29/08/2016
1063

1. Độc thân

Phát biểu trong Thượng hội đồng Giám mục thế giới, nhóm họp tại Rôma vào tháng 10.1990, Đức Cha Nguyễn Văn Hoà, Giám mục Nha Trang đã đề cao chứng tá của đời độc thân linh mục. Ngài cho biết: Sở dĩ các linh mục ở Việt Nam được kính trọng là nhờ ở đời sống độc thân. Đồng thời cũng nhờ đời sống độc thân mà các linh mục xứng đáng được gọi là thầy. Như chúng ta đã biết linh mục là Alter Xtus, là Đức Kitô thứ hai. Nếu Đức Kitô đã được gọi là Thầy nhờ vào sự tận hiến của Người, thì các linh mục cũng thế, muốn được gọi là thầy, thì cũng phải sống tâm tình hiến dâng.
Trong Phúc Âm Chúa Giêsu đã nhiều lần xác quyết: Ai không từ bỏ cha mẹ, vợ con, ruộng vườn, nhà cửa, thì không thể làm môn đệ Ta được. Là môn đệ của Chúa, chúng ta phải trở nên giống Người, có nghĩa là chúng ta cũng phải dâng hiến, và sự dâng hiến trọn vẹn nhất cho Chúa, chính là cuộc sống độc thân của các linh mục và tu sĩ.
Trên bình diện Giáo Hội, sự độc thân của các linh mục tu sĩ chính là một kho tàng Thiên Chúa đã trao tặng cho Giáo Hội, bởi vì nhờ đó các ngài không còn bị ràng buộc bởi hôn nhân, bởi gia đình, bởi tài sản và những tiện nghi vật chất khác nữa.
Nhìn vào xã hội Việt Nam, chúng ta thấy có những thuận tiện cho việc độc thân của linh mục và tu sĩ, bởi vì các tín hữu luôn quý mến và nâng đỡ các ngài, chính những tình cảm nồng hậu ấy trở nên như một hàng rào bảo vệ cho sự độc thân của các ngài. Đó không phải chỉ là một ơn riêng cho bản thân linh mục mà còn là một quà tặng chung cho Giáo Hội, bởi vì các ngài trở nên như những chứng tá cho Giáo Hội, đồng thời qua sự độc thân ấy, các ngài như muốn mời gọi tất cả chúng ta: Hãy sống trọn vẹn cho Thiên Chúa, đó cũng là một ơn gọi chung cho mọi người tín hữu.
Thực vậy, sự nên thánh không bao giờ có một biên giới bởi vì mọi người đều được mời gọi để nên thánh. Các linh mục và tu sĩ thì nên thánh qua bậc độc thân của mình, còn người giáo dân thì nên thánh qua bậc gia đình và môi trường sống của mình. Chính vì thế sống bậc gia đình không phải là một cái gì thấp kém nhưng cũng là một ơn gọi. Nếu chúng ta trung thành trong đời sống vợ chồng, nếu chúng ta chu toàn được những bổn phận của mình trong phạm vi gia đình, chúng ta cũng có thể nên thánh.
Chúa Giêsu không đến để hạ giá đời sống gia đình, nhưng trái lại Người đã nâng nó lên hàng bí tích và lấy nó làm hình ảnh tượng trưng cho sự kết hợp giữa Người và Giáo Hội. Nếu như linh mục phải đi cho đến tận cùng lời cam kết độc thân của mình, thì chúng ta, những người giáo dân, chúng ta cũng phải đi cho đến tận cùng lời cam kết hôn nhân của mình.
Bởi đó chúng ta hãy cầu nguyện cho các linh mục cũng như cho mỗi người chúng ta biết sống trọn vẹn cho Chúa trong bậc sống của mình ở mọi nơi và trong mọi lúc.

2. Như người tôi t.

Theo sự tính toán của người đời, thì mỗi khi chúng ta theo đuổi một con người, một công việc hay một chế độ nào, thì chúng ta phải thu lại được những lợi lộc vật chất hay những địa vị danh giá. Đó là điều hết sức bình thường và hợp lý. Chính mười hai môn đệ thân tín nhất của Chúa Giêsu cũng đã có một tâm trạng như vậy.
Chẳng thế mà có lần các ông đã không biết sượng sùng khi đặt thẳng câu hỏi này với Chúa: “Lạy Thầy, chúng con đã bỏ hết mọi sự để theo Thầy, vậy thì chúng con sẽ được lại những chi?”. Các ông cũng đã từng tranh cãi xem ai trong các ông là người quan trọng nhất trong cái triều đình của Chúa. Các ông cũng đã từng bực dọc ghen tức khi thấy mẹ của Gioan và Giacôbê đến xin Chúa dành cho hai con mình những chỗ ngon nhất, đó là được ngồi bên tả và bên hữu Chúa.
Đứng trước quan niệm thông thường ấy của các môn đệ, của những người theo Chúa, Ngài đã có một lập trường khác hẳn, vừa khó nghe lại vừa khó hiểu. Ngài nói: Ai yêu cha mẹ hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai yêu con trai, con gái hơn Ta thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không đáng làm môn đệ Ta. Ai giữ mạng sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mất mạng sống mình vì Ta, thì sẽ giữ lấy được. Lần khác Chúa cũng nói: Ai là người nhỏ nhất trong anh em thì kẻ ấy sẽ là người lớn nhất. Và Ngài cũng đã khuyên nhủ các môn đệ: Vương giả trần gian thì làm chúa thiên hạ và những ai cầm quyền thì bắt dân gọi mình là ân nhân. Phần các con thì đừng làm như thế, trái lại ai lớn nhất trong các con thì phải trở nên người nhỏ nhất, và kẻ làm đầu thì phải hầu hạ mọi người. Thầy sống giữa các con như một kẻ tôi tớ.
Những lời mời gọi chói tai này đã làm cho không ít người phải khó chịu, nhưng đồng thời cũng những lời tuyên bố ngược đời này vẫn không ngừng lôi cuốn biêt bao người dấn thân vào một cuộc phiêu lưu, không biết đâu là giới hạn. Nếu Đức Kitô chỉ là một con người bình thường, hoặc giả là một bậc vĩ nhân đi nữa, mà nếu Ngài chỉ nói suông như thế thì cũng chẳng mấy ai tin. Nhưng Ngài còn là Con Thiên Chúa và lời Ngài có được cái giá trị siêu việt. Hơn nữa, chính Ngài đã lấy cả cuộc sống và cái chết để minh chứng lời Ngài là sự thật. Còn chúng ta thì sao? Trước lời mời gọi của Chúa, chúng ta có dám sống tinh thần từ bỏ và chấp nhận mọi hy sinh để bước theo Chúa hay không?

3. Thp giá đời thường.

Khi ngắm đàng thánh giá, giữa mỗi chặng chúng ta thường đọc:
- Chúng con kính lạy và ngợi khen Chúa Kitô. Vì Chúa đã dùng thánh giá Chúa mà chuộc tội cho thiên hạ.
Và hôm nay, qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, Chúa Giêsu cũng bảo:
- Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình vác thập giá mình mà theo Ta.
Điều Chúa muốn là mỗi người hãy ngồi lại để nhận rõ đâu là thập giá của mình để vác theo Chúa, để không còn than thân trách phận, để không còn trốn chạy và bỏ cuộc.
Nói thế chúng ta cứ tưởng là một điều gì xa vời nhưng trái lại, đó là một điều thật gần gũi, bởi vì trong chương trình cứu độ, Chúa bao giờ cũng để thập giá vừa tầm tay mỗi người. Chu toàn bổn của mình hằng ngày đó chính là cây thập giá đời thường mà mỗi người phải trung thành vác cho đến cùng, mặc dù nhiều khi cũng cực nhọc, vô vị và đơn điệu lắm.
Dầu muốn dầu không, một khi đã sống trên cõi đời này, chúng ta vẫn phải kề vai vác lấy thập giá của mình. Chi bằng hãy can đảm vác lấy với Chúa và theo Chúa, lúc đó chúng ta sẽ cảm thấy được bình an trong tâm hồn, và tìm thấy được những giá trị cao cả hơn.
Người ta hỏi một anh đạp xích lô như thế này:
- Anh đạp xích lô để làm gì?
- Tôi đạp xích lô để kiếm tiền.
- Vậy anh kiếm tiền để làm gì?
- Tôi kiếm tiền để mua gạo ăn?
- Mua gạo ăn để làm gì?
- Để đạp xích lô.
Và chúng ta gọi đó là một chiếc vòng luẩn quẩn. Phải, cuộc đời mỗi người chúng ta cũng thế. Nếu không cố gắng vươn lên, chúng ta cũng sẽ mãi mãi ở trong chiếc vòng luẩn quẩn ấy. Tuy nhiên đối với chúng ta thì không phải chỉ có vậy, bởi vì chúng ta phải vươn lên tới những giá trị siêu nhiên. Thực vậy, nếu chúng ta đạp xích lô để chu toàn bổn phận Chúa trao phó là lo lắng cho cuộc sống của mình và của gia đình, như lòng Chúa mong ước, nói cách khác, nếu chúng ta biết làm những công việc nhỏ bé tầm thường ấy vì lòng yêu mến Chúa, thì đó là chúng ta đang vác thập giá mình với Chúa và theo Chúa.
Như vậy, chúng ta có thể nói cuộc đời chúng ta chồng chất những thập giá bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau chẳng hạn như bệnh hoạn tật nguyền, chết chóc tang tóc... đều là một thập giá. Tuy nhiên, cùng với Chúa chúng ta sẽ không thất vọng chán nản, trái lại chúng ta sẽ vui mừng và phấn khởi, bởi vì mỗi nỗi buồn, mỗi niềm đau sẽ là một sợi chỉ vàng dệt thành tấm vải cuộc đời chúng ta và làm cho tấm vải cuộc đời ấy thực sự có một giá trị siêu nhiên cao quý trước mặt Chúa.
Hơn thế nữa, nếu chúng ta biết vác thập giá mình mà bước theo Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ không đi vào ngõ cụt vô nghĩa, sẽ không đi vào sự chết, nhưng sẽ tiến đến vinh quang phục sinh muôn đời với Chúa.

4. Suy nim ca ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kit.

LÀM MÔN ĐỆ CỦA CHÚA
Ai trong chúng ta cũng mong ước được làm môn đệ của Chúa. Ai cũng muốn theo chân Chúa. Nhưng ta có thực sự hiểu làm môn đệ Chúa là như thế nào không? Hôm nay Chúa chỉ cho ta thấy rõ điều đó.
Làm môn đệ là một việc làm nghiêm túc. Đây không phải là một cảm tính bồng bột nhất thời. Nhưng là một việc lâu dài. Chúa Giêsu ví việc làm môn đệ theo Chúa với việc “xây dựng một cây tháp” và việc “chiến đấu với kẻ thù”. Xây dựng cây tháp là một việc làm lớn lao. Chiến đấu với kẻ thù là việc làm nghiêm trọng. Vì thế cần phải ngồi xuống suy tính cho cẩn trọng, chi li. Cũng thế việc làm môn đệ của Chúa là một việc làm nghiêm túc, vừa lớn lao như sự nghiệp cả đời, vừa nghiêm trọng vì ảnh hưởng tới cả định mệnh. Vì thế phải ngồi xuống suy tính cho kỹ lưỡng để có thể theo Chúa đến cùng. Phải suy tính kỹ lưỡng vì làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng.
Làm môn đệ là từ bỏ đến tận cùng. Môn đệ không phải là kẻ hiếu kỳ cưỡi ngựa xem hoa. Môn đệ không phải là kẻ tài tử nay làm mai không. Môn đệ là người đi theo thày suốt đời, sống như thày trong mọi sự. Chính vì thế mà phải coi thày là thần tượng duy nhất, không yêu mến thày. Chính vì thế mà phải từ bỏ tất cả, không chỉ người thân mà từ bỏ cả chính bản thân với những ý nghĩ riêng tư. Để không những đi theo thày, sống như thày mà con ăn nói như thày, suy nghĩ như thày nữa. Kitô hữu là người mang Chúa Kitô trong mình. Muốn có Chúa Kitô trong mình, ta phải loại bỏ tất cả những gì không phải Chúa ra khỏi mình. Điều này chắc chắn không dễ dàng. Nhưng ta an tâm, vì Chúa Giêsu không chỉ đòi hỏi ta. Người đã đòi hỏi chính mình trước. Chúa Giêsu không chỉ đòi ta vác thánh giá. Chính Người đã vác thánh giá trước. Ta sẻ cảm thấy dễ dàng vì chỉ việc làm như Chúa Giêsu.
Làm môn đệ là làm như Chúa Giêsu. Nếu Chúa Giêsu đòi hỏi ta từ bỏ, chính Người đã từ bỏ trước. Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người và tự nguyện chết thay loài người. Khốc liệt nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Chúa Cha. Cuộc chiến đấu khốc liệt đã thấy trong vườn Giêtsimani, khi nhìn thấy trước cái chết đau đớn tủi nhục sắp tới, Người run sợ muốn lẩn tránh bỏ cuộc, nên đã tha thiết cầu xin Chúa Cha: “Lạy Cha, nếu có thể được, xin cho con khỏi uống chén đắng này”. Nhưng cuối cùng, Chúa đã từ bỏ ý riêng, vâng theo ý Cha, sẵn sàng ra đi chịu chết: “Nhưng đừng theo ý con, xin vâng ý Cha mà thôi”.
Nhờ hoàn toàn từ bỏ ý riêng, vác thánh giá đi đến cùng, Chúa Giêsu đã hoàn thành công việc của Chúa Cha trao phó, đem ơn cứu độ đến cho mọi người. Người môn đệ, khi hoàn toàn từ bỏ chính mình, sẽ nên một với Chúa Kitô, cộng tác vào công cuộc cứu độ của Chúa.
KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG
1. Làm môn đệ là gì?
2. Chúa Giêsu đã nêu gương từ bỏ thế nào?
3. Tại sao ta phải từ bỏ tất cả?

5. T b hết. – Lm. Antôn Nguyn Cao Siêu

Suy Niệm
Sống là chấp nhận từ bỏ.
Có những điều xấu phải từ bỏ như tật nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc...
Cũng có điều tốt phải bỏ, để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ thường làm ta sợ và tiếc. Bỏ chiếc giường êm để thức dậy đi lễ sáng. Tắt Tivi vì đến giờ đọc kinh tối gia đình. Dành Chúa Nhật để học giáo lý và làm việc xã hội.
Nếu từ bỏ vì yêu, ta sẽ thấy nhẹ hơn, dễ hơn. Người mẹ thức trắng đêm để đan nốt chiếc áo cho con. Người mẹ là mẹ hơn qua những hy sinh vất vả.
Từ bỏ vì yêu chẳng bao giờ thiệt thòi, mất mát.
Cuộc sống văn minh cho ta nhiều chọn lựa.
Con người dễ chọn cái tầm thường hơn cái cao cả, chọn khoái lạc phù du hơn hạnh phúc vững bền, chọn lợi ích cho cá nhân tôi hơn là cho tập thể. Xem ra con người thích cái dễ dãi hơn.
Kitô hữu là người đã chọn theo Đức Giêsu.
Làm môn đệ Ngài là chọn đi vào đường hẹp, cửa hẹp.
Ngài đòi ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải tinh thần, vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại tương lai.
Những thụ tạo trên thật đáng trân trọng, nhưng chúng chỉ có giá trị tương đối khi sánh với Đức Giêsu, Con Thiên Chúa làm người.
Kitô hữu là người sống từ bỏ như Đức Giêsu.
Ngài đã bỏ vinh quang thần linh để làm người như ta, đã sống và đã hiến mạng sống vì yêu Cha và nhân loại.
Từ bỏ là đi vào cửa hẹp cùng với Đức Giêsu.
Phép Rửa đã cho chúng ta trở thành môn đệ Đức Kitô.
Nhưng để là môn đệ đích thực của Ngài, chúng ta cần từ bỏ mãi cho đến khi nhắm mắt.
Từ bỏ phải là thái độ nội tâm cần gìn giữ luôn.
Chúng ta dễ nghiêng như tháp Pizza.
Điều hôm nay chưa dính bén, mai đã thấy khó gỡ.
Điều đã bỏ từ lâu, nay lại bất ngờ hấp dẫn.
Từ bỏ điều tôi có, và cứ có thêm mỗi ngày thật là một cuộc chiến lâu dài và gian khổ.
Chúng ta không được nửa vời, lừng khừng, thỏa hiệp.
Tháp đã bắt đầu xây, cuộc chiến đã khai mào.
Không còn là lúc ngồi xuống mà tính toán nữa.
Cần đầu tư để xây tháp, cần dồn sức để tiến quân.
Cầu từ bỏ mọi vướng víu để tiếp tục trung tín.
Vẫn có những Kitô hữu chịu dở dang và bại trận, vì họ không dám sống đến cùng ơn gọi làm môn đệ.
Từ bỏ là cách diễn tả một tình yêu.
Khi yêu người ta vui lòng từ bỏ tất cả.
Ước gì chúng ta vui khi gặp viên ngọc quý là Đức Giêsu, dám bán tất cả để thấy mình giàu có.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo kinh nghiệm của bạn, từ bỏ điều gì là khó hơn cả? Bạn hãy cho biết lý do tại sao.
Có lần bạn đã rất vui khi làm một hy sinh, và bạn cảm thấy mình nhận nhiều hơn cho, được nhiều hơn mất. Bạn hãy kể lại.
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, sống cho Chúa thật là điều khó.
Thuộc về Chúa thật là một thách đố cho con.
Chúa đòi con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa.
Chúa thích lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa.
Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cây đời con sinh thêm hoa trái.
Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con thuộc trọn về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan để sống theo những đòi hỏi bất ngờ của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu. Amen.

6. Chn la Thiên Chúa là duy nht – An Phong.

Tin Mừng Chúa Nhật 23 Thường Niên C gồm hai phần. Phần đầu là lời kêu gọi từ bỏ con người mình, vác thập giá theo chân Chúa Giêsu. Phần thứ hai là dụ ngôn "xây tháp" và "đi giao chiến". Ý nghĩa chính của hai dụ ngôn này là trước khi tiến hành một công việc quan trọng, người ta phải xem xét mình có đủ khả năng, nguồn lực để đạt được thành công hay không. Và cuối cùng là lời áp dụng "Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được". Lời kết luận này là giáo huấn, là lời mời gọi cho tất cả mọi kitô hữu, những người môn đệ của Đức Giêsu.
Đức Giêsu mời gọi hãy từ bỏ. Từ bỏ là một thái độ sống thực tế của người kitô hữu. Từ bỏ nghĩa là hy sinh vì lý tưởng, vì Thiên Chúa. Người kitô hữu từ bỏ không phải là điều kiện để trở nên một môn đệ Đức Giêsu, nhưng là điều kiện để luôn luôn trung thành là người môn đệ. Là người môn đệ tức là luôn chọn lựa Đức Giêsu là Hy vọng, là Đường, Sự thật và Sự sống. Là người môn đệ tức là dấn thân hết mình, đi cho trọn đường của người môn đệ, đừng như người ta khởi công xây tháp nhưng không thể hoàn thành được, hay đừng như ông vua kia đã ra trận nhưng không chiến thắng được.
Bền bỉ, kiên trì, đi cho trọn đường, đó là thánh giá đời người. Để là người môn đệ đích thực của Đức Giêsu, cần phải bền bỉ, triệt để. Đức Giêsu muốn những ai theo Người phải đi trọn đường thánh giá của mình. Thánh giá tức là những chọn lựa trong hiện tại, được lập đi lập lại và liên tục. Sống trong cuộc đời, chúng ta luôn bị đặt trong tình huống phải chọn lựa. Đã chọn lựa là không thể chọn lấy tất cả, đã chọn điều này tất phải bỏ điều kia. Việc chọn lựa không luôn luôn dễ dàng. Chỉ có một tiêu chuẩn cho việc chọn lựa, đó là "Thiên Chúa là trên tất cả". Hơn nữa, không luôn luôn dễ dàng để trung thành với chọn lựa Thiên Chúa. Để có thể trung thành, cần có một tiêu chuẩn khác nữa, đó là "chẳng hề có ai bỏ nhà cửa, anh em, chị em, mẹ cha, con cái, hay ruộng đất vì Thầy và vì Tin mừng, mà bây giờ, ngay ở đời này, lại không nhận được nhà cửa, anh em, chị em, mẹ, con hay ruộng đất gấp trăm, cùng với sự ngược đãi và sự sống đời đời ở đời sau" (Mc 10,29-30).
Từ bỏ nghĩa là không nhìn nhận những thực tại trần thế là tuyệt đối, có thể thay thế được chính Thiên Chúa. Chúng ta không loại bỏ những thiện hảo của cuộc sống như tiền bạc, của cải vật chất, nghề nghiệp... nhưng chúng ta chỉ nên coi đó là những phương tiện. Chúng ta nhìn nhận những giá trị trần gian là tốt đẹp, nhưng tất cả những giá trị đó phải quy hướng chúng ta đến với Thiên Chúa. Nếu các môn đệ của Đức Giêsu yêu mến tạo vật của Người hơn chính Người, thì họ không xứng đáng là môn đệ của Đức Giêsu.
Hơn nữa, việc từ bỏ này cần phải thực tế, tức là gắn liền với cuộc sống mỗi ngày. Chúng ta có thể hiểu được điều này khi nhìn vào cuộc đời của những người hy sinh cho một lý tưởng mà họ đã chọn lựa. Những người đó dám chấp nhận từ bỏ đời sống gia đình, riêng tư của mình. Họ dám hy sinh thời giờ, sự an toàn và thậm chí cả sức khỏe của mình để hoàn thành sứ mạng.
Phải chăng chúng ta chọn lựa Thiên Chúa là ưu tiên trên hết ?
Phải chăng chúng ta đang kiên trì, trung thành với chọn lựa là người kitô hữu, người môn đệ của Đức Giêsu qua nhiệm tính Thanh tẩy?
Lạy Chúa,
Để con có thể gắn bó với Ngài tha thiết hơn nữa,
con ước mong ý thức con trở nên bao la như trời biển,
mênh mông như vũ trụ,
trải rộng như loài người khắp mặt đất,
sâu thẳm như quá khứ, sa mạ, trùng dương,
tinh vi như hạt nhân nguyên tử,
thâm thúy như tư tưởng của lòng người.
Phải chăng con cần gắn liền với Chúa
từ mọi địa điểm của vũ trụ bao la này,
và để con đừng sa chước cám dỗ rập rình
trong mọi hành vi táo bạo,
để chúng con đừng bao giờ lãng quên là
chỉ có Chúa mới đáng được tìm kiếm qua mọi sự.

7. Điu kin theo Chúa

Là con người nhiều giới hạn nên khi gia nhập bất cứ tập thể nào cũng đều phải đáp ứng những điều kiện được đưa ra. Đi học ở trường phải đáp ứng những điều kiện căn bản về học lực và hạnh kiểm mới được xét tuyển vào lớp mới. Đi xin việc làm cũng cần đáp ứng những điều kiện đưa ra mới có thể vào được. Cũng thế, ai muốn đi theo Chúa cũng cần đáp ứng những lời mời gọi của Người.
Khi Chúa Giêsu bắt đầu đời sống công khai của mình xưa kia thì ngày càng có nhiều người đi theo Người. Chúa Giêsu không muốn người ta theo Người vì những động cơ thấp hèn hay thực dụng. Chúa Giêsu muốn người ta theo Chúa vì những lợi ích cao quý và thiêng liêng. Theo Chúa để tìm lại được tình trạng hạnh phúc thật. Theo Chúa vì phần rỗi đời đời. Trên hết mọi sự theo Chúa vì yêu mến. Vì yêu mến nên muốn sống gần gũi với Chúa.
Chính vì thế, Chúa Giêsu mời gọi: "Ai đến với tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi được" (Lc 14, 26-27)
Với lời mời gọi này, Chúa Giêsu mong muốn những ai muốn theo mình nên xem Người là cao trọng hơn hết. Chúa không bắt chúng ta phải bỏ đi tình thân máu mủ cũng như không bắt chúng ta phải coi thường bản thân của mình. Chỉ vì Người muốn chúng ta đặt đúng bậc thang giá trị.
Chúng ta nhớ có lần một người đến gặp Chúa Giêsu và thưa Người: "Thưa Thầy nhân lành, tôi phải làm gì để được sự sống đời đời làm gia nghiệp?" (Mc 10,17). Anh ta lấy làm hãnh diện vì anh đã thực hiện tốt các giới răn mà Chúa Giêsu mời gọi anh tuân giữ. Đáng tiếc thay với lời mời gọi: "Hãy đi bán những gì anh có mà cho ng ười nghèo, anh sẽ được một kho tàng trên trời. Rồi hãy đến theo Tôi." (Mc 10, 21) thì "Anh ta sa sầm nét mặt và buồn rầu bỏ đi, vì anh ta có nhiều của cải". (Mc 10, 22)
Như vậy, người này đã chưa đáp ứng lại được điều kiện mà Chúa Giêsu đưa ra. Vì anh ta chưa dám từ bỏ chính mình, từ bỏ những lợi ích riêng tư của mình.
Trong thế giới ngày nay, con người ta bị nhiễm rất nhiều bởi lối sống cá nhân chủ nghĩa. Từ lối sống ấy, con người ta chỉ biết gom góp về cho mình. Người Công giáo thì dần dần xem thường lề luật Chúa và giới răn của Giáo hội. Có vẻ như họ không còn muốn theo Chúa nữa. Họ quên rằng chỉ khi nào còn theo Chúa thì mới mong tìm lại được chính mình. Ngược lại, những ai chỉ biết có mình thì nguy cơ đánh mất chính mình và đánh mất Chúa sẽ rất cao. Xin Chúa Giêsu cho chúng ta dám can đảm đáp ứng lại những điều kiện mà Người mời gọi.

8. Vác thp giá theo Chúa.

AI KHÔNG VÁC THẬP GIÁ THEO TÔI, THÌ KHÔNG ĐÁNG LÀM MÔN ĐỆ TÔI
Suy Niệm
Chẳng ai có thể đi một lúc hai con đường.
Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn, mà chọn là từ bỏ.
Từ bỏ trở thành quy luật để sống và lớn lên.
Thai nhi không thể ở mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm.
Đứa bé chẳng thể nào trưởng thành, nếu nó sống mãi bằng sửa mẹ.
Từ bỏ thường là những cắt đứt đau đớn, như mổ một khối u.
Có nhiều người không có can đảm từ bỏ, nên suốt đời bị giằng co, ray rứt.
Trong đoạn Tin Mừng trên đây, Đức Giêsu đã nói ba lần câu: "thì không thể làm môn đệ tôi được."
Chúng ta đã trở nên môn đệ Đức Giêsu, nhưng để tiếp tục là môn đệ của Ngài, ta cần phải đặt Ngài lên trên mọi giá trị khác.
Người Kitô hữu lớn lên nhờ chọn lựa và từ bỏ.
Trung tâm điểm là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Mọi giá trị trở nên tương đối trước Đấng Tuyệt Đối.
Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là những giá trị tinh thần. Mạng sống là một giá trị trổi vượt. Nhưng ngay cả những giá trị đó cũng phải được hy sinh khi cần, để tôi chọn Đức Giêsu, Giá Trị của mọi giá trị.
Các thánh tử đạo đã chọn lựa như thế.
Dĩ nhiên chúng ta yêu gia đình, yêu bè bạn, yêu trái đất nâng ta, yêu bầu trời che chở ta, yêu cuộc sống làm người với bao niềm vui và nước mắt. Nhưng ta phải yêu tất cả trong Chúa và dưới Chúa, để khi phải chọn lựa một trong hai, chúng ta chọn Chúa.
Như thế, tuy người Kitô hữu gắn bó với tạo vật nhưng vẫn giữ một khoảng cách nào đó, để luôn sống trong tự do, bình tâm.
Vấn đề là dám chọn và tiếp tục chọn, không để cho tháp đã xây bị dở dang, không để cho cuộc tiến quân bị ngừng trệ.
Vấn đề là dám đi tới cùng, để tiếp tục trung tín với một Tình Yêu.
Phải cởi bỏ mình khỏi những điều xấu, nhưng cũng phải tách mình khỏi nỗi đam mê lệch lạc một điều tốt: yêu nó ngoài Chúa và trên Chúa.
Ước gì chúng ta tự cởi trói mình mỗi ngày và nhờ ơn Chúa, chúng ta được tự do.
Gợi Ý Chia Sẻ
Theo ý bạn, giới trẻ hôm nay dễ bị lôi cuốn bởi thú vui nào? Đâu là những nguy hiểm của thú vui đó?
Bạn có kinh nghiệm gì về sự cám dỗ của một điều vốn là tốt, nhưng sau đó lại làm bạn bị nô lệ?
Cầu Nguyện
Lạy Chúa Giêsu, xin cho con dám hành động theo những đòi hỏi khắt khe nhất của Chúa.
Xin dạy con biết theo Chúa vô điều kiện, vì xác tín rằng Chúa ngàn lần khôn ngoan hơn con, và Chúa yêu con hơn cả chính con yêu con.
Lạy Chúa Giêsu trên thập giá, xin cho con dám liều theo Chúa mà không tính toán thiệt hơn, anh hùng vượt trên mọi nỗi sợ, can đảm lướt thắng sự yếu đuối của quả tim, và ném mình trọn vẹn cho sự quan phòng của Chúa.
Ước gì khi dâng lên Chúa những hy sinh làm cho tim con rướm máu, con cảm nghiệm được niềm vui bất diệt của người một lòng theo Chúa.

9. Hy sinh t b

Bài Phúc Âm hôm nay có thể được chúng ta đọc và suy niệm như là một sự giảng dạy thêm từ phía Chúa Giêsu, vừa là một sự lĩnh hội sâu xa thêm từ phía con người chúng ta. Mỗi người chúng ta được Chúa mời gọi hãy nghiêm chỉnh dấn thân theo Ngài với một tâm hồn đã được tự do khỏi mọi ràng buộc.
Liền sau những lời quả quyết về điều kiện căn bản cần có để theo Ngài: "Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi thì không thể làm môn đệ Tôi", Chúa Giêsu kể thêm hai dụ ngôn mới để nhấn mạnh thêm với các môn đệ rằng đi theo Chúa không thể nào là một hành động nhẹ dạ, nhất thời, tùy hứng nhưng là một hành động, một quyết định nghiêm chỉnh với tinh thần trách nhiệm sau khi đã suy nghĩ kỹ lưỡng, giống như thể người muốn xây một ngọn tháp hay như nhà vua ra trận. Trên con đường từ bỏ này, chúng ta không lẻ loi một mình mà chúng ta đi theo Chúa. Có Chúa làm gương đi trước chúng ta. Và không phải chỉ làm gương đi trước chúng ta mà Ngài còn đến với chúng ta, sống với chúng ta, kết hợp với chúng ta, ban cho chúng ta sức mạnh của Ngài để có thể thực hiện việc hy sinh từ bỏ. "Không Thầy chúng con không thể làm chi được", hãy sống trong tình yêu Thầy như cành nho kết hiệp với cây nho để trổ sinh hoa trái.
Việc từ bỏ thập giá, đau khổ và cả cái chết nữa không phải là những giá trị riêng rẽ từ nơi chúng, mà là những phương thế để đạt đến mục đích để giúp ta trở nên giống Chúa mỗi ngày một hơn. Chúa Giêsu có quyền đòi hỏi nơi mỗi người chúng ta và muốn mỗi người chúng ta đặt Ngài vào chỗ ưu tiên, đòi hỏi chúng ta yêu mến Ngài trên hết mọi sự và với hết sức lực của mình, trên cả tình thân gia đình. Và chỉ khi nào chúng ta dám từ bỏ mọi cản trở để yêu mến Ngài trên hết mọi sự, để được đồng hoá với Ngài cách trọn vẹn, thì khi đó chúng ta mới biết đặt những sự vật và con người vào vị trí đúng, biết tôn trọng và yêu thương những sự vật và con người một cách đúng thật trong tình yêu thánh thiện của Chúa.
Lạy Chúa là Đấng đã kêu gọi chúng con theo Ngài qua con đường thanh luyện và hy sinh.
Xin ban ơn giải thoát chúng con khỏi những gì đang ngăn cản chúng con đến với Chúa. Xin dạy con theo Chúa mỗi ngày một trọn vẹn hơn, không chùn bước trước những thách thức và hy sinh. Xin cho con được cùng vác thập giá với Chúa để được chia sẻ vinh quang Phục Sinh của Chúa.

10. Để làm môn đệ Chúa – Lm. Antôn Nguyn Văn Độ

Bài đọc 1 Chúa nhật XXIII thường niên C dạy chúng ta rằng” “Những ai sống đẹp lòng Chúa từ ban đầu, thì được ơn cứu độ nhờ sự khôn ngoan”. Vì theo Thánh Kinh, sự Khôn ngoan của Thiên Chúa đồng nghĩa với Lời Chúa. Từ đó, nghe lời sự Khôn ngoan là căn tính đầu tiên của người môn đệ Đức Kitô, Lời Thiên Chúa nhập thể.
Đức Giêsu Kitô là Lời Thiên Chúa, là sự Khôn ngoan của Thiên Chúa (1 Co 1, 24, 30 ) cất tiếng mời gọi con người, cách riêng là người môn đệ, chẳng những lắng nghe, đi theo, mà còn phải hy sinh, từ bỏ nữa” “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình, thì không thể làm môn đệ Ta. Còn ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không thể làm môn đệ Ta.” Nghe lời tuyên bố của Đức Giêsu ở trên, mỗi người chúng ta nói gì và trả lời ra làm sao ? Tiêu chuẩn để làm môn đệ Đức Giêsu, với đòi hỏi thật gắt gao. Ai muốn theo Chúa, phải từ bỏ tận căn, không những của cải, người thân thiết nhất, mà cả những tiện nghi, kế hoạch riêng, sự quyến luyến, những giao tiếp hợp pháp và thậm trí cả chính mạng sống mình nữa nữa (x. ). Ngài yêu cầu phải "bỏ" cha mẹ, vợ con, anh em, chị em. Có người đặt câu hỏi” Phải chăng, Điều răn thảo cha kính mẹ, yêu thương người thân cận bị đảo lộn rồi hay sao? Nghĩa là để đi theo Đức Giêsu, người ta phải thay thế tình yêu đối với người thân cận bằng sự từ bỏ đối với họ? Không phải thế, Đức Giêsu đòi hỏi người môn đệ phải phân định và lựa chọn giữa Thiên Chúa và loài người, Thiên Chúa phải là nhất. Yêu cha mẹ và đồng loại, nhưng yêu Thiên Chúa hơn, vì Ngài là Đấng dựng nên cả cha mẹ chúng ta, nên Đức Giêsu yêu cầu con người dành cho Ngài một vị trí đặc biệt và cao nhất.
Tuy nhiên, dường như trở ngại lớn nhất không phải là người thân cận hoặc cha mẹ anh chị em, của cải ... mà là cái tôi. Cái tôi cũng phải nhường bước cho dây liên kết với Đức Giêsu, nên Ngài thêm” “Ai không vác thập giá mình mà theo, thì không thể làm môn đệ Ta”. Đức Giêsu có thích khổ đau và thậy giá không? Không, Đức Giêsu đã không đi tìm thập giá và đau khổ, y như thể Ngài thích. Nhưng Ngài vác trên mình thập giá và sự đau khổ, đến mất mạng, khi phải đáp ứng điều này hầu giữ được lòng trung thành với Thiên Chúa. Ai muốn đi theo Chúa Giêsu, phải đặt sự trung thành với thánh ý Thiên Chúa trên tất cả mọi sự. Vác thập giá mình là từ bỏ ý mình, vâng theo ý Chúa. Ý Chúa muốn là từ bỏ cái tôi, từ bỏ những ước muốn xấu, những lời chua cay, nóng nảy, giận hờn, từ bỏ tính kiêu căng, thói tham lam, để chúng ta thoát khỏi những đam mê vật chất, hầu sống trọn vẹn cho Chúa và cho tha nhân. Cơ bản, vác thập giá mình mà theo Đức Giêsu là liều thuốc chữa chúng ta khỏi căn bệnh ghê sợ là “sự trì trệ”, ù lì, tê liệt và khép kín lòng mình.
Không phải ngẫu nhiên Đức Giêsu nói đến "Thập Giá". Vác thập giá bước theo Đức Kitô không phải là vác đi với những bước nhẹ nhàng. Vác lấy thập giá mà theo Chúa Giêsu có nghĩa là sẵn sàng chấp nhận bất cứ hy sinh nào vì tình yêu đối với Chúa. Nhưng chúng ta không vác thập giá một mình, vì có Chúa cùng đi, Ngài đi trước để chúng ta tiếp bước theo sau, Ngài đi mau để chúng ta được lúi kéo dắt dùi, Ngài nâng đỡ chúng ta bằng sức mạnh của tình yêu Thiên Chúa.
Quyết định theo Đức Giêsu, là gạt bỏ tất cả, hướng về Chúa là sự giầu có đích thực của chúng ta, không gì hơn Ngài, không đặt cái gì trước Ngài, toàn bộ phải qui hướng về Ngài. Ngài cũng khẩn khoản mời gọi chúng ta dùng mọi cách để đi đến tận cùng là trở nên những môn đệ Đức Giêsu. Theo Đức Kitô, chúng ta không mất gì hết, chúng ta được tất cả. Như Đức nguyên Giáo hoàng Bênêđictô XVI nhấn mạnh trong bài giảng khai mào sứ vụ Giám mục Rôma” “Ai chấp nhận cho Chúa Kitô bước vào trong cuộc đời họ, thì người đó không mất đi điều gì cả, tuyệt đối không mất điều gì làm cho cuộc đời được tự do, tươi đẹp và cao cả. Không! Chỉ trong tình bạn với Chúa Kitô này mà các cửa sự sống được mở rộng ra. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà những khả năng to lớn của cuộc sống con người được thể hiện đích thực. Chỉ trong tình bạn với Chúa này mà chúng ta cảm nghiệm được điều gì là tươi đẹp và điều gì là tự do”. Với sức mạnh cao cả và với niềm xác tín lớn lao, dựa trên những năm dài kinh nghiệm cá nhân về cuộc sống, Đức Giáo hoàng nói với chúng con rằng: “Anh em đừng sợ Chúa Kitô. Chúa không đến lấy mất đi điều gì cả, nhưng ban cho đủ mọi sự. Ai hiến thân cho Chúa, thì được nhận gấp trăm. Phải, hãy mở ra, hãy mở rộng mọi Cửa cho Chúa Kitô, và chúng con sẽ gặp được sự sống thật.” (Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI, 24/4/ 2005).
Lạy Chúa, trong niềm tin, chúng con muốn từ bỏ tất cả để đi theo Chúa, nhưng trên đường đi, chúng con sợ bị mất một phần của đời sống, sợ mất tự do, sợ đau khổ, sợ không có khả năng, không thực sự muốn bước đi theo Chúa và trở thành môn đệ Chúa. Lạy Chúa, chúng con dâng cho Chúa 'ước muốn theo Chúa của chúng con' và chúng con mở cửa lòng mình cho Chúa. Lạy Chúa, xin đến giúp chúng con để chúng con thấy rằng trên đường đi, có chúa là sức mạnh để chúng con tiến bước theo, hiệp nhất với Chúa cho đến trọn đời. Amen.

11. Tình yêu là động lc để đi theo Chúa Giêsu

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn An Khang)
Vẫn trên đường lên Giêrusalem, Đức Giêsu biết đau khổ và cái chết đang chờ đón ở cuối cuộc hành trình. Ngài phải uống chén đắng. Tuy nhiên, khi đến giờ, Ngài thấy nó không dễ. Ngài phải trải qua một cơn hấp hối kinh hoàng và đã xin Chúa Cha cất chén ấy. Thế nhưng, Ngài đã giữ vững lòng trung tín. Điều làm cho Ngài kiên vững, đó là tình yêu. Ngài yêu Chúa Cha, muốn thực hiện ý định của Người. Ngài biết Chúa Cha muốn bày tỏ tình yêu sâu xa của Người với nhân loại, qua sự thành tín và lòng yêu thương của Ngài. Lòng thành tín và yêu thương này được trả bằng chính mạng sống của Ngài. Bởi vậy, Ngài sẵn sàng vâng lời Chúa Cha: Chết khổ nhục trên Thập giá. Qua cái chết đó, Ngài cũng thể hiện tình yêu của Mình đối với nhân loại: "Không ai có tình yêu cao cả hơn tình yêu của người hy sinh mạng sống vì bạn hữu" (Ga 15, 13).
Đang khi đó, có rất đông người cùng đi với Đức Giêsu, nghĩ rằng: Ngài là Đấng Messia, là nhà lãnh đạo quân sự, một Đavít mới, tiến về Giêrusalem, để giải phóng Israel khỏi sự áp bức đô hộ của người Lamã, khôi phục đất nước. Đức Giêsu không muốn họ theo Ngài cách mù quáng. Ngài không che dấu những khó khăn, vất vả, hi sinh. Ngài cho họ biết, đi theo Ngài sẽ gặp nhiều đau khổ: Phải "dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình" (Lc 14, 26).
Nelson Mandela, một người thông minh muốn lập nghiệp như mọi người khác. Hans Muler, một thương gia, nhìn thế giới qua lăng kính của luật cung cầu, đã nói với Mandela: "Tất cả là tiền bạc. Bởi vì giàu sang và tiền bạc đồng nghĩa với hạnh phúc. Anh phải chiến đấu cho điều đó: Tiền bạc và không gì ngoài tiền bạc. Một khi bạn có đủ tiền bạc, bạn không muốn cái gì khác trên đời". Nếu Nelson Mandela làm theo lời khuyên của Hans Muler, ông có thể làm rất tốt cho bản thân. May mắn thay cho Nam Phi. Thay vì lo cho bản thân, Nelson Mandela đã quyết định cống hiến cuộc đời mình cho việc phục vụ đất nước.
Để làm điều đó, Mandela đã phải hy sinh, ông viết: "Đối với tôi, không phải là một việc dễ dàng khi phải xa cách vợ con, giã từ những ngày xưa tươi đẹp ấy, và sau một ngày làm việc hăng say ở văn phòng. Tôi có thể quay về với gia đình trong bữa ăn tối, thay vì phải sống như một người bị cảnh sát săn đuổi liên tục, sống xa cách những người thân yêu nhất, phải đối diện liên tục với những sự bất trắc như bị nhận dạng và bắt giữ. Đó là một đời sống cực kỳ khó khăn hơn cả chịu án tù (Trích "Hành trình đến tự do", 1994, Little, Brown and Company). Nelson đã chịu 27 năm tù đày vì yêu đất nước. Ông đã trở thành tổng thống vĩ đại của Nam Phi.
Phêrô, một hôm, đã hỏi Chúa: "Chúng con bỏ mọi sự theo Thầy, chúng con được gì?". Đức Giêsu trả lời: "Chúng con sẽ được gấp trăm ở đời này, cùng với sự bắt bớ và tù đày".
Vâng, làm môn đệ theo Đức Giêsu, phải chịu bắt bớ, tù đầy. Môn đệ không hơn Thầy. Đức Giêsu đã chịu đau khổ, môn đệ không có con đường nào khác. Nhưng cái gì làm môn đệ có thể chịu đau khổ? Thưa, tình yêu. Chỉ có tình yêu mới làm được mọi sự. Đức Giêsu trong cuộc khổ nạn, bị cáo gian, bị xỉ vả, đánh đòn, chế nhạo, phỉ nhổ, đội mão gai, đóng đinh vào Thập giá... Người đã chịu tất cả những điều đó vì tình yêu. Hơn nữa, Người đã biến đổi đau khổ, sự nhục nhã thành tình yêu thương và sự tha thứ. Đó là chiến thắng của tình yêu trên mọi sức mạnh hủy diệt. Trong Người, không có gì khác ngoài Tình yêu thương. Ngay cả khi chịu đóng đinh, Người vẫn yêu thương: "Xin tha cho chúng, vì chúng không biết việc chúng làm". Những đau khổ của Người sẽ ra vô ích, nếu Người không chịu đựng với tình yêu thương. Không phải những đau khổ của Người đã cứu rỗi nhân loại, nhưng bởi tình yêu thương của Người.
Ai giả bộ thích chịu đau khổ, thật điên rồ. Đau khổ là thứ hầu hết chúng ta muốn tránh. Thế nhưng, người môn đệ của Đức Giêsu sẵn sàng chịu đau khổ vì yêu. Vì yêu, họ có thể dứt bỏ cha mẹ, anh em, chị em và cả mạng sống mình (Lc 14, 26). Vì yêu, họ sẵn sàng phục vụ mọi người. Vì yêu, họ chấp nhận mọi đau khổ. Họ tỏ lòng trung tín của mình trong đau khổ. Đau khổ là cách thể hiện tình yêu cao vời nhất.
Để thực hiện điều đó. Người môn đệ cần phải lượng sức mình, phải tính toán xem mình có đủ khả năng tiến bước hay không. Chúng ta không thể làm việc gì quá khả năng. Nhưng tất nhiên, chúng ta không biết trước khả năng của mình đến đâu. Chúng ta có thể tự đánh giá khả năng của mình hoặc quá thấp, hoặc quá cao. Điều quan trọng nhất là tự biết mình. Đức Giêsu đã đưa ra hai dụ ngôn ngắn: Người xây tháp và vua đi giao chiến. Một người xây tháp cần phải tính toán phí tổn, xem có hoàn thành nổi không? Vua đi giao chiến, phải tính xem số lượng quân đội của mình, có đủ sức đương đầu với đối phương không? Qua hai dụ ngôn đó, Ngài muốn bảo: Những ai muốn theo làm môn đệ của Ngài, cần phải suy nghĩ chín chắn.
Có thể, có một ai đó theo Chúa, nhưng không phải là môn đệ, họ chỉ là kẻ theo đóm ăn tàn trong một công việc vĩ đại, chỉ là người nói chứ không làm. Có một vị vua đến thăm Thiền viện của thiền sư Lin Chi, ông kinh ngạc vì có đến mười ngàn tu sĩ ở đó. Muốn biết chính xác con số các tu sĩ, nhà vua hỏi thiền sư: "Thầy có bao nhiêu môn đệ?" Lin Chi đáp: "Có bốn hoặc năm người".
Phần những người đi theo Đức Giêsu, Ngài cũng hỏi: Có bao nhiêu người là môn đệ đích thực của Ta.

12. T b để tn ti và tăng trưởng

(Trích dẫn từ ‘Cùng Đọc Tin Mừng’ – Lm Ignatiô Trần Ngà)
Mùa thu về, cây trụi lá, mùa xuân đến, cây đơm lộc xanh tươi.
Cây cối cần phải từ bỏ lá già, lá cũ để khoác lá mới; nhờ thế, cây được lớn lên. Loài rắn cũng phải từ bỏ bộ da cũ để thay da mới; có vậy rắn mới trưởng thành. Loài tôm cũng phải lột vỏ nhiều lần theo đà tăng trưởng để lớn lên... Nói chung, từ bỏ là điều kiện tối cần thiết để cho muôn vật muôn loài được sống còn và tăng trưởng.
Là một sinh vật như bao nhiêu loài vật khác, nên muốn tăng trưởng và tồn tại, con người cũng không thoát ra ngoài quy luật đó.
Hằng ngày cơ thể ta loại bỏ hàng tỉ tế bào cũ để thay vào đó những tế bào mới, nhờ đó cơ thể được lớn lên và mạnh khoẻ. Nếu các tế bào cũ không chịu chết đi để nhường chỗ cho những tế bào mới, thì khối u sẽ xuất hiện và có nguy cơ dẫn đến ung thư và cái chết đau thương!
Đời người cũng là một tiến trình từ bỏ liên tục: người lao động phải đổ nhiều mồ hôi, phải bỏ ra nhiều công sức, trí tuệ mới kiếm đủ tiền cấp dưỡng cho gia đình và bản thân. Người lính chiến phải chấp nhận hy sinh thân mình mới bảo vệ được quê hương. Học sinh phải từ bỏ nhiều giờ vui chơi giải trí, giảm bớt giờ ngủ nghỉ để miệt mài đèn sách thì may ra mới chen chân vào đại học. Các nhà khoa học phải bỏ ra nhiều năm nghiên cứu kiên trì mới có cơ may phát minh và sáng tạo...
Muốn làm ăn lên, phải đầu tư bỏ vốn; muốn thu vào, phải phát ra. Ai không phát ra, không từ bỏ, thì không thể thu vào được gì đáng giá. Đó là quy luật của cuộc đời.
Từ bỏ để đổi lấy những giá trị cao hơn
Của cải đời nầy cũng thật đáng quý, nhưng khi cần, người ta sẵn sàng từ bỏ của cải để dành lấy những giá trị cao hơn. Khi bị cướp hăm doạ tính mạng và đòi lấy của cải bạc tiền, người ta sẵn sàng bỏ của lấy người. Khi bị một chứng bệnh nan y đe doạ cướp đi mạng sống, người ta sẵn sàng bỏ ra hàng tỉ bạc để kéo dài đời sống, dù chỉ sống thêm được một năm.
Qua cuộc đời từ bỏ của mình, Chúa Giêsu tỏ cho chúng ta thấy từ bỏ không là mất đi nhưng là được lại và là được lại gấp nhiều lần.
"Đức Giêsu Ki-tô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân phận nô lệ", chấp nhận mang lấy thân phận con người mỏng giòn yếu đuối, trở thành Người tôi tớ của Thiên Chúa Cha. Ngài đã từ bỏ tự do và ý riêng của mình để vâng phục Cha như người tôi tớ thấp hèn, "cho đến nỗi bằng lòng chịu chết và chết trên cây thập tự"... Thế nên Ngài được Chúa Cha hết lòng yêu mến, được Cha tôn vinh và đặt làm Chúa Tể mọi loài. (xem Phi-lip 2, 6- 11).
Con đường bỏ mình, từ bỏ mọi sự, con đường thập giá mà Chúa Giêsu đã đi thì Ngài cũng mời gọi các môn đệ cùng đi: "Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được. Ai không vác thập giá mình mà đi theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được."
Hôm nay, nếu chúng ta muốn học dưới mái trường của Thầy Giêsu, muốn làm môn đệ Chúa Giêsu thì chúng ta cũng phải đi theo con đường mà Chúa Giêsu đã đi, thực hiện điều mà Thầy chí thánh đã thực hiện, đó là chấp nhận từ bỏ, chấp nhận thập giá.
Nhưng hãy nhớ rằng: từ bỏ không phải là mất mát, dâng hiến không phải là tiêu vong, nhưng trái lại, "chính khi hiến thân là lúc nhận lãnh, chính lúc quên mình là lúc nhận được bản thân" (Kinh Hoà Bình của thánh Phanxicô Átxidi)
Thế là sự từ bỏ theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, lại trở thành một cuộc đổi chác có lợi: đổi của tạm thời để lấy của đời đời; đổi cái phù du để thu về vĩnh cửu.

13. Nim tín thác vào Chúa – Lm Jos. T Duy Tuyn

(Trích dẫn từ ‘Cùng Nhau Suy Niệm’)
Ở đời người ta cần có niềm tin để sống với nhau. Nhờ tin vào nhau con người sẽ gần gũi nhau hơn, sẽ dễ dàng cảm thông với nhau hơn. Nhờ tin vào nhau con người sẽ vượt qua những rào cản của nghi kỵ, hiểu lầm để sống thân ái với nhau hơn. Ngoài tương quan giữa người với người còn có một tương quan khác chính là giữa Thiên Chúa và con người. Trong tương quan với Thiên Chúa, con người cần có đức tin. Đức tin để con người bước đi với Đấng mà mình chưa một lần gặp gỡ diện diện đối diện. Đức tin để con người có thể nhìn xem trời đất biển rộng bao la mà khám phá ra sự hiện diện đầy tình yêu quan phòng của Chúa mà phó thác, mà tin tưởng, cậy trông. Đức tin sẽ giúp con người dấn thân một cách trọn vẹn cho Thiên Chúa, cho dù có phải đi trong mênh mông đêm tối của biển đời, cho dù phải trải qua những thử thách gian truân, con người vẫn luôn xác tín một điều: Thiên Chúa không bỏ rơi con ngừơi. Thiên Chúa luôn đồng hành với chúng ta. Thiên Chúa luôn là thuẫn đỡ chở che cho cuộc đời chúng ta.
Có người đã kể lại giấc mơ của mình như sau:
- Tôi mơ thấy mình đang cầu nguyện, bỗng có luồng ánh sáng xuất hiện, trong đó có Chúa Giêsu đang ngự trên một tấm thảm. Người mỉm cười bảo tôi:
- Con hãy ngồi trên tấm thảm này với Ta.
Lòng tràn ngập vui sướng, tôi đến gần Chúa và ngồi trên tấm thảm bên cạnh Người và tấm thảm từ từ bay bổng lên. Nhưng rồi tôi cảm thấy như Chúa không còn bận tâm đến tôi nữa, Người chăm chú rút từng sợi chỉ từ chiếc thảm chỗ Người và tôi. Chẳng mấy chốc tấm thảm chỉ còn lại một nửa, và giữa chỗ Chúa và tôi đang ngồi lại có một lỗ trống to lớn. Tay chân tôi bắt đầu run lên vì sợ rơi xuống đất chết. Nhưng Chúa Giêsu vẫn thản nhiên tiếp tục rút từng sợi chỉ, đến nỗi tôi khiếp sợ kêu lên:
- Lạy Chúa, Chúa làm gì vậy? Chúa không thấy tấm thảm của chúng ta đã tan tành sao?
Chúa cười rồi cầm lấy tay tôi nói:
- Sao con nghi ngờ, kém lòng tin? Con hãy bám chặt vào Ta. Con sẽ không phải sợ gì nữa, mặc dầu con phải bị tước đoạt hết cả đến sợi chỉ cuối cùng.
Người vừa dứt lời thì quả thực, sợi chỉ cuối cùng đã bị rút đi. Tôi sợ hãi quá, giật mình thức dậy...
Nếu sự kiện đó xảy ra trong cuộc đời chúng ta, chúng ta sẽ phản ứng ra sao? Chúng ta có dám bỏ tất cả để chỉ bám vào một mình Thiên Chúa không? Chúng ta có dám thả trôi những sợi chỉ của tiền tài, danh vọng để chỉ còn lại một mình ta với Chúa hay không?
Một cách nào đó, đời sống của mỗi người chúng ta cũng bị trói buộc bằng những sợi chỉ tuy nhỏ bé mong manh, nhưng là những chướng ngại vật cản trở đà bay của chúng ta. Biết bao lần chúng ta tưởng mình đang đi tìm hạnh phúc thật, nhưng thật sự nó chỉ đem lại cho chúng ta thứ hạnh phúc mau qua chóng tàn, khác nào như những sợi chỉ mỏng manh kia. Biết bao lần chúng ta bám víu vào những tình cảm của con người, nhưng rồi cũng gặp phải biết bao ê chề của sự vô ơn, bội tín, bất trung. Biết bao lần chúng ta tưởng như ngồi mãi trên tấm thảm danh vọng cao sang nhưng rồi địa vị, chỗ ngồi như "của đồng lần" cũng bỏ ta để sang tay kẻ khác. Biết bao lần, thay vì bám chặt vào Chúa, đặt hết niềm tin cậy nơi Chúa, chúng ta lại chạy theo những người, những vật mỏng dòn chóng qua.
Thiên Chúa là Đấng Toàn Năng và hay thương xót. Người biết rõ chúng ta dễ gắn bó với tạo vật mà bỏ quên Người. Thế nên, Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy đặt chúa trên hết mọi quyến luyến trần gian. Hãy biết cậy dựa vào ơn Chúa để thắng vượt những ràng buộc, trở ngại trong cuộc đời.
Đã có thời người Do Thái tưởng rằng đã đến lúc Chúa Giêsu khôi phục lại vương quyền nhà Israel. Họ tưởng rằng Chúa sẽ đánh đông dẹp tây để xây dựng một nước Israel hùng cường và thịnh vượng. Họ theo Chúa xem ra chỉ nhằm mục đích để được hưởng những vinh hoa phú qúy trần gian. Tiền tài và bổng lộc trần gian là những thứ mà họ cần Chúa đáp ứng cho họ. Chúa Giêsu muốn đánh tan quan niệm, ý nghĩ sai lầm của nhiều người đang đi theo Chúa. Chúa đưa ra lời mời gọi những người muốn đi theo Ngài hãy suy nghĩ, đắn đo, tính toán xem họ có đủ can đảm, đủ nghị lực để theo Chúa đến cùng hay không? Và để theo Chúa, con người phải dành cho Ngài chỗ ưu tiên, chỗ nhất trong đời sống của mình và làm mọi việc để phụng sự Chúa, để tôn vinh Ngài. Theo Chúa là chấp nhận một cuộc mạo hiểm như Abraham đã rời quê cha đất tổ để đi theo sự hướng dẫn của Chúa. Theo Chúa là buông mình theo thánh ý Chúa như Đức Trinh Nữ Maria đã mạnh dạn thưa lên cùng Chúa:"này tôi là nữ tỳ của Chúa, xin vâng như lời sứ thần truyền". Theo Chúa là chấp nhận trải qua những gian nan thử thách của giông ba bão tố, của bách hại và tù đầy như thánh Phaolô tông đồ đã từng trải qua. Như vậy, theo Chúa là uốn mình theo thánh ý Chúa và bằng lòng với phận mình mà Thiên Chúa đã an bài. Vui với phận mình là cách mà chúng ta đang để cho ý Chúa thực hiện trong cuộc đời chúng ta.
Xin Chúa thanh tẩy trí lòng chúng ta khỏi những toan tính lợi lộc trần thế khi theo Chúa. Xin thêm ơn trợ giúp để luôn trung thành sống cho Chúa. Cho dẫu có phải hy sinh những vinh hoa phú qúy trần gian. Cho dẫu có phải hy sinh những tình cảm chính đáng và cao thượng. Cho dẫu có phải bước đi trong đêm tối của đức tin với bao hiểm nguy và chông gai, nhưng luôn có Chúa là gia nghiệp và chiếm hữu hạnh phúc Nước Trời mai sau. Amen.

14. Vác Thp giá vì Chúa – Lm. Giuse T Duy Tuyn

“Ai không vác thập giá mình mà theo Tôi, thì không thể làm môn đệ Tôi được” (Lc 14,27)
Đôi khi để được việc nào đó chúng ta cũng phải hy sinh, phải từ bỏ rất nhiều để đạt được điều chúng ta mong muốn. Cách sống này người ta gọi là ”Khổ nhục kế. Khổ nhục kế cũng là cách người ta dùng hy sinh, dùng nhục hình để nói lên lòng thành của mình.
Chuyện kể rằng tại lối vào một trung tâm mua sắm sầm uất ở tỉnh Sơn Đông (Trung Quốc) đã thực sự bị ùn tắc trước "sự cố nghiêm trọng": một thanh niên quỳ gối nhất quyết không chịu đứng lên, khiến cho mọi người xúm lại coi! Ngay cả khi cảnh sát đến can thiệp, anh chàng cũng không chịu rời vị trí để trả lại sự yên tĩnh cho đường phố!
Anh chàng cho biết bản thân đang cực kỳ đau khổ và giày vò vì đã không giữ lời hứa với người yêu mà uống rượu, khiến cô nàng tuyên bố đường ai nấy đi! Khổ thân anh chàng lếch thếch chạy theo năn nỉ và mất dấu cô bồ ở trung tâm mua sắm này. Vì thế, anh ta quyết định quỳ gối cho đến khi nào cô ấy xuất hiện mới thôi. May mà sau vài tiếng "thi gan", anh chàng đã khiến cho trái tim cô gái "chảy nước" nên cô đã đến và đưa anh ta đi.
Hóa ra để được việc đôi khi phải từ bỏ, từ bỏ danh dự, từ bỏ chính mình để được điều mình mong ước. Tựa như một cậu học sinh cần từ bỏ những niềm vui vô bổ để tập trung học hành mới mong công thành danh toại. Cuộc sống không có vinh quang nào mà không qua gian khó. Gian khổ càng nhiều vinh quang càng lớn. Quy luật cuộc đời trường tồn vẫn là thế.
Cuộc sống của người môn đệ cũng phải trải qua gian khổ, hy sinh, tập luyện và từ bỏ. Đôi khi phải hy sinh hay từ bỏ cả những cái mình quyến luyến, thích thú hay đam mê. Từ bỏ những cái mình yêu, mình thích thật là khó. Từ bỏ những cái mình gắn bó lâu dài càng khó hơn. Thế nhưng, vì Chúa chúng ta sẵn lòng. Vì Chúa chúng ta hy sinh. Vì Chúa chúng ta sống vâng theo thánh ý Chúa. Từ bỏ như thế gọi là thập giá. Thập giá vì lòng yêu mến Chúa sẽ trở thành thánh giá vinh quang.
Chúa Giê-su cũng từng đón nhận thập giá vì Chúa Cha. Thập giá của Chúa Giê-su đã biến thành thánh giá. Thánh giá vinh quang. Thánh giá đem lại nguồn ơn cứu rỗi cho nhân trần. Theo lẽ thường chẳng ai thích đau khổ. Ai cũng tìm an nhàn sung sướng. Thế nhưng, Chúa Giê-su đã chọn gian khổ, chọn hy sinh để vui lòng Chúa Cha, vì Ngài biết Chúa Cha sẽ ân thưởng vương quyền thiên quốc cho những hy sinh mà Ngài đã làm cho Chúa Cha.
Là người ai cũng ham sướng sợ khổ. Nhưng chúng ta vẫn có thể đón nhận vì một hạnh phúc lớn hơn. Tựa như người mẹ mang thai nặng nhọc và còn sinh con trong đớn đau nhưng niềm vui thật to lớn khi con được sinh ra chào đời. Là người ky-tô hữu chúng ta cũng đón nhận thập giá không phải vỉ chúng ta thích đau khổ mà vì một phần thưởng thật lớn lao trên trời mà Chúa dành cho chúng ta. Thánh Phao-lô đã từng nói rằng: những đau khổ đời này chẳng là gi so với hạnh phúc viên mãn đời sau. Thế nên, vì lòng yêu mến Chúa chúng ta biết đi vào cửa hẹp là từ bỏ những tham sân si, những niềm vui bất chính để được sống thanh thoát đời này và vinh hiển đời sau. Vì lòng yêu mến Chúa, chúng ta cũng sẵn lòng vác thập giá của bổn phận để phục vụ gia đình và tổ quốc hầu mai sau chúng ta cũng được ân thường hạnh phúc thiên đàng.
Xin cho chúng ta luôn biết đón nhận thập giá như là hồng ân Chúa gửi đến để ta lập công trước mặt Thiên Chúa. Amen.

15. Mt s nghch lý – Lm. Giuse Nguyn Công Đoan

Con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý. Một trong những cái nghịch lý ấy là điều kiện để theo Chúa.
Chúa đưa ra ví dụ người xây tháp, ông vua ra trận. Làm gì thì cũng phải tính xem mình có đủ sức hoàn thành không đã. Nhưng kết luận làm ta chưng hửng và há miệng suy nghĩ: “Cũng giống như thế, ai trong các ngươi không từ bỏ hết mọi của cải thì không thể làm môn đệ ta”. Trước đó, Chúa đã nói đến phải từ bỏ những người ruột thịt và chính mạng sống mình.
Cái nghịch lý ở đó. Muốn xây tháp phải có tiền. Muốn thắng trận phải có lính. Muốn theo Chúa, không cần có gì hết, nhưng phải từ bỏ mọi người ruột thịt và mọi của cải mình có. Vấn đề không còn là có nhiều có ít mà là từ bỏ tất cả.
Thế nghĩa là gì? Từ bỏ tất cả để theo Chúa nghĩa là coi Chúa hơn tất cả và tin vào một mình Chúa. Muốn xây tháp phải có tiền, muốn thắng trận phải có lính, còn muốn theo Chúa phải coi Chúa hơn hết mọi người và mọi sự và tin tưởng vào Chúa hơn hết mọi sự, mọi người: tin vào Chúa mà thôi. Bởi vì muốn theo Chúa thì phải sống bằng lòng tin, cậy, mến.
Nếu không coi Chúa hơn hết mọi người, mọi sự thiết thân với ta, và ta cảm được sự gần gũi bằng giác quan, ta sẽ dựa vào những người và những vật ta thấy được, nên bóng tối đến, khi ta không cảm thấy Chúa đâu nữa, mà chỉ cảm thấy sức nặng của cuộc sống, của vất vả và đau khổ, ta sẽ dễ dàng bỏ Chúa để quay về với những người và những vật ta cảm thấy được.
Cuộc chiến đấu của Chúa Kitô là cuộc chiến đấu chống lại Satan chứ không phải với kẻ thù bằng xương bằng thịt, nên ta không thể dựa vào người nào hoặc sức mạnh nào của vật chất mà chiến thắng được, song phải dựa vào Chúa mà thôi. Đây vẫn là cuộc chiến đấu Đavít – Goliath: “Ngươi cầm gươm giáo ra đánh ta, còn ta, ta ra đánh ngươi nhân danh Chúa mà ngươi thách đố (1Sam 17,44). Thế đấy, tuy Đavít đã có thể vỗ ngực trước mặt Saulê rằng mình đã từng tay không đánh nhau với sư tử và gấu để bảo vệ đoàn chiên của cha, nhưng khi nghênh chiến tên khổng lồ Goliath thì Đavít chỉ dựa vào Chúa thôi, và Đavít đã thắng, hay đúng hơn Chúa đã dùng tay Đavít mà tiêu diệt Goliath giải thoát cho dân Chúa.
Đây là vấn đề vinh danh Chúa. Chúa thi thố quyền năng để làm vinh danh Chúa, nên Chúa chỉ ra tay khi người ta không mưu toan chiếm đoạt vinh quang Chúa bằng cách gán cho thế lực, của cải hay tài sức mình. Trong chuyện Ghiđêon, Chúa đã bảo ông đuổi bớt người tình nguyện về, chỉ lấy 300 thôi, kẻo dân chúng lại tưởng nhờ sức họ mà họ chiến thắng.
Trong lịch sử, Chúa vẫn hành động như thế, Chúa hạ kẻ kiêu căng, tự phụ và nâng kẻ nghèo hèn, khiêm tốn lên. Có những vị thánh thông thái, tài ba… nhưng các vị ấy đều khiêm nhượng, nhìn nhận quyền năng của Chúa và sự yếu đuối của mình; có những vị thánh yếu đuối, dốt nát như thánh nữ Catarina de Sienna, thánh Gioan Maria Vienney để làm nổi bật quyền năng của Chúa.
Cái có vẻ nghịch lý lại là một hợp lý khi người ta biết nhìn ra ý nghĩa đích thật của việc đi theo Chúa, với mục đích là vinh danh Chúa và sức mạnh là sức của Chúa. Phải đặt Chúa lên trên hết vì Chúa là lẽ sống duy nhất của mình, vì đường lối của Chúa là duy nhất cho mình, và sức mạnh của Chúa là nguồn sức mạnh duy nhất để hoàn thành được cuộc hành trình theo sau Chúa, đi với Chúa.

16. S khôn ngoan ca Tin Mng

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Công Đoan)
Chúa Nhật 23 thường niên: Sách Khôn ngoan 9,13-18; thư gởi Philemon 9-17; Lc 14,25-33.
Các bài đọc và bài tin Mừng CN 23 TN xoay quanh sự khôn ngoan.
I- Sách Khôn Ngoan nêu một thực tế: tại sao con người “mất khôn” và làm sao có thể trở nên khôn?
Con người mất khôn vì: “ Thân xác dễ hư nát này khiến linh hồn ra nặng, cái vỏ bằng đất này làm tinh thần trĩu xuống vì lo nghĩ trăm bề.
Trong Vườn Cây Dầu, Chúa Giêsu cũng nhắc các môn đệ: “Hãy canh thức và cầu nguyện kẻo sa chước cám dỗ. Vì tinh thần thì hăng hái, nhưng thể xác lại yếu hèn” (Mt 26,41).
Thân phận con người là như thế. Bao nhiêu lần chúng ta tự đấm ngực sau khi đã làm một chuyện đáng tiếc: “Sao lúc đó mình không nghĩ ra… Sao lúc đó mình ngu thế!”…
Đó là cái giới hạn thứ nhất. Cái giới hạn thứ hai càng khó vượt qua:
“Những gì thuộc hạ giới, chúng con đã khó mà hình dung nổi, những điều vừa tầm tay, đã phải nhọc công mới khám phá được, thì những gì thuộc thượng giới, có ai do thấu nổi hay chăng?”
Chúa Giêsu cũng nói với ông Nicôđêmô: “Nếu tôi nói với các ông về những chuyện dưới đất mà các ông còn không tin,thì giả như tôi nói nói với các ông về những chuyện trên trời, làm sao các ông tin được?”(Ga 3,12).
Câu trả lời rất rõ ràng và dứt khóat: “Ý định của Chúa, nào ai bíết được, nếu tự chốn cao vời, Ngài chẳng ban Đức khôn Ngoan, chẳng gởi thần khí thánh? Chính vì thế mà đường lối người phàm được sửa lại cho thẳng, cũng vì thế mà con người được dạy cho bíết những điều đẹp lòng Ngài, và nhờ đức Khôn Ngoan mà được cứu độ.”
Các tông đồ đã được Chúa Giêsu tuyển chọn để ở với Chúa và được Chúa đích thân dạy dỗ suốt ba năm trời, mà càng học càng ngu, khiến Chúa phải than: “Anh em chưa hiểu, chưa thấu sao? Lòng anh em chai đá thế! Anh em có mắt mà không thấy, có tai mà không nghe ư? Anh em không nhớ sao” (x. Mc 8,17-18).
Rút cục thì phải chờ đến khi Chúa đã vào trong vinh quang Phục Sinh, Chúa mới giải được cái huyệt ngu cho các ông: “Bấy giờ Người mở trí cho các ông hiểu Kinh Thánh” (Lc 24,45).
Tin Mừng Gioan nói rõ hơn: “Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần, Chúa Cha sẽ phái đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26). “Người sẽ dẫn anh em tới sự thật toàn vẹn” (16,13).Vậy ra Thánh Thần là “ngón tay”của Thiên Chúa mà Chúa Giêsu Vinh Quang dùng để giải huyệt ngu và giúp trí nhớ cho các môn đệ.
Môn đệ thuộc thế hệ thứ hai, tức là các tín hữu do các Tông Đồ dạy dỗ cũng vẫn còn bị “điểm huyệt” cho hóa ngu. Trong bức thư đầu tiên gởi tín hữu Thê-xa-lô-ni-ca và là bản văn xưa nhất trong sách Tân Ước, thánh Phao lô diễn tả cách thức ngài dạy dỗ tín hữu: “Khi ở giữa anh em, chúng tôi đã cư xử thật dịu dàng, chẳng khác nào mẹ hiền ấp ủ con thơ Chúng tôi đã cư xử với mỗi người trong anh em như cha với con; chúng tôi khuyên nhủ, khích lệ, van nài anh em sống xứng đáng với Thiên Chúa, Đấng đã kêu gọi anh em vào Nước và vào vinh quang của Người” (I Th 2,7.11-12).
Cuối thư, ngài khuyên họ: “Anh em đừng dập tắt Thần Khí. Chớ coi thường ơn làm ngôn sứ. Hãy cân nhắc mọi sự, điều tốt hãy giữ lấy, mọi thứ xấu hãy lánh xa” (5,18-22).
Trong bức thư thứ hai gởi cho cùng một cộng đoàn này, thánh Phaolô đã phải cảnh giác họ: “Về ngày Chúa chúng ta là Đức Giêsu Kitô quang lâm và tập hợp chúng ta về với Người, chúng tôi xin anh em điều này: anh em đừng vội để cho tinh thần dao động, cũng đừng hỏang sợ vì một mặc khải của thần khí, một lời nói hay một bức thư được coi như là do chúng tôi và làm cho anh em tưởng là ngày của Chúa đã đến. Đừng để ai lừa dối anh em bất cứ cách nào” (2Th 2,1-3).
Như vậy là sớm có những ngón tay khác tìm cách điểm huyệt làm cho ngu! Sư phụ của cái ngón điểm huyệt làm cho ngu vẫn là kẻ thù truyền kiếp: Xa-tan. Trong thư thứ hai gởi tín hữu Corintô, thành Phaolô vạch mặt chỉ tên nó: “… kẻo chúng ta bị Xa-tan lường gạt, vì không phải chúng ta không biết ý đồ của nó”(2Cr 2,11); “Lạ gì đâu, chính Xa-tan cũng giả dạng thiên thần” (11,14).
Trong thư gởi tín hữu Ga-lát, [là thư thứ hai, về thời gian, sau thư I Th], thánh Phaolô quở trách họ cũng giống Chúa Giêsu quở trách các tông đồ: “Hỡi những người Ga-lat ngu xuẩn, ai đã mê hoặc anh em… Anh em ngu xuẩn như thế sao?” (Gl 3,1.3). Rồi trong phần khuyên bảo, thánh Phaolô nhắc lại điều sách Khôn Ngoan đã nói: “Thật thế, tính xác thịt đam mê những điều trái ngược với Thần Khí… khiến anh em không làm được những điều anh em muốn” (5,17).
Cái nọc độc của Xa-tan thấm sâu đến nỗi người ta lừa dối chính mình: “Nếu ai tưởng mình là cái gì mà chẳng là cái gì cả, thì lừa gạt chính mình” (6,3). Nó có thể trở thành một thứ bệnh dịch: “Sẽ đến thời người ta không còn chịu nghe giáo huấn lành mạnh, nhưng theo những đam mê của chính mình mà kiếm hết thầy này đến thầy nọ, bởi ngứa ngáy muốn nghe. Họ sẽ ngỏanh tai đi không nghe sự thật, nhưng hướng về những chuyện hoang đường” (2Tm 4,3-4).
Cuối cùng thánh Phaolô còn gặp phải một “Anh Đê-ma đã bỏ tôi, bởi yêu mến thế gian” (2Tm 4,10).
Xa-tan có trăm nghìn ngón để điểm vào cái huỵêt làm cho hóa ngu. Nó có nội gián ngay trong lòng ta, nó có đồng minh và tay chân bao vây ta. Thánh Phaolô bíêt thế, nên từ trong tù, ngài đã viết cho tín hữu Ephêsô: “Tôi quỳ gối trước mặt Chúa Cha… Nguyện xin Chúa ban cho anh em được mạnh mẽ nhờ Thần Khí của Người… để cùng các thánh, anh em đủ sức thấu hiểu mọi kích thước dài rộng cao sâu, và nhận biết lòng yêu mến của Đức Kitô” (Ep 3,14-19).
II. Bài đọc thư Philêmon cho chúng ta thấy thánh Phaolô đã vận dụng sự Khôn Ngoan của tin Mừng để giải quyết một vấn đề xã hội của thời ngài: vần đề nô lệ.
Philêmon là một tín hữu giàu có, nhiệt thành và quảng đại. Nhà ông trở thành nơi hội họp của cộng đoàn Hội Thánh. Thánh Phaolô gọi ông là “người bạn yêu quý và cộng sự viên”.
Không hiểu sao một người nô lệ trong nhà ông Philêmon, tên là Ônêximô, lại bỏ trốn. Nhưng anh ta rất khôn, tìm đến gặp thánh Phaolô đang ở trong tù. Và đối với thánh Phaolô anh ta đã trở thành “đứa con tôi sinh ra trong cảnh xiềng xích…nó là ruột thịt của tôi”. Anh ta trở nên người hữu ích đến nỗi thánh Phaolô ngỏ ý: “Tôi muốn giữ nó ở bên tôi, để nó thay anh mà phục vụ tôi trong khi tôi bị xiềng xích vì Tin Mừng. Nhưng tôi không muốn làm gì mà không có sự ưng thuận của anh…”.
Tương quan giữa Ônêximô, người nô lệ đã bỏ trốn, và Philêmon, ông chủ, bây giờ thế nào?
“Có lẽ nó đã rời xa anh một thời gian, chính là để anh vĩnh viễn được lại nó, không phải như một người nô lệ nữa, nhưng còn hơn một người nô lệ, như một người anh em yêu quý: đặc bíệt yêu quý đối với tôi, phương chi đối với anh lại còn hơn bíêt mấy, xét cả về tình người lẫn tình anh em trong Chúa”.
Sự biến đổi tuyệt vời: người nô lệ trở thành người anh em trong Chúa của ông chủ.
Cách mạng kiểu Mac-xít thay đổi bằng cách lật ngược trật tự xã hội, đổi vai: chủ xuống làm nô lệ, nô lệ lên làm chủ. Ở miền Bắc Việt Nam thời kỳ 1954-1975, còn đi tới khẩu hiệu: “thằng trời kia xuống làm dân, để cho nông hội đứng lên làm trời”, bởi vì nông hội có thể “thay trời làm mưa” và có thể “nghiêng đồng tát nước ra sông”. Cách mạng triệt để tới thế là cùng!
Sự Khôn Ngoan của Tin Mừng thay đổi tận bên trong lòng con người để nâng nô lệ lên làm anh em của chủ, “cả về tình người lẫn tình anh em trong Chúa”. Người nô lệ vô dụng bỏ trốn, nay trở thành “người hữu ích cho cả anh lẫn tôi”.
Tin Mừng không chủ trương lật đổ, nhưng biến đổi các tương quan từ bên trong:
“Thưa anh em, mỗi người đang ở địa vị nào khi được kêu gọi thì cứ ở địa vị đó. Bạn là nô lệ khi được kêu gọi ư? Chớ bận tâm, dù có thể được tự do, tốt hơn hãy lợi dụng thân phận nô lệ. Thật thế, người nô lệ mà được Chúa kêu gọi, thì là người được Chúa giải phóng. Cũng vậy, người tự do mà được kêu gọi, thì là nô lệ của Đức Kitô. Thiên Chúa đã trả giá đắt mà chuộc lấy anh em” (I Cr 7,20-23).
Sự thay đổi diễn ra trong Đức Kitô: “Tất cả anh em đã chịu phép rửa để kết hợp với Đức Kitô, thì đều mặc lấy Đức Kitô. Không còn Do thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do, không còn nam hay nữ; vì tất cả anh chỉ là một trong Đức Kitô” (Gl 3,27-28).
Xã hội tốt đẹp hơn và bình đẳng tuyệt đối, vì nô lệ trở thành “nô lệ của Đức Kitô, tận tâm thi hành ý Thiên Chúa. Hãy vui lòng phục vụ, như thể phục vụ Chúa, chứ không phải người ta. Người làm chủ cũng hãy đối xử như thế với nô lệ. Đừng dọa nạt nữa: anh em bíêt rằng cả họ, cả anh em cùng có chung một Ông Chủ trên trời và Người không thiên vị ai”. (Ep 6,6-9).
III. Sự Khôn Ngoan Chúa dạy trong bài Tin Mừng.
Sách Tin Mừng Luca nói “dai” nhất và “triệt để nhất về những điều kiện để làm môn đệ.
Nói “dai” nhất:
Sau lần thứ nhất Chúa Giêsu báo trước cuộc Thương Khó, Lc không kể gì về phản ứng của các tông đồ, mà để cho Chúa Giêsu tuyên bố liền điều kiện làm môn đệ. Sau lần thứ hai, Chúa ân cần sửa dạy cách hành xử “chống thập giá” của các tông đồ, rồi “cương quyết đi lên Giêrusalem” (9,51). Vừa lên đường thì lại xảy ra chuyện hai anh em Giacôbê và Gioan muốn làm môn đệ Elia, khiến lửa từ trời xuống đột người ta, rồi chuyện ba người lần lượt xin theo Chúa hoặc được gọi theo Chúa, và được nghe những điều kiện một cách cụ thể.
Đến chương 14 thì Lc lại kể những lời Chúa nói về điều kiện làm môn đệ.
Sau lần thứ ba loan báo cuộc thương khó thì chỉ thấy “một sự im lặng đáng sợ từ phía các môn đệ.
Tới bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng, sau khi Chúa đã lập bí tích Thánh Thể, trao Mình và Máu làm của ăn của uống và tuyên bố “bàn tay kẻ nộp Thầy đang cùng đặt trên bàn với Thầy”, thì Lc kể” “các ông còn cãi nhau sôi nổi xem ai trong các ông được coi là người lớn nhất”, khiến Chúa Giêsu phải lặp lại một cách quyết liệt hơn bài học đã dạy sau lần thứ hai và đặt chính mình Chúa làm gương mẫu: “Thầy đây, Thầy ở giữa anh em như một người phục vụ (Lc 22,21-27àso với Ga 13).
Lc nói “triệt để nhất:
lần thứ nhất nói về điều kiện làm môn đệ: “Ai muốn đi theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình hàng ngày mà theo…” (9,23-26).
Lần thứ hai” “Ai đến với tôi mà không… thì không thể làm môn đệ tôi được. Ai không vác thập giá mình và đi theo tôi, thì không thể làm môn đệ tôi (14,26-27).
Tình triệt để hiện rõ trước tiên ở cụm từ “thập giá hàng ngày”, chứ không phải lâu lâu gặp một lần!
Cách phát biểu lần thứ hai thì như một “định lý đảo” trong tóan học, so với lần thứ nhất là “định lý thuận”. Trong tóan học, khi một định lý thuận có định lý đảo thì không có cách nào thóat được!
Chúa nói với mọi người: Cái phiền là Chúa không nói riêng với các môn đệ vẫn theo Chúa hay với các vị trong nhóm Mười Hai, mà nói với mọi người (9,23 và 14,25). Vậy thì điều kiện này không chỉ dành cho ông cha, bà phước hay ông thầy khổ tu, mà dành cho mọi người.
Làm sao Chúa có thể đòi mọi người như thế được? Ở lần thứ nhất, Chúa giải thích: “Quả vậy, ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất…”. Rõ ràng là khi bị đặt trong một hoàn cảnh phải chọn lựa quyết liệt, thì phải chọn Chúa hơn chính mạng sống mình, hơn mọi của cải trần gian, hơn danh vọng. Đó là trường hợp các thánh tử đạo, tổ tiên chúng ta và những người tử đạo đương thời…
Nhưng Lc Chúa nói đến “thập giá hàng ngày” kia mà! Sách Tin Mừng này đặc biệt thích “hàng ngày” và “hôm nay”. Thiên thần báo tin cho các người chăn chiên: “Hôm nay, một Đấng Cứu Độ đã sinh ra cho anh em” (2,11). Chúa Giêsu trong Hội Đường Nadaret: “Hôm nay đã ứng nghiệm lời kinh thánh tai quý vị vừa nghe” (4,21). Khi Chúa vào nhà ông Da-kêu: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này” (19,9). Và trên thập giá, Chúa đáp lời người trộm cướp kêu xin: “Hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng”.
Trong kinh Lạy Cha, “Xin cha cho chúng con ngày nào có lương thực ngày ấy” (11,3).
Ngày nào cũng là “Hôm nay” của ơn cứu độ, ngày nào cũng cần lương thực ngày ấy. Vì thế mà thập giá là nơi treo ơn cứu độ cũng hiện diện hàng ngày như lương thực.
“Thập giá hàng ngày” trở nên khó hiểu vì chúng ta thường hỉểu thập giá là cái gì đau khổ lắm, nên chỉ khi nào gặp chuyện đau khổ lắm mới đem lời “thập giá” ra an ủi nhau!
Trong lời Chúa tuyên bố, chúng ta có thể thấy “từ bỏ chính mình” là nói một cách trừu tượng, “vác thập giá mình hàng ngày” là kiểu nói bằng hình ảnh. Ở thời Chúa Giêsu hai chữ thập giá gợi lên cái gì thì ai cũng biết, và cảnh người bị treo trên thập giá không phải là họa hiếm. Có lẽ những người nghe Chúa cũng đã từng thấy cảnh đó rồi. Bị treo lên thập giá thì chẳng còn gì cả, trần truồng trước con mắt mọi người, ai đi qua cũng có thể phỉ báng, chim trời xuống mổ hay muỗi cắn cũng không đuổi được nữa. Một người bị kết án tử hình đã vác lấy thập giá của mình mà đi thì không còn gì là của mình nữa rồi.
Như vậy hình ảnh “vác thập giá mình hàng ngày” diễn tả trọn vẹn nhất sự từ bỏ, giống như Chúa Giêsu (x. Pl 2,5-11). Chính lời giáo huấn trong bữa Tiệc Vượt Qua cuối cùng cho chúng ta hiểu vác thập gia hàng ngày là đem bản thân và những gì mình có ra phục vụ anh chị em.
Cái khôn của Tin Mừng là “bỏ con săn sắt, bắt con cá rô”, bỏ cái giới hạn để được cái vô hạn, bỏ cái mau qua để được cái vĩnh cửu. Bỏ bóng bắt mồi chứ không bỏ mồi bắt bóng! Có nhiều cách bỏ.
Trong Tin Mừng Lc có các môn đệ “bỏ mọi sự mà đi theo Chúa” (5,11), lại có các phụ nữ giầu có ôm hết của cải mà đi theo Chúa: “Các bà này đã lấy của cải mình mà giúp đỡ Đức Giêsu và các môn đệ (8,3). Có ông Da-kêu vừa được Chúa gọi và xin cho vào trọ ở nhà ông, ông đã thưa: “Thưa Ngài, đây phân nửa gia tài của tôi, tôi cho người nghèo”(19,8). Có ông Giuse Arimathê dùng uy tín của mình để đơn thân đi gặp Philatô xin xác Chúa Giêsu và chôn trong ngôi mộ mới (23,59-53).
Trong sách Công Vụ và các thư của thánh Phaolô, chúng ta thấy nhiều người như ông Philêmon, biến nhà mình thành nơi hội họp cho cộng đoàn tín hữu. Cặp vợ chồng Pơ-rit-ki-la và A-qui-la liên kết với thánh Phaolô phục vụ các cộng đoàn ở Corintô, Ephesô, Rôma.
Quả thật điều kiện làm môn đệ áp dụng cho mọi người, mọi bậc sống. Làm môn đệ của Chúa không phải là một nếp sống dành riêng cho một số người, nhưng cho mọi người. Ai cũng được mời gọi làm môn đệ của Chúa cả.
Cái trớ trêu của cuộc đời là có những người khôn nửa vời: từ bỏ mọi sự để vào tu viện nhưng vẫn dễ dàng “quên” một món: chính mình. Có khi tu đến hết đời cũng vẫn còn ôm theo chính mình. Vì thế chẳng bao giờ thấy mình hạnh phúc.
Trong chuyện “Bao Công xử án”, có chuyện một ông trong hoàng tộc bị kết tội mưu phản và bị chém đầu. Nhưng tòa án có ba con dao khác nhau: con dao có đầu con chó để chém dân đen (Cẩu đầu trảm), con dao có đầu con hổ để chém quan chức (Hổ đầu trảm) và con dao có đầu con rồng để chém người hoàng tộc (Long đầu trảm). Đáng lẽ theo đúng tội thì phải giáng xuống hàng dân đen. Nhưng Bao Công nể mặt hoàng tộc, ra lệnh “Hổ đầu trảm”. Ông hoàng đòi “Phải xử ta bằng Long đầu trảm”! Bao Công ra lệnh “Cẩu đầu trảm”!
Đúng là “cà cuống chết đến đít còn cay”.
Ngày nay trong các nước nghèo của châu Á, châu Phi, bên cạnh số người thật lòng đáp lại tiếng Chúa gọi, cũng có những kẻ “khôn ngược”: đó là những người chẳng có gì để bỏ, ngòai “chính mình”, nhưng lại ôm theo vào chủng viện, vào tu viện với cái ước mơ “vinh thân phì gia”, “một người làm quan cả họ được nhờ.
Thật đáng báo động vì nguy hiểm cho tương lai của Giáo Hội.
Thế là đảo lộn Tin Mừng! Thay vì lột bỏ hết để theo Chúa thì lại cùng chia áo sống của Chúa với “quân dữ, lợi dụng tài sản của Giáo Hội, lợi dụng lòng tốt của giáo dân, của ân nhân trong và ngoài nước… Giáo Hội tại các nước giàu đã chịu bao nhiêu thiệt thòi, có khi phá sản vì những gương xấu của linh mục, tu sĩ. Giáo Hội tại các nước nghèo không cẩn thận thì lại “nuôi ong tay áo”, tới lúc nào nó đốt cho rồi bay đi thì hối không kịp.
Phần cuối bài Tin Mừng, Chúa Giêsu dạy tiếp sự khôn ngoan của Tin Mừng. Chúa kể hai dụ ngôn về khôn ngoan ở đời là phải biết tình tóan. Rồi chuyển qua sự khôn ngoan của Tin Mừng: “Cũng vậy, ai không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi”. Lại một định lý tóan học! Nhưng sao lại “cũng vậy”? Hai thí dụ đều là phải biết tính tóan, áp dụng vào con đường làm môn đệ thì lại không có tính toán mà chỉ có “trọn gói”!
“Cũng vậy” nghĩa là giống nhau. Giống nhau ở chỗ nào đây?
Giống nhau ở chỗ hai bên đều là khôn cả”
Khôn ở đời là phải bíêt tính tóan,
khôn của Tin Mừng là không tính tóan.
Tuy Chúa Giêsu học nghề thợ mộc, quen đo đạc: đo cuộc sống cũng lấy “khủyu tay” (Lc 12,12,27), nhưng đến khi nói về điều kiện để theo Chúa thì Chúa xóa hết các động từ “cân, đo, đong, đếm”, chỉ bíêt “trọn gói”.
Chúa khôn thiệt. Không cân, đo, đong, đếm thì không chia chác được.
Chúa cũng không cân, đo, đong, đếm từ khi làm người cho đến khi trút hơi trên thánh giá: “Lạy Cha, con phó linh hồn con trong tay Cha”.
Xin Chúa cho con một tí cái khôn của Chúa đi, con sẽ hạnh phúc suốt đời và muôn đời.

17. T b để theo Chúa

Con đường theo Chúa vốn đầy những nghịch lý. Một trong những cái nghịch lý là điều kiện để theo Chúa. Bài Tin Mừng hôm nay Chúa Giêsu cho chúng ta biết điều kiện đó, là phải từ bỏ tất cả: "của cải, cha mẹ, vợ con, anh chị em và chính bản thân mình". Đó là điều kiện gắt gao, cho nên cần phải tính toán, suy xét thật cẩn thận. Điều kiện này không phải Chúa chỉ nói với các môn đệ mà với tất cả đám đông đang nghe Chúa giảng dạy. Và như vậy đây là điều kiện cho tất cả mọi người trong mọi hoàn cảnh, nhất là trong hoàn cảnh của nền văn minh vật chất hiện nay.
Trước hết, Chúa Giêsu cho biết: muốn đi theo Chúa, muốn làm môn đệ Chúa phải từ bỏ tất cả, nghĩa là phải chọn Chúa trên hết mọi sự, trên cả những tình cảm thân thương nhất, cả chính bản thân cũng như vinh quang và của cải trần gian này. Đây là một đòi hỏi mang tính chất khác thường, ngược đời và khó chấp nhận, nên Chúa đã đưa ra hai dụ ngôn để minh họa và giải thích: Cũng như người muốn xây tháp hay xây nhà: trước khi xây phải tính toán cẩn thận: có xây hay không? Xây lúc này hay xây lúc khác? Xây ở đâu? Để làm gì? Rồi vấn đề tiền bạc, công thợ, vật liệu thế nào? Có giải quyết được những vấn đề đó mới nên khởi công, bằng không thì thôi. Thà đừng xây còn hơn là xây rồi mà bỏ dở dang. Cũng vậy, một ông vua hay một ông tướng sắp lâm trận, phải biết lượng sức mình, đánh giá đúng khả năng của mình: so đo lực lượng hai bên, phải biết tinh thần quân sĩ, phải nắm vững tình thế: thiên thời, địa lợi, nhân hòa... Có nắm vững được những yếu tố thuận lợi cho mình mới nên cất quân đi đánh giặc, bằng không phải tính toán cách khác, kẻo cất quân đi đánh mà bị thua thì vừa mất quân vừa thiệt hại.
Những người muốn đi theo Chúa cũng vậy, phải biết tính toán cẩn thận và chọn lựa dứt khoát. Bởi vì con đường theo Chúa là con đường từ bỏ: "từ bỏ hết, từ bỏ tất cả, từ bỏ hoàn toàn". Cái nghịch lý là ở chỗ đó. Muốn xây tháp, xây nhà phải có tiền. Muốn thắng trận, phải có lính. Muốn theo Chúa, không cần có gì hết, nhưng phải từ bỏ mọi người ruột thịt và mọi của cải mình có. Từ bỏ tất cả để theo Chúa, nghĩa là coi Chúa hơn tất cả mọi người, hơn tất cả mọi sự và tin vào một mình Chúa mà thôi.
Điều kiện này là khó. Nhưng không phải là không thực hiện được. Bằng chứng là các tông đồ Chúa kêu gọi, các ông mau mắn, dứt khoát đi theo Chúa, dù phải bỏ gia đình, cha mẹ, vợ con, nghề nghiệp. Tiếp theo các tông đồ, từ xưa cho đến nay, biết bao nhiêu người đã sống đời tận hiến, bước đi theo Chúa trong ơn gọi linh mục, tu sĩ, cống hiến cả cuộc đời cho Chúa và tha nhân... Có biết bao người đã sẵn sàng chịu đau khổ, thử thách và hy sinh cả mạng sống vì danh Chúa Kitô như các thánh tử đạo.
Nhưng đối với phần đông chúng ta, Chúa không đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ của cải, cha mẹ, gia đình, vợ con, nghề nghiệp để đi tu. Nhưng Chúa đòi hỏi chúng ta phải biết từ bỏ mình. Từ bỏ mình không có nghĩa là hành hạ mình, nhưng là từ bỏ cái tôi, từ bỏ những ước muốn xấu của ý chí, những lời nói cay chua của cơn tức giận, những tư tưởng kênh kiệu độc đoán của thái độ tự phụ bất chính. Nói khác đi, từ bỏ chính mình có nghĩa là từ bỏ tham, sân, si. Tham là tính tham lam: tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế. Chính cái tham ấy xô đẩy chúng ta vào vòng tội lỗi, gây tranh giành đố kỵ và làm khổ lẫn nhau. Sân là tính nóng nảy, thường thúc đẩy chúng ta làm những sự bất công. Sân cũng là giận. Giận mất khôn, khiến chúng ta không làm chủ được mình, dễ trở nên hung bạo, gây tai ương và đau khổ cho người khác. Si là ngu muội, tối tăm, mê mẩn. Vướng phải khuyết điểm này chúng ta thiếu sự phán đoán, sự suy luận đúng đắn, ít phân biệt được điều hay lẽ phải, khư khư sống trong thành kiến sai lầm. Hơn nữa, còn mê man những cái không đáng, những cái phù du giả dối, những cái có vẻ tốt đẹp bên ngoài mà bên trong xấu xa, thối nát. Đối với nhà Phật, phải diệt tham lam, diệt sân nộ, diệt mê si. Diệt là dứt bỏ, dứt bỏ dần dần và rồi hủy bỏ dứt khoát. Đối với chúng ta là từ bỏ chính mình, có nghĩa là không làm theo ý thích ý muốn của mình khi điều đó trái với ý Chúa. Từ bỏ như vậy để chỉ sống cho Chúa và tha nhân.
Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta hãy kiểm điểm: sống là lựa chọn, mà lựa chọn tức là từ bỏ những cái mình không chọn. Thái độ từ bỏ và dứt khoát đó lại càng cần đối với việc chọn Chúa, chọn nước trời, chọn những việc đẹp lòng Chúa và làm chứng cho Chúa. Bấy lâu nay chúng ta có thái độ dứt khoát đó không hay chúng ta muốn ôm đồm tất cả và cũng tiếc rẻ tất cả? Bấy lâu nay có phải chúng ta đã theo Chúa để tìm lợi cá nhân, tiền bạc, danh vọng hoặc địa vị và một số những cái lỉnh kỉnh khác, chứ thực sự chưa có thái độ lựa chọn dứt khoát vì Chúa, vì tình thương, vì tình người, vì nước trời... có phải vậy không?
Trong xã hội chạy theo văn minh vật chất và thích hưởng thụ này, có những người giàu, có chức vị, có tiền của, có nhiều phương tiện, nhờ có tinh thần từ bỏ mình, quên mình, đã biết lợi dụng những cái đó để làm ích cho kẻ khác, để xây dựng công ích, để mở Nước Chúa. Trái lại, cũng trong hoàn cảnh như vậy, kẻ không có tinh thần từ bỏ, quên mình, thì đã lợi dụng của cải, tiền bạc, tự do, tiện nghi, để hưởng thụ cho chính bản thân mình, đã không làm lợi cho kẻ khác, cho Hội thánh, cho đồng bào, cho đất nước... Chúng ta vào số người nào?
Để từ bỏ được chính mình như thế, cần phải có thật nhiều ơn Chúa và một sự can đảm mạnh mẽ. Vì khi từ bỏ là chúng ta sẽ cảm thấy như bị thua thiệt rất nhiều ở đời này. Vì thế, từ bỏ được mình, quên mình, nói thì dễ nhưng thực hành thì không dễ dàng, nếu không có ơn Chúa trợ giúp thì không ai có thể thực hành được. Cho nên, chúng ta phải cầu xin Chúa và cố gắng rất nhiều.
Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết từ bỏ để mạnh dạn bước đi theo Chúa và can đảm thi hành ý Chúa. Amen.

18. Bn đã yêu mến Chúa thang bc nào?

(Suy niệm của Lm Fx Nguyễn Hùng Oánh)
Một đám rất đông người theo Chúa Kitô, cùng đi với Chúa Kitô. Lý do nào, động lực nào thúc đẩy họ? Vì phép lạ hoặc lời giảng dạy hoặc họ đã nhận ra Chúa là Đức Kitô? Câu hỏi nào cũng có thể đúng với một số người trong đám đông hỗn tạp này cả (x.Lc 14,25-38)
Chúa dạy họ. Ta có thể đoán được cái gì họ chưa có, Chúa mới dạy, “Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta”, dịch đúng là “Nếu ai đến với Ta mà không ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta”.
Một lời dạy đọc ra “chói tai”, vi phạm giới răn thứ tư. Ngôn ngữ Cựu ước thiếu lối so sánh “mà hơn”, họ dùng lối đối ngẫu, cặp đối lập thay vào, thí dụ: Thiên Chúa thương Giacóp và ghét Esau, có nghĩa là “Thiên Chúa thương Giacóp hơn Esau” (Mal 1, 2-3). Như vậy, lời Chúa dạy trên phải hiểu: Nếu ai đến với Ta mà thương yêu cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình hơn Ta thì không thể làm môn đệ Ta.
Đó là điều kiện tiên quyết đòi hỏi rất hợp lý hợp tình. Đặt Chúa trên các giá trị khác. Tình gia đình sâu thẳm, ai cũng nhận thế. “Công cha như núi Thái Sơn, nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra”, nhưng công của Chúa, tình của Chúa thương ta còn hơn cả cha mẹ, mến Chúa hơn cha mẹ là đúng. Chúa là cha mẹ ở bậc cao nhất vì Chúa tạo dựng mọi sự, quan phòng và cứu chuộc, chết cho ta đươc sống nên ta mến Chúa hơn cha mẹ là đúng.
Ai còn đặt một thứ tình yêu nào trên tình yêu Chúa thì không xứng đáng làm môn đệ Chúa.
Biết đặt đúng giá trị con người, sự vật, biết ưu tiên cho tình yêu mến Chúa ta phải từ bỏ, phải hy sinh, phải chịu thiệt cái này cái kia nghĩa là phải vác thập giá theo Chúa. Không hy sinh, không từ bỏ, không hạn chế điều này điều kia, ta chỉ có thể mến Chúa ngang hàng với những thứ khác (tiền bạc, danh vọng, vợ con), ta không xứng đáng làm môn đệ Chúa.
Nền tảng của con người môn đệ Chúa là yêu mến Chúa hơn mọi thứ khác hợp lý, hợp luật (yêu cha mẹ là hợp lý hợp luật, yêu anh chị em là hợp lý hợp luật v.v…). Còn thứ hạng của môn đệ, cách thể hiện người môn đệ thì khác nhau. Không phải ai cũng bỏ mọi sự theo Chúa như Mười Hai Tông đồ được. Có người xin theo Chúa, Chúa đã dạy ở nhà làm “Tông đồ giáo dân”. Chúa nói với đám đông hai dụ ngôn để họ cân nhắc, ước lượng sức của mình, biết mình nên thuộc loại môn đệ nào:
Dụ ngôn xây tháp, phải tính toán tiền bạc xem có đủ không. Xây dở chừng, không hoàn thành, người ta sẽ cười cho.
Dụ ngôn ông vua sắp đi giao chiến với vua khác, tính toán cẩn thận xem mình có đủ lực thắng không. Không thắng thì tốt nhất là đi cầu hòa, hiệp thương.
Như vậy, đối với những người theo Chúa để làm Tông đồ như linh mục, tu sĩ đã dấn thân thì nên dấn thân trọn vẹn vì đã suy tính cân nhắc rồi. Từ bỏ tất cả để sống phục vụ Chúa và tha nhân. Bất nhất là không ra gì hết.
Đối với giáo dân, đời sống trần thế là đối tượng tông đồ, làm sao cho mọi sinh hoạt trần thế có tinh thần Tin Mầng. Gia đình, công sở, xí nghiệp, chợ búa, khu xóm đều là nơi ta tiếp xúc, làm việc, sinh sống thể hiện người môn đệ của Chúa. Đời sống nào cũng phải đúng đắn, hợp luật. Thanh niên chưa lập gia đình, phải sống đời “độc thân tạm thời” cho thật đàng hoàng, đạo đức. Người lập gia đình, chọn bạn trăm năm chứ không phải mười năm, đôi ba năm rồi ly dị. Người công nhân phải chuyên cần, đem sức lao động phục vụ bản thân, gia đình và xã hội.
Đời sống nào cũng đòi hỏi quyết tâm, dấn thân trong tinh thần vì yêu mến Chúa hơn tất cả.

19. Mi gi để t b – R. Veritas

Trên đời chẳng ai có thể đi một lúc hai con đường. Cuộc sống luôn đặt con người trước những lựa chọn, mà chọn lựa nào lại không phải từ bỏ! Sống là chấp nhận từ bỏ. Có những điều xấu phải từ bỏ như việc nghiện thuốc lá, ma tuý, rượu chè, trụy lạc... Cũng có điều tốt cần phải bỏ để chọn một điều tốt hơn: chọn nghề, chọn trường học, chọn chỗ làm, chọn bậc sống...
Từ bỏ vì yêu thương sẽ không bao giờ cảm thấy thiệt thòi, mất mát. Từ bỏ vì yêu thương sẽ làm ta cảm thấy nhẹ nhàng hơn, dễ chịu hơn, hạnh phúc hơn: Người mẹ hy sinh giấc ngủ, thức suốt đêm để lo lắng săn sóc cho con khi con yếu bệnh. Người cha hy sinh thức khuya dậy sớm để làm thêm giờ, kiếm thêm tiền lo cho gia đình con cái…
Từ bỏ đã trở thành quy luật để sống và lớn lên. Thai nhi không thể ở mãi trong bụng mẹ, dù đó là chỗ an toàn, êm ấm. Đứa bé chẳng thể nào trưởng thành, nếu nó cứ sống mãi bằng sửa mẹ.
Từ bỏ thường là những cắt đứt đau đớn, như mổ một khối u. Có nhiều người không có can đảm từ bỏ, nên suốt đời bị giằng co, ray rứt.
Bạn thân mến! Bài Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, Đức Giêsu cũng nhắc đến hai chữ TỪ BỎ: “Ai đến với tôi mà không từ bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em, và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,26). Và Ngài nói thêm trong đoạn cuối bài Tin Mừng: “Ai trong anh em không từ bỏ hết những gì mình có, thì không thể làm môn đệ tôi được” (Lc 14,33).
Điều kiện để làm môn đệ Đức Kitô là phải biết từ bỏ, từ bỏ không ngừng, từ bỏ mỗi ngày cho đến khi ta nhắm mắt xuôi tay.
Điều kiện để làm môn đệ Đức Kitô là phải biết đặt Ngài lên trên mọi giá trị khác. Ngài đòi buộc ta đặt tất cả dưới Ngài, yêu Ngài trên hết mọi sự, trên những người thân yêu, trên của cải vật chất, trên mạng sống mình, trên cả hiện tại và tương lai của mình nữa.
Người Kitô là người sống từ bỏ như Đức Giêsu, là đi vào con đường hẹp như Đức Giêsu: Người đã từ bỏ trời cao để xuống đất thấp. Người đã từ bỏ địa vị làm Thiên Chúa để xuống thế làm người. Sự từ bỏ được thấy rõ qua việc Chúa tự nguyện sống nghèo khổ, tự nguyện nhận lấy tội lỗi của loài người, và tự nguyện chết thay cho con người. Cao trọng nhất là Người đã từ bỏ ý riêng để hoàn toàn vâng theo ý Thiên Chúa Cha.
Trung tâm điểm của đời sống người Kitô là Chúa Giêsu. Mọi giá trị trở nên tương đối trước Đấng Tuyệt Đối là Chúa Giêsu. Tiền bạc, của cải là một giá trị. Cha mẹ, vợ con, gia đình là những giá trị khác. Mạng sống là một giá trị trổi vượt hơn cả. Nhưng tất cả những giá trị đó phải được hy sinh khi cần, để ta chọn Chúa Giêsu là “Giá Trị Tuyệt Đối” của mọi giá trị. Các thánh tử đạo đã chọn lựa như thế.
Dĩ nhiên ta luôn yêu gia đình, yêu bạn bè, yêu trái đất nâng đỡ ta, yêu bầu trời che chở ta, yêu cuộc sống làm người với bao niềm vui và hạnh phúc. Nhưng ta phải yêu tất cả những điều đó trong Chúa và dưới Chúa, để khi phải chọn lựa một trong hai, ta luôn luôn chọn Chúa.
Ước gì ta biết vui mừng và hạnh phúc khi chọn “viên ngọc quý” là Đức Giêsu, dám bán tất cả, từ bỏ tất cả để thấy mình giàu có. Và ước gì ta tự cởi trói mình mỗi ngày, và nhờ ơn Chúa, ta được tự do và bình an thanh thản trong suốt cuộc đời.
Lạy Chúa Giêsu! Sống cho Chúa thật là điều khó. Thuộc về Chúa cũng thật là một thách đố. Chúa đòi buộc con cho Chúa tất cả để chẳng có gì trong con lại không là của Chúa. Chúa muốn lấy đi những gì con cậy dựa để con thực sự tựa nương vào một mình Chúa mà thôi. Chúa thích cắt tỉa con khỏi những cái rườm rà để cuộc đời con sinh thêm nhiều hoa trái. Chúa cương quyết chinh phục con cho đến khi con trọn vẹn thuộc về Chúa.
Xin cho con dám ra khỏi chính mình, ra khỏi những bận tâm và tính toán khôn ngoan của cuộc đời, để sống theo những đòi buộc của Chúa, dù phải chịu mất mát và thua thiệt ở đời này.
Ước gì con cảm nghiệm được rằng: “trước khi con tập sống cho Chúa và thuộc về Chúa, thì Chúa đã sống cho con và thuộc về con từ lâu lắm rồi”. Amen.

20. T b

(Trích dẫn từ ‘Chương Trình Tìm Về Chân Thiện Mỹ’)
KHÔNG TỪ BỎ MỌI SỰ
THÌ KHÔNG THỂ LÀM MÔN ĐỆ CHÚA
** Đọc đoạn Tin Mừng trên, chúng ta thấy đòi hỏi của Chúa Giêsu thật quyết liệt, để có thể trở thành môn đệ đích thực của Ngài, để được tiến vào vinh quang với Ngài!
Trước hết, chúng ta thấy: Mọi thành quả ở trần thế này, đều đòi hỏi nỗ lực, kiên trì cố gắng mới có thể đạt thành mỹ mãn:
- Chẳng hạn, một lực sĩ muốn chiếm huy chương vàng thế vận hội, họ phải tập luyện ngày đêm, tập luyện bao nhiêu năm tháng mới chiếm được danh dự đó?
- Một người mẫu muốn có thân hình thon gọn, mỹ miều, cô phải ăn uống kiêng khem và tập thể dục, không hề ngơi nghỉ hơi lơ là một chút thì thân hình sẽ mất hấp dẫn ngay!
- Cũng thế, một sinh viên muốn chiếm thủ khoa trong trường Đại học, hay muốn thi đậu để trở thành bác sĩ, luật sư cũng phải bao nhiêu năm dùi mài kinh sử?
- Những người cao Cholesterol hay bị phì mập cũng phải ăn kiêng biết bao ngày tháng mới có thể giảm bớt, để có một thân hình cân đối???
Tóm lại, tất cả những ai muốn đạt thành những mục đích tạm bợ trần thế đều phải nỗ lực, kiên trì cố gắng ngày đêm như thế, còn Nếu muốn hạnh phúc đời đời, muốn được vinh quang miên viễn, muốn trở thành những người bạn tri âm, tri kỷ với Chúa Giêsu…chúng ta phải làm gì???
** Để xứng đáng với Ân Lộc vô cùng cao trọng đó, Chúa Giêsu- Vị Thầy của Các Thầy, Thầy dạy Chân Lý đã đòi hỏi tất cả chúng ta một điều, mới nghe, thật vô lý và khó thực thi, đó là: phải “Ghét cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình” ( Lc 14, 26), nếu không, thì sẽ không được vinh dự ấy!... Điều hiển nhiên là trong toàn bộ Kinh Thánh, Chúa đã dạy chúng ta phải hết lòng yêu mến, hiếu thảo với cha mẹ, và trong Điều Răn IV, THẢO KÍNH CHA MẸ, Chúa đã truyền thành luật, mà nếu ai không tuân giữ, sẽ không vào được Nước Trời! Vậy Lời Chúa trong đoạn Tin Mừng này có ý nghĩa gì???
Kính thưa quý vị và các bạn, Chúa nói mạnh như thế, để chúng ta hiểu rằng: Chúng ta phải đặt Thiên Chúa trên hết mọi sự: Trên cha mẹ, vợ con, anh chị em và hơn cả chính mạng sống của chúng ta! Do đó, nếu ai yêu cha mẹ, vợ con và chính bản thân hơn Chúa, thì không xứng đáng làm môn đệ Chúa! Chính với ý đó mà Chúa đã truyền cho chúng ta phải “Yêu Chúa hết lòng, hết sức, hết linh hồn và hết trí khôn”, và bất cứ khi nào, vì yêu bản thân hay cha mẹ, vợ con… mà lỗi luật Chúa, thì không xứng với tình yêu và Phước Lộc của Chúa! Bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới xứng đáng cho mọi tâm hồn tôn thờ và yêu mến trên hết mọi sự mà thôi!
Hằng trăm ngàn Các Thánh Tử Đạo Việt Nam, cha ông, tổ tiên của chúng ta đã chứng tỏ tình yêu Chúa hơn mạng sống mình: Các Ngài vui lòng chịu muôn nhục hình, chịu tra tấn, gông cùm, chịu phanh thây, chịu voi giầy,chịu đóng đinh đến chết chứ không chối bỏ Chúa! Đó là gương Yêu Mến Chúa cho tất cả chúng ta noi theo!
Ngày nay, bao nhiêu tâm hồn trên khắp thế giới luôn vui tươi Vác Thập Gía đời mình, thà chết không thà phạm tội mất lòng Chúa, họ ra đi gieo rắc Tin Mừng, đem Tình Thương đến cho những người tàn tật, phong cùi, câm điếc… Họ cũng đang chứng tỏ tình yêu mến Chúa khi hết lòng phục vụ những người xấu số, bệnh hoạn nhất, nghèo khổ nhất với tình yêu cảm thông sâu xa như họ đang yêu mến và phục vụ chính Chúa!
Có nhiều người vừa muốn làm môn đệ Chúa vừa yêu chuộng những thứ ngược lại với Chúa, như đam mê, tội lỗi, hoặc không muốn xa lìa dịp tội… Đó là những người vừa muốn vinh quang Nước Trời lại vừa không muốn từ bỏ lối sống đam mê của thân xác! Đó là người LÀM TÔI HAI CHỦ! Nửa nạc nửa mỡ sẽ không trở thành môn đệ của Chúa được! Đó cũng là người “xây tháp nhưng bỏ nửa chừng” (Lc 14, 28), thật đáng tiếc lắm thay!
** Để trở thành môn đệ đích thực của Chúa Giêsu, chúng ta cần thi hành triệt để những lệnh truyền của Chúa. Đó là đường dẫn tới Sự Sống và Hạnh Phúc Viên Mãn. Con đường đó cũng đòi hỏi chúng ta TỪ BỎ chính bản thân, từ bỏ đam mê bất chính và những quyến luyến trần thế, hay nói cách khác: Chúng ta cứ việc yêu mến cha mẹ vợ con và mọi người, cứ việc có của cải, nhưng ĐỪNG DÍNH BÉN, đừng đặt bất cứ tình yêu nào, hoặc của cải hơn Thiên Chúa! Thiên Chúa phải chiếm địa vị quan trọng nhất, danh dự nhất trong linh hồn chúng ta. Chúa luôn là LẼ SỐNG là CÙNG ĐÍCH mà chúng ta hướng tới.
Còn, nếu khi nào chúng ta phải lựa chọn: Chọn Thiên Chúa hay tạo vật, thì các môn đệ đích thực của Chúa luôn chọn Thiên Chúa trước hết, còn mọi cái khác đều là thứ yếu! … Có sống như thế, chúng ta mới xứng đáng là môn đệ của Chúa!

21. Mt đòi hi nhân bn sâu đậm nht

(Trích dẫn từ ‘Lương Thực Ngày Chúa Nhật’ – Achille Degeest)
Trước hết chúng ta minh định danh từ để tránh hiểu lầm. Đức Kitô không bao giờ phán rằng muốn theo Chúa phải ghét cha ghét mẹ …… Ở đây là một sự sắp hạng, quan hệ tình cảm thông thường phải đặt sau quan hệ tình cảm siêu nhiên. Tình nghĩa gia đình phải đứng sau tình yêu mến Thiên Chúa. ‘Ghét’ ở đây phải hiểu theo nghĩa ‘giảm bớt tình quyến luyến’. Chúng ta ngạc nhiên thấy những đám rất đông đi theo Đức Giêsu trên đường hành đạo của Người, mà con số những kẻ rời bỏ gia đình trở nên môn đệ Chúa chẳng được là bao. Nhưng chúng ta hiểu ra khi thấy Chúa nói lên những điều Chúa đòi hỏi. Không bao giờ chỉ vì muốn lấy lòng dân chúng mà Chúa che giấu những đòi hỏi của Người. Với bất cứ ai, Chúa có một cung cách quý mến là không đề nghị một thái độ đồng lõa với yếu hèn, trái lại Người kêu gọi lòng hào hiệp của người ta. Tới ngày đông đảo dân chúng bỏ Chúa, nộp Chúa cho quân dữ giết, Người không kết án dân chúng vì Người muốn hy sinh mạng sống cho họ. Tới lúc đó, Chúa sẽ có những môn đệ xứng đáng với sự đòi hỏi của Người, họ sẽ trở lại trong dân chúng làm chất men trong bột. Bài đọc hôm nay của thánh Luca cho thấy Phúc Âm gần gũi đời sống tới mức nào.
1) Bất chợt Đức Giêsu đến với con người trong đời sống cụ thể, trong khung cảnh sinh hoạt gia đình. Chúa đem đến một sự việc cực kỳ mới lạ. Những tình cảm gia đình sâu đậm là thế, chính đáng là thế, nay con người thấy còn có một điều quá lớn vượt lên trên tình nghĩa gia đình. Do đó, hễ quyết tâm theo Đức Giêsu thì cũng quyết tâm mở rộng đời sống cụ thể đón lấy một thực tại sâu rộng hơn, hiện thân hơn những liên hệ gia đình cố hữu. Thánh Phanxicô, đấng thánh tôn trọng Phúc Âm rất nghiêm chỉnh, nhờ kinh nghiệm sống theo Phúc Âm của ngài mà thốt ra hai tiếng ‘cha’ và ‘mẹ’ khi ngài nói về Đức Kitô, trong miệng ngài từ ngữ ‘anh em’ mang nặng tình nghĩa đậm đà vượt xa tình huynh đệ thế gian. Tuy không ý thức rõ rệt, ngài vẫn diễn tả được cao độ phẩm chất nhân bản trong đời sống theo khuôn mẫu Phúc Âm. Phúc Âm vượt lên trên những tình cảm gia đình thông thường nhưng không hủy bỏ chúng. Có thể nói rằng, mặc dầu cái khuôn mẫu tình cảm thế gian vẫn được tôn trọng, có những liên hệ gia đình mới lạ được thiết lập qua một sự thăng hoa, ở một chiều cao hơn. Chúng ta có thể thực tình nói đến ‘gia đình trong Đức Kitô’.
2) Đòi hỏi của Đức Kitô không có gì là phi nhân. Nghe nói đến ‘thập giá’ phải mang vác, người ta có thể cho đó là một đòi hỏi quá sức con người. Muốn có một sự hiểu biết đúng đắn, thì trong đầu chúng ta thập giá phải đi liền với một tình yêu. Phải nhìn thập giá Đức Kitô như một sự tốt lành thượng đẳng, nếu không chẳng thể chấp nhận nổi thập giá. Tôi chọn lấy thập giá của Chúa thay vì tình yêu theo nhân tính tự nhiên nhất, chính đáng nhất, là bởi vì thập giá phát xuất từ một tình yêu thượng đẳng, nó thấm đượm sâu đậm cái điểm nhân tính nhất trong tôi, đó là sự tự do lựa chọn, là tâm hồn dâng hiến. Thập giá Đức Kitô là bằng chứng và cũng là bề nổi tình yêu của Chúa. Thập giá Chúa, tức là hy sinh của Chúa. Có tình yêu nào mà không cần đến ngôn ngữ của hy sinh? Ở đây, chúng ta chẳng đang đứng trước một đòi hỏi nhân bản sâu đậm nhất ư?

22. Sn sàng làm môn đệ trung thành ca Chúa.

(Trích trong ‘Mở Ra Những Kho Tàng’ - Charles E. Miller)
Đằng sau bài đọc thứ hai ngày hôm nay là một khoảng thời gian thích thú. Một người nô lệ có cái tên là Onesimus đã trốn thoát khỏi chủ của mình là Philêmôn, và anh chạy tới chỗ Thánh Phaolô để được an toàn. Thánh Phaolô đã nồng nhiệt bảo vệ cho người nô lệ bỏ trốn này, nhưng thánh nhân nhận biết một điều gì đó có giá trị cao hơn là sự tự do của Onesimus đã được hoàn thành. Thánh nhân đã kêu gọi Philêmôn, chủ của người nô lệ, hãy hành động như một môn đệ thật của Chúa Giêsu Kitô.
Thánh Phaolô dễ dàng che giấu Onesimus hoặc nhân danh Đức Kitô đòi Philêmôn trả lại sự tự do cho người nô lệ. Thay vào đó Thánh Phaolô đã gởi Onesimus về với Philêmôn và những gì tôi tưởng tượng ra là sự tủi nhục của người nô lệ và sự ngạc nhiên của người chủ. Qua người nô lệ, Thánh Phaolô đã gởi cho Philêmôn một bức thư mà chúng ta đã nghe một phần trong bài đọc ngày hôm nay. Điểm chính của bức thư là Phaolô đã không muốn cưỡng bách Philêmôn thực hành nhân đức, thay vào đó thánh nhân chỉ muốn mời gọi ông hãy quảng đại. Tha thứ cho người nô lệ có nghĩa là phó mặc cho quyền sở hữu rất giá trị thời đó. Đó là một thách đố cho Philêmôn. Thánh Phaolô đã kết luận bức thư bằng cách nói rằng; “Tôi viết thư này cho anh với niềm tin tưởng là anh sẽ nghe theo vì tôi biết rằng việc anh sẽ làm còn làm hơn những gì mà tôi xin nữa”.
Thật sự chúng ta không biết chắc Philêmôn đáp trả như thế nào, ông có giải phóng người nô lệ hay không? Philêmôn có lẽ đã nhắc nhở Thánh Phaolô rằng việc nô lệ là hợp pháp và ông ta có quyền để giữ người nô lệ của mình? Có phải ông đã phàn nàn rằng Thánh Phaolô đã thật sự không hiểu về hoàn cảnh kinh tế của ông và người nô lệ thì cần thiết cho sự thành công tài chính của ông không? Chúng ta không biết Philêmôn có đáp trả như Thánh Phaolô mong đợi nơi ông như là người môn đệ của Chúa Giêsu hay không?
Chúng ta biết thế nào là môn đệ Chúa Giêsu và chúng ta được kêu gọi hãy trở nên quảng đại trong việc đáp trả của chúng ta, không phải là sống nhỏ giọt hoặc tìm kiếm những miễn trừ mà những người Công Giáo phải làm. Trong Phúc Âm, Chúa Giêsu đã cảnh cáo chúng ta qua ví dụ xây tháp và đi đánh nhau, chúng ta phải được sửa soạn cho kinh nghiệm Kitô giáo của chúng ta. Nước Trời đã là một tài sản được hứa ban trong tương lai. Trong lúc còn trên mặt đất này, chúng ta được mong đợi trở thành những môn đệ trung thành, những người lắng nghe và chăm chú vào những lời của Chúa Giêsu: “Bất cứ ai không vác thập giá mình mà theo Ta, thì không đáng làm môn đệ của Ta”.
Có lẽ thánh giá của chúng ta là những đau khổ có liên quan đến việc phải từ bỏ những nô lệ của chúng ta như là thói nghiện rượu, nghiện thuốc, hoặc là say xỉn, thánh giá của chúng ta có thể giữ chăm chú kỷ luật mà chúng ta cần để lướt thắng những chuyện đồn nhảm, để tha thứ những người nào đã đối xử bất công, hoặc là tử tế hay là nghĩ tốt cho những người luôn luôn cho chúng ta là điên rồ.
Thiên Chúa không cưỡng bách chúng ta trở nên đạo đức như Thánh Phaolô đã không cưỡng bách Philêmôn phải tha thứ cho nô lệ của ông. Ngay khi điều xấu xảy ra với chúng ta, Thiên Chúa cũng không cưỡng bách chúng ta phải chấp nhận nó như một thánh giá. Chúng ta phải nỗ lực làm việc để thấy được chúng ta có thể quay trở một điều đáng sợ trở thành một điều có giá trị, bằng việc kết hợp những đau khổ của chúng ta với những đau khổ của Đức Kitô.
Trong mọi Thánh Lễ chúng ta tưởng nhớ sự chết và sự sống lại của Đức Kitô, như vậy qua bí tích Thánh Thể, sự hy tế của Ngài là một thực tại trước chúng ta trên bàn thờ. Khi chúng ta nghe những lòi: “Đây cũng là mình con nữa, cùng với Con Cha, con xin dâng chính mình con cho Cha”. Khi đó chúng ta sẽ nghe những lời: “Đây là chén Máu Ta”, chúng ta sẽ nói: “Đây là máu của con, con ước mong nó được đổ ra vì yêu Cha, nếu Cha muốn như vậy”. Chúng ta phải được chuẩn bị để trở thành môn đệ của Chúa Giêsu Kitô.

23. Chn Chúa Kitô.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)
Odette, một cô gái xinh đẹp, sinh ra trong một gia đình quý tộc ở nước Bỉ. Năm 17 tuổi, cô quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng, cha mẹ cô đến bắt trở về. Từ lâu, cha mẹ đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon ở một lâu đài gần đó.
Vốn biết cô con cái cưng không muốn lập gia đình nên cha mẹ cô đã chuẩn bị hôn lễ một cách kín đáo. Một buổi sáng đẹp trời cô thức giấc vì sự ồn ào lạ thường của lâu đài. Vèn màn nhìn qua cửa sồ, cô ngạc nhiên thấy xe hoa lộng lẫy đang tiến vào khuôn viên trước lâu đàu. Hỏi đầy tớ, cô mới biết người ta đang chuẩn bị lễ cưới cho cô. Kế đó, các người hầu vào phòng trang điểm và mặc áo cưới cho cô. Họ đưa cô xuống nhà nguyện của lâu đài. Nơi đây, có đông đủ quý khách, và linh mục tuyên úy của lâu đài cũng đã nghiêm chỉnh chờ sẵn.
Nghi lễ đến phần giao ước. Vị chủ tế hỏi Odette có muốn nhận Simon là chồng theo luật Giáo Hội không? Cô đã dõng dạc tuyên bố “Con không nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin của con đã hiến dâng hco Chúa Kitô từ lâu rồi. Vì thế, không một tình yêu nào, cho dù sự hăm dọa có thể tách con khỏi tình yêu Chúa Kitô là bạn trăm năm duy nhất của đời con”.
Sáng hôm sau, không thấy con gái xuống vườn đi dạo như thường lệ, cha cô gõ cửa vào phòng cô. Odette đang gục đầu trên vũng máu. Ông đáu đớn nhìn con và hiểu ngay ý định của Odette. Vì muốn hủy hoại sắc đẹp của mình nên cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp của cô. Khi hồi tỉnh lại, được hỏi lý do tại sao cô làm như vậy? Cô thản nhiên đáp: “Như thế sẽ không ai cấm cản con đi theo Chúa Kitô nữa”.
Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó, nữ tu Odette được chị em chọn làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.
Thưa anh chị em,
Cử chỉ táo bạo và xem ra như điên rồ của Odette là bằng chứng hùng hồn nhất về lòng tin và tình yêu của cô đối với Chúa Kitô. Và để trung thành tuyệt đối với tình yêu ca cả đó, cô đã sẵn sàng hy sinh tất cả: cha mẹ, tiền tài, danh vọng, chức quyền, sắc đẹp và chính đời sống của cô nữa.
“Ai theo Tôi mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Tôi được”.
Cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa. Những chọn lựa đan thành đời riêng của mỗi người. Đối với người Kitô, chọn lựa là đáp lại tiếng Chúa đang vang lên trong lòng mình từng giây phút trong cuộc sống. Đôi khi nhìn lại những chọn lựa hằng ngày, chúng ta chợt giật mình, vì thấy chúng ta thường chọn mình: sở thích của mình, hạnh phúc của mình, tự do của mình. Chúng ta chọn tất cả những gì ít nhiều dính dáng đến bản thân. Trong khi Kolbe chọn chết thay cho bạn tù torng trại tập trung Đức Quốc Xã, Cha Đamien chọn hiến thân cho người phong cùi ở đảo Molokai, Mẹ Têrêsa chọn săn sóc cho những người hấp hối ở Calcutta. Và chúng ta hãy chọn cho mình một cách sống để diễn tả niềm tin và tình yêu vào Chúa Kitô Tử Nạn và Phục Sinh.
Chọn lựa là phải từ bỏ. Người ta không thể bắt cá hai tay. Người ta không thể phục vụ hai chủ. Cũng không được đặt Chúa ngang hàng “cá mè một lứa” với tất cả những cái khác để chọn lựa. Chúa phải được đặt trên tất cả. Chọn Chúa la phải từ bỏ tất cả những cái khác. Không được coi những liên hệ tình cảm gia đình hơn Chúa. Không được coi tiền của vật chất hơn c. không được coi mạng sống mình hơn Chúa. Chúa đòi hỏi những người theo Chúa phải dành cho Ngài quyền ưu tiên trên tất cả mọi cái khác. Bất cứ điều gì đi ngược lại hoặc ngăn cản quyền chọn lựa ưu tiên đó đều phải bị loại trừ. Không thể đi theo Chúa, nếu chúng ta không yêu Chúa hơn tất cả những người thân yêu của chúng ta, dù là cha mẹ, anh chị em, và yêu Chúa hơn cả chính bản thân mình, hơn cả mạng sống mình nữa: “Ai muốn cứu lấy sự sống mình thì sẽ mất, còn ai liều mạng sống mình vì Thầy, thì sẽ cứu được sự sống” (Lc 9,24).
- Một người con tốt nghiệp Đại học Sư phạm muốn đi phục vụ những con người như bị bỏ rơi ở một nơi xa thành thị, đường đi khó khăn, trắc trở, thiếu thốn đủ thứ, từ cái ăn đến nước uống… Người mẹ khóc lóc cản ngăn, sợ con cực, con khổ
- Một công nhân làm trong một xí nghiệp. Người công nhân biết rất rõ nội vụ tiêu cực làm thiệt hại nặng nề tài sản của nhân dân. Im lặng để được yênt hân hay tố giác theo tiếng nói của lương tâm, của lẽ phải, nhưng lại liều mình chuốc họa vào thân…
Theo Chúa trong những trường hợp nầy là một thử thách, là thập giá. Nhưng đằng sau thử thách, đằng sau thập giá là cuộc sống mới trong vinh quang.
Anh chị em thân mến,
Khách quan mà nói, lời mời gọi của Chúa Giêsu thật là ngược đời và khó chấp nhận. Những lời đó vẫn làm khó chịu không ít người. Nhưng cũng những lời tuyên bố ngược đời đó vẫn không ngừng lôi cuốn bao người khác dấn thân vào một cuộc phiêu lưu không biết đâu là giới hạn.
Chúng ta có thể hiểu và sống theo lời mời gọi của Chúa Giêsu, khi chúng ta khám phá ra được tình yêu của Thiên Chúa đối với chúng ta. Tình yêu đó bao la, vô điều kiện, vô vụ lợi. Khi chúng ta cảm nghiệm được tình yêu đó bằng chính cuộc sống đời thường của một con người, thì lúc đó chúng ta mới thấy Chúa Giêsu có lý. Và chúng ta cũng có lý khi dấn thân vào việc thực hiện những hy sinh, từ bỏ. Vì tình yêu và chỉ vì tình yêu mà thôi, những từ bỏ, hy sinh tự nguyện của chúng ta mới có giá trị vĩnh cửu. Nói cách khác, nếu chúng ta yêu Chúa thật sự thì chẳng những chúng ta không ngần ngại mà còn sung sướng được chia sẻ thập gái với Chúa Giêsu. Vui sướng chấp nhận từ bỏ, hy sinh, khước từ của cải, danh vọng, quyền lực, để chứng tỏ chúng ta yêu Chúa thật sự, không giả dối “tình yêu không có hy sinh, chưa phải là tình yêu thứ thiệt”.
Tuy nhiên, thưa anh chị em,
Cần phải suy nghĩ, đắn đo cẩn thận trước khi quyết định theo con đường Chúa Giêsu mời gọi. Vì đây là một chọn lựa hết sức quan trọng. Nó liên hệ đến cả cuộc đời chúng ta. Đã bước chân theo Chúa thì phải theo đến kỳ cùng. Không chấp nhận bỏ cuộc, dừng lại hay thối lui. Theo Chúa cần phải bền gan vững chí đến cùng mới được, như Chúa đã nói: “Ai bền đỗ đến cùng mới được cứu độ.
Theo Chúa không phải là vấn đề của lợi lộc trước mắt mà là vấn đề của tình yêu. Yêu là trung thành. Yêu là cho đi, cho đi từ từ, cho đi mại, cho đi cả mạng sống. Đó mời là tình yêu lớn nhất, xứng đáng với tình yêu của Thiên Chúa. Đó cũng là biện chứng của Tin Mừng: cho đi là nhận lãnh, quên mình là tìm lại mình, chết là sống, tử nạn là phục sinh muôn đời.

24. Theo Thy – McCarthy.

Trong Tin Mừng chúng ta thấy Đức Giêsu không giấu giếm các tông đồ thực tế. Người chỉ rõ những khó khăn, gian khổ và những hy sinh mà Người đòi hỏi nơi những ai đi theo Người. Bằng những lời lẽ rõ ràng, Người nói với họ rằng công việc đó không phải dễ dàng gì. Vì thế sau này họ không thể than phiền “Ôi chúng tôi đã không bao giờ nghĩ rằng sự việc nó lại như thế này”.
Người ta có thể là một người theo Đức Kitô nhưng không phải là môn đệ của Người. Bởi lẽ người ta có thể đi dân công nhưng không phải là một chiến sĩ của đức vua. Người ta có thể không phải gánh vác nặng nề mà vẫn đóng vai của mình. Người ta chỉ là một người xí phần trong việc lớn. Người ta có thể là người chỉ biết nói giỏi mà không làm.
Một lần nọ, có người đến gần vị giáo sư danh tiếng để hỏi về một thanh niên: “Dù sao xin ông nói cho tôi biết anh ta có phải là một sinh viên của Ông. Đúng không?” và vị giáo sư trả lời: “Anh ấy dĩ nhiên có nghe tôi giảng, nhưng xin ông tin tôi, anh ấy không bao giờ thật sự là sinh viên của tôi”.
Một trong những cản trở to lớn của Giáo Hội là trong Giáo Hội có nhiều người theo Đức Kitô với một khoảng cách an toàn, nhưng rất ít người thật sự là môn đệ, tức là những người đang thực hiện lời Người.
Chúng ta hãy đối diện với điều đó. Là một môn đệ của Đức Kitô không dễ dàng gì. Vai trò môn đệ có một số yêu cầu thực tiễn mà người ta không thể tránh né nếu không muốn phản bội lại Tin Mừng. Tuy nhiên có nhiều người đi nhà thờ một cách thoải mái nhưng ít người quan tâm đến những người khốn khổ, nghèo túng và tiếng rên rỉ của người nghèo. Ngày nay cũng thế, người Kitô hữu được kêu gọi từ bỏ nhiều điều mà người khác coi là việc đương nhiên họ phải có.
Một vài môn đệ tan biến đi khi họ được yêu sách, như tuyết tan dưới mặt trời. Những người khác bị sự chống đối và phê bình tàn phá, giống như ngọn lửa chập chờn bị cơn gió mạnh đầu tiên thổi tắt.
Khi nhà vua Trung Quốc đến thăm những tu viện của đại thiền sư Lin Chi; nhà vua ngạc nhiên khi biết được rằng có hơn mười ngàn nhà sư đang sống ở đó. Muốn biết rõ con số chính xác các nhà sư, nhà vua hỏi: “Ngài có bao nhiêu đệ tử?”
“Bốn hoặc năm” Lin Chi đáp.
Đức Giêsu nói rằng muốn đi theo Người, người ta phải suy xét với lương tri bình thường, với sự thận trọng và tính toán cái giá phải trả. Chúng ta không thể gánh vác quá khả năng của chúng ta. Dĩ nhiên, chúng ta không biết trước mình có khả năng gì. Chúng ta có thể đánh giá cao hoặc đánh giá thấp chính mình. Chúng ta cần có sự thách đố để điều tốt nhất trong chúng ta xuất hiện.
Chúng ta có thể rút ra từ gương sáng của các tông đồ một sự khích lệ. Tin Mừng cho chúng ta thấy họ phải chiến đấu ở mọi điểm để đi theo Đức Giêsu. Tuy nhiên, Người không loại bỏ họ. Chỉ sau khi Đức Giêsu từ sự chết sống lại, họ mới thật sự là những môn đệ của Người.
Khi nhìn vào các tông đồ, chúng ta khám phá sự bất toàn của chúng ta. Tin Mừng ban niềm hy vọng cho những Kitô hữu thất bại. Sự sám hối và một cơ may thứ hai luôn luôn có thể có. Đức Giêsu bằng ân sủng của Người luôn luôn quảng đại với những người cố gắng đáp lại lời kêu gọi của Người.

25. Tr giá - McCarthy.

Có những người hoài bão những mục tiêu lớn trong đời, nhưng họ sẽ không bao giờ hoàn thành những mục tiêu ấy. Tại sao lại không? Bởi vì họ không muốn trả giá.
Có một câu chuyện về một cô gái tên Antoinette, cô rất xinh đẹp nhưng rất nghèo. Cô chỉ có một mục tiêu trong đời trở nên giàu có. Hy vọng duy nhất của cô là lấy được một người giàu sang. Nhưng cuộc sống đưa đẩy cô lấy một viên chức nhà nước. Chồng cô cố gắng làm cho cô được hạnh phúc nhưng không thể đáp ứng những điều mà cô mơ ước – quần áo đẹp, nữ trang, một căn nhà với đầy đủ đồ đạc cao cấp, và v.v…
Cô từ chối đi làm ở bên ngoài, và sống những ngày khốn khổ và tuyệt vọng. Cô than phiền rằng vợ chồng cô chưa bao giờ đi đâu. Một lần kia, chồng cô được mời đến dự một bữa tiệc của tiểu bang, nhưng rồi cô lại than phiền cô không có trang phục thích hợp để mặc. Vì thế chồng cô phải gom góp hết tiền tiết kiệm khiêm tốn ở ngân hàng. Với số tiền đó, Antoinette mua được một chiếc áo mới. Sau đó cô còn mượn một chuỗi hạt của một người bạn học cũ tên Marie, rất hợp với chiếc áo mới.
Và thế là cô đã đi dự tiệc. Cô là người phụ nữ đẹp nhất ở đó và vui hưởng mọi sự chú ý mà cô có được. Tuy nhiên, khi họ về đến nhà vào lúc trời gần sáng, cô kinh hoàng khám phá chuỗi hạt đã mất.
Họ tìm kiếm chuỗi hạt khắp nơi nhưng không tài nào tìm được. Cô không có can đảm nói với Marie sự thật. Vì thế họ mua một chuỗi hạt khác hoàn toàn giống với chuỗi hạt đã mất. Nó giá 40.000 quan Pháp, một món tiền mà họ phải đi vay với lãi suất rất cao. Khi họ trả chuỗi hạt ấy cho Marie, cô này không bao giờ nhận ra sự khác nhau. Thật vậy, cô ta nhét chuỗi hạt vào ngăn kéo mà không nhìn đến nữa.
Giờ đây Antoinette biết cái nghèo thật sự là gì, nhưng cô quyết định góp phần để trả món nợ của họ. Họ trả lại căn phòng ở tầng trên và dọn xuống tầng hầm. Họ cho cô đầy tớ nghỉ việc. Antoinette tự mình làm việc nhà và còn đi làm việc ở bên ngoài. Họ xin xỏ và dành dụm từng đồng. Họ phải mất mười năm để trả hết món nợ nần. Giờ đây Antoinette trông giống một bà già. Một ngày kia tình cờ cô gặp lại Marie trong đường phố.
“Ôi, sao bạn già đi nhiều thế!” Marie nói.
“Tôi đã trải qua những thời gian rất khó khăn kể từ lần cuối cùng chúng ta gặp nhau, và tất cả là vì bạn”, Antoinette đáp.
“Vì tôi ư? Tôi không hiểu”.
Rồi Antoinette nói với Marie về việc cô đánh mất chuỗi hạt và việc hai vợ chồng cô đã làm việc bấy nhiêu năm để trả lại món tiền. Nghe đến đây Marie nói: “Bạn định nói rằng bạn đã mua một chuỗi hạt bằng kim cương để thế vào chuỗi hạt của tôi?
“Vâng” Antoinette đáp, “và bạn không bao giờ nhận ra đâu”
“Ôi, Antoinette đáng thương của tôi!” Marie kêu lên. “Tại sao lại như vậy, chuỗi hạt của tôi chỉ là một sản phẩm nhái lại. Cùng lắm, nó chỉ đáng giá 400 quan”.
Nếu ngay từ lúc đầu, Antoinette chỉ cần bỏ ra phân nửa nỗ lực cho những gì mà cô mong ước trong đời, thì cô đã có thể đạt được mà không phải phung phí những năm quí giá ấy. Trái lại, cô đã dùng thời gian ấy của cô để nhìn ra cửa sổ và mơ mộng.
Đức Giêsu đã có một mục đích cao cả trong đời, tức là thực hiện sứ vụ mà Cha Người đã giao cho Người, sống vì điều đó và đã muốn trả bất cứ cái giá nào để hoàn thành mục tiêu. Tin Mừng cho chúng ta thấy Người đang tiến về Giêrusalem. Người đã biết điều gì đang chờ Người ở đó. Đau khổ, sự loại trừ và cái chết đợi sẵn ở cuối cuộc hành trình ấy. Tuy nhiên Người mong muốn đối mặt với tất cả những điều đó.
Và Người mong muốn các môn đệ của Người cũng phải như thế. Người nói về cái giá của việc làm môn đệ. Khi Người nói họ phải ghét cha mẹ mình, Người không định nói theo nghĩa đen. Người nói với họ rằng nếu cần họ phải sẵn sàng hy sinh những vật thân yêu nhất trong đời. Trong một số trường hợp (hiếm hoi), họ phải chọn giữa Người và các người thân của họ.
Hai dụ ngôn ngắn làm nổi bật việc theo Chúa là một ơn gọi nghiêm khắc, nó có thể có ý nghĩa của sự bách hại và chết chóc. Trong lãnh vực này, cũng như trong bất cứ lãnh vực nào của đời sống (như kinh doanh và chính trị), người ta không thể bước vào một cách mù quáng. Người ta phải tính toán cái giá phải trả trước khi bắt đầu, và rồi xem mình có sẵn sàng đối mặt với nó hay không.
Mục tiêu mà Đức Giêsu đặt ra trước chúng ta thì đáng giá – mục tiêu của một lối sống trung thực ở đời này và của sự sống vĩnh cửu đời sau. Không có mục tiêu nào cao hơn mục tiêu ấy. Điều đó không dễ dàng gì. Không một ai có thể là một môn đệ mà không vác thập giá. Nhưng Đức Giêsu biết sự mỏng giòn của chúng ta. Người rộng ban ân sủng của Người cho những người cố gắng đi theo Người một cách chân thành.

26. Làm môn đệ Chúa: d hay khó?

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Thành Long)
Trong đoạn Tin Mừng Chúa Nhật hôm nay, có hai cụm từ rất ý nghĩa, đó là "đi theo""làm môn đệ". Thánh Luca đã sử dụng hai cụm từ này rất khéo léo: "Khi ấy có rất đông người 'đi theo' Chúa Giêsu. Ngài quay lại bảo họ: Ai không dứt bỏ... thì không thể 'làm môn đệ' tôi. Ai không vác thập giá mình mà 'đi theo' tôi thì không thể 'làm môn đệ' tôi được".
Quả vậy, có rất đông người "đi theo" Chúa Giêsu, nhưng không phải tất cả đều là "môn đệ" của Ngài; chỉ những ai đi theo mà biết "từ bỏ" và "vác thập giá" thì mới thực sự "là môn đệ" của Chúa Giêsu. Nói cách khác, "người đi theo" chưa hẳn là "người môn đệ". Cũng như người-nói "Lạy Chúa, lạy Chúa" chưa hẳn là người-làm theo ý Chúa. Cũng như người-đến-nhà-thờ chưa hẳn là người-tín-hữu. Điều khiến người-nói thành người-làm, người-đến-nhà-thờ thành người-tín-hữu, người-đi-theo thành người-môn-đệ, đó là từ bỏ và vác thập giá (x. Sợi Chỉ Đỏ, Chúa Nhật 23 Thường Niên C).
"Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Đây là những lời rất thẳng thắn và chân thành mà Chúa Giêsu nói với "đám đông những người" đang đi theo Ngài. Người ta đi theo Chúa vì rất nhiều lý do và nhiều động cơ, có khi là những lý do rất trần tục. Chúa Giêsu thấy cần nói thẳng với họ, chứ không nói theo kiểu úp mở, hay như kiểu tiếp thị, quảng cáo để chiêu dụ khách hàng. Ngài nói thẳng rằng theo Ngài thì phải từ bỏ, bỏ hết những gì mình tha thiết nhất, kể cả mạng sống, và lại còn phải vác thập giá nữa.
Giả như Chúa Giêsu bảo rằng ai muốn đi theo Ngài thì lên taxi, lên xe hơi, hay lên máy bay mà đi, có lẽ sẽ có khối người đi theo. Đàng này Chúa lại bảo một chuyện ngược đời: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Ta". Gọi là ngược đời vì ở đời có ai thích "vô sản", có ai thích "khổ đau" bao giờ. Chấp nhận từ bỏ là chấp nhận "vô sản" một cách nào đó, chấp nhận thập giá cũng có nghĩa là chấp nhận "khổ đau" không hơn không kém. Bởi đó, từ bỏ mình và vác thập giá mình luôn là điều không dễ thực hiện chút nào. Thế nhưng có theo Chúa trong tâm thế sẵn sàng chấp nhận như vậy, thì mới xứng đáng làm môn đệ của Ngài.
Trên thực tế, có nhiều người muốn theo Chúa nhưng không muốn từ bỏ, càng không muốn vác thập giá. Có những người thờ thập giá nhưng không vác thập giá; vác thập giá của mình, chứ chưa nói đến chuyện vác thập giá của người khác. Có những người quý chuộng thập giá Chúa Giêsu, nhưng không quý chuộng thập giá mình. Tất cả những người đó không xứng là môn đệ của Chúa Giêsu.
Một điểm nữa rất rõ trong lời mời gọi của Chúa Giêsu là "Hãy vác thập giá hằng ngày". Vác thập giá không phải chỉ là một ngày hai ngày, một tháng hai tháng, hoặc chỉ vác thập giá của hôm qua hay hôm nay, mà là hằng ngày, mọi ngày trong suốt cả cuộc đời. Ngày nào cũng có thập giá, không nặng thì nhẹ, như lời khẳng định của Chúa Giêsu: "Ngày nào có sự khốn khó của ngày đó".
John Newton đã nói rằng: "Những khổ sở mà đời ta phải chịu cũng giống như một bó củi rất to và rất nặng. Chắc chắn ta vác không nổi. Nhưng Thiên Chúa đã thương tháo dây bó củi đó ra, rồi chia nó ra để mỗi ngày chỉ chất lên vai ta một khúc thôi. Hôm sau một khúc nữa, và hôm sau tiếp tục... Cuối cùng ta cũng vác xong hết bó củi. Thế nhưng, nhiều người lại không làm như vậy: chẳng những họ chất lên vai khúc củi của hôm nay, mà còn thêm vào đó khúc củi của hôm qua và cả khúc củi của ngày mai. Lạ gì họ không vác nổi !".
Lạy Chúa Giêsu, nhiều khi chúng con cảm thấy chán nản buông xuôi vì những thử thách quá nặng nề. Xin Chúa thêm sức cho chúng con, nhất là cho chúng con có đôi vai đủ lớn và đôi chân đủ mạnh để chúng con có thể vác thập giá mình hằng ngày mà đi theo Chúa đến cùng. Amen.

27. T b để theo Chúa. – Veritas

(Trích dẫn từ ‘Hãy Ra Khơi’)
Hồi còn trong chủng viện, tôi đã có dịp nghe nói đến bác sĩ Tom Dolay qua bản dịch tập nhật ký sang tiếng Việt có tựa đề là: “Lào Quốc Đèo Heo Hút Gió” ghi lại công việc phục vụ của bác sĩ tại một nơi mà ngày nay chúng ta có thể gọi là “vùng sâu, vùng xa”. Trong khi dấn thân phục vụ anh chị em cùng khổ, bác sĩ Tom Dolay phải chiến đấu với chính thập giá của bản thân mà ông gọi một cách bóng bảy là “ngọn núi cao nhất” của đời ông mà ông đã phải vượt qua, đó chính là căn bệnh ung thư mà ông đang mắc phải. Bác sĩ đã không vượt qua được ngọn núi cao này, đã chịu thua căn bệnh ung thư và qua đời lúc mới 34 tuổi.
Vì muốn sống trọn vẹn hơn đức tin vào Chúa, bác sĩ Tom Dolay đã từ bỏ gia đình, từ bỏ những tiện nghi của một cuộc sống sung túc an nhàn để ra đi phục vụ những con người cùng khổ nơi vùng xa và vùng sâu. Bác sĩ đã thực hiện nơi chính bản thân điều chúng ta vừa đọc trong đoạn Phúc âm hôm nay: “Ai không bỏ cha mẹ, vợ con anh chị em mà đến với Ta thì không thể làm môn đệ Ta. Ai không vác thập giá mình mà theo Ta thì không thể làm môn đệ Ta”. Và không phải là vác trong giây lát, trong lúc cần thiết để biểu diễn cho người khác nhìn thấy mà phải vác hàng ngày, thường xuyên trong âm thầm, không ai nhìn thấy, chỉ mình Chúa biết mà thôi.
Bác sĩ Tom Dolay đã ghi lại trong tập nhật ký như sau: Tôi phải tiếp tục thi hành công tác đang làm như một bác sĩ bao lâu Chúa còn cho tôi thời gian sống ở trần gian này để thực hiện nó. Tôi tiếp tục sống dịu hiền, bởi vì để sống hiền dịu con người phải có can đảm. Giờ đây, đứng trước ngọn núi cao nhất của đời tôi, (tức là chính căn bệnh ung thư mà bác sĩ đang trải qua) tôi còn phải can đảm hơn nữa, mặc dù can đảm đôi khi chỉ là một bài ca buồn. Hy vọng vẫn còn và bất cứ nơi nào còn có người can đảm chiến đấu, tôi không có ý định nằm im chờ chết trên giường bệnh, còn rất nhiều việc phải làm trong thế giới này.
Lần đầu tiên đối diện với thập giá trong tâm thức trần tục trước biến cố Vượt Qua, các tông đồ không hiểu được mầu nhiệm thập giá và dĩ nhiên họ còn lo sợ tránh né. Việc đó đã xảy ra cho Phêrô, ông can gián Chúa đừng lên Giêrusalem để khỏi phải chịu chết trên thập giá. Phêrô đã bị Chúa trách là không suy nghĩ theo tiêu chuẩn của Thiên Chúa mà theo tâm thức thường tình trần tục.
Thật đúng vậy, nếu nhìn theo phương diện trần tục, xưa cũng như nay thì làm sao con người, mỗi người chúng ta có thể yêu mến thập giá, một hình khổ sỉ nhục dành cho kẻ bị kết án tử hình, bị tước lột mọi quyền lợi làm người.
Thánh Phêrô từ chối và khuyên Chúa không nên đi vào con đường này, nhưng Chúa Giêsu muốn Phêrô và các môn đệ hãy nâng tâm hồn lên, hãy có cái nhìn của Thiên Chúa trước mầu nhiệm thập giá, trước những khổ đau, những thử thách. Cần phải nhìn thấy mối liên hệ sâu xa được thực hiện nơi chính Chúa Giêsu trong cuộc Vượt Qua của Người. Mối liên hệ sâu xa giữa thập giá và mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa cần phải nhìn thấy mối liên hệ sâu xa này.
Chúng ta ngày hôm nay cũng như các đồ đệ của Chúa ngày xưa, một khi đã bước theo Chúa mới có thể hiểu được giá trị của thập giá trong đời sống của mỗi người chúng ta. Giá trị của thập giá đó hệ tại nơi mối liên hệ với mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa, và chúng ta cần vác thập giá trong sự kết hợp với Chúa Giêsu với mầu nhiệm Vượt Qua của Người. Hay nói theo ngôn ngữ của thánh Phaolô, chúng ta cần đưa thập giá của chúng ta vào mầu nhiệm Vượt Qua của Chúa: “Tôi bổ túc nơi thân xác tôi những gì còn thiếu nơi mầu nhiệm thập giá của Chúa, Đấng đã yêu thương tôi và chịu chết vì tôi. Tôi sống, nhưng không phải là tôi sống mà là chính Chúa Kitô sống trong tôi”.
Đây là một quyết định của người can đảm. Theo Chúa cần can đảm, theo Chúa không phải là một việc làm vì nhẹ dạ, vì xu thời, nhưng là việc làm can đảm sau khi đã suy nghĩ chín chắn. Hãy để cho Chúa Kitô vác lấy thập giá với ta trong cuộc sống hằng ngày, và chỉ với tình yêu kết hợp với Chúa mới có thể giúp ta từ bỏ mọi sự để theo Chúa. Hay đúng hơn, nói cách khác để yêu mến Chúa trên hết mọi sự và trong tình yêu Chúa trên hết mọi sự chúng ta mới có thể yêu mến thực sự cha mẹ, anh chị em, của cải, tất cả mọi sự của ta trong tình yêu của Ngài.
Chúng ta nói như đã từ bỏ mọi sự, thật sự chúng ta đặt mọi sự vào đúng vị trí của nó trong tình yêu của Chúa. Xin Chúa giúp mỗi người chúng ta được trưởng thành trong đức tin, đức cậy và đức mến, và xin Chúa giúp cho mỗi người chúng ta được trung thành cho đến cùng là đi trọn con đường như Chúa đã đi, đó là con đường thập giá, và giờ đây chúng ta cùng nhau tuyên xưng đức tin của mình qua Kinh Tin Kính.

28. Tôi là th ba.

Sayers là một cầu thủ nổi tiếng. Anh được báo chí đánh giá là một trong những hậu vệ chạy nhanh nhất trong lịch sử môn bóng đá chuyên nghiệp. Thế nhưng lúc nào anh cũng đeo trên cổ mình một tấm mề đay bằng vàng, trên đó đó khắc ghi bốn chữ:
- Tôi là thứ ba.
Và trong cuốn tự thuật của mình, anh đã cho biết nguồn gốc và ý nghĩa của bốn chữ đó như sau:
Ngày kia, tôi đến thăm ông Bill Easte, huấn luyện viên của tôi. Tôi thấy ông đặt trên bàn làm việc của ông khẩu hiệu này. Tôi đọc mà chẳng hiểu, nên nhờ ông cắt nghĩa và ông đã nói cho tôi hay:
- Thiên Chúa là thứ nhất, tha nhân là thứ hai còn tôi là thứ ba.
Kể từ đó, tôi cũng đã chọn bốn chữ này làm khẩu hiệu sống cho cuộc đời mình.
Và cũng trong quyển tự thuật ấy, anh viết tiếp:
- Tôi cố gắng sống khẩu hiệu trên. Không phải lúc nào cũng thành công, nhưng dù sao việc mang khẩu hiệu ấy nơi cổ cũng nhắc nhở tôi và giúp tôi khỏi đi trệch đường quá xa.
Từ câu chuyện trên, chúng ta đi vào đoạn Tin Mừng sáng hôm nay với lời tuyên bố của Chúa Giêsu:
- Ai đến với Ta mà không dứt bỏ cha mẹ, vợ con, anh em, chị em và cả mạng sống mình nữa, thì không thể làm môn đệ Ta được.
Nói cách khác, Chúa đòi chúng ta phải dành địa vị ưu tiên số một cho Ngài trong cuộc sống.
Tiếp nối vào đó, chúng ta lắng nghe ý tưởng thứ hai được Ngài nêu lên trong phần cuối đoạn Tin Mừng:
- Ai trong các ngươi muốn xây một ngọn tháp mà trước hết không chịu ngồi xuống tính toán mọi phí tổn để xem thử mình có đủ khả năng hoàn tất nó hay không?
Nói cách khác, dành địa vị ưu tiên số một cho Chúa trong cuộc sống mà thôi chưa đủ, chúng ta còn phải thực thi trọn vẹn sự lựa chọn ấy nữa. Và đây mới thực sự là điều khó khăn và cam go.
Chính Sayers, trong câu chuyện vừa nghe đã xác quyết: Đặt Chúa vào vị trí số một trong đời bạn là một chuyện. Còn sống cái quyết định ấy trong suốt cả cuộc đời là một chuyện hoàn toàn khác. Chính vì thế, tôi luôn đeo tấm mề đay ấy nơi cổ như một nhắc nhở tôi phải sống sự lựa chọn ấy.
Còn chúng ta thì sao? Vào ngày chịu phép rửa tội và thêm sức, cũng như mỗi khi tuyên xưng đức tin, chúng ta cũng đã chọn lựa Chúa, cũng đã dành cho Chúa địa vị ưu tiên chỗ đứng số một trong cuộc sống.
Thế nhưng, chúng ta đã thực hiện sự chọn lựa ấy như thế nào? Chúng ta đã sống điều dốc quyết ấy ra làm sao? Rất nhiều khi chúng ta nói một đàng làm một nẻo… Miệng thì chúng ta tuyên xưng Chúa, nhưng việc làm thì phản lại lời tuyên xưng ấy, theo kiểu:
- Miệng nam mô, bụng bồ dao găm.
Bởi vì mỗi khi phạm tội là chúng ta bán Chúa như Giuđa. Mỗi khi phạm tội là chúng ta chối bỏ Chúa như Phêrô. Mỗi khi phạm tội là chúng ta chọn lựa ma quỉ thay vì chọn lựa Chúa làm thần tượng cho đời mình.
Và như thế, biết bao nhiêu lần chúng ta đã phản bội, đã quay lưng chống lại Chúa. Bởi đó, mỗi người chúng ta hãy tự vấn lương tâm xem:
- Lúc này Chúa đang chiếm địa vị nào, đang có chỗ đứng nào trong tâm hồn và trong cuộc đời của tôi?

29. La chn

Có một cô gái người nước Bỉ, tên là Odette sinh ra trong một gia đình qúy tộc, thánh thiện và rất xinh đẹp. Năm 17 tuổi, cô đã quyết định đi tu, nhưng chỉ vài ngày sau khi lãnh áo dòng cha mẹ cô đã bắt trở về. Từ lâu ông bà đã có ý gả cô cho lãnh chúa Simon thuộc lâu đài gần đó.
Mọi người đã âm thầm chuẩn bị lễ cưới cho cô, các thiệp mời đều được kín đáo gởi đi. Nhưng vì lòng đã quyết đi tu dâng mình cho Chúa, khi đến phần giao ước, Odette đã dõng dạc tuyên bố: "Con không chấp nhận lãnh chúa Simon cũng như bất cứ người nào làm chồng, bởi vì tình yêu và đức tin con đã hiến dâng cho Thiên Chúa từ lâu". Hơn nữa, sáng hôm sau, cô đã dùng gươm cắt chiếc mũi xinh đẹp của mình, nhằm hủy họai sắc đẹp của mình để không còn ai cấm cô đi tu nữa.
Thật vậy, khi vết thương đã lành, cô được phép nhập tu viện. Ba năm sau đó được bầu làm tu viện trưởng lúc mới 23 tuổi.
Hành động của Odette chắc chắn có nhiều người chê cười, cho rằng cô quá khờ, hoặc là một con người "thần kinh" không biết cách lựa chọn, một tương lai sáng lạng lại đi từ bỏ, một nhan sắc xinh đẹp mà hy sinh nó một cách không hề hối tiếc để rồi chấp nhận một cuộc sống âm thầm trong tu viện giữa bốn bức tường thầm lặng. Thật là một sự lựa chọn ngước đời. Nhưng sự lựa chọn này làm cho người ta còn có thể dễ chấp nhận hơn khi Bài Tin Mừng hôm nay Đức Giêsu đã nói: "Nếu ai đến với Ta mà không bỏ cha mẹ, vợ con, anh chị em và cả mạng sống mình thì không thể làm môn đệ Ta". Nếu so sánh hai cách lựa chọn, một bên là gia đình và người thân của Odette, còn một bên là cách lựa chọn của Odette. Ta thấy cả hai cách lựa chọn đều có suy nghĩ, có sự tính toán. Nhưng một bên lại là sự khôn ngoan của người đời, mà tạm thời tôi đặt cho đó là sự lựa chọn gần. Còn một bên là sự khôn ngoan của Thiên Chúa vì biết sống theo lời dạy của Đức Giêsu. Mà tôi gọi là sự lựa chọn xa. Lựa chọn gần, hay xa là điều rất quan trọng và ảnh hưởng không chỉ cuộc sống đời này, mà nó còn quyết định cho cả đời sống mai sau.
1. Lựa chọn gần
Đó là cách lựa chọn của Phêrô khi ngăn cản con đường thập giá của Đức Giêsu, cho nên Đức Giêsu đã trách ông: "Xatan, lui lại đàng sau Thầy! Anh cản lối Thầy, vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của lòai người" (Mt 16,23). Cách lựa chọn của Phêrô được xem là một cách lựa chọn gần, vì ông chỉ nhìn thấy cuộc sống ngay ở hiện tại mà không hề thấy được cuộc sống mai sau mà mỗi người cần đạt được, chỉ phóng một tầm nhìn hạn hẹp mà không biết nhìn xa hơn. Chỉ biết hiện tại mà không hề biết đến tương lai. Chính vì thế mà Đức Giêsu mới khuyên mỗi người chúng ta phải biết từ bỏ những cái tạm bợ để lựa chọn cái bền vững. Khi Đức Giêsu nói "từ bỏ" ở đây không có nghĩa dạy chúng ta sống bất hiếu, nhưng là biết rõ bậc thang giá trị, giữa cái phù vân và cái muôn đời, giữa tình cảm người đời chóng qua với tình yêu Thiên Chúa vĩnh cữu. Vì thế, Đức Giêsu luốn muốn chúng ta phải biết bậc thang giá trị trong lực chọn của mình, biết chọn Thiên Chúa hơn là gia đình. Hơn nữa, trong mười điều răn Đức Chúa Trời điều thứ nhất là "Thờ phượng một Đức Chúa Trời và kính mến Người trên hết mọi sự". Nhưng trong cuộc sống chúng ta vẫn thường hay làm ngược lại, chỉ chọn Chúa khi không còn gì để chọn, chỉ đến với Chúa khi có thời gian rảnh. Nhất là không dám làm phiền lòng người khác mà chấp nhận đi dự tiệc để rồi lại bỏ lễ ngày Chúa Nhật mà không còn thấy bứt rứt lương tâm nữa.... tiếng Chúa bây giờ không còn là lựa chọn tối ưu mà là tiếng của tình cảm, của con người chóng qua, tiếng của vật chất đã đựơc thần thánh hóa hơn cả tiếng của Chúa. Vì vậy, chúng ta hãy xem lại coi mình còn xứng đáng với Chúa không?
2. Lựa chọn xa
Lựa chọn xa, là cách lựa chọn mà rất ít người nhìn thấy, hoặc thấy nhưng vì con luyến tiếc mà xem như không thấy nghĩa là "có mắt như mù". Còn số khác thì không chịu thấy vì cho là xa vời, mơ hồ. Trong trường hợp lựa chọn của Odette được xem như là một sự lựa chọn xa. Ban đầu dưới con mắt người đời hành động của cô được xem như là điên rồ, nhưng thật ra đó là một hành động khôn ngoan, một sự lựa chọn tuyệt vời, một bằng chứng hùng hồn nhất về niềm tin và tình yêu đối với Đức Kitô, và để trung thành với tình yêu cao cả đó cô đã sẵn sàng hy sinh tất cả: Cha mẹ, tiền tài, danh vọng, chức quyền, sắc đẹp và chính đời sống của cô.
Thật vậy, cuộc đời con người là một chuỗi những chọn lựa, nó đã dệt lên thành đời sống riêng của mỗi người. Đối với người Kitô chọn lựa là đáp lại tiếng Chúa đang vang lên trong lòng mình từng giây phút trong cuộc sống. Chúng ta không những chỉ chọn lựa cho mình mà còn phải biết hướng dẫn cho người khác chọn lựa, nhất là cho con cái hướng dẫn cho chúng sẵn sàng hy sinh dâng mình cho Chúa và không ngăn cản nếu chúng muốn. Dù rằng không phải đi tu mới là chọn Chúa, nhưng tất cả mọi người chúng ta đều đang được tự do chọn Chúa ngay trong bậc sống của mình. Nhưng điều quan trọng là chúng ta có xem Chúa là trên hết mọi sự chưa, chúng ta có xứng đáng là môn đệ Chúa chưa đó là một điều chúng ta phải suy nghĩ rất nhiều.
Lạy Chúa, xin cho con biết sống thanh thóat với tình cảm, danh vọng và vật chất ở đời này để chọn Chúa là đích điểm tuyệt đối của đời con. Amen.
 

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...