Sau chuyến bay dài từ Sài Gòn ra Hà Nội, rồi ngồi xe hơn bốn tiếng nữa, vị khách miền Nam mới được đặt chân lên vùng sơn cước Đông Bắc. Mảnh đất thiêng liêng mà từ ngày vào dòng, cô luôn nuôi trong lòng ao ước được một lần đến thăm. Cô đến đây mang theo khao khát được trở thành một người truyền giáo. Nhắm mắt để cho gió mơn man trên khuôn mặt, hít một hơi thật sâu để hưởng trọn mùi của đất mẹ, cô tưởng tượng mình đang mặc bộ áo dòng trắng tinh, tay ôm thúng lúa, vừa đi vừa tung gieo hạt giống trên con đường đầy sỏi đá. Những hạt giống vừa rơi xuống đất đã nảy mầm, vươn lên, trổ ra những hạt lúa óng vàng, bóng mẩy, tỏa hương thơm ngạt ngào.
Chiếc xe khách tấp vào lề rồi vội vàng lao đi, để lại một cô gái dáng vẻ mảnh mai đang ngơ ngác trong ánh chiều vàng nhợt nhạt. Hơi nóng rừng rực phả ra từ những vách đá, mùi âm ẩm gay gắt hắt lên từ mặt đất, một cơn gió kiêu kì tạt ngang khóe mắt như muốn khiêu khích vị khách lạ.
Tiếng nổ lịch xịch của chiếc Cup 50 cũ kĩ làm chị nữ tu trẻ giật mình quay lại.
Ngồi sau xe, Liên dáo dác nhìn cảnh vật xung quanh. Cô cố nói to át tiếng gió vù vù.
Liên không hỏi thêm nữa. Cô hiểu sự sang trọng, hiện đại của các thành phố lớn vốn được trang hoàng bằng tài nguyên và sự an bình lấy từ những nơi thôn dã này.
Chiếc xe thắng lét két trước cánh cổng tre cao tầm ngang thắt lưng người. Trước mặt Liên là căn nhà cấp bốn nhỏ nhắn với mái ngói, tường vôi và một giàn bầu xanh mướt ngay lối vào.
Chị Sâm còn đang nói thì Liên bắt gặp ánh mắt của một bé gái chừng 10 tuổi trong bộ quần áo nhem nhuốc, mái tóc hoe vàng để chấm vai. Nhìn theo ánh mắt của Liên, Sâm cũng thấy con bé, vừa lục đục mở khóa cửa, vừa giải thích.
Buổi sáng đầu tiên ở vùng cao. Đang ngắm giàn bầu xanh mướt, Liên chợt nảy ra ý định làm quen với cô bé hàng xóm vừa gặp hôm qua. Chọn một quả bầu thật ngon, Liên vui vẻ bước qua hàng rào, đến bên cô bé đang lúi húi nhổ cỏ.
Con bé đứng lên, giương mắt nhìn Liên đầy vẻ nghi ngờ. Còn chưa kịp nói thêm câu nào thì bất ngờ một bàn tay hất mạnh quả bầu trên tay Liên rơi xuống đất.
Bất ngờ. Hốt hoảng. Liên không dám giải thích thêm một lời nào.
Buổi sáng thứ hai, Liên được cùng chị Sâm đi thăm một gia đình người dân tộc. Chiếc xe cũ kĩ chật vật qua những khúc đường vòng vèo, đất đá nhấp nhô. Có khi xe mon men trên đoạn đường đèo một bên là vách núi, một bên vực sâu hút tầm mắt. Liên sợ đến nín thở, tay ghì chặt lấy áo chị Sâm, không dám nói lời nào. Cuối cùng, xe dừng lại dưới chân một con dốc thẳng đứng. Hai chị em phải xách đồ đi bộ lên dốc, đúng hơn là phải đi bằng cả hai tay hai chân. Trên đỉnh ngọn đồi là một ngôi nhà lụp xụp dựng bằng đủ thứ vật liệu, lá, ngói, bạt, tôn. Từ xa, đã nghe trong nhà vọng ra tiếng líu ríu của trẻ con.
Chị Sâm nhanh nhẹn bước vào như đã quen biết từ lâu. Liên ngập ngừng theo sau. Bên trong căn nhà là đôi vợ chồng với gần chục đứa trẻ đang quây quanh nồi cháo đặt trên bếp. Vừa thấy chị, mấy đứa trẻ chạy ùa tới, chị ôm lấy từng đứa, ân cần xem chân tay, mặt mũi, vạch áo xem lưng xem bụng cho từng đứa. Chị nói sợ đám trẻ bị lây sởi từ một đứa mới khỏi bệnh tuần trước. Rồi lại tay bế, tay dắt, chị mang chúng nó ra giếng, tắm rửa cho từng đứa một. Chị Sâm toàn nói chuyện với lũ trẻ bằng tiếng dân tộc, Liên không hiểu gì, nhưng cũng hăng hái giúp chúng mặc quần áo, chơi đùa với chúng. Xong xuôi, chị Sâm còn dặn dò gì đó với bà mẹ, rồi mới chuẩn bị ra về. Đột nhiên Liên nhìn thấy trong góc nhà có bức tượng Đức Mẹ đang nằm chỏng chơ. Chạy đến nhặt tượng lên, Liên nhìn chị Sâm rồi quay sang nhìn hai vợ chồng. Người đàn ông nói bằng tiếng Kinh:
Chị Sâm không nói gì, rút chiếc khăn tay trong túi ra lau sạch tượng, cung kính đặt lại trên bàn thờ, quay xuống ôn tồn nói với người chồng:
Nói rồi chị Sâm vui vẻ chào mấy đứa trẻ rồi ra về.
Trên đường về, lòng Liên nặng trĩu vì hình ảnh bức tượng Đức Mẹ bị vứt trong xó nhà.
Một buổi sáng, đang tưới mấy luống rau trồng cạnh hàng rào, Liên phát hiện mấy thứ rau quả mình mang qua biếu nhà hàng xóm đang nằm teo héo dưới đất. Đã hơn một tuần qua, ngày nào Liên cũng mang sang nhà hàng xóm khi thì quả bầu, khi thì bó rau, hay quả dứa, khi thì chiếc khăn mặt mới Liên chưa dùng tới. Liên chỉ lẳng lặng đặt trước cửa nhà rồi về. Không có ý thuyết phục họ bằng những thứ rẻ tiền đó, nhưng cô muốn ông cháu bé Miên hiểu thành ý làm quen của mình. Giờ nhìn thấy kết quả, Liên thất vọng ê chề. Hóa ra sống cùng họ đã khó, huống hồ muốn họ biết Chúa còn khó bao nhiêu.
Một ngày, trời vừa chập choạng tối, hai chị em đang ngồi ăn cơm. Một người đàn ông hớt hãi chạy vào gọi chị Sâm, Liên nhận ra đó là người chồng của gia đình đông con sống trên đỉnh đồi.
Chị Sâm rồ ga phóng thật nhanh. Tiếng nổ của chiếc xe xé tan bầu khí tĩnh lặng của núi rừng lúc chiều tà, ánh đèn vàng yếu ớt của chiếc xe chỉ đủ chiếu xuống một khoảnh đất trước mặt, thế mà chị Sâm vẫn phóng như bay. Đột nhiên, chiếc xe kêu lực khực mấy tiếng rồi chết máy. Chị Sâm hì hục đạp mà nó vẫn không chịu nổ. Sau một hồi vật lộn với chiếc xe, hai chị em đành phải dẫn bộ đi tiếp. Xe và người vừa đến chân dốc thì cũng là lúc bên kia quả đồi đã thấy lấp ló ánh trăng non. Chị Sâm và Liên leo được đến cửa nhà thì đã thấy bên trong một ông thầy mo đang cầm nhang nhảy nhót quanh xác đứa trẻ. Chị Sâm đi xông xông vào nhà thì bị người mẹ chạy ra cản lại.
Chị Sâm và Liên hậm hực nắm tay nhau cố bước vào, nhưng bà mẹ nhất quyết cản lại.
Chị Sâm dừng lại, im lặng không nói một lời nào. Rồi chị đưa tay lên làm dấu Thánh Giá, đọc kinh, Liên cũng đọc theo chị. Chị còn đọc công thức rửa tội cho đứa bé dù không ở gần nó. Xong, chị quay căn dặn bà nhớ chôn cất đứa bé đàng hoàng, chị nói con của bà nhất định đang ở trên Thiên Đàng. Nói rồi, chị nắm tay Liên đi ra, Liên thở dài, tiếc nuối:
Chị Sâm không nói gì. Hai chị em dắt nhau đi vào màn đêm tịch mịch. Đêm đó, về đến nhà đã rất khuya, cả hai chị em đều mệt nhừ nhưng cứ trằn trọc không ngủ. Liên nghe trong lòng có tiếng đổ vỡ của những giấc mơ truyền giáo.
Thoắt cái đã đến ngày phải về lại nhà dòng, xách ba lô ra khỏi nhà, Liên cố nán lại nhìn sang nhà hàng xóm, có ý muốn nói lời chào tạm biệt bé Miên, nhưng căn nhà vẫn đóng cửa im lìm. Phóng tầm mắt nhìn tất cả cảnh vật lần cuối, Liên chợt thấy lòng nặng nề một nỗi thất vọng. Mười ngày trôi qua với dường như vô nghĩa, khi Liên tuyệt nhiên chưa thấy được một chút kết quả nào từ những công việc của Liên và cả chị Sâm.
Chiếc xe nổ máy, Liên chuẩn bị lên xe, chợt có tiếng gọi.
Liên tròn mắt nhìn bé Miên. Trước mặt Liên là cô bé hàng xóm đang cười thật tươi, Liên chưa nhìn thấy nó cười như vậy bao giờ. Miên cẩn thận đặt vào bàn tay Liên một chùm hoa hồi.
Ngồi trên xe, chùm hoa hồi vẫn giữ trong tay, Liên chăm chú ngắm từng cánh hoa. Hoa hồi là loài hoa đơn sơ, giản dị, bông hoa có năm cánh gắn kết bằng những đường nét liền nhau không dễ gãy rụng. Hương hoa dịu dàng, đằm thắm nhưng bền bỉ và nồng ấm. Vào dòng ngần ấy năm, đến bây giờ Liên mới thấu hiểu đầy đủ ý nghĩa hình ảnh hoa hồi trên huy hiệu dòng mình. Người truyền giáo không cần mang nhiều những sắc màu rực rỡ để thu hút bướm ong, cũng chẳng cần quá phô trương những hương thơm sang trọng. Nhưng thứ cần hơn cả là tấm lòng mộc mạc và niềm tin bền bỉ như loài hoa hồi sứ Lạng. Hoa trái của việc truyền giáo chắc không dễ trổ bông, sinh hạt như tưởng tưởng của Liên khi lần đầu đặt chân đến miền đất này, nhưng nó cần thời gian và hy vọng không ngừng.
Liên nhắm mắt ngả đầu lên ghế, vẫn nghe thoang thoảng hương hoa hồi….
Tác giả Maria Nguyễn Thị Hồng Lài
Dòng Đa Minh Gò Vấp