05/01/2023
2091

LỄ HIỂN LINH

Lời Chúa:  Is 60,1-6; Ep 3,2-3a.5-6; Mt 2,1-12

----------------------------------------

Mục lục

1. Nhận biết và thờ lạy Chúa (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Chúng tôi đã thấy ngôi sao của Người  (Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt)

3. Tìm gặp Chúa  (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Văn hóa thần tượng (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

5. Tư vấn  (Lm. Vũ Đình Tường)

6. Lên đường tìm Chúa (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

7. Con đường gặp Chúa (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)

8. Thiên Chúa – Một huyền nhiệm  (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

9. Ánh sáng cho muôn dân (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

10. Cúi mình xuống  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

11. Lễ vật dâng Chúa  (Lm. Phạm Quốc Hưng)

12. Khát vọng tìm Chúa (Lm. Nguyễn Chánh)

13. Ánh sáng Lời Chúa (Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn)

14. Ngôi sao đức tin (Lm. Giuse Vũ Thái Hòa)

15. Cuộc hành trình đức tin (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

16. Thiên Chúa tỏ mình (Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm)

17. Tìm gặp Thiên Chúa giữa lòng đời  (Lm. Inhaxio Trần Ngà)

18. Những ánh sao cuộc đời (Lm. Giuse Nguyễn Văn Tuyên)

19. Tầm nhìn siêu phàm (Trầm Thiên Thu)

20. Các đạo sĩ và ngôi sao (Học viện Giáo hoàng Pi-ô X Đà Lạt)

 

NHẬN BIẾT VÀ THỜ LẠY CHÚA

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Ngày lễ hôm nay được gọi là lễ “Hiển Linh”. Hiển Linh là việc Thiên Chúa tỏ mình ra cho con người. Trong Cựu ước, Thiên Chúa thường “hiển linh” tức là tỏ mình cho con người thấy vinh quanh và quyền năng của Ngài, đồng thời Ngài gửi một thông điệp, một giáo huấn để giúp con người sống đạo đức và ngay lành.

Hài Nhi Giêsu tại Hang đá máng cỏ là Thiên Chúa. Ngài tỏ mình trong vinh quang rạng ngời. Ngôn sứ Isaia đã diễn tả Giêrusalem tràn ngập ánh sáng. Đây không phải là ánh sáng mặt trời, nhưng là vinh quang của Chúa tỏ hiện. Khi Chúa đến, Giêrusalem sẽ là trung tâm quy tụ muôn dân. Muôn sản vật quý hiếm sẽ tuôn đổ về đó để dâng kính Chúa là Vua muôn vua và là Chúa muôn loài. Xin lưu ý, lời ngôn sứ được nói trong bối cảnh lưu đày. Lúc đó, người Do Thái phải sống xa quê hương. Không còn Đền thờ. Không còn lễ tế. Lời ngôn sứ Isaia như một tiếng thét vui mừng và như lời hiệu triệu, làm nức lòng dân đang sống trong cảnh tha hương.

Với việc ba nhà đạo sĩ đến Belem theo chỉ dẫn của ngôi sao lạ, Thiên Chúa tỏ mình ra, không chỉ với người Do Thái, mà cho muôn dân. Ba nhà đạo sĩ từ phương Đông là tượng trưng cho cả nhân loại đang tìm kiếm Chúa. Họ đã tìm đến với Hài Nhi Giêsu và đã dâng của lễ. Những lễ vật họ dâng là vàng, nhũ hương, mộc dược là những biểu tượng nhằm tôn vinh Đức Giêsu là Thiên Chúa (hương), là Vua (vàng) và là Đấng Cứu độ (mộc dược để xức xác theo thủ tục của người Trung đông).

Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân, và con người đón nhận Chúa bằng nhiều cách khác nhau. Bài Tin Mừng của lễ Hiển Linh cho chúng ta thấy có ba thể loại nhân vật:

Trước hết là Hêrôđê. Ông là một quận vương có uy quyền. Khi nghe ba nhà đạo sĩ nói về một vị vua mới sinh. Hêrôđê đã sinh lòng ghen tương. Ông cặn kẽ dò hỏi về ngày giờ các nhà đạo sĩ đã thấy ngôi sao lạ. Ông còn nói với họ: để trẫm cũng đi triều bái Người. Thực ra, Hêrôđê ghen tương và sợ mất ngai vàng. Ông chỉ làm ra vẻ quan tâm, nhưng thâm tâm ông muốn triệt hạ vị vua mới sinh, để ngai vàng của ông không còn bị đe dọa. Việc ông ra lệnh giết các trẻ từ hai tuổi trở xuống cho thấy dã tâm của ông.

Những nhân vật thuộc thể loại thứ hai là những người khôn ngoan tại Giêrusalem. Họ là những tư tế, luật sĩ và chuyên viên nghiên cứu Kinh Thánh. Những người này là những cố vấn của triều đình Hêrôđê. Khi được triệu tập, họ trả lời dễ dàng thông thạo. Họ trích dẫn ngôn sứ Mika nói về nơi Đấng Cứu Tinh sẽ sinh hạ. Tuy vậy, những kiến thức uyên thâm không giúp họ nhận ra Đấng Cứu độ đã đến trần gian. Sự thông thái của họ chỉ dừng lại ở lý thuyết và những bài học thuộc lòng, còn tâm hồn họ thì dửng dưng với những gì đang xảy ra.

Những nhân vật thuộc thể loại thứ ba là các nhà đạo sĩ. Họ cũng là những người uyên bác, và sự uyên bác ấy đã giúp họ nhận ra những dấu chỉ thời đại. Khởi đi từ những dấu lạ trong thiên nhiên vũ trụ, họ đã đón nhận thông điệp từ trời báo cho biết Đấng Cứu Thế đã sinh hạ. Họ đã lên đường, chấp nhận mọi vất vả gian nan, với ước mong gặp được vị vua mới sinh. Sau khi đã vượt qua những gian nan vất vả, khi gặp Hài Nhi Giêsu, họ chỉ đơn giản thờ lạy Người và lấy đó làm mãn nguyện, lên đường trở về. Khi sống ngay thẳng và chân thành, những mưu mô của Hêrôđê không thể làm họ mắc bẫy. Trái lại, họ luôn sáng suốt và kiên trung. Nhờ lời hướng dẫn của Sứ thần, họ đã lên đường về bằng một lối khác.

Sau khi đã “nhận diện” những nhân vật được nhắc tới trong Tin Mừng Thánh Matthêu, mỗi chúng ta hãy đặt câu hỏi: tôi giống nhân vật nào trong những nhân vật trên đây? Có thể tôi như Hêrôđê, mặc dù tin Chúa, nhưng chỉ chấp nhận những gì tạo cho mình sự dễ dãi, còn những gì khó khăn và đòi hỏi phải hy sinh thì tôi lại khước từ. Có thể tôi giống những những người khôn ngoan ở thành Giêrusalem, học biết Lời Chúa nhưng lại không tuân giữ những gì Chúa dạy. Và, thật là may mắn, nếu tôi giống như những nhà đạo sĩ, cất bước lên đường tìm Chúa và thờ lạy Người.

Thiên Chúa hiển linh, tỏ mình cho muôn dân. Ngày hôm nay, Ngài cũng đang tỏ mình qua Giáo Hội và qua mỗi người tín hữu. Ước chi mỗi chúng ta hãy là một ngôi sao dẫn đường cho đồng loại tìm về Chúa Giêsu, Đấng cứu nhân độ thế và Đấng đã làm người để ở với chúng ta. Một cuộc sống thánh thiện, trung thực, ngay thẳng và yêu thương, chính là vì sao sáng giữa đêm đen trần gian, nhờ đó nhiều người biết Chúa và đến thờ lạy Người.

Về mục lục

.

CHÚNG TÔI ĐÃ THẤY NGÔI SAO CỦA NGƯỜI

Gm. Cosma Hoàng Văn Đạt

Trên trời có muôn ngàn ngôi sao, thế mà các đạo sĩ nhận ra ngôi sao của Chúa Giêsu.

Có thể không ngôi sao nào trên trời dẫn chúng ta đến với Chúa Giêsu, nhưng nếu chúng ta đã đến được với Chúa Giêsu thì cũng nhờ một hay nhiều ngôi sao nào đó dẫn đường. Có thể là cha mẹ, một người bạn, một quyển sách, một biến cố… Điều quan trọng là chúng ta biết đọc những tín hiệu. Giữa trăm ngàn đĩa phim, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể xem được và phân biệt được phim về Chúa Giêsu với các phim khác. Giữa trăm ngàn đĩa ca nhạc, nếu chúng ta có một đầu đĩa thì có thể nghe được và phân biệt được đĩa thánh ca với các đĩa khác. Đầu đĩa ấy có thể là vũ trụ, có thể là Hội Thánh. Đặc biệt là Thánh Kinh. Nhưng điều cốt yếu vẫn là tôi phải xem, phải nghe. Thiên nhiên và lịch sử không bao giờ thiếu những ngôi sao tín hiệu để con người đến được với ánh sáng.

Chúa Giêsu là ánh sáng. Một khi đến được với Chúa Giêsu, chính chúng ta được soi sáng và trở thành những ngôi sao dẫn đường cho người khác. Trong lịch sử đã từng có những vì sao sáng rực: thánh Phêrô, thánh Gioan, thánh Phaolô, thánh Têphanô, thánh Inhaxiô Antiôkia, thánh Âutinh, thánh Gioan Kim Khẩu, thánh Phanxicô Assisi, thánh Phanxicô Xavier, thánh Têrêxa, thánh Anrê Dũng Lạc, thánh Philipphê Phan Văn Minh, thánh Matthêu Lê Văn Gẫm, thánh Anê Lê Thị Thành… Ngay trong thời đại chúng ta cũng không thiếu những vì sao: thánh Maximilianô Kolbe, chân phước Têrêxa Calcutta… Và ngôi sao sáng chói trong mọi thời đại: Mẹ Maria. Chung quanh chúng ta vẫn có những người đang đi tìm một ngôi sao dẫn đường. Chính chúng ta được Chúa Giêsu mời gọi nhận lấy ánh sáng của Chúa để trở thành một ngôi sao, cho bạn bè, cho con cái, cho hàng xóm láng giềng. Có thể chúng ta chỉ là một ngọn đèn dầu, nhưng vẫn hữu ích cho một ai đó đi tìm nguồn sáng trong một đêm tăm tối.

Lạy Chúa Giêsu, Ánh Sáng thần linh giữa trần gian, luôn ban cho chúng con cũng như mọi người những ngôi sao dẫn đường.

Về mục lục

.

TÌM GẶP CHÚA

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Câu hỏi của cac đạo sỹ vẫn là câu hỏi của người đi tìm kiếm Chúa. Chúa đi tìm con nhưng sao con lại đi tìm Chúa. Dựa vào dấu chỉ nào mà con biết Chúa ở đâu để con đi đến?

Thiên Chúa đi tìm kiếm con người.

Như xưa trong vườn địa đàng, sau khi Adam Eva phạm tội bất tuân, họ đã thấy mình trần truồng và sợ hãi đi trốn. Chúa đi tìm con người từ dạo ấy.

Từ trời cao xuống thế, Chúa trở nên người, để mang lấy thân phận con người. Chúa nhờ thiên thần báo tin cho mục đồng, Người đã đến trong trần gian. Chúa đã dùng ngôi sao để báo hiệu vị vua mới sinh ra, các đạo sỹ lên đường tìm kiếm. Chúa đến như vị vua không ngai, nhưng mang hạnh phúc cho muôn dân. Chúa đến không uy quyền nhưng lại để giải thoát muôn dân khỏi tội. Chúa đến không nơi nương tựa nhưng lại trở nên nơi tựa nương cho những người đau khổ, nghèo khó, bệnh tật.

Chúa đi tìm con như ai đi tìm con chiên mất, như người đàn bà góa tìm đồng bạc bị rơi. Người chờ đợi con như người cha đứng trước ngõ đợi con trở về. “con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8, 5).

Tình yêu luôn là một thao thức luôn là một tìm kiếm, dù con người chẳng là chi, phàm nhân chẳng là gì. Chúa yêu thương con người phàm nhân chỉ vì Thiên Chúa là Tình yêu. Trong tình yêu của Chúa, con như ba đạo sỹ thao thức lên đường đi tìm Chúa.

Con đi tìm Chúa.

Như ba đạo sỹ, những dấu chỉ thật đơn giản, chỉ cho thấy Chúa đã đến và ở đâu đó trong cuộc đời con người. Chúa là “Đấng Khác”, nên con người mãi đi tìm Chúa để gặp được Chúa. Như con người ở giữa vũ trụ, những gì biết chỉ là hạt cát giữa đại dương. Những gì to lớn, xa xôi nhất, con người chưa biết. Những gì nhỏ bé nhất và gần nhất, con người cũng chưa tường tận. Mãi mãi con người vẫn không ngừng tìm kiếm.

Tìm kiếm Chúa, đôi khi thấy thật gần, nhưng lại thấy rất xa và có khi lạc hướng, như ngôi sao dẫn đường tự dưng biến mất. Con người đi tìm kiếm Chúa, đâu chỉ dựa vào kinh nghiệm, kiến thức của nhân loại. Người đi tìm Chúa còn đi tìm ngay trong chỉ dẫn nơi Lời cùa Chúa trong Thánh Kinh. Tìm Chúa bằng đời sống cầu nguyện, thinh lặng, gặp gỡ anh chị em, những người chung quanh, các sự kiện xảy ra trong lịch sử.

Chúa sẽ cho gặp, Chúa sẽ sai phái họ đi làm sứ giả cho Tin Mừng. Một Tin Mừng “Chúa đã sinh ra cho anh em”. Tin Mừng cả trên trời dưới đất đều hoan hỷ, chúc tụng Vinh Danh Thiên Chúa trên các tầng trời – Bình an dưới thế cho người lòng ngay.

Trở về với công việc của mình, một năm mới bắt đầu, một chặng đường mới mở ra, các đạo sỹ không về theo con đường cũ. Mỗi người cũng bắt đầu con đường mới, con đường theo Chúa chỉ dẫn. Tương lai thuộc về Chúa, hiện tai trên đường tìm – gặp Chúa. Luôn luôn Chúa đã giáng trần và hằng ở với con người.

Con xin tạ ơn Chúa.

Về mục lục

.

VĂN HÓA THẦN TƯỢNG

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Xu hướng thần tượng đến mê muội, cảm tính dẫn đến những hành vi lệch chuẩn cúi đầu “xì xụp” trước các thần tượng do đám đông nguỵ tạo không phải là chuyện ngày xửa ngày xưa hay là chuyện của số đông những người kém may mắn không được học hành hay không được tiếp cận với nền văn minh nhân loại mà vẫn như là chuyện của nhiều người hôm nay, kể cả nhiều người có vai vế, học vị cao ngoài xã hội và cả trong các tập thể tôn giáo. Điều tệ hại là đối tượng mà người ta thần tượng lại không phải là người tốt mà có khi là một thành phần bất hảo, lừa đảo , dâm ô đang dùng truyền thông để lừa gạt đám đông.

Điển hình như Khá Bảnh. Một chàng trai sinh năm 1993 nổi tiếng bởi những “giá trị lệch lạc” nhưng không hiểu sao, anh lại được rất đông người trẻ “thần tượng”. Những cô cậu học sinh cấp ba ùa nhau ra đón Khá Bảnh, chụp ảnh cùng thần tượng, biểu diễn “múa quạt” tập thể. Hò hét có, gọi tên có, chạy theo Khá Bảnh có – quang cảnh không khác gì câu chuyện người ta vẫn miêu tả về fan cuồng Kpop.

Cách đây không lâu các bạn trẻ Việt Nam đã đổ xô đi đón chào một thần tượng nhạc pop Hàn Quốc đến thăm Việt Nam. Có bạn đã sung sướng hôn lên chiếc ghế mà thần tượng của mình vừa ngồi. Thói tôn thờ ngẫu tượng này đa phần bị đám đông kích động lên thiếu sáng suốt và chỉ còn chạy theo đám đông.

Đây là hành vi được xem là thờ ngẫu tượng. Họ sùng bái phàm nhân như một vị thần linh ngang hàng với Thiên Chúa. Lợi dụng sự tôn thờ ngẫu tượng này nhiều người đã dùng truyền thông để đánh bóng tên tuổi của mình, lừa gạt người khác bằng những chuyện gọi hồn, đặt tay chữa bệnh, thậm chí nhắn tin cũng hết bệnh để trục lợi cho bản thân.  “Thánh Kinh luôn nhắc nhở phải từ bỏ các ngẫu tượng… vì các ngẫu tượng là hão huyền nên ai thờ ngẫu tượng sẽ trở thành hão huyền” (GLHTCG 2112; x. Tv 115,4-5). Chúa Giêsu dạy: “Anh em không thể vừa làm tôi Thiên Chúa vừa làm tôi Tiền Của được” (Mt 6,24b).

ĐTC Phanxicô cho rằng nguyên nhân con người chạy theo thờ ngẫu tượng là vì sự thiếu thốn như dân Do Thái đã từng thờ con bò vàng trong sa mạc. Nơi Sa mạc thiếu thốn và bất an – trong sa mạc không có gì hết – trong đó thiếu nước, thiếu thực phẩm và thiếu nơi trú ngụ. Sự bất an này làm nảy sinh ra nơi con người các âu lo về  sức khoẻ, về tương lai, về công việc. Để trốn chạy sự bấp bênh – sự bấp bênh là sa mạc – bản tính con người kiếm tìm một tôn giáo “tự làm lấy” nhằm thoả mãn nỗi sợ hãi của mình.

Thực chất những con bò vàng hay các ngẫu tượng chỉ làm cho con người như thoã mãn nhu cầu hiện tại, còn sâu thẳm tâm hồn vẫn mất bình an và đầy lo âu thất vọng.

Hài Nhi sinh ra trong Đêm Cực Thánh chính là Ánh Sáng, là Lửa Trời mà các ngôn sứ đã tiên đoán trong Isa 60:1, “Giêrusalem! Hãy đứng lên! Hãy bừng sáng, bởi ánh sáng của ngươi đã xuất hiện. Vinh quang của Thiên Chúa [giờ đây] như bình minh chiếu tỏa rạng ngời trên ngươi”.

Ánh sáng nơi máng cỏ Belem như đang mời gọi chúng ta hãy từ bỏ bóng tối mà bước ra ánh sáng. Hãy mạnh dạn đến triều bái Người, vì chỉ có nơi Người mới có nguồn ơn cứu độ. Đừng tôn thờ những thần tượng là con người dễ dẫn dắt chúng ta đi vào bóng tối của tội lỗi, của thù hận và ghen tương. Hãy bái quỳ trước một mình Thiên Chúa mà thôi.

Ánh sáng nơi máng cỏ Belem đã mang lại niềm vui cho ba nhà đạo sỹ từ Phương Đông để họ can đảm bước theo ánh sáng để đến bái thờ hài nhi Giê-sthờ Phúc âm nói rằng khi gặp được hài nhi Giê-su thì họ đã đi đường khác mà về. Nghĩa là họ không còn đi con đường cũ đầy hiểm nguy và bóng tối của thù hận đe doạ. Họ đi đường mới, đường tình yêu ngập tràn ánh sáng và hy vọng.

Mừng lễ Chúa hiển linh chúng ta hãy xin ánh sáng của Ngôi Lời hằng hữu tiếp tục  soi đường dẫn lối chúng ta đi trên con đường hành hương về lại với chính mình, với tha nhân, và với Chúa.  Amen

Về mục lục

.

TƯ VẤN

Lm Vũđình Tường

Ba đạo sĩ Phương Đông đi tìm kiếm ấu Chúa; khi tìm gặp ba vị quì xuống bái lậy và dâng lễ vật. Tự nguyện quì gối trước người khác là dấu chỉ lòng thành, yêu mến. Ba đạo sĩ không phải chỉ quì gối trước ấu Chúa, nơi máng cỏ, mà còn tỏ lòng thành tâm yêu mến hết sức chân tình. Đó là dấu chỉ việc thờ lậy Đấng Cứu Thế. Ba vị đạo sĩ ra đi, tìm kiếm và trên đường đi, trước khi gặp Đấng Cứu Thế, các vị gặp nhiều trắc trở.

Việc ba vị đạo sĩ ra đi nhắc nhở chúng ta biết đời người là một chuyến đi, một hành trình. Mục đích cuộc đời Kitô hữu thật rõ ràng: Mến Chúa, yêu tha nhân. Điểm đến của Kitô hữu cũng mạch lạc: cuối đời được đón vào nhà Chúa. Con đường dẫn, đạt đến cùng đích, Thiên Chúa không áp đặt, nhưng để cho mỗi cá nhân tự do chọn lựa, và quyết định cuộc sống dương gian. Cuối đời người đó chịu trách nhiệm, trả lời trước Thiên Chúa, cho việc tự do chọn lựa lối sống riêng mình. Chọn lối sống tốt, yêu tha nhân, dẫn đến thành quả tốt, được Chúa yêu thương, đón nhận. Chọn sống bê tha, sa đoạ, thiếu yêu thương sẽ không được đón nhận bằng yêu thương. Bởi cuộc sống là một hành trình và hành trình nào cũng có cuối đường. Ba vị đạo sĩ chọn hành trình dẫn đến ánh sáng Thiên Chúa; trong khi Herod chọn sống theo í riêng dẫn đến con đường cụt, con đường tuyệt vọng. Ông ta cố vùng vẫy bằng cách giết chết trẻ em trong xứ, gây tang thương, sầu thảm, đau khổ cho chính ông và cho con dân nước ông. Hành trình nào cũng có những bất trắc, trở ngại, khó khăn và người chọn đi con đường đó phải có những quyết định khôn ngoan, dứt khoát. Chọn lối sống khôn ngoan sẽ tìm gặp bình an trong tâm hồn; chọn lối sống theo í riêng sẽ dẫn đến tai kiếp, người đời này nguyền rủa, gây tủi hổ cho con cháu, gia tộc và đời sau đau khổ triền miên.

Nhũng ai chọn theo ánh sáng chân lí của Thiên Chúa, sẽ được Thánh Thần Chúa soi sáng, hướng dẫn. Họ sẽ an vui trong cuộc sống, hưởng bình an Chúa ban cho tâm hồn, lòng họ thanh thản, đời họ vui tươi. Bước đi trong ánh sáng chân lí vẫn không tránh khỏi đau khổ, cám dỗ trần thế, cộng thêm tham vọng, dục vọng của kiếp người. Ba vị đạo sĩ khi đến vùng Judea, hỏi í kiến người trần thế, tìm gặp Herod. Chính lúc đó các ông lạc đường, ánh sao chỉ đường biến mất. Nhận biết các ông tìm hỏi lầm người, hỏi vào nhóm người sống trong tăm tối. Các ông dứt khoát bước ra ánh sáng và ánh sao soi đường xuất hiện. Khi vua Herod nghe tin vị vương quân vừa sinh ra trong vùng đất ông cai trị, thay vì vui mừng, đón tin vui; ông bối rối, lo lắng cho an toàn ngai vàng của mình. Để bảo vệ ngai vàng, ông ra lệnh quân lính giết chết hết trẻ trai trong vùng. The ông đó là khôn ngoan, giết lầm vẫn tốt hơn tha lầm. Với mọi người đó là mù quáng, bởi ông sống trong u mê, tối tăm, kiêu ngạo, nên không phân biệt được phải, trái. Hành động sát hại trẻ thơ dẫn ông lún sâu vào vùng tăm tối. Ba vị đạo sĩ, trái lại, sẵn sàng từ bỏ vùng tối tăm, bước ra ánh sáng. Ánh sao dẫn đường xuất hiện dẫn các vị đến vua ánh sáng và lòng các vị dạt dào niềm vui.

Xã hội hiện nay tâng bốc, ca tụng cái đẹp bề ngoài, sắc đẹp thân xác được ca tụng, bốc thơm. Vì thế nên cuộc sống có thi đua, cạnh tranh làm đẹp dẫn đến lơ là vẻ đẹp tâm hồn. Thiếu vẻ đẹp tâm hồn là thiếu chiều sâu trong cuộc sống. Thiếu chiều sâu trong cuộc sống, cuộc đời rất dễ bị ngã gục, khi phải trực tiếp đối diện với thánh đố trong cuộc sống. Đức Kitô xuống trần gian kêu gọi con người dành nhiều thời giờ tô điểm cuộc sống nội, tâm, làm tăng vẻ đẹp trong tâm hồn. Con đường dẫn đến hang Belem là con đường đơn sơ nhưng không nhơ nhuốc, nghèo mà không hèn, khiêm nhường, không nhút nhát, nơi hoang vắng nhưng đầy tình thương, tình người, là con đường dẫn đến bến bờ yêu thương. Những ai thành tâm đón nhận bước theo con đường khiêm nhường, đơn sơ đó sẽ tìm gặp Đức Chúa. Trái nghịch con đường đó là con đường Herod chọn bước theo và ông đã đi đến diệt vong. Đường lối Chúa khác đường lối tha nhân. Thiên Chúa tỏ mình ra trong cuộc sống đơn sơ, khiêm nhường, tràn ngập yêu thương. Sức mạnh của Chúa không thể hiện nơi quyền quí, cao sang nhưng khiêm hạ, đơn sơ, bình dân.

Về mục lục

.

LÊN ĐƯỜNG TÌM CHÚA

Bông hồng nhỏ

Đã bao giờ ta ao ước lên đường tìm Chúa chưa? Hôm nay theo chân các nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, ta được chứng kiến bao điều bất ngờ khiến ta phải suy nghĩ.

Theo dấu một ngôi sao, các nhà chiêm tinh lên đường đi tìm kiếm Đức Vua dân Dothái. Chắc chắn, hành trình mà các nhà chiêm tinh đã trải qua không thiếu những gian nan thử thách. Điều gì đã thôi thúc họ lên đường tìm kiếm? Đối với họ, ngôi sao báo hiệu những biến cố lớn lao. Họ đã lên đường với lòng say mê và hăm hở. Họ đã đến Giêrusalem, điều họ đang tìm kiếm khiến cho vua Hêrôđê bối rối và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao (x. Mt 2, 1-2). Dường như chẳng ai mong chờ Đấng Kitô? Có lúc, ta thấy mình cũng giống như các kinh sư và thượng tế, khi được hỏi về Đấng Kitô, ta có thể trả lời ngay, trả lời một cách chính xác. Câu trả lời của ta có lẽ đã chỉ dừng lại trên những hiểu biết của ta. Thiên Chúa không muốn ta chỉ hiểu biết Ngài trên sách vở. Ngài đã đến làm người, đã nói ngôn ngữ của con người để giúp ta có thể hiểu Chúa, Ngài đã mang lấy trái tim của một con người để ta cũng biết dùng con tim để yêu mến Chúa. Tìm Chúa không chỉ dừng lại trên sách vở, lên đường tìm kiếm Chúa trong tâm trí và lên đường tìm Chúa nơi chính trong tâm hồn ta là việc ta cần thực hiện mỗi ngày. Đó là khi ta hăng say yêu mến Lời Chúa, sẵn sàng để Lời Chúa làm cho nội tâm ta được chuyển động, biết dành một cõi rất riêng tư để ở lại bên Chúa, để nghe Chúa nói với ta. Thiên Chúa vẫn nói với ta qua muôn nghìn cách khác nhau. Nơi những điều tầm thường bé nhỏ, Ngài đã nói với ta một cách thân tình khi dạy ta biết dừng lại để chiêm ngắm một bài học yêu thương lớn lao. Chẳng phải khi người chị em pha cho ta một ly nước mát đang khi ta đổ mồ hôi vì làm việc mệt nhọc, Chúa bày tỏ cho ta một tình yêu rất cụ thể và mời gọi ta cũng hãy bắt đầu đến với Chúa bằng những quan tâm nho nhỏ dành cho người khác như thế.

Những nhà chiêm tinh được gặp Hài Nhi Giêsu, điều đó nói lên điều gì? Thiên Chúa đã muốn đến và cùng tất cả mọi người và mỗi người. Ta có tìm gặp được Chúa nơi những người ta gặp gỡ không? Những thực hành đạo đức có giúp ta gia tăng lòng yêu mến Chúa và giúp ta đến gần với anh chị em của ta không? Tình yêu loại trừ sợ hãi. Hãy để tình yêu Chúa hướng dẫn và giúp ta vượt qua tất cả những khó khăn vượt quá sức ta. Hãy bền tâm và phó thác trong tình yêu của Chúa. Lên đường gặp Chúa đòi hỏi ta phải luôn luôn biết tìm kiếm, biết quan tâm và quan sát để nhận ra những dấu chỉ về sự hiện diện của Chúa. Lên đường tìm Chúa là bắt đầu bằng những bước chân đầu tiên và mỗi ngày lại bắt đầu. Ta hãy tìm gặp Chúa nơi những người anh chị em đang sống với ta, trong những giây phút trầm mình trong thinh lặng và cầu nguyện, nơi những biến cố lớn nhỏ mỗi ngày. Mỗi ngày ta hãy tự hỏi mình rằng: “Thiên Chúa đã hiện diện như thế nào trong ngày sống của ta, nơi chính tâm hồn ta?”.

Lạy Chúa Giêsu! Các nhà chiêm tinh đã được hạnh phúc gặp Chúa mà thờ lạy. Xin giúp con biết không ngừng tìm gặp Chúa nơi những người anh chị em và trong tất cả cuộc sống của con. Xin Chúa dạy con biết tôn trọng cách thức người khác đến tìm gặp Chúa và cách Chúa đến với họ. Xin cho con nhận ra Chúa đang ở nơi tâm hồn con và nơi những người bên cạnh con. Amen.

Về mục lục

.

CON ĐƯỜNG GẶP CHÚA

Anna Cỏ May

Mục đích cuối cùng của đời người là gì? Đối với người Kitô hữu, mục đích cuối cùng là được gặp Chúa Giêsu và thờ lạy Ngài, hưởng hạnh phúc đời đời với Ngài. Mỗi một người trong hoàn cảnh riêng đều được Thiên Chúa mặc khải và mời gọi họ đến với Ngài bằng những con đường khác nhau.

Con Thiên Chúa đã trở nên một trẻ nhỏ yếu đuối. Ngài mặc lấy xác phàm để sống với con người và để giải thoát con người khỏi tội lỗi. Ngài mời gọi con người đến gặp gỡ Ngài trong hoàn cảnh hiện tại của mình. Các nhà đạo sĩ nhờ ngôi sao sáng mà đi tìm Chúa. Các Thượng tế và các Kinh sư được mặc khải bằng sự hiểu biết qua Kinh Thánh. Còn vua Hêrôđê, ông được mặc khải qua chứng tá của những người tìm đến với ông. Tất cả đều tìm gặp Chúa nhưng mỗi người có những thái độ và mục đích tìm kiếm khác nhau. Các đạo sĩ hăm hở đi tìm Chúa mà không quản ngại đường dài và khó khăn. Nhóm Kinh sư và Thượng tế được biết Đấng chăn dắt Itraen sẽ  sinh ra ở Bêlem miền Giuđê nhưng lòng khô khan hững hờ, chỉ giẫm chân tại chỗ. Vua Hêrôđê lo sợ mất vương quyền nên tìm cách để biết nơi vua dân Dothái sinh ra để tiêu diệt. Như vậy, chỉ có các đạo sĩ đi đến cùng con đường gặp Chúa, một con đường không hề dễ dàng (x. Mt 2, 1-12). Chặng đường ấy luôn đòi hỏi họ phải kiên vững trong niềm tin. Thiên Chúa không dành riêng ân sủng của Ngài cho một nhóm người. Ngài kêu gọi tất cả mọi người đến với Ngài và cho mọi người tự do quyết định đi trên con đường riêng của đời mình để đến với Ngài. Chỉ có những ai thành tâm thiện chí, đầy lòng tin, sự nhiệt thành và sẵn sàng từ bỏ danh vọng của trần gian mới có thể tới đích.

Trong cuộc sống hôm nay, có rất nhiều con đường: con đường dẫn tới yêu thương, con đường dẫn tới danh vọng, con đường dẫn tới hận thù… Mỗi người chúng ta phải chọn lựa cho mình một con đường. Bạn sẽ chọn con đường nào? Con đường nào cũng đầy chông gai và thử thách, và đích đến luôn ở cuối con đường. Hãy kiên trì như các đạo sĩ, bạn sẽ đến đích mà mình đang bước tới.

Lạy Chúa! Xin cho chúng con biết đi tìm Chúa và ra khỏi nơi an toàn tự nhiên, sự ham muốn ích kỷ của mình để gặp Chúa và tôn thờ Ngài, vì Chúa là Đấng cứu độ duy nhất đời con. Amen.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA – MỘT HUYỀN NHIỆM

Lm. Jb Nguyễn Minh Hùng

Khi dạy giáo lý cho người lớn, nhất là các đôi bạn chuẩn bị bước vào đời sống hôn nhân, tôi hay đặt câu hỏi:
– Yêu nhau lắm, phải không? Yêu đến mức lỡ ngày nào không gặp nhau, ta nhớ nhau như có ai xé lòng mình, đúng không?
– Yêu nhau lắm, tưởng như người này hòa trộn trong người kia, nhưng người kia nghĩ gì, bạn có biết không?

Mỗi người là một huyền nhiệm. Huyền nhiệm này lớn cho đến mức, dẫu là tình yêu lứa đôi, một thứ tình yêu tưởng như nên một trong nhau, vậy mà hai người vẫn cứ là hai thế giới xa nhau diệu vợi.

Đó mới thật là bí ẩn, là sự độc đáo của công trình tạo dựng. Đó mới thật là huyền nhiệm: không ai có thể lồng trong ai. Không bao giờ người này lại có thể hòa trộn trong người kia. Dù chúng ta đang yêu nhau đắm đuối, dù có khi được gọi là “nên một”, cũng không bao giờ lại có thể có bất cứ ai ở trong nhau đúng nghĩa.

Mỗi người là một huyền nhiệm. Huyền nhiệm này lớn cho đến mức, dẫu là tình yêu lứa đôi, một thứ tình yêu tưởng như nên một trong nhau, vậy mà hai người vẫn cứ là hai thế giới xa nhau diệu vợi.

Con người đối với nhau đã là huyền nhiệm, thì càng không lạ gì khi Thiên Chúa luôn luôn là huyền nhiệm của con người. Đó là chân lý. Đó là điều hiển nhiên.

Lễ Hiển Linh tức là lễ Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại. Đại diện cho dân ngoại là ba nhà đạo sĩ phương Đông. Ba ông nhận ra ánh sao trên bầu trời và vội vã lên đường đi tìm Con Thiên Chúa vừa giáng sinh.

Gọi là Thiên Chúa tỏ mình, nhưng sự tỏ mình qua một ánh sao vẫn cho thấy Thiên Chúa là một huyền nhiệm lớn lao vô cùng.

Dẫu ngôi sao trên bầu trời có lạ thường đến đâu, có sáng chói đến mức độ nào, thì sự tỏ mình ấy vẫn mù mờ, vẫn xa xăm đối với nhận thức của con người.

Bởi đó, chỉ có ai thao thức tìm kiếm Thiên Chúa, chỉ có ai trung thành sống đức tin mới có thể nhận ra Thiên Chúa đang tỏ mình với cuộc đời nói chung và cuộc đời của chính mình nói riêng.

Thiên Chúa đã tỏ mình, nhưng tự bản chất, Người là một huyền nhiệm. Để nhận ra sự tỏ mình của Thiên Chúa, mãi mãi vẫn cần một điều kiện. Điều kiện đó là lòng thao thức tìm kiếm Thiên Chúa và sống đức tin trung thành.

Có như thế, ta mới có thể nhận ra Thiên Chúa hiện diện trong cuộc đời ta dẫu là sướng vui hay hạnh phúc.

Nói đơn giản: Thiên Chúa vẫn đang hiện diện và luôn luôn tỏ mình, chỉ cần bạn thao thức tìm kiếm Người và trung thành sống đức tin, bạn sẽ nhận ra Người.

Ba nhà đạo sĩ đã lên đường tìm kiếm và đã tin. Bạn cũng sẽ nhận ra Thiên Chúa tỏ mình bằng đời sống đức tin, bằng sự cầu nguyện, bằng tình yêu mà bạn hiến dâng cho Người.

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG CHO MUÔN DÂN

Lm Giuse Đinh lp Lim

A. DẪN NHẬP.

          Hôm nay là ngày lễ Hiển Linh. Ngày xưa chúng ta quen gọi là lễ Ba Vua vì chúng ta chú trong vào việc các đạo sĩ đại diện cho dân ngọai đi tìm Chúa, còn lễ Hiển Linh nhằm nói lên việc Chúa tỏ mình ra cho dân ngọai. Như vậy, lễ Hiển Linh hôm nay được gọi là Lễ Giáng Sinh của dân ngọai. Các bài đọc đều nói lên tư tưởng chung : Đức Giêsu là ánh sáng soi cho muôn dân. Tiên tri Isaia tiên báo Giêrusalem sẽ được tỏa sáng, các dân sẽ lần bước tìm về sự sáng ấy (Bài đọc 1). Thánh Phaolô khuyên các tín hữu hãy trở nên những vì sao trên vòm trời qua đời sống gương mẫu của mình (Bài đọc 2). Thánh Matthêu diễn tả Đức Giêsu là ánh sáng soi cho muôn dân, không trừ ai, kể cả dân ngọai, mà đại diệân của họ là các đạo sĩ (Bài Tin mừng).

          Theo bài Tin mừng hôm nay, các đạo sĩ bên phương Đông nhờ ánh sao chỉ đường đã đến Belem triều bái Chúa Hài Nhi. Công việc đi tìm kiếm không phải là dễ dàng, các vị đã gặp nhiều gian nan thử thách trên đường, nhất là khi ngôi sao vụt tắt lúc các vị tới Giêrusalem. Qua cuộc dò hỏi tìm kiếm, các vị lại được ngôi sao tái xuất hiện dẫn đường tới Belem và gặp Chúa Hài Nhi ở đó. Họ đã phủ phục thờ lậy Đấng Cứùu Thế và dâng cho Ngài ba thứ lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Thiên Chúa đã tỏ lòng ưu ái với dân ngọai, đã tỏ mình ra cho họ. Còn chính những người dân Chúa lại không được trông thấy, họ không thấy không phải vì Chúa kỳ thị họ, không muốn tỏ mình ra nhưng là vì họ không muốn thấy, lại còn chống đối nữa.

          Chúng ta cũng là dân ngọai được Chúa tỏ mình ra cho chúng ta được biết. Chúng ta phải cảm tạ Chúa vì hồng ân này. Đồng thời chúng ta cũng có bổn phận phải làm cho người khác biết Chúa qua cuộc sống gương mẫu của chúng ta. Hãy thực hiện lời thánh Phaolô nhắn nhủ tín hữu Philipphê :”Aùnh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”. Những vì sao của chúng ta tuy phát ra ánh sáng yếu ớt, nhưng với ơn hỗ trợ của Chúa, chúng sẽ có sức tỏa sáng mạnh mẽ trước mặt người đời.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          + Bài đọc 1 : Is 60,1-6.

          Mặc dầu phải sống cơ cực trong cảnh lưu đầy, bị kẻ thù áp bức, tương lai đen tối mù mịt, niềm hy vọng được giải thóat mờ nhạt dần, tiên tri Isaia lại có một giấc mộng rất lạc quan, theo đó, dân Chúa sẽ được trở về quê hương trong tiếng ca vui, mọi người nô nức góp sức trùng tu lại đền thờ Giêrusalem. Lúc đó đền thờ sẽ được rạng rỡ, sẽ trở thành ánh sáng thu hút muôn dân vì được hào quang của Thiên Chúa chiếu tỏa trên đó, và mọi người sẽ qui tụ về thành ánh sáng ấy  cùng với vàng bạc, đá qúi, đồng thời loan truyền lời ca tụng Thiên Chúa.

          Trong thực tế, dân Chúa đã được giải thóat, trở về quê hương, xây dựng lại đền thờ, nhưng giấc mơ của tiên tri Isaia  chỉ được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu, là ánh sáng của trần gian. Giấc mở của tiên tri Isaia còn hướng về thời cánh chung, khi mọi sự được hòan tất. Và như thế, tác giả sách Khải huyền có lý khi mượn lại những lời tiên tri hôm nay để nói về Giêrusalem trên trời (Kh 21,9-27).

          + Bài đọc 2 : Ep 3,2-3a. 5-6.

          Dân Do thái luôn hãnh diện là dân riêng của Thiên Chúa, dân riêng của Lời hứa. Họ tin rằng ơn cứu thóat chỉ được dành riêng cho họ, còn dân ngọai thì bị đẩy ra ngòai. Nhưng thánh Phaolô, cũng là người Do thái, không nghĩ như vậy ! Theo ngài, Thiên Chúa đã mạc khải cho ngài biết : ý định của Thiên Chúa là muốn cứu độ mọi người, không dành riêng cho ai. Ngày nay Thiên Chúa đã dùng Thần Khí  mà mạc khải cho các thánh Tông đồ và các tiên tri mầu nhiệm Đức Kitô, đó là : trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin mừng , các dân ngọai được cùng thừa kế gia nghiệp với người Do thái, cùng làm thành một thân thể và cùng chia sẻ điều Thiên Chúa hứa.

          + Bài Tin mừng : Mt 2,1-12.

          Các đạo sĩ phương Đông, là những nhà chiêm tinh, thấy một ngôi sao lạ xuất hiện và với sự soi sáng của ơn trên, các vị biết có Đấng Cứu  Thế đã ra đời và các vị đã lên đường triều bái Chúa Hài Nhi.

          Có người cho rằng đây không phải là ngôi sao lạ mà chỉ là ngôi sao chổi  tình cờ xuất hiện và có sự trùng hợp thôi. Nhưng nếu không lạ thì làm sao, trước khi Thiên Chúa Giáng sinh, tiên tri Mikêa đã viết trong Cựu ước :”Hỡi Belem Eprata, ngươi nhỏ nhất trong Giuđa, song từ nơi ngươi sẽ sinh ra Đấng cai trị trong Israel”(Mk 5,1). Các thầy tư tế được vua Hêrôđê triệu tập đến sau khi các đạo sĩ tới cũng xác nhận như thế (Mt 2,4-6) mà các đạo sĩ đã thấy NGÔI SAO “của Chúa bên phương Đông, nên đến thờ lậy”(Mt 2,2).

          Nếu tiên tri Mikêa không được Thiên Chúa mạc khải, làm sao ông biết và nói trước đúng thời gian và địa điểm ?

          Nếu đó chỉ là ngôi sao chổi tự nhiên thì tại sao nó lại hướng dẫn được các đạo sĩ từ phương Đông xa xăm đến tận nước Do thái ? Tại sao khi nó hướng dẫn các đạo sĩ tới Belem thì nó lại “biến” mất ? Tại sao nói lại tái xuất hiện và đi trước mặt cho đến ngay chỗ con trẻ sinh ra mới dừng lại ? Nếu là sự trùng hợp thì tại sao sự trùng hợp ấy lại được các đạo sĩ phương Đông biết trước mà đi tìm Chúa Cứu Thế ? Vì vậy, phải gọi là “ánh sao lạ Belem”.

          Trên đường đi tìm Chúa Hài Nhi, các đạo sĩ cũng gặp thử thách, nhưng kiên trì tìm hiểu và Chúa đã cho các vị được tọai nguyện.

C.THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

            Ánh sáng soi cho muôn dân.

I. CHUNG QUANH NGÀY LỄ HIỂN LINH. 

  1. Tên ngày lễ.

          Ngày xưa ta gọi lễ này là “Lễ Ba Vua” vì dựa vào việc 3 nhà bác học từ phương Đông đến triều bái Chúa Hài Nhi với ba thứ lễ vật là vàng, nhũ  hương và mộc dược, qua ba lễ vật này người ta cho rằng những vị này là thuộc hòang tộc và gọi họ là Vua. Gọi là Ba Vua vì chú trọng đến việc các vị đi tìm Chúa Hài Nhi, còn ngày nay chúng ta gọi là lễ “Hiển Linh” (Epiphania) vì chú trọng vào việc Thiên Chúa tỏ mình ra . Như vậy, Hiển Linh là việc Thiên Chúa biểu lộ mình ra cho dân ngọai, cho thế giới ngòai Do thái giáo.

          Vì lễ Hiển Linh mừng kính việc Đức Giêsu tự tỏ mình cho thế giới dân ngọai, nên một số quốc gia mừng lễ này còn trọng thể hơn lễ Giáng Sinh. Thực thế, lễ Hiển linh là lễ Giáng sinh dành cho dân ngọai.

  1. Các đạo sĩ

          Đọc Tin mừng Thánh lễ hôm nay, chúng ta không thấy nói về vị vua nào cả, cũng không phải ba vua, mà chỉ thấy nói về các đạo sĩ (Magi) hay các nhà chiêm tinh.  Ngày xưa ở Trung đông, nhất là tại Ba tư, các vị chiêm tinh, hoặc các đạo sĩ, là những người trí thức, thường làm cố vấn cho các vua và chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn. Vào thế kỷ thứ 4 và 5, truyền thống dân gian Tây phương tưởng tượng ra các nhà chiêm tinh là những vị vua. Đến thế kỷ thứ 7, tục truyền lại còn đặït tên cho họ là Melchior, Gaspard và Balthazar. Rồi đến thế kỷ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng cho tòan nhân lọai, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.

          Các nhà chiêm tinh tin rằng mỗi ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được thần hóa. Do đó, khi khám phá ra một vì sao lạ, và khi đối chiếu với lời tiên báo trong sách Dân số :”Một vì sao xuất hiện từ nhà Gia-cóp, một vương trượng (vua) trổi dậy từ Israel”(Ds 24,17), các ông tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, bất chấp đường xa và nguy hiểm để thờ lạy Người.

          Con số các đạo sĩ (chiêm tinh) là bao nhiêu chúng ta không biết rõ. Do chi tiết ba thứ lễ vật ở câu Mt 2,11 mà từ xưa truyền thống vẫn cho là có 3 vị đạo sĩ; thực ra gốc từ không xác định như thế, mà chỉ ở số nhiều (có thể hơn 3 mà cũng có thể dưới 3). Căn cứ vào câu 1 và 2 các nhà chú giải cho rằng các vị này xét về tinh thần thì là những con người có tâm hồn khát khao tìm kiếm chân lý (Đấng Cứu Tinh) nhưng các vị cũng là các nhà chiêm tinh nhìn các vì sao mà biết có vua mới ra đời.

  1. Lễ vật dâng Chúa Hài Nhi

          Thánh Matthêu viết :”Khi bước vào nhà và nhìn thấy Hài nhi cùng Đức Maria Mẹ Ngài, họ liền quì gối xuống tôn thờ Hài Nhi đọan mang các tặng vật ra gồm vàng, nhũ hương và mộc dược dâng lên Ngài”(Mt 2,11).

          Ông Seneca ngày xưa cho biết rằng chẳng ai được vào chầu vua  mà không có lễ vật. Các đạo sĩ cũng theo tập tục ấy, các vị đã dâng ba thứ lễ vật cao qúi xứng đáng với các vị vua và nó cũng có ý nghĩa tượng trưng đối với chúng ta ngày nay. Các vị đã dâng cho Chúa Hài Nhi :

a) Vàng.

          Vàng là vua của mọi kim lọai xứng hợp với lễ vật con người dâng cho vua. Cũng vậy, Đức Giêsu là người “sinh ra để làm vua”, nhưng Ngài không cai trị bằng vũ lực nhưng bằng tình yêu, và Ngài cai quản lòng người  không từ ngai vàng mà từ thập giá. Về vương quyền của Đức Giêsu, thánh Phaolô có viết trong thư gửi cho tín hữu Ephêsô :”Chúa Cha đã phục sinh Đức Kitô từ cõi chết và đặït Đức Kitô bên hữu Ngài trên thiên quốc. Đức Kitô cai trị trên vạn vật… Thiên Chúa đã đặt mọi sự dưới chân Đức Kitô” (Ep 1,20-22).

b) Nhũ hương.

          Người xưa thường dùng nhũ hương trong việc thờ phụng. Hương và khói bay lên trời biểu tượng những lời ca tụng và cầu nguyện dâng lên các thần linh. Các Kitô hữu cắt nghĩa  tặng vật nhũ hương tượng trưng cho thiên tính của Đức Giêsu. Khi nói về thiên tính Đức Giêsu, trong thư gửi cho tín hữu Do thái, thánh Phaolô đã diễn tả như sau :”Chúa Giêsu phản chiếu sự chói lọi vinh quang của Thiên Chúa và là hình bóng bản thể của Thiên Chúa; Ngài lấy lời quyền phép của mình để nâng đỡ vạn vật”(Dt 1,3).

c) Mộc dược

          Mộc dược là hương liệu để xông hay ướp xác người chết trước khi an táng. Vì chết là thân phận của con người, nên các Kitô hữu thường cắt nghĩa mộc dược được tượng trưng cho nhân tính của Đức Giêsu. Khi bàn về nhân tính của Đức Giêsu trong thư gửi cho tín hữu Philipphê thánh Phaolô nói :”Chúa Giêsu dù luôn mang bản tính Thiên Chúa, nhưng Ngài đã trở nên… như mọi người… Ngài hạ mình vâng phục đến nỗi chịu chết và chết trên thập giá” (Pl 2,6-8). 

II. HIỂN LINH VÀ ÁNH SÁNG. 

  1. Đức Giêsu là ánh sáng trần gian.

          Trong bài khởi đầu sách Tin mừng thứ tư, thánh Gioan đã giới thiệu Đức Giêsu là sự sáng :”Ở nơi Người vẫn có sự sống và sự sống là sự sáng của nhân lọai, sự sáng chiếu soi trong u tối và u tối đã không tiếp nhận sự sáng”(Ga 1,4). Và sau này, chính Đức Giêsu cũng xác định điều đó về Ngài :”Ta là sự sáng thế gian”(Ga 9,5).

          Đức Giêsu là Anh sáng, ánh sáng huy hòang hơn cả mặt trời. Nếu mặt trời không phải là của riêng ai, thì Đức Giêsu cũng là của mọi người, mọi dân tộc. Ngài mang ơn cứu độ đến cho muôn dân. “Không ai thắp đèn rồi để dưới đáy thùng, nhưng đặt trên giá để soi cho mọi người”.

         Bởi thế, ngay sau khi giáng sinh, tỏ mình ra cho những kẻ chăn chiên nghèo hèn, Đức Giêsu cũng sớm tỏ mình ra cho các đạo sĩ đại diện cho lương dân.

          Đức Giêsu là Ánh sáng chiếu soi cho thế gian đang sống trong u tối, nếu không có ánh sáng, nhân lọai sẽ không biết đường đi. Cho nên, cần phải có sự hiện diện của Ngài ờ trần gian để trần gian biết đường đi và khỏi bị vấp ngã.

Truyện : Có cần Đức Giêsu không ?

          Trong ấn bản trên mạng của tuần báo Newsweek vào ngày 5 tháng 12 năm 2004, sau một cuộc thăm dò các độc giả về niềm tin vào Đức Giêsu. Khi được hỏi là liệu thế giới ngày nay sẽ trở nên tốt lành hay xấu hơn nếu như không hề có Đức Giêsu, thì

          – 61% trả lời rằng : thế giới hôm nay sẽ xấu xa và tan tác hơn  nếu như không có Đức Giêsu.

        – 47% nói rằng : sẽ có nhiều cuộc chiến tương tàn hơn nếu như Đức Giêsu  không tồn tại nơi thế giới này (16% thì nói ngược lại, và 26 % thì cho rằng thế giới cũng giống như vậy nếu có hay không có Đức Giêsu).

          – 63 % nói rằng sẽ có ít lòng nhân ái hơn.

          – 58 % thì cho rằng sẽ có ít lòng khoan dung hơn nếu không có Đức Giêsu.

          – 59 % thì cho biết  hạnh phúc cá nhân sẽ bị mất đi.

         – 38 % tin rằng sẽ có nhiều sự chia rẽ về tôn giáo nếu như thế giới này không có Đức Giêsu (Công giáo và dân tộc, số 1487-1488, th. 12/2004, tr 53).

  1. Chúng ta là ánh sáng thế gian

          Những người theo Chúa thì được Chúa soi sáng cho, nên cũng phải là ánh sáng mặc dù chỉ là ánh sáng phản chiếu :”Chính các con là ánh sáng cho trần gian”(Mt 5,14). Và nếu đã là ánh sáng thì phải chiếu tỏa ra như Chúa dạy :”Một thành xây trên núi không tài nào che giấu được. Cũng chẳng có ai thắp đèn lên rồi lấy thùng úp lại, nhưng đặt trên đế, và nó soi sáng cho mọi người ở trong nhà. Cũng vậy, ánh sáng của các con phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy những công việc tốt đẹp các con làm, mà tôn vinh Cha các con, Đấng ngự trên trời”(Mt 5,15-16).

          Vì Chúa tỏ mình ra cho muôn dân, cho nên lương dân có quyền được biết Chúa, và những người đã biết Chúa có bổn phận giúp cho lương dân nhận biết Chúa.

          Lời Chúa trong Thánh lễ hôm nay dùng một hình ảnh vừa rất đẹp vừa rất hay để dạy chúng ta  cách giúp cho người khác biết Chúa, đó lá “Anh Sáng” :

          – Hãy đưa cao Tin mừng như người ta nâng cao đuốc sáng  để soi chiếu mọi vùng tối tăm.

          – Cách sống của những người đã biết Chúa phải là một ngọn đèn sáng  gương mẫu cho những người chung quanh.  Đức Giêsu nói :”Sự sáng của các con cũng hãy tỏa sáng trước mặt mọi người”.  Còn thánh Phaolô thì nói :”Anh em hãy chiếu sáng  như những vì sao trên bầu trời”. Tuy ánh sáng của ngọn đèn chúng ta chỉ leo lét, yếu ớt, nhưng cũng làm nên một đóm sáng trong đêm tối được.

                 Truyện : Ngọn hải đăng.

          Vào một đêm mưa bão, ngọn hải đăng bị mất điện tắt ngấm. Người phụ trách hải đăng vội vã đốt một cây nến nhỏ và cầm cây nến theo đường cầu thang leo lên sân thượng để đốt đèn lên. Bấy giờ cây nến mới lên tiếng  hỏi người phụ trách rằng :

          – Ông đem tôi đi đâu vậy ?

          Ông trả lời :

          – Ta mang nhà ngươi lên sân thượng  để chiếu sáng giúp tầu bè  từ ngòai khơi biết đường trở về và cập bến an tòan.

          Cây nến lại nói :

–        – Nhưng tôi chỉ là cây nến nhỏ bé thế này thì tầu bè ở tận ngòai khơi làm sao nhìn thấy ánh sáng của tôi được ?

          Người phụ trách trả lời :

          – Bây giờ ta chỉ cần nhà ngươi đừng bị gió thổi tắt là được. Còn các chuyện khác thì đã có ta lo liệu.

          Khi cả hai leo lên đến nơi, thì người phụ trách đã dùng cây nến châm lửa và trong giây lát  ánh sáng từ cây đèn lồng rực lên chiếu tỏa ra chung quanh. Chiếc đèn lồng này đã được thiết kế để khi cần có thể xử dụng thay bóng đèn điện. Aùnh sáng của nó  có sức chiếu ra tận ngòai khơi, hầu giúp tầu bè dễ dàng định hướng  để quay về cập bến an tòan.

          Mỗi người chúng ta cũng là một cây nến nhỏ trong bàn tay Thiên Chúa quan phòng. Bổn phận của chúng ta  là phải làm hết khả năng Chúa ban và phó thác kết quả cho Thiên Chúa định liệu. Về vấn đề này thánh Phaolô cũng đã dạy :”Tôi trồng, Apôlô tưới, nhưng Thiên Chúa mới là Đấng làm cho cây mọc lên”. Ngòai ra, người ta cũng thường nói :”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”, hãy làm việc hết sức mình trước đã, rồi Chúa sẽ thêm sức cho sau. Trong mọi hòan cảnh, chúng ta cần thực hành câu châm ngôn sau :”Thà thắp sáng lên một ngọn đèn, còn hơn ngồi đó mà nguyền rủa bóng tối”.

III. HIỂN LINH VÀ NGÔI SAO. 

  1. Ngôi sao dẫn đường

          Các đạo sĩ Đông phương  đã đi tìm kiếm Đức Giêsu vì “Chúng tôi đã xem thấy ngôi sao của Ngài”, nhưng ngôi sao của Ngài là ngôi sao nào ?  Có những người đã tìm hết cách để giải thích theo hiện tượng tự nhiên. Thực thì Chúa có thể dùng  các hiện tượng tự nhiên vào các mục đích của Ngài. Song theo lối diễn tả của thánh sử thì khó có thể giải thích theo các hiện tượng tự nhiên được. Sao xuất hiện, dẫn đường, rồi biến đi, rồi lại hiện ra đến chỗ Hài Nhi ở thì dừng lại ở trên… Những hiện tượng tự nhiên mà làm việc đó thì cũng là quá sức tự nhiên vậy !

          Chúng ta không biết ngôi sao nào đã dẫn đường các đạo sĩ, nhưng chắc chắn có một ngôi sao kèm với sự soi sáng và thúc đẩy các vị đi tìm Chúa Hài Nhi. Sự soi sáng của Chúa mới là chính yếu, còn ngôi sao chỉ là phụ thuộc để theo đó mà thi hành thánh ý Chúa. Phải biết nhìn trời mà nhận ra ý Chúa : các đạo sĩ đã biết nhìn lên bầu trời mà nhận ra ngôi sao lạ. Từ ngôi sao đó, các đạo sĩ đã nhận ra vị Cứu Thế. Đời người Công giáo cũng phải có lối sống đó :”Nhìn  điềm thời đại” đểû đón nhận ra ý Chúa (x.Mt 16,14). Vậy tất cả những việc xẩy ra trong đời ta, dù lớn nhỏ, đều là ngôi sao điềm trời, cho nhận ra Thiên Chúa, ý Ngài.

  1. Đức Giêsu là ngôi sao Hy vọng.

          Tiên tri Isaia đã nói :”Dân đang lần bước giữa tối tăm đã nhìn thấy ánh sáng huy hòang; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”(Is 9,1).

           Anh sáng bừng lên chiếu rọi, chính là Đức Giêsu Kitô, Ngôi Sao Hy vọng của muôn dân.  Kể từ khi nguyên tổ phạm tội, ánh hào quang của địa đàng vụt tắt, nhân lọai mò mẫm trong bóng đêm tội lỗi, mỏi mòn chờ mong ánh sáng cứu độ chiếu rọi nhân gian. Nếu Chúa là Ngôi Sao Hy Vọng, đã không hề để ai phải thất vọng khi cậy trông nơi Ngài, thì chúng ta cũng đừng bao giờ để nỗi thất vọng nào chạm được đến chúng ta.

          Bất kỳ ai cũng được hưởng ơn cứu độ. Dân ngọai cũng được vào Nước Trời. Ngày xưa, những người theo đạo Do thái quan niệm chỉ có những người theo đạo Do thái, nghĩa là có chịu phép cắt bì mới được cứùu rỗi. Sách Công vụ tông đồ cho thấy quan niệm ấy của họ :”Có những người từ miền Giuđê đến dạy anh em rằng :”Nếu anh em không chịu phép cắt bì theo luật Maisen, thì anh em không thể được ơn cứu độ”(Cv 15,1). Ngày nay, nhiều người Kitô hữu cũng có quan niệm tương tự như thế. Nhưng tinh thần của bài Tin mừng hôm nay mạc khải một sự thật hòan tòan ngược với lại quan niệm ấy.

           Đọc bài Tin mừng hôm nay, ta thấy những người Do thái – mặc dù đã biết Đấng Cứùu Thế sinh tại đâu –  lại không thèm tìm kiếm Đức Giêsu mới sinh ra. Những người tìm kiếm Ngài và đã thấy Ngài, thờ lạy Ngài và dâng lễ vật cho Ngài  lại là dân ngọai từ tận đâu đâu đến.  Kinh Thánh còn cho ta biết người Do thái chẳng những không tìm kiếm Đức Giêsu, mà còn bách hại Ngài nữa. Vì thế, Nước Trời vốn ưu tiên cho người Do thái, nhưng vì họ từ chối  bằng thái độ lãnh đạm, thậm chí chống đối, nên đã được đem đến cho dân ngọai.

  1. Hãy theo ánh sao chỉ đường

          Các đạo sĩ khát khao được triều bái Chúa Hài Nhi, họ thành tâm đi tìm Chúa chứ không lừa đảo như Hêrôđê.  Theo phong tục Á đông, họ đến để thờ lạy Đấng Cứu Thế mới sinh. Kính bái và thờ lạy thường được dành cho người mà ta coi là vĩ đại, cao trọng và quyền thế. Ta biết vua chúa thì thường sinh ra nơi cung điện huy hòang. Ở đây Chúa Cứu Thế chọn sinh ra nơi hang bò lừa, có thể là hôi hám, chứ không đẹp như ta thấy trang hòang trong các nhà thờ mùa Giáng sinh. Vậy thì làm sao  các đạo sĩ có thể quì xuống thờ lạy một hài nhi mới sinh nơi hang bò lừa ? Đâu là cái dấu hiệu để các vị nhận ra Hài nhi mới sinh trong hang bò lừa là Đấng Cúu thế ?  Theo Thánh Kinh thì cái dấu hiệu là ngôi sao lạ chỉ đường. Việc Đấng Cứu Thế giáng sinh tại Belem đã được tiên tri Mikêa loan báo cả ngàn năm trước. Vậy làm sao khi Đấng Cứu thế sinh ra , mà dân được chọn không nhận ra ? Lý do là vì  họ mong đợi Đấng Cứu thế đến trong uy quyền vinh quang, nên khi Ngài chọn sinh ra trong hang bò lừa, họ không nhận ra Ngài.

           Theo gương các đạo sĩ, chúng ta cũng phải lên đường đi tìm Chúa. Thật vậy, trong cuộc sống, nếu chúng ta thành tâm thiện chí thì chúng ta sẽ tìm được ngôi sao dẫn chúng ta đến với Đức Giêsu. Tất cả những việc chung quanh ta cũng như trong tòan thế giới cũng là những ngôi sao nhắc nhở về Chúa, những biến cố xẩy ra hằng ngày cũng mang một sứ điệp nào đó của Thiên Chúa.  Hãy chú ý lắng nghe, cởi mở tâm hồn và đón nhận tất cả những gì Thiên Chúa muốn nói với chúng ta.

  1. Mỗi người cũng phải là một vì sao

          Thánh Gioan tông đồ nói :”Nhờ Ngôi Lời, vạn vật được tạo thành, và không có Người, thì chẳng có gì được tạo thành. Điều đã được tạo thành ở nơi Người là sự sống, và sự sống là ánh sáng cho nhân lọai. Aùnh sáng chiếu soi trong bóng tối nhưng bóng tối không chấp nhận ánh sáng”(Ga 1,4-5). Nếu thế gian không chấp nhận Đức Giêsu là ánh sáng thì thế gian vẫn ở trong bóng tối ! Chúng ta phải làm sao  cho thế gian chấp nhận được Đức Giêsu thì chúng ta phải soi sáng cho họ. Vì thế trong thư gửi cho tín hữu Philipphê, thánh Phaolô đã khuyện :”Anh em hãy chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời”(Pl 2,15).

            Tại sao các Kitô hữu được gọi là các vì sao ? Thánh Phaolô giải thích :”Thiên Chúa chưa ai thấy bao giờ. Nếu chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở lại trong chúng ta”(1Ga 4,12). Nói cách khác, Thiên Chúa của chúng ta  là một vị “Thiên Chúa ẩn mình”, nhưng Ngài muốn tỏ mình ra cho người ta thấy qua cách sống yêu thương của chúng ta. Nói cách khác nữa, khi chúng ta yêu thương nhau thì Thiên Chúa ở trong chúng ta , bởi vì “Thiên Chúa là tình yêu”(1Ga 4,18). Cho nên cách sống yêu thương của chúng ta làm cho người ta nhìn thấy và nhận biết được Thiên Chúa tình yêu. Chính vì thế mà thánh Phaolô đã so sánh thế gian như vòm trời tăm tối, và khuyến khích các Kitô hữu hãy sống yêu thương để có thể thành những vì sao chiếu sáng trên vòm trời ấy (Lm Carôlô).

          Trong đời sống xã hội hôm nay, có rất nhiều ngôi sao trên bầu trời nghệ thuật, đủ mọi lãnh vực, ví dụ ngôi sao nhạc Rock, ngôi sao điện ảnh, ngôi sao bóng đá…thôi thì lọan cào cào với các vì sao ! Có những người chưa xứng đáng là “sao” mà cũng tự nhận mình là sao, thậm chí có những người vênh váo tự phong mình là “siêu sao” !

          Trong phạm vi tôn giáo, ta thấy có những Kitô hữu âm thầm sống bác ái yêu thương, chiếu tỏa nhân đức cho những người chung quanh, nhưng chỉ dám nhận mình là tôi tớ vô dụng (x. Lc 17,10). Thời nay, chân phước Têrêsa Calcutta với tấm lòng yêu thương bao la cũng là một vì sao chiếu sáng trên vòm trời của thế kỷ hai mươi.

          Là Kitô hữu, chúng ta phải là những vì sao lấp lánh trên vòm trời. Chúng ta có thể trở thành ngôi SAO MAI chăng ? Sao mai chính là Kim tinh ở cách xa mặt trời 108 triệu cây số. Kim tinh tương đối gần mặt trời (nó xoay quanh mặt trời trong vòng 224,7 ngày), vì thế nó sáng hơn. Ta thấy nó mọc trước khi mặt trời mọc và lặn sau khi mặt trời lặn. Người xưa đã có thời lầm, cho đó là hai ngôi sao khác biệt : sao mai và sao hôm.

          Anh sáng của SAO MAI (Kim tinh) thật là rực rỡ, làm cho người ta liên tưởng đến những gì đẹp đẽ mỹ miều nhất :”Đẹp như ánh Sao mai”. Đó là câu chúng ta vẫn thường nói. Và đặc biệt, Kim tinh, Ngôi Sao Mai đã được dùng để chỉ Đức Trinh Nữ Maria : Stella matutina (Đức Bà như ngôi sao mai sáng vậy). Nhiều bài ca kính Đức Mẹ đã tung hô Ngài bằng danh từ ấy : Bà là ai như hào quang Thiên Chúa, như mùa xuân không úa, như vì SAO MAI rạng, như chính cửûa thiên đàng.

           Sang thế kỷ 21 này, Thiên Chúa vẫn còn muốn Hiển Linh nghĩa là muốn tỏ mình ra cho nhân lọai ở thế kỷ này. Chúa vẫn còn cần có những ngôi sao lạ chiếu sáng trên vòm trời của thế hệ này. Những ngôi sao lạ ấy là chính chúng ta.

Về mục lục

.

CÚI MÌNH XUỐNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Hành hương Đất Thánh, khi đến Bêlem thăm Vương cung Thánh đường Giáng sinh, ai cũng trầm trồ và ngạc nhiên.

Thánh đường nguy nga đồ sộ nhưng cửa chính lại rất thấp và hẹp, chiều cao chừng 1mét, chiều rộng chừng 80 phân nên chỉ đủ chỗ cho một người “chui” vào. Có lẽ khi xây dựng, tác giả muốn nói đến ý nghĩa tâm linh. Muốn bước vào bên trong Thánh đường nơi Chúa Giáng Sinh, thì dù là ai đi nữa, thuộc màu da, chủng tộc, tôn giáo nào, dù là đấng bậc nào trong xã hội, tất cả đều phải cúi mình xuống thấp mà đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường, cúi mình để thờ lạy Thiên Chúa.

Thiên Chúa làm người, làm một Hài Nhi nằm trong máng cỏ.Thiên Chúa hạ mình và Ngài thật gần gũi con người.

Lễ Giáng Sinh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân Do-thái.Từ nay, con người có thể gặp Thiên Chúa không chỉ trong đền thờ Giêrusalem mà còn nơi máng cỏ nghèo hèn. Từ nay gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ dành riêng cho tư tế mà còn cho những người bình thường như các mục đồng.

Lễ Hiển Linh, Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.Gặp gỡ Thiên Chúa không dành riêng cho dân tuyển chọn nhưng còn cho các đạo sĩ, những người từ phương Đông, những người không thuộc dân riêng của Thiên Chúa.

Như vậy, lễ Hiển linh là lễ Giáng sinh trọn vẹn, Thiên Chúa đến với con người, đến với tất cả mọi người.

Gaspar, Melchior và Balthasar là ba nhà Đạo Sĩ nổi tiếng ở Đông Phương được mệnh danh là con của các vì sao sáng, huyền phái của khoa học vũ trụ. Họ đã theo ngôi sao lạ đến Bê-lem, xứ Giu-đê để thờ lạy Đấng Cứu Thế. Họ đã dâng cho Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược.

“Thấy” và “đến” là hai động từ diễn tả cuộc hành trình của ba nhà Đạo Sĩ. “Thấy ngôi sao”, hành vi không chỉ đơn thuần là những xung động của giác quan mà còn bao hàm cả một quá trình suy tư, phân định để đi tới nhận thức: đây chính là “ngôi sao của Ngài”. Lời trần tình của các nhà đạo sĩ “chúng tôi thấy” và “chúng tôi đến”- nghe thật giản đơn và dễ dàng; thế nhưng, trong thực tế, họ đã phải trải qua biết bao gian nan, nguy hiểm, có lúc đã tưởng chừng như tuyệt vọng, mới có thể “đến để thờ lạy” Vị Vua mới sinh này.

Chúng ta cùng dừng lại nơi Hang đá Bê-lem có Hài Nhi Giêsu để suy niệm về sự lạ lùng của cuộc gặp gỡ kỳ diệu giữa các Mục Đồng, các Đạo Sĩ với Đấng Cứu Thế. Chỉ có các Mục Đồng, các Đạo Sĩ tìm gặp được Chúa. Có các Thiên thần, có một ngôi sao rực rỡ trong ánh sáng thần linh chiếu sáng cho họ. Đức Cha Fulton Sheen, nhà giảng thuyết lừng danh đã gọi họ những người đơn sơ và những người thông thái.

Khi các Mục Đồng canh giữ chiên ở ngọn đồi Bê-lem, họ bỡ ngỡ vì vẻ đẹp của Thiên Thần: Anh em đừng sợ. Này tôi báo cho anh em một tin mừng trọng đại, cũng là tin mừng cho toàn dân: Hôm nay, một Đấng cứu độ đã sinh ra cho anh em trong thành của vua Đa-vít, Người là Đấng Kitô Đức Chúa (Lc 2, 10-12). Còn các Đạo Sĩ ở bên kia xứ Ma-đi-an và Ba-tư nghiên cứu bầu trời đã thấy một ngôi sao chiếu sáng như chiếc đèn của nhà tạm vũ trụ, điện thờ của Thiên Chúa. Họ theo ánh sao tìm đến Hang đá tìm gặp Hài Nhi.

Như những cánh bướm bị thu hút bởi ngọn lửa, các Mục Đồng và các Đạo Sĩ tiến đến ngai vàng chỉ là một Hang đá, đến với Thiên Chúa chỉ là một Hài Nhi. Thiên Chúa Hài Nhi ngước nhìn từ Máng cỏ chỉ thấy hai hạng người tìm gặp Ngài và chỉ duy họ tìm gặp Ngài cho đến tận cùng thời gian. Đó là các Mục Đồng và các Đạo Sĩ, những người đơn sơ và những người thông thái.

Các Mục Đồng là những người đơn sơ. Họ chẳng biết gì tới chính trị, văn chương, nghệ thuật. Họ chỉ biết hai điều quan trong là Thiên Chúa ở trên họ và họ ở giữa đoàn chiên. Đêm hôm đó bầu trời rộng mở để loan báo Tin mừng. Thiên Thần cho biết Đấng họ nóng lòng chờ đợi vừa sinh ra trong Hang đá Bê-lem nhỏ bé. Họ đã tìm và gặp Đấng Chăn Chiên của họ.

Các Đạo Sĩ tìm gặp Đấng Cứu Thế là những người thông thái. Họ không là những vua chúa. Họ không phải là những người nghiên cứu nông cạn mà là những bậc thầy hoàng vương, những nhà tinh thông về vũ trụ và họ đã khám phá ra một ngôi sao lạ. Đối với khoa học và tôn giáo họ được liệt vào hàng đầu trong nước của họ. Các vua chúa bàn hỏi với họ trước khi xuất chinh. Các nông dân hỏi ý kiến họ trước khi trồng tỉa. Hàng ngàn người đã thấy ngôi sao, nhưng sự uyên bác của ba Đạo Sĩ làm cho họ lên đường khám phá.

Chính nhà bác học Newton đã thốt lên khi quan sát vũ trụ: Tôi thấy Thiên Chúa đi qua kính viễn vọng của tôi. Đối với kẻ kiêu ngạo, tự phụ, ngôi sao chỉ là ngôi sao, nhưng đối với người thông thái đó là một dấu chỉ thời đại, một tác phẩm của Thiên Chúa. Thế nên các Đạo Sĩ đã đi theo ánh sáng ngôi sao với bao gian lao, đầy mạo hiểm. Đến nơi, mặc phẩm phục và quỳ trên nệm rơm, các Đạo Sĩ chiêm ngắm một trẻ sơ sinh chưa thể hỏi han hay đối đáp được điều gì. Họ tiến dâng Ngài tặng phẩm và tâm hồn để chứng tỏ sự thần phục của thế gian. Tặng phẩm là vàng, nhũ hương, mộc dược. Vàng, vì Hài Nhi sẽ là vua. Nhũ hương, vì Ngài sẽ là Tư Tế. Mộc dược, vì Ngài sẽ chết như mọi người. Các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Khôn Ngoan.

Chỉ có các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đã tìm gặp được Đấng Cứu Thế. Trong khi đó các người nổi nang trong đạo Do thái không gặp được Ngài. Bởi lẽ: “Các Luật sĩ chỉ thao thức về lề luật. Các Thượng tế chỉ nhạy bén về đền thờ. Các Kỳ lão chỉ lo lắng về truyền thống. Hêrôđê cũng là con người tìm tòi, ông đã cặn kẽ điều tra nơi Hài Nhi ở, không phải để đến thờ lạy mà tìm cách hủy diệt. Loại người nào cũng tự mãn trong những cơ chế phức tạp cứng nhắc” (Đức Cha Bùi Tuần).

Thời nay cũng thế, đầy dẫy những triết gia, những nhà khoa học, những người vô thần theo thuyết bất khả tri… nhưng không ai trong họ đã nhìn thấy một thiên thần hay ánh sáng một ngôi sao. Dòng dõi của những Hê-rô-đê kiêu ngạo cho tới thời nay đã không tìm thấy Thiên Chúa vì họ muốn dùng lý trí để nắm bắt siêu việt. Họ quá phức tạp nên không hiểu lời xác quyết đơn sơ của các Mục Đồng, quá đầy kiến thức khoa học để lãnh hội chân lý do các Đạo Sĩ đem đến. Dòng dõi này che đậy tính kiêu ngạo và đi tới chỗ coi Giáo Hội là một thể chế đã lỗi thời cần loại bỏ.

Điều kiện tiên quyết để gặp được Thiên Chúa, đó là lòng khiêm nhường, chung cho cả người đơn sơ lẫn người thông thái. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng mới gặp được Thiên Chúa bởi họ ý thức mình không biết gì cả. Những người thông thái đích thực như các Đạo Sĩ gặp được Thiên Chúa bởi vì họ ý thức mình không biết gì cả.

Chúa Giêsu không sinh ra ở giữa trời, nơi người ta có thể đứng thẳng. Ngài đã Giáng sinh trong Hang đá, nơi người ta phải cúi mình để đi vào. Đó là một cử chỉ khiêm nhường. Các Mục Đồng và các Đạo Sĩ đủ đơn sơ để nghiêng mình xuống. Khi làm như vậy, họ thấy mình ở trong Hang đá. Tại đó, một người nữ diễm lệ, đầu đội mặt trời, chân đạp mặt trăng và đôi tay ẵm lấy Hài Nhi, Đấng dùng những ngón tay bé nhỏ của mình nâng đỡ trái đất. Khi các Mục Đồng và các Đạo Sĩ quỳ gối, có lẽ các Đạo Sĩ ghen với các Mục Đồng vì con đường của các Mục Đồng ngắn hơn, họ tìm thấy sự khôn ngoan là chính Thiên Chúa mau hơn.

Các Thượng Tế, các Kinh Sư thông hiểu Thánh Kinh, họ cắt nghĩa cho Hê-rô-đê rất hay nhưng họ vẫn ngồi yên tại chỗ. Họ tìm Đấng Thiên Sai trong Thánh Kinh, nhưng không nhận ra Người trong thực tế vì Người không phù hợp với những quan điểm cố định của họ. Những tâm hồn đơn sơ như các Mục Đồng, những tâm hồn cởi mở khao khát chân lý như các Đạo Sĩ lại được hạnh phúc nhận biết Người.

Thiên Chúa vẫn tiếp tục tỏ mình cho thế giới qua các dấu chỉ tự nhiên của trời đất, của lịch sử, qua Thánh Kinh, qua Giáo Hội, qua các Bí Tích, qua cuộc sống hàng ngày. Để gặp Ngài, chúng ta cần có lòng khiêm nhường. Nhờ sự gặp gỡ này, mỗi người sẽ trở nên ánh sao dẫn lối cho nhiều người nhận biết và yêu mến Chúa.

Lễ Hiển linh cho thấy niềm vui lớn lao của Giáo Hội sơ khai khi thấy dân ngoại sẵn sàng đón nhận Tin Mừng qua ánh sao, qua lời rao giảng của các Tông đồ, của những người làm chứng. Lời nói của các vị đạo sĩ gợi lên cho chúng ta một trách nhiệm: “Chúng tôi đã nhận thấy ngôi sao của Người ở phương Đông và chúng tôi đến để triều bái Người“(Mt 2,2). Trách nhiệm ở đây chính là Kitô hữu có trở nên là ngôi sao sáng cho thế giới hôm nay chưa? Nếu xưa kia, Chúa dùng ngôi sao để dẫn đường cho những người thiện tâm biết đến thờ lạy Chúa thì ngày nay, không thiếu gì người đến được với Chúa là nhờ những ngôi sao sống động của các Kitô hữu. Đời sống, gương lành, nhân đức của các Kitô hữu làm cho họ trở nên những ngôi sao sáng. Ánh sáng đó tỏa ra qua những công việc hằng ngày, nhờ vậy người ta nhận biết Thiên Chúa hiện diện trong các Kitô hữu.

Ngôi sao chỉ chiếu sáng khi bản thân nó có ánh sáng. Người Kitô hữu cũng chỉ chiếu sáng khi chính cuộc sống của mình có ánh sáng, phản chiếu ánh sáng đón nhận từ ơn Chúa ban và từ việc thực hành Lời Chúa trong đời sống hàng ngày.

Về mục lục

.

LỄ VẬT DÂNG CHÚA

Lm Phạm Quốc Hưng

“Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng Maria mẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược”

Một trong những câu tiếng Anh mà tôi thích hơn cả là “You can give without loving, but you can”t love without giving”. Tạm dịch là “Bạn có thể cho mà không yêu, nhưng bạn không thể yêu mà không cho”.

Mùa Giáng sinh là mùa chúng ta thấy rõ sự thật chứa đựng trong câu nói trên. Thật vậy, trong những ngày này người ta thường quan tâm đến việc mua sắm quà cáp tặng nhau. Các món quà tặng nhau có thể khác biệt từ những thứ đơn sơ như một lá thư, một cánh thiệp, một cú điện thoại chúc lễ, một phong bì với mấy tờ giấy bạc, một chiếc áo ấm, một chiếc quần tay hay đến những thứ mắc tiền như chiếc nhẫn kim cương, hoặc một chiếc xe mới. Giá trị vật chất của các món quà có thể khác nhau, nhưng mục đích của chúng thì giống nhau: chúng bày tỏ sự lưu tâm thương mến quý trọng của người cho dành cho người nhận.

Nếu việc trao tặng không phát xuất từ tình thương mà chỉ cốt để thỏa mãn các đòi hỏi của sự công bình, để cầu cạnh trục lợi hay dụ dỗ, thì người ta không gọi tặng phẩm là quà tặng nữa, nhưng là tiền công, là của hối lộ hay miếng mồi đặt bẩy.

Tương quan giữa Thiên Chúa và con người là tương quan yêu thương. Hơn nữa, Thiên Chúa chính là Tình Thương. Mọi việc Người làm cho nhân loại đều phát xuất từ tình thương vô biên của Người dành cho họ. Vì vậy, mọi sự con người đón nhận từ Thiên Chúa đều là những quà tặng tình thương và nhằm mục đích giúp chúng ta bước sâu hơn vào liên hệ yêu thương với Người.

Trong tất cả những quà tặng Thiên Chúa trao ban cho con người, Chúa Giêsu chính là món quà vượt trên tất cả. Ngài chính là món quà tự thân của Thiên Chúa dành cho nhân loại, nghĩa là Thiên Chúa đã trao ban chính mình Người cho nhân loại nơi Chúa Giêsu, Thiên Chúa làm người, như thánh Gioan viết : “Quả Thiên Chúa đã yêu thương thế gian như thế (đó) đến đỗi thí ban Người Con Một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời” (Jn 3:16).

Đó chính là một trong những ý nghĩa sâu xa nhất của lễ Giáng sinh.

Tình thương chỉ có thể đáp trả bằng tình thương. Nếu trong lễ Giáng sinh, chúng ta đã có dịp chiêm ngắm tình thương tuyệt vời của Thiên Chúa dành cho loài người nơi Chúa Hài Đồng, thì hôm nay – lễ Hiển linh – chúng ta có dịp học hỏi với ba nhà Đạo sĩ mà ta thường gọi là ba Vua về sự đáp trả của con người trước quà tặng tự thân của Thiên Chúa nơi Chúa Giêsu và những lễ vật mà Thiên Chúa muốn đón nhận từ con người chúng ta.

Theo Tin mừng thánh Matthêô, lễ vật ba Đạo sĩ dâng lên Chúa là vàng, nhũ hương và mộc dược. Vàng là quý kim và là biểu tượng của hàng vương giả; nhũ hương là loại hương dùng trong việc thờ phượng Thiên Chúa và các bậc thần linh; và mộc dược là thước dùng trong việc tẩm liệm người chết.

Qua việc dâng tặng Chúa Hài Nhi vàng, nhũ hương và mộc dược, các Đạo sĩ đã thay mặt Hội thánh để tuyên xưng Chúa Giêsu là Vua vũ trụ và là Vua Tình yêu, Đấng đáng được muôn loài suy phục và đáng được ngự trị trong tâm hồn từng người; Ngài chính là Thiên Chúa Chí Tôn đáng được mọi người thờ lạy với tình yêu tuyệt đối; và Ngài đã vì yêu thương chúng ta nên đã mắc lấy bản tính và thân phận con người của ta, nên giống chúng ta mọi sự chỉ trừ tội lỗi, và tột đỉnh của tình yêu hiệp nhất Thiên Chúa dành cho chúng ta nơi Chúa Giêsu chính là việc Ngài đã chia sẻ sự chết của ta.

Vàng, nhủ hương và mộc dược ở đây cho ta thấy địa vị siêu việt của Chúa Giêsu. Đồng thời, những lễ vật này cũng nhắc chúng ta nhớ đến phẩm giá cao trọng tuyệt vời của ơn gọi làm người Kitô hữu. Vì khi chịu phép Thánh tẩy, chúng ta đã được tháp nhập vào Chúa Kitô, được trở nên chi thể của Thân thể nhiệm mầu của Chúa là Hội thánh. Chúng ta được Chúa Kitô cho chia sẻ chính địa vị vương đế, tư tế và ngôn sứ của Người. Thánh Phêrô đã gọi chúng ta là “dòng giống được lựa chọn, hàng tư tế hoàng vương nước thánh thiện, dân được chọn là sở hữu” của Chúa để ca ngợi vinh quang Chúa (1 Pet 2:9).

Qua việc mạc khải cho chúng ta biết những lễ vật ba Đạo sĩ – những người đại diện đầu tiên của Hội thánh – đã dâng tiến Chúa Hài đồng, Chúa muốn chúng ta cũng phải dâng tiến Chúa những lễ vật mà vàng, nhũ hương và mộc dược đã được chọn làm biểu tượng. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người vàng ròng là lòng mến yêu tuyệt đối dành cho Người qua việc sống trọn vẹn giới luật mến Chúa yêu người. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Người nhũ hương của một đời sống được thấm nhuần bầu khí nguyện cầu mà đỉnh cao là hy lễ Thánh thể, khi chúng ta được nên một với Chúa Giêsu để dâng lên Thiên Chúa một động tác yêu mến tôn thờ cao trọng nhất. Chúa muốn chúng ta dâng tiến Chúa mộc dược của một sự bỏ mình liên lỉ qua những hy sinh to nhỏ trong cuộc sống hàng ngày như một sự nối dài của cái chết hy sinh trên thập tự của Chúa Giêsu, để qua đó chúng ta được chia xẻ vinh quang phục sinh của Người.

Với tinh thần yêu thương hiệp nhất, cầu nguyện và hy sinh, cuộc sống của chúng ta sẽ trở nên giống cuộc sống của chính Chúa Kitô và làm thành một lễ vật sống động đẹp lòng Chúa. Đây chính là điều thánh Phaolô từng kêu gọi các tín hữu tiên khởi phải nỗ lực thực hiện : “Vậy hỡi anh em, nhân vì lòng thương xót của Thiên Chúa, tôi khuyên anh em: hãy hiến dâng thân mình anh em làm lễ tế sống, thánh thiện, đẹp lòng Thiên Chúa. Đó là sự thờ phượng thiêng liêng của anh em. Đừng rập theo đời này, trái lại hãy canh tân lương trí, mà biến hình đổi dạng, làm sao cho anh em thẩm định được ý định Thiên Chúa là gì, thật là tốt lành, thú vị, trọn hảo” (Rm 12:1-2).

Chúng ta còn phải học với ba Đạo sĩ cách thức dâng tiến lễ vật lên Chúa Giêsu. Tin mừng hôm nay thuật rằng “Và vào nhà, họ thấy Hài Nhi cùng MariaMẹ Ngài, và họ phục mình xuống yết bái Ngài; đoạn mở tráp báu họ dâng Ngài lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược” (Mt 2:11).

Khi ấy, Chúa Giêsu là một Hài Nhi mới sinh còn hoàn toàn tùy thuộc sự chăm sóc của Mẹ Maria. Chúa chưa thể tự mình đón nhận lễ của ba Đạo sĩ. Người muốn Mẹ Maria thay Người đón nhận lễ vật của các ông. Về phía ba Đạo sĩ, khi gặp Chúa Hài Nhi và phục bái Người thì các ông luôn gặp Chúa và phục bái Người bên cạnh Mẹ và có lẽ Chúa Hài Nhi đang ở trong vòng tay Mẹ. Chắc chắn lúc ấy các lễ vật của ba Đạo sĩ chỉ được Chúa đón nhận bằng một cách duy nhất : qua tay Mẹ Maria!

Đó là lý do tại sao các tín hữu đích thực của Chúa Kitô qua mọi thời đại luôn noi gương ba Đạo sĩ và làm theo ý Chúa khi biết nhờ Mẹ Maria để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và để tận hiến cho Chúa.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ day chúng con luôn biết sống đẹp lòng Chúa bằng tinh thần yêu thương bác ái, cầu nguyện và hy sinh, để xứng đáng với ơn gọi làm con Chúa, là Kitô hữu của mình. Xin Mẹ giúp chúng con luôn biết nhờ Mẹ để đến với Chúa, để yêu mến Chúa, và tận hiến cho Chúa, như gương ba Đạo sĩ năm xưa. Amen.

Về mục lục

.

KHÁT VỌNG TÌM CHÚA

Lm Nguyễn Chánh

1/ Nếu thử hỏi: Khát vọng sâu xa nhất của con người là gì?

Trước câu trả lời này ta thấy có những thái độ chọn lựa khác nhau: Sẽ có nhiều người nghĩ rằng tiền của, vật chất, địa vị, danh vọng, quyền lực, có khi ngay cả lạc thú, những thứ này sẽ là nguyên nhân khơi lên lòng ước muốn nơi họ. Từ xác tín mơ hồ đó, sẽ phát sinh những cách sống chỉ biết tôn thờ vật chất, tôn thờ quyền lực, cùng với những thứ giả dối khác…

Ngược lại, cùng một câu hỏi, nhưng ta lại thấy những tương phản với sự lựa chon theo chiều hướng duy vật trên. Đó là vẫn còn rất nhiều người xác tín rằng: Chúa chính là Đấng luôn đáp ứng cho những khát vọng sâu xa nhất trong cõi lòng con người. Đây chính là xác tín đúng nhất và sâu xa nhất.

Từ xác tín khiêm tốn trên, thực tế ta thấy rất nhiều tâm hồn trong cuộc sống họ không ngừng khao khát tìm gặp Chúa, cho dẫu họ phải hứng chịu nhiều thử thách cam go trong cuộc hành trình tìm Chúa.

Như vậy, cùng một câu hỏi, nhưng câu trả lời thì không giống nhau, luôn có sự tương phản với nhau. Bởi vì có những thái độ chon lựa khác nhau. Sự tương phản này chúng ta cũng tìm thấy nơi thái độ của các nhân vật trong trang Tin mừng hôm nay, khi Chúa sinh hạ tại Bêlem.

2/ Thái độ của Vua Hêrôđê, các Thượng tế, Luật sĩ và Dân chúng:

Đây là thái độ thờ ơ, không cần bận tâm trước một sự kiên vĩ đại là Vua Israel hạ sinh. Mặc dù Đấng Cứu Thế giáng sinh cách Giêrusalem không xa, hay sau khi đã tra cứu Kinh thánh và biết rằng tại Bêlem, miền đất Giuđa, Vị lãnh tụ của Israel ra đời. Đây là những yếu tố khách quan để Hêrôđê và mọi thành phần trong dân Israel nhận biết Chúa, tìm kiếm Chúa. Nhưng cũng vì quá mải mê với cách sống giàu sang, quá ham muốn với cuộc sống danh vọng và địa vị, nên những người này cảm thấy Đấng Cứu Thế cũng không cần thiết mấy so với những quyền hành và bổng lộc mà họ đang nắm trong tay. Vì thế họ cố tình không dò xét và tìm hiểu Mầu Nhiệm Giáng Sinh của Vua Israel là Đấng Kitô.

3/ Thái độ của các nhà chiêm tinh:

Đó là thái độ ngược hẳn với Vua Hêrôđê, các Thượng tế, Luật sĩ và dân Israel. Các nhà chiêm tinh luôn kháo khát Đấng Cứu Thế. Vì qua sự thiện chí nghiên cứu thời giờ, tín hiệu, nhất là qua ánh sao lạ, họ đã biết Đấng Cứu Chuộc muôn dân đã hạ sinh. Vì thế, họ quyết tâm lên đường tìm Chúa cho bằng được.

Tuy nhiên, trong chặng hành trình kiếm tìm Đấng Cứu Thế, các nhà chiêm tinh cũng đã gặp không ít những khó khăn. Khó khăn về thời gian, đi mà không biết đến lúc nào mới gặp được Chúa. Khó khăn về địa lý, bởi vì đường xá xa xôi hiểm trở. Khó khăn về những dự định cho công việc tại quê nhà. Khó khăn về sức khoẻ, thời tiết. Và khó khăn lớn nhất đối vời các nhà chiêm tinh là ngôi sao lạ dẫn đường biến mất trong chặng hành trình họ đang tìm Chúa.

Cho dù có đối diện với rất nhiều khó khăn, hay có phải rơi vào những hiểm trở chông gai. Các nhà chiêm tinh vẫn cương quyết đi tìm Chúa cho đến cùng. Vì lúc này đối với các ông Chúa chính là tất cả. Và nơi Ngài sẽ đáp ứng cho tất cả những khắc khoải của con người.

Và rồi “kiên nhẫn đã thắng mọi sự”. Các nhà chiêm tinh đã gặp được Chúa. Cử chỉ các ngài sụp xuống thờ lạy Chúa, dâng vàng, nhũ hương và mộc dược, tất cả đều thể hiện niềm xác tín: Chúa là tất cả. Chúa là Đấng duy nhất để con người theo đuổi. Chúa là đối tượng duy nhất để đem niềm vui cho con người. Chúa là đối tượng duy nhất để con người tôn thờ và kính bái. Đây chính là thái độ đức tin của các nhà chiêm tinh. Nhờ thái độ đức tin kỳ diệu ấy, chúng ta đã thấy có sự biến chuyển cách sống nơi họ.

4/ Sau khi đã gặp được Chúa và thờ lạy Chúa.

Các nhà chiêm tinh ra về mang theo tâm trạng của những con người đang dâng trào niềm vui mới và cách sống mới. Niềm vui mới đã đem đến cho họ một chon lựa mới. Đó là phải sống theo đường lối mà họ mới nhận ra nơi Chúa. Đường lối mới là họ phải xa tránh và không đi trên lối mòn của con đường cũ, nhưng phải bước đi trên những nẻo đường mới của con người mới. Đây là kết quả của những thiện chí, thể hiện qua sự hy sinh và khao khát kiếm tìm Chúa nơi các nhà chiêm tinh. Những thiên chí của các nhà chiêm tinh đã được Chúa bù đắp bằng sự biến đổi đột ngột nơi bản thân các ngài. Sự biến đổi bằng ơn thánh của Chúa đã đem đến cho các nhà chiêm tinh niềm hạnh phúc thật sự, cũng như những khát mong Thiên Chúa xuất phát từ cõi lòng khiêm tốn chân thành nơi các ngài, đã được lắp đầy bằng ơn thánh Chúa đã tặng ban. Chắc chắn từ giây phút bất ngờ sau khi đã được biến đổi, sẽ là mốc điểm để các nhà chiêm tinh khởi sự bằng đời sống mới liên tục trong Đấng Cứu Độ trần gian.

5/ Khi con người cứ mải mê kiếm tìm

Khi con người cứ mải mê kiếm tìm và sống trong sự hưởng thụ thoả mãn nơi vật chất, tiền của, địa vị, danh vọng, lạc thú. Chắc chắn lối sống ấy không bao giờ đem lại ích lợi gì cho con người. Đó là một cuộc sống vô nghĩa. Đôi khi nó sẽ hướng hành động của con người đi đến tính ích kỷ, bất công, tham lam, tham ô, gian dối… Vì con người có thể dùng mọi thủ đoạn để đạt tới cách sống giả dối, luôn lệ thuộc những thứ mau qua của trần gian.

Ngược lại, khi con người biết khiêm tốn kiếm tìm chính Chúa là nguồn hy vọng của con người. Chắc chắn cuộc kiếm tìm ấy sẽ mang đến cho con người một cuộc sống lý tưởng cao đẹp. Một cuộc sống đã được Chúa đổi mới bằng ơn thánh. Một cuộc đời luôn có ” Chúa là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống” hiện diện trong mỗi hoàn cảnh. Một cuộc sống mà Chúa sẽ hướng dẫn mỗi người phải hành động như thế nào cho phù hợp với ý Chúa. Đó là một cách sống luôn tôn trọng sự thật, luôn quý trọng công bình, luôn tôn trọng quyền lợi của cá nhân và tập thể, luôn biết xây đắp bình an và gieo rắc công bình cho mọi người và mọi nơi đang cần sự công bình.

Lạy Mẹ Maria! Xin Mẹ giúp chúng con luôn tin tưởng rằng, Đức Giêsu Kitô Con Mẹ, là Đấng luôn đem lại lý tưởng cao đẹp cho con người, luôn bù đắp cho những khát vọng sâu xa nhất trong cõi lòng con người. Xin Mẹ hướng dẫn đời sống chúng con, luôn là cuộc lên đường để tìm Chúa không ngừng. Nhờ vậy đời sống chúng con sẽ được biến đổi thật sự, khi đã gặp được Đức Kitô Đấng muôn dân mong đợi, như các nhà chiêm tinh trong bài Tin mừng hôm nay. Amen.

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG LỜI CHÚA

Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn

Vào lúc 1 giờ kém 12 phút sáng ngày 1/9/85, nhà hải dương học nổi tiếng Robert Ballard chợt phát hiện trên màn sóng vị trí của chiếc tàu Titanic bị chôn vùi dưới làn nước xanh thẳm của Bắc Đại Tây Dương cách đây ¾ thế kỷ.

Khi xác tàu được tìm thấy thì cũng là lúc tất cả những con số thống kê liên quan đến chiếc Titanic đã được đưa ra ánh sáng. Sau đây là một vài số liệu được ghi nhận:

– Chiều dài của chiếc tàu là 269 mét

– Chi phí cho việc đóng tàu là 178 triệu đô la (tính theo thời giá hiện nay)

– Thời gian sử dụng là 5 ngày

– Từ lúc đụng băng trôi cho đến khi chìm hoàn toàn là 2 giờ 40 phút

– Tổng số hành khách và thuỷ thủ là 2223; số người sống sót: 706

Vé hạng nhất là 705 đô la

Tuy nhiên, điểm đáng lưu ý là số ống nhòm dành cho hai người trực tại vọng gác là zêrô. Chính con số zêrô này mà người ta không thấy được xa, không phát hiện sớm được tảng băng trôi để rồi tai hoạ đã ập tới.

Cuộc đời con người như một chiếc tàu ngoài khơi, đang hướng đến bến bờ của bình an và hạnh phúc. Nếu không thấy xa phía đàng trước, nếu không có những phương tiện giúp định vị thì rồi những giòng xoáy, bão lốc, hay băng trôi sẽ nhận chìm nó. Cần thiết biết bao những chiếc ống nhòm. Cần biết bao một tia sáng soi chiếu để thấy được hướng đi, đích tới, và trở ngại phải vượt qua.

Vấn đề là trong đời sống tâm linh đâu là ánh sáng soi chiếu đường đi? Cái gì có tác dụng như những chiếc ống nhòm giúp ta thấy xa trên hải trình ngàn dặm đây?

Tôi chợt nhớ đến bài hát Alleluia của Cha Thành Tâm với lời nhạc “Alleluia, Lời Chúa dẫn soi con đường đi,” và trong bài Lắng Nghe Tiếng Chúa của Nguyễn Duy mà lời nhạc sau đây đã mang lại cho tôi một chìa khoá: “Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước…”

Thế ra trong cõi mù tối của tâm linh hay giữa sóng cả ba đào đang hoành hành dày xéo, Lời Chúa sẽ là phương thế dẫn đường soi lối giúp người ta đến với bến bờ. Đoạn Tin Mừng trong Chúa Nhật Lễ Hiển linh là một lời xác nhận cho chân lý đó.

Ba nhà đạo sĩ trong cuộc hành trình đi tìm ý nghĩa của cuộc đời, đương đầu với biết bao khó nhọc: băng qua đồi, leo qua núi, vượt qua cả vùng hoang dại của sa mạc Trung đông với khí hậu khắc nghiệt, ngày thì nóng cháy da, đêm lại lạnh thấu xương. Địa đã không lợi mà thiên cũng chẳng thời. Một ánh sáng sao dẫn lối thì nay lại biến mất. Lạc lối. Mù mờ. Không còn phương hướng. Chẳng biết mình phải đi về đâu.

Không thất vọng bỏ cuộc, các ông vẫn dò hỏi tìm tòi. Cuối cùng, may thay, người ta đã chỉ cho các ông nơi cần đến.

Điểm đáng chú ý là không phải những kinh sư, ký lục hay thượng tế đã trả lời cho sự tìm kiếm của ba nhà đạo sĩ, nhưng là Kinh Thánh. Chính Thánh Kinh đã chỉ cho giới lãnh đạo Do Thái, và qua họ, nói cho ba người từ phương đông biết chân lý và ý nghĩa cuộc đời nằm ở nơi đâu. Từ Kinh Thánh, các đạo sĩ biết được rằng “Nơi Bêlem, thuộc đất Giuđa sẽ xuất hiện vị cứu tinh, Đấng sẽ chăn dắt Israel.” Và họ đã tiếp tục lên đường, nhắm hướng Thánh kinh đã chỉ mà tiến bước, để rồi cuối cùng tìm ra lẽ sống, thấy được giá trị và ý nghĩa cuộc đời mình nơi một con người có tên Giêsu.

Đúng là “Lời Chúa sáng soi con đường đi,” “Lời Chúa đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.” Nhưng thử hỏi tôi đã biết lấy Lời Chúa làm kim chỉ nam cho đời mình chưa? Tôi có hay đọc Kinh Thánh để tìm hướng đi giữa những giong tố của cuộc sống? Nhưng, tôi đã có cuốn Kinh Thánh chưa đã chứ?

E rằng lắm khi bỏ ra năm chục, một trăm để mua đôi giày, chiếc áo sao dễ quá, nhưng để mua một cuốn Thánh Kinh hay những sách báo đạo đức giá 10 đồng sao không dễ chút nào. Nhiều lúc xem phim, nghe nhạc 2, 3 giờ liền mà chẳng thấy mệt mỏi gì, nhưng đọc các sách nhà đạo 5, 10 phút sao thấy ngại ngùng khó khăn quá.

Nếu ý thức và thái độ như thế, làm sao tâm hồn tôi có thể vượt qua được sóng ngàn, tránh khỏi các băng trôi để tiến đến bến bờ bình an được.

Không nhình vào Lời Chúa để rồi nhờ ánh sáng từ đó dẫn lối chắc chắn thuyền đời tôi sẽ lênh đênh bất định, nếu không muốn nói là dễ bị chìm đắm trước những phong ba của cuộc đời.

Nhưng nếu tôi quyết tâm từ nay sẽ lắng nghe tiếng Chúa hơn qua Thánh Kinh, sẽ tìm đọc lời Ngài qua các sách báo thiêng liêng đạo đức, và sẽ suy tư học hỏi ý Ngài qua mọi biến cố hằng ngày, thì chắc chắn tự đáy tâm hồn sẽ vang lên khúc hát hạnh phúc: “Lời Ngài là sức sống của con. Lời Ngài là ánh sáng đời con. Lời Ngài làm chứa chan hy vọng, là đường để con hằng dõi bước. Lời Ngài được chất ngất niềm vui, trọn vẹn ngàn tiếng hát đầy vơi. Lời Ngài đổi mới cho cuộc đời. Lời Ngài hạnh phúc cho trần ai.”

Về mục lục

.

NGÔI SAO ĐỨC TIN

Lm Giuse Vũ Thái Hòa

Khi đọc bài Tin mừng hôm nay theo thánh Matthêu về “lễ Ba Vua” (ba thánh sử khác không tường trình biến cố này), chúng ta không thấy nói về vị vua nào cả, cũng không phải ba vua, mà chỉ thấy nói về “các nhà chiêm tinh”! Ngày xưa ở Trung Đông, nhất là tại Ba-tư, các vị chiêm tinh, hoặc đạo sĩ, là những người trí thức, thường làm cố vấn cho các vua và chuyên nghiên cứu về khoa thiên văn. Vào thế kỷ thứ 4 và 5, truyền thống dân gian Tây phương tưởng tượng ra các nhà chiêm tinh là những vị vua. Đến thế kỷ thứ 7, tục truyền lại đặt tên cho họ: Melchior, Gaspard và Balthazar. Rồi đến thế kỷ thứ 15, để muốn nói rằng các vị chiêm tinh tượng trưng cho toàn nhân loại, dân gian còn xác định chủng tộc của họ: Melchior là người da trắng, Gaspard người da vàng, và Balthazar người da đen.

Các nhà chiêm tinh tin rằng mỗi ngôi sao là dấu hiệu của một vị thần hay dấu hiệu của một vị vua đã được thần hóa. Do đó, khi khám phá ra một vì sao lạ, và khi đối chiếu với lời tiên báo trong sách Dân Số: “Một vì sao xuất hiện từ Gia-cóp (nhà Đavít), một vương trượng (vua) trổi dậy từ Israel”(24:17), các ông tin rằng có một vị vua mới sinh ra ở đất Do thái. Họ lập tức khởi hành, bất chấp đường xa và nguy hiểm để đến thờ lạy người.

Khi đến Giê-ru-sa-lem là thủ đô Do-thái, các nhà chiêm tinh dò hỏi tông tích của tân vương. Nghe tin ấy, vua Hêrôđê bối rối, hỏi tất cả các thượng tế, các kinh sư trong dân, và được biết Đấng Kitô sinh ra ở Bêlem dựa theo lời tiên báo trong sách Mi-kha: “Phần ngươi, hỡi Bêlem, miền đất Giuđa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Israel dân Ta sẽ ra đời” (5:1). Hài Nhi mới sinh ra chính là vị Cứu Tinh (Mê-si-a) mà Israel đã mong chờ từ lâu.

Khi tìm được Vua Hài Nhi, họ sấp mình bái lạy Người và dâng tiến Người vàng, nhũ hương và mộc dược. Đó là ba lễ vật tượng trưng: vàng nói rằng Người là vua, vì vàng là kim loại quý dùng để dâng cho vua; nhũ hương nói rằng Người là Thiên Chúa vì người ta xông hương để tôn kính các thần thánh; mộc dược, hương liệu được dùng để liệm người chết, nói lên nhân tính của Người. Các Kitô hữu nhìn nhận nơi Chúa Giêsu Đấng Thiên Sai được mong đợi (vàng), Con Thiên Chúa (nhũ hương), Đấng hiến dâng mạng sống trên thập giá (mộc dược).

Các vị chiêm tinh này đại diện cho các dân ngoại đã nhìn nhận vương quyền của Hài Nhi ngay từ lúc Người mới chào đời. Họ cũng đại diện cho những người thành tâm thiện chí tìm kiếm chân lý, tìm kiếm Thiên Chúa. Với những bước dọ dẫm và với sự kiên trì, cuối cùng họ đã gặp được Thiên Chúa và dâng cho Người những thứ quý giá nhất.

Trong ngày lễ hôm nay, chúng ta hãy dùng ít phút để suy niệm về mầu nhiệm nhập thể, vược xa trí tưởng tượng của con người. “Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban Con Một, để ai tin vào Con của Người thì khỏi phải chết, nhưng được sống muôn đời” (Ga 3:16). Nhưng Con Thiên Chúa ở trong một máng cỏ nghèo nàn. Các nhà chiêm tinh nhận ra Người không phải qua bề ngoài nghèo hèn bằng con mắt nhân loại, nhưng bằng con mắt đức tin.

Cách đây hơn 2000 năm nay, Thiên Chúa tỏ mình cho muôn dân qua sự dẫn dắt của một ngôi sao lạ. Từ đó, Người muốn mỗi người chúng ta là ánh sáng chiếu tỏa cho mọi người chung quanh (“Các con là ánh sáng cho trần gian” -Mt 5:14) để dẩn dắt tha nhân đến với Thiên Chúa, như lời mời gọi của thánh Phaolô: “Anh em phải chiếu sáng như những vì sao trên vòm trời” (Pl 2:15)

Ước gì mỗi người chúng ta là một ngôi sao đức tin, được chiếu tỏa bởi tình thương và bác ái trong đời sống thường nhật của chúng ta.

Về mục lục

.

CUỘC HÀNH TRÌNH ĐỨC TIN

Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

TỪ MỘT VÌ SAO LẠ…

Có ba thái độ khác nhau khi con người phát hiện ra một vì sao lạ:

Thái độ Thành Tâm Thiện Chí của các nhà chiêm tinh. (thường gọi Ba Vua)

Khi phát hiện ra một vì sao lạ, các nhà chiêm tinh từ phương Đông đã đến Giêrusalem để tìm “Đức Vua dân Do Thái”.

“Vào thời đó mọi người đều tin vào khoa chiêm tinh. Họ tin rằng, dựa vào vì sao họ có thể tiên đoán tương lai. Họ cũng tin rằng số mệnh một người được an bài bởi ngôi sao đã xuất hiện lúc người ấy sinh ra. Điều này cũng dễ hiểu, vì các ngôi sao đi theo một đường cố định, chúng tượng trưng cho trật tự vũ trụ. Nếu thình lình có một vì sao sáng xuất hiện, nếu trật tự của từng trời bị dao động bởi một hiện tượng đặc biệt, thì dường như Thiên Chúa đang can thiệp vào chính trật tự của Ngài để loan báo một sự việc nào đó.” (William Barclay).

Lịch sử cho thấy, vào thời điểm Chúa Giêsu giáng sinh, trong thế giới lúc ấy cũng có sự chờ mong một vị vua sẽ đến. Như ở Roma, sử gia Suetonius đã viết: “Khắp phương Đông có một niềm tin là vào thời đó, nhất định có người từ Giuđa đến cai trị thế giới”, (Suetonius, Đời sống Vespasian 4,5). Sử gia Tacitus cũng đã viết: “Có một xác tín rằng trong chính thời gian này, phương Đông trở nên hùng mạnh và những người cai trị đến từ Giuđê sẽ chiếm được đế quốc toàn cầu” (Tacitus, Biên niên sử 5,13). Người Do Thái cũng tin: “Vào khoảng thời gian đó, một người trong xứ họ sẽ trở thành vua của mọi dân trên mặt đất” (Josephus, Những cuộc chiến tranh của người Do Thái 6,5)…

“Khi Chúa Giêsu đến thì thế gian đang thiết tha trông đợi. Loài người thật đang trông chờ Thiên Chúa. Sự khao khát nung nấu lòng người. Họ đã nhận biết mình không thể tạo được thời đại hoàng kim nếu không có Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã ngự đến với một thế gian đang khắc khoải đợi mong và khi Ngài đến, con người từ những phương trời xa xôi nhất đã tề tựu quanh nôi Ngài. Đó là dấu hiệu và biểu tượng đầu tiên Chúa Giêsu chinh phục thế giới.” (William Barclay).

“Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt.2,2).

Họ bái lạy với trọn vẹn lòng thành sau cuộc hành trình xa xôi vất vả. Niềm tin vào “Đức Vua dân Do Thái mới sinh ra” là hoàn toàn chân thật và họ đã dâng lên Hài Đồng Giêsu những lễ vật tượng trưng sự cao trọng và ý nghĩa nhất dành cho Đấng Cứu Thế.

“Vàng là để tặng vua, nhũ hương tặng thầy tế lễ, mộc dược dành cho Đấng phải chịu chết. Đấy là những lễ vật của các nhà chiêm tinh dâng ngay trước nôi của Chúa Giêsu. Những lễ vật đó có ý nghĩa Ngài là vua chân thật, thầy tế lễ trọn vẹn và sau hết, Ngài là Đấng Cứu Thế cao cả của loài người” (William Barclay).

Thái độ Ganh Ghét và Thù Địch của vua Hêrôđê.

“Con vua thì được làm vua. Con sãi ở Chùa thì quét lá đa”.

Vua nào cũng muốn bảo vệ ngai vàng của mình, và cho con cháu sau này. Nên khi nghe nói có một hài nhi sinh ra sẽ là vua thì tất nhiên vua nào cũng lo lắng. Nhưng, đối với con người của Hêrôdê, thì sự lo lắng càng dữ dội hơn nữa, vì cá tính đầy tham vọng của ông.

Lịch sử cho biết ông là một người đa nghi. Về điểm này, ông rất giống Tào Tháo. Sẵn sàng giết chết bất cứ ai mà ông nghi làm tổn hại đến quyền hành của ông. Ông đã giết vợ là Mariamne cùng mẹ nàng là Alexandra. Con cả là Antipater và hai con trai khác là Alexander, Aristobulus cũng bị ông sát hại. Hoàng đế Rôma là Augustus cay đắng nói rằng: “Làm con heo của Hêrôdê còn an toàn hơn làm con trai ông ta”.

Một con người đầy tham vọng như vậy làm sao có thể đón nhận được Thiên Chúa, Vua Tình Thương.

Vì thế, ông tìm cách loại trừ Hài Nhi Giêsu.

Thái độ Dửng Dưng như không hay biết gì của các thượng tế và kinh sư.

“Nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt. 2,4-6).

Các thượng tế và kinh sư quả thấm nhuần Kinh Thánh, nhưng rõ ràng thái độ của họ xem những gì nói đến trong Kinh Thánh như những chuyện huyền thoại xa xưa không dính líu gì với cuộc đời họ. Và rồi, có hay không có Giêsu cũng không thành vấn đề gì đối với họ.

Họ đang no đầy những lợi lộc và cả quyền lực. Họ không thể thay đổi con đường của họ đang đi. Họ bằng lòng với những gì đang có, cuộc sống của người khác mặc họ. Một Đấng Cứu Tinh không như ý họ thì cần gì phải quan tâm đến.

… ĐẾN VÌ SAO THÁNH GIÁ

Ở quê tôi, tôi quen biết một anh công giáo rất tốt. Anh thường xuyên đi lễ ngày thường, và giúp nhiều việc nhà thờ. Nhưng sau 1975, anh không đến nhà thờ nữa. Một ngày kia, sau khi nhận một chức vụ lớn ở xã, anh dẹp bàn thờ Chúa và Đức Mẹ mà anh đang để nơi trang trọng nhất giữa nhà. Bước vào nhà anh, không còn dấu vết gì là người Công Giáo. Sau ba bốn năm làm việc, rồi anh cũng đã quay về, dựng lại bàn thờ xưa. Đường công danh thấy cũng không đến đâu.

Ở quê tôi, có một anh cũng có một chức vụ quan trọng. Anh này không chỉ xoá dấu vết Công Giáo ở nhà, mà muốn khẳng định mình đã đoạn tuyệt với Đạo. Lúc ấy, tôi chưa biết anh, tôi nghe đồn là anh ta đã kích Đạo dữ lắm. Một hôm, tình cờ tôi đi dự tiệc giỗ cùng với một Cha và ngồi cùng bàn với anh ta, và được một người giới thiệu danh tánh và chức vụ của anh. Đang giữa tiệc, anh xé một miếng bánh mì và nói: “Này là mình ta…”, rồi anh cầm lấy ly rượu, nói tiếp: “Này là máu ta…”. Vị linh mục và tôi bước ra khỏi bàn …Sau này, anh mất chức. Nghe nói có một người có chức vụ lớn đã nói về anh ta: “Là một người Công Giáo được dạy dỗ từ nhỏ mà anh ta còn quay lại xúc phạm đến thế, thì có thể tin anh sẽ là người trung thành khi anh là một người mới gia nhập vào một tổ chức nào đó không?”.

Đã hơn hai ngàn năm qua, Thiên-Chúa-làm-người-và-ở-cùng-chúng-ta vẫn mời gọi con người đến với Ngài sau khi Ngài đi bước trước là “đã đến với nhân loại”. Tình yêu không thể đơn phương, tình yêu cần có sự đáp trả. Con người cần có thành tâm thiện chí để đến với Ngài.

Thành tâm thiện chí như các đạo sĩ phương đông. Không ngừng tìm hiểu dấu chỉ của Thiên Chúa (khám phá ra vì sao lạ). Hành trình Đức Tin (tìm đến với Thiên Chúa). Vượt qua mọi thử thách (khi vì sao lạ khuất bóng). Thờ lạy Chúa hết lòng (dâng lễ vật) và luôn biết khôn ngoan để bảo vệ niềm tin (đi con đường khác trở vể quê hương).

Xem đó, chúng ta thấy cần có một con tim yêu thương mãnh liệt để đáp lại tình yêu vô bờ bến mà Thiên Chúa đã dành cho con người.

Nếu không, tiền, tình, danh vọng; tham, sân, si, sẽ là những chướng ngại vật, những rào cản tách con người xa lìa Thiên Chúa, chống lại Thiên Chúa, hờ hững với Thiên Chúa.

Chúng ta có thể tìm thấy trong thế giới hôm nay hình ảnh những Hêrôđê, những thượng tế và biệt phái thời đại, và có khi, chúng ta cũng tìm thấy những hình ảnh ấy ở trong chính ta.

Tôi nhớ ngày xưa có lần tôi xem một câu truyện cổ tích.

Câu chuyện kể về một mối tình thật đẹp của một đôi nam nữ. Nhưng một bà phù thủy độc ác đã ganh tỵ muốn xé lẻ đôi uyên ương ấy, bà hô lên lời nguyền biến chàng trai thành một con dã nhân trông ghê rợn và chỉ trở lại kiếp người như xưa nếu có một ngày nào đó cô gái ấy dám nhìn thẳng vào đôi mắt của anh. Chính anh cũng không biết được chiếc chìa khóa ấy để giải lời nguyền của bà phú thủy độc ác. Nhận ra mình mang lốt loài thú hoang dã, không còn nói được tiếng người, anh đau buồn và âm thầm lánh xa cô gái. Cô gái không hay biết điều gì. Cô vô cùng đau khổ vì người yêu bổng dưng bỏ cô đi đâu biền biệt.

Một bà tiên hiền lành đã thương tình muốn cứu chàng trai và trả lại tình yêu trong sáng cho họ. Bà gặp cô gái và trao cho cô một “viên ngọc dẫn đường” để cô đi tìm người yêu. Cô đặt viên ngọc trước mặt, nó lăn đi qua muôn nẻo đường băng sông vượt núi. Cô gái đáng thương cứ bám theo viên ngọc. Có lúc cô gục ngã và đứng lên tiếp tục cuộc hành trình không có điểm hẹn, không có giới hạn thời gian. Có lúc tưởng như cô bỏ cuộc. Có lúc tưởng như cô không còn đủ sức đứng lên.

Cuối cùng, cô đến một bờ rừng. Cô gặp một dòng suối, cô cố gắng cúi xuống uống vài ngụm nước và mệt mỏi nằm bất động bên bờ suối. Tiếng muôn thú trong rừng về đêm nghe ghê rợn, nhưng cô gái tội nghiệp không hay biết gì. Cô đã chìm sâu trong giấc ngủ.

Cô tỉnh dậy, muôn tiếng chim đua hót líu lo hòa vang khúc nhạc ngày mới. Nắng ban mai xuyên qua cành lá như những sợi tơ vàng óng ánh quanh cô. Cô gái đẹp như tiên nữ dạo chơi trần thế, nhưng nỗi sầu trong lòng cô vẫn đang trĩu nặng. Viên ngọc dẫn đường nằm im lìm và cô không biết phải đi đâu nữa.

Chợt cô nghe tiếng vỡ gẫy của những nhành cây cỏ dại. Cô quay nhìn lại, phía sau cô, nép mình sau gốc cổ thụ, một bóng hình đen đúa như ma quái. Một con quái vật! Cô gái thét lên và bỏ chạy. Cô không còn sức nữa, cô ngã xuống và nằm im một lúc. Cô ngồi dậy, đứng lên định chạy nữa, rồi lại té xuống, cứ thế, đôi ba lần. Cô liết nhìn con quái vật, đầy sợ hãi. Con vật vẫn còn đó. Nó đứng im.

Cuối cùng, cô đứng dậy. Can đảm nhìn về con quái vật. Lúc này, cô thấy rõ đó là con dã nhân. Cô nhìn nó. Nó không có vẻ gì hung dữ. Nó không có vẻ gì đang muốn hãm hại cô.

Con dã nhân tiến lại gần cô. Những ngày tháng đi theo “viên ngọc dẫn đường”, cùng với những giây phút sự sợ hãi hôm nay đã làm cô kiệt sức. Cô đứng im lặng, thu hết can đảm để nhìn con dã nhân đang tiến lại mỗi lúc một gần cô hơn. Gần hơn… rất gần. Mắt cô nhìn thẳng và đôi mắt nó.

Trong khoảnh khắc tột cùng sợ hãi, cô ngỡ ngàng nhận ra một ánh mắt thật quen không thể nào hòa lẫn với ánh mắt nào khác. Cũng trong khoảnh khắc huyền diệu ấy, cô gái nhận ra người yêu cô đang đứng trước mặt.

Viên ngọc dẫn dường nằm ở đâu đó lóe sáng lên và biến mất.

Nếu Giáng Sinh đầu tiên có một vì sao lạ đã dẫn đưa ba nhà đạo sĩ tìm đến Hang Đá thờ lạy Đấng Cứu Thế, thì ngày nay, vì sao Thánh Giá dẫn đưa nhân loại về với Thiên Chúa để cùng chung tôn thờ Thiên Chúa và xây dựng một thế giới yêu thương huynh đệ.

Cuộc hành trình này còn đầy gian nan thử thách. Còn đòi hỏi nhiều hy sinh. Không có tình yêu thánh giá, con người không thể nào đi đến bến bờ đoàn tụ yêu thương.

Lạy Chúa,

Xin cho mọi người nhận ra một vì sao lạ:

-“Vì sao Thánh Giá”

tỏa sáng muôn nơi,

khắp mọi phương trời,

dẫn đưa con người,

về miền đất hứa:

-“Thế giới đệ huynh

anh em một nhà,

Thiên Chúa là Cha.” Amen.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA TỎ MÌNH

Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm

 Ngày xưa người ta quen gọi lễ Hiển Linh là lễ Ba Vua, sở dĩ vậy vì trong Tin Mừng đọc trong Thánh Lễ hôm nay, ba nhà đạo sĩ tìm kiếm để bái yết hài nhi Giêsu.

Ba nhà đạo sĩ là những người trổi trang về kiến thức uyên bác; họ có thể đọc dấu chỉ thiên nhiên để nhận ra sự xuất hiện của những người đặc biệt. Từ ngữ “vua” được dùng trong “ba vua” là để chỉ người trổi trang hơn người khác về phương diện nào đó.

 Qua biến cố mục đồng tới viếng hài nhi, người ta nhận ra Thiên Chúa đã tỏ mình cho những người Do Thái nghèo nhưng có tâm hồn mở rộng sẵn sàng đón nhận Thiên Chúa. Với biến cố ba nhà đạo sĩ đi viếng hài nhi, Giáo Hội nhận ra Thiên Chúa tỏ mình cho dân ngoại.

 Người Do Thái cho rằng họ là dân được tuyển chọn, còn các dân tộc khác là dân ngoại. Với biến cố Đức Giêsu và việc các dân tộc khác đón nhận Tin Mừng, người ta nhận ra rằng tất cả mọi dân tộc đều thuộc về Thiên Chúa, tất cả các dân tộc đều được Thiên Chúa yêu thương như dân tộc Do Thái. Hôm nay với trình thuật các đạo sĩ tìm kiếm và bái lạy Đức Giêsu, Kitô hữu nhận ra Thiên Chúa cũng mặc khải cho dân ngoại. Thiên Chúa yêu thương dân ngoại như Ngài đã từng yêu thương dân tộc Do Thái. Mọi dân tộc đều bình đẳng trước Thiên Chúa. Thiên Chúa yêu thương mọi dân tộc, mọi con người, chứ không phải chỉ riêng dân tộc Do Thái.

 Kitô hữu phải là người cảm nghiệm sâu xa tình yêu Thiên Chúa dành cho con người, và đặc biệt cho chính mình. Kitô hữu cũng phải là người sống bình an và hạnh phúc, vì ý thức mình là tạo vật được Thiên Chúa yêu thương. Ngài tha thứ mọi lỗi lầm, và không chỉ vậy, còn mời gọi mọi người vào chia sẻ sự sống vĩnh cửu hạnh phúc với Thiên Chúa. Một khi phần nào cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa và bình an hạnh phúc, Kitô hữu thấy mình phải chia sẻ niềm vui này, tin mừng này cho những người anh em của mình chưa biết Đức Giêsu, ngõ hầu họ cũng có niềm vui này. Bản chất Kitô hữu là rao giảng Tin Mừng, làm cho muôn dân được nghe, hiểu và sống đáp trả tình yêu Thiên Chúa.

 Ngày nay nhiều người “dị ứng” với từ ngữ truyền giáo, vì từ ngữ này gợi lên nơi người ta ấn tượng rao giảng để kéo người khác bỏ đạo của họ để theo Kitô giáo. Nếu có ý hướng như vậy, người ta mang nặng tính phe phái và giành giựt nhiều hơn là chia sẻ tin mừng. Một Kitô hữu đúng nghĩa phải là người muốn chia sẻ tin mừng với người khác, vì mình nghĩ rằng biết Đức Giêsu là điều rất tốt và ích lợi cho mọi người. Tuy nhiên, Kitô hữu phải là người luôn tôn trọng người khác, tôn trọng tự do và tín ngưỡng của tha nhân; nếu ai đó đón nhận Tin Mừng, thì đó là vì chính họ thấy sự thật, họ cũng được bình an và hạnh phúc hơn khi trở thành Kitô hữu.

 Khi một Kitô hữu muốn rao giảng tin mừng, họ phải tự vấn chính mình: “niềm tin vào Đức Giêsu mang gì lại cho tôi? Tin vào Đức Giêsu, có làm cho tôi sống bình an và hạnh phúc hơn không? Nếu tin vào Đức Giêsu Phục Sinh không giúp gì cho tôi, thì tại sao tôi lại muốn làm cho người khác trở thành Kitô hữu như tôi?” Lời mời gọi rao giảng tin mừng Đức Giêsu Phục Sinh đòi Kitô hữu phải xét lại niềm tin của mình, lối sống của mình. Nếu đời sống của tôi không là đời sống toát lên nét tươi vui của một người hạnh phúc, thì làm sao tôi có thể rao giảng tin mừng được! Nếu tôi sống u buồn thất vọng, tôi là phản chứng cho Tin Mừng Phục Sinh. Tôi phải sống sao, để đời sống của tôi không trở thành phản chứng.

 Kitô hữu là người có Chúa Kitô nơi mình, là người bạn của Đức Giêsu Kitô, là người muốn trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài. Cách sống của Đức Giêsu Kitô phải là cách sống của mỗi Kitô hữu. Kitô hữu phải là người có cùng chọn lựa với Đức Giêsu Kitô, phải biết yêu thương con người hôm nay như chính Đức Giêsu đã yêu, phải là người yêu đến cùng anh em mình, người thân mình, những người mình gặp gỡ, và thậm chí cả những kẻ không ưa và ghét mình. Đức Giêsu đã cầu nguyện cho những kẻ giết Ngài, Kitô hữu cũng phải tha thứ cho những người làm hại họ.

 Kitô hữu phải là người trung thành như Thiên Chúa là Đấng Thành Tín. Thiên Chúa không bao giờ phản bội, và Kitô hữu cũng không bao giờ được phản bội ai. Không làm hại ai. Chỉ muốn điều tốt cho tha nhân, chỉ tìm lợi ích cho người khác chứ không làm hại họ, đó phải là cách sống của Kitô hữu. Có được như vậy, nhiều người sẽ ngạc nhiên và sẽ tìm hiểu niềm tin của Kitô hữu; để rồi nếu họ muốn họ có thể chia sẻ niềm tin Kitô hữu, để họ cũng được bình an và hạnh phúc như những Kitô hữu. Kitô hữu phải là men trong bột, phải là ánh sáng cho thế gian. Kitô hữu tuy có cùng nỗi bận tâm và gian nan như bất cứ con người nào sống trên đời, nhưng ánh sáng đức tin đã soi sáng cho họ, giúp họ tuy sống giữa trần gian nhưng không thuộc về trần gian.

 Câu hỏi gợi ý chia sẻ

1.Bạn có muốn người khác có cùng niềm tin với bạn không? Tại sao?

  1. Nếu không tin vào Đức Giêsu, bạn có được như hiện tại không? Tại sao?
  2. Phải rao giảng thế nào để con người ngày nay dễ đón nhận Tin Mừng Đức Giêsu Kitô?

Về mục lục

.

TÌM GẶP THIÊN CHÚA GIỮA LÒNG ĐỜI

Lm. Ignatiô Trần Ngà

Chính những Lời Chúa dạy là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm chúng ta.

Theo ánh sáng của ngôi sao lạ, ba nhà chiêm tinh đã tìm đến cung điện của vua Hêrôđê để thờ lạy kính bái, vì nghĩ rằng nếu có vị vua mới sinh thì ắt vua đó phải sinh ra nơi cung vàng điện ngọc, nơi chốn cao sang. Nhưng thực ra không phải thế. Khi ba vị đến ngay cung điện vua Hêrôđê và hỏi: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người,” thì vua Hêrôđê tỏ hết sức ngạc nhiên. (Mt 2, 2)

Bấy giờ “nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: “Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2, 4-6)

Thật bất ngờ, Chúa Cứu Thế không sinh ra trong cung vàng điện ngọc mà lại sinh ra trong nơi quê mùa heo hút, nơi làng Bê-lem là phần đất nhỏ bé của miền Giu-đa.

Như thế, nhờ ánh sáng từ Kinh Thánh soi sáng mà vua Hêrôđê, cả triều thần của vua cũng như ba nhà chiêm tinh biết được nơi Chúa Cứu Thế giáng sinh. Cũng nhờ ánh sáng nầy, ba nhà chiêm tinh tiếp tục đến tận nơi để thờ lạy và dâng lễ vật cho Người, tại một nơi nghèo nàn tầm thường mà ba vị không ngờ trước được.

Hôm nay, không có ngôi sao lạ nào xuất hiện trên bầu trời để soi đường cho chúng ta đi tìm Chúa, nhưng chúng ta có một ánh sáng khác rực rỡ hơn giúp ta tìm gặp Người. Đó là ánh sáng của Lời Chúa, như lời Thánh Vịnh: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi.” (Thánh vịnh 119, câu 105)

Vậy ánh sáng Lời Chúa soi đường cho chúng ta tìm thấy Chúa nơi đâu? – Ở nơi mà không mấy ai tin là có: Ở ngay trong nhà, trong xóm chúng ta. Thật quá bất ngờ !

Ba nhà chiêm tinh ngày xưa ban đầu cứ ngỡ rằng vua mới ra đời ắt phải sinh ra trong cung điện Hêrôđê, không ngờ Lời Chúa lại chỉ cho họ tìm gặp Đấng Cứu Thế mới sinh tại một làng quê Bê-lêm hẻo lánh, trong hình hài một trẻ sơ sinh yếu ớt, tại một túp lều nghèo nàn đơn sơ.

Chúng ta cũng thế, ban đầu chúng ta cứ tưởng Chúa chỉ ngự trên chốn trời cao, Chúa chỉ hiện diện trong Bí Tích Thánh Thể, chỉ ngự trong các thánh đường… Nào ngờ Chúa cũng hiện diện trong chính gia đình chúng ta, trong thôn xóm nghèo nàn của chúng ta.

Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, trong tâm thư gửi các gia đình đã viết: “Thiên Chúa đồng hoá với con người, với những người trong gia đình. Thiên Chúa là một với người cha, người mẹ, người bạn trăm năm, người con cái trong gia đình.”

Qua dụ ngôn dụ ngôn về ngày phán xét cuối cùng trong Tin Mừng Mátthêu, Chúa Giêsu tỏ cho thấy những ai cho những người đói khát đầu đường xó chợ một bát cơm thì Chúa nói là họ cho Chúa ăn. Những ai cho người rách rưới hoặc mình trần một manh áo, thì Chúa nói là họ đã cho Người mặc. Những ai cho người sa cơ thất thế không nơi nương tựa được trú ngụ một thời gian thì Chúa nói là họ đã cho Chúa trọ nhà… Nói như thế, Chúa Giêsu tự đồng hoá mình với mọi người chung quanh. Nói khác đi, bất cứ ai cũng được Chúa Giêsu nhìn nhận là chính Người. (xem Mt 25, 31-46)

Khi chưa nhận biết Đức Giêsu là Thiên Chúa, Phaolô ra tay bách hại các môn đệ của Người dữ dội. Vì thế, ông đã bị quật ngã trên đường Đamát và có tiếng Chúa Giêsu vang lên giữa thinh không: “Saolô, tại sao ngươi bắt bớ Ta?” Phaolô hết sức kinh hoàng: “Thưa Ngài, Ngài là ai?” Có tiếng từ trời đáp: “Ta là Giêsu mà ngươi đang bắt bớ”. (Cv 22, 6-9). Chính từ hôm đó, Sao-lô (tức thánh Phaolô tông đồ) mới nhận ra các tín hữu cũng chính là Chúa Giêsu nên người thường nhắc nhở mọi người ghi tâm khắc cốt lời nầy: “Nào anh em chẳng biết rằng thân xác anh em là phần thân thể của Đức Kitô sao?” (I Cr 6, 15).

Chính những Lời Chúa dạy trên đây là ánh sao sáng, còn sáng hơn sao Bê-lem năm xưa, soi sáng cho chúng ta biết Chúa đang ở ngay trong gia đình, trong làng xóm của chúng ta, để chúng ta đến hầu hạ phục vụ và dâng lễ vật cho Người.

Lễ vật của chúng ta không phải là vàng, nhũ hương và mộc dược nhưng là một tấm áo cho cha, một bát cơm cho mẹ, là sách vở bút mực cho con cái học hành, là sự ân cần săn sóc cho những người đau khổ chung quanh chúng ta. Đó là những lễ vật quý báu mà Chúa Giêsu đang thiết tha chờ đợi. Ước gì chúng ta mau mắn và quảng đại hiến dâng cho Người.

Về mục lục

.

NHỮNG ÁNH SAO CUỘC ĐỜI

Lm Giuse Nguyễn Văn Tuyên

Lễ Hiển linh trước tiên là lễ của niềm vui. Niềm vui đó được diễn tả trong bài đọc thứ I: Đứng lên, bừng sáng lên, hỡi Giêrusalem! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của ĐỨC CHÚA như bình minh chiếu toả trên ngươi” (Is 60,1). Mặc dù dân Israel đang sống trong chốn lưu đày, nhưng ngôn sứ Isaia đã mơ tới ngày được hồi hương. Khi đó Giêrusalem sẽ được tái thiết lại huy hoàng và là nơi thu hút muôn dân tuôn đến. Trong khi cả trái đất ngập chìm trong tăm tối thì Giêrusalem lại bừng sáng, vì có Chúa là Ánh sáng đang ngự ở đó.

Trên thực tế, dân Dothái đã được hồi hương và Giêrusalem đã được tái thiết. Nhưng Giêrusalem đâu có được đúng như Isaia đã mơ. Phải tới 8 thế kỷ sau, giấc mơ của Isaia mới được thực hiện trọn vẹn nơi Đức Giêsu – Đấng Cứu Tinh nhân loại. Ngài chính là Ánh sáng đến trần gian.

Lễ Hiển Linh không chỉ là niềm vui cho dân tộc Dothái, mà còn là niềm vui cho toàn thể nhân loại, vì hôm nay, kỷ niệm lại việc Chúa tỏ mình ra cho dân ngoại.

Theo quan niệm của Đông Phương, mỗi một vì sao lạ xuất hiện trên bầu trời, là dấu chỉ của một nhân vật quan trọng sắp ra đời. Ba nhà đạo sĩ (vẫn quen gọi là ba vua) mặc dù không bàn hỏi, không hẹn hò từ trước, và họ cũng không hề biết đến những lời tiên tri về Đấng Cứu Thế trong Thánh Kinh, nhưng vì cùng khao khát đi tìm chân lý, nên họ đã nhất quyết lên đường theo ánh sao lạ đi tìm “Vị Cứu Tinh”.

Qua việc Chúa tỏ mình ra cho ba nhà đạo sĩ chứng tỏ rằng: Ngôi Hai Thiên Chúa không đến trong thế gian vì một số người hay vì một dân tộc, nhưng vì tất cả các dân tộc trên trần thế này.

Nhưng có một sự thật vô cùng trớ trêu là: khi vị Cứu Tinh xuất hiện sau bao thế kỷ đợi chờ, dân Dothái lại tỏ ra thờ ơ lãnh đạm. Các thượng tế và kinh sư thì dửng dưng thụ động, cho dù họ thông thạo Kinh Thánh và biết rõ nơi sinh của Đấng Cứu Thế. Hêrôđê lại còn hoảng hốt vì sợ ngai vàng của mình bị lung lay. Chỉ có các đạo sĩ đại diện cho lương dân lại hăng hái lên đường, hăm hở tìm kiếm, cho dù cuộc kiếm tìm đầy phiêu lưu trắc trở. Và khi tìm được rồi, Đấng Cứu Thế cũng chẳng có vẻ gì là một vị quân vương, không uy nghi trong cung điện đền vàng, nhưng họ vẫn vui mừng đón nhận, xin được bái kiến và dâng lễ vật quí giá với tất cả tấm lòng thành.

Sau này, Đức Giêsu đã phải thốt lên: “Từ phương Đông phương Tây, nhiều người sẽ đến dự tiệc cùng các tổ phụ Ápraham, lsaac và Giacóp trong Nước Trời. Nhưng con cái trong nhà thì sẽ bị quăng ra chỗ tối tăm bên ngoài” (Mt 8,11-12). 

Nhờ có ánh sao soi đường mà ba vua có thể tìm được đến nơi Hài Nhi Giêsu đang ở. Cũng như người đi biển, để định vị được bờ, người ta phải cần đến ngọn đèn hải đăng. Điều đó cho thấy, ánh sáng chỉ đường thật quan trọng biết bao trong đời sống thường ngày của chúng ta. Vấn đề là ở chỗ, chúng ta có nhận ra những ánh sao đó trong cuộc đời mình hay không?

Đối với một số bạn trẻ, “ngôi sao” của họ là những diễn viên điện ảnh, ca sĩ, cầu thủ… để đến nỗi, họ quên cả việc ăn – uống – ngủ – nghỉ để chạy theo những thần tượng của mình. Cụ thể là những cơn sóng hâm mộ ca sỹ, diễn viên Hàn Quốc mới đây khiến chúng ta không khỏi hốt hoảng khi chứng kiến những hình ảnh những fan hâm mộ khóc thét, ngất xỉu, đổ máu, cấp cứu… trong một số buổi biểu diễn.

Hồi tháng 7.2012 vừa qua tại Tp. Hồ Chính Minh, một cô gái trẻ, vì mê muội nhóm nhạc Hàn Quốc nên khi ban nhạc này tới Việt Nam biểu diễn, cô nằng nặc đòi đi xem. Người bố không đồng ý, cô đã dõng dạc tuyên bố: “Con cần ban nhạc ấy hơn gia đình!”. Câu trả lời của cô gái khiến ông bố chết điếng cả người… Thực ra, bản chất của việc thần tượng, yêu mến một ca sĩ, diễn viên không phải là xấu nhưng nếu quá đà, không biết tiết chế thì sẽ trở thành không tốt.

Đối với người khác, “ngôi sao” của cuộc đời họ là tiền tài, danh vọng, địa vị, chức quyền. Mặc dù vẫn biết những thứ đó chỉ là phương tiện, nhưng trong thực tế, họ lại để cho “phương tiện” đó chi phối tất cả tư tưởng cũng như hành động của mình…

Trong cuộc đời con người, có biết bao ngôi sao bên cạnh mà dường như chúng ta không hay biết. Những ngôi sao đó có thể không chói sáng như chúng ta tưởng, nhưng lại giúp ích cho cuộc đời chúng ta biết bao nhiêu. Những ngôi sao đó là những người thân trong gia đình, là thầy cô, bè bạn… và tất cả những ai đã cùng đồng hành với chúng ta trên hành trình của cuộc đời. Nhưng thử hỏi, đã bao giờ chúng ta nhìn nhận họ là những ánh sao để mà biết ơn, để mà trân trọng? Đã bao giờ, chồng nói với vợ rằng: Em là ánh sao của cuộc đời anh! Đã bao giờ, con cái nói với cha mẹ rằng: Cha mẹ chính là ánh sao của cuộc đời con hay chưa? Hay chúng ta chỉ nhìn ra những lầm lỗi, những thiếu sót của nhau đã chỉ trích, để lên án?

Mừng lễ Hiển Linh hôm nay, Lời Chúa cũng mời gọi chúng ta: hãy trở nên ngôi sao để dẫn đưa người khác đến cùng Chúa. Nếu con người đang đi trong bóng tối của gian dối, hận thù; chúng ta hãy là những ánh sao của chân thành, phục vụ và yêu thương. Nếu thế giới đang chìm đắm trong bóng tối của buồn phiền, thất vọng ; chúng ta hãy là những ánh sao của niềm vui, an bình và hy vọng.

Khi ý thức mình là ánh sao, chúng ta cũng cần biết rằng: chúng ta chỉ là người dẫn dắt người khác đến với Chúa; là phương tiện chỉ đường, chứ chúng ta không phải là điểm đến cuối cùng.

Là ánh sao, chúng ta còn có bổn phận phải giữ cho bản thân mình luôn luôn sáng. Vì nếu sao mà không sáng, thì sẽ chẳng có ích lợi gì, cũng như muối mà không mặn thì chỉ có cách đổ ra ngoài đường để người ta chà đạp lên mà thôi.

Cầu chúc cho mỗi người trong cộng đoàn chúng ta, biết trở nên những ánh sao cho người khác nhờ đời sống chứng tá của mình. Như thế, cuộc đời này sẽ đầy ắp những ánh sáng của tình yêu Thiên Chúa và tình đồng loại. Amen.

Về mục lục

.

TẦM NHÌN SIÊU PHÀM

Trm Thiên Thu

Một Ngôi Sao Soi Rạng Ngời Hang Đá

Ba Đạo Sĩ Đến Thờ Lạy Chúa Con

Sách Tôbia cho biết: “Một ánh sáng rạng ngời sẽ chiếu soi khắp mười phương đất; từ viễn xứ, người trăm họ kéo đến với ngươi. Và dân cư tận chân trời góc biển sẽ tới hát mừng danh thánh Chúa, tay bưng lễ vật dâng tiến Vua Trời. Muôn thế hệ sẽ làm cho ngươi hoan hỷ, và tên ngươi, thành được Chúa chọn, sẽ lưu truyền hậu thế đến ngàn năm.” (Tb 13:13)

Bê-lem thuộc Giuđê, bé nhỏ, nhưng chợt hóa thành nơi tràn ngập ánh sáng kỳ diệu – ánh sáng của Hồng Ân, của Đức Tin, của Yêu Thương, của Lòng Thương Xót, của Hòa Bình, của Chân Lý, của Hạnh Phúc, của Sự Sống, của Vĩnh Cửu, của Công Lý, của Tự Do,… Bê-lem bé nhỏ mà vĩ đại vì là nơi Thiên Chúa chọn để Đấng Thiên Sai giáng sinh làm người.

TẦM NHÌN TỪ XA

Ánh Sao Lạ là dấu Thiên Chúa dùng để tỏ cho mọi người nhận biết, cụ thể là các nhà chiêm tinh. Họ không chỉ thông thạo khoa học trần gian, mà họ còn có khả năng siêu phàm với tầm nhìn tâm linh. Có nhiều ngôi sao, nhưng họ nhận thấy có một ngôi sao lạ lùng, rất đặc biệt hơn các ngôi sao khác, với loại ánh sáng khác thường. Họ đã đi tìm và đã gặp được Đáng mà họ muốn biết, Đấng ấy chính là “ánh sáng cho nhân loại” và “chiếu soi mọi người.” (Ga 1:4 và 9)

Ánh Sáng Ngôi Lời đã chiếu sáng và tỏa lan khắp nơi. Ngôn sứ Isaia hân hoan mời gọi: “Đứng lên, bừng sáng lên! Vì ánh sáng của ngươi đến rồi. Vinh quang của Đức Chúa như bình minh chiếu toả trên ngươi. Kìa bóng tối bao trùm mặt đất, và mây mù phủ lấp chư dân; còn trên ngươi Đức Chúa như bình minh chiếu toả, vinh quang Người xuất hiện trên ngươi.” (Is 60:1-2) Ánh bình minh xua tan bóng đêm đen, ánh sáng tiêu diệt bóng tối. Đó là ánh sáng vĩnh cửu, ánh sáng đến từ Thiên Chúa.

Đấng Thiên Sai là Chúa Cứu Thế Giêsu. Ngài đã giáng sinh làm người, và Con Người đó là Ánh Sáng, là Ngôi Lời, là Thiên Chúa tạo thành muôn vật hữu hình và vô hình. Ánh sáng Chúa chiếu vào cái gì thì cái đó cũng sáng lên, và phải trở thành “ánh sáng cho thế gian.” (Mt 5:14) Nhờ đó, “chư dân sẽ đi về phía ánh sáng của ngươi, vua chúa hướng về ánh bình minh của ngươi mà tiến bước,” đồng thời “đưa mắt nhìn tứ phía mà xem, tất cả đều tập hợp, kéo đến với ngươi: con trai ngươi từ phương xa tới, con gái ngươi được ẵm bên hông.” (Is 60:3-4) Thật là kỳ diệu!

Thật khổ sở khi ở trong bóng tối, mất tầm nhìn. Những người chỉ bị đau mắt mà khỏi thì cũng vui lắm rồi, huống chi người mù, họ mà được khỏi mù thì hẳn là rất hạnh phúc. Vì chúng ta chưa bị mù nên không thể cảm nhận trọn vẹn niềm vui sướng của người-mù-được-sáng-mắt, chỉ cảm nhận phần nào. Ngôn sứ Isaia nói: “Trước cảnh đó, mặt mày ngươi rạng rỡ, lòng ngươi rạo rực, vui như mở cờ, vì nguồn giàu sang sẽ đổ về từ biển cả, của cải muôn dân nước sẽ tràn đến với ngươi. Lạc đà từng đàn che rợp đất, lạc đà Ma-đi-an và Ê-pha: tất cả những người từ Sơ-va kéo đến, đều mang theo vàng với trầm hương, và loan truyền lời ca tụng Đức Chúa.” (Is 60:5-6) Ở trong bóng tối tội lỗi thì thật đáng sợ, thoát khỏi bóng tối đó thì thật tuyệt vời.

Với lòng khiêm cung kính cẩn, Thánh Vịnh gia đại diện chúng ta mà cầu xin qua lời thân thưa: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” (Tv 72:1-2) Ai chân thành tin tưởng cầu xin thì sẽ được, chắc chắn Ngài đại lượng ban cho.

Quả thật, và đúng y như vậy, bởi vì Ngài là Vua Công Lý đến để thi hành Thánh Luật của Đức Chúa một cách triệt để, không sai một chi tiết nhỏ nào. Thánh Vịnh xác định: “Triều đại Người, đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.” (Tv 72:7-8) Chỉ một mình Thiên Chúa làm chủ mọi thứ – vô hình và hữu hình.

Từ xa tới gần, từ thôn quê tới thành thị, khắp nơi đều được hưởng bình an. Từ Tác-sít và hải đảo xa xăm, hàng vương giả sẽ về triều cống. Cả những vua Ả-rập, Xơ-va, cũng đều tới tiến dâng lễ vật. Mọi quân vương phủ phục trước bệ rồng, muôn dân nước thảy đều phụng sự. Khắp nơi đều rộn rã tiếng reo vui, vì từ nay mọi người được sống trong hòa bình và công lý, được phục hồi cả nhân vị, nhân phẩm và nhân quyền, được Thiên Chúa giành lại những gì đã mất: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn, từng giọt máu họ, Người đều coi là quý.” (Tv 72:12-13)

Mỗi người có công việc riêng theo kế hoạch tiền định của Thiên Chúa, tất cả đều quy về Ngài. Thánh Phaolô cho biết: “Hẳn anh em đã được nghe biết về kế hoạch ân sủng mà Thiên Chúa đã uỷ thác cho tôi, liên quan đến anh em. Người đã mặc khải để tôi được biết mầu nhiệm Đức Kitô như tôi vừa trình bày vắn tắt trên đây.” (Ep 3:2-3) Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa đã được khởi đầu thực hiện từ khi Đấng Emmanuel đến ở cùng và chia sẻ gian lao với kiếp người của chúng ta. Tuy là phàm nhân nhưng chúng ta vẫn thực sự diễm phúc, vì được Thiên Chúa xót thương vô cùng.

Với kinh nghiệm “xương máu” về tình trạng mù-được-sáng-mắt và hạnh phúc khi được cứu độ, Thánh Phaolô giải thích rõ ràng: “Mầu nhiệm này, Thiên Chúa đã không cho những người thuộc các thế hệ trước được biết, nhưng nay Người đã dùng Thần Khí mà mặc khải cho các thánh Tông Đồ và ngôn sứ của Người. Mầu nhiệm đó là: trong Đức Kitô Giêsu và nhờ Tin Mừng, các dân ngoại được CÙNG THỪA KẾ GIA NGHIỆP với người Do-thái, CÙNG LÀM THÀNH MỘT THÂN THỂ và CÙNG CHIA SẺ điều Thiên Chúa hứa.” (Ep 3:5-6) Ba thứ “cùng hưởng” đó thực sự là hạnh phúc lớn lao đối với chúng ta.

Quả thật, đang là là người bị “mất trắng”, đang ở trong tình trạng không mà lại có, đang là tội nhân mà thành con cái, lại còn được chia sẻ và thừa kế mọi thứ thì đúng là niềm vui mừng quá lớn lao, niềm hạnh phúc khôn tả xiết. Điều không dám ước mơ mà có thật, được thật.

THẤY RÕ ĐIỀU GẦN

Các nhà chiêm tinh có khả năng nhìn từ xa mà thấy rõ như ở gần. Tầm hiểu biết xuyên thấu kỳ lạ. Đó là tầm nhìn của niềm tin. So với các nơi khác, miền Bê-lem chỉ nhỏ bé thôi, thế nhưng lại quan trọng, vùng Bê-lem tối tăm mà chợt sáng ngời, chốn Bê-lem tầm thường mà bỗng trở nên Ngai Tòa của Chúa Tể Càn Khôn. Thực sự lạ lùng quá đỗi, không thể tưởng tượng nổi!

Trình thuật theo Thánh sử Mát-thêu cho biết sự kiện khác, sau sự kiện Con Chúa giáng sinh: Khi Đức Giêsu ra đời tại Bê-lem, miền Giu-đê, thời vua Hê-rô-đê trị vì, có mấy nhà chiêm tinh từ phương Đông đến Giêrusalem, và hỏi thăm: “Đức Vua dân Do-thái mới sinh, hiện ở đâu? Chúng tôi đã thấy vì sao của Người xuất hiện bên phương Đông, nên chúng tôi đến bái lạy Người.” (Mt 2:2) Họ hỏi rất chân thành chứ không hề có ý gì khác.

Thế nhưng chỉ mới nghe hỏi vậy thôi mà vua Hê-rô-đê đã bối rối, hồn xiêu phách lạc, và cả thành Giêrusalem cũng xôn xao. Kẻ nhát đảm thì hay sợ hãi, nhà vua liền triệu tập tất cả các thượng tế và kinh sư trong dân lại, rồi hỏi cho biết Đấng Kitô phải sinh ra ở đâu. Họ trả lời y như những gì họ đã biết: “Tại Bê-lem, miền Giu-đê, vì trong sách ngôn sứ, có chép rằng: Phần ngươi, hỡi Bê-lem, miền đất Giu-đa, ngươi đâu phải là thành nhỏ nhất của Giu-đa, vì ngươi là nơi vị lãnh tụ chăn dắt Ít-ra-en dân Ta sẽ ra đời.” (Mt 2:5-6) Lúc đó có lẽ con cáo già Hê-rô-đê bạt vía kinh hồn vì hoảng sợ. Kẻ giá áo túi cơm thì thường tham quyền cố vị, vì thế mà lo sợ người khác hơn mình, rồi tính toán mưu thâm kế độc.

Thật thế, bấy giờ vua Hê-rô-đê bí mật vời các nhà chiêm tinh đến, hỏi cặn kẽ về ngày giờ ngôi sao đã xuất hiện. Rồi vua phái các vị ấy đi Bê-lem và dặn rằng: “Xin quý ngài đi dò hỏi tường tận về Hài Nhi, và khi đã tìm thấy, xin báo lại cho tôi, để tôi cũng đến bái lạy Người.” (Mt 2:8) Đúng là cáo già, miệng nam-mô mà bụng một bồ dao găm, ra vẻ nhân từ mà xảo quyệt, bằng mặt chứ không bằng lòng!

Kẻ ngu dốt mà thâm độc và có quyền thì vô cùng nguy hiểm. Lão Hê-rô-đê mưu mô vì sợ người khác “chạm” đến cái ngai vàng của mình, vì cái ghế đó liên quan quyền lực và lợi lộc. Thời nay cũng chẳng thiếu những dạng người hoặc bóng dáng như gã Hê-rô-đê. Họ là ai? Có lẽ ai cũng có thể trả lời. Họ là những kẻ có mặt người mà dạ thú, chỉ sợ mất chức, mất quyền, tìm mọi cách “cố thủ” để bảo vệ “chiếc ghế” chứ chẳng vì ý tốt lành là phục vụ người khác. Loại người Hê-rô-đê ngày nay còn độc ác và nguy hiểm hơn chính Hê-rô-đê ngày xưa. Thế nên luôn phải tỉnh táo để có thể nhận biết chân tướng của họ mà tránh cho xa. Câu nói của tiền nhân thật chí lý: “Tránh voi chẳng xấu mặt nào.” Biết mà làm như không biết trước những kẻ khoác lác, đó là khôn.

Khi nghe nhà vua nói thế, có lẽ các nhà chiêm tinh cũng tưởng nhà vua thật lòng nên ra đi tìm kiếm điều họ muốn biết tỏ tường. Lạ thay, ngôi sao họ đã thấy ở phương Đông lại dẫn đường cho họ đến tận nơi Hài Nhi rồi mới dừng lại. Họ rất vui mừng khi trông thấy ngôi sao. Và rồi khi đến nơi cần đến, họ vào nhà, thấy Hài Nhi với thân mẫu là Cô Maria, và họ liền sấp mình thờ lạy Người. Rồi họ mở bảo tráp, lấy vàng, nhũ hương và mộc dược mà dâng tiến. Các ông này thành kính quá, con mắt đức tin của họ “sáng” quá, thế nên họ mới tin nhận Hài Nhi Giêsu là Ánh Sáng Thật, là Thiên Chúa Thật. Đúng vậy, Hài Nhi Giêsu chính là Vị Cứu Tinh duy nhất của nhân loại chúng ta.

Cuối cùng, Thánh Mát-thêu cho biết rõ ràng: “Sau đó, họ được báo mộng là đừng trở lại gặp vua Hê-rô-đê nữa, nên đã đi lối khác mà về xứ mình.” (Mt 2:12) Cách mô tả đơn giản nhưng vẫn cho thấy sự khôn ngoan và sự mau mắn của mấy nhà chiêm tinh khi họ tuân theo gợi ý của Chúa. Hê-rô-đê mưu mô, nhưng các nhà chiêm tinh vẫn có đủ mưu lược để đối phó.

Lạy Thiên Chúa, xin mở con mắt đức tin để chúng con có được tầm nhìn tâm linh đúng Thánh Ý Ngài, để chúng con có thể nhận ra Ngài nơi tha nhân, nhất là nơi những con người hèn mọn nhất. Xin giúp chúng con thanh lọc tâm trí để thanh sạch từ trong tư tưởng, không nhiễm độc ác ý như Hê-rô-đê, để chúng con đủ miễn nhiễm với sự dữ và được gặp Chúa nơi Hang Đá của cuộc đời này. Chúng con cầu xin nhân danh Chúa Giêsu Hài Đồng, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

CÁC ĐẠO SĨ VÀ NGÔI SAO

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

CÂU HỎI GỢI Ý

1-. Đâu là bối cảnh văn chương của trình thuật này. Mt muốn song đối chúa Giêsu với ai trong Tin Mừng thời thơ ấu của ông?

2-. Cộng đoàn sơ khai có đã vấn đề về xuất xứ, dòng dõi của Chúa Giêsu không? Xem Ga 7,40-42.

3-. Mt trích dẫn sấm ngôn Mica 5 với ít nhiễu thay đổi. Thay đổi này có lợi điểm gì và dụng ý thần học nào?

4-. Mt và Lc, ai trong hai tác giả giúp ta xác định chắc hơn ngày giờ giáng sinh của Chúa Giêsu?

5-. Truyền thống nói gì về con số, danh tánh, địa vị, xuất xứ của các đạo sĩ? Những quyết đoán như thế dựa trên cơ sở nào?

6-. Niềm hy vọng một vì vua xuất thân từ xứ Giuđê phải chăng chỉ phổ biến trong Thánh Kinh và tại Palestin?

7-. Phải chăng ngôi sao là một hiện tượng thiên văn? Là hình ảnh văn chương nói về ánh sáng chiếu dọi trong ngôi nhà chào đời của một vĩ nhân? Là ánh quang thường đi theo các cuộc thần hiện? Hay nó liên hệ với một cái gì khác?

8-. Đối với Mt, lễ vật của các đạo sĩ có ý nghĩa biểu tượng như truyền thống đã hiểu không?

CHÚ GIẢI

Nếu tách riêng gia phả (Mt 1, 1-17) là một thứ nhập đề ra thì Tin Mừng thời thơ ấu trong Mt gồm có năm giai thoại được trình bày quy chiếu với 5 bản văn Cựu ước: việc hoài thai Chúa Kitô cách đồng trinh (Is 7,14), cuộc kính bái của các đạo sĩ (Mca 5, 1-3), việc trốn sang Ai-cập (Hs 11, 1), cuộc tàn sát hài nhi vô tội (Gr 31, 15) và việc trở về Nadarét với câu trích dẫn bí ẩn bảo là lấy từ sách ngôn sứ: “Người sẽ được gọi là Nazarêô”).

Vì ở chỗ khác, Mt cũng gộp các lời của Chúa Kitô thành 5 bài giảng dài có cùng một công thức kết luận (“Và xảy ra là khi Chúa Giêsu đã nói xong các lời này, thì … ” 7,28 ; 11, 1 ; 13, 53; 19, 1 ; 26, 1), nên có kẻ phỏng đoán tác giả Tin Mừng thứ nhất đã chủ ý bắt chước tác giả Ngũ thư.

Hơn nữa, người ta đã khám phá được nhiều trùng hợp giữa thời thơ ấu của Chúa Giêsu theo như Mt kể, với thời thơ ấu của Môisen trong sách xuất hành và văn chương Midrash (văn chương chú giải Cựu ước của các giáo sĩ Do thái. Chú thích của người dịch). Việc chào đời của hai vị cứu tinh Israel được loan báo do một giấc mộng (Mt 1, 20). Trong các huyền thoại liên quan tài Môisen, việc mặc khải trong giấc mộng được xảy ra cho Pharaon (Targum Giêrusalem (tên gọi bản dịch Cựu ước sang tiếng Aram sau  thời lưu đày), Sử ký Môisen), cho Myriam (Sử ký Môisen), cho amram (Josèphe) và do một sấm ngôn (Mt 1, 22: Sử ký MS, Josèphe). Cái tin chào đời ấy gây nỗi lo sợ cho Hêrôđê và triều đình một bên, cho Pharaon và thần dân bên khác (Mt 2, 3: Sử ký Môisen, Josèphe). Như Hêrôđê hỏi ý kiến các ký lục, Pharaon cũng bàn bạc với các nhà chiêm tinh (Mt 2, 4: Josèphe, Sử ký Môisen, Targum Giêrusalem). Cả hai bạo chúa đều ra một sắc lệnh tàn sát trẻ thơ, nhưng hai đứa bé họ muốn giết lại thoát khỏi cách lạ lùng (Mt 2, 16- 18; Josèphe, Sử ký Môisen, Targum Giêrusalem). Trong cả hai trường hợp, nhà giải phóng tương lai, sau khi trốn khỏi quê hương, được trời loan báo là có thể về lại quê nhà vì “những kẻ tìm hại tính mạng hài nhi đã chết” (Mt 2,20; Xh 4,19).

Chính trong bối cảnh văn chương ấy, hiển nhiên đầy tính cách giả tạo mặc dầu có ý -nghĩa thần học sâu xa, mà ta phải đặt trình thuật các đạo sĩ kính bái Chúa Hài đồng (Mt 2, 1-12).

TẠI BÊLEM XỨ GIUĐÊ

Các Tin Mừng thời thơ ấu (Mt 1 -2 và Lc 1 -2) không ngừng quả quyết Chúa Kitô thuộc dòng dõi Đavít và đã sinh tại Bêlem.

a- Dầu gia phả theo Lc 3,23-38 thế nào chăng nữa, thì ý nghĩa của nó về điểm này quá rõ ràng, và Mt 1 , 1 cũng nói minh nhiên: “Gia phả của Chúa Giêsu Kitô, Con Đavít, con Abraham”: Thế nhưng ta cần thêm các chứng từ minh bạch khác. Chẳng hạn Giuse được trình bày như kẻ “thuộc nhà Đavít” (Lc 1, 38), “thuộc nhà và dòng họ Đavít” (2,4). Dacaria tung hô quyền lực cứu độ mà Chúa đã cho dấy lên “trong nhà Đavít” (1, 69). Sau cùng, thiên sứ loan báo cho Maria biết Giavê ban cho trẻ sắp sinh “ngai báu Đavít tổ tiên Người” (1, 32).

Suốt cuộc đời công khai, Chúa Giêsu cũng thường được kêu cầu như con Đavít bởi những người mù thành Giêricô (Mt 20, 30 ; Lc 18,35), bởi thiếu phụ xứ Cana (Mt 15,22), bởi đám đông ngày lễ lá (Ml 2 1 ,9. 15 ; Mc 11, 10) và lúc chữa lành người câm bị quỷ ám (Mt 12, 23 ; x. Cv 13, 23 ; Rm 1, 3 ; 2 Tm 2, 8 ; Dt 7, 13tt).

b- Sự kiện sinh ra tại Bêlem có liên hệ chặt chẽ với việc Chúa Giêsu thuộc dòng dõi Đavít. Chính tác giả của Lc 2 đã giải thích như thế: Giuse và Maria phải về thành Bêlem là do yêu cầu đăng ký hộ khẩu tại nguyên quán. Lời thiên sứ loan báo việc sinh hạ ấy cho mục đồng cũng nhấn mạnh rõ ràng Cứu Chúa đã chào đời “trong thành Đavít” (Lc 2, 11). Mt thì chỉ xác nhận sự kiện, mà các thượng tế và ký lục trong dân đều biết rằng đã được ngôn sứ Mi-ca tiên báo (cc. 5- 6).

Và mặc dầu người ta không còn tìm thấy đâu khác trong Tân ước một lời khẳng định liên quan đến việc Chúa Giêsu giáng sinh tại Bêlem, niềm tin của cộng đoàn sơ khai về điểm đó vẫn không nhiễm chút nghi ngờ. Tin Mừng thứ 4 có lần tóm tắt thành quả rao giảng của Chúa Giêsu dịp lễ Lều Trại như sau:

“Trong dân chúng, có người nghe các điều ấy thì nói \: “Hẳn thật Ngài là Đấng Ngôn sứ”. Kẻ khác rằng: “Người là Chúa Kitô”. Nhưng có kẻ lại bảo: “Dễ chừng Chúa Kitô đến từ Galilê sao? Kinh Thánh lại đã không nói là: Chúa Kitô thuộc dòng giống Đavít và đến từ Bêlem làng quê Đavít đó ư?” (Ga 7, 40-42).

Giả sứ đã có một vài do dự về điểm này giữa các Kitô hữu, thì không lẽ nào Giavê ghi lại mà chẳng cải chính các luận điệu giải thích đó, những lợi giải thích xem ra chẳng biết rằng Chúa Giêsu thật sự thuộc nhà Đavít và đã sinh hạ tại Bêlem.

SẤM NGÔN CỦA MICA

Đúng y như thể văn đặc biệt của các chương đầu Mt, mà ta đã ghi nhận lúc nãy, giai thoại các đạo sĩ kính bái hoàn toàn được xây dựng chung quanh sấm ngôn của Mica (5, 1).

Nhà ngôn sứ, đương thời với Isaia, dã mô tả trong 4, 11- 13 các mưu đồ vô hiệu của chư dân (ở đây là Assiri) nhằm chống lại Sion. Từ câu 14 đến đầu chương 5, Mica hát mừng vinh quang tương lai của triều đại Đavít. Ông đối chiếu dáng nhỏ bé của Ephrata, nơi xuất thân một Đavít mới, với thành lũy Sion kiên cố vĩ đại (Bet Gader: 4,14):

Phần ngươi, hỡi (Bêlem) Ephrata,

nhỏ bé nhất trong hàng bộ lạc Giuđa,

chính tự nơi ngươi sẽ xuất hiện cho Ta

vị có mệnh thống lĩnh Israel;

nguồn gốc của Người lên đến thời xa xưa

lên tại những ngày thuở trước.

Vì vậy Giavê sẽ bỏ rơi chúng

cho đến ngày sinh nở người nữ phải sinh con.

Bấy giờ số sót anh em người sẽ trở về

với con cái Israel.

Người sẽ đứng lên, Người sẽ chăn dắt đoàn chiên Người.

Chúng sẽ được an cư, vì từ đây Người sẽ mở rộng uy quyền

cho đến tận cùng bờ cõi (Mca 5, 1- 3).

Việc đề cập đến “người nữ phải sinh con” và sự tương đồng hiển nhiên với sấm ngôn về Emmanuel (Is 7) đã đặt sấm ngôn này của Mica trong viễn tượng cánh chung luận thiên sai Đứng trước sự đe dọa của Assyri, nhà ngôn sứ an ủi dân chúng hãy hy vọng vào Đấng giải phóng tương lai thuộc nhà Đavít, Đấng mà ông mô tả là sẽ dựa xây một triều đại thanh bình, hùng mạnh và phổ quát.

Thánh Mt gán việc giải thích bản văn Mica theo ý nghĩa thiên sai và địa dư cho các thượng tế và ký lục: được Hêrôđê bàn hỏi, các ông này đã chỉ định thành Bêlem. Thật vậy, bản Targum hiểu đoạn văn này nói về Đấng Messia và Bêlem: Hỡi Bêlem Ephrata, quá nhỏ bé không đáng kể vào số thành có nghìn dân thuộc nhà Giuđa, chính từ ngươi sẽ xuất thân Đấng Messia thống trị trên nhà Israel, Đấng mà tánh danh đã được chỉ định từ nguyên thủy, từ những ngày xa xưa.

Và chính tại Bêlem thuộc Giuđa mà các truyền kỳ giáo sĩ được góp nhặt trong tập Berachoth (II,5) của Talmud Giêrusalem (bộ chú giải các bản văn pháp luật Ngũ thư) và trong tập cha Rabbatì (I,16) – cho rằng Đấng Messia sẽ chào đời.

Thánh Mt đưa vào bản văn Mica (c.6) một vài thay đổi hơi lạ lùng. Ephrata (Bêlem Ephrata) trở thành Giuđa (Bêlem, đất thuộc Giuđa), để phân biệt rõ hơn thành này với một thành khác trùng tên ở Galilê, trong chi tộc Dabulon. Còn hình dung từ nhỏ bị tác giả Tin Mừng minh nhiên phủ nhận. Như thế, câu trích dẫn của Mt có giải thích Mica ở đâu mà hai bản văn không trùng hợp nhau hoàn toàn. Mica đã nói Bêlem “quá nhỏ bé không đáng kể vào số các thành nghìn dân”, tuy nhiên Đấng Messia vẫn từ đó xuất hiện. Còn Mt lại bảo “Hẳn ngươi không phải là nhỏ nhất trong hàng bộ lạc Giuđa: vì tự ngươi sẽ xuất hiện …”. Làm vậy, ông đã giải thích cách chính xác ý nghĩa sấm ngôn của bản văn. Rồi, phần đuôi của câu trích dẫn (“kẻ sẽ chăn dắt Israel dân Ta”), mượn ở 2Sm 5, 2, nhấn mạnh tính cách đệ nhị Đavít, một tính cách tương hợp hoàn toàn với Đấng Messia thiên hạ mong chờ.

THỜI VUA HÊRÔĐÊ

Ngày giờ giáng sinh của Chúa Giê-su, mà ta không thể xác định dựa vào Luca (2, 1) vì những điểm mập mờ quanh vụ kiểm tra dân số của Quirinius, có thể ước tính dựa vào những chỉ dẫn của Matthêu.

Nhờ Josèphe, ta biết khá chắc rằng Hêrôđê mất vào khoảng lễ Vượt qua 750 kể từ ngày lập thành (Roma) (năm thứ 4 trước công nguyên) và năm đó, đại lễ trúng vào ngày 12 tháng 4 của chúng ta bây giờ. Như vậy, việc giáng sinh của Chúa Giêsu phải xảy ra trước thời biểu đó. Nhưng thuộc bao lâu?

Cái ấy còn tùy khoảng cách giữa lúc Chúa Giêsu sinh ra với lúc các đạo sĩ đến, và giữa lúc họ đến với khi nhà vua băng hà.

Thế mà Hêrôđê ngã bệnh nặng và rời hẳn Giêrusalem để đi Giêricô vào tháng 9 hay tháng 10- 749. Và vì Hêrôđê xem ra còn mạnh khỏe lúc các đạo sĩ đến Giêrusalem, nơi ông dĩ nhiên đang ở, nên phải bảo rằng họ đến đấy trước tháng 10 năm 749.

Ngoài ra, giữa lúc Chúa Giêsu chào đời và lúc các đạo sĩ đến, ta không thể đặt một khoảng thời gian dài hơn 2 năm (Mt 2,16) hoặc ngắn hơn 40 ngày. Quả vậy, 40 ngày sau khi Hài nhi sinh ra, mẹ Người đã đến trình diện tại Đền thờ để làm lễ tẩy uế (Lc 2, 22 ; Lv 12, 2- 8): chắc hẳn bà đã nghĩ rằng không nên làm việc này – với lại thực tế không có thời giờ – sau khi các đạo sĩ đã ra đi và Giuse đã nhận được lệnh trốn sang Ai-cập. Đàng khác, ta không thể đặt lễ tẩy uế sau lúc trở về từ Ai-cập vì như thế phải tính ít nhất là 6 hoặc 8 tháng giữa lúc Hêrôđê băng hà và lúc Arkhêlàô bắt đầu lên ngôi (Mt 2, 22).

Thành thử Chúa sinh ra trễ lắm là vào tháng 8 năm 749, có lẽ trước đó một chút. (Như vậy trong kỷ nguyên Kitô giáo, được Denys le Petit đặt ra, có tính trễ 4 hoặc 5 năm, vì ông này đã gọi năm 754 là năm 1 sau Chúa Kitô).

NHỮNG ĐẠO SĨ TỪ PHƯƠNG ĐÔNG ĐẾN

Chỉ dẫn ngắn ngủi này, mà thánh Mt cho rằng đầy đủ đối với độc giả của mình, đã tạo nên nhiều phỏng đoán trong truyền thống Kitô giáo về sau.

Các chứng từ cổ xưa nói rất khác nhau về con số các đạo sĩ. Đôi lúc 2 (bích họa trong ngôi mộ thánh Phêrô và thánh Marcellin tại Roma), 3 thạch mộ còn giữ tại bảo tàng viện Latran), 4 (nghĩa địa thánh nữ Domitille tại Roma) và ngay cả 8 (một bình cổ tại bảo tàng viện Kircheriano). Các truyền thống Syria và Amlênia thì tính tới 12. Tuy nhiên con số 3 ưu thắng hơn cả, có lẽ vì tương ứng với 3 phẩm vật vàng, nhũ hương, mộc dược, hoặc vì người ta lấy đó như là đại diện của 3 chủng tộc Sem, Cam, Giaphet.

Tên của họ, mà nay gọi là Melchior, Gaspar, Balthasar, xuất hiện lần đầu tiên trong một thủ sao vô danh tại ý thế kỷ thứ IX và trong một thủ sao tại Paris thế kỷ VII (dưới hình thức Bithisarea, Melichior và Guthaspa). Nhưng nhiều tác giả, thuộc những vùng khác, lại đưa ra những tên hoàn toàn khác biệt.

Địa vị vua chúa của họ, hoàn toàn thiếu nền tảng lịch sử hình như đã được gán ghép do một lối giải thích Tv 72, 10 quá theo mặt chữ: “Vua chúa Tarsis và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật Vua chúa Saba và Seba sẽ đem tiều cống lại chầu”. Tertullien, mà người ta thường trưng thế giá để bênh vực cho truyền thống này, không bảo họ là vua, nhưng “như vua chúa” (fere reges; Adv. Marcion 3,13 (PL 2,367). Xem Adv. Jud. 9 (PL 2,659). Chẳng bao giờ họ xuất hiện với những biểu hiệu vương quyền trong nghệ thuật Kitô giáo cổ thời cả, nhưng chỉ với một chiếc mũ kiểu Phrygie và ăn vận như các nhà quý tộc Ba tư.

Sự khác biệt chứng từ cũng gặp lại trong vấn đề xuất xứ của họ. Nhiều người cho rằng họ từ Ba tư đến, kẻ khác lại bảo từ Babylon, Ả-rập hoặc ngay cả Ai-cập và Ethiopie. Tuy nhiên, có lẽ về vấn đề này ta có bằng chứng xác thực hơn. Thật vậy, một chỉ dẫn lịch sử quý giá về thời Constantin đã xác nhận tính cách cổ xưa của truyền thống cho rằng các đạo sĩ xuất phát từ Ba Tư. Đó là một bức thư chung của công đồng Giêrusalem năm 836; bức thư thuật lại rằng năm 614, lúc binh sĩ Ba Tư của Cosroas II tàn phá tất cả các nơi thờ tự tại Palestine, họ đã tôn trọng giữ nguyên thánh đường Bêlem do Constantin xây, vì thầy bức tranh khảm đá ở mặt tiền trình bày các đạo sĩ ăn vận trông như người đồng hương của họ (x. H.Vincent và F.M.Abel, Bethléem, le sanetuaire de la Nativité, Paria, Gabalda, 1914, tr. 128).

Nếu phải thừa nhận rằng các đạo sĩ trong Tin Mừng là người Ba Tư, thì ta có thể đưa thêm một điều nữa, liên quan đến địa vị của họ. Các đạo sĩ Ba Tư, từ khởi thủy, chẳng liên hệ gì với các tay ảo thuật gia Ai Cập, các chiêm tinh gia Canđê, hay cách chung với những kẻ làm nghề phù thủy cả. Trong sách Catha và Avesta – kinh thánh của Nhị nguyên giáo Ba Tư (Mazdéisme) – magavan và mogu có nghĩa là “người dự phần vào ân huệ ” (= học thuyết nhị nguyên giáo) và tương đương với nhung kẻ theo giáo lý của Zarathustra”. Theo Herodote (Histoire I, 101), họ là một trong những chi tộc trước kia ở vùng Médie, cùng với thời gian, làm thành một giai cấp tư tế chuyên việc phụng thờ Ahura Mazda; trong giai cấp này, học thuyết nhị nguyên đã được giữ gìn khá tinh tuyền. Tất cả các đạo sĩ chẳng phải là tư tế, nhưng mọi tư tế đều phải thuộc về chi tộc này. Đó là một giai cấp hiền nhân, có ảnh hưởng lớn trên các hoàng đế Assyri, Canđê và Mêđi. Trong số các sĩ quan đi theo Nabuchodonosor khi ông chiếm thành Giêrusalem, Gr 39, 3.13 có kể tên một Sereser nào đó vốn là Rab-Mag, nghĩa là Thủ lãnh các Đạo sĩ.

Tôn giáo của Zarathustra cho thấy có nhiều điểm tương đồng lý thú với tôn giáo Môisen và cụ thể hơn với niềm hy vọng thiên sai của Cựa ước. Zarathustra đã dạy rằng có hai nguyên lý vĩnh cửu (Ahura Mazda, nguyên lý thiện, và Anra Mainyu, nguyên lý ác); giữa hai bên có một cuộc chiến trường kỳ nhằm tranh ngôi bá chủ thế giới, một cuộc chiến sẽ chấm dứt với chiến thắng vĩnh viễn của thiện trên ác. Chiến thắng ấy được thành tựu đặc biệt nhờ một Đồng minh – saushyant – Đấng sẽ là “chân lý nhập thể” và sẽ sinh ra bởi một trinh nữ “mà chẳng người đàn ông nào đã đụng đến”.

Ý niệm Đồng minh ấy dĩ nhiên có sau thời Zarathustra, vốn sống vào thế kỷ VI trước Chúa Kitô. Thành ra nó có thể là hậu quả phát sinh do ảnh hưởng của những niềm hy vọng và tư tưởng tôn giáo nơi dân tộc Do thái khi họ bị lưu đày tại Babylon. Nhưng, ngay trong giả thuyết ít chắc chắn hơn cho rằng ý niệm ấy – tàn dư của mặc khải nguyên thủy – có trước những cuộc liên lạc với người Do thái, thì nỗi mong chờ vị Đồng minh đó cũng đã có thể đồng hóa với niềm hy vọng thiên sai. Do đấy, người ta đã có thể cho rằng Đấng Messia- Đồng minh sẽ là một ông vua Do thái.

VUA DÂN DO THÁI

“Vua dân Do thái mới sinh hiện ở đâu?” (c.2). Câu hỏi ấy, được các đạo sĩ phương Đông lặp đi lặp lại trên các ngã đường chật hẹp của Giêrusalem, hẳn vang dội bên tai người Do thái như một lời châm biếm chua cay tàn bạo. Và người ta hiểu rằng nó gây bối rối cho ông vua Hêrôđê đa nghi.

Tuy nhiên, sự kiện họ loan báo đã nằm giữa lòng hy vọng của dân tộc Hy bá, một niềm hy vọng vốn đã được gieo rắc rộng rãi bên ngoài biên giới địa dư xứ Palestine. Thánh Kinh, được dịch sang Hy Ngữ 2 thế kỷ trước Chúa Kitô, đã phổ biến trong thân thế giới niềm hy vọng về một vì vua sẽ đến từ Giuđê. Các sử gia Rôma viết về cuộc chiến tranh Do thái năm 70 đã cho biết niềm tin mù quáng của người Giuđê vào các sấm ngôn đó là nguyên nhân chủ yếu khiến họ cuồng nhiệt đấu tranh. Chính các sử gia này cũng tin, nhưng cho rằng sấm ngôn ấy đã được Vespasien và Titus hoàn thành. Tacite viết:

“Lắm người tin tưởng vào điều đã được phán trong sách xưa của các tư tế, cho rằng vào thời này Đông Phương sẽ nắm chủ quyền, và nhiều kẻ đến từ Giuđê sẽ thống trị thế giới. Các sấm ngôn ấy chỉ về Vespasien và Titus. Thế nhưng đám bình dân, theo dục vọng thông thường của con người ưa giải thích hạnh phúc đoan hứa ấy trong chiều hướng thuận lợi cho mình, lại đã không chịu tin vào thực tế, ngay cả với bằng chứng của nghịch cảnh ” (Hist. 5, 13).

Còn Suétone thì bảo:

“Trong toàn cõi Đông Phương có lan truyền một niềm tin xa xưa cho rằng nhiều kẻ xuất thân từ Giuđê sẽ thống trị thế giới Người Do thái, vì giải thích sấm ngôn theo chiều hướng thuận lợi cho họ, đã nổi loạn đứng lên. Thật ra sấm ngôn này quy clúếu hoàng đế Rôma” (Vespasien). (Vespas… 4. Sử gia và tư tế do thái Flavius Josèphe cũng nói tương tự: F.J. 6,54).

Câu hỏi của các đạo sĩ nằm đúng trong chiều hướng của niềm tin phổ biến khắp Đông Phương này vậy.

NGÔI SAO

Đây là yếu tố siêu phàm của trình thuật. Các đạo sĩ lên đường bởi vì “đã thấy ngôi sao của Người mọc lên” (c.2).

Phải tuyệt đối gạt bỏ mọi lối đồng hóa ngôi sao này với một hiện tượng tự nhiên nào đó. Việc giao hội giữa Mộc tinh với Thổ tinh, như Képler đã nghĩ, hoặc sự xuất hiện của một sao chổi đều không phù hợp với tính thuật Mt chút nào. Đấy là một ngôi sao họ đã thấy bên Đông Phương, nhưng rồi không hiện ra nữa cho tới Giêrusalem. Một ngôi sao mà, từ Giêrusalem đến Bêlem, di chuyển dần theo hành trình của họ, và dừng lại trên ngôi nhà có Hài nhi (c.9). Nếu chấp nhận lịch sử tính chính xác của Mt cho đến trong chi tiết, thì nhất định phải thừa nhận tính cách ngoại nhiên của vì sao này.

Ngược lại, nếu cùng với vài người công nhận, mà không động tới một phán quyết dứt khoát của Giáo Hội, rằng ta đang đứng trước một yếu tố giải thích (élément midrashique) đã được đưa vào với một chủ ý giáo huấn, thì nguyên việc hiểu biết chủ ý ay của tác giả đủ dẫn đến một lối giải thích thần học chính xác về bản văn. Trong mọi trường hợp, việc nghiên cứu yếu tố này của trình thuật được kể là quan trọng nhất.

Phải nói ngay rằng ngôi sao của các đạo sĩ chẳng ăn nhập gì với hình ảnh văn chương về ánh sáng chiếu dọi trong ngôi nhà chào đời của một vĩ nhân. Thành ra đó không phải là thứ hiện tượng đã xảy đến lúc Môisen sinh hạ (x. Sota 12; Rabbah Ex. v.v…). Ta lại càng không nên đối chiếu sự kiện này với hiện tượng ánh sáng mặt trời tăng lên 48 lần ngày Isaac sinh ra (x. Pesiqtha Rabbathi 42. Lời được gán cho giáo sĩ Chanina ben Lêvi: “Ngày Isaac sinh ra, Thiên Chúa đã tăng ánh sáng mặt trời lên 48 lần so với ánh sáng thông thường”), hay với hiện tượng ánh sáng thường đi theo các cuộc thần hiển hay thiên sứ xuất hiện. Sau cùng, ở đây không nên nghĩ đến những điềm thiên văn đã đưa tới những quyết nghị tiêu trừ con trẻ tại Rôma, như Suétone đã làm chứng (x. chương 94 trong Vita Augustini và chương 36 trong Vita Neronis).

Ngược lại, đem đồng hóa ngôi sao của các đạo sĩ với ánh sáng thiên sai Isaia loan báo, như một vài người đã làm, thì tự nhiên hơn: Nhà ngôn sứ đã loan báo thế này:

Dân đi trong tăm tối

đã thấy một ánh sáng lớn;

trên những kẻ ở xứ âm u

một ánh sáng đã rạng ngời …

Vì một trẻ đã sinh ra cho ta,

một con trai được ban xuống cho ta,

vai Người đỡ lấy quyền bính. (Is 9, 1. 5; x.60, 1- 6).

Hiển nhiên bản văn này nói đến ánh sáng theo nghĩa ẩn dụ Đề tài ánh sáng thiên sai, nằm đầy trong văn chương Cựu ước chính lục cũng như ngoại thư, đã đóng một vai trò quan trọng trong hai trình thuật Tin Mừng về thời thơ ấu của Chúa Kitô. Nhưng trong ấy ánh sáng đó bao giờ cũng đồng hóa với Đấng Messia. “Nói cách khách ngôi sao Giacóp mà Balaam đã từng tiên báo hình như luôn luôn được nhân cách hóa (Ds 24,17). Nó không bao giờ là một hiện tượng không khí, như trong trường hợp của các đạo sĩ. Giáo sĩ Aqiba áp dụng bản văn Ds 24,17 này vào Bar Koseba (một thủ lãnh kháng chiến Do thái trong cuộc nổi loạn năm 132-135. Tên của ông có nghĩa là “con của ngôi sao”. Chú thích của người dịch). Di chúc 12 tổ phụ, trong hai dịp, đã xem ngôi sao mà người ta nói đến trong sách Dân số – đúng là một ngôi sao, mặc dầu được so sánh với mặt trời – như là chính con người Đấng Messia (x. Test. Lêvi 18, 3: PG 2,1067 và Test.Juda 24, 1 : PG 2, 1083). Đối với các tu sĩ Qumrân, thì chính vị Tôn sư công lý (mai tre de la Justice) là người hoàn thành sấm ngôn Balaam. (x. Tài liệu Damas, cột VII dòng 18- 21).

Tuy nhiên chúng tôi nghĩ rằng có một tương quan giữa giai thoại ngôi sao và sấm ngôn Balaam.

Các sấm ngôn thời danh (Ds 22, 1- 24, 25) của ông thầy bói Đông phương này, được vua Moab triệu tới để chúc dữ cho Israel (Ds 23,7), chỉ có thể hiểu được nếu ta biết quan tâm đến văn thể riêng của các thầy bói, một văn thể mô tả các biến cố tương lai với những từ ngữ chiêm tinh học rút từ nhận xét, quan sát về Hoàng đạo (Zodiaque: vòng tròn có 12 công nằm 12 chòm sao mà mặt trời như phải xoay quanh trong vòng 12 tháng). Những sấm ngôn Balaam chắc chắn có liên hệ với những lời chúc phúc của Giacóp (St 49), vốn cũng thuộc về văn chương chiêm tinh của các thầy bói.

Lời Giacóp chúc lành cho Ruben mở đầu bầng câu:  “Con là con đầu lòng của ta và tinh hoa khí lực của ta, có thừa kiên dũng, có thừa uy năng; sôi sục như nước …” (St 49, 3- 4); câu này làm ta liên tưởng đến chòm sao Aquarius (chòm sao Bảo mình trong Hoàng đạo) mà tên trong tiếng Babylon gu-la có nghĩa là khổng lồ và thường được trình bày như người vác một thùng nước có hai vòi chảy ra.

Lời chúc lành cho Giuse với những ám chỉ về bò mộng, cung tên, quyền mục tử Israel làm ta liên tưởng tới các chòm sao Kim ngưu, sao Rua, sao Liệp hộ.

Nhưng nhất là lời chúc lành cho Giuđa mà phần đầu buộc ta nghĩ’ đến chòm sao Sư tử:

Giuđa là một sư tử con;

Phanh xong mồi sống, con lại đi lên, hỡi con;

nó thu mình, nó phục xuống như sư tử đực,

tựa sư tử cái: nào ai bắt nó dậy được?

Phủ việt sẽ không rời khỏi Giuđa

và quyền trượng khỏi giữa chân nó

cho đến khi nào lâm trào đấng nắm vương trượng,

Đấng muôn dân bái phục vâng lời (St 49, 9- 10).

“Những lời trên rõ ràng hứa đế vị cho dòng dõi Giuđa, không nghi ngờ được, Enciso viết. Nhưng dòng dõi ấy được mô tả dưới hình dạng chòm sao Sư tử. Vũ trụ học Assyri đã biết tới chòm sao này dưới tên Ur-gu-la có nghĩa là sư tử cái; và phía bắc của chòm sao có một sao khác người ta thường gọi là Leo minor, trong tiếng Assyri là Urmah hay sư tử đực. Thế của con vật trong chòm sao đã phát sinh thành ngữ: nằm như sư tử đực và sư tử cái (St 49,9). Và có lẽ chính cái vị trí cao hơn của sao Leo minor đã là nguồn gốc của công thức: “Hỡi Giuđa, con của sư tử phanh xong mồi sống, con lại đi lên, hỡi con”. Trong ngực của sư tử có ngôi sao Regulus, mà người thời xưa đã từng gọi là vua. Có lẽ ngôi sao này được ám chỉ qua hình ảnh vương trượng mà Giuđa lúc ngồi kẹp giữa hai chân” (x. Encisoviana, La estrella de Jesus, trong Por leo senderos de la Biblia. Madrid-buenos Aires (Editions Studium), 1957, t.II, tr. 157).

Trong sấm ngôn Balaam có quy tụ 3 lời Giacóp tiên đoán về Ruben, Giuse và Giuđa với những biểu hiệu tinh tú của họ: vua, vương trượng, bò mộng,  sư tử, thùng nước, mũi tên:

Giavê Thiên Chúa của nó hằng ở với nó

và nơi nó vọng lên tiếng hoan hô Vua cả.

Thiên Chúa đem nó ra khỏi Ai Cập.

Đối với nó, Ngài tựa như thể sừng trâu.

Này một dân chỗm dậy như sư tử cái

vươn mình lên như sư tử đực:

nó sẽ không nằm trước lúc say mồi:

và uống cho đã huyết người nó giết (Ds 23, 21-22. 24)

Nó thu mình, nó nằm xuống

như sư tử đực, tựa sư tử cái:

ai nào bắt nó dậy được (Ds 24, 9).

Tôi thấy một điều – nhưng không phải cho lúc này,

Tôi ngắm một sự – nhưng không phải gần bên:

Một ngôi sao, tự Giacóp, trở thành thủ lĩnh,

một vương trượng nổi lên, tự Israel.

Người đập vào màng tang Moab… (Ds 24,17)

(sư tử, vương trượng, ngôi sao sẽ gặp lại trong các hình ảnh biểu tượng của Khải huyền 5, 5; 2, 26- 28).

Từ những điều vừa nói, ta thấy các lời chúc lành của Giacóp và tiên tri của Balaam đều thuộc một loại thể văn: thể văn các điềm triệu tương quan với Hoàng đạo. Nhưng trong tư tưởng chiêm tinh đông phương, vương quyền và sao đi song song với nhau trong chòm sao sư tử, hay đúng hơn trong ngôi sao chiếu giá lòng chòm sao ấy, ngôi sao người ta biết đến dưới cái tên Regulus. Điều này giải thích tại sao các đạo sĩ – là những người có lẽ biết rõ những lời tiên đoán của Giacóp và Balaam – lại tự nhiên nói về ngôi sao của vua dân Do thái, như thể một điều ai ai cũng rõ.

Giai thoại của các đạo sĩ như vậy cống hiến cho ta một bằng chứng nữa về sự quan phòng ân cần của Thiên Chúa, Đấng thích ứng với bẩm tính khuynh hướng riêng của những kẻ Ngài muốn cứu độ. Đối với mục đồng là hạng người đơn sơ, sẵn sàng chấp nhận dễ dàng cái siêu nhiên, Ngài phái vài thiên sứ đến loan báo cho họ biết Chúa Giêsu đã chào đời. Ngài kêu mời các giáo sĩ tại Giêrusalem, vốn chăm chăm chú chú vào mặt chữ của lề luật, hãy nghiêng mình khảo cứu những sấm ngôn tiên báo ngày Ngài xuất hiện, và điều đó nhân câu hỏi các đạo sĩ đặt ra. Ngài thức tỉnh lương tâm của Hêrôđê, con người dửng dưng trước vấn đề tôn giáo nhưng lại mẫn cảm trước nguy cơ mất vương quyền, bằng cách cho ông biết cái tin ông lo sợ, tin tức về một vì vua Do thái sinh bên ngoài lâu đài của ông. Sau cùng, đối với các đạo sĩ đang trông chờ sự xuất hiện của đấng Messia-Đồng minh, Đấng mà cuộc đời, theo họ, gắn liền với vận hành của một vì sao, Ngài cho xảy ra hiện tượng lạ lùng ấy, hiện tượng mà các người có óc khoa học sẽ vô vọng tìm cách khám phá bản chất. Thật vậy, hiện tượng đó đâu phải là đối tượng của những định luật thiên văn khô khan, cứng nhắc, song là đối tượng của định luật thần thiêng, khôn tả của tình yêu ân cần của Thiên Chúa.

VÀNG, NHŨ HƯƠNG VÀ MỘC DƯỢC

Giai thoại các đạo sĩ kết thúc với việc họ kính bái Hài nhi: Họ thấy Hài nhi cùng Maria mẹ Người (c. 11).

Kể ra lạ lùng khi sách thánh (St 3,15; Is 7; Mca 5) cũng như các truyền kỳ giáo sĩ liên quan tới việc sinh hạ Đấng Messia chỉ chú trọng đến mẹ Người mà bỏ quên ông cha. M.J. Lagrange nhấn mạnh: “Tuy nhiên nếu do đó mà kết luận có sinh hạ đồng trinh thì thật là gượng ép. Do thái giáo rất lúng lúng khi gọi tên cha Đấng Messia; dễ dàng hơn khi nói úp úp mở mở đến mẹ của Người mà gia phả xem ra không mấy quan trọng bằng.”

“Và họ phục mình xuống yết bái Người; đoạn mở tráp báu, họ dâng Người lễ vật: vàng, nhũ hương và mộc dược” (c. 11)

Câu này làm ta nhớ lại cuộc viếng thăm linh đình trọng thể của nữ hoàng Saba đối với vua Salomon và những lễ phẩm xa hoa của bà:

“Bà mang đến Giêrusalem vô số của cải, lạc đà tải hương trầm, vàng khối cùng ngọc quý … Bà đã dâng cho vua một trăm hai mươi tạ vàng, một số lượng hương trầm lớn và nhiều ngọc quý … ; người ta chưa hề thấy có hương trầm nhiều như hương trầm nữ hoàng Saba đã dâng cho vua Salomon” (1V 10, 2. 10 ; x.2 Sk 9, 1 .9).

Vẻ xa hoa tráng lệ quá khứ ấy là một điềm triệu cho thời thiên sai. Còn hơn Giêrusalem của Salomon, Giêrusalem thiên sai sẽ thấy tuôn về mình vô số của cải chư dân, dăc biệt của cải miền Saba:

Dân Saba hết thảy kéo lại,

họ tải đến vàng với trầm hương

và cao rao những lời ngợi khen Giavê (Is 60,6).

Quy tụ về Giêrusalem, những của cải ấy sẽ được mang đến dâng cho vua thiên sai, Salomon mới, Đấng trổi vượt vinh quang hơn tổ tiên mình.

Vua chúa Tarsis và các đảo sẽ kiệu đến lễ vật

Vua chúa Saba và Sêba sẽ đem triều cống lại chầu;

Vâng, hết thảy vua chúa sẽ bái lạy Người,

tất cả muôn dân sẽ làm tôi Người …

Người sẽ thọ, và thiên hạ hiến cho Người vàng Seba

(Tv 72, 10- 11. 15).

Chắc chắn là với thần học ám chỉ Cựu ước của ông, Mt coi việc tiến dâng của các đạo sĩ như là dấu hoàn thành các sấm ngôn thiên sai. Về phương diện ấy, chi tiết các của lễ không quan trọng bằng ý nghĩa của chúng. Sách các Vua nói đến hương liệu, vàng, ngọc quý; Isaia vàng và nhũ hương; còn Mt vàng, nhũ hướng và mộc dược.

Mộc dược này làm ta nghĩ đến mộc dược Nicôđêmô sẽ dùng để xức xác Chúa Giêsu (Ga 19, 39). Bởi đấy trong truyền thống đã phát xuất cách giải thích biểu tượng, như ta thấy nơi thánh Irênê (Adv. haer. 3, 9, 2 : PG 7, 870) và trong câu thơ tóm tắt thời danh của Juvencus: thuở, aurum, mynham, regique, hominique, deo que dong tèrunt.

Là kế tử của các người ngoại đầu tiên được mời đến chiêm bái Đấng Messia mới sinh, chúng ta không nên thừa nhận cách lạnh lùng tước hiệu Messia của Người. Việc tôn thờ của ta còn phải kèm theo của lễ quảng đại là tất cả con người chúng ta.

(Bài của Salvator Munoz Iglesias, Assemblées du Seigneur 12)

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1-. Thế giới còn chìm trong tối tăm. Nhiều người đã lên đường đi tìm một Cứu Chúa, hoặc một Giêsu nào đó mà họ có lần nghe nói. Giáo Hội chúng ta, xưa nay hãnh diện về sứ mệnh phổ quát của mình, có thể mặc khải Chúa Kitô cho họ không?

2-. Các đạo sĩ đã gặp một hài nhi trần trụi nghèo nàn: Tại Giêrusalem, Thành vinh quang, hình như chẳng có gì. Chúa Kitô chỉ tỏ mình dưới những dấu hiệu khiêm tốn. Không có gì ở Giêrusalem bởi vì tại đó thiếu vắng đức tin. Còn trong Giáo Hội chúng ta thì sao? Đức tin chúng ta có đủ để tỏ bày Cứu Chúa cho trần gian không?

3-. Để chống lại việc Thiên Chúa tỏ uy quyền dưới hình dáng một trẻ thơ, có một ông vua ích kỷ và tàn bạo, đó là Hêrôđê. Vì không am hiểu Kinh Thánh, ông tưởng rằng chỉ cần dùng biện pháp điều tra, âm mưu, bạo lực là đủ để bẻ gãy được dự định của Chúa Quan phòng đang đe dọa ông; nhưng ông sẽ bị các đạo sĩ chơi xỏ, bị Thiên Chúa vạch trần âm mưu và rồi bị loại khỏi lịch sử. Ông không thể nào ngăn cản Chúa Giêsu chiến thắng và hiển trị. Thời đại này vẫn có những hạng Hêrôđê tương tự, nhưng bàn tay Thiên Chúa bao giờ cũng mạnh hơn. Đó là niềm xác tín và hy vọng của Kitô hữu.

4-. Chư dân đáp lại tiếng kêu mời của Thiên Chúa, Đấng dùng ngôi sao triệu tập họ, dùng các bản văn ngôn sứ soi sáng họ và giữ gìn họ khỏi vô tình phản bội Ngài. Sứ mệnh của họ không phải là lui lại Do thái giáo lỗi thời, nhưng là trở về ngã khác bằng con đường Giao ước mới.

5-. Ngày xưa các đạo sĩ đến với Chúa Kitô từ những vùng xa xôi sâu thẳm. Ngày nay mọi dân tộc đều có Chúa Kitô ở giữa mình, nhờ Giáo Hội và Thánh Thể, cho dù chung quanh họ còn nhiều miền đất lương dân. Cuộc du hành Chúa đòi họ không phải là đi ra khỏi biên giới để đến Thánh địa, nhưng là quảng đại đón nhận mọi chân lý đức tin.

6-. Vàng dâng cho Vua, trầm hương cho Tư tế, mộc dược cho Thân xác hy sinh. Vàng của đức tin, trầm hương của đức cậy mộc dược của đức mến. Vàng của việc lành, trầm hương của lời cầu nguyện, mộc dược của hy sinh.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...