19/11/2012
1786

Ở Việt Nam, tư tưởng nhân văn đã có trong ý thức của dân tộc từ xa xưa, nó thâm nhuần trong mọi ứng xử với  con người. Người Việt coi trọng con người.“Người ta là hoa đất ”, con người là cái đẹp của cuộc sống này. Sự sống là vô giá. ”Người sống hơn đống vàng”. Quan hệ người với người là quan hệ yêu thương : “Thương người như thể thương thân”

 

Tư tưởng nhân văn đặc biệt phát triển thành trào lưu tư tưởng nghệ thuật từ thời Phục Hưng ở phươngTây. Ðặc trưng chủ yếu của Chủ Nghĩa Nhân Văn là sự suy tôn con người, là sự khôi phục lại con người (hay tính người), và con người bao giờ cũng được coi là tốt đẹp (con người chí thiện). Con người được đặt vào trung tâm thế giới, được đặt lên ngôi cao nhất (con người chí tôn)(1). Văn học và nghệ thuật thời đó đưa “chất người” vàochất thần thánh”, biến đời sống thần thánh thành đời sống bình thường của con người. Con người là vẻ đẹp của thế gian, kiểu mẫu của muôn loài”(Shakespear). Các nhà nhân văn chủ nghiã nhân văn lấy câu của Têrăngxơ, một nhà hài kịch La Mã làm phương châm :”Tôi là một con người, không có cái gì có tính chất người lại xa lạ với tôi”. Con ngưởi là một bộ phận của tự nhiên, sống và chết theo quy luật tự nhiên, vì thế phải trả con người về tự nhiên để nó phát triển theo tư nhiên.(2) Chiến tranh phong kiến, chủ nghiã khổ hạnh, ngu dân, đàn áp tư tưởng là trái với tự nhiên, là nguồn gốc gây ra bất hạnh, xấu xa, tội lỗi trên thế giới. Chủ nghĩa Nhân Văn sau thời Phục Hưng được làm phong phú hơn bởi  tư tưởng dân chủ thời Khai Sáng, ý thức đấu tranh giải phóng con người cuả chủ nghiã Marx và ý thức về  tồn tại của chủ nghiã Hiện sinh.

Nhưng vượt lên trên tất cả là tư tưởng nhân văn Công Giáo mà cội nguồn là Kinh Thánh. Kinh Thánh đem đến cho nhân loại cái nhìn về bản thể con người, về cõi người về ý nghiã sự sống của con người. Con người là gì? Con người không chỉ là vật chất thụ tạo, mà con người được nâng lên khỏi mọi loài thụ tạo, mang bản thể cuả Thiên Chuá, được thánh hiến và ở trong Thiên Chuá. Không có cái nhìn nào về con người siêu việt như thế. Chúa Giêsu đã cầu nguyện với Thiên Chuá Cha cho con người : “Vì họ, con xin thánh hiến chính mình con, để nhờ sự thật, họ cũng được thánh hiến. Con không chỉ cầu nguyện cho những người này, nhưng còn cho những ai nhờ lời họ mà tin vào con, để tất cả nên mộtnhư Cha ở trong con và con ở trong Cha để họ cũng ở trong chúng ta”(Ga.17.19-21). Kinh Thánh nói con người nhưng không phải là con người trừu tượng mà là con người cụ thể, đó là những con người nghèo khổ. Mở đầu bài giảng tám mối phúc, Đức Giêsu dạy rằng :”Phúc cho anh em là những kẻ nghèo khó, vì Nước Thiên Chuá là của anh em”(Lc 6.20). Trong cuộc phán xét chung, Đức Vua đã thưởng cho những người được chúc phúc, vì “xưa Ta đói, các ngươi đã cho ăn ; Ta khát, các ngươi đã cho uống ; Ta là khách lạ, các ngươi đã tiếp rước ; Ta trần truồng, các ngươi đã cho mặc ; Ta đau yếu, các ngươi đã thăm viếng ; Ta ngồi tù, các ngươi đến hỏi han”.”Ta bảo thật các ngươi : mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây, là các ngươi đã làm cho chính Ta”(Mt.25.35-40). Kinh Thánh đã trân trọng con người ở thân phận bé nhỏ và khốn khổ nhất, lấy hành động vì con người làm thang bậc giá trị để  phán xét ở ngày cánh chung.

Từ cái nhìn con người như thế, Kinh Thánh lấy lòng yêu thương con người làm điều răn  quan trọng. Khi được hỏi điều răn nào quan trọng nhất, Đức Giêsu trả lời :” Ngươi phải yêu mến Đức Chúa, Thiên Chúa của ngươi, hết lòng, hết linh hồn và hết trí khôn ngươi. Đó là điều răn lớn nhất và điều răn đứng đầu. Còn điều răn thứ hai, cũng giống điều răn ấy, là: ngươi phải yêu người thân cận như chính mình.(Mt.22.37-39). Chúa còn dạy :“Thầy bảo anh em: hãy yêu kẻ thù và cầu nguyện cho những kẻ ngược đãi anh em”(Mt. 5:44).Nhưng yêu thương như thế nào ? Dụ ngôn về người Samari tốt lành là một lời giải đáp cụ thể (Lc.10.29-37) Thấy người bị nạn bên đường, thầy Tư Tế bỏ đi, thầy Lêvi cũng tránh xa, còn người Samairi lại gần “lấy dầu, lấy rượu đổ lên vết thương cho người ấy và băng bó lại, rồi đặt người ấy trên lưng lừa của mình, đưa về quán trọ săn sóc. Hôm sau, ông ta lấy ra hai quan tiền, trao cho chủ quán và nói:” Nhờ bác săn sóc cho người này, có tốn kém bao nhiêu,thì khi trở về, chính tôi sẽ hoàn lại bác”. Người phụ nữ ngoại tình bị bắt quả tang, theo luật Môise thì phải bị ném đá. Thế nhưng Đức Giêsu đã cứu chị và nói với chị :” tôi không lên án chị đâu! Thôi chị cứ về đi, và từ nay đừng phạm tội nữa!"(Ga.8.11) . Một lần khác, cảm thương tình cảnh cuả chị em Mácta và Maria, Đức Giêsu đã khóc thương Lazarô (Ga.11.33). Người đã truyền cho Lazarô từ cõi chết sống lại. Qua những trường hợp cụ thể ấy, Kinh Thánh đã chỉ ra, tư tưởng nhân văn Công Giáo  thể hiện ở lòng yêu thương mang đến sự giải thoát con người khỏi đau khổ, tội lỗi và sự chết.

Vấn đề con người, giải phóng con người, và hạnh phúc của con người là vấn đề của muôn thuở. Tư tưởng nhân văn Phục Hưng hay nhân văn của chủ nghiã Marx, cả chủ nghiã Hiện sinh cũng chỉ là không tưởng. Bởi những bi kịch của con người vẫn còn nguyên đó. Đau khổ, thù hận, tội lỗi, cái chết vẫn bao trùm lấy con người. Chỉ tư tưởng nhân văn Công Giáo mới soi rọi ánh sáng cho số phận của con người. Trong Đất Mới, tư tưởng nhân văn Công Giáo được Song Nguyễn thể hiện thế nào?

Tư tưởng ấy được thể hiện qua nhân vật trung tâm là Lm Phương Toàn. Cái nhìn cuả Lm Phương Toàn về con người là cái nhìn trân trọng, hiểu biết và cảm thông sâu sắc Người nhìn thấy vẻ đẹp thánh trên khuôn mặt Tương Ấn khi qua đời. “khuôn mặt gầy gò xanh mét dần dần trở nên đầy đặn hồng hào, với một vẻ bình an lạ lùng”(tập2.tr.45)  Trong bịnh viện, Người nhìn anh thanh niên nằm bên cạnh mình, nhìn những bệnh nhân cùi xung quanh mình như bạn hữu, cùng xẻ chia thân phận con người trong cảnh ngộ ngặt nghèo. Người cũng nhìn với thái độ ẩn nhẫn và trân trọng với những người đã gây ra cho mình sự khốn khó  trong lúc nằm viện (Chương4 tập 1) hay lúc bị tạm giam 75 giờ (Chương 11 tập 3) và cả lúc ngài phải hạ mình trước bọn xấu khi đi tìm đòan con bị giữ ở đồi vàng. Điều này trái ngược với cái nhìn cực đoan của Trưởng Tuất và cái nhìn đố kỵ cuả những người xung quanh ngài.  Trong hoàn cảnh khó khăn và đầy lo âu của những năm tháng sau 1975, tương lai chưa biết thế nào, lòng người không nguôi xao xuyến, cái nhìn về con người của Lm Phương Toàn là cái nhìn sâu thẳm của tư tưởng nhân văn Công Giáo. Cái nhìn ấy như  hào quang ngời lên trong tăm tối, đau khổ, hoạn nạn, và cả những nghịch cảnh trong suốt tác phẩm.

 

Thái độ chọn lựa đứng về phiá người nghèo khổ cuả Lm Phương Toàn mới thực sự thể hiện tư tưởng nhân văn Công Giáo. Ngài đi kinh tế mới với giáo dân, cùng lao động, cùng sẻ chia những khó khăn vất vả. Ngài sống giữa mọi người, như mọi người, nhưng quan tâm đến mọi người, chăm lo cả đời sống vật chất và tinh thần cho mọi người. Lm Phương Toàn từ chối quyết liệt sự mời gọi xuất cảnh cũng là từ chối sống cuộc sống cá nhân sung sướng hơn, thoải mái hơn, để sống cuộc sống nhập thể với người nghèo, người đau khổ. Dù là lúc nằm viện hay là lúc du lịch trên đất Mỹ, tiếng gọi của những con người thương yêu nơi quê hương luôn vang lên trong đầu ngài, luôn lôi kéo ngài trở về với họ và dấn thân cho họ. Ngài đã làm hết sức mình cho cuộc sống no cơm ấm áo của họ, cho đời sống tinh thần đói khát cuả họ. Không có lòng yêu thương con người mãnh liệt thì Lm Phương Toàn không thể dấn thân như thế.

 

Lý tưởng của chủ nghiã nhân văn là hướng đến sự giải phóng con người khỏi trạng thái nô lệ, khẳng định giá trị làm người, đem đến hạnh phúc cho con người ngay trong cõi đời trần gian này, nhận ra cái đẹp của chính cuộc sống thế tục. Muốn vậy phải hành động để thay đổi  những hoàn cảnh làm tha hoá con người. Đất Mới có đạt đến lý tưởng của chủ nghiã nhân văn như vậy không?

 

Lòng yêu thương con người  của Lm Phương Toàn đã  làm nên một  vùng “đất mới”. Nơi âý con người được giải phóng khỏi những hẹp hòi, ích kỷ, thù nghịch. Nơi ấy con người mở lòng ra với nhau để cùng góp sức xây dựng cuộc sống ấm no hạnh phúc, xẻ chia cơm áo và tình thương. Nơi ấy hóa giải mọi mâu thuẫn để cùng phát huy những nguồn lực vật chất và tinh thần. Nơi ấy hoàn cảnh sống được cải thiện để không còn  làm tha hoá con người.

 

Có thể thấy rõ tư tưởng nhân văn Công Giáo trong Đất Mới đã nở hoa thành quả trong hiện thực. Những định kiến ban đầu của nhân viên Nhà nước với Lm Phương Toàn dần dần được thay thế bằng sự hiểu biết và trân trọng lẫn nhau.Những yêu thương ích kỷ của Mỹ Linh , Minh Nguyệt hay ông trưởng Tuất được thay thế bằng tình yêu thương có tầm vóc xã hội rộng hơn để rồi sau đó chính gia đình Mỹ Linh, Minh Nguyệt đã có những đóng góp quan trọng và có ý nghiã giúp Lm Phương Toàn hoàn thành ý nguyện của mình. Việc dời ấp Tân Hữu là một nỗ lực làm thay đổi môi trường, làm thăng tiến đời sống giáo dân, ngăn chặn được những yếu tố làm tha hoá con người, mà trực tiếp là nạn nghèo đói. Sự sẻ chia cơm áo cuả giáo dân Tân Hữu cho bà con di dân Tân Thành là hành động cụ thể của yêu thương Công Giáo. Cả tác phẩm Đất Mới là bài ca yêu thương, bài ca ca ngợi con người. Ánh sáng tư tưởng nhân văn Công Giáo trở nên rực rỡ, đem đến một niềm tin thực sự cho người đọc, niềm tin vào con người chí thiện, vào sức mạnh của con người có thể làm nên Nước Trời ngay trong cõi tại thế này, và hơn hết niềm tin vào người mục tử tốt lành hết lòng vì đoàn chiên.

 

Hãy so sánh một chút với một truyện miêu tả con người qua cái nhìn của chủ nghiã hiện sinh. Dương Nghiễm Mậu trong truyện CŨNG ĐÀNH (1958) kể lại cuộc chạy trốn cuả một con người từ Sơn Tây về Hà Nội. Không có giấy tờ tùy thân, anh ta phải  trốn trên xe chở củ nâu .Về đến bến xe Kim mã, trời tối, anh không biết đi đâu, đành chui vào một túp lều sống với lũ chuột.. Cuộc sống trôi đi. Anh ta như  như con chó ốm ghẻ, lang thang lẩn lút, không chốn nương thân. Không có tiền mua thuốc, anh ta phải nuốt giun để chưã sốt rét. Không có gì để ăn, anh ta phải nhét vào mồm từng chút cặn thịt hộp đã thiu moi trong ống lon ở bãi rác để khỏi chết đói. Rồi cũng tìm được việc làm phụ ở chỗ thổi thuỷ tinh. Lại bỏ việc, đi  nhặt mảnh chai. Rồi dun rủi, lại sống chung với gái điếm ,và sau cùng bị bắt. Khi bị tra hỏi, anh ta không biết mình là ai, kể cả tên mình. Bị đánh dập tra khảo mãi, anh ta đành chịu vì  chẳng biết khai gì. Viên cố đạo đến giúp tù binh, bị anh ta chửi vào mặt. Rồi một hôm bọn lính dồn anh ta lên xe chở ra cánh đồng, bắt đào hố. Anh ta biết sắp được tự chôn mình. Có tiếng lên đạn lách cách, chúng bắt anh quay mặt vào hố. Anh ta nhớ câu hỏi :”Cha mẹ mày tên gì”. Câu truyện kết thúc ở đó. Nhà văn hiện sinh miêu tả con người như con vật trần trụi, bị săn đuổi, không chốn nương thân. Sống là đi về cái chết như một tất yếu bi đát. Cô đơn trong thân phận con người. Tuyệt vọng đến chối bỏ cả đức tin, và vô nghiã đến độ không còn biết mình là ai. Nhìn con người như thế, nhà văn tỏ ra hoàn toàn bất lực trong nhận thức về con người về sức mạnh vất chất và tâm linh cuả con người. Con người đành bó tay trong cõi chết từng ngày.Nếu nhà văn có yêu thương con người thì tình yêu thương ấy chẳng đem đến cho con người điều gì an ủi ngoài nỗi sợ hãi và tâm trạng bi đát. Trái lại, tư tưởng nhân văn trong Đất Mới soi rọi vào bên trong sức mạnh cuả con người, sáng lên những phẩm chất tốt đẹp của con người và đem đến niềm tin cứu rỗi cho con người khỏi tăm tối tuyệt vọng. Đất Mới đem đến niềm tin hân hoan cho người đọc.

 

Tư tưởng nhân văn Công Giáo cũng kết tinh trong việc xây dựng nhân vật Lm Phương Toàn, như một con người bình thường nhưng lại đạt đến những phẩm chất lý tưởng cuả một con người có lý tưởng nhân văn đẹp đẽ. Điều này xóa đi những ngộ nhận, bôi bác cuả Chu Văn trong Bão Biển. Nhà văn này đã miêu tả xuyên tạc, làm méo mó hình ảnh người tu sĩ, người Công Giáo ở miền Bắc những năm 1955 đến 1960. Chu Văn quy kết cho người Công Giáo đã phá hoại công cuộc xây dựng chủ nghiã xã hội, từ việc bắc loa phong thanh, trồng bèo hoa dâu, làm nhà hộ sinh đến những việc phá hoại khác. Tu sĩ bị coi là thành phần hủ hoá, là lực lượng ngầm cản trở những nỗ lực tiến lên cuả xã hội. Chủ đề cuả tác phẩm này khẳng định bão táp cách mạng sẽ đánh tan mọi thế lực chống lại cách mạng xã hội chủ nghiã ở miền Bắc.Tác phẩm này còn được dựng thành phim Ngày Lễ Thánh để chiếu tuyên truyền ở nhiều nơi. Ngày nay, hiện thực cuộc sống đã lật tẩy những điều Chu Văn biạ đặt ra. Đất Mới khẳng định chính người mục tử Công Giáo, cùng với giáo dân “sống Phúc Âm giữa lòng dân tộc”, đang đóng góp tích cực vào công cuộc xây dựng Đất Nước. Sở dĩ được như vậy là vì nhân vật Lm Phương Toàn thực sự là mục tử hiến thân vì đoàn chiên. Kiểu nhân vật như vậy là kiểu nhân vật tích cực đóng góp cho văn chương Việt Nam, Đó là nhân vật tỏa sáng tư tưởng nhân văn, mà dù là ai trong xã hội đếu nhận ra những giá trị tốt đẹp ở nhân vật này.

 

 Trong nhiều tác phẩm của văn chương Việt Nam hiện nay, đầy dẫy những nhân vật bệnh hoạn, sống truỵ lạc, chán chường, vô vọng, lặn ngụp trong sex (3). Thật khó tìm ra một nhân vật lý tưởng, một nhân vật có lý tưởng sống tích cực. Nhiểu tác phẩm của nhà văn trẻ đang cổ vũ cho chủ nghiã thực dụng, vị kỷ, cổ vũ cho lối sống vô luân, đồi trụy. Chẳng thể tìm đâu được một nhân vật biết sống vì tha nhân, vì cộng đồng ; chẳng thể tìm đâu được một nhân vật tích cực, được xây dựng dưới ánh sáng của chủ nghĩa nhân văn tiến bộ, biết hành động đem tình người đến mọi nơi, đẩy lùi đói nghèo và tha hoá như nhân vật Lm Phương Toàn trong Đất Mới. Thực trạng ấy của văn chương Việt Nam đang được báo động, bởi nó góp phần làm tha hoá người trẻ, làm băng hoại văn hoá Việt Nam và làm sụp đổ các giá trị tinh thần cuả Văn hoá Việt Nam. Nghị quyết 23 của Bộ Chính Trị đã phê phán :” Một số sản phẩm văn học, nghệ thuật tầm thường, chất lượng kém được phát hành, truyền bá gây tác hại, ảnh hưởng xấu tới công chúng, nhất là thế hệ trẻ … chiều theo thị hiếu thấp kém của một bộ phận công chúng, hạ thấp chức năng giáo dục, nhấn mạnh một chiều chức năng giải trí.” Nghị quyết cũng đề ra mục tiêu:” Tập trung mọi nguồn lực xây dựng nền văn học, nghệ thuật Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, xây dựng nhân cách con người Việt Nam đáp ứng nhu cầu ngày càng cao và đa dạng về chân, thiện, mỹ của các tầng lớp nhân dân…”

Đất Mới được viết trong ánh sáng của tư tưởng nhân văn Công Giáo nên từ nội dung câu truyện đến nhân vật, chi tiết nghệ thuật đến bút pháp đều ánh lên vẻ đẹp chân thực có thể chạm vào được tâm thức sâu xa cuả người đọc. Đó là khát vọng về một “Đất Mới” trong đời thực, niềm tin vào con người. Hoặc ít ra cũng đem đến cho người đọc cái nhìn nhân ái về cuộc sống, nhận ra sự tốt đẹp của cuộc sống ở cõi tại thế này và khẳng định sức mạnh cuả tình yêu thương có sức giải thoát con người khỏi đau khổ, tội lỗi và sự chết. Đọc Đất Mới dưới ánh sáng của tư tưởng nhân văn Công Giáo, người đọc sẽ nhận ra giá trị nhiều mặt của tác phẩm này. Đó quả là một món quà quý giá Song Nguyễn dành tặng chúng ta.

_________________________________________________

(1)     Nguyễn Kiến Giang.http://phucdinhhong.wordpress.com/2010/01/18/v%e1%ba%a5n-d%e1%bb%81-con-ng%c6%b0%e1%bb%9di-va-ch%e1%bb%a7-nghia-nhan-van-m%e1%bb%9bi-pha%cc%80n-1/#more-96

(2)     Tự điển Văn Học. tr291

(3)     Xin đọc : Bóng Đè, I’m Đàn Bà, Dị Bản, Nháp. Sợi Xích, Dại Tình…


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...