21/08/2020
2852
Đức Maria Trinh Nữ Vương
 Is 9, 2-4. 6-7; Tv 112, 1-2. 3-4. 5-6. 7-8; Lc 1, 26-38.
NỮ VƯƠNG BAN SỰ BÌNH AN
Từ lâu đời, nhiều bài thánh ca đã hướng lên đức Maria dưới tước hiệu Nữ vương (thí dụ: “Salve Regina, Reginae coaeli, Ave regina coelorum); trong kinh cầu Đức Mẹ, lời khẩn cầu “Nữ vương” được lặp lại nhiều lần dưới nhiều tước hiệu khác nhau.
Thế nhưng, lễ Đức Maria Nữ vương thì mới được đức Piô XII thiết lập vào năm 1954, (để đánh dấu năm Thánh mẫu kỷ niệm bách chu niên của việc tuyên bố tín điều Đức mẹ vô nhiễm nguyên tội), với thông điệp “Ad caeli reginam” ngày 11/10/1954. Lễ này được ấn định cử hành vào ngày 31 tháng 5.
Và rồi, với cuộc canh tân phụng vụ sau Công Đồng đã dời lễ nhớ sang ngày 22 tháng 8 để làm nêu bật hơn sự gắn liền tước hiệu Nữ vương của Đức Maria với việc lên Trời: chúng ta chiêm ngắm Đức Maria, Nữ hoàng ngồi bên cạnh Vua thiên triều để cầu bầu cho chúng ta như Thái Hậu.
Thật vậy, chức Nữ vương của Đức Maria được gắn liền với vai trò làm mẹ và chuyển cầu. Có lẽ nên hiểu tước “Nữ vương” theo nghĩa là “Thái Hậu” (bà mẹ của Đức Vua), hơn là Hoàng hậu hay Nữ hoàng. Hơn thế nữa, cũng như Đức Kitô đã giải thích vương triều Thiên Chúa theo nghĩa phục vụ chứ không phải thống trị, chúng ta cũng hiểu được rằng vinhquang của Đức Maria không dành để củng cổ thế lực nhưng là nhằm để thực thi lòng ân cần săn sóc đối với anh chị em còn trên đường lữ hành.
Ý nghĩa tước hiệu “Nữ vương” được phụng vụ giải thích trong phần dẫn nhập vào bài lễ như sau:
Có ít là bốn lý do để đức Maria đáng mang tước hiệu Nữ vương: lòng khiêm nhường; chức phận làm mẹ; vai trò chuyển cầu; hình ảnh vinh quang của Hội thánh. (1) Đức Maria là Nữ vương trên trời bởi vì khi còn ở dưới thế, Người là tôi tớ khiêm nhường của Chúa. Theo như lời của chính Chúa đã dạy: “ai hạ mình xuống thì sẽ được nhấc lên” (Lc 14, 11). Cũng như Chúa Cha đã tôn vinh Đức Kitô vì đã hạ mình cho đến chết trên thập giá (Pl 2, 6-11), thì Ngài cũng nhấc người nữ tì hèn hạ lên trên các thiên thần. (2) Đức Maria là Nữ vương vì là thân mẫu của Vua cứu thế, Đấng “ngự trên toàn vua Đavít đến ngàn đời” (Lc 1, 32-33). Bà Isave đã chúc tụng Người là “Mẹ của Chúa tôi” (Lc 1, 41-43). (3) Đức Maria là Nữ vương bởi vì ở bên cạnh đức Vua vinh hiển trên trời để cầu bầu cho nhân loại. Khi còn tại thế, Đức Maria đã đồng lao cộng tác với Đức Kitô vào sự cứu chuộc trong đau khổ; ngày nay Người cũng chia sẻ vinh quang với Chúa để cầu xin cho hết mọi người được hưởng nhờ ơn đó. (4) Đức Maria là Nữ vương vì người tiên phong cho hội thánh mai hậu, cũng được gọi vào chia sẻ vinh quang của con cái Chúa trong nước trời (Kh 5, 10), lãnh triều thiên vinh quang (1Pr 5, 4), triều thiên công chính (2Tm 4, 8).
Và rồi, chúng ta thấy để tôn kính Nữ Vương, với kinh cầu Đức Bà, ta thấy có nhiều lời ca tụng Đức Nữ vương.
 Đức giáo hoàng Piô 6 năm 1814, thêm vào kinh Cầu Đức Bà 8 câu tôn vinh Nữ vương:"Nữ Vương các thánh thiên thần" cho đến câu "Nữ Vương các thánh nam cùng các thánh nữ".
Nữ vương các thánh thiên thần.
Nữ vương các thánh Tổ tông.
Nữ vương các thánh Tiên tri.
Nữ vương các thánh Tông đồ.
Nữ vương các thánh Tử vì đạo.
Nữ vương các thánh Hiển tu.
Nữ vương các thánh Ðồng trinh.
Nữ vương các thánh Nam cùng các thánh Nữ.
Nữ vương truyền phép rất thánh Mân côi.- Đức Leô 13, năm 1833 thêm: "Nữ Vương truyền phép Rất Thánh Mân côi".
Nữ vương chẳng hề mắc tội tổ tông. - Đức Piô 9, năm 1854 thêm: "Nữ Vương chẳng hề mắc tội tổ tông".
Nữ vương linh hồn và xác lên trời.- Đức Piô 12, năm 1950 thêm: "Nữ Vương linh hồn và xác lên trời".
Nữ vương các gia đình.- Đức Gioan Phaolô 2, năm 1995 thêm "Nữ Vương các gia đình" để cầu cho các gia đình đang gặp nhiều khó khăn giữa thế giới hôm nay.
Đặc biệt, lời ca tụng Nữ vương ban sự bằng yên được Đức Bênêđictô 15, năm 1915 thêm "Nữ Vương ban sự bằng yên".
Và, đặc biệt hơn nữa, trong các giờ kinh gia đình, giờ kinh chung ta thường nghe thấy câu cuối cùng : “Nữ Vương ban sự bình yên – cầu cho chúng con”. Không chỉ xướng 1 lần mà xướng đến 3 lần.
Điều mà người ta tha thiết nài xin nên người ta mới xướng nhiều đến như vậy. Phải chăng đó là tâm thức của con người, tâm thức của mỗi người chúng ta khi hướng lòng lên với Đức Mẹ.
Thật vậy, Mẹ Maria – Mẹ chúng ta – Mẹ chính là Nữ Vương trời đất.
Maria xứng đáng là Nữ Vương Trời đất bởi lẽ Mẹ đã thưa hai tiếng xin vâng như trang Tin Mừng chúng ta vừa nghe : "Này tôi là tôi tớ Chúa, tôi xin vâng như lời thiên thần truyền".
Eva đã xuẩn động bất tuân để làm cho con người trở nên nô lệ của tội lỗi. Chính từ ngày đó, con người đã bất an vì tội lỗi lan tràn mặt đất. Còn Maria – Ave – hai tiếng Mẹ đảo vần đó đã mang lại ơn cứu độ, mang ơn bình an đến cho nhân loại.
          Nhìn vào thực tế của cuộc đời, ta thấy con người không thể nào thoát khỏi sự quan phòng, khỏi bàn tay của Thiên Chúa để rồi càng bất tuân, càng hí hoáy lòng ta lại bất an. Càng đi tìm cho mình cái tôi của mình, sự tự do của mình ta lại thấy bất anh. Kinh nghiệm rõ ràng nơi Mẹ Maria, ta sẽ bình an khi ta thân thưa với Chúa lời xin vâng như Mẹ.
Và, thật sự là thế, Maria là Mẹ, là Nữ Vương ban sự bình an bởi lẽ trong tâm tình là Mẹ, Mẹ hiểu được lòng con thơ.
Cuộc đời con người, ắt hẳn không có gì quý cho bằng sự bình an trong tâm hồn. Chính vì thế, mỗi người chúng ta nếu muốn bình an thật sự thì hãy đến bên Mẹ, nép mình vào lòng Mẹ và cùng thưa với Chúa lời xin vâng như Mẹ chúng ta sẽ có sự bình an như Mẹ.
Trong tâm niệm, ta hãy cũng niệm lời xướng thật dễ thương : Nữ Vương ban sự bình an – cầu cho chúng con.
          Xin Mẹ là Mẹ, là Nữ Vương ban sự bình an luôn che chở chúng con trong vòng tay của Mẹ để đời chúng con mãi mãi được sự bình an.
Mẹ là hoa sen giữa đời
Có lẽ không có loài hoa nào vừa bình dị, vừa cao sang, vừa gần gũi lại rất thanh khiết cao quý cho bằng hoa sen Việt Nam. Cây sen tươi đẹp, hoa sen xinh tươi, thơm ngát, thanh tao nhưng lại rất gần gũi với đời sống người dân Việt Nam. Gần gũi đến nỗi người Việt Nam nào cũng biết nó, cũng yêu quý nó. Gần gũi đến nỗi người ta thi vị nó, nhân cách hoá nó như là tâm hồn của một con người. Một tâm hồn trong sáng, thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời.
 “Trong đầm gì đẹp bàng sen
Lá xanh bông trắng lại chen nhị vàng
Nhị vàng, bông trắng, lá  xanh
Gần bùn mà chằng hôi tanh mùi bùn”.
Lời ca dao thật nhẹ nhàng dẫn dắt người nghe về vẻ thanh tao của một loài hoa dân dã, bình dị để gợi mở về hình ảnh người nông dân lam lũ quanh năm nơi đầm lầy nước đọng nhưng tấm lòng lại thanh cao như loài hoa sen. 
Ngay từ hai câu đầu tác giả khẳng định về vẻ đẹp của loài hoa sen: “Trong đầm gì đẹp bằng sen – Lá xanh, bông trắng lại chen nhị vàng”. Quả thực, ở giữa đầm lầy thì bông sen đẹp nhất. Cây sen được nổi lên với những cánh lá xanh nhô lên mặt nước như những cái dù xinh xắn. Bông sen mở cánh trắng muốt sáng lên dưới nắng mặt trời, toả hương ngào ngạt từ nhị hoa vàng. Tất cả tạo lên một bức tranh thôn quê bình dị, yên hàn. Thế nhưng, tác giả dường như không dừng lại ở việc ngắm đoá hoa sen một cách chung chung hay ở đàng xa, mà dường như tác giả nâng niu từng lá sen xanh, chỉ từng bông sen trắng, đếm từng nhị sen vàng. Có như vậy, tác giả mới có thể nói lên rằng: 
“Nhị vàng, bông trắng, lá xanh
Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Lời kết tác giả như muốn lội ngược dòng khi tác giả thi vị hoá cây sen thành nét đẹp của tâm hồn con người. Gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn. Từ đây, cây sen đã trở thành biểu tượng của tâm hồn trong sáng, hiền lành của người nông dân chân lấm tay bùn Việt Nam. “Gần bùn” ở đây chính là môi trường tiếp xúc của sen hay nói đúng hơn chính là xã hội phong kiến bất công bấy giờ có quá nhiều những tham nhũng, dơ bẩn, ô uế. Tuy vậy mà bông sen vẫn rực rỡ, sáng ngời, toả ánh hào quang, không hề dơ bẩn. Mà ngược lại nhờ những môi trường xung quanh ấy mà sen càng thêm đẹp, làm tăng sự thanh cao.
Bài ca dao trên là một bài thơ hay. Chỉ bằng những câu từ mộc mạc, giản dị kèm theo thể thơ lục bát bình dân của truyền thống dân tộc Việt Nam, đã làm nổi bật lên hình ảnh nên thơ của người nông dân Việt Nam chân lấm tay bùn nhưng tâm hồn lại thanh cao trong sáng. Họ sống giữa bùn nhơ nhưng không để lòng mình vướng bận những tham sân si dòng đời. Họ sống giữa đầm lầy tội lội nhưng không để lòng mình ngụp lặn trong đam mê tội đời. 
Mẹ Maria chính là một đoá hoa đẹp nhất trần gian. Nhìn vào cuộc đời Mẹ, chúng ta thấy một Maria trong trắng dịu dàng. Một Maria đoan trang mực thước. Một Maria bác ái bao dung. Một Maria nữ tỳ được Chúa yêu thương và chúc phúc. Mẹ luôn giữ lòng thanh khiết giữa bùn nhơ tội đời. Người ta nói Mẹ được ơn Vô Nhiễm ngay tứ lúc trinh thai, nhưng điều quan yếu là Mẹ đã giữ được vẻ thanh khiết vẹn toàn đó giữa môi trường đầy những cám dỗ tội lỗi, đầy những thói đời xấu xa. Mẹ đã thắng mọi cám dỗ để có thể toả ngát hương thơm giữa trần đời. Mẹ là người phụ nữ đẹp rạng ngời giữa muôn ngàn người phụ nữ, tựa như bông sen đẹp lộng lẫy giữa đầm lầy. Tâm hồn Mẹ lại càng thanh cao, thanh cao đến nỗi hoàn toàn xứng đáng cho Con Chúa Trời ngự trị. Mẹ hoàn toàn xứng đáng với lời giới thiệu: “Trong đầm gì đẹp bằng sen”. Mẹ xứng đáng là đoá sen không phải là vì nét đẹp kiêu sa mà là vì nét đẹp tâm hồn “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”.
Mẹ đã được Chúa đưa về trời và được ban vinh dự triều thiên là Nữ Vương Trời Đất như là phần thưởng xứng đáng cho những gì Mẹ đã dâng tặng cho Chúa và cho đời. Cuộc đời Mẹ hoàn toàn thanh sạch dành trọn vẹn cho Chúa. Cuộc đời Mẹ luôn toả hương bác ái yêu thương cho tha nhân. Mẹ đã sống một cuộc đời như đoá sen dâng hiến cho trần gian trong sự khiêm nhu của người Nữ Tỳ xin được làm mọi sự vâng theo thánh ý nhiệm màu.
Nguyện xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho mỗi người chúng ta biết gì giữ nét đẹp cao quý nơi phẩm giá làm người và làm con Chúa của chúng ta. Xin Mẹ cầu bầu cùng Chúa cho chúng  ta luôn được hồn an xác mạnh, ơn thánh dư đầy để phụng sự Chúa trong mọi người như Mẹ. Amen
Lm.Jos Tạ duy Tuyền 
 

Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...