Ki-tô hữu đầu tiên đều xuất thân từ Do thái giáo; ấy vậy, bữa ăn Do thái luôn luôn mặc lấy tính chất thánh thiêng, nhất là bữa ăn tối, bữa ăn chính trong ngày. Sẽ không còn như vậy nữa khi những người Ki-tô hữu gốc lương dân gia nhập Giáo Hội mỗi ngày thêm đông. Những bữa ăn này mất đi tính chất thánh thiêng của nó; sẽ còn có những lạm dụng như thánh Phao-lô tố cáo tại cộng đoàn Ki-tô hữu Cô-rin-tô (1Cr 11); vì thế, phải tách riêng bữa ăn của Chúa ra khỏi bữa ăn thường ngày. Sự phân biệt này được thực hiện trong bản văn này của thánh Lu-ca. Ở nơi khác, thánh ký cũng kể ra việc chuẩn bị bàn tiệc Thánh Thể kèm theo việc chay tịnh: “Một hôm, đang khi họ cử hành  việc thờ phượng Chúa và ăn chay…” (Cv 13: 2).

Thánh Lu-ca nhấn mạnh niềm vui ngự trị ở nơi các bữa ăn này. Dụng ngữ có một âm vang tôn giáo. Đây cốt yếu là một niềm vui thánh thiện chứ không niềm vui phàm tục (vả lại, những bữa ăn này thì đạm bạc do cộng đoàn đóng góp). Chúng ta biết rồi, trong Tin Mừng của mình, thánh Lu-ca luôn luôn nhấn mạnh niềm vui mà lời loan báo Tin Mừng đem lại. Trong sách Công Vụ cũng thế, đây thật sự là niềm vui thời thiên sai.

4. Cầu nguyện không ngừng

Cuối cùng, trong đời sống Ki-tô hữu chính thống, điểm nòng cốt là cầu nguyện: “Họ chuyên tâm cầu nguyện”. Trước hết, đây là những lời cầu nguyện đặc thù Ki-tô giáo được cất lên giữa cộng đoàn. Nhưng ở đoạn cuối, thánh Lu-ca ám chỉ đến việc các Ki-tô hữu tham dự những kinh nguyện hằng ngày với các tín hữu Do thái trong Đền Thờ: hai lần mỗi ngày đều có những kinh nguyện và lễ toàn thiêu trên bàn thờ vào lúc chín giờ sáng và vào lúc ba giờ chiều.

Ngay liền sau đoạn văn hôm nay, thánh Lu-ca viết: “Một hôm, ông Phê-rô và ông Gioan lên Đền Thờ, vào buổi cầu nguyện giờ thứ chín” (tức ba giờ chiều). Vào lúc này, chưa xảy ra đoạn tuyệt giữa Do thái giáo với Ki-tô giáo. Trái lại, tâm tình của các Ki tô hữu tiên khởi tiếp nối các tín đồ Do thái giáo khi đặt Đức Giê-su vào cương vị của sự nối tiếp này. Các Tông Đồ chân thành tự đặt mình giữa anh em đồng đạo Do thái giáo của mình: “Họ ca tụng Thiên Chúa, và được toàn dân thương mến”. Thánh Lu-ca kết thúc bức tranh thứ nhất về đời sống của người Ki-tô hữu tiên khởi bằng cách ghi nhận rằng mỗi ngày số lượng người gia nhập đạo càng gia tăng: “Và Chúa đã cho số người được cứu độ gia nhập cộng đoàn ngày thêm đông”.

BÀI ĐỌC II (1Pr 1: 3-9)

Chúng ta bắt đầu đọc thư thứ nhất của thánh Phê-rô. Thư này sẽ được tiếp tục đọc trong suốt bốn Chúa Nhật liên tiếp. Thánh Phê-rô viết thư này gửi cho các cộng đoàn Ki-tô hữu miền Tiểu Á, họ gặp phải những khó khăn và trải qua những gian nan thử thách. Vì thế, vị thủ lãnh Giáo Hội viết thư để khích lệ họ. Thư này, thánh nhân viết từ Rô-ma vào khoảng năm 63 hay 64, cốt là một loạt những lời khuyên bảo luân lý, đặt nền tảng trên những nhắc nhở đạo lý.

Hôm nay, chúng ta đọc phần đầu của Thư này. Ngay sau địa chỉ và lời thăm hỏi thường lệ, chủ đề là niềm hy vọng xuất phát từ cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô.

1. Chúc tụng Thiên Chúa, Thân Phụ Đức Giê-su

Thánh Phê-rô bắt đầu lời khuyến dụ của mình với biểu thức đặc thù Do thái: “Chúc tụng Thiên Chúa!”. Thánh Phao-lô cũng bắt đầu thư thứ hai gửi các tín hữu Cô-rin-tô và thư gửi các tín hữu Ê-phê-xô với cùng biểu thức “chúc tụng” như vậy. Lời chúc tụng của dân Ít-ra-en là tiếng kêu đầy thán phục và biết ơn đối với những ân huệ Thiên Chúa ban. Việc con người chúc tụng Thiên Chúa xem ra khác thường. Thật ra, lời chúc tụng bao gồm một chuyển động kép: những ân ban đến từ Thiên Chúa và tiếng reo vui của người thụ hưởng.

Tuy nhiên, trong khi dân Ít-ra-en chúc tụng Thiên Chúa của các tổ phụ là Áp-ra-ham, I-sa-ác và Gia-cóp, thì vị Tông Đồ chúc tụng Thiên Chúa, “Thân Phụ Đức Giê-su”. Thiên ân đầu tiên đáng chúc tụng là “ơn tái sinh” mà cuộc Phục Sinh của Đức Ki-tô ban cho chúng ta. Chắc chắn đây là lời ám chỉ trực tiếp đến phép Thánh Tẩy. Lời mào đầu này rất giống với bài giảng về phép Thánh Tẩy, cho dù văn mạch có một tầm mức khái quát hơn.

2. Niềm hy vọng Ki-tô giáo

Đối tượng của niềm hy vọng Ki-tô giáo là “gia tài không thể hư hoại”. Diễn ngữ: “gia tài” trong Cựu Ước được dùng để chỉ trước tiên Đất Hứa, đất Ca-na-an, sau đó được hiểu theo nghĩa bóng là vương quốc thời Thiên Sai, vương quốc sắp đến; từ nay, vương quốc này được dành sẵn cho các Ki-tô hữu. Đây là một niềm hy vọng “sống động” được đặt nền tảng trên sự kiện Phục Sinh của Đức Giê-su.

Thánh Phê-rô mượn hình ảnh quân sự: “được Thiên Chúa quyền năng gìn giữ,” như người lính canh gìn giữ thành phố khỏi mọi cuộc tấn công từ bên ngoài.

“Hầu được hưởng ơn cứu độ Người đã dành sẵn, và sẽ tỏ bày ra trong ngày sau hết”. Viễn cảnh cánh chung này, được xem như rất gần, là một nét đặc trưng đối với thế hệ Ki-tô hữu tiên khởi, họ sống trong niềm hy vọng vào ngày Quang Lâm của Đức Ki-tô sắp đến.

Sau khi đã đặt những nền tảng của niềm hy vọng và xác định đối thượng của nó, vị thủ lãnh Giáo Hội chỉ cho thấy những thành quả của nó: đức kiên vững trong những gian truân và thậm chí niềm vui khôn tả ở giữa những gian nan thử thách.

3. Kiên vững trong đức tin

Thánh Phê-rô mời gọi các tín hữu của mình, khi đối mặt với “trăm chiều thử thách,” phải kiên tâm bền chí trong đức tin. Những gian nan thử thách này được xác định ở Cv 3: 15-18. Đức tin được tinh luyện khi trải qua lò đau khổ. Đức kiên vững của anh em sẽ là nguồn mạch “vinh quang và danh dự”, khi “Đức Giê-su Ki-tô tỏ hiện” vào ngày chung thẩm. Vì thế, đối với người Ki-tô hữu, thời gian thử thách vẫn là thời gian chan chứa niềm vui.

4. Đức tin và niềm vui

Thánh Phê-rô liên kết một cách mạnh mẽ niềm vui và đức tin. Thánh nhân nhắc lại điều này đến hai lần: “Anh em hãy hớn hở vui mừng” và “lòng chan chứa niềm vui khôn tả”. Niềm vui phát sinh từ niềm xác tín vào ơn cứu độ, ơn cứu độ này là ân huệ của Chúa Cha và được cuộc Phục Sinh của Đức Kitô đảm bảo. “Lời chúc tụng” ban đầu cũng đã xác định như vậy.

Thánh Tông Đồ đã sống trong ân nghĩa mật thiết với Đức Giê-su, vì thế thánh nhân hiểu rõ hơn ai hết rằng một niềm tin mà dựa trên lời chứng của kẻ khác thì quả thật khó khăn hơn nhiều. Vì thế, thánh nhân tỏ lòng kính trọng niềm tin của những tín hữu: “Anh em chưa bao giờ thấy Người, mà vẫn yêu mến, chưa được giáp mặt, nhưng lòng vẫn kính tin”. Đó cũng là lời chúc phúc của Đức Giê-su mà Tin Mừng hôm nay nhắc nhở cho chúng ta: “Phúc cho những ai không thấy mà tin”. Lời chúc phúc khác: “Phúc thay cho anh em khi người ta bách hại anh em vì Thầy”, được ẩn chứa trong những lời khuyến dụ của thánh Phê-rô và chạy xuyên suốt bức thư này. Đây là niềm vui đặc thù của người tín hữu, niềm vui mà thánh Phao-lô kêu gào giữa những gian nan thử thách của mình. Chesterton nói: “Niềm vui là bí ẩn vĩ đại của Kitô giáo”.

TIN MỪNG (Ga 20: 19-31)

Đoạn Tin Mừng này là một trong những đoạn Tin Mừng thiết lập niềm xác tín của chúng ta: Đức Giê-su của niềm tin đích thật là Đức Giê-su của lịch sử. Các Tông Đồ chứng thực biến cố Phục Sinh, hơn nữa, nhờ vào sự cứng tin của một trong số họ, các ngài được hưởng một sự kiểm chứng vài ngày sau đó.

Theo truyền thống, đoạn Tin Mừng này được đọc vào Tuần Bát Nhật Phục Sinh, vì thánh ký nói với chúng ta rằng Đức Giê-su hiện ra cho thánh Tô-ma “tám ngày sau đó”. Quả thật, chúng ta đọc bài trình thuật thành hai giai đoạn: Chúa Giê-su hiện ra cho mười Tông Đồ đúng vào chiều Phục Sinh (20: 19-25), và Ngài hiện ra đặc biệt cho thánh Tô-ma một tuần sau đó (20: 26-29).

1. Đức Giê-su phục sinh hiện ra cho mười Tông Đồ (20: 19-25)

“Vào chiều ngày ấy, ngày thứ nhất trong tuần”, tức là đúng vào buổi chiều biến cố Phục Sinh. Việc chỉ rõ thời điểm này rất quý: “ngày thứ nhất trong tuần”, tức là ngày mà những người Ki-tô hữu tiên khởi đã chọn rất sớm cho những buổi hội họp của họ, như vậy nhấn mạnh tính cách Phục Sinh của việc cử hành Thánh Thể. Cũng vậy, việc Chúa Giê-su xuất hiện cho thánh Tô-ma tám ngày sau đó, cũng được định vị vào “ngày thứ nhất trong tuần”.

Các Tông Đồ cùng nhau quy tụ lại, chỉ có mười vị, vì vắng mặt thánh Tô-ma, thánh nhân xem ra đã không tha thiết gì đến cuộc tụ họp này. Chúng ta có thể phỏng đoán rằng chính thánh Phê-rô đã quy tụ các ông để thông báo cho các ông biết những biến cố vừa mới xảy ra: khám phá ngôi mộ trống, chứng kiến đồ liệm được sắp xếp gọn gàng ngăn nắp, những lời chứng của các người phụ nữ, trong số đó bà Ma-ri-a Mác-đa-la quả quyết là mình đã đích thân gặp Đức Giê-su và Ngài đã nói với bà.

Chúng ta đoán các Tông Đồ đã gặp nhau trong bầu khí vừa nghi nan vừa hy vọng, còn cả sợ hãi: “Nơi các môn đệ ở, các cửa đều cửa đều đóng kín, vì các ông sợ người Do thái”“Người Do thái” trong Tin Mừng Thứ Tư, trước tiên chỉ rõ những nhà lãnh đạo Do thái tại Giê-ru-sa-lem. Những người này đã kết án tử Thầy của họ, phải chăng bây giờ họ đang truy lùng các môn đệ của Ngài?

Và này Đức Giê-su bất ngờ hiện ra giữa các ông dù cửa đóng then cài; Ngài hiện diện ở giữa lòng nỗi sợ hãi và xao xuyến của các ông, như Ngài đã đồng hành bên cạnh nỗi buồn phiền của hai môn đệ trên đường Em-mau. Nỗi sợ hãi và buồn phiền sẽ biến thành niềm vui.

A- Bình an cho anh em

Đây là lời chào hỏi thông thường theo tập quán của dân Ít-ra-en (“Shalom”), nhưng lời chào từ môi miệng của Đấng Phục Sinh không bao giờ đơn thuần là lời chào hỏi thông thường. Đức Giê-su đem đến sự bình an của Ngài mà Ngài đã hứa cho những môn đệ này, những người đã bỏ rơi Ngài vì chán nản và thất vọng. Ngài đem đến sự bình an qua sự hiện diện thân tình của Ngài và sự tha thứ của Ngài: không một lời quở trách, không một ám chỉ đến những khuyết điểm của họ, ngay cả họ đã bỏ mặc Ngài một mình trong cuộc Thương Khó và Tử Nạn của Ngài.

Để giúp họ nhận ra Ngài, Đức Giê-su cho các ông xem những vết thương của Ngài như chiến tích khải hoàn và như chứng thực thân thể phục sinh của Ngài đồng nhất với thân thể khổ nạn của Ngài.

Ở đây chúng ta nhận thức được tầm quan trọng của việc khám phá ngôi mộ trống: một mặt, không có một thân xác bị hư hoại trong mồ; mặt khác, không là một bóng ma hiện ra cho các môn đệ, nhưng là một thân thể duy nhất, đang sống, có thể đụng chạm, mang lấy những vết thương của cuộc khổ hình. Không nghi ngờ gì nữa, “lúc đó, các ông vui mừng”.

Chúng ta ghi nhận rằng thánh Gioan nói: “Người cho các ông xem tay và cạnh sườn”, trong khi thánh Lu-ca, trong bài trình thuật song đối, viết: “Người đưa tay chân cho các ông xem” mà không kể ra vết thương ở cạnh sườn của Ngài. Thánh Gioan là người môn đệ duy nhất đã kể ra chi tiết về một người lính Rô-ma lấy ngọn giáo đâm thủng cạnh sườn của Đức Ki-tô; thánh nhân đã chứng kiến máu cùng nước chảy ra, ân huệ cuối cùng của Chúa Ki-tô sau khi đã chết. Thánh Gioan đã thấu hiểu ở nơi sự kiện này một dấu chỉ biểu tượng: dấu chỉ về việc sinh hạ Giáo Hội bởi phép Thánh Tẩy và phép Thánh Thể. Ở trong bài trình thuật hôm nay, thánh Gioan nhấn mạnh thêm một lần nữa. Nói một cách chính xác, Giáo Hội sẽ sinh ra, vào buổi chiều Phục Sinh, trong hơi thở Thần Khí và qua việc sai các Tông Đồ ra đi thi hành sứ vụ.

B- Sai đi thi hành sứ mạng

Trong Tin Mừng của mình, thánh Gioan nhấn rất mạnh khía cạnh này của con người Đức Giê-su: Ngài là Đấng được Chúa Cha sai đến. Đó là lý do tại sao thánh ký không bao giờ ban cho các môn đệ danh xưng “Tông Đồ”, vì danh xưng này có nghĩa “người được sai đi”. Chỉ một mình Đức Giê-su xứng đáng với danh xưng này bởi vì Ngài là Đấng duy nhất được Chúa Cha sai đi, nhưng bây giờ Đấng Phục Sinh lại sai các môn đệ của mình ra đi tiếp nối sứ mạng của Ngài: “Như Chúa Cha đã sai Thầy, thì Thầy cũng sai anh em”. Như vậy, theo Tin Mừng Gioan, Chúa Cha là nguồn sai đi của Chúa Giê-su, còn Đức Giê-su Phục Sinh là nguồn sai đi của các môn đệ Ngài.

Có một mâu thuẫn đáng ngạc nhiên cho những người môn đệ này. Họ đang giam mình giữa bốn bức tường, trong căn phòng cửa đóng then cài, thu mình lại trong sợ hãi; ấy vậy, Đức Giê-su truyền lệnh ra đi thi hành sứ mạng: gặp gỡ và loan báo Tin Mừng cho hết mọi người không trừ một ai, như Ngài đã hứa.

Thánh Mát-thêu đặt việc sai đi thi hành sứ mạng vào cuối sách Tin Mừng của mình, ở đó Đức Giê-su công bố: “Anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Mt 28: 19). Tuy nhiên, việc sai đi thi hành sứ mạng trong Tin Mừng Gioan còn long trọng hơn nhiều trong Tin Mừng Mát-thêu.

C- Hơi thở Thần Khí

Trong Tân Ước, diễn ngữ này chỉ được gặp thấy ở đây: “Nói xong, Người thổi hơi vào các ông…”. Động từ được dùng ở đây được gặp thấy trong đoạn văn của sách Sáng Thế về cuộc sáng tạo con người: Đức Chúa “thổi sinh khí vào lỗ mũi, và con người trở thành một sinh linh” (St 2: 7; Kn 15: 11), cũng như trong bản văn Ê-dê-ki-en về sự hồi sinh của các bộ xương khô: “Hỡi thần khí, hãy đến thổi vào những vong nhân này cho chúng được hồi sinh” (Ed 37: 9). Chúa Giê-su làm cho các môn đệ Ngài trở thành những con người mới và ban cho họ quyền tha thứ tội lỗi, quyền này cho đến nay chỉ thuộc về Thiên Chúa.

D- Tha thứ tội lỗi

Thánh Gioan diễn tả quyền này theo biểu thức sê-mít: “tha thứ hay cầm giữ”. Thánh Mát-thêu sử dụng một cặp đối nghịch tương tự: “cầm buộc hay tháo cởi” (Mt 16: 19; 18: 18).

“Tha thứ hay cầm giữ”“cầm buộc hay tháo cởi” là những biểu thức được Do Thái giáo dùng để cấm hay buộc. Các biểu thức này chỉ ra rằng các vị lãnh đạo Do thái được quyền khai trừ hay hội nhập một tín đồ vào cộng đoàn. Đức Giê-su mở rộng vô cùng tận ý nghĩa của biểu thức này. Cốt yếu là quyền tha tội được trao ban cho Giáo Hội. Chúng ta đừng hiểu lầm biểu thức Do thái này. Biểu thức Do thái có chủ ý sử dụng cặp đối xứng giữa khía cạnh khẳng định (tha thứ) và khía cạnh phủ định (cầm giữ), khía cạnh thứ hai không có cùng giá trị với khía cạnh thứ nhất, nhưng nhằm mục đích tăng cường khía cạnh thứ nhất. Vì thế, biểu thức này không hệ tại ở nơi việc hạn chế ơn tha thứ của Thiên Chúa. Ngoài ra, Giáo Hội có thể “cầm giữ” một tội nhân trong khi mong chờ sự ăn năn hối cải hữu hiệu hơn.

Tha thứ tội lỗi là thành quả cốt thiết phát sinh từ cuộc Tử Nạn và Phục Sinh của Đức Ki-tô. Chính đó là lý do tại sao thánh Gioan đặt việc Đức Kitô trao ban ơn tha tội ngay từ lần đầu tiên Đấng Phục Sinh hiện ra với các môn đệ Ngài. Tại thánh Lu-ca, Đức Giê-su nhắc lại cho các môn đệ ân huệ này, ngay trước khi lên trời: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đức kitô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại, phải nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24: 45-47).

2. Đức Giê-su Phục Sinh hiện ra cho thánh Tô-ma (20: 26-29)

Chắc chắn thánh Tô-ma đã gắn bó mật thiết với Chúa Ki-tô; thánh nhân đã yêu mến Ngài và đã tin vào Ngài. Vào lúc lên Giê-ru-sa-lem lần sau cùng, với cả bầu nhiệt huyết, thánh nhân đã dõng dạc tuyên bố: “Cả chúng ta nữa, chúng ta cũng đi để cùng chết với Thầy” (Ga 11: 16). Nhưng ông đã không mong chờ một cái chết ô nhục trên thập giá; cái chết này đã làm ông vỡ mộng. Nỗi thất vọng, buồn phiền đã khiến ông tách riêng một mình với các bạn đồng môn. Vốn là một con người thực tế, xưa kia ông đã đặt cho Đức Giê-su một câu hỏi thiết thực và thẳng thắn: “Thưa Thầy, chúng con không biết Thầy đi đâu, làm sao chúng con biết được đường?” (Ga 14: 5), bây giờ ông từ chối tin vào sự Phục Sinh nếu không có bằng chứng được ông đích thân kiểm chứng. Chúng ta hiểu thánh nhân. Chúng ta nhận ra con người Tô-ma đang ngủ trong chính bản thân của chính chúng ta: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người, nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người, tôi chẳng có tin”.

A- Đức tin của thánh Tô-ma

Đức Giê-su động lòng thương người môn đệ đầy nhiệt huyết đang đắm mình trong nỗi phiền muộn, trong khi các môn đệ khác hoan hỉ mừng vui; vì thế, Ngài sẵn sàng đáp ứng những đòi hỏi của ông: “Đặt ngón tay vào đây, và hãy nhìn xem tay Thầy. Đưa tay ra mà đặt vào cạnh sườn Thầy…”. Chắc hẳn thánh Tô-ma đã không làm như thế, vì trái với cung giọng của Tin Mừng Gioan. Đúng hơn phải lặp lại những gì thánh Gioan đã nói về người môn đệ Chúa yêu khi vừa mới bước chân vào ngôi mộ: “Ông đã thấy và đã tin”. Cũng vậy, thánh Tô-ma đã ngộ ngay lập tức trước bằng chứng mà Đấng Phục Sinh đã trưng ra cho ông thấy mà không cần phải kiểm chứng. Lập tức, ông tuyên xưng đức tin của mình: “Lạy Chúa của con, lạy Thiên Chúa của con!”.

B- Đức tin của thánh Tô-ma và đức tin của các tín hữu mọi thời

Trong các sách Tin Mừng, đây là “lần đầu tiên” tước hiệu “Thiên Chúa” được ban cho “Đức Giê-su”. Thử hỏi còn dấu lạ nào bày tỏ Thần Tính của Ngài rực rỡ hơn sự Phục Sinh của Ngài? Lời cảm thán rất riêng tư của Tô-ma diễn tả tâm tình biết ơn của ông vì Đức Ki-tô đã quan tâm đặc biệt đến ông, Ngài không bỏ mặc ông trong nỗi thất vọng và phiền muộn.

Chúa Giê-su nói: “Vì đã thấy Thầy nên anh tin”. Đoạn, nghĩ đến những người đã không bao giờ được diễm phúc như ông, Chúa Giê-su ngỏ lời với đám đông những tín hữu của mọi thời: “Phúc thay những người không thấy mà tin!”. Nhưng lời chúc phúc này, mối phúc độc nhất của Tin Mừng Gioan, trước hết, rõ ràng dựa trên lời chứng của Nhóm Mười Một, mà lời chứng của thánh Tô-ma là thấm thía nhất.

Về mục lục

BÌNH AN CỦA ĐẤNG PHỤC SINH

Lm. Jos DĐH.

Những quan tâm của con người chắc không phải là cơm áo gạo tiền, những ưu tư của xã hội hẳn cũng chẳng đơn giản là sức khoẻ, môi trường, nhưng liệu có phải là hạnh phúc, là niềm vui gia đình, là đất nước hùng mạnh không ? Biết bao vấn đề xã hội, gia đình, không lời giải, và ít nhiều giải pháp tình thế: cắn răng chịu vậy, nín thở qua cầu, hãy bình tĩnh, sau cơn mưa trời lại sáng … ! Đồng ý rằng: vui một đêm, người ta có thể thành tiên ; phiền một đêm, có thể thành cú. Dù là lý thuyết hay thực hành, đối diện với khổ đau, thất bại, mấy ai đủ lạc quan, sống dửng dưng vô tư như đứa trẻ lên ba ?

Đại dịch Covid-19 thật khủng khiếp cho cả thế giới: người giầu, người nghèo, người tài giỏi, đất nước văn minh, lạc hậu, đều ít nhiều phải hoang mang, hụt hẫng. Sự kiện Đức Giêsu chịu chết và sống lại, không làm cho người Do-thái, hay nhân loại phải lo lắng sợ hãi như “đại-dịch”, mà đúng, là dấu chỉ lòng thương xót được Thiên Chúa rộng ban cho vũ trụ vạn vật này. Dịch bệnh lâu mau rồi cũng qua đi, tuỳ theo mỗi người, hoặc từng quốc gia sẽ thấm thía về bài học: tự nhiên và siêu nhiên, gia đình và xã hội, tôn giáo hay vô thần, tất cả chỉ có ý nghĩa trong chữ “tình” chứ không phải chứ “lý”. Đấng Kitô phải trải qua nhiều đau khổ, sự chết, và sống lại, Ngài đến với các học trò trong bầu khí họ đang liên đới cầu nguyện, Ngài không than trách, Ngài còn cho nhân loại hiểu: “bình an của Đấng Phục Sinh”, mới thực là cần kíp.

Từ kinh nghiệm nơi cuộc sống, chúng ta có thể nói: mỗi vết thương đau, đều là một sự trưởng thành và mất mát, nhưng chúng sẽ dạy ta về giá trị của mọi thứ. Đức Giêsu chịu chết và mai táng trong mồ là điều day dứt với các môn đệ, Đức Kitô từ cõi chết sống lại, Ngài đến đang khi các học trò bên nhau hội họp, cửa đóng then cài, phản ánh con người thật của các ông, Đấng Phục Sinh hẳn còn muốn khơi gợi lại thông điệp: Thiên Chúa là Đấng giầu lòng thương xót. Đấng Phục Sinh chào chúc, ban bình an, ban Thánh Thần tình yêu cho các học trò, khác xa với suy nghĩ cũng như mong chờ của các ông, đó là “công lý báo thù”. Đấng Phục Sinh cho các ông xem: tay chân và cạnh sườn, các ông vui mừng nhận ra Thầy đã sống lại. Trời cao, đất rộng, nhưng quan trọng hơn là mỗi người nhận ra tình yêu của Đấng, hằng cho chúng ta cơ hội đạt tới hạnh phúc ở hiện tại và tương lai.

Bằng suy nghĩ tự nhiên và cũng không phải vô tình, chúng ta sẽ thú vị hơn khi nhận ra: tại sao “Bình an của Đấng Phục Sinh”, chính là khởi đầu, là trọng tâm, dẫn dắt các môn đệ đi trọn vẹn sứ mạng theo Đức Kitô. Tại sao người xưa lại nói: áo gấm thêu hoa, chẳng bằng tặng than củi giữa mùa đông tuyết lạnh. Bình an và tình yêu hiệp thông, không thể thiếu nơi Thầy Giêsu trước sứ mạng cứu độ. Bình an của Đấng Phục Sinh, cũng sẽ là cội nguồn từ Thiên Chúa là Cha chảy tràn đến các môn đệ, đến với tất cả những ai tin và theo Đấng Kitô. Tiền vàng, lý lẽ, sức mạnh binh đao, cũng không thể thiết thực cho bằng sự ấm áp của tình yêu thương giúp ta vượt qua giá lạnh. Bình an của Đấng Phục Sinh đến với các môn đệ sẽ mãi còn mới và thiết thực, trí lòng các ông vui, hạnh phúc, nhưng chắc chắn nước mắt các ông phải tuôn trào.

Bình an của Đấng Phục sinh nối kết với tình yêu Thánh Thần, buổi chiều ngày thứ nhất trong tuần hôm đó, Đấng sống lại từ cõi chết đã mở lòng thương xót Chúa cho các học trò, cho riêng Tôma, và cho toàn thể nhân loại hôm nay. Đấng Kitô đã cho các môn đệ cảm nhận mầu nhiệm tử nạn phục sinh, cho ông Tôma nhìn tay chân, và mời ông đặt ngón tay ông vào cạnh sườn Chúa. Bình an của Đấng Kitô sẽ còn thức tỉnh nhân loại: “chớ cứng lòng, nhưng hãy tin”. Đấng Phục Sinh biết rõ các môn đệ, và cả chúng ta hôm nay, mỗi người không thể sống mà thiếu tình yêu và lòng thương xót Chúa. Mỗi người không thể tồn tại khi thiếu bình an và Thánh Thần tác động, Đấng Kitô có lý do để nhắc với từng người về điều cần thiết: “phúc cho những ai không thấy mà tin”.

Nhân tố quyết định khi xem xét một người, chính là tâm hồn, Đấng Phục Sinh sẽ không ban vật chất, quyền lực, không xét công trạng của ta. Đấng Phục Sinh sẽ ban bình an, Thánh Thần tình yêu cho con người, qua đó mỗi người hãy sử dụng tự do của ơn ban mà cảm nhận lòng thương xót Chúa. Tình yêu, niềm vui, hoặc ơn ban, hạnh phúc, tuỳ thuộc mỗi người nhận lãnh, cảm nếm. Đấng Phục Sinh trở nên dấu chỉ vĩ đại cho các học trò, cho những ai sống hiệp thông tín thác trong cầu nguyện. Gia đình nào chẳng có khổ đau, xã hội nào mà không có bất công, thời đại nào mà chẳng có hận thù, chiến tranh, khủng bố, dịch bệnh … Chỉ có tình yêu, lòng thương xót Chúa thì không thay đổi, chỉ có “bình an của Đấng Phục Sinh”, là phương dược hữu hiệu Chúa đang thức tỉnh những ai muốn đạt tới hồng ân cứu độ. Amen.

Về mục lục

SUY NIỆM TÌNH YÊU CỨU ĐỘ

Lm. Phêrô Nguyễn Trọng Đường

Sau biến cố đau thương của Thầy Chí Thánh Giêsu trên đỉnh đồi Can vê cũng như cái chết tất tưởi và việc mai táng vội vã trong huyệt đá đã khiến cho các phụ nữ một đêm thấp thỏm không ngủ được và đã ra mồ từ sáng sớm để mong được ướp xác Thầy lại cho xứng đáng là nghĩa cử yêu thương.

Giờ phút Đức Giê-su tắt hơi thở, cũng chính là lúc các môn đệ, các phụ nữ và Mẹ của Ngài đã cảm nhận thật sâu lắng về nỗi đau buồn man mác nhớ thương đến dường nào! Sự lo lắng và đau buồn ấy không chỉ nghĩ đến Đức Giê-su mà có lẽ cũng phải nghĩ đến thân phận của kiếp nhân sinh.

Đức Giê-su đã chết! Tất cả nghĩ rằng, những phép lạ làm rạng danh cho ta nay đã kết thúc. Tất cả sự thương mến với mỗi người giờ đây không còn. Niềm vui nơi Thầy Giê-su đã chấm hết.

Nhưng không, chính Ngài đã đi trọn con đường theo lệnh truyền của Chúa Cha và đã ứng nghiệm lời Kinh Thánh: “Có lời Kinh Thánh chép rằng: Đấng Ki-tô phải chịu khổ hình, rồi ngày thứ ba, từ cõi chết sống lại”(Lc 24,47). Ngài trở thành con đường Cứu độ và lẽ sống cho chúng ta. Ngài trở thành niềm vui cho những ai đang khắc khoải kiếm tìm, không chỉ nơi giây phút thử thách đau buồn hiện tại mà còn niềm hoan lạc của đời sống vĩnh cửu mai sau.

Mầu nhiệm Phục sinh là mầu nhiệm của tình yêu Cứu độ. Mầu nhiệm của tình thương hải hà trong việc hiến tế làm giá chuộc cho muôn người (x. Mc 10,45). Mầu nhiệm ấy được diễn tả nơi chính Con Một yêu dấu của Chúa Cha, đó chính là Đức Giê-su Chúa chúng ta: “Thiên Chúa đã yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để những ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3,16). Vì vậy, con người luôn khao khát kiếm tìm chân lý là ơn Cứu độ và Thiên Chúa hằng tìm kiếm con người để ban ơn Cứu độ.

  1. Thiên Chúa trao ban tình yêu Cứu độ

Đức Giê-su Phục sinh đem đến niềm vui tràn ngập cho bà Maria Ma-đa-lê-na và các Phụ nữ yêu mến Ngài, họ đang sống trong sự tuyệt vọng, buồn chán và khổ đau.

Đức Giê-su Phục sinh đồng hành với hai Môn đệ trên con đường EMMAU trong nỗi tuyệt vọng của họ. Chính Đấng Phục sinh đã khai trí mở lòng để họ có thể nhận ra Chúa. Ngài đồng bàn với họ và đọc lời chúc tụng, bẻ bánh. Mắt họ vừa bừng sáng ra và đã nhận ra Thầy sống lại. Lúc này niềm vui vỡ òa, tan biến sự mệt mỏi và buồn chán (x. Lc 24, 25 -32).

Đức Giêsu Phục sinh đem đến cho các Môn đệ sự bình an đích thực khi họ sợ hãi và lo âu trong căn phòng kín. Hãy nhận ra Chúa của mình: Thầy đây, đừng hoảng sợ … Nhìn chân tay Thầy coi, chính Thầy đây mà! (x. Lc 24,38.39). Đừng thất vọng, đừng buồn phiền, đừng đi với Thầy như cách suy nghĩ của chúng con nhưng phải nhận ra niềm vui Cứu độ của Thầy và Thầy ở cùng các con mỗi ngày cho đến tận thế (x. Mt 28,20).

Đức Giê-su Phục sinh đem đến cho chúng ta tình yêu Cứu độ trong mọi thử thách. Nếu các nhân vật trong Tin Mừng có được niềm vui Cứu độ thì cũng cần trải qua con đường đau khổ, tuyệt vọng, chán nản và lo âu. Thử hỏi ai trong cuộc đời chúng ta không một lần đau thương, ai không một lần bi thảm. Nhưng niềm vui Cứu độ chỉ tìm thấy nơi những ai dám hòa quyện mọi biến cố của mình với biến cố khổ đau của Đức Kitô. Ngang qua, đoạn trích của Thư Phaolô gửi cho ông Timôthê như sau: “Thiên Chúa muốn cho mọi người được cứu độ và nhận biết chân lý” (2,4). Hay trong sách Isaia đã viết: “Hãy đem ơn cứu độ của Ta đến tận cùng cõi đất” (Is 49,6). Thiên Chúa hằng tìm kiếm con người trước, đặc biệt là tội nhân để thi thố tình yêu và ơn Cứu độ.

Cũng như Giakêu trèo lên cây sung để được nhìn thấy Đức Giêsu, nhưng ông không biết trước đó rằng, Thiên Chúa đã tìm kiếm ông. Khi đến nơi, Đức Giêsu ngỏ lời với ông: “Ông Giakêu, xuống ngay đi, bởi vì hôm nay tôi phải ở lại nhà của ông”. Sự viếng thăm ấy, Ngài đã tuyên bố: “Con Người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,5.10).

  1. Con người khao khát tình yêu Cứu độ

Dám chắc rằng, khi mỗi người chúng ta tin và phó thác vào Chúa Ki-tô là Thiên Chúa của mình đều được ơn tha tội và ơn tái sinh trong cuộc sống muôn đời: “Trong Thánh Tử, ta được ơn cứu chuộc, được thứ tha mọi tội lỗi” (Cl 1,14). Chính sự mở lòng cho Chúa bước vào mà Người phụ nữ thành Samari được tha tội vì chị đã nhận ra Đức Ki-tô, Đấng sẽ ban cho chị Nước Hằng Sống. Vì thế, chị đã xác tín ra niềm vui Cứu độ: “Tôi biết Đấng Messia, gọi là Đức Ki-tô, sẽ đến” (Ga 4, 25).

Đức Giêsu, Con Thiên Chúa quyền năng, không cứu chữa con người qua quyền lực của sự dữ, nhưng Ngài chọn con đường thập giá để Cứu độ nhân loại. Thiên Chúa muốn chia sẻ thân phận và kiếp khổ đau nhân sinh để đưa con người lên với Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương và là niềm vui Cứu độ. Chính tình yêu của Thiên Chúa đã thúc giục Đức Giê-su sẵn sàng hy sinh mạng sống để Cứu độ chúng ta: “Không có tình yêu nào cao cả hơn tình yêu của người đã hy sinh tính mạng vì bạn hữu của mình” (Ga 15,13). Thánh Phao-lô đã quả quyết: “Đức Ki-tô đã chết vì chúng ta, ngay khi chúng ta còn là những người tội lỗi; đó là bằng chứng Thiên Chúa yêu thương chúng ta” (Rm 5,8).

Chúa Giêsu có thể làm được tất cả mọi phép lạ mà chúng ta muốn, nhưng Ngài đã không làm và không chiều theo thị hiếu của con người. Chúng ta không thể hiểu Ngài theo ước muốn của mình và lòng tham của người khác, dù biết điều đó hợp ý mình và tốt đẹp đến đâu. Ngài đã không làm theo ý họ nhưng làm theo ý Thiên Chúa, là Cứu độ trần gian trong ý định nhiệm mầu của Chúa Cha.

Biết bao lần trong cuộc đời, chúng ta tự hỏi tại sao Thiên Chúa lại im lặng trước nhu cầu của  con người? Không, Thiên Chúa không im lặng nhưng đang hoạt động với con người và ở với thế giới này trong từng biến cố xảy đến. Ước mong mỗi người chúng ta luôn cảm nhận được sự hiện diện đầy yêu thương của Chúa Kitô Phục Sinh và đón nhận thập giá đời mình như là “thách đố” niềm tin và phó thác trong tay Ngài. “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,38). Ngài sẽ mang theo lời tha thứ và ơn chữa lành:“Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng” (Mt 11,28).  

Lạy Chúa Giêsu Phục Sinh, chúng con chúc tụng, ngợi khen tình yêu và quyền năng của Chúa. Chúa đã khải hoàn toàn thắng sự chết, là dấu chứng cho sự phục sinh của con người, và là niềm tin, lẽ sống của chúng con. Xin Chúa cho chúng con luôn biết nhận ra tình yêu Cứu độ trong mọi biến cố của cuộc đời. Amen!

Về mục lục

ĐẠI DỊCH COVID TRỞ THÀNH ĐẠI LỄ PHỤC SINH

Lm. Bosco Dương Trung Tín

  “Phúc thay những người không thấy mà tin” (Ga 20,29).

  Người ta thường nói: “Không thấy thì không tin”. Nghĩa là không thấy tận mắt và không sờ tận tay thì không tin là có. Như Tô-ma, không nhìn tận mắt, không sờ tận tay thì sẽ không tin Đức Giê-su phục sinh. Con người chúng ta là “người phàm mắt thịt”, dù vậy, chúng ta không chỉ nhìn bằng mắt, mà còn “nhìn bằng trí khôn” nữa. Tức là nhờ trí khôn, nhờ suy luận mà chúng ta biết được vần đề, hiểu về vấn đề. Nên không thể nói cách tuyệt đối rằng: “Những gì không thấy là không có”.

   Cụ thể, bây giờ, có ai mà không tin có vi-rút Cô-rô-na không? Cô vi-rút này, mắt thường chúng ta đâu có thấy. Thế nhưng, nếu ta cứ đi chỗ này, chỗ kia; không đeo khẩu trang; không cách ly xã hội, liệu ta có an toàn không? Hay có thể lây nhiễm và chết như chơi. Dù không thấy vi-rút, nhưng qua những triệu chứng như thân nhiệt cao trên 37 độ; khó thở hay ho khan, chúng ta có thể biết là đã nhiễm vi-rút Cô-rô-na rồi, cần phải đến bệnh viện để cách ly và chữa trị.

   Đến nay, bệnh dịch cô-vít 19 đã lan tràn trên khắp thế giới, đã gây ra những ảnh hưởng rất lớn đến đời sống, kinh tế, chính trị, văn hóa,…trên toàn thế giới và làm cho hơn vạn người tử vong và làm cho hàng tỷ người gặp những khó khăn trong cuộc sống. Người ta bị hạn chế ra đường và làm việc, do đó, cuộc sống đã khó khăn lại càng thêm khó khăn hơn. Không làm việc được, mà vẫn cứ ăn thì lấy tiền đâu mà sống.

   Bởi thế, đại dịch cô-vit 19 này cho thấy rõ ràng rằng, dù mắt trần chúng ta không thấy nhưng chúng ta có thể thấy bằng trí khôn, bằng suy luận, bằng những dấu chỉ. Có thể nói qua đại dịch này, nó đã củng cố và làm cho chúng ta xác tín thêm niềm tin của chúng ta vào Chúa Phục Sinh. Đành rằng chúng ta không nhìn thấy tận mắt Đức Giê-su Phục Sinh, nhưng các Tông Đồ, đặc biệt là thánh tông đồ Tô-ma, Ngài đã nhìn thấy tận mắt và đã sờ tận tay vào Thân Xác Phục Sinh của Đức Giê-su.

   Lại nữa, cứ nhìn vào Giáo Hội Công Giáo chúng ta, từ ngày Đức Giê-su lên trời và Chúa Thánh Thần Hiện Xuống đến nay, đã ngót nghét cũng gần 2000 năm rồi; dù có trải qua bao sóng gió thăng trầm của lịch sử, Giáo Hội vẫn đứng vững. Điều đó có thể chứng minh Đức Giê-su đã không phục sinh hay sao? Trong Giáo Hội, Tin Mừng Phục Sinh vẫn còn vang vọng và nhất là trong thời buổi này, trong thời dịch Cô-vít 19 này. Có thể nói, chúng ta đang trở lại và sống đức tin như thời các Tông Đồ. Thời đó, chưa có Nhà Thờ, việc thực hành niềm tin là ở tư gia.

   Đức Giê-su đã hiện ra nơi tư gia đã đóng kín, vì sợ người Do Thái (x. Ga 20,19). Ngày nay, Chúa cũng sẽ hiện ra với chúng ta trong gia đình, không phải vì sợ người nào mà là sợ con vi-rút Cô-rô-na.

  Đức Giê-su đã hiện ra với các môn đệ trên biển hồ Ti-bê-ri-a, với khoảng cách khá xa. Đức Giê-su thì đứng trên bờ, còn các môn đệ thì đang đánh cá (x. Ga 21,1-14). Ngày nay, Chúa cũng sẽ có mặt với chúng ta khi chúng ta có khoảng cách với nhau – gọi là cách ly xã hội, vì tránh lây nhiễm Cô-vít.

  Việc Đức Giê-su hiện ra với hai môn đệ trên đường Em-mau (x, Lc 24,13-35). Trong cuộc trò chuyện đó, Chúa đã “giải thích cho hai ông những gì liên quan đến Người trong tất cả Sách Thánh”, làm cho “lòng hai ông bừng cháy lên” và tin rằng Đức Giê-su đã phục sinh.

  Trong kỳ đại dịch này, từ kinh thành Rô-ma đến các giáo xứ khắp nơi trên thế giới, lần đầu tiên đóng cửa, không có những thực hành niềm tin hay tham dự các buổi lễ trong Tuần Thánh, cũng như các Chúa Nhật, vì tránh tụ tập đông người, gây lây lan vi-rút. Cũng rất may là với thời đại viễn thông ngày nay, chúng ta còn có thể tham dự các Thánh Lễ trực tuyến trên mạng, tạm gọi là LỄ KHÔ, cũng phần nào khỏa lấp sự thèm khát “Tham dự Thánh Lễ” thường tình của người tín hữu ki-tô chúng ta.

   Quả thật, điều đó không làm cho đức tin của chúng ta lung lay, trái lại đó còn là cơ hội tốt cho chúng ta có thì giờ để suy niệm và suy gẫm sâu hơn về đức tin của mình, qua việc đọc và suy gẫm Lời Chúa ở nhà hay lên mạng đọc các bài chia sẻ.

  Nhất là lần đầu tiên Đức Giê-su hiện ra ở gần ngôi mộ với các bà, Chúa nói: “Chị em đừng sợ. Về báo cho anh em của Thầy, để họ đến Ga-li-lê. Họ sẽ gặp Thầy ở đó” (x, Mt 28,10). Ngày nay, đã có bao nhiêu người đã chết vì Cô-vít 19, rất nhiều, nhiều đến nỗi, có nơi không có chỗ để quan tài; không đủ nơi để chôn; không đủ chỗ để thiêu nữa. Tin Mừng Phục Sinh đối với những người đã chết này là: “Chúng ta hãy báo cho họ biết, họ sẽ được gặp Chúa ở Thiên Đàng”.

  Trong Chúa Nhật thứ II Phục Sinh, còn là Chúa Nhật của lòng thương xót Chúa, chúng ta cầu nguyện cho những người đã chết vì cô-vít 19 được hưởng lòng xót thương của Chúa, để họ có thể gặp được Chúa trên thiên đàng.

  Trở lại với bài Phúc Âm hôm nay, trọng tâm với sự hiện ra của Đức Giê-su với Tô-ma. Chúa hiện đến mà không có Tô-ma, ông được các Anh em cho biết là Chúa đã phục sinh, nhưng Tô-ma dõng dạc nói: “Nếu tôi không thấy dấu đinh ở tay Người; nếu tôi không xỏ ngón tay vào lỗ đinh và không đặt bàn tay vào cạnh sườn Người thì tôi chẳng tin” (x. Ga 20,25).

   Tám ngày sau, Đức Giê-su lại hiện ra và đến nói với Tô-ma rằng : “Đặt ngón tay vào đây và hãy nhìn xem tay Thầy; đưa bàn tay ra đặt vào cạnh sườn Thầy. Đừng cứng lòng nữa nhưng hãy tin” (x. Ga 20,27). Chắc lúc đó Tô-ma cứng họng và run rẩy đặt ngón tay vào lỗ đinh; thọc bày tay vào cạnh sườn Chúa và ú ớ thưa : “Lạy Chúa của con; lạy Thiên Chúa của con”. Giống như chúng ta kêu : “Giê-su ma lạy Chúa tôi” vậy.

    Điều đó có nghĩa là Tô-ma đã nhìn thấy Chúa tận mắt và đã sờ đến Chúa tận tay và tin rằng Đức Giê-su đã phục sinh. Thế nhưng, Đức Giê-su lại nói : “Vì thấy Thầy nên anh tin. Phúc thay những người không thấy mà tin” (x. Ga 20,29).

   Chúng ta là những người có phúc đó, vì chúng ta không được nhìn thấy Đức Giê-su Phục Sinh. Thánh Tô-ma đã thấy nên tin, còn chúng ta dù không thấy chúng ta vẫn tin. Thấy mà tin thì cũng bình thường thôi; không thấy mà tin mới khác thường; còn thấy mà không tin thì là …bất thường.

   Chúng ta cũng có thể nói : thấy hay nhiễm cô-vít thì đừng có coi thường, lo mà đi cách ly và chữa trị, coi chừng “lên đường”; còn không thấy và tránh được lây nhiễm thì là phi thường và là phúc cho chúng ta đấy.

   Vậy, qua đại dịch cô-vít 19 này, chúng ta càng thêm xác tín và khắc cốt ghi tâm cái phúc của mỗi người tín hữu ki-tô chúng ta. Đó là chúng ta tin vào Đức Giê-su Phục Sinh. Đức Giê-su đã thực sự phục sinh, Ngài là Đấng Ki-tô; là con Thiên Chúa và nhờ lòng tin đó mà chúng ta được sống nhờ Danh của Người. Với niềm xác tín đó, chúng ta mang lấy để sống vui, sống khỏe trong đại dịch cô-vít 19 này. Dù không thấy vi-rút, nhưng chúng ta cố gắng hết sức để tránh lây nhiễm và tránh làm lây lan vi-rút cho mọi người bằng cách đeo khẩu trang và cách ly xã hội, nhằm bảo vệ sự sống của mình cũng như tôn trọng sự sống của người khác; Làm cho Đại Dịch Cô-vít 19 này trở thành Đại Lễ Phục Sinh của chúng ta.

Về mục lục

ĐẶC TÍNH CỦA ĐỨC TIN

P.Trần Đình Phan Tiến

Thưa quý vị, thưa các bạn Đoạn Tin Mừng theo thánh Gioan (Ga 20, 19 -31) hôm nay có thể rút ra được 04 ý chính sau đây:

  • Thứ nhất : Chúa Giêsu phục sinh ban Bình An và Chúa Thánh Thần (củng cố niềm tin cho các môn đệ).
  • Thứ hai : Đức tin của Tô-ma. (người mở đường cho đức tin được kiểm chứng ).
  • Thứ ba : Chúa Giêsu mặc khải “Dấu chứng phục sinh”. ( Chúa Giêsu mặc khải Lòng Thương Xót).
  • Thứ tư: Thế hệ có phúc (thế hệ có niềm vào Chúa Giêsu).

Theo đó, chúng ta thấy, Đoạn Tin Mừng (Ga 20, 19 -31) là Đoạn Tin Mừng về sự minh chứng “Dấu chứng phục sinh” của Chúa Giêsu- Kitô, một Ngội Vị Thiên Chúa và là Đấng Cứu Thế.

Tin Mừng Chúa Nhật Phục Sinh trình thuật cho chúng ta những chứng cứ Phục Sinh, chứ không mặc khải chi tiết Phục Sinh, bởi vì, Thiên Chúa đứng trên quyền năng của sự dữ và sự chết. Chúa giêsu sau khi hoàn tất cuộc Tử Nạn, thì phần Nhân Tính của Người hoàn toàn không lệ thuộc vào Nhân Tính của Người nữa, không thế lực nào làm chủ Người được nữa, vì Người đã trở về hoàn toàn với Thiên Tính của Người. Vì thế, trước lúc chịu Tử Nạn, Người đã loan báo sự phục sinh của Người, sự loan báo nầy đã làm cho các môn đệ bán tín, bán nghi. Nhưng, sự loan báo phục sinh của Chúa Giêsu chính là nằm trong chương trình Cứu Độ của Người.

Vì thế, Biến cố phục sinh không thể mặc khải tường tận nữa, mà là loan báo Ơn Cứu Độ, đó là niềm tin vào Đấng Phục Sinh. Phục Sinh có nghĩa là” trở về ” với Thiên Chúa, vì Nguồn Sống duy nhất và vĩnh cửu chỉ có ở nơi Thiên Chúa mà thôi. Rõ ràng, chúng ta nhớ lại Lời Chúa Giêsu nói : ” Các người đừng sợ những kẻ chỉ giết được thân xác… Nhưng hãy sợ Đấng có thể ném cả xác và hồn và lửa không hề tắt”.

 Rõ ràng, Chúa Giêsu không biểu lộ chi tiết Người Phục Sinh như chi tiết Người Tử Nạn là như vậy.Nhưng , sau khi phục sinh , Người vẫn hiện ra với các môn đệ ngay sau đó.

Và hôm nay, sau tám ngày, Người lại hiện ra cùng các môn đệ của Người để củng cố niềm tin cho các ông. Nhưng, điều đầu tiên là Người ban bình an và Ban Chúa Thánh Thần, Đấng sẽ củng cố niềm tin cho các ông. Như vậy, “gia sản “ của Chúa Giêsu chính là sự “ Bình an và Chúa Thánh Thần”.

Ban bình an, bởi vì nếu không có ơn bình an của Chúa, người môn đệ sẽ chao đảo, dân gian có câu :” Cuộc đời là biển cả, còn thế nhân là con thuyền”. Thuyền mà đi trên biển cả, chắc chắn sẽ gặp phong ba bão táp. Vì thế, chúng ta cần có Chúa Giêsu và ơn Bình an của Người. Ơn Bình An chính là Chúa Cha, Đấng Tạo Dựng muôn loài và tình thương của Người.Đồng thời cũng là Ơn Cứu Chuộc, tức Ơn Giải thoát và Chúa Thánh Thần tức Ơn Thánh Hóa, biến đổi thế nhân trở nên giống Thiên Chúa, biến đổi nên Thánh. Như vậy, Ơn bình an và Thánh Thần thật quý giá biết bao đối với người môn đệ Đức Kitô.

Tiếp đến, thánh Tô-ma là người được mệnh danh là “kém tin”, nhưng thật ra, Đức tin của thánh Tô-ma là đức tin kiểm chứng. Bởi vì, nhờ Tô-ma mà đức tin vào Đấng Phục Sinh mới trở nên xác thực. Vì tuy là Chúa Giêsu quở trách ông, nhưng nhờ Đức Tin ấy, thánh Tô- ma trở nên nhân chứng của LÒNG THƯƠNG XÓT. Vì, sau sự kiện ấy, ai có đức tin như Tô-ma đều bị cho là “ vô phúc”. Vì, Chúa Giêsu không thỏa mãn tính hiếu kỳ của nhân thế, mà Người chỉ biểu lộ LÒNG THƯƠNG XÓT của Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn Cứu Độ nhân sinh , bởi vì Ngài muốn Thương Xót họ mà thôi. Vì, chiều lòng Tô-ma, Chúa Giêsu đã ban cho ông một cơ hội duy nhất cũng là cho muôn thế hệ. Và từ đây, cũng là”Dấu chứng phục sinh “ cho tất cả mọi thế hệ tin theo Đức Kitô.

Tất cả các đạo khác, người ta thường gọi chung là tôn giáo, nhưng riêng Kitô giáo không phải là một tôn giáo mà là” Một Con Đường“ dẫn đến Thiên Chúa là Nguồn Sống qua Đấng Cứu Thế Giêsu- Kitô. Bởi vì, chỉ có Thiên Chúa mới dẫn đưa nhân thế trở về với Nguồn Sống là chính Ngài mà thôi. Như chúng ta biết, chỉ có ba tôn giáo trên thế giới được gọi là ”Tôn giáo mặc khải” là: Dothai giáo, Hồi giáo, và Kitô giáo.

Kitô giáo gồm có Công giáo, Chính Thống giáo, Anh giáo, và Tin Lành. Đó là những người có cùng niềm tin vào Đức Kitô Phục Sinh, được gọi là Kitô giáo. Vậy Kitô giáo không phải là ”Tôn giáo” mà là “một con đường “ dẫn đến Thiên Chúa. Mầu Nhiệm Phục Sinh của Đức Kitô dẫn đưa nhân thế về với Thiên Chúa. Vì vậy, Kitô giáo không gọi là tôn giáo vì là Đạo mạc khải qua Đấng Cứu Thế Giêsu – Kitô.

Như vậy, Đức“GIÊSU-KITÔ” có nghĩa là : Người có Thiên Chúa ở cùng và được xức dầu tấn phong. Và sự Phục Sinh của Người để dẫn đưa thế nhân về với Thiên Chúa.

Vì vậy, điểm thứ ba là Người đã tỏ “Dấu Chứng Phục Sinh “cho thánh Tô-ma, đồng thời là “Dấu Chứng Tử Nạn” của Người để loan báo Nhiệm Cục Phục Sinh là đích điểm của Ơn Cứu Độ đã hoàn tất.  Chúa Giêsu cho thánh Tô-ma xem Năm Dấu Thánh vừa đáp ứng “ yêu cầu” của Tô-ma vừa biểu lộ LÒNG THƯƠNG XÓT nhân loại của Thiên Chúa. Vì, “Dấu Chứng Tử Nạn” cũng chính là “ Dấu Chứng Phục Sinh”.

Từ đó, mọi thế hệ TIN vào Chúa Giêsu qua sự “kiểm chứng “ của Tô-ma thì được Chúa Giêsu chúc phúc hơn Tô-ma, vì :” Tô-ma đã thấy Thầy, nên anh tin, phúc cho những kẻ không thấy mà tin “( Ga 20, 29).

Như vậy, lòng tin được kiểm chứng là lòng tin xác thực, nhưng lòng tin kiểm chứng thì không phải là ” ĐẶC TÍNH CỦA ĐỨC TIN “.

Lạy Chúa Giêsu là Đấng Thương Xót, trong Chúa chúng con tôn thờ, cảm tạ, tri ân, yêu mến cậy trông và tín thác chân thành vào Chúa. Vì, Chúa đã biểu lộ Lòng Xót Thương cho nhân loại tội lỗi qua Dấu Chứng Tử Nạn của Người. Người là Thiên Chúa Hằng Sống và hiển trị cùng Chúa Cha và Chúa Thánh Thần muôn đời ./. Amen

Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Chúa.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...