
CHÚA NHẬT 11 THƯỜNG NIÊN A
Lời Chúa: Xh. 19, 2-6a; Rm. 5, 6-11; Mt. 9, 36 – 10,8
---------------------------------------------
2. Chúng ta là dân được sai đi
3. Đức Giêsu động lòng xót thương.
4. Được sai đi
6. Thương dân.
7. Thợ gặt
10. Nhóm Mười Hai
11. Chú giải của Giáo Hoàng học viện Đà Lạt
12. Chọn và sai đi
13. Nhóm Mười Hai
15. Ðẹp thay bước chân người đi loan Tin Mừng.
17. Suy niệm của Lm. Trọng Hương.
1.Người chạnh lòng thương
Suy Niệm
Đức Giêsu thấy đám đông theo Ngài, vất vưởng bơ vơ như chiên không người chăn dắt. Người chạnh lòng thương.
Lòng thương bắt nguồn từ con tim biết nhói đau trước nỗi khổ của người khác.
Đức Giêsu đã làm tất cả để xoa dịu, đỡ nâng và mời gọi các môn đệ cộng tác trong công cuộc ấy.
Trước một thế giới buồn, Ngài sai họ rao giảng Tin Mừng về Nước Trời gần đến.
Trước một thế giới bệnh hoạn, Ngài cho họ khả năng chữa lành.
Trước một thế giới bị nô lệ cho thần ô uế, Ngài cho họ quyền đem lại tự do.
Trước một thế giới đầy chết chóc, Ngài cho họ quyền trả lại sự sống.
Đức Giêsu sai các môn đệ đi vào cuộc đời, đi hai người một để nâng đỡ nhau. Ngài không chọn những người giỏi giang, học thức, nhưng chọn những người đánh cá đơn sơ và quảng đại.
Trước hết, Ngài sai họ đến với chính dân tộc của họ, để rồi sau này đến với cả thế giới.
Đức Giêsu muốn họ cho đi tất cả những gì đã nhận mà không đòi hỏi chút quyền lợi hay đặc ân nào.
Hôm nay, Đức Giêsu mời chúng ta nhìn thấy đám đông gần 6 tỉ người trên mặt đất. Ngài mời chúng ta thấy 50 ngàn trẻ em chết đói mỗi ngày. Từ 12-18 triệu người chết đói một năm. 1,3 tỉ người sống trong cảnh đói nghèo cùng cực. 800 triệu người thất nghiệp, một tỉ người lớn mù chữ.
Ngài mời chúng ta thấy những trẻ em bị sida ở Châu Phi, những người trẻ trí thức bị bơ vơ ở Nhật, những sa đọa và hưởng thụ, ma tuý và tội ác, những hố sâu hơn giữa các nước giàu và nước nghèo, giữa người giàu và người nghèo, ngay cả trong các nước tiên tiến.
Ngài mời chúng ta nhìn thế giới này bằng đôi mắt của Ngài, nhìn thấy mà chạnh lòng thương. Chính cái nhìn đầy chạnh thương đưa ta lên đường.
Thế giới hôm nay cũng như hôm qua, vẫn là một thế giới cần đến ơn cứu độ. Người nghèo cần được tôn trọng phẩm giá, người giàu cần mở ra để thấy đời mình có ý nghĩa.
Chúng ta không bi quan trước thế giới hôm nay mênh mông nỗi đau, tràn ngập sự ác.
Tôi phải làm gì để chữa lành một thế giới bị thương?
Tôi phải nói gì với một thế giới không biết mình nô lệ?
Chỉ xin lên đường với Chúa Giêsu trong tin yêu, và xin Cha cho có nhiều người cùng tiếp bước.
Gợi Ý Chia Sẻ
Thế giới hôm nay là một thế giới mang nhiều vết thương và đổ vỡ. Bạn phải làm gì để hàn gắn và chữa lành chúng trong khả năng của bạn?
Khoa học kỹ thuật giải quyết được một số vấn đề, nhưng lại đưa đến những vấn đề mới, phức tạp hơn. Bạn có thấy như vậy không? Làm sao để sự tiến bộ về vật chất không làm bạn bị thụt lùi về tinh thần?
Cầu Nguyện
Lạy Cha, thế giới hôm nay cũng như hôm qua
vẫn có những người bơ vơ lạc hướng vì không tìm được một người để tin;
vẫn có những người đã chết từ lâu mà vẫn tưởng mình đang sống;
vẫn có những người bị ám ảnh bởi thần ô uế, ô uế của bạc tiền, của tình dục, của tiếng tăm;
vẫn có những người mang đủ thứ bệnh hoạn, bệnh hoạn trong lối nhìn, lối nghĩ, lối sống;
vẫn có những người sống bên lề xã hội, dù không phải là người phong…
Xin Cha cho chúng con nhìn thấy họ và biết chạnh lòng thương như Con Cha.
Nhưng trước hết, xin cho chúng con nhìn thấy chính bản thân chúng con.
Mục lục
2.Chúng ta là dân được sai đi
(Suy niệm của Ðức cố Giám Mục Bartôlômêô Nguyễn Sơn Lâm – Trích dẫn từ tập sách ‘Giải Nghĩa Lời Chúa’)
Chúng ta họp nhau lại đây để dâng Thánh lễ, tức là để nghe Lời Chúa hướng dẫn chúng ta đi vào mầu nhiệm giao ước mới, ký kết trong Mình và Máu Thánh Chúa Kitô, hầu trở thành Dân Thiên Chúa ở giữa trần gian một cách hoàn toàn hơn. Như vậy thì những bài đọc Thánh Kinh vừa nghe rất thích hợp để suy nghĩ về quá khứ, hiện tại và tương lai của chúng ta.
A. Quá Khứ, Chúng Ta Là Dân Ðược Tuyển Chọn
Quả vậy, trước đây chúng ta là gì? Chúng ta không tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn hay sao? Chúa Yêsu đã nhìn thấy chúng ta như thế. Và Người thương chúng ta, như lời bài Tin Mừng chúng ta vừa nghe đọc.
Chúng ta có thể kiểm chứng một cách dễ dàng. Trước khi vào nhà thờ này, chúng ta không phải mỗi người một ý hay sao? Tâm trí chúng ta khác nhau hết thảy. Và tâm hồn chúng ta thật lộn xộn bơ vơ. Hằng trăm ưu tư lo lắng dày vò chúng ta mỗi người mỗi cách. Một lũ chiên bơ vơ có lẽ còn ít vấn đề và ít khác nhau khác nhau hơn là chúng ta. Bởi vì những con chiên vô linh tính kia không có những lương tâm xâu xé như tâm hồn đôi khi nhiều tội lỗi của chúng ta. Thánh Phaolô viết: trước đây chúng ta là những kẻ có tội. Phải, không nhiều thì ít quá khứ của chúng ta đã có nhiều nét buồn thảm. Chúng ta không khác dân Dothái bao nhiêu, hồi họ còn ở Aicập. Cuộc đời nô lệ lam lũ của họ là hình ảnh của lúc chúng ta sống trong tội lỗi.
Nhưng như bài sách Xuất hành hôm nay nói: chính chúng ta đã thấy Chúa làm những gì cho chúng ta ở trong quá khứ. Ðối với dân Dothái, Người đã bồng họ lên đôi cánh phượng hoàng mạnh mẽ của Người để đưa họ ra khỏi Aicập. Còn đối với chúng ta trước đây sống trong tội lỗi, thì thư thánh Phaolô nói, Chúa Yêsu đã phải giang hai cánh tay chịu chết trên Thánh giá để cứu chúng ta ra khỏi tội lỗi. Và Người đã phải thiết lập Giáo hội các Tông đồ để xua trừ ma quỷ, phục sinh chúng ta và đưa chúng ta vào nếp sống mới.
Quả thật, quá khứ của chúng ta không tốt đẹp bao nhiêu. Dĩ vãng của mỗi người được mô tả trong dĩ vãng của Dân Chúa. Và quá khư của Giáo hội hay giáo xứ chúng ta được phác họa trong lịch sử dân Dothái. Xưa kia họ là những tên nô lệ bị bóc lột đến tận xương tủy. Vất vả lầm than và nhục nhã ê chề. Họ không biết nhau cũng chẳng hề biết tới một vị thủ lãnh nào có thể tập họp và ban sức mạnh để họ có thể ra khỏi chốn lưu đày khổ sở. Nhưng chính Chúa đã có sáng kiến; Người sai Môsê đến kêu gọi họ ra khỏi cảnh lầm than. Thoát ách nô lệ, họ còn là mớ người khố rách áo ôm đi lang thang trong sa mạc. Từ đỉnh núi Sinai, Chúa lại hiện xuống nói với Môsê tập họp họ lại, ban cho họ một giao ước để họ làm thành dân, một dân đặc biệt giữa muôn dân nước.
Lịch sử đó là lịch sử của mỗi người và của tất cả chúng ta trước khi được nhận vào Giáo hội và một phần nào đó, trước khi vào nhà thờ này để cử hành lễ giao ước. Chúng ta thật như chiên lạc bơ vơ, lo lắng mỗi người mỗi lối. Nhưng Thiên Chúa đã tập họp chúng ta lại ở đây, làm thành Giáo hội, làm nên Dân của Người để hiện tại chúng ta không còn như trước nữa, và tương lai lại còn huy hoàng hơn nhiều. Chúng ta hãy cùng nhau nhìn vào hiện tại.
B. Hiện Tại, Chúng Ta Là Dân Ðược Sai Ði
Ở đây hình ảnh dân Dothái trong quá khứ cũng giúp chúng ta hiểu biết thân phận của mình. Sách Xuất hành viết, ở dưới núi Sinai, Thiên Chúa đã phán với dân Dothái: nếu các ngươi nghe và giữ Lời Ta, các ngươi sẽ là kỷ phần của Ta ở giữa các dân tộc. Các ngươi sẽ là một nước tư tế và một dân thánh thiện của Ta.
Những lời thật rõ ràng và cương quyết. Giao ước Sinai chỉ gồm những câu khẳng định này: nếu Dân giữ Lời Chúa thì họ sẽ là phần đặc biệt của Người giữa các dân tộc. Họ sẽ là dân tư tế và thánh thiện của Người. Chúng ta tạm không nói tới điều kiện Chúa đòi hỏi Dân phải nghe và giữ Lời Chúa. Chúng ta tìm hiểu Chúa đã hứa gì với họ.
Người sẽ coi họ là phần riêng của Người ở giữa các dân tộc. Nghĩa là đang khi mọi dân tộc đều thuộc về Chúa và là của Người hết thảy, Người sẽ cho Israel một chỗ đứng riêng biệt; Người coi họ là phần riêng, là gia sản độc đáo của Người. Người sẽ đổ dồn tình thương và ân sủng xuống nơi họ, không phải để các dân tộc không còn được gì nữa, nhưng để mọi dân nước chỉ được chúc phúc với Abraham và dòng dõi ông.
Chúng ta thử suy nghĩ! Israel trước đây là những tên nô lệ chẳng có một chút giá trị nào. Thế mà bây giờ được thành dân ưu việt, không những hơn mọi dân khác, mà còn trở nên nguồn mạch phúc lành của Chúa các dân tộc ban cho mọi dân nước.
Tuy nhiên địa vị ưu việt sánh với các dân vẫn không đáng kể bằng giá trị của Israel ở trước mặt Thiên Chúa. Ðó là con cưng của Người. Là dân tư tế. Là dân thánh thiện. Phải có cả lịch sử sau này mới triển khai được những vinh dự phong phú ấy. Hiện tại chúng ta thấy Israel là Dân được Chúa săn sóc đặc biệt, khác mọi dân ngay cả về tổ chức. Ðang khi các dân có vua quan cai trị, những người đứng đầu Dân trong nếp sống trung thành với Giao ước. Thế nên Samuel đã khó chịu khi thấy Dân muốn một vị vua lên cai trị Dân để giống như mọi dân khác. Vì giống như các dân thì không còn là dân ưu việt nữa.
Ðồng thời dân ưu việt cũng là dân thánh thiện, tức là thuộc về Ðấng Thánh và tham dự vào sự sống siêu đẳng của Người. Nhưng chúng ta biết, dân Dothái đã không nghe và giữ Lời Chúa. Họ muốn tổ chức như các dân khác và như vậy cũng đã trở thành dân tội lỗi như mọi dân. Ðến nỗi khi Ðức Yêsu Kitô đến, Người đã nhìn thấy cảnh tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn. Và bài Tin Mừng hôm nay cho thấy Người đã thiết lập chúng ta nên Dân Mới của Người.
Người gọi 12 môn đệ đến, tượng trưng cho tổ phụ của 12 chi họ trong Dân Mới. Người cho họ quyền làm được công việc mà Môsê xưa đã làm một cách bề ngoài. Vì chúng ta biết, trước khi tập họp Dân đến dưới Sinai để đón nhận giao ước, ông đã làm lễ thanh tẩy cho Dân. Bây giờ Chúa Yêsu ban quyền cho 12 môn đệ xua được xua đuổi tà thần và chữa lành mọi bệnh tật là hình ảnh tội lỗi dơ nhớp tâm hồn.
Chúa đặt họ làm Dân Mới, làm người đứng đầu Dân Mới của Người với sứ mạng đi rao giảng Nước Trời. Họ sẽ không trị dân như vua quan nơi mọi dân nước. Họ là hàng tư tế thánh. Họ sẽ làm nên một dân thánh thiện vì họ sẽ ra đi chữa lành ngay cả những người phung và phục sinh kẻ chết, chứng tỏ họ sẽ tạo nên một nếp sống mới, thánh thiện ở mọi nơi.
Tất cả những gì Thiên Chúa đã muốn làm cho dân Israel và họ đã để mất, thì nay Người làm cho Giáo hội và cho chúng ta. Giờ này chúng ta đã được triệu tập lại đây để nghe Lời Chúa. Người sẽ ký kết Giao ước mới với chúng ta trong Máu Thánh của Con Người để chúng ta trở nên Dân được chọn làm sở hữu; chúng ta tham dự vào lễ tế của Ðức Kitô và chịu lấy Mình Thánh Người để chúng ta là dân tư tế, được nuôi sống, lãnh đạo nhờ sứ vụ tư tế ở trong Giáo hội; chúng ta trở nên thánh thiện, tham dự vào mầu nhiệm thánh, lãnh nhận các ơn thánh để ra đi thánh hóa các dân tộc.
Ở Sinai, Lời Chúa đã nhấn mạnh đến việc giữ Giao ước. Còn ở đây, Chúa sai chúng ta ra đi ban phát nhưng không những gì chúng ta đã đón nhận nhưng không ở nơi này, tức là ơn thánh hóa đời sống và tâm hồn, ơn tham dự vào mầu nhiệm lễ tế của Ðức Kitô Thượng tế, ơn trở thành Dân ưu việt của Thiên Chúa chúng ta.
Hiện tại chúng ta là thế, còn ngày mai sẽ thế nào?
C. Tương Lai Chúng Ta Ðã Ðược Bảo Ðảm
Thánh Phaolô trong bài thư hôm nay không hồ nghi tí nào về tương lai của Giáo hội và của chúng ta. Niềm tin của người có cơ sở vững vàng. Người nói khi chúng ta còn là tội lỗi mà Thiên Chúa cũng đã chết cho chúng ta thì huống hồ bây giờ khi chúng ta đã được công chính hóa, ắt chúng ta sẽ được cứu độ trong sự sống của Ðức Yêsu Kitô.
Chúng ta không thể nào không đồng ý với lập luận của thánh Tông đồ. Khi chúng ta còn trong tội lỗi, Thiên Chúa đã chứng tỏ một lòng nhân nghĩa lạ lùng. Người ta có thể chết cho một lý tưởng và hy sinh đời mình cho một bậc cao trọng, chứ chẳng có ai lại nhận chết cho một người có tội. Thế mà Thiên Chúa đã làm công việc như thế cho chúng ta khi chúng ta còn là tội nhân.
Người đã yêu thương chúng ta khi còn tội lỗi, thì không lẽ Người lại không quý chuộng chúng ta hơn nữa lúc chúng ta đã được công chính hóa nhờ sự chết của Con Một Người.
So sánh như vậy đã cho phép thánh Phaolô đi sang một so sánh thứ hai. Trước đây lòng nhân nghĩa của Thiên Chúa đã biểu lộ ra trong sự chết của Ðức Yêsu Kitô để công chính hóa chúng ta, thì bây giờ lòng nhân nghĩa ấy phải được diễn tả ra trong sự sống của Ngài: nghĩa là nếu chúng ta đã được giải thoát khỏi tội lỗi nhờ việc Ðức Kitô chết trên Thập giá, thì bây giờ chúng ta phải đáng được sống trong ơn của mầu nhiệm Ðức Kitô phục sinh nơi vinh quang Thiên Chúa.
Về sự sống phục sinh này, biết nói làm sao cho hết và diễn tả thế nào được bằng ngôn ngữ loài người? Thánh Phaolô chỉ biết nói rằng chúng ta sẽ được vinh hiển trong Thiên Chúa, vì sự sống hiện tại của Ðức Kitô phục sinh là sự được vinh hiển trong vinh quang thần tính. Dĩ nhiên có nhiều đoạn văn Kinh Thánh khác đã cố gắng mô tả vinh quang để dành cho chúng ta sau này trong tương lai. Nhưng tất cả vẫn chỉ là niềm tin. Và giá trị của niềm tin ấy căn cứ vào hạnh phúc hiện tại chúng ta đang nắm giữ: đó là đã được giao hòa với Thiên Chúa trong Máu Ðức Kitô để trước đây chúng ta như chiên bơ vơ lạc lõng nhưng bây giờ chúng ta đã nên phần riêng của Thiên Chúa, trở thành dân tư tế và thánh thiện của Người. Chúng ta là lúa chín mà Chúa đã sai các Tông đồ đến gặt để đưa vào gia sản của Thiên Chúa.
Mà thực vậy, giờ đây chúng ta sắp được thu lại để dâng lên bàn thờ. Chúng ta mỗi người mỗi khác và có thể nói rời rạc bơ vơ. Nhưng tất cả chúng ta, đời sống chúng ta, buồn vui của mỗi người, ưu tư của mọi cá nhân, sẽ được dâng lên trên đĩa thánh, sẽ được đem pha vào chén rượu như giọt nước để cùng với Ðức Kitô chúng ta được trở nên một thân thể, làm thành một Dân Chúa. Sự sống và phúc lành chan chứa của Thiên Chúa sẽ được trao sang cho chúng ta, để chúng ta là Dân được tuyển chọn, là Dân tư tế được Chúa dẫn dắt, là Dân thánh thiện được Ngài sai đi. Không phải chúng ta sẽ làm được gì cho người khác, nhưng nếu chúng ta để Lời Chúa, sự sống của Chúa, tình yêu của Chúa thoát ra trong đời sống ngôn ngữ và hành động của chúng ta, thì chắc chắn sự sống của Ðức Kitô phục sinh, tức là ơn Chúa Thánh Thần sẽ chảy ra từ lòng chúng ta, làm cho chúng ta cảm thấy đời mình không những êm ái mà còn phong phú, bảo chứng hạnh phúc tương lai đã khởi sự ngay từ hiện tại. Chúng ta hãy sốt sắng dự lễ trong niềm tin ấy.
Mục lục
3.Đức Giêsu động lòng xót thương
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Tình yêu không chỉ hệ tại nơi lời nói, nhưng chính yếu qua việc làm (1Ga.3, 18; LT.230). Thiên Chúa đã yêu chúng ta đến độ chết cho chúng ta ngay lúc chúng ta còn là tội nhân, và Ngài đã làm mọi sự vì yêu thương chúng ta.
Nếu các ngươi giữ giao ước của Ta…
Giữ giao ước là giữ giới răn của Chúa, giữ thập giới.
Nếu dân Dothái giữ giới răn Chúa, dân Dothái sẽ là “của riêng” của Chúa, sẽ được tách biệt khỏi mọi dân, sẽ là một dân thánh, dân tư tế. Dân tư tế là dân đại diện mọi dân khác để dâng lễ tế lên Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương dân, cưng chiều dân, như đang mang dân trên cánh phượng hoàng!
Ngày nay, Hội Thánh là dân riêng của Chúa. Chúng ta là dân thánh, dân tư tế!
Ngay trong lúc chúng ta là tội nhân, Đức Kitô đã chết vì chúng ta.
Hành vi tội làm biến dạng con người! Ngay trong lúc mình là tội nhân, nghĩa là, lúc mình đang “xấu như quỷ”, thì Đức Yêsu cũng đã vẫn chết cho mình! Ôi tình Chúa yêu thương mình tuyệt đến như thế nào!
Tại sao Thiên Chúa yêu thương con người đến như vậy? Con người có gì đẹp mà Thiên Chúa vẫn yêu thương dù con người đang ở trong tình trạng tội? Chắc hẳn con người phải có nét đẹp nào đó, đến nỗi Thiên Chúa yêu thương như vậy, vì chỉ có “nét đẹp” mới đáng yêu thôi! Con người được tạo dựng “giống hình ảnh Thiên Chúa”! Thiên Chúa tuyệt mỹ, vậy hình ảnh Thiên Chúa “cũng đẹp”!
Con người “rất đẹp”, có lẽ Thiên Chúa là Đấng đầu tiên và cuối cùng biết con người đẹp đến thế nào! Ước gì chúng ta nhận ra nét đẹp của con người, khi nhìn Đức Yêsu trên thập giá. Đức Yêsu là Đấng tuyệt đẹp, và con người cũng đẹp vì nếu không, Thiên Chúa đâu chết cho con người?!
Tất cả cho con người
“Đức Yêsu thấy đám đông dân chúng, tất tưởi bơ vơ như chiên không người chăn”! Người thương họ, “Ngài động lòng thương xót họ”. Ngài đã triệu tập môn đệ, sai các ông đi, để họ xua đuổi thần dữ và chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền!
Đức Yêsu đã đến trần gian vì con người. Ngài sai các môn đệ đi cứu giúp con người. Ngài yêu con người đến chấp nhận cái chết, đến độ ban mình máu người làm của ăn cho người. Ngài yêu con người dù có bị con người phản bội, từ chối! Trái tim bị đâm thâu, là bằng chứng tình yêu vô cùng của Thiên Chúa nơi Đức Yêsu.
Hôm nay, Chúa mời gọi tôi cộng tác để phục vụ con người! Các môn đệ tài năng như thế nào mà được Chúa dùng, Chúa sai đi? Họ đã làm được gì? Hôm nay tôi có sẵn sàng để Chúa sai tôi đi chăng? và tôi sẵn sàng làm điều gì để phục vụ con người? tôi có sẵn sàng để Chúa dùng tôi vào bất cứ việc gì để phụng sự Chúa nơi con người ngày nay không?
Câu hỏi gợi ý chia sẻ:
1. Được Chúa coi là “của riêng”, thì được gì?
2. Xin bạn kể những nét đẹp của con người!
3. Gần đây, có bao giờ bạn rung động trước nỗi khổ của con người không? Bạn có thể làm gì để phục vụ họ?
Mục lục
4.Được sai đi
(Suy niệm của Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm, S.J.)
Dân chúng khao khát nghe Đức Yêsu giảng dạy. Đức Yêsu đã động lòng thương, Ngài giảng dạy họ; và hơn nữa, Ngài đã sai các tông đồ đi rao giảng: “Nước Trời đang đến gần”.
1. Dân chúng hoang mang và bị bỏ rơi
Dân chúng từ nhiều nơi tuôn tới nghe Đức Yêsu rao giảng. Qua sự kiện này, người ta nhận ra con người của mọi thời đại vẫn tốt. Ngày xưa, dân chúng tìm đến với Đức Yêsu, để mong được nghe Ngài giáo huấn, để mong tìm được của ăn tinh thần, để được định hướng đời mình, để an bình trong cuộc sống.
Mỗi thời đại, đều có những tiên tri và thày dạy giả hiệu, đã làm dân chúng hoang mang và bấn loạn. Người ta sống bất an, không biết đâu là đúng đâu là sai. Sứ mạng của các tiên tri và những bậc thầy chân chính của mọi thời đại, là hướng dẫn dân chúng, giúp họ nhận ra sự thật, giúp họ sống bình an hạnh phúc.
Điều gây hoang mang, luôn luôn là điều có vẻ là đúng. Nếu rõ ràng là sai, chẳng có ai theo, và cũng chẳng làm người ta hoang mang bấn loạn. Những tiên tri và thầy dạy giả hiệu, là những người “đánh lộn con đen”, lèo lái dư luận, làm dân chúng không nhận ra điều đúng thật. Ở thời Đức Yêsu, những hình thức nô lệ lề luật mà không giữ tinh thần luật làm dân chúng không được tự do và hạnh phúc thật sự. Đức Yêsu không đến để huỷ bỏ lề luật, nhưng để làm nên trọn. Ngài không muốn con người “thờ phượng Thiên Chúa bằng môi bằng miệng, nhưng lòng lại xa Chúa”.
2. Đức Yêsu động lòng thương
Đức Yêsu đã động lòng thương dân. Lòng “thương cảm”, là nét của Thiên Chúa. Đức Yêsu thấy dân chúng tốt lành, vì họ khao khát chân lý và đi tìm. Họ không thoả mãn với những gì họ có, họ mong ước được nghe một vị thầy dạy chân chính, với hy vọng được bình an hạnh phúc hơn.
Qua những thao thức khắc khoải của dân chúng, người ta nhận ra những nỗ lực đi tìm sự thật. Những ước vọng này có thể bị mê hoặc bởi những thần tượng giả hiệu, những hướng dẫn sai lầm. Hậu quả là họ mất bình an, hoang mang lo sợ, mất niềm tin vào Thiên Chúa và con người, không hạnh phúc. Tuy vậy, qua sự kiện dân chúng khao khát đi tìm sự thật, người ta cũng nhận ra Thánh Thần Thiên Chúa vẫn luôn tác động nơi lòng con người, làm họ khao khát và đi tìm chân lý. Thiên Chúa vẫn luôn ở với con người trong mọi thời và mọi hoàn cảnh.
Đức Yêsu thương cảm con người. Họ như chiên không người chăn. Họ không được hướng dẫn đúng đắn. “Thầy là đường, là sự thật, và là sự sống”. Lối sống của Đức Yêsu là đường; lời dạy của Đức Yêsu giúp con người nhận ra sự thật, và làm cho con người được sống.
3. Đức Yêsu sai các môn đệ đi rao giảng
Đức Yêsu giảng dạy những người tìm đến với Ngài; và Ngài còn thương cảm cả những người không có cơ hội tới với Ngài, để họ mở lòng đón nhận sự thật. Ngài đã sai các tông đồ đi rao giảng.
Các tông đồ rao giảng: “Nước Thiên Chúa đang đến gần”. Các tông đồ rao giảng điều gì nữa, hay chỉ đơn sơ có thế? Người ta có thể rao giảng bằng lời, nhưng người ta cũng có thể rao giảng bằng chính cuộc sống của họ. Khi Đức Yêsu và các tông đồ rong ruổi hết nơi này tới nơi khác, thì chính cách sống và hành vi rong ruổi của các ngài cũng là một lời rao giảng, và là lời rao giảng có sức thuyết phục nhất.
Chúa cũng sai mỗi Kitô-hữu rao giảng về Chúa cho những người sống chung quanh mình. Có những người được ơn để rao giảng bằng lời; nhưng mỗi người đều có bổn phận phải rao giảng bằng chính cuộc sống của mình. Lời rao giảng của Kitô-hữu gặp phản chứng nếu đời sống của họ không thể hiện Tin Mừng của Đức Yêsu. Là Kitô-hữu, mỗi người phải sống vui tươi và an bình trong mọi hoàn cảnh. Các Kitô-hữu sơ khai, tuy dù bị bách hại, vẫn an bình và vui tươi. Chính cách sống như vậy đã lôi cuốn sự chú ý và có sức thuyết phục người khác đón nhận Tin Mừng Đức Yêsu Kitô.
Câu hỏi gợi ý chia sẻ
1. Bạn có nhận ra nét đẹp của con người ngày nay không? Xin cho ví dụ.
2. Ngày nay, dân chúng bị hoang mang và bấn loạn về điều gì?
3. Theo bạn, đâu là điều Thiên Chúa muốn những bậc thầy dạy và tiên tri hướng dẫn dân trong hoàn cảnh này?
Mục lục
5.Việc Tông Đồ
Bây giờ chúng ta hãy thử nhắm mắt lại và tưởng tương ra một cánh đồng bao la với những bông lúa chín vàng, nhấp nhô theo gió. Mùa màng thật trúng, thế mà vì không có thợ gặt, nên những bông lúa ấy bị rơi rụng. Và chúng ta tiếc xót cho bao công lao vất vả, bao mồ hôi nước mắt đổ xuống trên ruộng đồng.
Có một chiếc thuyền đánh cá ra khơi vào một đêm tối trời, chẳng may gặp dông bão. Những con sóng bạc đầu cùng với những trận gió giận dữ của trận cuồng phong đã làm cho con thuyền ngâp nước và chìm dần, Những người trên thuyền hốt hoảng và tuyệt vọng. Có lẽ chúng ta không bao giờ thấy được một cảnh tượng kinh hoàng và khiếp hãi như vậy.
Đã hai ngàn năm, Chúa Giêsu đến trong trần gian và công bố Tin mừng Phúc âm, thế nhưng nhân loại vẫn còn chìm trong tăm tối, vẫn còn là như một cánh đồng bát ngát thiếu những người thợ lành nghề là những vị tông đồ nhiệt thành đến gặt những bông lúa chín vàng, rồi chất vào kho lẫm của Thiên Chúa. Cho tới ngày hôm nay, nhân loại vẫn còn kêu cứu giữa những cơn phong ba bão táp trần gian. Hằng tỷ người vẫn còn lầm lũi bước đi trong lầm lạc. Mỗi phút giây có hàng ngàn người chết đi mà vẫn chưa nhận biết Đức Kitô. Cho tới ngày hôm nay, lời Chúa vẫn còn nói lên một thực trạng đen tối: Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt thì ít.
Cho tới ngày hôm nay, lời Chúa vẫn còn là một lệnh truyền thôi thúc chúng ta lên đường, thôi thúc chúng ta dấn thân cho việc tông đồ truyền giáo: Các con hãy đi giảng dạy cho muôn dân…
Thế nhưng nói đến việc tông đồ, chúng ta thường mường tượng ra những vị thừa sai rời bỏ quê hương để đi tới những vùng đất xa xôi hẻo lánh mà truyền bá giáo lý của Chúa cho những sắc dân man di mọi rợ… hay ít nữa, chúng ta nghĩ rằng đó là việc dành riêng cho các linh mục, tu sĩ, chứ còn chúng ta, nhưng người giáo dân bình thường, suốt ngày những quần quật làm ăn, kiếm sống cho bản thân và gia đình thì làm sao có thời giờ dành cho những công việc truyền giáo. Thế nhưng việc tông đồ không phải là việc dành riêng cho một số người nào đó, trái lại còn là bổn phận của mỗi người chúng ta, còn là việc chung của mọi phần tử trong Giáo Hội, bởi vì bất cứ trong hoàn cảnh nào, chúng ta đều có thể và phải là những tông đồ nhỏ của Chúa Giêsu. Vậy để trở thành những tông đồ nhỏ, chúng ta phải làm gì?
Phương thế thứ nhất để trở nên tông đồ nhỏ của Chúa Giêsu đó là hãy cầu nguyện và hy sinh. Thực vậy, cầu nguyện là phương thế thông thường để lãnh nhận ơn Chúa. Và hy sinh cũng là một phương thế không kém hiệu nghiệm. Chúa Giêsu đã đổ máu ra để cứu chuộc chúng ta, nếu không có đổ máu, thì không thể có chuyện tha tội. Vì thế, chúng ta có thể cộng tác với Chúa trong công cuộc cứu độ bằng cách hòa trộn những giọt máu hy sinh của chúng ta với giòng máu cao cả của Chúa Giêsu trên thập giá.
Giữa bốn bức tường nhà kín, thánh nữ Terêxa đã âm thầm cầu nguyện và chịu đựng những hy sinh thay cho các vị thừa sai, để những cố gắng của Giáo Hội trên cánh đồng truyền giáo gặt hái được nhiều thành quả tốt đẹp. Chỉ mình Chúa mới biết được những ơn ích mà thánh nữ đã thực hiện. Nhưng chúng ta có thể nhân ra tầm mức rộng lớn khi thấy Giáo Hội tuyên phong thánh nữ làm bổn mạng các xứ truyền giáo. Theo tương truyền thì số người trở lại do lời cầu nguyện và những hy sinh của thánh nữ cũng đông không kém những người trở lại của thánh Phanxicô Xaviê, một người đã dành suốt cả đời mình lăn lộn trên cánh đồng truyền giáo tại Á châu.
Năm 1683, Chúa Giêsu đã hiện ra với thánh nữ Magarita và xin thánh nữ cầu nguyện cho những tội nhân biết ăn năn trở lại. Ngài nói với thánh nữ:
– Một linh hồn công chính có thể xin ơn tha thứ cho hàng ngàn kẻ tội lỗi.
Khi hiện ra tại Lộ Đức, Mẹ Maria cũng đã nói với chị Bernadette:
– Phải cầu nguyện cho các tội nhân.
Cùng với lời cầu nguyện, chúng ta hãy thêm vào đó những hy sinh. Có một ông đại úy hồi hưu sống trong tình trạng khô khan nguội lạnh. Khi ông lâm bệnh nặng và không còn hy vọng sẽ qua khỏi, vị linh mục mời ông xưng tội, nhưng ông đã từ chối một cách dứt khoát. Lần sau, vị linh mục lại tìm đến nhưng người ta đã cấm không cho vào. Trở về nhà, bỗng vị linh mục nảy ra một ý định là dâng một gìơ kinh và hy sinh một ly cà phê thường lệ ở bữa ăn sáng để cầu nguyện cho bệnh nhân. Và vị linh mục đã thực hiện như thế. Một vài ngày sau, điện thoại reo vang, người ta mời vị linh mục đến giải tội cho ông đại úy vì ông ta đã đổi ý.
Sự hy sinh tự nó không quan trọng, nhưng sẽ đem lại những hậu quả to lớn, nếu chúng ta biết hy sinh vì Chúa, biết kết hiệp với những đớn đau của Chúa Giêsu trên thập giá.
Những chiếc rễ mặc dù nhỏ bé và chúng ta không nhìn thấy, nhưng lại rất cần thiết vì chúng hút nhựa sống từ lòng đất làm cho cây cối được lớn lên, đâm bông và kết trái. Cũng thế, những lời cầu nguyện và hy sinh là như những chiếc rễ nhỏ làm cho Giáo Hội không ngừng được phát triển và sống động.
Phương thế thứ hai để trở thành tông đồ nhỏ của Chúa Giêsu đó là hãy làm gương sáng. Thực vậy muốn rao giảng Tin mừng, chúng ta không cần phải làm Linh mục hay tu sĩ, nhưng chúng ta vẫn có thể và phải rao giảng bằng chính đời sống gương mẫu của chúng ta vì như tục ngữ đã bảo:
– Lời nói như gió lung lay,
việc làm như tay lôi kéo.
Biết đâu nhờ đời sống đạo đức và thánh thiện, bác ái và yêu thương của chúng ta mà làm cho người khác trở về cùng Chúa, hay ít nữa cũng đặt ra trong đầu óc họ một câu hỏi: Tại sao chúng ta lại dễ thương đến thế?
Ngày kia, thánh Phanxicô Assie gọi một thày dòng đến và bảo:
– Này thày, chúng ta cùng nhau đi giảng đạo nhé.
Hai cha con ra đi, rảo qua các đường phố một vòng rồi trở về. Thày dòng bỡ ngỡ và hỏi:
– Thưa cha, bao giờ chúng ta mới đi giảng đạo?
Thánh nhân trả lời:
– Chúng ta đã đi giảng đạo rồi đó.
Thày dòng thắc mắc:
– Lạ thật, mới chỉ đi một vòng phố, có nói lời nào đâu?
Nhưng thánh nhân đã cắt nghĩa:
– Chúng ta đã giảng đạo bằng chính thái độ nghiêm trang và tề chỉnh của chúng ta.
Thế giời hôm nay không thiếu những bài diễn văn hùng hồn và nảy lửa. Thế nhưng những bài diễn văn ấy là như tiếng nhạc chúng ta nghe thoảng ngoài tai, nhưng không đủ sức thúc đảy chúng ta hành động. Thế giới hôm nay không thiếu những nhà hùng biện tài ba, nhưng thiếu rất nhiều nhưng người làm gương sáng.
Mục lục
6.Thương dân
Thời Chúa Giêsu, dân Do thái sống trong cảnh không có người đứng đầu phần đời cũng như phần đạo. Thực vậy, chính quyền thuộc về đế quốc Rôma. Họ vô cùng đau đớn và nhục nhã phải thờ hai chủ: chủ đế quốc và tay sai của đế quốc là bè phái Hêrôđê, Sađốc, và bọn biệt phái.
Phái Hêrôđê gồm tất cả con cháu, họ hàng vua Hêrô đe đại đế người xứ Dumê phía nam Do thái. Phái Sađốc thuộc giòng dõi thượng tế Sađốc từ vua Salômon truyền lại. Họ là hàng quý tộc, thượng tế với tư tế. Họ độc quyền thu hoa lợi của đền thờ và liên kết với đế quốc để thống trị, bóc lột nhân dân. Tuy họ giữ luật Môisê nhưng lại sống phóng khoáng giao du với dân ngoại, nhiễm tinh thần văn hóa thần tượng Hy Lạp và Rôma. Trái lại, bọn Biệt phái hoàn toàn biệt lập, bài ngoại và bài đế quốc. Họ giữ luật cổ truyền, nhất là những tập tục của tiền nhân. Họ coi tập tục tiền nhân hơn luật Môisê. Họ cắt nghĩa luật truyền khẩu rất tỉ mỉ và bắt dân giữ rất khắt khe. Họ tự coi mình là tiến sĩ bảo tồn lề luật của tiền nhân. Họ cho đó là cách bảo vệ tôn giáo và đất nước tốt nhất. Thực sự họ đã chồng chất lên dân chúng những gánh nặng gông cùm dưới danh nghĩa tôn giáo. Họ đã biến tôn giáo thành thứ quốc giáo cuồng tín, hẹp hòi, kích động lòng ái quốc mù quáng. Sống giữa cảnh lãnh đạo mù quáng và mâu thuẫn, chống đối và thù hận nhau của phái Sađốc và Biệt phái. Dân chúng thật bơ vơ, lạc hướng. Có lần Chúa Giêsu đã cảnh cáo họ: “Mù dắt mù xuống hố”, “các ông thật lầm lạc”.
Để thực hiện chương trình cứu độ, Chúa Giêsu khuyên các môn đệ, ít nữa là phải thương dân.Thương dân không được đàn áp bóc lột như phái Hêrôđê. Họ dùng quyền sai lính bắt dân làm đầy tớ cho họ sống vinh thân phì gia: “Một người làm quan cả họ được nhờ”. Đáng lý ra, ở địa vị chính quyền, họ phải lo sống chân chính chăm lo hướng dẫn, giúp dân sống sung túc văn minh tiến bộ. Người xưa như Aristote và Khổng tử đã khuyên chính quyền phải là người hiền đức biết mưu hạnh phúc tốt nhất cho nhân dân: “Quý dân như con đỏ”, tôn trọng dân hơn việc làng xã: “Dân vi quý, xã tắc thứ chi”. Thương dân, tránh thái độ tời ơ lãnh đạm của phái Sađốc. Họ chỉ lo bảo vệ địa vị, quyền lợi cụa họ và chỉ tìm lợi lộc cá nhân, đến nỗi họ đã biến “nhà Cha ta thành chọ búa, thành hang trộm cướp”. Dân nghèo đói, khổ sở, sống chết mặc bay, tiền thày bỏ túi. Thương dân, môn đệ phải theo gương Thày lăn lộn với dân chúng nghèo khổ, bệnh tật, nhất là những chiên lạc bị sói rừng hãm hại trong tội ác, đem tin mừng nước trời đến cứu chữa họ. Thương dân, không chất trên vai dân những gánh nặng tập tục của loài người như những biệt phái giả hình bên ngoài. Nhưng môn đệ sẵn sáng vác gánh nặng, để gánhnặng của người dân trở nên êm ái nhẹ nhàng, nhất là những gánh nặng của tội lỗi. Con người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vụ và hiến mạng sống để cứu cuộc nhiều người.
Mục lục
7.Thợ gặt
Thánh Phanxicô Xaviê, trong một bản tường trình đã viết như sau:
“Nhiều người ở đây đã không thể trở thành Kitô hữu, chỉ vì chẳng có ai được chuẩn bị để đảm nhận sứ vụ giảng dạy cho họ. Con cảm thấy bị thôi thúc muốn đến các đại hoạc Âu Châu, đặc biệt là đại học Sorbonne ở Paris, để la lên, như một gã điên, cho những người giàu trí thức hơn là thiện chí, yêu cầu họ xử dụng trí thức của họ làm sao cho lợi ích. Phải chi trong khi nghiên cứu các môn nhân văn, họ cũng nghiên cứu sổ kế toán về những điều Thiên Chúa sẽ đòi hỏi họ qua tài năng Ngài đã ban cho họ. Lúc đó nhiều người hẳn sẽ xúc động kêu lên:
– Lạy Chúa, này con đây, Chúa muốn con phải làm gì?”
Lá thư trên khiến cho chúng ta nhớ tới lại Chúa phán:
– Lúa chín thì nhiều mà thợ gặt thì ít, các con hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của mình (Lc 10,2).
Lời phán dạy này, cho đến hôm nay, vẫn còn mang tính cách thời sự nóng bỏng của nó. Tuy nhiên, trước khi đi vào sứ mạng truyền giáo, chúng ta nên tìm hiểu về mùa gặt và thợ gặt.
Vậy trước hết mùa gặt là gì? Tôi xin thưa mùa gặt, hay lúa chín là tất cả những người hiện đang tìm kiếm Chúa, tìm kiếm chân lý, tìm kiếm mục đích và ý nghĩa cuộc đời.
Còn thợ là những ai? Tôi xin thưa là tất cả chúng ta, bởi vì mỗi người chúng ta đều có thể và phải là một người thợ gặt được sai đến trên cánh đồng truyền giáo.
Thế nhưng, tại sao ngày hôm nay lại có quá ít thợ gặt như vậy?
Lý do thứ nhất là vì chúng ta không thực hành điều Chúa đã truyền: Hãy xin chủ ruộng sai thợ đến gặt lúa của mình (Lc 10,2). Thực vậy, có bao nhiêu người trong chúng ta, thường xuyên cầu nguyện xin Chúa thôi thúc tâm hồn các bạn trẻ để họ nghiêm chỉnh đáp trả ơn gọi của Chúa. Có bao nhiêu người trong chúng ta thường xuyên cầu nguyện xin Chúa thôi thúc tâm hồn những người đã lập gia đình để họ nghiêm chỉnh dấn thân vào mùa gặt bằng lời cầu nguyện và bằng những giúp đỡ tài chính hoặc làm bất cứ việc gì.
Lý do thứ hai khiến ngày nay có ít thợ gặt liên quan đến các gia đình. Liệu gia đình chúng ta có còn là thửa vườn ươm trồng ơn gọi hay không? Là những bậc cha mẹ, chúng ta đã nói cho con em chúng ta về việc chọn lựa đời sống tu trì như thế nào?
Sau cùng, lý do thứ ba liên quan đến cá nhân mỗi người chúng ta, đó là chúng ta có sẵn sàng hiến dâng cho Chúa trong nếp sống tu sĩ, khi chúng ta còn là một thanh niên hay không? Còn nếu như đã lớn tuổi thì liệu chúng ta đã làm gì để dấn thân vào mùa gặt. Có bao giờ chúng ta nghĩ đến việc phải làm một điều gì đó để trực tiếp giúp cho việc truyền giáo.
Mục lục
8.Ánh mắt cứu độ
(Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt)
I. TẤM BÁNH LỜI CHÚA: Mt. 9, 36 – 10,8
II. TẤM BÁNH CHIA SẺ
Tình yêu bắt đầu từ đôi mắt. Nhưng ngày nay người ta ít có thời giờ nhìn nhau, nên tình yêu không đến. Người ta quá bận rộn vì cuộc sống ngày càng vội vã. Ra đường là đi như chạy để tranh thủ thời gian. Nên không có thời giờ nhìn, hỏi han, trò truyện, thông cảm. Và vì bận rộn nên nhiều lần ta lẩn tránh không muốn nhìn những thảm cảnh chung quanh, ngay trước mắt ta.
Chúa Giêsu thì không như thế. Người nhìn thấy đám đông và chạnh lòng thương. Nếu nhìn một đám đông thoáng qua thì khó mà chạnh lòng thương. Chạnh lòng thương là tức là đã nhìn kỹ từng người, thấy rõ hoàn cảnh đáng thương của từng người. Đứng trước một đám đông, Chúa vẫn có thời giờ nhìn kỹ từng người, vì Chúa quan tâm đến số phận của từng người.
Khi nhìn ngắm kỹ lưỡng, sẽ hiểu rõ. Khi hiểu rõ sẽ dễ chạnh lòng thương. Tuy nhiên từ ánh mắt đến trái tim là một khoảng cách rất gần mà cũng rất xa. Trái tim con người thật khó hiểu. Khi mở ra thì bao la ngàn trùng. Nhưng khi khép lại thì vô cùng chật hẹp. Một hạt bụi cũng khó lọt qua. Khi thao thức thì vô cùng nhanh nhậy, chỉ một thoáng nhìn, chỉ một âm thanh mơ hồ cũng đã đủ làm xao xuyến, rộn ràng. Nhưng khi ngủ yên thì vô cùng chai cứng, chậm chạp, dù có đập vào mắt, dù có la vào tai, cũng lạnh lùng dửng dưng. Trái tim Chúa Giêsu luôn thao thức về con người, luôn rộng mở đón nhận con người, nên dễ chạnh lòng thương trước cảnh bơ vơ, khốn cùng của con người.
Tình thương của Chúa Giêsu không phải là thứ tình mơ mộng viển vông, than mây khóc gió, nhưng là một tình thương mãnh liệt dẫn đến những hành động cụ thể. Khi nhìn thấy đám đông tất tưởi, bệnh tật, đói khát, Người lập tức an ủi, chữa lành, nuôi dưỡng. Việc Người an ủi, chữa lành, nuôi dưỡng đám đông không chỉ là những hoạt động do cảm tính nhất thời, nhưng là cả một kế hoạch rộng lớn, lâu dài. Chính vì thế, Người đã chọn mười hai Tông đồ, huấn luyện, sai họ đi nối tiếp sứ mệnh của Người.
Với bài Tin Mừng hôm nay, Chúa muốn dạy tôi ba bài học.
Bài học thứ nhất: hãy biết nhìn người khác bằng ánh mắt cảm thông. Ở Việt Nam phong trào đô thị hoá ngày càng mạnh. Các thành phố ngày càng phình ra vì dân cư từ quê đổ ra tỉnh tìm đường làm ăn sinh sống. Thành phố trở nên đông đúc chật chội. Người sống trong thành phố đang trở thành những con số vô danh, chìm mất giữa đám đông vội vã. Không ai biết ai. Không ai nhìn ai. Không ai quan tâm tới ai. Vì ai cũng bận lo cho bản thân mình. Hãy nhìn các đám đông trong chợ búa, ở trường học, ở công sở. Hãy quan sát đám đông trongvùng kẹt xe hay ở ngã tư đèn đỏ. Có biết bao linh hồn cô đơn buồn khổ. Có biết bao thể xác đang bị bệnh tật bào mòn. Có biết bao trái tim đang tan nát vì thất vọng. Hãy nhìn và hãy cảm thông như Chúa Giêsu nhìn đám đông và cảm thương họ.
Bài học thứ hai: hãy có một trái tim biết cảm thương. Đời sống ngày càng vất vả. Nhu cầu ngày càng nhiều. Vì thế con người ngày càng ích kỷ, chỉ lo cho bản thân hoặc gia đình mình. Chính vì thế trái tim thường dễ khép lại, trở thành lạnh lùng, xơ cứng. Khi trái tim xơ cứng, ta không thể đón nhận được những thông tin từ ánh mắt đem lại. Và con đường từ ánh mắt đến trái tim trở thành muôn trùng diệu vợi. Hãy mở lòng ra. Hãy biết rung động. Hãy để lòng mình thổn thức nỗi đau của người. Hãy biết khóc thương những số phận hẩm hiu. Hãy âu lo cho những cuộc đời bế tắc. Hãy để cho niềm cảm thương dâng tràn trái tim như trái tim Chúa Giêsu đã cảm nghiệm.
Bài học thứ ba: công cuộc truyền giáo phải bắt đầu bằng tình thương. Đức Chúa Cha, vì cảm thương thân phận tội lỗi đau khổ của loài người đã sai Chúa Giêsu xuống trần gian. Chúa Giêsu, vì cảm thương đám đông tất tưởi, bơ vơ, đã sai các môn đệ ra đi, tiếp tục sứ mệnh gieo rắc tình thương khắp nơi. Việc truyền giáo như thết là kết quả của lòng thương yêu vô biên của Thiên Chúa. Tình yêu thương khởi đầu nơi trái tim Thiên Chúa phải được tiếp nối, đẩy mạnh, nhân rộng trong cuộc đời. Vì thế người làm nhiệm vụ truyền giáo không bắt đầu bằng rao giảng, cũng không bắt đầu bằng cử hành bí tích mà phải bắt đầu bằng yêu thương. Cứ yêu thương rồi tình yêu sẽ hướng dẫn ta biết phải làm gì.
Tất cả chúng ta là những người con của Chúa. Tất cả chúng ta được Chúa mời gọi làm nhân chứng cho Chúa. Ta hãy học theo gương của chúa Giêsu biết nhìn người khác với ánh mắt cảm thông, biết cảm thương những con người đau khổ. Như thế chúng ta đã bắt đầu làm việc truyền giáo rồi.
Lạy trái tim Chúa Giêsu hiền lành và khiêm nhường, xin uốn lòng con nên giống trái tim Chúa. Amen.
III. TẤM BÁNH HOÁ NHIỀU
1) Bạn có để giờ nhìn kỹ những người thân trong gia đình không? Bạn có thực sự hiểu hết những uẩn khúc trong tâm hồn những người thân yêu không?
2) Mỗi khi gặp một hoàn cảnh đáng thương, bạn có cụ thể làm ngay một việc gì để giúp đỡ không?
3) Sống chan hoà yêu thương là truyền giáo. Bạn nghĩ gì về điều này?
Mục lục
9.Thời giờ cấp bách
Để hiểu đoạn Phúc Âm này, chúng ta hãy phân tích làm ba phần. Trước hết Chúa Giêsu cho các môn đệ Ngài cảm nhận rằng những người được Thiên Chúa thương xót, giống như một mùa gặt bao la, nhưng thợ gặt lại thiếu, sau đó Ngài lại sai các môn đệ đi làm mùa gặt ấy. Cuối cùng Ngài dạy cho các ông biết phải làm gì. Chúng ta xét phần thứ nhất:
1) Lúa chín đầy đồng, nhưng thợ gặt thì ít…
Theo thói quen, Chúa Giêsu dùng một hình ảnh thông thường để giảng dạy một giáo lý cao siêu. Mùa màng tốt đẹp là một ơn lành quý giá đối với người Do thái và để mất một vài nắm hạt cũng được gọi là một thiệt hại đáng tiếc. Vì vậy lúc đó cần có nhiều nhân công để thu hoạch cho đúng thời. Nhân loại giống như mùa gặt ấy và các nhân công tinh thần có bổn phận tập họp người ta vào Vương Quốc thì ít. Do đó cần phải xin Chủ mùa, Cha nhân loại, sai các nhân công cần thiết là các tông đồ đến với nhân loại ấy.
2) Vậy hãy cầu xin Chủ mùa sai thợ đến gặt đồng lúa của Ngài.
Tại sao Chúa Cha không tự mình sai nhân công đi? Có lẽ vì hai lý do: trước hết vì Chúa đã quyết định rằng ơn cứu độ phải chuyển qua trách nhiệm của con người, nghĩa là thông qua dân Do thái trước kia, thông qua Giáo Hội ngày nay. Giáo Hội chịu trách nhiệm về ơn cứu độ, ý thức tầm mức bao la của công việc, nên cầu xin Thiên Chúa cho có nhiều thợ loan truyền sự cứu chuộc. Ở đây chúng ta gặp mầu nhiệm của lời kinh cầu bầu. Giáo Hội liên kết với Chúa Giêsu để xin Chúa Cha ban ơn cứu độ cho mọi người. Lý do thứ hai, Chúa Cha muốn cho lời kinh của chúng ta tạo được một kết quả mà chúng ta ít khi nghĩ đến. Lời kinh giúp ý thức mạnh mẽ hơn tầm quan trọng của điều khẩn cầu và chuẩn bị chúng ta thực hiện điều ấy. Khi cầu xin Chúa Cha sai các môn đệ đến thế gian, chúng ta hiểu được việc ấy hết sức quan trọng và chúng ta mở lòng ra để biết rằng, chính chúng ta phải làm tông đồ. Như thế người ta càng cầu xin, và càng là tông đồ càng cảm thấy cần cầu xin.
3) Phải mau lẹ thu mùa màng về, thời giờ thúc bách.
Trong Kinh Thánh có nhắc đến bằng nhiều cách bổn phận phải biết dùng thời giờ để hoàn thành công việc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc nhở: Nước Thiên Chúa đã gần kề. Phải xin Chủ mùa sai thợ đến không những vì mùa màng đầy tràn, mà còn vì thời giờ cấp bách, hạn kỳ ngắn ngủi. Các vị tông đồ chân chính buồn lòng khi thấy trong Giáo Hội số thời giờ bỏ phí để bàn luận mọi thứ vấn đề ít hay nhiều giả tạo, trong khi nhân loại là một mùa gặt đang sắp hư hại. Một lần nữa lại thấy nhu cầu phải cầu nguyện, vì chỉ có sự cầu nguyện cho thấy các khẩn cấp chân chính. Chúng ta không xét đoán giá trị thực của những tìm kiếm và thử nghiệm mục vụ, nhưng cần tự hỏi chúng ta có lo cầu xin Chúa Cha sai những tông đồ đến thế giới chúng ta không? Lời cầu nguyện có biến đổi chính chúng ta nên những tông đồ ý thức rằng thời giờ thúc bách hay không?
Mục lục
10.Nhóm Mười Hai
“Đây là tên của mười hai tông đồ…”. Chúng ta biết bốn vị được ưu đãi: Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Những vị khác rất quen thuộc đối với chúng ta là: Philipphê, Tôma, Matthêu, Giuđa. Nhưng còn Batôlômêô, Tađêô, con của Anphê, người yêu nước cuồng nhiệt.
Đàng khác, tất cả các tông đồ đều bị lu mờ do tính cách của Chúa Giêsu và sự say mê của riêng họ: họ chỉ nhìn thấy Ngài, cách Ngài yêu thương, nhất là yêu thương trẻ nhỏ. Cái nhìn của mười hai tông đồ vào Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết về Ngài, và về sự phục sinh của Ngài. Chúng ta là một Giáo Hội “tông truyền”.
Từ đó phát sinh sự vững vàng và nóng bỏng của đức tin chúng ta. Những tôn giáo khác có những bản văn đẹp, những truyền thuyết hay, nhưng duy chỉ người Kitô hữu mới có thể nhìn xem và lắng nghe Thiên Chúa, được làm cho thấy rõ nhờ một người đã sống ở chỗ nọ, vào thời kỳ đó và đã nói những điều hết sức rõ ràng. Nhờ các tông đồ, tức mười hai nhân chứng, chúng ta mới biết được Con Người đó. Chúng ta có thể nuôi dưỡng đức tin của chúng ta không phải ở nơi nào khác, mà chính là bằng cách không ngừng đi lại con đường của chính họ. Con đường đó đi từ Chúa-Giêsu-con-người đến Chúa-Giêsu-Thiên-Chúa: Ngài đã như thế này, Ngài đã hành động theo cách này, Ngài đã nói…
Cũng nhờ nhóm Mười Hai mà chúng ta mới đi vào trong Giáo Hội, một tập thể đông đúc mà ngày nay chúng ta thích gọi là Dân Chúa hơn. Mỗi Chúa nhật chúng ta lại tiếp xúc với khía cạnh chủ yếu của đức tin chúng ta, đó là sống thành một dân tộc, trong và nhờ Giáo Hội của Chúa Kitô cũng là Giáo Hội của các tông đồ: “Tôi tin Giáo Hội tông truyền”.
Lập tức, Chúa Giêsu đã muốn điều này: tái lập một dân tộc. Việc chọn mười hai bạn đồng hành gợi lại mười hai người con của Giacóp và mười hai chi tộc Israel, nghĩa là toàn thể mọi người. Chúa Giêsu đã đến vì mọi người. Lệnh ban ra cho các tông đồ: “Hãy đi tới với các chiên lạc nhà Israel” đơn giản đánh dấu bước đầu của sự quy tụ, đánh dấu lời kêu gọi dân cũ sẽ phải nhanh chóng tạo lập dân mới. Nhưng câu cuối của Tin Mừng mở cửa toàn thể thế giới cho các tông đồ: ”Các môn đệ thuộc tất cả các dân tộc”.
Khi tìm kiếm một người thay thế Giuđa, Phêrô đã nói: “Chúng ta hãy chọn một trong những người đã đi theo chúng ta trong suốt thời gian Chúa Giêsu thường lui tới với chúng ta cho đến ngày Ngài lên trời. Người này sẽ cùng chúng ta làm chứng Ngài đã sống lại” (Cv 1, 21-22). Lời này mở rộng nhóm mười hai. Không phải họ là những người duy nhất vây quanh Chúa Giêsu. Cho nên Tin Mừng cũng nói đến 72 người. Nếu vai trò của nhóm mười hai là duy nhất theo tư cách là nền tảng của Giáo Hội, thì chính khái niệm tông đồ được mở rộng ra cho mọi Kitô hữu, và bao gồm hai tính chất chủ yếu, đó là cùng đồng hành với Chúa Giêsu và đức tin thông truyền do sự Phục sinh: “Ngài đã sống lại!”
Chúng ta thuộc về động thái phát sinh vào ngày mà Chúa Giêsu muốn nhóm mười hai sống với Ngài. Nếu chúng ta không hài lòng về Giáo Hội, về Giáo Hoàng, về các Giám Mục và về cha sở của chúng ta, chúng ta hãy xem xét vấn đề… cùng với Chúa Giêsu. Chúng ta có thể phê bình và đôi khi chúng ta phải làm như thế vì là một thành phần sống động trong Giáo Hội. Nhưng điều cũng làm cho chúng ta quan tâm đó là toàn thể Giáo Hội là một tập thể rất sống động chung quanh Chúa Giêsu và là một lời loan báo Tin Mừng của Ngài rất sống động.
Khi tình yêu Giáo Hội và nhiệt tình truyền giáo hiện diện nơi một Kitô hữu thì người đó đang đi theo bước chân các tông đồ và Chúa Giêsu xem người đó là người thân của Ngài.
Mục lục
11.Chú giải của Giáo Hoàng học viện Đà Lạt
SỨ MỆNH CỦA NHÓM MƯỜI HAI
CHÚ GIẢI CHI TIẾT
“Thấy dân chúng, Người chạnh lòng thương họ”: khởi điểm sứ mệnh tạm thời của nhóm 12 và khởi điểm toàn thể sứ mệnh của Giáo Hội là lòng trắc ẩn của Chúa Giêsu… Đây là một thứ tình cảm sâu đậm (chữ Hy lạp gợi lên hình ảnh tâm thần xao xuyến) mà Cựu Ước đã gán cho chính Thiên Chúa (Xh 34, 6; Tv 103, 8-13; Hs 2, 2-3; Gr 31, 20; Is 54, 7) và các Tin Mừng dành riêng cho Chúa Giêsu (Mt 14, 14; 15, 32; 20, 34; Mc 6, 34; 8, 2; 9, 22; Lc 7, 13) hay cho các nhân vật dụ ngôn tượng trưng Người hay Thiên Chúa (Lc 15, 20; Mt 18, 27; x. Lc 10, 35).
“Vì họ bơ phờ vất vưởng như chiên không người chăn giữ” ở đây điều làm Chúa Giêsu âu yếm xót thương là tình cảnh quẫn bách của những đoàn lũ “bơ phờ”, “yếu liệt”, “nằm sòng sãi”, như một đàn chiên không có chủ chăn. Hình ảnh thôn dã này mượn từ Cựu Ước, mà bản văn gần giống nhất là Ds 27, 16-17: “Môisen thưa với Giavê rằng: Lạy Giavê, xin Ngài đặt một ai đó trên cộng đoàn, để ra trước chúng và vào trước chúng để đem chúng ra và đem chúng vào, hầu cộng đoàn của Giavê khỏi như chiên không người chăn giữ”. Đàn chiên của Thiên Chúa, trong suốt giòng lịch sử, đã từng bị những tên lái buôn “bóc lột và phân tán” (Dcr 11, 7. 11; x. 1V 22, 17; Gr 23, 1-2; 50, 6; Ed 34, 1-10; Is 56, 11); và bây giờ vẫn còn những kẻ hướng đạo đui mù (Mt 15, 14; 23, 16.24) dùng môn học thuyết sai lạc của họ (16,12) làm lạc hướng đàn chiên, vẫn còn những hạng chăn thuê vô liêm sỉ làm chiên tan tác (Ga 10, 12tt). Vì thế Chúa Giêsu, chủ chăn vương giả mà Êdêkien loan báo (34, 23tt), mục tử tuẫn nạn mà Dacaria đã thoáng thấy mơ hồ (13, 7 = Mt 26, 31), sắp ủy thác cho nhóm 12 trách vụ quy tụ đàn chiên từ mọi chuồng chiên khác (Ga 10, 16) như ngày xưa Môisen đã ủy thác dân cho môn đồ mình là Giosuê chăm nom (Ds 27,17). Đây thật là một vinh dự lớn lao và cũng là một trách nhiệm nặng nề cho nhóm 12 môn đồ của Môisen mới…
“Mùa màng nhiều, thợ gặt ít”: Mùa gặt là một hình ảnh cổ điển Cựu Ước thường dùng để chỉ cuộc Chung thẩm của Thiên Chúa (Is 27, 12; Ge 4, 13 v.v…). Trong Tân Ước mùa gặt này thường phân làm hai, gồm giai đoạn đầu được đánh dấu bởi thời gian của Chúa Giêsu và của Giáo Hội và giai đoạn hay lịch sử chấm dứt, lúc Con Người sẽ thu lúa vào lẫm (Mt 13, 30) và đốt cỏ lùng (13, 30. 41tt): đó sẽ là mùa gặt sau hết (Mc 4, 29; Kh 14, 14tt), là “ngày tận thế” (Mt 13, 39), ngày chung thẩm (25, 31-46) và bấy giờ thợ gặt sẽ là chính Chúa Kitô với các thiên thần của Người (13, 39; x. Kh 14, 14-19). Nhưng trong khi chờ đợi ngày tận cùng đó, thì kể từ cuộc giáng lâm lần thứ nhất của Chúa Kitô, rõ ràng phải cần một vụ gặt qua sự kiện là đã có sự phân biệt giữa hạt giống tốt và xấu, khi Tin Mừng đòi buộc con người phải tuyên bố theo hay chống Chúa Kitô (Mt 10, 13-16. 40; Ga 3, 18tt). Đấy là công việc chuẩn bị trong đó Chúa Giêsu đã đóng vai trò gieo giống (Mt 13, 1-8ss; 13, 37; Ga 4, 36tt), còn nhóm 12 sẽ là những người thu hoạch.
Chính mùa gặt tiên trưng này là mùa mà nhóm 12, khi thụ hưởng các thành công đầu tiên của Chúa Giêsu, thấy mình được Người ủy thác cho tại Galilê, và chính về nó mà ta có thể áp dụng trước tiên câu nói của Chúa Giêsu trong Gioan: “Thầy đã sai các con đi gặt nơi các con đã không vất vả làm ra: có những kẻ khác đã vất vả rồi, còn các con chỉ đến thừa hưởng công lao của họ” (Ga 4, 38). Tuy nhiên sứ vụ ở Galilê chỉ là mào đầu và là hình ảnh của những mùa lúa chín vàng (Ga 4, 35) và phì nhiêu (Mt 9, 37) mà các sứ đồ cùng bao thợ khác của Tin Mừng, thừa hưởng công lao khó nhọc và hoa quả của hy tế Chúa Giêsu (x. Ga 4, 6; 12, 24), sẽ thu vào lẫm (so sánh Ga 4, 37tt và Cv 8, 15tt) từ ngày Hiện xuống.
“Chữa mọi tật nguyền bệnh hoạn”: Ở đây Matthêu dùng lại cùng những hạn từ đã sử dụng để nói lên quyền năng tràn đầy mà chính Chúa Giêsu đã được trao ban (9, 35); qua cách đó ông cho thấy các sứ đồ hoàn toàn in hệt Người và họ phải trở nên như cánh tay nối dài của Người vậy. Họ sẽ hoàn tất các công việc và thành quả giống như của Người và Ngài củng cố lời rao giảng của họ bằng cách làm phép lạ. Uy quyền của Chúa Giêsu được chuyển qua cho môn đồ của Người.
“Mười hai sứ đồ “: Đây là lần duy nhất Matthêu dùng thành ngữ này; nơi khác, ngoài thành ngữ “Nhóm mười hai” (10, 5; 20, 17; 26, 14. 20. 47), ông viết “Mười hai môn đồ” (10, 1; 11, 1; x. 28, 16) hay “các môn đồ” (13, 10; 14, 15; 26, 8. 56 v.v…), vì hơn Maccô và Luca, Tin Mừng thứ nhất ưa lẫn lộn môn đồ và sứ đồ với nhau. Kiểu nói bất thường của đoạn văn chúng ta sử dụng chữ “sứ đồ” theo chính xác được dùng trong Giáo Hội sơ khai để chỉ nhóm Mười Hai và một vài nhân chứng chính thức khác của việc Chúa phục sinh.
“Đừng lên đường đến các dân ngoại”: Mấy chữ này rõ ràng là kiểu nói cổ xưa (như kiểu nói “thành của người Samari” để chỉ tỉnh Samari), có căn ngữ Aram (kết quả nghiên cứu Schurmann, Cerfàux) cũng chắc chắn phát xuất từ một nguồn trước Matthêu; và bởi thế ta hiểu được rằng Maccô và Luca đã dùng đến vì nể các độc giả lương dân của họ. May thay còn lại các chữ đó, vì chúng là bằng chứng cho thấy các Kitô hữu đầu tiên đã xem việc truyền giáo ở Galilê là một sự kiện lịch sử, đáng ghi nhớ. Ông không xem đó như là lời phát biểu một nguyên tắc ngàn đời của việc truyền giáo, vì như vậy mâu thuẫn với mệnh lệnh sau cùng mà ông có ghi lại: “các con hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân” (28, 19), nhưng xem như là lời diễn tả một kế hoạch tạm thời, mà tất cả thái độ của Chúa Giêsu đã làm chứng cho thấy, một kế hoạch mà theo đó Tin Mừng phải được dành riêng cho “con cái của Vương quốc” (8, 12) Trong một thời gian đầu, nghĩa là cho đến cuộc chiến thắng phục sinh, cái biến cố sẽ tạo nên khí cụ cứu rỗi cho tất cả mọi người, tạo nên chủ đề chính yếu của lời rao giảng và khởi điểm của việc rao giảng khắp vũ hoàn. Matthêu đã nghĩ rằng độc giả của ông đủ thông minh để phân biệt, trong mớ tài liệu sưu tập của chương 10, cái gì đã chỉ có giá trị đối với việc truyền giáo ở Galilê và cái gì áp dụng được cho mọi thời đại của Giáo Hội.
“Hãy loan báo… hãy chữa lành”: Việc rao giảng của Chúa Giêsu và của các sứ đồ ở Galilê đã quy hướng cái nhìn của Israel về sự can thiệp dứt khoát cận kề của Thiên Chúa, được hứa thực hiện trong thời sau hết (Is 52, 7; Dcr 14, 9; Đn 2, 44 v.v…). Và các phép lạ cùng các việc trừ quỷ của Chúa Giêsu, đi đôi với lời người rao giảng (Mt 4, 23; 9, 35; Lc 9, 11…) làm nên khởi nguyên (Mt 12, 28; Lc 17, 20) cũng như dấu chỉ của Vương quyền cứu độ này của Thiên Chúa. Đó cũng là vai trò của các phép lạ và việc trừ quỷ do nhóm 12 thực hiện. Ngoài ra Matthêu còn ghi thêm lệnh phục sinh kẻ chết và tẩy sạch người phung hủi; như thế ông đã đưa ra được bản liệt kê các dấu chỉ Thiên sai, cảm hứng từ Isaia, gần giống với bản liệt kê trong câu Chúa Giêsu trả lời cho Gioan Tẩy giả (11, 4).
Sau này, các sứ đồ sẽ tiếp tục rao giảng Nước Trời (Cv 19, 8; 20, 25; 28, 23. 31), nhưng sẽ thêm vào đó (Cv 8, 12) tên của Đấng đã chết để giải thoát ta khỏi ách kìm kẹp của satan, tội lỗi và sự chết, đã được tôn phong làm Chúa trên trời (Cv 2, 30-36; Pl 2, 11; Kh 19, 16) và sẽ trở lại hoàn thành Vương quốc (1Cr 15, 20-28. 50; Cv 3, 21…). Để củng cố lời rao giảng Tin Mừng (Mc 16, 15-18; Cv 4, 29tt), họ sẽ tiếp tục chữa lành bệnh tật (Cv 3, 1-10; 5, 15tt; 8, 7; 9, 32-35; 19, 12), phục sinh kẻ chết (Cv 9, 36-42; 20, 7-12), xua trừ ma quỷ (Cv 8, 7; 16, 16) và tỏ ra bất vụ lợi hoàn toàn (1Tx 2, 2-12; Cv 8, 19tt). Tiếp tục trách vụ của họ, Giáo Hội truyền giáo sẽ không thể tách rời việc rao giảng Tin Mừng với các hoạt động bác ái vô vụ lợi, vì cả hai đều ban phát cho mọi người ơn cứu độ hoàn toàn Chúa Giêsu đã đạt được.
KẾT LUẬN
Chúa Giêsu đã động lòng xót thương đàn chiên bơ vơ lạc lõng trước mặt Người, cũng như các con chiên bơ vơ Người thoáng thấy trong muôn thế hệ về sau. Trước khi hiến thân để chỉ còn “một đàn chiên, một chủ chiên” (Ga 10, 16), Người đã chọn và sai nhóm Mười Hai, thủ lãnh của một dòng dõi những kẻ phục vụ Tin Mừng, để họ rao giảng Tin Mừng, xua đuổi tà thần, chữa lành bệnh tật, nghĩa là ban phát cho toàn thể con người ơn cứu độ mà Người đã tạo được nhờ lao nhọc gieo vãi và cứu chuộc. Giáo Hội, thành thánh đặt cơ sở trên 12 móng, mỗi móng mang tên của một trong 12 sứ đồ của Con Chiên (Kh 21,14), có trách vụ tiếp tục cho đến tận thế sứ mệnh rao giảng Tin Mừng và ân cần chăm sóc hết những ai đau khổ. Nhưng vì thợ gặt ít, nên Chúa Giêsu xin ta cầu nguyện: Lạy Chúa, xin hãy sai thợ gặt đồng lúa của Ngài!
Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG
1) Khi hạn định sứ mạng của mình trước tiên cho người Do thái, Chúa Giêsu đã tuân theo một trật tự, một tiến trình cứu rỗi đã được tiên liệu chiếu theo quyết định của Thiên Chúa: bắt đầu từ dân Do thái đi đến dân ngoại. Người đã hiểu sứ mệnh mình như thế và đã nghiêm túc tuân theo. Có lẽ Người đã đau khổ vì sự hạn chế này. Sự vâng phục này nằm trong sự từ bỏ sâu xa và hoàn toàn của Con Thiên Chúa, mà nhờ đó ta được cứu chuộc. Giữa bao lao nhọc truyền giáo và mục vụ, ta chớ bao giờ quên rằng: điều quan trọng không phải là số lượng công việc đã làm, đường xa đã đi, số người đã ảnh hường, tính cách bao la của công trình, nhưng là thi hành thánh ý Thiên Chúa trong các giới hạn mà thánh ý Ngài đã ấn định.
2) Thiên Chúa đã muốn cần đến con người để tiếp nối hành động Ngài trong thế gian. Ngài có thể bất cần sự hợp tác đó thế nhưng Ngài đã muốn cho con người tham dự vào cuộc tạo dựng thứ hai (việc rao giảng Tin Mừng làm lại con người một cách khác từ cái chết do tội) sau khi đã kết nạp họ vào cuộc tạo dựng thứ nhất (“Hãy nên đầy dấy trên đất và hãy bá chủ nó”, St 1, 28).
3) Những kẻ Thiên Chúa gọi, thì Ngài gọi cách tự do, chứ không chiếu theo danh nghĩa đặc biệt nào (giai cấp xã hội, quốc tịch, chính kiến, thông minh…). Tuy nhiên Ngài ưu tiên lưu tâm đến những người đơn sơ chất phác, nghèo hèn, ít học… Điều Ngài đòi hỏi là sự cởi mở, quảng đại, sẵn sàng. Nếu có các đức tính đó, Ngài có thể làm những việc kỳ diệu, dù họ vẫn còn nhiều khuyết điểm và yếu đuối của con người.
4) Lòng thương xót trắc ẩn của Chúa Kitô thúc bách Người lắng lo cho các chiên không chủ chăn thời đó. Ngày nay phải chăng đã đổi hoàn cảnh? Không! Đọc bất cứ tờ báo nào, nghe bất cứ đài phát thanh nào, ta đều chứng kiến bao cảnh biểu lộ sự bối rối hay thất vọng trước nỗi khó khăn, phi lý của cuộc đời. Nhìn đám đông trong thành phố, dưới vỉa hè hay trên xe cộ, hình như ta cũng có cùng cảm thức như Chúa Giêsu khi đứng trước đám người Do thái ở Galilê. Đôi lúc chính các Kitô hữu ngày nay không còn biết tin tưởng vào ai, theo vị thầy nào. Chúa Kitô sai Kitô hữu đến thế gian để tiếp nối sứ vụ chủ chiên nhân lành của Người bên cạnh con người thế kỷ XXI.
5) Vào mỗi thời kỳ khó khăn hay chuyển hướng của lịch sử Giáo Hội, thì chủ mùa gặt, để đáp lại lời cầu xin của biết bao người hèn mọn, yếu đuối, vô danh, đã luôn làm chỗi dậy nam nữ sứ đồ. Những kẻ này xuất hiện như là những vị giảng đạo của thời đại, những chứng nhân cho một Vương quốc duy nhất có thể biểu lộ sức mạnh của mình bằng nhiều cách. Nhưng chỉ nhờ lời cầu nguyện mới có các chứng nhân đó.
Mục lục
12.Chọn và sai đi
Tuần tự và khéo léo Matthêu khai mở câu chuyện về Chúa Giêsu. Trong lễ rửa do tay ông Gioan, ông cho thấy Chúa Giêsu chấp nhận công tác của Ngài. Lúc Chúa chịu cám dỗ, Matthêu cho thấy phương pháp Ngài xử dụng để thi hành công tác. Trong Bài Giảng Trên Núi, ta nghe lời khôn ngoan của Chúa Giêsu. Trong đoạn 8, ta thấy việc quyền năng. Trong đoạn 9, sự chống đối ngày càng gia tăng. Bây giờ chúng ta thấy Chúa chọn lựa người của Ngài. Một thủ lãnh sắp sửa dấn thân vào một việc quan trọng thì điều trước tiên cần làm là lựa chọn bộ tham mưu. Hiệu quả trước mắt và sự thành công tương lai của công trình đều tùy thuộc vào họ. Ở đây Chúa Giêsu lựa chọn ban tham mưu của mình, chọn những cánh tay mặt, những người sẽ giúp đỡ Ngài lúc còn ở thế gian và sẽ tiếp tục công tác của Ngài khi Ngài lìa thế gian để trở về nơi vinh quang.
Có hai sự kiện về những người này khiến ta chú ý ngay:
1. Họ là những người tầm thường:
Họ không có của cải, không học thức cao, không có địa vị trong xã hội. Họ được chọn từ trong dân gian, những người chỉ làm việc thường, không được giáo dục đặc biệt, không có lợi thế xã hội. Người ta nói Chúa Giêsu không tìm những người phi thường, Ngài tìm những người tầm thường để làm việc một cách rất phi thường. Chúa Giêsu nhìn mỗi người, không phải chỉ để thấy họ thế nào, mà cũng để thấy Ngài có thể khiến họ trở nên như thế nào. Chúa Giêsu lựa chọn những người này không những vì họ thế nào nhưng còn vì họ có thể trở nên như thế nào dưới ảnh hưởng và quyền năng Ngài. Không ai nên nghĩ mình không có gì để dâng cho Chúa. Chúa Giêsu có thể lấy điều một con người tầm thường hơn hết dâng lên để xử dụng trong việc trọng đại.
2. Họ là một nhóm ô hợp dị thường nhất:
Có Matthêu, người thu thuế. Tất cả mọi người đều coi Matthêu là người phản quốc, như một người làm tay sai cho chủ nhân chiếm xứ mình để cầu lợi, trái ngược với một người ái quốc thương dân. Cùng với Matthêu có Simon, Luca (6,16) gọi ông là Simon Dêlốt, tức nhiệt thành. Sử gia Giosephus gọi những người Dêlốt (cuồng tín nhiệt tâm này) là đảng thứ bốn của người Do thái (ba đảng kia là: Biệt phái, Xađuxê và Khổ hạnh (Esennes). Ông nói rằng họ có một lòng tự do không gì sánh nổi, vì họ nói Thiên Chúa là Đấng cai trị và Chúa của họ. Họ chuẩn bị đương đầu với mọi cái chết cho xứ sở và không hề chùn bước khi thấy người thân yêu chết trong cuộc đấu tranh dành tự do. Họ từ chối, không chịu tôn tặng một người nào trên thế giới danh hiệu là vua. Họ có một quyết tâm chịu bất cứ sự đau đớn nào, họ chuẩn bị để thi hành những vụ sát nhân bí mật để tìm cách loại bỏ quyền lực ngoại bang khỏi xứ họ. Nếu Simon, người cuồng tín gặp Matthêu ở một nơi nào khác ngoài tập thể của Chúa Giêsu, thì chắc chắn ông đã đâm cho một nhát dao găm rồi. Tại đây có một chân lý trọng đại là những người thù ghét lẫn nhau lại có thể thương yêu lẫn nhau khi cả hai cùng thương yêu Chúa Giêsu. Nhiều khi tôn giáo là cớ chia rẽ người đời, nhưng trong sự hiện diện của Chúa Giêsu thì họ đem họ lại với nhau, những con người trước đây chia rẽ vì không có Ngài.
Để chung ba bản thuật ký về sự kêu gọi mười hai Tông Đồ, chúng ta sẽ thấy vài điểm nổi bật:
a) Ngài lựa chọn họ:
Luca (6,13) nói Chúa Giêsu gọi các kẻ theo Ngài rồi chọn mười hai người trong họ. Dường như mắt Chúa rảo quanh đám đông đi theo Ngài và một nhóm nhỏ bằng lòng ở lại với Ngài khi quần chúng đã tan đi, dường như lúc nào Ngài cũng đang tìm kiếm những người Ngài có thể giao công tác cho. Có người đã nói: “Thiên Chúa luôn luôn tìm kiếm những bàn tay để xử dụng” Ngài luôn luôn phán: “Ta sẽ sai ai? Ai sẽ đi cho chúng ta?” (Is 6,8). Có nhiều công tác trong Nước Trời, công tác cho người đi ra, công tác cho người ở lại nhà, công tác cho người phải xử dụng đôi tay, công tác cho người phải xử dụng tâm trí, công tác mọi người đều thấy và công tác không ai thấy được. Đôi mắt của Chúa Giêsu luôn luôn tìm trong đám đông xem có người nào sẽ làm công tác của Ngài.
b) Chúa kêu gọi họ:
Chúa Giêsu không ép buộc ai làm công việc cho Ngài, Ngài hiến công việc cho họ, nhưng không ép buộc họ. Ngài mời gọi, chứ không chưng dụng. Ngài muốn có những người tình nguyện. Mỗi người được hoàn toàn tự do trung thành hay không. Lời mời gọi đều đạt đến mọi người, ai muốn chấp nhận hoặc từ chối tùy ý.
c) Ngài chỉ định họ:
Chỉ định một người vào một chức vụ. Chúa Giêsu giống như một ông vua chỉ định người làm bộ trưởng, như vị tướng tư lệnh giao công tác cho cấp chỉ huy. Phục vụ Chúa không phải là một tình cờ may rủi mà là được chỉ định chính xác vào chức vụ. Người ta rất hãnh diện nếu được vua thế gian chỉ định vào một công tác. huống chi được chỉ định bởi một Vua các vua thì còn đáng hãnh diện hơn biết bao!
d) Những người này được chỉ định trong số các môn đệ:
Môn đệ là kẻ học hỏi. Người Chúa Giêsu cần và ưa thích là người sẵn sàng học hỏi. Một tâm trí khép kín không chịu học hỏi không thể nào phục vụ Chúa. Tôi tớ của Chúa Giêsu phải sẵn sàng học hỏi thêm mỗi ngày, mỗi ngày phải bước gần Chúa Giêsu và Thiên Chúa hơn.
đ) Ngài chọn để họ ở với Ngài:
Nếu họ phải làm công việc Ngài trong thế gian thì họ phải sống trong sự hiện diện của Ngài trước khi đi vào thế gian, họ phải đi từ sự hiện diện của Chúa Giêsu đến sự hiện diện của con người. Nhiều khi trong những sinh hoạt phức tạp của Hội Thánh hiện đại, chúng ta bận rộn với việc điều hành cốt để cho guồng máy quay đều, nhưng chúng ta lại quên rằng tất cả những việc này không quan hệ, nếu không được thực hiện từ những người đã ở với Chúa Giêsu trước khi đến với loài người.
e) Họ được gọi là Tông Đồ (Sứ Đồ):
Là người được sai đi. Chữ dùng để chỉ một phái viên, một đại sứ. Kitô hữu là sứ giả của Chúa Giêsu đến với loài người. Họ bước vào sự hiện diện của Chúa Giêsu để có thể từ đó đến với loài người, mang theo vẻ đẹp của Chúa Giêsu.
g) Họ được gọi là người rao giảng:
Họ được lệnh phải giảng đạo. Người kitô hữu là người rao truyền Chúa Giêsu, đó là lý do tại sao phải ở lại với Chúa Giêsu. Sứ giả không truyền đạt ý của mình, nhưng đem một sứ điệp thiêng liêng chắc thật từ Chúa Giêsu. Người đó không thể mang sứ điệp đó nếu trước hết không nhận được từ việc ở với Ngài.
Mục lục
13.Nhóm Mười Hai
“Đây là tên của mười hai tông đồ…”. Chúng ta biết bồn vị được ưu đãi: Phêrô, Anrê, Giacôbê và Gioan. Những vị khác rất quen thuộc đối với chúng ta là: Philip, Tôma, Matthêu, Giuđa. Nhưng còn Batôlômêô, Tađêô, con của Anphê, người yêu nước cuồng nhiệt.
Đàng khác, tất cả các tông đồ đều bị lu mờ do tính cách của Chúa Giêsu và sự say mê của riêng họ: họ chỉ nhìn thấy Ngài, cách Ngài yêu thương, nhất là yêu thương trẻ nhỏ. Cái nhìn của mười hai tông đồ vào Chúa Giêsu đã cho chúng ta biết về Ngài, và về sự phục sinh của Ngài. Chúng ta là một Giáo hội “tông truyền”.
Từ đó phát sinh sự vững vàng và nóng bỏng của đức tin chúng ta. Những tôn giáo khác có những bản văn đẹp, những truyền thuyết hay, nhưng duy chỉ người Kitô hữu mới có thể nhìn xem và lắng nghe Thiên Chúa được làm cho thấy rõ nhờ một người đã sống ở chỗ nọ, vào thời kỳ đó và đã nói những điều hết sức rõ ràng. Nhờ các tông đồ, tức mười hai nhân chừng, chúng ta mới biết được con người đó. Chúng ta có thể nuôi dưỡng đức tin của chúng ta không phải ở nơi nàokhác, mà chính là bằng cách không ngừng đi lại con đường của chính họ. Con đường đó đi từ Chúa Giêsu con người đến Chúa Giêsu Thiên Chúa: Ngài đã như thế này, Ngài đã hành động theo cách này, Ngài đã nói…
Cũng nhờ nhóm mười hai mà chúng ta mới đi vào trong Giáo hội, một tập thể đông đúc mà ngày nay chúng ta thích gọi là Dân Chúa hơn. Mỗi chủ nhật chúng ta lại tiếp xúc với khía cạnh chủ yếu của đức tin chúng ta, đó là sống thành một dân tộc, trong và nhờ Giáo hội của Chúa Kitô cũng là Giáo hội của các tông đồ: “Tôi tin Giáo hội tông truyền”.
Lập tức, Chúa giêsu đã muốn điều này: tái lập một dân tộc. Việc chọn mười hai bạn đồng hành gợi lại mười hai người con của Giacóp và mười hai chi tộc Israel, nghĩa là toàn thể mọi người. Chúa Giêsu đã đến vì mọi người. Lệnh ban ra cho các tông đồ: “Hãy đi tới với các chiên lạc nhà Israel” đơn giản đánh dấu bước đầu của sự quy tụ, đánh dấu lời kêu gọi dân cũ sẽ phải nhanh chóng tạo lập dân mới. Nhưng câu cuối của Tin mừng mở cửa toàn thể thế giới cho các tông đồ: ”Các môn đệ thuộc tất cả các dân tộc”.
Khi tìm kiếm một người thay thế Giuđa, Phêrô đã nói: “Chúng ta hãy chọn một trong những người đã đi theo chúng ta trong suốt thời gian Chuá Giêsu thường lui tới với chúng a cho đến ngày Ngài lên trời. Người này sẽ cùng chúng ta làm chứng Ngài đã sống lại” (Cv 1, 21-22). Lời này mở rộng nhóm mười hai. Không phải họ là những người duy nhất vây quanh Chúa Giêsu. Cho nên Tin mừng cũng nói đến 72 người. Nếu vai trò của nhóm mười hai là duy nhất theo tư cách là nền tảng của Giáo hội, thì chính khái niệm tông đồ được mở rộng ra cho mọi Kitô hữu, và bao gồm hai tính chất chủ yếu, đó là cùng đồng hành với Chúa Giêsu và đức tin thông truyền do sự Phục sinh: “Ngài đã sống lại!”
Chúng ta thuộc về động thái phát sinh vào ngày mà Chúa Giêsu muốn nhóm mười hai sống với Ngài. Nếu chúng ta không hài lòng về Giáo hội, về Giáo hoàng, về các Giám mục và về cha sở của chúng ta, chúng ta hãy xem xét vấn đề… cùng với Chúa Giêsu. Chúng ta có thể phê bình và đôi khi chúng ta phải làm như thế vì là một thành phần sống động trong Giáo hội. Nhưng điều cũng làm cho chúng ta quan tâm đó là toàn thể Giáo hội là một tập thể rất sống động chung quanh Chúa Giêsu và là một lời loan báo Tin Mừng của Ngài rất sống động.
Khi tình yêu Giáo hội và nhiệt tình truyền giáo hiện diện nơi một Kitô hữu thì người đó đang đi theo bước chân các tông đồ và Chúa Giêsu xem người đó là người thân của Ngài.
Mục lục
14.Sứ mạng của các Tông Ðồ
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT.)
Trong suốt thời gian tại thế, nhất là ba năm rao giảng về Nước Trời, Chúa Giê-su đã gặp gỡ dân chúng, tiếp xúc với dân, Ngài đã hiểu rõ đời sống thực tế của dân, càng gần gũi dân, Chúa Giê-su càng hiểu rõ họ, càng yêu mến họ và càng lúc Ngài càng lưu tâm, để ý tới họ. Dân chúng trong thời Chúa Giê-su sống cũng gặp biết bao thảm cảnh: đói khát về thể xác, thiếu thốn về tinh thần. Tin Mừng thánh Mát-thêu trong trích đoạn hôm nay đã cho chúng ta thấy rõ nhu cầu của dân chúng: “Ðức Giê-su thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt” (Mt 9, 36). Rõ ràng Chúa Giê-su chạnh lòng thương dân chúng vì họ bơ vơ, đói khát, nên Ngài gợi ý với các môn đệ đang ở bên Ngài: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít” ( Mt 9, 37 ).
I. CHÚA GIÊSU CHỈ RA CHO MÔN ÐỆ THẤY DÂN CHÚNG THẬT ÐÁNG THƯƠNG:
Khi theo Chúa, nghe Chúa giảng dạy, chứng kiến các phép lạ Chúa làm, dân chúng như say mê với lời Chúa, hăng hái ngồi nghe Chúa, quên hết mọi Ưu tư, phiền muộn. Tuy nhiên, Chúa Giê-su thấy rõ đám đông, Ngài đã tiếp xúc với họ, đã chia sẻ với họ cả niềm vui lẫn nỗi buồn, Ngài đã hiểu thấu nỗi bận tâm của dân chúng. Dân đang nghe Chúa giảng, đang trố mắt nhìn Chúa với tâm hồn nhiệt tình, đạo đức. Họ đói lòng, nhưng tai họ thì tràn đầy Lời Chúa. Chúa hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của họ. Họ thích đón nhận nước trời, họ muốn nghe Lời Chúa và muốn có người hướng dẫn. Chúa thấy rõ điều ấy, nên Ngài thương họ thật tình, tình thương phát xuất tự con tim đầy yêu thương của Chúa.
Chúa biết rõ dân xưa trong thời Cựu Ước, Thiên Chúa Cha của Người đã sai nhiều vị lãnh đạo tới hướng dẫn, chỉ vẽ, hướng dẫn dân. Một Áp-ra-ham với một dòng tộc lớn lao, Thiên Chúa tặng ban cho Ông để qua Ông 12 dòng tộc Ít-ra-en được thiết lập. Thiên Chúa đã dùng Mô-sê, Ða-vít để chăn dắt, lãnh đạo dân như những mục tử thật tốt lành. Ðời sống của dân ngày nay cũng rất cần các mục tử dẫn dắt, hướng dẫn, lãnh đạo. Các ngôn sứ thời cựu ước đã loan báo chính Chúa sẽ đến và trở thành người dẫn dắt dân, trở thành Mục Tử tốt lành, yêu thương chiên, hy sinh mạng sống vì chiên của mình (Ga 10, 11). Dân đông đảo, dân bơ vơ, dân đói khát nhưng họ có thể tin tưởng vững bước vì Chúa là Mục Tử của họ. Hình ảnh đồng lúa chín vàng gợi lên cánh đồng truyền giáo bao la, mênh mông, rộng lớn. Chúa đã đi bước trước khi Người rảo khắp các làng mạc, thành phố, rao giảng trong các hội đường. Công bố Tin Mừng Nước Thiên Chúa, chữa mọi bệnh hoạn, tật nguyền, xua trừ ma quỉ (x. Mt 9, 35). Nước Chúa đã đến: thế giới rộng mênh mông, nhiều người, nhiều linh hồn muốn trở về với Chúa.
II. CHÚA KÊU GỌI 12 MÔN ÐỆ TIẾP NỐI SỨ MẠNG CỦA CHÚA GIÊSU:
Trước một cánh đồng lúa chín vàng, thế giới gồm biết bao nhiêu người rải rác khắp nơi, Chúa muốn con người cộng tác vào việc cứu thế của Chúa. Công việc cứu độ một mình Chúa là đủ, nhưng Người muốn con người tiếp tay với Người trong công việc truyền giáo cho một thế giới bao la. Nên, Chúa đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để tiếp tục công việc của Ngài loan báo Tin Mừng Cứu Ðộ. Chúa Giê-su đã chọn nhóm 12 làm môn đệ, Ngài đã gọi đích danh từng người và nhất nhất các môn đệ được gọi, được chọn đã cương quyết theo Ngài. Tuy nhiên, Chúa Giê-su kêu gọi các môn đệ một cách nhưng không, Ngài muốn chọn ai tùy ý Ngài và ơn gọi, sự chọn lựa chỉ được thực hiện, sau khi Chúa Giê-su đã cầu nguyện lâu giờ, hỏi ý Chúa Cha. Chọn môn đệ, gọi họ là Tông Ðồ (Apostoloi), nghĩa là được sai đi.
Các môn đệ vì tùy thuộc vào Chúa, họ phải thực thi lệnh truyền của Chúa. Si-mon gọi là Phê-rô, được Chúa đặt làm đầu nhóm và trở nên vị giáo hoàng tiên khởi của Hội Thánh do Chúa thiết lập. Tất cả các tông đồ đều thực hiện lời gợi ý của Chúa: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt lại ít” (Mt 9, 37) và các ông đều hướng về lệnh của Chúa trước khi Ngài về trời tại Ga-li-lê: “Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ…” (Mt 28, 19).
Còn bây giờ, các môn đệ, những người được Chúa sai đi đã tới trước hết với “những con chiên lạc nhà Ít-ra-en”. Các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giê-su: loan báo Nước Trời đã đến, thực hiện những điều Chúa Giê-su đã làm, giảng dạy, chữa lành bệnh hoạn tật nguyền, xua trừ ma quỉ và ban bình an cho con người. Các Ngài đã được trao sứ vụ phục vụ con người như Chúa Giê-su đã phục vụ: “Thầy đến để phục vụ, chứ không để được hầu hạ”. Các môn đệ muôn người như một đã luôn noi gương Thầy mình “vác thập giá để theo Chúa Giê-su” và các ông đã luôn hướng về đồng lúa thế giới mênh mông để xin Chúa Cha sai thợ ra gặt lúa về (Mt 9, 38). Các môn đệ luôn ý thức rằng các ông đã nhận nơi Chúa nhiều ân huệ nhưng không, các ông cũng phải cho lại nhưng không. Sứ mạng của các Tông Ðồ sẽ trải dài mãi cho đến ngày cùng tận và mọi người đều vững mạnh, tin vào lời Chúa hứa: “Ta sẽ ở cùng các con mọi ngày cho đến tận thế” (Mt 28, 20).
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết yêu mến Giáo Hội, xây dựng Giáo Hội và cầu nguyện luôn cho Giáo Hội. Xin cho mỗi người chúng con luôn noi gương bắt chước các Tông Ðồ để loan báo Tin Mừng và giới thiệu Chúa Kitô cho mọi người. Xin cho chúng con luôn biết cầu nguyện cho Ðức Giáo Hoàng, các Ðức Giám Mục, các Linh Mục và các phẩm trật của Hội Thánh.
Mục lục
15.Ðẹp thay bước chân người đi loan Tin Mừng
(Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.)
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Hôm ấy, Ðức Cha Thể (Théphanô Théodore Cuenot sinh 1802 tại Pháp, chết tử đạo 1861 tại Việt Nam) gọi thày Do lên và hỏi thẳng thày về cách thày sẽ thực thi mệnh lệnh truyền giáo như thế nào:
– Thày phải mở qua ngõ An Sơn, tức Tây Sơn, một con đường để đi truyền giáo cho các dân tộc thiểu số: Thày sẽ làm thế nào để hoàn thành việc đó?
– Thưa Ðức Cha, con sẽ làm lái buôn, Thày Do đáp lời, để trong vai lái buôn, con sẽ tiến sâu vào phía bên kia ranh giới nơi những lái buôn chưa từng vượt qua. Một khi khảo sát xong địa hình, con sẽ trở về đưa một vị thừa sai đến vùng đó.
– Quá tốt, Ðức Cha Thể nói tiếp, Cha mong đợi rất nhiều ở Thày.
Thế là thày Do được trang bị bằng phẩm chất của hai thánh Têphanô và Lorensô xưa, tức chịu chức phó tế. Không tậu ngay được môn bài làm lái buôn, thày Do xin làm người giúp việc cho lái buôn. Sau thời gian ngắn, người chủ hết sức hài lòng về anh giúp việc này liền thăng chức cho anh được làm đầu bếp. Thày sáu Do, vai mang gùi chứa đựng nồi niêu chén bát, tháp tùng ông chủ lái buôn đi hết làng này sang làng khác. Thày kiên trì hỏi han anh em dân tộc về ngôn ngữ, phong tục, tập quán của họ.
Sau sáu tháng sống đời phiêu bạt, thày sáu Do đã biết tạm đủ thổ ngữ dân tộc để dùng trong trường hợp phiêu lưu một mình. Không còn lý do để ở làm đầu bếp lâu hơn nữa cho ông chủ lái buôn người kinh, thày sáu Do bỏ An Sơn về Gò Thị, trình báo mọi sự lại cho Ðức Cha Thể. Nay thày muốn làm lái buôn thực thụ để có thể đi sâu vào những buôn làng dân tộc mà các thương gia người kinh khác chưa tới bao giờ. Ðức Cha Thể tán thành ý kiến và cho bốn chủng sinh đi theo thày Do.
Ðoàn thương gia của thầy sáu Do hoàn toàn di chuyển ban đêm. Với nhiều thận trọng khôn khéo, họ đã an toàn đến với bộ lạc Hà Ðrông. Nhưng trước kia thầy sáu Do làm người đầu bếp nên không ai chú ý tới thầy làm chi. Nay thầy đóng vai ông chủ buôn người kinh, thầy liền bị người Hà Ðrông để ý muốn chiếm lấy hàng hoá mà họ tưởng là rất quý giá; họ đồng thời còn muốn bắt chủ buôn và các phụ tá để bán sang Lào làm nô lệ! May thay thầy Do biết được ý định đen tối của chủ nhân Hà Ðrông hiếu khách một cách giả dối. Thầy và các phụ tá đã kịp thời chạy trốn lúc đêm khuya, bỏ lại đàng sau tất cả hành lý và đồ đạc. Khi bọn cướp kéo đến bao vây nhà trọ, phái đoàn của thầy đã cao chạy xa bay trên đường về Gò Thị báo cáo cho Ðức Cha Thể biết kết quả.
Trước hết như đã thấy ở trên, thầy sáu Do đã biết được một ít thổ ngữ dân tộc, đó là điều cơ bản; kế đến và nhất là thầy đã khám phá ra con đường độc đạo, hiểm trở, ngoài các con đường thông thường của các thương gia người kinh sử dụng, mà qua đó các vị thừa sai có thể kín đáo đến được các vùng rừng núi phía Tây. Con đường này hết sức cam go và vất vả, lại dài hơn những lối đi khác, bởi vì phải đi một vòng quanh rộng lớn theo hướng Bắc trước khi rẽ sang hướng Tây. Ðó là lối đi an toàn, bởi lẽ không một thương gia người kinh nào có can đảm dấn bước vào đó. Sau khi xem xét chu đáo. Ðức Cha Thể đã chọn lối đi này.
Câu chuyện vừa kể phần nào nói lên ý chí cương quyết của Ðức Cha Thể đối với mệnh lệnh truyền giáo là làm cho muôn dân trở nên môn đệ của Ðức Giêsu (Mt 28,19). Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy ý chí cương quyết ấy khởi đi từ chính Giavê Thiên Chúa. Chính Người đã chạnh lòng thương khi thấy dân Người vất vưởng như bầy chiên không có người chăn nên đã sai Con Người đến như người Mục Tử nhân lành. Vị Mục Tử này hôm nay sai phái các môn đệ lên đường săn sóc dân Người. Do đó mới có những con người như Ðức Cha Thể là người kế nghiệp các thánh Tông Ðồ, và những người như thày sáu Do là người tích cực tham dự vào sứ mạng truyền giáo.
Thiên tình sử xuyên qua Ðức Giêsu đến ta hôm nay
Bài Tin Mừng hôm nay gợi ý cho thấy cả một thiên tình sử trước Ðức Giêsu, trong thời Ðức Giêsu và sau đó cho đến thời đại chúng ta hiện nay. Thiên chúa luôn là tình yêu sống động. Loài người càng vất vả lầm than thì Thiên Chúa càng xót thương và ra tay cứu độ.
Trước Ðức Giêsu. – Ngay từ ngày con cái nhà Giacóp còn sống trong cảnh lầm than nơi Ai Cập, Giavê Thiên Chúa đã chạnh lòng thương nên đã sai Môsê đến giải thoát họ, đưa họ về đất hứa: “Tiếng rên siết của con cái Israel đã thấu tới Ta; Ta cũng đã thấy cảnh áp bức chúng phải chịu. Bây giờ, ngươi hãy đi! Ta sai ngươi đến với Vua Pharaô để đưa dân Ta là con cái Israel ra khỏi Ai Cập.” (Xh 3,9-10)
Thế là thiên tình sử của Cựu Ước đã bắt đầu từ sách Sáng Thế, nay trở nên quyết liệt trong sách Xuất Hành. Thiên Chúa tình thương luôn đứng về phe người bị áp bức để giải thoát họ khỏi cảnh bạo tàn. Xưa tiếng máu của Abel bị Cain là anh giết, vang thấu tới Thiên Chúa (St 4,10), nay tiếng rên siết của con cái Israel, Thiên Chúa cũng không bỏ qua.
Hình ảnh mục tử trong văn chương phổ quát trên thế giới đã từng được áp dụng cho những nhân vật chính trị hoặc tôn giáo. Trong Cựu Ước hình ảnh ấy có khi được áp dụng cả với Giavê Thiên Chúa, như thấy trong các sách Ngôn Sứ (Is 40,10tt; Gr 23,1-4; Ed 34,2-10; M 4,6tt). Thiên Chúa nói: “Chính Ta sẽ chăn dắt chiên của Ta, chính Ta sẽ cho chúng nằm nghỉ. Con nào bị mất, Ta sẽ đi tìm; con nào đi lạc Ta sẽ đưa về; con nào bị thương Ta sẽ băng bó; con nào bệnh tật Ta sẽ bồi dưỡng; con nào béo mập, con nào khỏe mạnh Ta sẽ canh chừng. Ta sẽ theo lẽ chính trực mà chăn dắt chúng.” (Ed 34,1-16)
Trong thời Ðức Giêsu. – Bài Tin Mừng hôm nay chỉ phản ảnh phần nào hoạt động của Ðức Giêsu với tư cách là Mục Tử nhân lành. Tự bản chất, Ðức Giêsu chính là hiện thân của lòng ưu ái của Giavê Thiên Chúa ưu tiên dành cho người nghèo. Người được sai đến là thành phần của một gia đình nghèo làng Nadarét, để trở nên bạn của người nghèo ở mọi nơi và trong mọi thời đại. Người được sai đến rao giảng Tin Mừng cho người nghèo khó (Lc 4,18). Người quý chuộng người nghèo đến nỗi chọn ở giữa họ nhóm Mười Hai Tông Ðồ. Ðó là những người được trao quyền trừ quỷ và chữa lành mọi bệnh tật (c.1). Trong tương lai họ sẽ được ban Thần Khí để chính họ tha tội cho ai thì tội người ấy được tha (Ga 20,22-23). Trong khi chờ đợi họ là những người môn đệ thân cận nhất sống bên Ðức Giêsu. Họ được hấp thụ một nền giáo dục thiết thân hầu có khả năng Phúc Âm hoá cả thế giới nhờ có Ðức Giêsu phục sinh luôn ở với họ. “Anh em hãy làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm phép rửa cho họ. Dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế.” (Mt 28,19-20).
Từ đó cho đến thời đại chúng ta hiện nay. – Các Tông Ðồ và những người thừa kế các ngài luôn phải kết hợp với Ðức Giêsu phục sinh còn ở lại mãi trong Giáo Hội, để thực thi những điều Người muốn. Mục tiêu của các cuộc Phúc Âm hoá qua các thời đại luôn là công trình hiện thực hóa Nước Thiên Chúa nơi xã hội loài người. Nước đó chỉ được hoàn tất trong ngày sau hết, nhưng đã phải bắt đầu hiện hữu giữa thế giới chúng ta đang sống. Các Kitô hữu nam nữ đều tham gia việc làm cho Nước Thiên Chúa hiện diện dưới sự lãnh đạo của Chúa Kitô bằng đời sống chứng tá hàng ngày, bằng việc góp phần làm cho Tin Mừng của Chúa Giêsu được lãnh hội và được sống, dĩ nhiên phải xuyên qua nền văn hoá phức tạp của con người, xuyên qua cuộc đối thoại liên vị và không thể bỏ qua việc thăng tiến công bằng gắn liền với việc Thiên Chúa ngay từ ban đầu đã muốn giải phóng dân Người thoát khỏi mọi hình thức bất công. Ðiểm cuối cùng này được Ðức Gioan Phaolô II nhấn mạnh khi nói: “Lao tác cho Nước Chúa hiển trị là nhận biết và cổ võ hành động của Thiên Chúa đang hiện diện và biến đổi lịch sử loài người. Xây dựng Nước Chúa có nghĩa là lao tác nhằm giải phóng khỏi sự dữ dưới mọi hình thức. Tắt một lời, Nước Thiên Chúa chính là việc bày tỏ và hiện thực hoá kế hoạch cứu độ trong tất cả mức tròn đầy của kế hoạch đó.” (Thông điệp Sứ Mạng củ Ðấng Cứu Thế, số 15)
Một số câu hỏi gợi ý
1. Bạn nghĩ những người Công Giáo của những dân tộc thiểu số vùng Cao Nguyên Việt Nam ngày nay có thể cảm thấy lòng biết ơn đối với những người sau đây về những điều mà họ mắc nợ: Ðức Cha Thể, Thầy Sáu Do? Các vị Thừa Sai Ba Lê? Riêng bạn có mắc nợ ai về ơn đức tin mà qua họ bạn lãnh nhận chăng, chẳng hạn: người dạy giáo lý cho bạn? Người làm gương sáng cho bạn? Một cuốn sách bạn đọc? Gương của một vị thánh? Một số các vị thừa sai đầu tiên đến rao giảng Tin Mừng cho người Việt Nam, mà bạn nhớ tên?
2. Loài người càng vất vưởng lầm than thì Thiên Chúa càng xót thương và ra tay cứu độ. Bạn biết gì về lòng thương xót đó của Thiên Chúa trước thời Chúa Giêsu, trong thời Chúa Giêsu sống nơi trần gian và sau thời đó cho đến ngày hôm nay?
Mục lục
16.Tung cánh chim khắp nơi
(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT.)
Đọc Tin Mừng của Chúa Giêsu chúng ta không khỏi xúc động,cảm kích về thái độ, cử chỉ và con người của Đức Kitô. Thực sự, có một cái gì rất diệu kỳ và linh thánh khi nói về Chúa Giêsu. Ngài sinh ra nơi trần gian không chỉ để sống kiếp làm người như mọi người khác, nhưng việc nhập thể của Chúa cho nhân loại, cho mỗi người chúng ta hiểu thật rõ về Con Người-Chúa của Ngài. Ba mươi năm sống với cha mẹ của Ngài ở làng quê Nagiarét đã hun đúc con người lao động, chiêm niệm và chuẩn bị sứ vụ công khai của Ngài. Chúa Giêsu đã tiếp xúc hàng ngày với nhiều lớp dân, nên Ngài đã hiểu nhu cầu thực tế của họ. Thánh Matthêu viết:” Đức Giêsu thấy đám đông thì chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt”(Mt 9,36). Với lòng nhân từ, Chúa Giêsu gợi ý để các môn đệ suy nghĩ:” Lúa chín đầy đồng mà thợ gặt lại ít” (Mt 9, 37).
NHU CẦU CỦA DÂN CHÚNG VÀ CÁNH ĐỒNG LÚA MÊNH MÔNG:
Tin Mừng của thánh Matthêu gợi lên hình ảnh rất thực tế của Chúa Giêsu: ”Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 9, 35). Nhờ đi đây đi đó, tiếp xúc với dân chúng, Chúa Giêsu hiểu rõ những nhu cầu của dân. Đám đông dân chúng không chỉ đói khát lương thực, không chỉ thiếu thốn vật chất, nhưng dân chúng quả đang khát khao lắng nghe lời rao giảng của Chúa và các mộn đệ của Ngài. Dân chúng đang thiếu các vị chủ chăn, đang thiếu những người lãnh đạo để dậy dỗ họ và yêu thương họ. Điều này cho chúng ta hiểu rõ hơn về quan niệm Cựu Ước: “hình ảnh các mục tử rất quen thuộc với nền văn hóa du mục“. Tổ tiên của dân Cựu Ước cũng là những người chăn chiên, như Môsê, Đavít, Giêrêmia và Eâzêkiel đã loan báo trước cho dân là chính Thiên Chúa sẽ trở nên người chăn dắt đàn chiên của Ngài. Lời tiên báo của các ngôn sứ đã được thực hiện nơi chính Đức Giêsu Kitô, Con Một duy nhất của Thiên Chúa, vị Mục tử hiền lành chạnh thương và chăm sóc mọi con chiên của Ngài, đến nỗi hy sinh cả mạng sống cho chúng. Do đó, dân chúng cảm thất an tâm vững dạ, tiến bước vì có Chúa là Mục Tử dẫn dắt họ. “Tôi chính là Mục Tử nhân lành.Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đàn chiên” (Ga 10,11) hoặc “Tôi đến để cho chiên được sống và sống dồi dào” (Ga 10, 10). Tiếp xúc với dân, hiểu rõ dân, Chúa Giêsu thấy nhu cầu truyền giáo bao la: lúa chín đầy đồng, ruộng đồng mênh mông. Chính vì thế, công việc cứu độ, việc loan báo Tin Mừng, Chúa không làm một mình. Chúa muốn có nhiều người cộng tác với Người trong công cuộc cứu độ. Do đó, Chúa đã kêu mời nhóm mười hai đi theo Ngài để Ngài huấn luyện, uốn nắn, biến đổi họ thành những tay thợ lành nghề trong cánh đồng truyền giáo bao la của thế giới. Chúa đã tuyển chọn nhóm mười hai để tiếp tục sứ mạng cứu thế của Ngài.
CHÚA THIẾT LẬP GIÁO HỘI Ở TRẦN THẾ ĐỂ TIẾP TỤC CHƯƠNG TRÌNH CỨU RỖI CỦA CHÚA:
Tin Mừng thánh Matthêu hôm nay đưa chúng ta về những bước khởi đầu của việc thiết lập Giáo Hội. Trong thời kỳ công khai rao giảng, Chúa Giêsu đã giảng dậy trong các hội đường Capharnaum va nhiều hội đường khác. Danh tiếng của Ngài đã được rất nhiều người biết tới. Những lời rao giảng, những phép lạ của Ngài đã làm danh tiếng Ngài vang đi khắp nơi. Ngài nhìn thấy trước công cuộc cứu rỗi của Ngài. Do đó, để thực hiện chương trình cứu rỗi, Chúa đã kêu gọi một số môn đệ đi theo Ngài để rao giảng, loan báo Tin Mừng. Trong số các môn đệ, Chúa Giêsu đã chọn mười hai người để làm tông đồ và trở thành cột trụ của Giáo Hội mà Ngài sẽ thiết lập. Giáo Hội của Chúa từ thời các tông đồ cho tới ngày hôm nay vẫn luôn tồn tại, phát triển không ngừng dù rằng Giáo Hội không ít gian nan, thử thách. Giáo Hội được xây dựng trên nền tảng của các tông đồ mà đứng đều là thánh Phêrô và các Đấng kế vị Ngài. Do đó, chấp nhận quyền bính trong Giáo Hội, phẩm trật của Giáo Hội cũng chính là chấp nhận quyền bính mà Chúa Giêsu đã trao cho các tông đồ. Hội Thánh của Chúa ở trần gian là Hội Thánh duy nhất, thánh thiện và tông tuyền.Khi tuyên xưng như thế có nghĩa là mọi Kitô hữu sống trong sự hiệp thông với Hội Thánh trong đó các Đức Giám Mục mà Vị Thủ Lãnh là Đức Giáo Hoàng, Đấng kế vị thánh Phêrô làm thành một phẩm trật hết sức thánh thiêng và hiệp nhất. Hội Thánh đã được Chúa Giêsu ủy thác cho các tông đồ, các tông đồ lại truyền lại cho các người kế tục và cứ như thế cho đến ngày viên mãn chung cục…
CẢM NGHIỆM VỀ LÒNG THƯƠNG XÓT CỦA CHÚA VÀ TIẾP TỤC PHÁT TRIỂN HỘI THÁNH:
Thánh Matthêu đã vẽ lại bức tranh tuyệt đẹp về con người của Chúa Giêsu. Đây là sự mạc khải tuyệt vời về lòng thương xót của Chúa. “ Thấy đám đông thì Chúa chạnh lòng thương”. Chúa Giêsu đã sống đích thực sự sống của con người, một người có trái tim nhạy bén, trái tim biết nói, trái tim người nhưng đầy thần khí của Chúa. Chúa xót thương con người, thương yêu dân chúng vì họ đói khát lời của Chúa. Và Ngài đã chỉ thị cho các môn đệ phải tiếp tục loan báo Nước Trời, rao giảng lời Chúa. Như năm chiếc bánh và hai con cá, Chúa Giêsu đã nuôi nhiều ngàn người ăn. Dân chúng bơ vơ, đói khát cả về vật chất lẫn tinh thần, Chúa yêu thương nuôi sống họ và Chúa sẽ để lại chính Thịt Máu của Ngài làm lương thực nuôi sống con người. Hội Thánh của Chúa sẽ tiếp tục sứ mạng của Chúa và tin tưởng Chúa Thánh Thần sẽ luôn tác động, đổi mới để làm cho Giáo Hội Chúa càng ngày càng trổ sinh hoa trái tốt đẹp.
Mỗi người Kitô hữu chúng ta có ý thúc vai trò, nghĩa vụ của mình là xây dựng Giáo Hội phổ quát và Giáo Hội địa phương mỗi ngày một đạo đức, thánh thiện hay không? Mỗi người Kitô hữu phải là một viên đá sống động động để Chúa xây dựng Hội Thánh Chúa ở trần gian này. Như các tông đồ chúng ta tung cánh khắp mọi nơi để loan báo Chúa Giêsu Kitô và rao giảng Nước Trời.
Lạy Chúa Giêsu, xin ban thêm lòng tin cho chúng con để chúng con hiểu rõ rằng nơi đâu có người công giáo là nơi đó có Giáo Hội Chúa. Amen.
Mục lục
17.Suy niệm của Lm. Trọng Hương
A. Hạt giống…
Bài Tin Mừng này có 4 ý:
1. Chúa Giêsu thương đám đông như đoàn chiên không người chăn, như đồng lúa chín rộ mà không có thợ gặt, nên Ngài kêu gọi các môn đệ hãy cầu xin Thiên Chúa sai thợ gặt đến.
2. Tiếp theo, Ngài sai chính nhóm 12 ra đi làm thợ gặt trên cánh đồng truyền giáo. Ngài ban quyền cho họ: Họ có quyền trên các thần ô uế và quyền chữa lành các bệnh tật.
3. Liệt kê danh sách 12 tông đồ. Họ xuất thân từ nhiều nơi và nhiều thành phần khác nhau, đa số là nghèo, ít học và không có địa vị cao trong xã hội.
4. Những chỉ dẫn đầu tiên về cách cư xử: 1/ Đừng đến với dân ngoại nhưng chỉ đến với các chiên lạc nhà Israel; 2/ Nội dung rao giảng: Nước Trời đã đến gần”.
B…. nẩy mầm.
1. “Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng ‘Lúa chín đầy đồng, thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về” (Mt 9,37-38)
Thế giới hôm nay còn nhiều điểm tối, nhưng vẫn có những đốm sáng rực rỡ: khi con người ngồi gần lại nhau để giải quyết tranh chấp, tìm kiến hòa bình; khi cả thế giới lo chung một mối lo bảo vệ trái đất, ngăn chận sida, tận diệt ma tuý; khi có những người nghèo quan tâm đến những người nghèo hơn; khi trẻ thơ và người già được chăm sóc; khi những hàng rào ngăn cách các nước được tháo gỡ; khi không còn kỳ thị chủng tộc, tôn giáo, màu da; khi những tiến bộ khoa học kỹ thuật làm cho con người sống hạnh phúc; khi mọi người nhận ra mình là anh em của nhau, liên đới với nhau và chịu trách nhiệm về nhau, sống trên cùng một hành tinh, dưới mái nhà bầu trời.
Lạy Chúa, thế giới hôm nay còn cần rất nhiều người thiện tâm thiện chí để xây dựng một thế giới huynh đệ hơn. Xin cho có nhiều người trẻ can đảm dấn thân cho một thế giới mới. (Hosanna)
2. Chúa Giêsu không chọn những người tài cao học rộng giàu sang và có địa vị xã hội cao, mà chọn những người có tấm lòng và thiện chí. Hai điều này là đủ, mọi điều khác Chúa sẽ lo.
3. Một tác giả tưởng tượng việc Chúa chọn các tông đồ như sau: Sau những đêm dài cầu nguyện, Ngài rảo bước khắp nơi nhưng không chọn được người nào. Ngài đành đăng quảng cáo, nhưng trong số những người đến trình diện Ngài cũng không chọn được ai.
Ngài đành tổ chức thế vận hội. Môn đầu tiên là cầu nguyện: nhiều người biểu diễn cầu nguyện rất hay nhưng Chúa không chọn được ai cả. Môn thứ hai là thờ phượng, cũng thế. Môn thứ ba là giảng thuyết, cũng thế.
Chán nản vì mất giờ vô ích, Chúa Giêsu rời vận động trường thả bộ ra bờ biển hóng gió và ở đây Ngài thấy một đám dân chài. Ngài đứng quan sát và nhận ra có một số người để hết tâm hồn vào công việc. Ngài nghĩ thầm họ là những người có quả tim. Và thế là Ngài chọn họ làm tông đồ của Ngài (Chờ đợi Chúa)
4. Chúa cũng chọn Giuđa, cũng ban quyền cho Giuđa và cũng sai Giuđa đi rao giảng Tin Mừng. Nghĩa là Chúa cũng tin tưởng và đặt hy vọng nơi Giuđa. Nhưng Giuđa đã không đáp lại niềm tin tưởng và hy vọng của Chúa.
Chúa cũng tin tưởng và hy vọng nơi con. Xin cho con đừng phụ lòng Chúa.
5. Sứ mạng của người giảng Tin Mừng là đẩy lùi sự xấu (xua đuổi các thần ô uế) và cứu chữa những khổ đau (chữa lành những người bệnh).
Đó cũng là sứ mạng của tôi. Vậy tôi đã làm gì để giảm bớt sự xấu trong môi trường tôi đang làm việc? Tôi đã làm gì đề cứu chữa các anh em tôi?
6. 12 tông đồ còn rất non yếu nên Chúa Giêsu không sai họ đến với những đối tượng khó khăn (dân ngoại) mà chỉ đến với những người Israel. Chúa không giao sứ mạng quá sức con người đâu. Cho nên tôi đừng e ngại và sợ hãi gì cả.
7. “Chúa Giêsu gọi 12 môn đệ lại, ban cho các ông được quyền trước các thần ô uế, để các ông trừ khử chúng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền” (Mt 10,1)
Vào thời Chúa Giêsu, người ta quan niệm người bị tật nguyền là người tội lỗi vì đã làm điều ô uế. Nhưng theo Chúa Giêsu, những người đó được sinh ra để làm sáng danh Chúa, và chính Ngài đã từng chữa lành các bệnh hoạn tật nguyền. Ngài cũng đã cảm hoá được nhiều người tội lỗi trở về với Chúa Cha.
Ngày nay, sự ô uế hiện ở nhiều mặt: dối trá, tham lam, trộm cắp, ăn chơi sa đoạ…. Cánh cửa của sự ô uế vẫn luôn mở và tồn tại song song với cánh cửa Nước Trời. Chính vì thế, sau khi phục sinh, Chúa Giêsu đã ban cho các tông đồ đặc ân là trừ khử mọi ô uế và chữa lành mọi bệnh tật.
Đặc ân ấy ngày nay không chỉ dành riêng cho 12 tông đồ mà cho mọi tín hữu. Mỗi người kitô hữu phải nhận lấy nhiệm vụ trừ khử ô uế nơi chính mình và giúp anh em thoát khỏi mọi điều ô uế.
Lạy Chúa, Chúa đã ban cho các tông đồ quyền trừ khử mọi ô uế nhằm làm sáng danh Chúa, thì xin Chúa cũng ban cho chúng con thêm sức mạnh để trừ khử ô uế nơi chính mình, sống tốt hơn và yêu mến Chúa luôn. (Hosanna).
Mục lục
18.Chúa Nhật 11 Thường Niên
(Suy niệm của Lm. Augustine, SJ.)
Gợi ý để sống và chia sẻ Tin Mừng
Chúa Giêsu đã về trời từ hơn 2000 năm nay, nhưng mệnh lệnh truyền giáo của Người hãy còn rất cấp bách. Theo thông kê trong cuốn Niên Giám 1999 của Toà Thánh, được đệ trình lên Ðức Thánh Cha ngày 20.2.1999, tổng số người Công giáo trên thế giới tính đến ngày 31.12.1997, là 1 tỉ rưỡi người. Tuy nhiên, con số xem ra đông đảo ấy chỉ chiếm 17,3% dân số hoàn cầu. Các lục địa có số người Công giáo đông nhất là Mỹ Châu (62,9%), rồi đến Âu Châu (41,1%) và Úc Châu (27,5%). Riêng Phi Châu chỉ có 14,9% và Á Châu: 3%! (Theo CGDT số 1197)
Tại Việt Nam, theo con số thống kê của các giáo phận vào năm 1995, trên toàn quốc có 4,646,575 người Công giáo số với tổng số dân của cả nước hơn 70 triệu người, tức chỉ chiếm dưới 7%. (Theo cuốn Công Giáo Việt Nam sau quá trình 50 năm: 1945-1995, do CGDT xuất bản năm 1996, trang 509). Như vậy, nếu không tính con số anh chị em Tin Lành trong nước, thì cứ 100 người sống trên mảnh đất Việt Nam, có tới 93 người chưa tin Chúa! Một tỉ lệ khiến chúng ta phải suy nghĩ!
Câu chuyện “Xóm Chùa”
Cộng đoàn nhỏ bé gồm 3 người của Thầy Sáu Sơn vừa mua một căn nhà ở Xóm Chùa. Người dân trong khu vực gọi tên xóm ấy như thế vì xóm ở gần một ngôi Chùa; vả lại hầu hết bà con trong xóm đều là Phật giáo. Ðến sống ở Xóm Chùa, Thầy Sơn học biết thêm nhiều điều về những người láng giềng “bên lương” của Thầy.
Ðiều làm Thầy Sơn ngại ngùng nhất khi mới tiếp xúc với bà con trong xóm, là sự kính trọng đôi lúc thái quá mà họ dành cho Thầy. Về sau Thầy hiểu ra rằng truyền thống Á Ðông ta vốn trọng khổ hạnh và thoát tục, vì vậy cũng dễ hiểu tại sao bà con kính trọng các bậc tu hành, dù các vị thuộc tôn giáo nào. Cũng qua việc chung sống với bà con, Thầy nhận ra họ là những người hiền hoà, trọng nhân nghĩa. Qui tắc luân lý của họ là phải ăn ngay ở lành, phải có lòng NHÂN và tôn trọng sự sống, không chỉ nơi con người mà còn cả nơi các thụ tạo khác: “Thiên địa đại đức viết sinh” – nhân đức cao cả nhất trong trời đất là sự sống.
Với một lương tâm bình an, thanh thản khi sống theo triết lý hoà hợp đó, những người láng giềng của Thầy Sơn dường như không cảm thấy cần thiết phải đi tầm đạo ở đâu khác. Họ cũng chẳng bận tâm tìm hiểu xem đạo giáo của Thầy có gì đặc sắc, mặc dầu họ vẫn một mực kính trọng Thầy và thỉnh thoảng còn mang xôi chè biếu Thầy vào những dịp rằm lớn.
Thách đố
Câu chuyện Xóm Chùa trên đây phản ánh một thách đố chung cho công cuộc truyền giảng Tin Mừng ở Á Châu, một lục địa đã ăn sâu cắm chặt vào những truyền thống nhân bản và tâm linh tự ngàn đời của nó, đến độ sau 4 thế kỷ chinh phục, Kitô giáo chỉ chinh chiếm lĩnh được tâm hồn của 3% dân số châu lục này. Trong những năm gần đây, hầu chuẩn bị cho Giáo Hội bước vào Ngàn Năm Thứ Ba, Ðức Gioan Phaolô II đã triệu tập các Thượng Hội Ðồng Giám Mục của từng châu lục, để duyệt lại các công việc và cách thức truyền giảng Tin Mừng trên các châu lục ấy. Tại kỳ họp của THÐGM Châu Á đầu năm 1998, các Giám Mục Á Châu đã cố phân tích những nguyên nhân khiến việc Tin Mừng hóa ở lục địa này chậm phát triển. Một trong những lý do chính yếu được nêu lên là Giáo Hội trong quá khứ đã quá chậm trễ trong việc mở ra và đối thoại với các truyền thống văn hóa và thiêng liêng lâu đời của Á Châu, để tìm ra nơi đó những phương thế thích hợp cho việc truyền đạt những giá trị của niềm tin Kitô giáo.
Vì vậy, tại Việt Nam chẳng hạn, trong suốt nhiều thế kỷ, người Công giáo Việt Nam hầu như đã sống bên lề văn hoá của quê hương mình, bởi lẽ khi chịu phép rửa tội, họ không còn được phép giữ phần lớn những tập tục của truyền thống mà Giáo Hội thời đó cho là không phù hợp với đức tin Công giáo (như thờ kính tổ tiên, ma chay, tục lệ ngày tết…). Hơn thế, những giáo dân đó còn bị coi là “tây hoá” từ việc xây cất nhà thờ, nghi thức phụng vụ, cho đến cả cách sống và nếp suy nghĩ.
Một cơ hội bị bỏ lỡ
Nói như thế không có nghĩa là, trong quá khứ, Giáo hội không có nhưng mẫu gương hội nhập vào văn hóa bản xứ một cách đặc sắc hầu giúp đẩy mạnh việc Truyền giáo. Xin đơn cử ở đây trường hợp Cha Ðắc Lộ (Alexandre de Rhodes – Thế kỷ XVII), người đã có công đưa đức tin công giáo vào hoà hợp với những giá trị văn hoá Việt Nam. Chẳng hạn cha biên soạn chữ quốc ngữ để quảng bá đức tin dễ dàng hơn. Vì biết người dân Việt ưa chuộng chèo, hát, cha đã cho sáng tác những bài vè, bài thơ về Phúc Âm, về giáo lý, tổ chức ngắm đứng trong Mùa Thương Khó và cho Dâng Hoa tôn kính Ðức Mẹ. Ngoài ra, vì nhận thấy người Việt rất trọng luân thường đạo lý, cha đã khởi sự cuốn giáo lý “Phép Giảng Tám Ngày” bằng việc dạy Mười Ðiều Răn, về đời sau; sau đó mới đề cập đến các mầu nhiệm về Thiên Chúa. Cũng vậy, ý thức rằng dân quê Việt Nam rất mê tín, đâu đâu cũng thấy thần thánh, lại thích những gì cụ thể để diễn tả các tâm tình tôn giáo, cha đã phổ biến rộng rãi việc dùng nước phép, nến phép, các ảnh tượng thánh và tổ chức những lễ nghi linh đình. Cuối cùng, cha Ðắc Lộ yêu mến và đề cao những gì là Việt Nam; cha chủ trương hết sức giữ nguyên những tập tục gia đình, xã hội, văn hoá nghệ thuật của địa phương, chỉ trừ những gì thật sự mê tín và trái với Tin Mừng. Ngài cũng tin tưởng ở lòng đạo của người bản xứ, đến mức đã xin Toà Thánh đặt các Giám Mục người Việt để cai quản Giáo Hội bản xứ trong thời buổi cấm đạo mà các thừa sai ngoại quốc khó xuất đầu lộ diện.
Ðáng tiếc là những sáng kiến hội nhập văn hoá của cha Ðắc Lộ đã không được đón nhận kịp thời. Vì thế Giáo Hội đã để lỡ cơ hội đưa đức tin Kitô giáo ăn sâu bén rễ vào các nền văn hoá lớn ở Á Châu như Ấn Ðộ, Trung Hoa, Nhật Bản và Việt Nam. Ngày nay, với công cuộc canh tân của Công Ðồng Vaticanô II (1962-1965), người Công giáo Việt Nam (cũng như người Công giáo ở khắp nơi) đã được phép cử hành các nghi thức phụng vụ bằng tiếng mẹ đẻ của mình; đồng thời họ được khuyến khích hội nhập các giá trị truyền thống của văn hoá bản xứ vào việc truyền giảng đức tin. Tuy nhiên, công cuộc trở về với truyền thống sau nhiều thế kỷ bị phân cách không phải là con đường phẳng phiu, như lời nhận xét sau đây của Ðức Cha Nguyễn Như Thể tại THÐGM Á Châu: “Ngày nay, Toà Thánh đã cho phép thờ cúng tổ tiên, nhưng muộn mất rồi, vì người Công Giáo không quen nữa nên khó chấp nhận.”
Truyền giáo khởi đi từ việc sống Ðức Ái
Vượt trên mọi hình thức hội nhập văn hoá, có một đòi hỏi hội nhập nền tảng hơn hết: đó là HỘI NHẬP TÌNH YÊU, hội nhập của “văn hoá đức ái”. Thật vậy, trong chỉ thị liên quan đến Truyền Giáo ở cuối bài Tin Mừng hôm nay, Ðức Giêsu dã sai các đồ đệ của Người đi để loan báo Tin Mừng, đồng thời để chữa lành mọi tật bệnh của người khác (c.10,8). Như thế, loan báo Phúc Âm và thăng tiến đời sống những người nghèo khổ, bị bỏ rơi đều là những đòi hỏi cấp bách của Ðức Ái. Hơn nữa, một chứng từ tình yêu siêu việt sẽ có sức mạnh thuyết phục hơn bất cứ một lời giảng thuyết hùng biện suông nào. Chính Mẹ Têrêsa Can-cút-ta, chẳng hạn, đã chọn cách thức “nói” về Thiên Chúa (tức Truyền Giáo) khởi đi từ việc sống Ðức Ái.
Quả thật, Mẹ Têrêsa đã theo sát gót bước Chúa Giêsu khi mẹ “chạnh lòng thương” trước những người nghèo khổ, bệnh tật, hấp hối, không được ai chăm sóc trên các vỉa hè của thành phố Can-cút-ta. Chắc hẳn tâm hồn Mẹ đã bị dằn vặt nhiều trước những con người không có cơ hội sống và chết xứng đáng với nhân phẩm là con cái Thiên Chúa. Cuối cùng, Mẹ đã đặt mình để được Chúa sai đi chăm sóc những con chiên không có người chăn đó, không phải bằng lời nói, nhưng trước hết và trên hết bằng những cử chỉ bác ái siêu vượt.
Chắc hẳn không phải mọi Kitô hữu đều có thể trở nên những Thừa Sai Bác Ái như Mẹ Têrêsa; nhưng tất cả những ai đã chịu phép rửa để thuộc về Chúa Kitô, cũng đều phải thực thi Lời Chúa dạy trong bài Tin Mừng hôm nay. Chúa dạy ta trước tiên, phải cầu xin cùng Thiên Chúa, để chính Người sai ta đi. Một khi kiên trì cầu xin điều ấy, chính Chúa sẽ giúp ta mở cõi lòng hầu có thể yêu tha nhân như chính mình. Nhờ đó ta có thể dễ dàng nói về Chúa cho mọi người hơn.
Ta cũng không quên cầu nguyện cho những người đang âm thầm làm chứng tá cho Chúa trên quê hương Việt Nam (như Thầy Sáu Sơn và cộng đoàn của Thầy), để nhờ việc gắn liền với Chúa Giêsu là thân nho, công việc của các vị đó cũng mang lại nhiều hoa trái cho đất nước Việt Nam, như Mẹ Têrêsa đã mang lại biết bao thành quả cho cánh đồng truyền giáo trên thế giới.
Một số câu hỏi gợi ý
1. Có bao giờ bạn nghĩ rằng một số người đã dửng dưng với đạo Công giáo và không màng tìm biết về Chúa vì họ có một số thành kiến, hay một số hiểu lầm về Ðạo và về những người có Ðạo không? Liệu có cách nào giúp họ vượt qua những trở ngại đó?
2. Theo bạn, cách thức “Truyền Giáo khởi đi từ việc sống Ðức Ái” như Mẹ Têrêsa sẽ hữu hiệu như thế nào với môi trường bạn sống?
3. Bạn có thể góp phần vào công cuộc truyền giáo như thế nào qua cầu nguyện, qua việc làm cụ thể, qua giáo dục ý thức truyền giáo cho con cái?
Mục lục
19.Sứ giả của Tin mừng
Khi nói đến vấn đề truyền giáo, có lẽ theo thói quen, tôi và quý ông bà anh chị em thường nghĩ ngay đến các nhà thừa sai đang làm việc tại các nơi hẻo lánh, xa xôi. Cùng với suy nghĩ đó, một cách mặc nhiên, chúng ta coi công việc này là của các Linh mục, tu sĩ hay một số người nào đó, chẳng liên quan gì đến chúng ta. Thế nhưng, ngay từ đầu lịch sử của Giáo Hội thì không phải như thế, sách Công vụ Tông đồ thuật lại: “Còn những người bị phân tán, thì đi qua đâu, họ đã giảng Lời Tin mừng ở đó” (Cv 8, 4). Như thế, tất cả các kitô hữu đầu tiên đã thực hiện việc loan báo Tin mừng, hay nói một cách khác, họ là sứ giả của Tin mừng cho tất cả những ai họ gặp gỡ, nhất là những người chưa tin. Nếu truyền giáo là như thế, thì ngay tại địa bàn của chúng ta đang rất cần thực hiện công việc loan báo Tin mừng này.
Theo cuốn Niên Giám 2004 của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam thì số tín hữu Công Giáo năm 2003 trên toàn quốc là 5.572.525 người trên tổng số dân Việt Nam là 80.175.578, chiếm tỉ lệ khoảng 6,95%. Một tỉ lệ thật khiêm tốn. Như thế, còn rất nhiều người đang sống quanh ta chưa biết đến Tin mừng tình yêu của Nước Thiên Chúa và, tôi thiết nghĩ, nếu Chúa Giêsu sống ở thời đại chúng ta, chắc hẳn Ngài cũng “động lòng thương xót họ; vì họ tất tưởi bơ vơ như những con chiên không có người chăn” (Mt 9, 36). Và rồi, Ngài cũng sẽ sai chúng ta lên đường như đã sai các môn đệ khi xưa.
Bài Tin mừng hôm nay, cho chúng ta thấy lòng thương xót của Đức Giêsu đối với đám đông dân Do thái theo Chúa khi xưa. Họ đang khao khát nghe lời Chúa dạy. Họ mong ước được Chúa giải thoát cho họ khỏi gánh nặng của lề luật mà các Luật sĩ, kinh sư chất trên vai họ. Đứng trước tình cảnh đó, Chúa đã chọn gọi các tông đồ và sai các ông cùng cộng tác với Ngài trong việc loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa. Chắc hẳn chúng ta còn nhớ lệnh truyền cuối cùng của Đấng Phục Sinh trước khi Ngài về Trời: “Các ngươi hãy đi thâu nạp môn đồ khắp muôn dân … dạy chúng giữ hết mọi điều Ta đã truyền cho các ngươi” (Mt 28, 19). “Cũng như Cha đã sai Ta, Ta cũng sai các ngươi” (Ga 20, 21).
Khi được rửa tội, chúng ta cũng được tuyển chọn làm môn đồ của Chúa, nhưng để thực sự là môn đồ của Chúa, chúng ta cần phải nghe và tuân giữ lời của Ngài như lời cảnh báo của Chúa trong bài sách Đệ Nhị Luật “nếu các ngươi nghe lời Ta và giữ giao ước Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta được tách biệt khỏi mọi dân,… Đối với Ta, các ngươi sẽ là một vương quốc tư tế, một dân tộc hiến thánh” (Đnl 19, 5-6). Và nếu là môn đồ của Ngài, tôi và quý vị cũng được Ngài chia sẻ sứ mạng và sai chúng ta đi làm sứ giả loan báo Tin mừng cứu độ của Ngài.
Như thế, sứ mạng loan báo Tin mừng Nước Thiên Chúa không phải là một việc làm tuỳ ý hay theo sở thích của chúng ta, nhưng là một sứ mạng của tất cả những ai mang danh là kitô hữu vì chúng ta đã nhận được ân huệ nhưng không của Thiên Chúa, chúng ta cũng có bổn phận phải cho nhưng không (x. Mt 10, 8). Thế nhưng, chúng ta phải loan báo Tin mừng nào cho anh em chúng ta?
Mục lục
20.Thời giờ cấp bách
(Trích trong ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’)
Để hiểu đoạn Phúc Âm này, chúng ta hãy phân tích làm 3 phần. Trước hết Chúa Giêsu cho các môn đệ Ngài cảm nhận rằng những người được Thiên Chúa thương xót, giống như một mùa gặt bao la, nhưng thợ gặt lại thiếu, sau đó Ngài lại sai các môn đệ đi làm mùa gặt ấy. Cuối cùng Ngài dạy cho các ông biết phải làm gì. Chúng ta xét phần thứ nhất:
1) Lúa chín đầy đồng, nhưng thợ gặt thì ít… Theo thói quen, Chúa Giêsu dùng một hình ảnh thông thường để giảng dạy một giáo lý cao siêu. Mùa màng tốt đẹp là một ơn lành quý giá đối với người Do Thái và để mất một vài mầm hạt cũng được gọi là thiệt hại đáng tiếc. Vì vậy lúc đó cần có nhiều nhân công để thu hoạch mọi bó lúa cho đúng thời: Nhân loại giống như mùa gặt ấy và các nhân công tinh thần có bổn phận tập hợp người ta và Vương quốc thì ít. Do đó cần phải xin Chủ mùa, cha nhân loại, sai các nhân công cần thiết là các Tông đồ đến với nhân loại ấy.
2) Vậy hãy cầu xin Chủ mùa sai thợ đến gặt đồng lúa của Ngài. Tại sao Chúa Cha không tự mình sai nhân công đi? Có lẽ vì hai lý do: trước hết vì Chúa đã quyết định rằng ơn cứu độ phải chuyển qua trách nhiệm của con người, nghĩa là thông qua dân Do Thái trước kia, thông qua Giáo Hội ngày nay. Giáo Hội chịu trách nhiệm về ơn cứu độ, ý thức tầm mức bao la của công việc, nên cầu xin Thiên Chúa cho có nhiều thợ loan truyền sự Cứu chuộc. Ở đây chúng ta gặp mầu nhiệm của lời kinh cầu bầu. Giáo Hội liên kết với Chúa Giêsu để xin Chúa Cha ban ơn cứu độ cho mọi người. Lý do thứ hai, Chúa Cha muốn cho lời kinh của chúng ta tạo được một kết quả mà chúng ta ít khi nghĩ đến. Lời kinh giúp ý thức mạnh mẽ hơn tầm quan trọng của điều khẩn cầu và chuẩn bị chúng ta thực hiện điều ấy. Khi cầu xin Chúa Cha, sai các môn đệ đến thế gian, chúng ta hiểu được việc ấy hết sức quan trọng và chúng ta mở lòng ra để biết rằng, chính chúng ta phải làm Tông đồ. Như thế người ta càng cầu xin, và càng là Tông đồ càng cảm thấy cần cầu xin.
3) Phải mau lẹ thu mùa màng về, thời giờ thúc bách. Trong Kinh Thánh có nhắc đến bằng nhiều cách bổn phận phải biết dùng thời giờ để hoàn thành công việc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu nhắc nhở Nước Thiên Chúa gần kề. Phải xin Chủ mùa sai thợ đến không những vì mùa màng đầy tràn, nhưng vì thời giờ cấp bách, hạn kỳ ngắn ngủi. Các vị Tông đồ chân chính buộc lòng khi thấy trong Giáo Hội số thời giờ bỏ phí để bàn luận mọi thứ vấn đề ít hay nhiều giả tạo, trong khi nhân loại là một mùa gặt đang sắp hư hại. Một lần nữa lại thấy nhu cầu phải cầu nguyện cho thấy các khẩn cấp chân chính. Chúng ta không xét đoán giá trị thực của một vài tìm kiếm và thí nghiệm mục vụ, những cần tự hỏi chúng ta có lo cầu xin Chúa Cha sai những Tông đồ đến thế giới chúng ta không? Lời cầu nguyện có biến đổi chính chúng ta đến nên những Tông đồ ý thức rằng thời giờ thúc bách hay không?
Mục lục