21/05/2022
1271


 

Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 6 Phục Sinh – Năm C

Lời Chúa: Cv 15,1-2.22-29; Kh 21,10-14.22-23; Ga 14,23-29

 

MỤC LỤC

  1. Xa mặt, không cách lòng – ViKiNi 4
  2. Yêu thương. 8
  3. Sống Lời Chúa. 10
  4. Thánh Thần, nguyên lý của bình an. 14
  5. Chúa ở bên tôi. 19
  6. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái 21
  7. Tại sao lại tỏ mình ra cho con?. 35
  8. Ở lại trong tình yêu Chúa. 39
  9. Chúa Nhật 6 Phục Sinh. 43
  10. Sợ hãi 47
  11. “Bình an cho các con”. 50
  12. Phúc cho ai lắng nghe và giữ lời Chúa. 55
  13. Bình an. 61
  14. Bình an Chúa ban. 64
  15. Chúa Nhật 6 Phục Sinh. 67
  16. Quà tặng của Chúa. 70
  17. Bình an – Lm. Giuse Trần Việt Hùng. 73
  18. Nguồn bình an. 78
  19. Chơi trò hoà bình. 81
  20. Sáng kiến – Lm Vũ Đình Tường. 83

1. Xa mặt, không cách lòng – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Câu nói: Xa mặt cách lòng tiết lộ một sự thật chua chát của lòng con người. Khi xa nhau thì người ta dễ quên nhau. Bao nhiêu đôi vợ chồng đỗ vỡ vì sống xa nhau. Bao nhiêu con cái xa cha mẹ, thì dễ thành bất hiếu, bất nhân, bụi đời, hư hỏng. Bao nhiêu đầy tớ khi chủ vắng nhà thì như gà mọc đuôi tôm. Đúng như dụ ngôn đầy tớ bất trung (Mt. 24, 48-51)

Đức Giêsu muốn đề phòng cho các môn đệ khỏi lâm vào cảnh đau lòng xa mặt cách lòng, nên trước khi về trời, về cùng Chúa Cha, Người đã đảm bảo với môn đệ rằng về phía Thiên Chúa không có chuyện xa mặt cách lòng, và về phía con người cần phải giữ lời Thầy để xa mặt, nhưng không cách lòng.

1- Về phía Thiên Chúa: Xa mặt, không cách lòng. Để đảm bảo chắc chắn dù Đức Giêsu về trời, về cùng Chúa Cha, thì “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở với anh em”, “Cha Thầy còn phái đến nhân danh Thầy, Đấng bào chữa là Thánh Thần sẽ dậy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Đức Giêsu còn đoan hứa rõ ràng: “Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế. Chứ không để anh em mồ côi đâu”. “Vì Thiên Chúa đã thương thế gian đến nỗi đã ban Con Một của Ngài cho thế gian được sống và sống dồi dào”. Như vậy, cả Ba ngôi Thiên Chúa đều đến ở trong anh em, anh em được yêu mến, dậy dỗ, được bào chữa, nâng đỡ và được ban phúc bình an, không còn phải xao xuyến, sợ hãi, mà còn được vui mừng vì Thầy về cùng Chúa Cha cao trọng hơn Thầy. Vậy, về phía Đức Giêsu, càng xa mặt về phần xác bao nhiêu, thì về phần thiêng liêng càng gắn bó kết hợp với anh em ở khắp mọi nơi, và khắp mọi lúc.

2- Về phía con người: Xa mặt, phải làm sao để không cách lòng?

Để đề phòng khi xa mặt Chúa, mà lòng mình không xa Chúa; khi chủ vắng nhà, đầy tớ không bất trung mọc đuôi tôm, thì Đức Giêsu đã bảo: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy” giữ lời Thầy, thực thi lời Thầy, sống lời Thầy, truyền bá lời Thầy, mới chứng tỏ lòng yêu mến Thầy. Như thế, xa mặt, nhưng không cách lòng. Giữ lời Thầy là một trắc nghiệm rõ nhất, chính xác nhất về lòng mến Chúa. “Lửa thử vàng, gian nan thử đức” thì giữ lời Thầy là lửa thử lòng mến Thầy. Trong khoa học, để biết chắc một giả thuyết đúng, người ta phải thử bằng thí nghiệm, bao lâu chưa chứng nghiệm chắc chắn, thì chỉ là giả thuyết, chưa có giá trị khoa học. Nhà bác học Pasteur đã bác bỏ giả thuyết tự vật chất sinh ra sinh vật. Ông đã làm thí nghiệm nhiều lần đem dấm lên núi cao, nơi không khí trong sạch không có vi khuẩn, dấm không bao giờ lên men. Dấm chỉ lên men khi có vi khuẩn. Nhờ thí nghiệm đó, Pasteur đã phát minh ra khoa vi trùng học để chữa bao nhiêu chứng bệnh của con người.

Đức Giêsu đã dậy chúng ta khám phá ra lòng mến Chúa bằng phương pháp “giữ lời Chúa”. Hãy làm thí nghiệm xem chúng ta có lòng mến Chúa thật hay giả: “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”.

Các môn đệ sống với Thầy bằng xương bằng thịt, ai cũng tỏ ra yêu mến Thầy. Nhưng khi xa mặt Thầy, khi Thầy về cùng Chúa Cha, các ông muốn biết mình còn yêu mến Thầy nữa không, thì phải xem mình có thực thi lời Thầy không? Nếu các ông giữ lời Thầy, sống theo lời Thầy, chứng tỏ chắc chắn các ông còn yêu mến Thầy. Quả thực, trừ Giuda, hết thảy các môn đệ chẳng những giữ lời Thầy, sống lời Thầy, mà còn rao giảng lời Thầy, viết sách truyền bá lời Thầy cho muôn dân, muôn thế hệ. Các ông còn hy sinh chịu chết để chứng tỏ lời Thầy thật là lời hằng sống, lời của Chúa Cha ban ơn cứu độ, ban sự sống hạnh phúc muôn đời cho những ai tin và giữ lời Thầy: “Lời Thầy nói với anh em là Thần khí và sự sống” (Ga. 6, 63) “Ai nghe lời Thầy và tin vào Đấng đã sai Thầy thì có sự sống đời đời” (Ga. 5, 24). “Ai tuân giữ lời Tôi, sẽ không bao giờ phải chết” (Ga 8, 51). Các môn đệ đã giữ lời Thầy để chứng tỏ lòng mến Chúa và nhờ đó các ông được phần thưởng vinh quang muôn đời.

Phần chúng ta thì sao? Có bao giờ chúng ta dùng phương pháp “giữ lời Thầy” để thử mình có lòng mến Chúa không?

Thường thì chúng ta tưởng mình có lòng mến Chúa bằng đi lễ, đọc kinh, dâng hoa, rước kiệu, tổ chức Giáng sinh, Phục sinh long trọng vui vẻ… Như thế là yên tâm mình đã giữ đạo, là có lòng mến Chúa. Sợ rằng chúng ta chỉ kính bằng môi miệng mà lòng xa Thiên Chúa!

Có người tưởng mình giữ trọn mười điều răn như chàng thanh niên giầu có trong Tin Mừng “đã giữ tất cả các điều đó từ thuở nhỏ” (Mt. 19, 16-22; Lc. 18, 18-23). Anh tưởng như thế là được sống đời đời! Thật lầm to! Lời Chúa không phải chỉ có mười điều răn theo lối sống tiêu cực của anh, anh chưa có lòng mến Chúa và yêu người tích cực.

Chúng ta phải tích cực giữ lời Chúa, sống lời Chúa, thực thi lời Chúa và loan truyền lời Chúa như các môn đệ đã thi hành và ghi chép lại trong Tin Mừng.

Ca dao có câu: “Cá không ăn muối, cá ươn. Con cãi cha mẹ trăm đường con hư”. Nếu chúng ta không sống lời Chúa, mặc nhiên là cãi lời Chúa, chắc chúng ta sẽ chẳng được sống đời đời. Người xưa còn khuyên: “Con ơi muốn nên thân người. Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha”. Lời mẹ cha là phàm nhân còn có sức huấn luyện con cái nên người tốt: Huống chi lời Chúa, làm sao chúng ta không lắng nghe?

Lạy Chúa Giêsu, thân phận con là loài hình hài thể xác, luôn bị hấp dẫn bởi hình danh sắc tướng mầu mè cụ thể trước mắt. Khi xa mặt, dễ cách lòng, xin nâng đỡ phận hèn mệnh bạc của con, để con tận tình giữ lời Chúa. Xin Lời Chúa sẽ soi sáng con yêu mến Chúa và gắn bó với Chúa luôn mãi.

 

2. Yêu thương

Các con hãy yêu thương nhau.

Một con vật bị chết hay một món đồ bị mất, chúng ta lấy làm tiếc chứ không ai lấy làm thương. Tiếng thương là tiếng được dành riêng cho con người. Sở dĩ con người ta dễ thương là vì đã được tạo dựng nên giống hình ảnh Thiên Chúa. Nhưng hình ảnh ấy đã bị tội nguyên tổ làm cho đáng ghét. Dẫu vậy Thiên Chúa vẫn nhìn thấy nhân loại dễ thương, cho nên đã sai Con Một Ngài xuống thế để cùng ăn, cùng ở, cùng làm với họ và sau cùng đã đổ máu ra để cứu chuộc họ.

Như vậy Thiên Chúa đã trút tình yêu của Ngài vào chúng ta, và Ngài mới thấy chúng ta dễ thương. Phần chúng ta cũng thế, nếu biết trút tình thương vào những người chung quanh, chúng ta sẽ thấy họ dễ thương. Nói như vậy không có nghĩa là phải bóp bụng mà thương bằng một tình thương bất đắc dĩ, một tình thương giả tạo, chỉ có bề mặt mà không có bề sâu, hờ hững và gượng ép. Không phải là như thế. Nếu không thành thực với mình, thương mà đầy thành kiến, thương mà đầy ngờ vực, thì làm sao tránh khỏi những cảnh chướng tai gai mắt.

Nếu chúng ta cứ đinh ninh rằng: xã hội chỉ toàn những kẻ trộm cặp, thì quả nhiên chúng ta sẽ gặp phải nhiều người bất lương. Trái lại nếu chúng ta cho rằng những người láng giềng là những người tử tế, hiền lành, thì chúng ta sẽ gặp được những kẻ dễ thương.

Ông Diogène nghĩ rằng chung quanh mình chỉ toàn những kẻ dễ ghét, vì thế ông đã đốt đuốc đi giữa ban ngày để tìm người mà cũng chẳng thấy được ai dễ thương cả. Trái lại Đức Kitô quan niệm rằng trong thiên hạ ai cũng dễ thương, nên dù đi qua giữa vùng đất thù địch Samaria, Người cũng không gặp thấy ai dễ ghét. Vì thế, bộ mặt xã hội chung quanh, phần lớn do lập trường, do tâm trạng của tôi như lời Thánh Kinh: Gieo gió thì gặt bão, gieo ghen ghét thì sẽ gặt thù hằn, gieo tình yêu thì sẽ gặt được mến thương.

Người sống bên cạnh chúng ta dễ thương hay dễ ghét, phần lớn là do nơi hình ảnh chúng ta sẵn có đối với họ. Rồi một khi đã quan niệm họ khó thương và dễ ghét, tự nhiên chúng ta sẽ tìm cách trốn tránh. Thế nhưng cách cư xử và thái độ thương yêu của chúng ta lại có một ảnh hưởng rất lớn, vì góp phần xây dựng cuộc đời cho họ, để họ thêm can đảm, thêm hứng khởi, thêm lạc quan. Một luật tâm lý rất tầm thường đó là ai cũng muốn được lý tưởng hoá trong tâm hồn kẻ khác. Bởi vì nếu người ta cho tôi là tốt, là đứng đắn, là thánh thiện, tự nhiên tôi cảm thấy có một bàn tay vô hình thúc đẩy tôi cố gắng hầu trả lời cho dư luận thơm đẹp kia.

Nếu Chúa Giêsu không nhìn Phêrô cách âu yếm thì người môn đệ thất trung ấy làm gì có thể hồi tâm tỉnh ngộ được. Nếu Chúa Giêsu thiếu dịu hiền và kiên nhẫn đối với Mađalena, thì làm sao cô gái giang hồ ấy đã có thể đứng dậy ra khỏi cảnh bùn nhơ tội lỗi.

Tóm lược những điều vừa trình bày, chúng ta đi tới một kết luật: Điều lạ lùng không thể nào hiểu nổi, đó là Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta, yêu thương đến nỗi đã cúi xuống làm một người giống như chúng ta, biết đói biết khát, biết cười biết khóc, biết đau khổ biết buồn phiền, biết tủi nhục biết cảm xúc như tôi và vì tôi.

Nếu chúng ta hiểu được phần nào tại sao Thiên Chúa Đấng hạnh phúc vô cùng lại đem lòng thương tôi, dù tôi là kẻ rất khó thương, thì tôi sẽ không còn thấy cực nhọc khi phải tuân mệnh lệnh Chúa mà cư xử dễ thương với đồng loại nữa.

 

3. Sống Lời Chúa

Ngày hôm nay, người ta thường dùng rất nhiều những dấu hiệu để nói lên một điều gì đó. Dấu hiệu ngoài đường phố, dấu hiệu tại phi trường, dấu hiệu trong lớp học… Chẳng hạn một tấm bảng vẽ hai em nhỏ cắp sách, đó là dấu hiệu gần tới trường học, xe cộ phải thận trọng,

Trong lãnh vực tôn giáo, chúng ta cũng thường dùng những dấu hiệu bên ngoài để nói lên tâm tình, ý nghĩa hay ơn thánh bên trong. Chẳng hạn chúng ta quì gối để tỏ lòng tôn kính khi tham dự thánh lễ hay khi lãnh nhận các bí tích.

Tuy nhiên, điều đáng buồn đó là chúng ta chỉ chú trọng tới những dấu hiệu, những nghi thức bên ngoài mà quên mất điều chính yếu, đó là ý nghĩa và tâm tình bên trong.

Có những người tín hữu cận thận chu toàn những dấu hiệu bên ngoài như làm dấu thánh giá, đi nhà thờ và xưng tội rước lễ, khiến cho mọi người cứ tưởng rằng họ là những kẻ đạo đức và tốt lành.

Một bài thánh ca tuyệt vời và những nghi thức trang trọng có thể làm cho những người chung quanh cảm động đến rơi cả nước mắt. Tuy nhiên, nào có ích gì khi họ không mang lấy những tâm tình bên trong.

Nếu chỉ chạy theo hình thức và chỉ sống đạo trong nhà thờ, thiết tưởng chúng ta nên nhớ lại lời khuyên nhủ sau đây của thánh Giacôbê tông đồ:

– Anh em hãy thực thi lời Chúa, chứ không phải chỉ nghe suông mà thôi. Kẻ nghe mà không thực thi Lời Chúa cũng giống như một người soi gương. Hắn nhìn rồi bỏ đi và quên mất khuôn mặt mình như thế nào.

Phải chăng nhiều người trong chúng ta cũng đã nghĩ và làm như vậy?

Khi đi tham dự thánh lễ, họ chăm chú cầu nguyện thật sốt sắng. Ở trong nhà thờ, họ là những chú chiên ngoan. Thế nhưng, khi cánh cửa nhà thờ khép lại, ném họ vào giòng chảy cuộc đời, thì họ bỗng quên mất tất cả, họ vội hóa kiếp thành một loài lang sói: cũng gian tham, cũng độc ác, cũng thù oán…Họ chẳng bao giờ ý thức được rằng cuộc sống phải là như một thánh lễ nối dài. Họ chỉ sống đạo trong nhà thờ mà không sống đạo trong lòng cuộc đời. Hay nói cách khác, đời sống của họ dường như đã được chia thành những ngăn và đạo đức cũng chỉ là một ngăn nhỏ bé, hoàn toàn tách biệt, chẳng liên can và chẳng ảnh hưởng gì tới ngăn nghề nghiệp, ngăn nghĩ ngơi, năn ăn uống, ngăn gia đình, ngăn xã hội…

Nếu chỉ sống đạo một cách hời hợt bên ngoài như thế, thì Kitô hữu cũng như Kitô giáo sẽ chẳng thể nào trờ nên men trong bột, ánh sáng trong đêm tối, muối mặn trong thức ăn, hầu cảm hóa được gia đình, xã hội và những người chung quanh.

Đức tin không phải chỉ là một bộ quần áo đẹp chúng ta mặc vào trong những ngày lễ lớn khi đến nhà thờ, rồi sau đó, cởi bỏ và cất kỹ trong tủ. Trái lại đức tin phải bén rễ sâu và thấm nhiễm vào từng tư tưởng, từng lời nói và từng việc làm của chúng ta, như lời thánh Phaolô đã khuyên nhủ:

– Dù ăn, dù uống, dù làm bất cứ việc gì, anh em hãy làm vì Đức Kitô.

Trái đất xoay quanh mặt trời thế nào thì toàn bộ cuộc sống của chúng ta cũng phải xoay quanh Đức Kitô như vậy, để rồi chúng ta có thể nói lên như thánh Phaolô:

– Tôi sống, nhưng không còn là tôi sống, mà là chính Đức Kitô sống trong tôi.

Người Kitô hữu phải dám liều, dám hy sinh, dám dấn thân vào những môi trường xã hội để làm chứng cho Tin mừng. Người Kitô hữu phải sống đạo ở mọi nơi và trong mọi lúc. Hay nói một cách khác: trong bất kỳ hoàn cảnh nào, người Kitô hữu cũng phải sống Lời Chúa, tuân giữ những điều Ngài truyền dạy, như lời Ngài đã phán qua đoạn Phúc âm hôm nay:

– Ai yêu mến Thày, thì sẽ giữ lời Thày. Cha Thày sẽ yêu mến người ấy. Và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy. Trái lại, ai không yêu mến Thày, thì không giữ lời Thày. Và lời các con nghe đây không phải là của Thày, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thày.

Trong khi sống lời Chúa, thực thi những điều Ngài truyền dạy, chúng ta vừa làm chứng cho Tin mừng và biểu lộ được lòng yêu mến, trung thành và gắn bó của chúng ta đối với Chúa.

Để kết luận, tôi xin kể lại một mẩu chuyện như sau:

Ngày kia, Đức Khổng tử đã hỏi các học trò của mình:

– Các con có nguyện vọng gì về tương lai, thì hãy nói lên để chia sẻ cho mọi người cùng biết.

Trước hết, Tử cống liền nói:

– Con muốn làm một vị tướng đem quân tiêu diệt hết mọi kẻ thù cho đất nước được an bình thịnh vượng,

Tiếp đến, Tử lộ bèn thưa:

– Con muốn làm một nhà ngoại giao, đem ba tấc lưỡi đi giàn xếp mọi nỗi bất hòa giữa các dân các nước trong thiên hạ.

Còn Nhan tử, chần chừ một lúc rồi mới nói:

– Nguyện vọng của con là đem nhân nghĩa truyền bá sâu rộng, để mọi người thực thi câu tứ hải giai huynh đệ, bốn bể đều là anh em. Một khi đã yêu thương nhau, thì khỏi phải đem quân đi dẹp loạn, cũng như khỏi phải mang ba tấc lưỡi đi hòa giải…

Với chúng ta cũng thế. Hãy lắng nghe và thực thi Lời Chúa, nhất là tuân giữ giới luật yêu thương, nhờ đó bản thân chúng ta được hạnh phúc, gia đình chúng ta được hòa thuận, xã hội chúng ta được an vui, đồng thời nhờ đó chúng ta còn biểu lộ được lòng yêu mến và trung thành của chúng ta đối với Chúa như lời Ngài đã phán: Ai yêu mến Thày thì tuân giữ lời Thày.

 

4. Thánh Thần, nguyên lý của bình an

(Suy niệm của Lm. GB. Trần Văn Hào)

Phụng vụ hôm nay hướng tâm hồn chúng ta mừng lễ Chúa lên trời vào tuần tới, bởi vì việc Chúa về trời là tột đỉnh của mầu nhiệm Sống lại và đi vào vinh quang với Chúa Cha. Các bài đọc trong phụng vụ phản ánh thực trạng xảy ra nơi các tông đồ cách đây 2000 năm. Trong giây phút ly biệt đầy xốn xang, Chúa đã trấn an các học trò mình không phải bằng liệu pháp tâm lý, nhưng Ngài hứa ban Thánh Thần, là nguyên lý của bình an đích thực. Ngài khuyến mời các ông hãy tuân theo những chỉ dạy của Thần khí để có được bình an thực sự trong tâm hồn.

Thầy để lại bình an cho anh em.

Chắc chắn đây không phải là một lời chúc mang tính khách sáo, nhưng là một động thái Đức Giêsu đã thể hiện giữa các môn sinh của mình. Trong mỗi Thánh lễ, Giáo hội vẫn cầu nguyện xin Chúa Giêsu ban bình an xuống trên toàn thể Hội thánh giống như ngày xưa Ngài đã phú trao bình an cho các tông đồ trước khi đi thụ nạn. Nhưng sự bình an Chúa nói ở đây là bình an như thế nào?

Người ta vẫn thường nói: “Muốn có hòa bình phải chuẩn bị chiến tranh”. Cũng vậy, bình an mà Chúa Giêsu ban tặng đòi hỏi các học trò phải quyết liệt đi vào cuộc chiến đầy gian nan, đó chính là cuộc chiến đấu thiêng liêng. Trong cuộc chiến gian khổ ấy, chúng ta phải chấp nhận chết để được sống, phải đi vào mầu nhiệm tự hủy để được tái sinh trong đời sống mới. Vì thế, Chúa đã nói: “Thầy ban cho anh em bình an của Thầy không theo kiểu thế gian (c.27). Hòa bình theo cách thế gian chỉ dựa vào sức mạnh của vũ khí và tiềm lực quân sự, còn bình an mà Chúa Giêsu đem đến phát nguồn từ chính Thánh Thần. Trong thư gửi giáo đoàn Rôma, Thánh Phaolô cũng viết: “Hướng đi của Thần khí là sự sống và bình an” (Rm 8,6).

Trong lần tiếp ông Gorbachop và bà Raissa vào năm 1989, Đức Thánh Giáo hoàng Gioan Phaolô 2 đã trao tặng ông Tổng Bí thư Đảng cộng sản Liên Xô lúc bấy giờ một cuốn Kinh thánh, bên ngoài đề hàng chữ ‘Tôi là Đường, là Sự Thật và là Sự Sống’. Đồng thời, Đức Thánh Cha cũng trao tặng bà Raissa một cỗ tràng hạt với câu cắt nghĩa ‘Nữ Vương ban sự bình an’. Ngài muốn ngụ ý nói rằng, chỉ qua Đức Giêsu chúng ta mới tìm ra con đường của sự thật dẫn đến sự sống, đồng thời bình an thật sự đến với loài người không phải dựa trên vũ khí, tiền bạc hay sức mạnh quân sự. Chúa Giêsu ban bình an cho các học trò của Ngài không theo kiểu cách thế gian. Ngài mời gọi họ hãy rộng mở tâm hồn để Thần khí tác động và luôn sẵn sàng đi vào cuộc chiến nội tâm, đặc biệt khi đứng trước viễn ảnh đen tối của Thập giá.

Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi.

“Đừng sợ”. Đây là điệp khúc được Chúa Giêsu nhắc đi nhắc lại rất nhiều lần. “Đừng sợ những kẻ giết được thân xác nhưng không làm gì được linh hồn anh em”. “Đừng sợ, ta đã thắng thế gian”… Đây không phải là một lời trấn an mang dạng thức tâm lý, vì Chúa Giêsu không bao giờ đóng vai một nhà tâm lý học đối với các môn sinh của mình. Ngài mời gọi các môn đệ can đảm đối diện trước viễn ảnh Thập giá và cái chết. Những lời Chúa nói trong Tin mừng hôm nay nằm trong bối cảnh bữa tiệc ly trước khi đi thụ nạn. Trong bài diễn từ rất dài ấy, Chúa nhắc đi nhắc lại về nguyên lý của tình yêu, là yếu tố giúp ta thắng vượt mọi sợ hãi. Thánh Phaolô cũng đã viết: “Tình yêu mạnh hơn sự chết”. Tình yêu sẽ giúp chúng ta thực sự lưu lại trong Chúa, Đấng hằng sống, và chính Chúa Giêsu đã mời gọi: “Anh em hãy ở lại trong tình yêu Thầy” (Ga 15,9) bằng cách tuân giữ những điều Thầy truyền dạy”(c.10). Cũng thế, ngày hôm nay, Chúa cũng khẳng định rằng yêu mến Chúa chính là tuân giữ lời của Ngài (Ga 14,23).

Sợ hãi là kinh nghiệm mà chúng ta vẫn thường hay có. Người trẻ sợ tuổi già mau đến. Thanh niên khỏe mạnh sợ lúc bệnh tật hay ốm đau. Đôi trai gái yêu nhau say đắm sợ những giây phút ân ái mặn nồng vụt tan biến. Người giàu sợ sẽ đến ngày khách kiệt… Nói chung, có muôn vàn lý do để phải sợ hãi. Khi đối diện trước cái chết, chính Chúa Giêsu cũng sợ. Sự sợ hãi dâng lên tột độ đến mức mồ hôi và máu toát ra. Ngài đã lớn tiếng và rơi lệ cầu xin với Đấng có thể cứu mình khỏi chết (Dt 5,7), vì Ngài lo sợ, nỗi sợ theo bản tính tự nhiên của con người. Ngài sợ, vì tội lỗi của cả trần gian đang đè nặng trên đôi vai Ngài và cuối cùng dẫn đến cái chết nghiệt ngã. Nhưng khi từ cõi chết sống lại, Chúa Giêsu đã trở thành nguyên lý cho chúng ta về sự bình an để thoát vượt sợ hãi. Khi hiện ra với các môn đệ vào ngày thứ nhất trong tuần, Chúa đến giữa lúc các ông đang ngồi co rúm lại vì sợ sệt. Chúa thổi hơi vào các ông, ban Thánh Thần và trao chúc bình an. Thánh Gioan nêu ra tất cả những chi tiết này để liên kết sự bình an với ân điển của Thần khí, hầu giúp chúng ta thoát vượt sợ hãi. Ngài còn cho các môn đệ thấy những dấu chứng về cuộc khổ nạn nơi thân xác Ngài, và đó cũng là vết tích gây nên sự sợ hãi nơi các tông đồ trước đây.

Đức Thánh Cha Gioan Phaolô đệ nhị đã khởi đầu triều đại Giáo hoàng của Ngài với thông điệp ‘Đừng sợ’. Bước vào năm thánh 2000, Ngài nhắc lại lời hiệu triệu ấy và mời gọi chúng ta, đặc biệt các bạn trẻ: “Đừng sợ. Các con hãy mở tâm hồn để cho Chúa Giêsu chiếm ngự” (Open door to Christ).

Vì thế, thoát khỏi sợ hãi không phải là một liệu pháp mang tính tâm lý, nhưng là một thái độ của đức tin, cắm sâu niềm tin vào mầu nhiệm Đức Giêsu đấng đã chết và đã sống lại.

Thành thánh Giêrusalem, quê hương của bình an đích thực.

Không phải vô tình mà Giáo hội chọn bài đọc 2 của phụng vụ hôm nay trích trong sách khải huyền, đan kết với sứ điệp Chúa nói trong Tin mừng Gioan. Chúng ta được mời gọi hướng về quê hương vĩnh cửu, là thành thánh Giêrusalem trên trời, nơi chốn của bình an viên mãn. ‘Thành thánh chói lọi vinh quang Thiên Chúa và Con Chiên chính là ngọn đuốc chiếu soi thành’. Có lẽ chúng ta nghĩ rằng quê hương mai sau của chúng ta là một thực tại rất xa vời so với cuộc sống hiện sinh của ngày hôm nay. Không phải thế. Có một bài hát với ca từ rất ý nghĩa: ‘ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay’. Thành Thánh Giêrusalem mai sau đã được bắt đầu ngay từ ngày hôm nay, nếu chúng ta biết sống sung mãn trong tình yêu, kết hợp mật thiết với Chúa Giêsu.

Đây không phải là nguyên tắc của lý thuyết xa vời vợi, nhưng đời sống đức tin của chúng ta phải được thể hiện cụ thể, bằng cách đi sâu vào sự kết hợp thân tình với Chúa Giêsu qua việc cầu nguyện mỗi ngày. Mẹ Thánh Têrêsa Calcutta, người sẽ được tôn phong Hiển thánh vào ngày 4 tháng 9 năm nay, là một chuyên gia trong việc thực hành bác ái, đặc biệt đối với những người cùng khổ và bị bỏ rơi. Nhưng chúng ta đừng quên rằng Mẹ luôn nhấn mạnh và khuyên mời các con cái mình chuyên chăm cầu nguyện mỗi ngày. Trong cầu nguyện kết hiệp với Chúa, Mẹ đã nghe được tiếng Chúa Giêsu thét gào trên Thập giá: “Ta khát”. Khởi từ đời sống cầu nguyện, Mẹ đã hăng say lao vào những công việc bề bộn để phục vụ. Điều chính yếu không phải là chúng ta đã làm được những gì, nhưng quan trọng nhất, chúng ta đang là ai, chúng ta có thực sự là môn đệ của Chúa Giêsu và có thường xuyên cầu nguyện để lưu lại trong tình yêu với Chúa hay không.

Kết luận

Chúa nói hôm nay: “Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại trong người ấy”. Đó là nguyên tắc bất di bất dịch để có được bình an. Chân lý này cũng được Thánh Phanxicô Salê quảng diễn khi Ngài nói với chúng ta: “Ama et fac quod vis”, bạn hãy yêu mến đi, rồi bạn muốn làm gì thì làm.

 

5. Chúa ở bên tôi.

Có một người kia chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một khu vườn, ông ta nhìn thấy chiếc kén của một loài bướm lạ. Ông ta liền ngắt cành cây và mang chiếc kén về nhà. Ít ngày sau, ông ta thấy có nhúc nhích bên trong, nhưng con bướm vẫn chưa phá được chiếc kén để bay ra ngoài. Ngày thứ hai và ngày thứ ba ông ta đều ghi nhận được như vậy, dường như không có tí tiền triển nào. Thế là ông lấy mũi dao rạch chiếc kén cho chú bướm bò ra. Thế nhưng, ông rất thất vọng vì chú bướm chỉ sống được có một lúc rồi lăn đùng ra mà chết. Về sau, một nhà sinh vật học đã cắt nghĩa cho ông hay: Thiên Chúa đã sắp xếp để con bướm phải đấu tranh mới thoát ra được khỏi chiếc kén của mình, vì nhờ đấu tranh gian khổ nó mới được phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.

Nhà sưu tầm bướm tưởng rằng dùng lưỡi dao rạch chiếc kén thì sẽ giúp cho chú bướm được thuận lợi hơn, nào ngờ làm như thế ông ta đã huỷ diệt khả năng phát triển và sinh tồn của chú bướm.

Từ câu chuyện trên chúng ta đi vào cuộc sống hằng ngày. Thực vậy có những lúc chúng ta cảm thấy như gánh nặng cuộc đời với những khổ đau và bất hạnh đè xuống trên đôi vai nhỏ bé của chúng ta. Còn Thiên Chúa chúng ta tin yêu thì lại vắng bóng hay lánh mặt.

Chẳng hạn: trước đây chúng ta đã từng cảm nghiệm được sự bình an và hạnh phúc mỗi lần cầu nguyện, thế mà bây giờ chúng ta lại chán ngán. Hoặc lúc trước, chúng ta đã từng cảm thấy đức tin thật mạnh mẽ, khả dĩ có thể dời núi chuyển non, thế mà giờ đây, dường như nó không nhắc nổi một viên sỏi nhỏ. Chúng ta cảm thấy Chúa như bỏ rơi và không còn yêu thương chúng ta nữa.

Thực ra Chúa vẫn luôn yêu thương chúng ta, nhưng Ngài cũng biết rằng đã đến lúc chúng ta cần khởi đầu một giai đoạn mới để được trở nên trưởng thành. Chẳng hạn như đã đến lúc chúng ta phải nhận ra rằng việc cầu nguyện không hệ tại những cảm xúc riêng tư. Và trong những lúc tâm hồn bị chai cứng thì chúng ta lại càng phải cầu nguyện và lời cầu nguyện trong một hoàn cảnh như thế lại thường là lời cầu nguyện tuyệt hảo nhất. Chính Chúa cũng đã xác quyết qua đoạn Tin Mừng hôm nay: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy.

Đã đến lúc chúng ta phải hiểu rằng đức tin không chỉ là một cảm giác mà là một dâng hiến, một phó thác, một xin vâng với Chúa. Chúng ta chẳng khác gì chú bướm trong câu chuyện vừa nghe. Thiên Chúa muốn chúng ta phải đấu tranh gian khổ để nhờ đó chúng ta được tiến triển về phương diện thiêng liêng. Vào một thời điểm nào đó, chúng ta phải cố gắng, phải nỗ lực trong gian nan cực khổ. Trong những giây phút đen tối ấy, Chúa vẫn ở bên chúng ta, nâng đỡ chúng ta để đức tin của chúng ta được trở nên vững mạnh và tinh ròng hơn.

 

6. Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái

Chủ Ðề: Ơn ban của Chúa Giêsu phục sinh: Đấng Phù Trợ, Bình an. tình yêu.

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Trong Thánh lễ hôm nay, chúng ta sẽ nghe những lời Chúa Giêsu nói trước khi Ngài ra đi chịu chết. Ngài bảo chúng ta hãy tuân giữ những huấn lệnh của Ngài. Ngài hứa ban Thánh Thần cho chúng ta và ban bình an cho chúng ta.

Đó chính là những lời trăn trối của Chúa, những điều Ngài tha thiết nhất. Chúng ta hãy chăm chỉ lắng nghe và cố gắng thực hiện.

  1. Gợi ý sám hối

Chúa đã nói “Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Chúng ta chưa yêu mến Chúa thật vì chúng ta không tuân giữ Lời Chúa.

Chúa đã ban Chúa Thánh Thần cho chúng ta. Nhưng chúng ta nhiều khi không sống theo sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Chúa đã ban bình an cho chúng ta. Nhưng chúng ta nhiều khi không sống bình an hòa thuận với nhau.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Cv 15,1-29)

Đang khi Phaolô và Barnaba truyền giáo cho dân ngoại, thì những người Do Thái từ Giêrusalem đến buộc dân ngoại tòng giáo phải cắt bì và tuân giữ lề luật của Môsê. Hai vị truyền giáo không đồng ý nên trình vấn đề lên Hội Thánh.

Hội Thánh đã họp hội nghị ở Giêrusalem và ra quyết định: “Thánh Thần và chúng tôi đã quyết định không đặt lên vai anh em một gánh nặng nào khác ngoài những điều cần thiết này: là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm”.

  1. Tin Mừng (Ga 14,23-29)

Có thể coi đoạn Tin Mừng này là một bài giáo lý về Chúa Ba Ngôi: Trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu nhắc tới cả 3 ngôi Thiên Chúa: “Ai nghe các giới răn Thầy truyền và tuân giữ…. Ai yêu mến Thầy, sẽ được Cha Thầy yêu mến… Đấng Phù Trợ, là Thánh Thần mà Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, chính Ngài sẽ dạy các con mọi điều và sẽ nhắc nhở các con tất cả những gì Thầy đã nói với các con”.

Như thế, giáo lý cơ bản về Ba Ngôi là:

Chúa Cha là Đấng sai Chúa Con đến với loài người

Chúa Con vâng lời Chúa Cha đến với loài người để dạy loài người những lệnh truyền

Chúa Thánh Thần lại được Chúa Cha sai đến nhân danh Chúa Con, để dạy loài người hiểu sâu hơn những lệnh truyền của Chúa Con.

Thái độ con người phải có đối với Ba Ngôi:

Yêu mến Chúa Con nên tuân giữ những điều Ngài dạy.

Chúa Thánh Thần sẽ giúp đỡ họ làm điều đó

Kết quả: Ba Ngôi sẽ “yêu mến”, “tỏ mình ra” và “ở trong” người ấy.

  1. Bài đọc II (Kh 21,10-23)

Một thị kiến khác về Thành Giêrusalem mới:

Thành từ trên trời ngự xuống

Rất xinh đẹp và tươi sáng

Thành không có đền thờ vì chính Thiên Chúa là đền thờ của thành; thành cũng không có mặt trời và mặt trăng vì chính Thiên Chúa là ánh sáng của thành.

  1. Gợi ý giảng
  2. Bình an

Trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai người là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.

Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong. nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng nó làm ta buồn ngủ quá”. Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà nảy giờ ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã đặt tác giả của nó là người họa sĩ hạng nhất của triều đình.

Chúa Giêsu đã nói: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con không theo kiểu thế gian. Lòng các con đừng xao xuyến, các con đừng sợ hãi.” Những lời này Ngài nói giữa bữa Tiệc ly. Phải chăng đây là một thời điểm không thích hợp để nói về bình an, vì khi ấy hoàn cảnh bên ngoài rất là xáo trộn? Không, trái lại rất thích hợp. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.

Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong. Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.

Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.

Đó chính là thứ bình an mà thế gian không thể ban tặng được. (FM)

  1. Hiện diện của kẻ vắng mặt (Ga 14,23-29)

Có một nhà chuyên môn sưu tầm các loài bướm. Ngày nọ, khi bước vào một công viên, ông đã gặp tổ kén lạ. Ông liền bứt cành cây đem kén bướm về nhà. Ít ngày sau, ông thấy nhúc nhích bên trong kén, nhưng con bướm vẫn chưa phá kén bay ra.

Hôm sau, kén lại nhúc nhích, nhưng chẳng có gì khác lạ. Lần thứ ba, vẫn thấy như trước, ông liền lấy dao rạch kén, thế là con bướm bò ra ngoài. Tuy nhiên, bướm không tăng trưởng và chẳng bao lâu thì chết.

Sau này, ông được người bạn là nhà sinh vật học cắt nghĩa như sau: Thiên nhiên đã xếp đặt cho con bướm phải đấu tranh mới thoát ra khỏi cái kén, vì nhờ đấu tranh gian khổ mà nó có thể phát triển mạnh mẽ để sinh tồn.

***

Muốn làm cánh bướm bay trên ngàn hoa rực rỡ, bướm phải làm kiếp sâu lặng lẽ, cô tịch trong vỏ kén lặng lờ, khuất nẻo. Muốn làm con bướm bay trong bầu trời xanh ngắt, bướm phải là con sâu đen đủi xấu xa, vặn vẹo đau đớn trong tổ kén đợi chờ.

Để trở nên những tín hữu Kitô vững mạnh, tăng triển về đường thiêng liêng, chúng ta phải trải qua một thời kỳ gian khổ để tiến triển về mặt tâm linh, chúng ta cũng phải vượt qua đấu tranh thử thách. Nhưng trong những thời điểm ấy, Thiên Chúa luôn bên cạnh chúng ta, cho dù chúng ta không nhìn thấy Người.

Lúc sắp sửa ra đi, để trấn an các tông đồ, Chúa Giêsu đã hứa rằng, dù vắng mặt, nhưng Người vẫn luôn hiện diện giữa các ông và ban bình an cho các Ông. Sự hiện diện của kẻ vắng mặt! Đó là cảm nghiệm mà chỉ có những kẻ yêu nhau mới nhận ra mà thôi. Từ sau biến cố Phục Sinh, Chúa Giêsu đã trở nên con người của mọi thời đại.

Người hiện diện trong những kẻ yêu mến Người: “Ai yêu mến thầy, Cha của Thầy và Thầy sẽ đến ở lại với người ấy” (Ga 14,23).

Người hiện diện trong những kẻ thực hành và giữ lời Người: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy… Và lời anh em nghe đây không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy” (Ga 23,24).

Người hiện diện không chỉ đơn độc, nhưng là hiện diện cùng với Chúa Cha và Chúa Thánh Thần. Cả Ba Ngôi cùng đến thăm và ở lại trong những ai yêu mến Chúa Giêsu và tuân giữ lời Người.

Nếu Chúa Cha chính là Thiên Chúa trong tình trạng vô hình, thì Chúa Giêsu cũng là Thiên Chúa đã hiện diện, nói năng, hành động để cứu chuộc con người; và Thánh Thần cũng là Thiên Chúa, Đấng kéo dài cách thiêng liêng sự hiện diện, lời nói và hành động của Chúa Giêsu và Chúa Cha.

Vì thế, Thánh Thần sẽ thông truyền trọn vẹn sự sống của Thiên Chúa cho con người, khi soi sáng dạy dỗ con người dần dần hiểu Lời Thiên Chúa, Lời đó chính là Chúa Giêsu, Ngôi Lời của Chúa Cha: “Thánh Thần sẽ dạy cho anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em” (Ga 14,26).

Với lời hứa này, kể từ ngày lễ Hiện Xuống đầu tiên, Thánh Thần đã soi sáng và hướng dẫn Giáo hội hiểu thấu triệt Lời Chúa trong Kinh Thánh, để trình bày một cách sáng tỏ hơn, và để giải quyết những vấn đề mới mẻ cho từng thời đại. Vì thế mà các Công đồng liên tiếp được triệu tập dưới sự bảo trợ của Thánh Thần.

***

Lạy Chúa Ba Ngôi, xin cho chúng con nhận ra sự hiện diện của Người trong lòng chúng con, trong lòng Giáo hội, và trong lòng thế giới:

Để chúng con luôn yêu mến và tuân giữ Lời Người.

Để chúng con được soi sáng và hướng dẫn bởi Thánh Thần.

Và để chúng con được canh tân và tái tạo mỗi ngày trong Thiên Chúa Tình Yêu. Amen. (Thiên Phúc)

  1. “Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”

Sau khi tha thiết nói với các môn đệ những lời thân tình nhất xuất phát từ đáy lòng trong một bài nói chuyện dài mà thánh Gioan đã chép lại suốt trong hai chương 13 và 14, Chúa Giêsu đúc kết lại trong một lời khuyên ân cần: “Nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”. Giữ lời Chúa là giữ lời nào? Thưa là giữ chính cái điều mà Chúa Giêsu đã nhấn mạnh lặp đi lặp lại nhiều lần trong suốt hai chương 13 và 14 này “Chúng con hãy yêu thương nhau.

Thế nhưng, yêu thương thì có gì là khó đâu mà Chúa phải dạy, phải nhắc và phải nhấn mạnh như là một giới răn mới của Chúa, một lời trối trăn cuối cùng trước khi Ngài ra đi chịu chết? Bởi vì tự trong bản tính, con người có sẵn nhu cầu tình cảm muốn yêu thương: mới sinh ra tự nhiên đức bé thèm khát tình thương của cha mẹ, lớn lên người thanh niên nam nữ tự nhiên muốn yêu thương một người nào đó, và suốt đời ai cũng muốn sống trong tình yêu thương cho đến chết. Yêu thương là việc tự nhiên, là quá dễ dàng, cần gì Chúa Giêsu phải dạy dỗ?

Chúng ta đừng coi thường Lời Chúa, mà phải phân biệt rõ những mức độ yêu thương, và tìm hiểu xem Chúa muốn ta yêu thương như thế nào.

– Yêu thương có khi là một điều quá dễ: Người ta sung sướng khi yêu thương, người ta ham thích yêu thương, người ta thèm khát yêu thương và người ta làm đủ cách để được yêu thương. Thí dụ như một đức bé mồ côi thèm khát tình yêu thương của cha mẹ; hay một người tuổi trẻ thèm khát tình yêu thương của một người tình. Sở dĩ yêu thương mà thích, mà sung sướng là vì yêu thương ở mức độ này có nghĩa là đón nhận: nhận được những sự chăm sóc, chiều chuộng, vuốt ve, âu yếm.

– Yêu thương có khi là một điều hơi khó, người ta phải hơi cố gắng mới yêu thương được. thí dụ tôi thương một người bạn. Người bạn đó mượn tôi một số tiền hay nhờ tôi làm giúp một công việc khó khăn. Tôi hơi tiếc, hơi ngại nhưng vì yêu thương bạn mà tôi cố gắng đưa tiền, cố gắng chịu cực để giúp bạn. Yêu thương ở mức độ này có nghĩa là chi đi, cho đi một phần của những gì mà tôi quý chuộng.

– Và sau cùng, yêu thương có khi là một điều hết sức khó, vì yêu thương mà người ta phải đau khổ, phải hy sinh thật nhiều. Thí dụ nàng Kiều vì thương cha già sắp lâm vòng tù tội mà phải bán mình để chuộc cha. Yêu thương ở mức độ này có nghĩa là phải cho đi hoàn toàn, cho đi tất cả.

Tóm lại có ba mức độ yêu thương:

Yêu thương rất dễ khi được đón nhận.

Yêu thương hơi khó khi phải cho đi một phần những gì mình quý giá.

Và yêu thương hết sức khó khi phải cho đi hoàn toàn, hy sinh tất cả.

Khi trối “chúng con hãy yêu thương nhau”, Chúa Giêsu muốn chúng ta yêu thương ở mức độ thứ ba này.

Chúa nói “nếu ai yêu mến Thầy thì hãy giữ lời Thầy”. Mà Lời của Thầy là “chúng con hãy yêu thương nhau”, yêu thương ở múc độ cao nhất là dám cho đi tất cả, hy sinh hoàn toàn. Chúng ta có vâng giữ Lời Chúa để tỏ ra chúng ta yêu mến Chúa hay không?

Trước hết trong gia đình, giữa vợ chồng với nhau. Ôn lại cuộc sống gia đình, hẵn nhiều vợ chồng người thấy rằng đã có một thời vợ chồng đã yêu thương nhau say đắm, hầu như lúc nào cũng quấn quít bên nhau. Đó là thời kỳ đầu tiên, yêu thương là quá dễ vì khi đó yêu thương là đón nhận, nhận những nét duyên dáng, nhận những cảm xúc bồng bột mà tuổi trẻ đang thèm khát. Sau đó tới một thời vợ chồng không còn quá say đắm nhau nữa mà phải đối diện với thực tế của cuộc sống gia đình: phải làm lụng cực nhọc, phải chịu đựng những tính ý khác biệt của nhau… Khi đó thì đã thấy hơi cực, hơi khó rồi. Nhưng vì thương vợ thương chồng mà họ cố gắng chịu cực, chịu khó. Tình yêu như thế là đã lên đến mức độ hai: yêu thương là cho đi. Thế nhưng có một số vợ chồng càng về già càng chán ngán nhau: vợ thì bệnh hoạn quanh năm suốt tháng, chồng thì lẩm cẩm khó tính hay chửi bới cộc cằn. Sống chung với một người như thế chẳng còn thấy một chút thú vị mà chỉ toàn bổn phận, cực nhọc, khổ sầu. Cuộc sống lúc này đang mời gọi những vợ chồng ấy đưa tình yêu thương của mình lên mức độ thứ ba, mức độ cao nhất, là mức độ cho đi hoàn toàn, hy sinh tất cả. Hãy cố gắng hy sinh cho nhau thì mới là yêu thương thật, mới là làm theo lời Chúa dạy “chúng con hãy yêu thương nhau”.

Bây giờ chúng ta hãy nhìn đến liên hệ của mình với những người khác. Thì cũng thế: có những người mình yêu thương thật dễ, đó là những người có lợi cho mình, hay giúp đỡ mình, hay an ủi mình. yêu thương những người này dễ vì yêu thương là đón nhận. Có những người khác yêu thương họ mình thấy có khi dễ có khi khó vì họ có khi làm mình vui có khi khiến mình buồn, nhưng mình vẫn cố gắng thương họ được, vì yêu thương họ mình vừa được đón nhận mà vừa phải cho đi. Nhưng có những người chẳng mang lại cho mình lợi lộc gì cả mà chỉ toàn làm cho mình cực lòng, mất mát, khổ đau, thí dụ như những người nghèo, những người bệnh, những người tội lỗi, những kẻ thù… Nhưng xin được lưu ý rằng chính đây là những người Chúa muốn ta yêu thương, Chúa muốn ta hy sinh, Chúa muốn ta cho đi hoàn toàn. Chúa đã nói ” nếu chúng con chỉ yêu thương những kẻ mến chuộng mình thì nào có công gì? Những người thu thuế há không làm như thế sao?

Yêu thương mới xem ra thì quá dễ. Hay nói đúng hơn yêu thương theo khuynh hướng tự nhiên thì quá dễ, vì theo tự nhiên người ta chỉ yêu thương khi được đón nhận, chỉ yêu thương những ai có lợi cho mình.

Nhưng yêu thương cho đúng nghĩa, yêu thương đúng như ý Chúa muốn thì lại hết sức khó, vì đòi hỏi ta phải cho đi, phải hy sinh, đòi ta phải yêu thương cả những người không có lợi cho ta mà còn làm khổ ta.

Nhưng đó là mức độ yêu thương cao nhất, có yêu thương được như vậy thì mới là làm theo Lời Chúa. có làm theo Lời Chúa thì mới là yêu mến Chúa thật.

Xin Chúa giúp chúng ta biết cho đi, biết hy sinh để thực sự yêu thương như Chúa muốn trong tương quan giữa vợ chồng con cái trong gia đình, cũng như trong tương quan giữa chúng ta với mọi người khác.

  1. Để cho đi

Trong bữa Tiệc ly, Chúa Giêsu nói cho các môn đệ hai Ngài sắp ra đi. Chẳng lạ gì khi các ông buồn. Họ không muốn Ngài ra đi. Họ muốn giữ Ngài lại mãi bên họ. Thật không dễ chịu chút nào khi một người thân yêu ra đi. Cũng không dễ chịu gì khi để mất đi một món đồ hay một con vật mà mình yêu thích.

Một cậu bé nhìn thấy một chú chim non rơi từ chiếc tổ trên cành xuống nằm trên mặt đất. Cậu lượm nó lên, sưởi ấm nó. Một lát sau chú chim tỉnh dậy. Nhưng thay vì đặt chú chim trở về tổ, cậu đem nó để trong một chiếc lồng. Hằng ngày cậu mang cho nó rất nhiều thức ăn và nước. Chú chim ngày càng khoẻ mạnh. Nó bắt đầu bay và hót. Cậu bé rất thích. Nhưng một hôm chú chim cứ đập cánh xành xạch vào thành chiếc lồng. Cậu bé không hiểu nên hỏi cha mình. Người cha giải thích:

– Tại vì nó không hạnh phúc đó.

Cậu bé cãi lại:

– Con đã đặt vào lồng cho nó tất cả những gì nó cần rồi kia mà.

– Nhưng vẫn còn thiếu cái điều mà chim yêu quý nhất.

– Điều gì?

– Đó là tự do.

– Bộ cha muốn con thả cho nó đi sao?

– Đúng thế.

– Nhưng con không thể cho nó đi. Nó đâu có biết là bên ngoài chiếc lồng này có rất nhiều hiểm nguy đang rình rập nó.

– Nhưng con phải chấp nhận như thế.

Cậu bé nài nỉ:

– Cha ơi, con thương nó lắm.

– Nếu con thương nó thì con phải để cho nó đi.

Cậu bé đành mở cửa lồng cho chú chim bay đi. Lòng cậu rất buồn. Nhưng chú chim vừa ra khỏi lồng đã cất tiếng hót líu lo, tỏ vẻ như trước đây chưa bao giờ vui vẻ và hạnh phúc như thế. Khi đó cậu bé không buồn nữa mà cảm thấy vui lây.

Các tông đồ không muốn Chúa Giêsu ra đi. Nhưng như thế là các ông không biết nghĩ cho Chúa mà chỉ nghĩ cho mình. Chúa Giêsu biết thế nên mới nói: “Nếu các con yêu mến Thầy thì các con hẳn vui mừng vì Thầy về cùng Cha Thầy”. Về cùng Cha, đó là mục tiêu cả đời của Chúa Giêsu.

Tình yêu chiếm hữu thì rất thông thường. Nhiều cha mẹ cũng thương con kiểu đó. Họ đã ban sự sống cho chúng, nhưng họ không để cho chúng phát triển sự sống của chúng theo cách của chúng. Nhiều cặp vợ chồng cũng vậy. Họ cứ muốn người vợ hay người chồng của mình sống theo cách sống của mình.

Tình yêu chiếm hữu gây ra rất nhiều đau khổ. Còn tình yêu không chiếm hữu thì phát sinh nhiều điều kỳ diệu cho cả hai phía, chẳng hạn: đổi mới, lớn lên, phát triển v.v.

Phải biết để cho những người hoặc những gì mình yêu thích ra đi. Làm như thế quả là mất mát đấy. Nhưng mất cái hiện tại để được cái tương lai, mất điều mình yêu quý mà sẽ được điều đáng quý hơn. Bởi vậy, trước khi ra đi, Chúa Giêsu đã nói: “Thầy ra đi thì có lợi cho các con. Thật vậy nếu Thầy không ra đi thì Đấng Phù Trợ sẽ không đến với các con; nhưng nếu Thầy ra đi, Thầy sẽ sai Đấng ấy đến với các con” (Ga 16,17) (FM)

  1. Bình an nội tâm

Có người cứ nuôi mãi thù hận nên trong lòng không có bình an. Ngược lại, người có bình an trong lòng thì cuộc sống vui vẻ hạnh phúc.

James và John là hai người láng giềng của nhau. Ruộng của họ nằm sát bên nhau. Năm đó thời tiết khô hạn nên việc cày bừa rất vất vả. James rất khó chịu. Anh cứ lấy roi quất lia quất lịa lên con ngựa đang kéo cày. Nhưng càng bị quất thì con ngựa càng tỏ ra bướng bỉnh. James biết rằng lúa mì trong mảnh ruộng người hàng xóm cao hơn lúa của anh. Mỗi khi nhìn sang mảnh ruộng ấy, anh có cảm tưởng là anh chàng hàng xóm đang nhạo cười mình.

John thì trái lại. Dù cũng vất vả nhọc nhằn, nhưng anh luôn bình thản và cứ kiên trì trong công việc. Thỉnh thoảng anh ngừng lại cho con ngựa được nghỉ ngơi. Anh nhìn sang ruộng của James và thấy rất tệ. Anh muốn sang giúp lắm nhưng biết rằng anh kia sẽ không bao giờ chịu. Thôi thì đành để James làm một mình vậy.

Điều khác biệt giữa hai người láng giềng này không phải ở tình hình bên ngoài mà ở tình trạng nội tâm. Chúng ta nhìn thế giới và tha nhân không phải như cái họ là, mà như cái ta là. Vì tâm hồn của John vui vẻ nên anh nhìn đời một cách lạc quan. James thì trái lại, bởi nội tâm bất an nên nhìn cái gì bên ngoài cũng khó chịu. (FM)

  1. Chuyện minh họa

Ngày 8.10.1952, một vụ án xảy ra tại Bavière, một thiếu nữ 18 tuổi tên là Emma bị thảm sát cách tất tưởi. Chuyến xe lửa vừa tới nhà ga, các chị em đồng hành ngạc nhiên vì không thấy Emma đâu, nên báo cho “Ông Xếp” nhà ga hay tin. Thế là lập tức các nhân viên hỏa xa chia nhau đi tìm kiếm doc theo đường xe lửa suốt hai tiếng đồng hồ mới phác giác ra xác Emma đang nằm xõng xượt trong vũng máu, chân tay bị chặt cụt.. Xếp ga mở cuộc điều tra. Tất cả mọi người hành khách bị thẩm vấn đều trả lời là không biết gì cả. Trong số đó có một chàng thanh niên 24 tuổi. Khi được hỏi thì anh trả lời ấp úng là không biết gì cả. Nhưng vì có vẻ ngây ngô thành thật nên người ta cũng bỏ qua.

Hai tuần sau, chàng trai này đến gõ cửa Tu viện các Cha dòng Bênêđitô xin nhập Dòng. Anh được nhận. Sau hai năm thử luyện thấy không có gì ngăn trở, Bề Trên nhận anh vào Tập viện. Khoảng tháng 10, trước ngày vào Tập viện, anh đến chỗ đường sắt nơi đã tìm thấy xác Emma nằm trong vũng máu. Anh quỳ chắp tay cầu nguyện. Ngày hôm sau, lúc sáng sớm tinh sương, anh tới mồ Emma, người mà chính anh đã giết chết. Anh đã la lên trong tiếng khóc nức nở: “Tôi không chịu được nữa”. Rồi anh đi tự nộp mình cho cảnh sát và thú tất cả tội lỗi của anh. Cái tội mà người ta đã quên đi vì không điều tra manh mối gì. Anh thú nhận là anh đã xô Emma xuống và đâm chết vì nghe cô ta nói là cô ta không biết đến anh nữa. Vì thế nên anh đã nổi cơn điên nên đã hành động độc ác như thế.

Câu truyện trên cho chúng ta thấy, dù bốn bức tường kín nơi Tu Viện cũng không trấn an được tiếng lương tâm ray rứt, không làm cho người thanh niên phạm tội ác được bình an tâm hồn, cho dầu không một ai hay biết tội lỗi của anh ta.

Vậy muốn được bình an hạnh phúc thật, con người cần phải có tâm hồn trong sạch, sống trong ơn nghĩa Chúa. Tâm hồn biết hối cải, biết sống nhân từ, biết yêu thương và tha thứ, như chính Chúa đã làm gương và dạy chúng ta noi theo bắt chước. (Lm Minh Vận, CMC. Trích Vietcatholic ngày 2.5.2003)

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, Thánh thần là Đấng soi sáng, hướng dẫn và nâng đỡ đời sống đức tin của người Kitô hữu. Vì thế, chúng ta cùng khẩn cầu Thiên Chúa ban Thánh thần cho chúng ta:

  1. Con thuyền Hội thánh không bao giờ chìm dù gặp phong ba bão táp liên miên / là nhờ sự trợ giúp của Chúa Thánh thần / Chúng ta hiệp lời cầu xin Chúa Thánh thần luôn gìn giữ các vị mục tử / để các ngài lèo lái con thuyền Hội thánh đến bình an.
  2. Phúc thay ai xây dựng hòa bình / vì họ sẽ được gọi là con Thiên Chúa / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho các Kitô hữu / biết chân thành cộng tác với mọi người thành tâm thiện chí / để mưu tìm hòa bình cho thế giới hôm nay.
  3. Chúa Giêsu nói: / Thầy để lại bình an cho anh em / Thầy ban cho anh em phúc bình an của chính Thầy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho những ai đang gặp khủng hoảng trong cuộc sống / tìm được sự bình an thanh thản nơi tâm hồn / nhờ tín thác vào Chúa.
  4. Chúa Giêsu nói: / Ai yêu mến Thầy / thì sẽ giữ lời Thầy / Chúng ta hiệp lời cầu xin cho cộng đoàn giáo xứ chúng ta / luôn hết lòng tuân giữ mọi Lề Luật của Chúa / để tỏ lòng yêu mến Người.

Chủ tế: Lạy Chúa, xin ban Thánh thần là nguồn mạch tình yêu xuống cho chúng con, để Người giúp chúng con luôn sống bác ái yêu thương như Chúa đã dạy. Chúng con cầu xin

  1. Trong Thánh Lễ

– Sau kinh Lạy Cha: Đọc chậm rãi và tâm tình lời nguyện “Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã nói với các tông đồ rằng Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con…”

VII. Giải tán

Chúa Giêsu đã nói: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an cho các con “Chúc anh chị em ra về bình an.

 

7. Tại sao lại tỏ mình ra cho con?

(Suy niệm của Lm. Gioan Nguyễn Văn Ty)

Trong bài diễn từ tiễn biệt rất dài (từ cuối chương 13 cho tới hết chương 17 của Phúc âm Gioan) Đức Giêsu đã mất nhiều công sức để chấn an các môn đệ Người; chắc hẳn lúc đó các ông đang trong rơi vào tình trạng rất bồn chồn lo lắng, tương tự như một nhóm học sinh gần tới ngày ra trường phải ôn thi: các ông mong ghi nhớ hết mọi lời Thầy dạy, nhớ tới từng chi tiết, nhưng lại có nguy cơ quên mất điểu hệ trọng chính yếu nhất; và điều chính yếu đó không phải là những bài học từ chương về các điều Thầy dạy dỗ, nhưng là bộc lộ bản chất đích thực của Thầy Giêsu – Lời tối hậu của Thiên Chúa. Việc bộc lộ này rõ ràng chỉ dành cho các môn đệ là những người thâm tín đã theo Thầy suốt bằng ấy năm: “Thưa Thầy, tại sao Thầy phải tỏ mình ra cho chúng con, mà không tỏ mình ra cho thế gian?” Nếu nắm bắt được nội dung lời trăn trối này, chúng ta sẽ có cơ may thấu hiểu được cái cỗi lõi của niềm tin Ki-tô hữu chăng?

Nắm giữ Lời là điều tối quan trọng trong việc duy trì tương quan với Thầy Giêsu, kể cả khi Người đã ra đi: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ Lời Thầy…Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy”. Lời đó chắc chắn không chỉ đơn thuần là các bài thuyết giảng mà Người đã từng tuyên giáo trên khắp các nẻo đường xứ Ga-li-lê và Giu-đê trong ròng rã ba năm trời; trong số đó có những bài thật ý nhị và độc đáo, chẳng hạn bài bàn về các mối phúc hay các câu chuyện dụ ngôn…; thế nhưng, cho dầu có tuân giữ được mọi lời Ráp-bi Giêsu giảng dạy đi nữa, thì điều đó cũng đâu có thể làm cho “Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Lời đây hẳn là một điều gì rất đặc biệt mà Người đã từng khảng định: “không phải là của Thầy, nhưng là của Chúa Cha, Đấng đã sai Thầy”. Lời mà Người nhân danh Chúa Cha đến trần gian để nói lên cho bằng được, và chỉ có thể nói cho các môn đệ thâm tín nhất là những kẻ đã tin theo Người mà thôi.

Tuy nhiên Lời này sẽ không hề dễ hiểu, ngay cả đối với các môn đệ! Hồi đó, cho tới lúc Thầy Giêsu sắp ra đi, các môn đệ vẫn luôn cảm thấy khó chấp nhận bài học này: mỗi lần Thầy Giêsu đề cập tới sự tự hiến Thập Giá và đau khổ mà Người sẽ phải chịu tại Giê-ru-sa-lem, không một ai trong số họ không lớn tiếng phản đối, can ngăn. Nhất là khi Người khảng định: ai nhìn thấy Thầy tự hiến là nhìn thấy Chúa Cha, nhìn thấy vinh quang đích thực của Cha… thì không một môn đệ nào có thể hiểu nổi (xem Ga 14:8-11). Đức Giêsu biết rất rõ điều đó; cần phải có một can thiệp đặc biệt, can thiệp của Thần Khí; các môn đệ cần tới một đấng Bảo Trợ, Đấng “sẽ được sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em”. Phải, để hiểu được Lời của Giêsu Thập Giá, hiểu được Tình Yêu tự hiến và cứu đô của Thiên Chúa, dứt khoát cần tới sự can thiệp của Thánh Thần. Người thường thì chỉ có thể hiểu được các lời khuyên dạy, các câu chuyện dụ ngôn, các lời dạy dỗ đầy khôn ngoan từ miệng Ráp-bi Giêsu phán ra, nhưng để hiểu chính con người và hành động của Giêsu Ki-tô là Lời của Thiên Chúa, nhất là khi Lời đó được vang lên, không phải trên bục giảng mà là trên Thập Giá, thì trí khôn con người, cho dầu có xuất chúng tới mấy đi nữa (kể cả bộ óc kỳ tài như Albert Einstein chẳng hạn), cũng không thể nào nắm bắt được.

Ồ, thật vậy sao? Ngay cả một Linh mục lớn tuổi như tôi mà vẫn cứ đinh ninh rằng: để hiểu và giữ lời Chúa thì chỉ cần một chút thông minh, một chút thiện chí; và thông minh – thiện chí cũng là điều tôi vẫn thường lớn tiếng đòi kêu gọi anh chị em tín hữu phải có. Có lẽ chính vì thế mà, cho tới giờ này, tôi có thấu hiểu gì về Lời Tình Yêu – Thập Giá đâu… và các giáo hữu nghe tôi giảng có lẽ cũng chẳng hiểu được gì hơn! Tôi chăm chú suy tư, lo đọn bài giảng hơn là dành thời giờ cầu nguyện, lo trình bày cho khôn khéo hơn là tin tưởng vào tác động của Đấng Bảo Trợ đang ngự trong tâm hồn các tín hữu; trên tòa giảng, tôi lo tạo ấn tượng trên các thính giả của mình, hơn là tìm cách đóng trên họ dấu ấn của Thần Khí.

Và dấu ấn của Lời đó trong Thần Khí thì thật rõ ràng: “Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi… Thầy để lại bình an cho anh em… Thầy ban cho anh em bình an của Thầy”. Lời Thầy Giêsu – Lời Thiên Chúa xót thương không bao giờ là lời đe dọa; Lời đó không tạo áp lực ép buộc, cũng chẳng tạo căng thẳng lo âu! Lời Thầy Giêsu sẽ luôn lan tỏa an bình, thư thái cho cả những tâm hồn đã phạm phải những tội tầy trời nhất; “Ta không kết án, hãy về và từ nay đừng phạm tội nữa!” Nếu vậy, tôi – một linh mục của Đức Ki-tô có thật sự mang Lời bình an này tới tâm hồn mọi tín hữu, nhất là những tâm hồn chìm đắm trong tội lỗi đang rất cần tới Lời an ủi hơn bất cứ điều gì khác? Và để làm được điều đó: không một ai khác có thể giúp tôi, hơn là Thánh Thần, Đấng ủi an.

Lạy Chúa Giêsu là Lời đích thực của Thiên Chúa Cha giầu lòng xót thương, xin đổ Thần Khí xuống trên con, để con hiểu được Lời Tình Yêu, nhất là mỗi khi con cử hành Thánh Lễ. Nếu chính con chưa một lần hiểu và giữ được Lời Tình Yêu đích thực, nhất là qua biểu lộ của Thánh Thể – Thập Giá, thì làm sao con có thể mở miệng loan truyền Lời Chúa cho anh chị em tín hữu? Có thể con đã giảng lời Giêsu quá nhiều, nhưng đã giảng Lời-Chúa quá ít. Xin chỉnh đốn tình trạng thiếu xót trầm trọng này nơi con! Xin đổ tràn ngập tâm hồn con thứ bình an độc đáo của Chúa, phát xuất từ cảm nghiệm bản thân về lòng Chúa Xót Thương, để con – linh mục của Chúa cũng có thể loan báo và thông truyền Tin Mừng đầy an ủi này cho mọi người, nhất là cho các tội nhân bất hạnh và bị đọa đầy. Amen.

 

8. Ở lại trong tình yêu Chúa

“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”.

Trong cuộc sống, người ta thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ của lòng yêu mến. Chỉ cần nhìn thấy những người mẹ hy sinh nhịn đói, chịu khó để lo cho con cái được ấm no, được ăn học thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể, mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Vì thế, Thánh Augustinô còn nói: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”.

Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động thật cụ thể. Dấu chỉ đó Đức Giêsu muốn chúng ta chính là sự vâng giữ lời của Người, cụ thể là chúng ta đã nghe: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy…”. Yêu mến Chúa, là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm theo điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải hành động yêu thương thật sự cụ thể trong cuộc sống hằng ngày.

Trong Cựu ước, tác giả sách Thánh vịnh 119 viết rằng: “Lời Chúa là ngọn đèn soi cho con bước, là ánh sáng chỉ đường con đi” (Tv 119, 105). Thật vậy, Lời Chúa là chân lý, là ánh sáng, là sự thật, bởi vì, Lời Chúa chứa đựng đạo lý và chứa đựng thánh ý của Thiên Chúa. Vì thế ở lại trong Lời Chúa chính là lắng nghe Lời Chúa và sống theo ý Chúa.

Con người chỉ là một tạo vật được Thiên Chúa dựng nên. Một tạo vật chỉ có giá trị khi thực hiện theo ý của người tạo ra nó. Đời sống con người chỉ có ý nghĩa khi sống theo ý muốn của Thiên Chúa là Đấng tạo dựng nên mình. Đó là sống theo bản vẽ mà Thiên Chúa đã thiết kế cho cuộc đời của mỗi người. Chính vậy, con người chỉ đạt được tự do đích thực là đón nhận ý Chúa và thi hành ý Chúa mỗi ngày. Chạy theo ý riêng của mình đồng nghĩa với việc đánh mất ý nghĩa của cuộc đời mình.

Lời Chúa cho mỗi người chúng ta biết sự thật về chính bản thân mình, biết sự thật và cùng đích về con người và cùng đích của cuộc đời. Biết sự thật về mình là biết những giới hạn yếu đuối, biết về thân phận nô lệ tội lỗi của mình để rồi hoán cải và trở nên hoàn thiện như “Cha trên trời là Đấng hoàn thiện”. Biết sự thật về con người là biết mình lệ thuộc vào Thiên Chúa, ý nghĩa và cùng đích của đời mình là con người được dựng nên để sống cho Thiên Chúa, phụng sự Thiên Chúa và yêu mến Thiên Chúa. Biết sự thật còn là biết Đức Giêsu là Con Thiên Chúa đã xuống trần gian để giải thoát con người khỏi tội lỗi, cho con người được tham dự vào sự sống thân linh của Thiên Chúa. Nhận biết Đức Giêu là Thiên Chúa để đến với Ngài, tin Ngài và đi theo Ngài.

Ở lại trong Lời Chúa là sự kiện tiên quyết xác định ý nghĩa cuộc sống của người thuộc về Chúa. Lẽ sống của người theo Chúa, của người môn đệ Chúa cần phải biết ý Chúa, thi hành ý Chúa như người “đầy tớ làm theo ý người chủ của mình”. Đó là người lắng nghe tiếng Chúa và nhận biết ý Chúa trong những sự kiện, những biến cố. Đó là tìm kiếm sự thật ẩn tàng trong Lời Chúa, suy gẫm những gì Chúa nói và nhận ra ý nghĩa của Lời Chúa được sáng tỏ trong cuộc sống hằng ngày. Như thế, việc nghe Lời Chúa và thi hành ý Chúa mới thông hiểu được sự thật và sống trong tự do.

Vì vậy, sống theo ý Chúa thì con người không còn sợ hãi, vì khi làm bất cứ việc gì thì có Chúa cùng thực hiện, khi chọn Chúa là chủ của mình, chúng ta không còn bị dính bén bởi những tạo vật, không bị nô lệ bởi những đam mê bất chính. Sống theo ý Chúa còn là mình để chọn Chúa. Đó là bỏ đi cái tôi ích kỷ sống yêu thương, bỏ đi cái tôi danh vọng để khiêm tốn để chấp nhận mình và đón nhận người khác, bỏ đi cái tôi hưởng thụ để hy sinh để phục vụ. Hơn nữa, sống theo ý Chúa thì không sợ những dư luận của người đời, không bị chi phối bởi khen chê, được mất, sướng khổ và sống chết.

Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta sẽ thấy có một điều hết sức tự nhiên, đó là khi yêu mến ai, chúng ta thường cố gắng bằng mọi cách để làm vui lòng người đó. Và một trong những cách chúng ta thường thực hiện để làm vui lòng người mình yêu mến, đó là cố gắng nhanh chóng thực hiện mọi ý muốn của người đó. Cứ quan sát các một đôi bạn trẻ đang yêu nhau, chúng ta thấy họ luôn muốn làm đẹp lòng nhau, họ luôn để ý đến nhau, chỉ cần phát hiện một ánh mắt, một cái nhíu mày, một cử chỉ, hay một ý muốn nào đó của người này, thì lập tức người kia sẽ cố gắng thực hiện cho bằng được. Như vậy, một đứa con không thể nói rằng nó yêu cha mến mẹ, mà nó cứ luôn làm cho cha mẹ nó buồn, luôn làm những điều mà cha mẹ nó không muốn; cũng không thể có một người chồng luôn miệng nói với vợ rằng anh yêu em, mà ngày nào cũng đánh vợ, rượu chè say sưa; cũng không thể có một người vợ nói với chồng là em yêu anh, rồi hằng ngày cứ bỏ bê nhà cửa, bỏ chồng con… Quả thật, những người như vậy nói yêu mà chẳng có hành động yêu một chút nào hết.

Hiểu được như vậy, thì chúng ta cũng hiểu được việc tuân giữ lời Chúa của chúng ta chính là dấu chỉ rõ ràng nhất, để chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa nhiều, chúng ta sẽ càng cố gắng thực hiện những điều Ngài muốn. Hơn nữa, khi yêu mến và giữ lời, chúng ta còn được vinh dự đón tiếp cả Ba Ngôi đến ngự trong tâm hồn của chúng ta nữa: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Và nếu có cả Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì mỗi người chúng ta thật sự xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, một đền thờ thánh thiện, tốt đẹp, và là một đền thờ yêu thương luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.

Chúng ta hãy can đảm sống theo lời dạy của Chúa với tất cả niềm tín thác, niềm cậy trông, tình yêu mến.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa chính là con đường vì Chúa dẫn đưa con đến với Thiên Chúa. Chúa là sự thật vì Chúa chỉ cho con biết Thiên Chúa và thánh ý của Thiên Chúa. Chúa là sự sống vì Chúa giải thoát con khỏi tội lỗi và ban cho con sự sống viên mãn. Xin cho chúng con biết nhận ra sự hiện diện của Chúa, biết nghe tiếng Chúa và ở lại trong Lời của Chúa để mỗi ngày con được sống trong sự thật và ở trong tình yêu Thiên Chúa. Amen.

 

9. Chúa Nhật 6 Phục Sinh

Đức Giêsu nói: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”.

Thông thường trong cuộc sống, chúng ta hay sử dụng lời nói để diễn tả những suy nghĩ, những tâm tư tình cảm của mình đối với người khác. Tuy nhiên, trong rất nhiều trường hợp, lời nói cũng không thể diễn tả cách trọn vẹn được suy nghĩ của chúng ta. Do đó, chúng ta lại dùng những cử chỉ khác như nét mặt, ánh mắt,… để diễn tả những điều chúng ta muốn nói. Chẳng hạn như chúng ta thường biểu lộ niềm vui bằng tiếng cười, biểu lộ nỗi buồn bằng tiếng khóc, hay biểu lộ nỗi mệt nhọc bằng những tiếng thở than…Chính vì thế khi nghe thấy những tiếng khóc, tiếng cười, tiếng than thở đó, thì cho dù người đó không nói ra, thì người khác cũng phần nào hiểu được nỗi lòng của người thốt ra những tiếng đó. Đối với tình yêu cũng vậy, người ta không thể dùng những con số, hay những kiểu nói ước lượng, như kiểu nói “Tôi yêu anh chừng một ký, hay một tấn”, hoặc là nói: “Tôi mến anh dài 100 cây số” được. Nhưng khi muốn diễn tả tình yêu, người ta thường dùng những hành động cụ thể để nói lên mức độ yêu mến của mình. Chỉ cần nhìn cảnh những người cha sẵn sàng thức khuya, dậy sớm ra đồng làm viêc; nhìn thấy những người mẹ chấp nhận hy sinh nhịn đói, chịu khó để lo cho con cái được ấm no, được ăn học, được thành tài, là mọi người cũng hiểu được tình thương như trời bể, mà các bậc cha mẹ đã dành cho con mình. Vì thế, Thánh Augustinô còn nói: “Mức độ của tình yêu là yêu không mức độ”.

Hiểu như vậy, tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa cũng cần được biểu thị bằng một dấu chỉ, hay bằng một hành động thật cụ thể. Dấu chỉ đó Chúa Giêsu muốn chúng ta chính là sự vâng giữ lời của Người, cụ thể là chúng ta đã nghe trong bài Tin mừng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy…”. Yêu mến Chúa, là trở nên giống Chúa, là tuân giữ lời Chúa, là làm theo điều Chúa muốn, và Chúa còn muốn mỗi người chúng ta phải hành động yêu thương thật sự cụ thể trong cuộc sống hằng ngày. Nhìn lại cuộc sống thường ngày, chúng ta sẽ thấy có một điều hết sức tự nhiên, đó là khi yêu mến ai, chúng ta thường cố gắng bằng mọi cách để làm vui lòng người đó. Và một trong những cách chúng ta thường thực hiện để làm vui lòng người mình yêu mến, đó là cố gắng nhanh chóng thực hiện mọi ý muốn của người đó. Cứ quan sát các một đôi bạn trẻ đang yêu nhau, chúng ta thấy họ luôn muốn làm đẹp lòng nhau, họ luôn để ý đến nhau, chỉ cần phát hiện một ánh mắt, một cái nhíu mày, một cử chỉ, hay một ý muốn nào đó của người này, thì lập tức người kia sẽ cố gắng thực hiện cho bằng được. Như vậy, một đứa con không thể nói rằng nó yêu cha mến mẹ, mà nó cứ luôn làm cho cha mẹ nó buồn, luôn làm những điều mà cha mẹ nó không muốn; cũng không thể có một người chồng luôn miệng nói với vợ rằng anh yêu em, mà ngày nào cũng đánh vợ, rồi chửi mắng vợ, rượu chè say sưa, nhục mạ vợ mình; cũng không thể có một người vợ nói với chồng là em yêu anh, rồi hằng ngày cứ bỏ bê nhà cửa, bỏ chồng, bỏ con, rồi đi nói xấu chồng, còn muốn bỏ chồng nữa. Hay là trong anh chị em chúng ta, không thể có người nói: tôi mến anh chị lắm, tôi thông cảm với anh chị lắm, tôi ngưỡng mộ anh chị lắm, rồi sau đó đi nói xấu, chê bai, khinh dễ, người đó được. Quả thật, những người như vậy nói yêu mà chẳng có hành động yêu một chút nào hết.

Hiểu được như vậy, thì chúng ta cũng hiểu được việc tuân giữ lời Chúa của chúng ta chính là dấu chỉ rõ ràng nhất, để chúng ta chứng tỏ lòng yêu mến của mình đối với Thiên Chúa. Càng yêu mến Thiên Chúa nhiều, chúng ta sẽ càng cố gắng thực hiện những điều Ngài muốn. Một lần nữa, chúng ta nghe lại lời khẳng định của Chúa Giêsu trong bài Phúc âm hôm nay là: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy”. Thế nên, yêu mến và giữ lời, thì chúng ta đã và đang thực hiện rồi đó, nhưng làm như thế thì Chúa còn ban cho chúng ta một ân huệ đặc biệt nữa, đó là: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy, và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy, và Chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy”. Như vậy, chúng ta còn được Chúa Cha yêu mến vì chúng ta đã tuân giữ lời Đức Giêsu, và không chỉ được Chúa Cha yêu mến, chúng ta còn được vinh dự đón tiếp cả Ba Ngôi đến ngự trong tâm hồn của chúng ta nữa. Và nếu có cả Ba Ngôi Thiên Chúa ở trong chúng ta, thì mỗi người chúng ta thật sự xứng đáng là đền thờ của Thiên Chúa, một đền thờ thiêng liêng, một đền thờ thánh thiện, tốt đẹp, và là một đền thờ yêu thương luôn thể hiện tình yêu Thiên Chúa đến với mọi người.

Lắng nghe lời Chúa trong bối cảnh của xã hội hôm nay, một xã hội thực dụng, đánh giá mọi sự dựa theo những giá trị vật chất trước mắt, chắc chắn là không dễ dàng gì. Tuy nhiên, để xứng đáng là người môn đệ của Chúa, và nhất là để minh chứng lòng yêu mến của chúng ta đối với Chúa, thì mỗi người chúng ta cũng hãy mau mắn tuân giữ các lời dạy của Chúa bằng cả tấm lòng của mình. Chúng ta hãy can đảm sống theo lời dạy của Chúa với tất cả niềm tín thác, niềm cậy trông, tình yêu mến.

Nhìn lại gương Chúa Giêsu, chúng ta đã thấy Ngài vì yêu mến Chúa Cha, và vì yêu thương nhân loại nên Ngài đã thi hành thánh ý của Chúa Cha, cho dù Ngài phải chấp nhận một cái chết tủi nhục trên thập giá.

Để thực thi Lời Chúa dạy hôm nay, tôi đề nghị những việc thực hành cụ thể như sau:

  1. Đọc kinh hôm mai là một bổn phận thờ phượng Chúa. Nó còn là một truyền thống đạo đức tốt đẹp trong các gia đình Công Giáo. Tuy nhiên ngày nay, trong xã hội phát triển, đời sống con người được nâng cao thì đồng thời cũng tạo ra những lỗ hổng về đạo đức: chẳng hạn như mỗi người tìm cho mình một cách giải trí riêng vào ban tối đến, và do đó, có nhiều gia đình đã bỏ mất truyền thống đọc kinh ban hôm, truyền thống đạo đức tốt đẹp này. Có hình ảnh nào đẹp cho bằng mỗi buổi tối cha mẹ và con cái quây quần bên bàn thờ trong gia đình để đọc kinh thờ phượng Chúa, cùng đọc một đoạn Phúc Âm để cả gia đình cùng nghe và cùng sống Lời Chúa, cùng cầu nguyện chung với nhau.
  2. Trong cuộc sống hằng ngày, chúng ta hãy biết sống yêu thương bác ái, tha thứ cho nhau. Chúng ta biết cảm thông và nâng đỡ những người nguội lạnh, chúng ta biết thăm viếng, an ủi những gia đình đang gặp hoạn nạn, đau yếu. Và nhất là chúng ta biết cầu nguyện cho những gia đình chung quanh chúng ta, nhất là những gia đình đang gặp hoạn nạn, đang gặp khó khăn.

Xin Chúa cho mỗi người chúng ta luôn biết noi theo gương của Chúa, để mỗi khi chúng ta thốt lên Chúa ơi, con yêu mến Chúa thì chúng ta cũng sẽ làm trọn theo những điều Chúa dạy, để cuộc sống của mỗi người chúng ta luôn là một cuộc sống bình an trong tay Chúa, và cũng là một cuộc sống vui tươi trong vòng tay yêu thương thân ái của tất cả mọi người. Amen.

 

10. Sợ hãi

Chúa Giêsu và một thanh niên cùng đồng hành trên một bãi cát dài ven biển. Bốn vết bàn chân hằn in rõ trên mặt cát. Nhưng khi chàng thanh niên chẳng may gặp phải khó khăn thử thách, anh ta liền nhìn xuống mặt cát thì thì thấy còn lại hai dấu bàn chân. Anh kinh ngạt thất vọng kêu lên: “Thưa Thầy, lúc nãy Thầy trốn đi đâu để con bước đi một mình?”. Chúa Giêsu nhỏ nhẻ bảo anh ta: “Con thử nhìn kỹ lại xem, coi đó là những vết của ai?”. Nghe lời Chúa, anh thanh niên nhìn kỹ lại thì mới tỉnh ngộ ra đó là những dấu chân của Chúa. Anh ta vội thắc mắc la lên: “Vậy thưa Thầy, lúc đó con ở đâu?” Chúa âm yếm trả lời: “Con ạ, những lúc con gặp khó khặn gian nan, chính khi đó Thấy biết con không đủ sức chịu đựng nên Thầy đã vác con trên vai Thầy để cứu giúp con khỏi họạ nạn đấy”.

Dĩ nhiên, đây là một câu chuyện tưởng tượng, nhưng lại là một câu chuyện đầy ý nghĩa vì nó nói lên được một sự thật mà có lẽ ngày xưa các Tông đồ cũng như ngày nay chúng ta đều không nhận ra hoặc chưa tìm hiểm cặn kẽ: đó là Chúa luôn luôn hiện diện bên ta để bênh vực giúp đỡ ta.

Một chân lý thật đơn giản và rõ ràng. Vì suốt trong thời gian truyền đạo, riêng tư cũng như công khai, Chúa Giêsu luôn nhắc đi nhắc lại câu nói: “Thầy ở với các con mọi ngày cho đến tận thế”. Thế thì tại sao trong cuộc sống hằng ngày, nhất là những lúc gặp gian nan khốn khó chúng ta hầu như quên sự hiện diện của Chúa, thậm chí đôi lúc có những người đối xử, ăn nói kiểu như không có Chúa nữa? Sở dĩ có tình trạng đau buồn này do nhiều nguyên nhân gây nên, nhưng tựu trung tóm gọn lại trong hai nguyên nhên chính yếu sau đây:

Thiếu một đức tin sâu sắc. Bởi vì, để nhận ra được sự hiện diện huyền diệu, đích thực của Chúa ở bên ra và sống kết hiệp mật thiết với Ngài thì ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ, siêu việt. Trong khi phần đông chúng ta cứ lầm lạc duy trì một thứ đức tin vụ hình thức, công nạn hoặc thứ đức tin ấu trí, non nớt.

Thật vậy, nếu khi đức tin của chúng ta chỉ dựa trên những sự kiện bên ngoài như thị kiến phi thường, nhưng phép lạ hiển nhiên hoặc dựa trên những hình thức rầm rộ như lễ nghi long trọng, rước xách linh đình, đông đúc vui vẻ mới cho là có Chúa hiện diện. Còn khi bình thường, thầm lặng, riêng tư, buồn sầu thì dường như cuộc sống của chúng ta vắng bóng Chúa, không can hệ gì tới Ngài. Như Chúa đã phán: “Phúc cho ai không thấy mà tin”, điều đó có nghĩa là Đấng Phục Sinh đã từ bỏ đời sống trần thế, vượt qua giới hạn không gian và thời gian, Ngài khuất mắt ta để từ đây luôn hiện diện bên ta theo cách thế hiện hữu bao quát hơn. Cho nên, chúng ta không chỉ dựa vào khả giác để nhận ra Chúa mà phải dựa vào một đức tin sâu sắc để có thể vượt qua những trở ngại, khó khăn mà không mất niềm tin tưởng nơi Ngài. Hơn nữa, nếu một đức tin quá no nớt, nghĩa là khi bình an vô sự thì dễ dàng tin Chúa, còn khi gặp gian nan thử thách thì hoảng sợ lao đao, thất vọng buông xuôi, thì cũng không thể tìm gặp được Chúa.

Thiếu lòng mến nồng nàn. Cứ nhìn vào trường đời, chúng ta sẽ thấy nhiều cảnh huống đến khó tin: có nhiều người sống gần nhau xem ra thương nhau thắm thiết, nhưng khi xa nhau thì hững hờ nhạt nhẽo, chóng quên nhau; lại có những bề ngoài cứ anh anh em em luôn miệng, tưởng như sống chết có nhau, nhưng khi gặp hoạn nạn thì nghoảnh mặt làm ngơ, coi như không quen biết. Cũng thế, cõ lẽ khi chúng ta yêu Chúa với một tình yêu đã bôi bên ngoài, giả dối hời hợt, thay lòng đổi dạ mau chóng thì thử hỏi làm sao còn nhớ đến Chúa, muốn ở bên Chúa?

Thêm vào đó, nhiều khi chúng ta cứ lầm tưởng rằng tuân giữ các giới răn một cách máy móc hay tham dự các nghi thức lễ lạy với một tâm hôn trống rỗng đã đủ yêu Chúa rồi, không có gì đáng phàn nàn chê trách. Sồng và yêu Chúa như thế thì mãi mãi chúng ta là kẻ xa lạ với Chúa. Do đó, để thấy được Chúa, để sống nhờ Ngài với Ngài, ta phải biết thiếp lập mỗi tương quan với Ngài bằng một tình yêu cao độ. Tình yêu này được thể hiện cách sống động nhờ việc tuân giữ và thực hành lời Chúa với cả quết tâm nhiệt thành và tôn kính. Bởi vì, lời nói là một điều cụ thể, một biểu thị rõ nét nhất của một người còn sống hay khuất bóng. Và nó cũng còn là một bảo chứng sống động cho mối giây liên hệ giữa người này với người khác. Cho nên, muốn kết hiệp với Chúa, muốn tìm thấy sự hiện diện gần gũi của Ngài, mỗi người chúng ta ra sức yêu mến và sống lời Ngài hết tình.

Tóm lại, với một đức tin sâu sắc, trưởng thành và với một tình mến thắm thiết, cao độ thì cuộc đời mỗi người đâu còn cô đơn, xao xuyến, sợ hãi giữa bao thử thách gian nan, đâu còn lung lay, sa ngã giữa bao đam mê quyến rũ vì có Chúa luôn đồng hành, nâng đỡ ta.

 

11. “Bình an cho các con”

(Suy niệm của Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

Trên những chuyến xe khách, xe buýt, các bến xe… người ta thường thấy những hàng chữ “chúc quý khách thượng lộ bình an”. Người tài xế Công giáo treo hình Đức Mẹ trên xe có kèm theo hàng chữ “Nữ Vương ban sự bình an”. Người tài xế Phật giáo treo hình Đức Phật, dù có hay không có hàng chữ nào, trong lòng họ vẫn cầu mong Đức Phật ban bình an.

Theo Hán tự, chữ “bình” có nghĩa là bằng phẳng, đều hòa, hòa hợp, thoải mái, chữ “an”, theo cách viết là “người nữ ở trong nhà”, có nghĩa là được bảo vệ, an toàn. Như vậy, bình an nói lên trạng thái tâm hồn, trạng thái nội tâm thư thái, an hòa, vui tươi, bình thản, vững chắc. Do đó, bình an khác với hòa bình. Hòa bình nói lên trạng thái bên ngoài: không còn cạnh tranh, không còn chinh chiến, xô xát, súng đạn, gươm đao. Cho nên có khi có hòa bình nhưng không có bình an. Nhân loại thì khao khát hòa bình, còn mỗi người thì khao khát bình an.

Chúa Giêsu sống lại từ ngày thứ nhất trong tuần đã hiện ra với các môn đệ và ban bình an cho các ông. Lời đầu tiên của Chúa Phục Sinh là: “ Bình an cho anh em” (Ga 20,19-21). Bình an là hồng ân của Chúa Phục Sinh ban cho các môn đệ (Ga 20,26; Lc 24,36).

Các sách Tin Mừng và Công vụ Tông đồ thuật lại: mỗi lần Chúa Giêsu hiện đến đều thấy các môn đệ hội họp trong nhà, cửa đóng then cài vì sợ người Do thái. Khi Chúa hiện diện, sự sợ hãi của các môn đệ tan biến và các ông có được niềm vui, bình an, can đảm.

Thầy ban bình an của Thầy cho anh em… anh em đừng xao xuyến, đừng sợ hãi” (Ga14,27). Có một sự khác biệt cơ bản giữa bình an “thế gian ban tặng” và “bình an Đức Giêsu ban tặng”.

  1. Bình an Chúa Giêsu là bình an trong tâm hồn.

Chúa Giêsu Phục sinh là niềm vui lớn lao nhất của các Tông Đồ và của các phụ nữ đạo đức. Niềm vui nhân lên gấp bội khi Chúa trao quà tặng Bình an.

“Bình an cho các con”. Khi tâm hồn của các Tông Đồ hoang mang lo lắng buồn vui lẫn lộn về sự việc Chúa chết và sống lại, thì lời chúc lành của Chúa Giêsu rất đúng lúc để củng cố đức tin và đem lại an bình cho tâm hồn của các ông.

“Bình an cho các con”. Sự bình an này không giống bình an của người đời ban tặng. Sự bình an của người đời là tạm bợ và sẽ không tồn tại, bởi vì người đời chỉ dựa vào của cải vật chất để trấn an tâm hồn đầy bất an. Người ta chúc nhau được bình an, nhưng không ai tìm được bình an trong cuộc sống. Người giàu có thì cảm thấy bất an khi đêm về vì sợ kẻ trộm. Người có địa vị thì sợ kẻ khác chiếm đoạt, lật đổ. Người mạnh khoẻ thì sợ đau ốm.v.v… tất cả đều ở trong trạng thái mất bình an.

Có câu chuyện kể rằng: trong triều của một vua nọ có hai họa sĩ rất tài ba nhưng luôn ganh ghét đố kỵ nhau. Một hôm nhà vua phán: “Ta muốn phán quyết một lần dứt khoát ai trong hai ngươi là người giỏi nhất. Vậy hai ngươi hãy vẽ mỗi người một bức tranh theo cùng một đề tài, đó là bình an”.

Hai họa sĩ đồng ý. Một tuần sau họ trở lại, mỗi người mang theo bức vẽ của mình. Bức họa của người thứ nhất vẽ một khung cảnh thơ mộng: những ngọn đồi nhấp nhô bao quanh một cái hồ rộng với mặt nước phẳng lì không một gợn sóng. Toàn cảnh gợi lên một cảm giác thanh thản, thoải mái. Sau khi xem xong, nhà vua nói: “Bức họa này rất đẹp, nhưng trẫm chưa hài lòng.” Bức họa của người thứ hai vẽ một thác nước. Hình ảnh rất sinh động đến nỗi nhìn nó người ta như nghe được tiếng nước đổ ầm ầm xuống vực thẳm. Nhà vua nói: “Đây đâu phải là một cảnh bình an”. Họa sĩ thứ hai bình tĩnh đáp: “Xin bệ hạ nhìn kỹ hơn một chút nữa xem”. Nhà vua nhìn kỹ và khám phá một chi tiết mà ông chưa chú ý: Trong một nhành cây nép mình sau dòng thác lũ, có một tổ chim. Trong tổ, chim mẹ đang ấp trứng, đôi mắt nửa nhắm nửa mở. Chim mẹ đang bình thản chờ các con mình nở ra. Nhà vua nói: “Ta rất thích bức tranh này. Nó đã chuyển tải được một ý tưởng độc đáo về bình an, đó là vẫn có thể sống bình an ngay giữa những xáo trộn của cuộc đời”. Và nhà vua đã trao giải nhất cho tác giả bức hoạ này.

Bình an không phải giống như yên ổn, vì yên ổn là ở bên ngoài còn bình an thì ở bên trong.

Bình an là tình trạng của một tâm hồn đang có tương quan tốt với Thiên Chúa và với tha nhân. Thành tố quan trọng của bình an là sự công chính. Bởi thế, không có bình an cho kẻ dữ.

Bình an là kết quả của lòng trông cậy vào Chúa và khi ước muốn làm đẹp lòng Chúa là điều quan trọng bậc nhất trong đời. Đây là điều mà ta có thể có ngay giữa những xáo trộn, xung đột và những vấn đề rắc rối chưa giải quyết được.

Chỉ có Bình An của Chúa mới làm cho chúng ta được hạnh phúc. Bởi vì bình an là thông hiệp với Thiên Chúa. Chúa Giêsu đang hiệp thông mật thiết với Thiên Chúa nên Ngài vẫn có thể nói về bình an ngay cả khi kẻ thù của Ngài đã đến gần và sắp giết chết Ngài.

“Bình an cho các con”. Thế giới như đang sống trên một lò lửa. Chiến tranh, khủng bố, thiên tai, động đất… Thế gian chưa có bình an. Cho nên sự Bình An của Chúa Giêsu vẫn luôn có giá trị đích thực cho nhân loại, cho những tâm hồn khắc khoải tìm kiếm bình an trong cuộc sống.

  1. Hoa quả của Bình An.

Có nhân thì có quả. Có tranh chấp thì sinh ra hận thù, có ghét ghen thì sinh ra mưu mô thủ đoạn. Đó chính là chuyện nhân quả mà hằng ngày chúng ta đều thấy và biết. Việc lành cũng như việc xấu, mọi thứ đều có nhân quả của nó.

Hoa quả của Bình An là: yêu thương, tha thứ, bao dung, quảng đại, khiêm tốn, nhẫn nại, nhịn nhục…

Khi trong tâm hồn có sự bình an của Chúa Giêsu Phục Sinh, thì chúng biết thông cảm với người làm ta bực mình, dễ dàng cảm thông với những người không yêu mến, sẽ khiêm tốn hơn trong lời nói trong cử chỉ thái độ của mình… Hoa quả của bình an chính là tình yêu của Chúa Kitô thúc bách chúng ta làm việc thiện, thúc bách chúng ta vì anh em mà phục vụ như Chúa Kitô đã phục vụ, như các thánh Tông Đồ đã phục vụ Giáo Hội.

Hoa qủa bình an thể hiện bằng tiếng cười, niềm vui, hạnh phúc trong gia đình, an hoà thư thái trong tâm hồn.

Hoa quả bình an cũng chính là sự thật. Ta cảm thấy bình an khi mình sống ngay thẳng, sống theo sự thật.

Con người ta ai cũng muốn có bình an trong tâm hồn, nên luôn cầu chúc cho nhau được bình an. Nhưng sẽ không có bình an thật, nếu tâm hồn không có tinh thần Phục Sinh của Chúa Kitô, tinh thần đổi mới con người cũ trở nên con người mới sống theo hướng dẫn của Thánh Thần.

Con người ta ai cũng cần sự bình an, có khi còn cần hơn cả cơm ăn áo mặc nữa. Chúa luôn muốn ban bình an cho chúng ta. Giáo hội cũng mong muốn như vậy. Cho nên mỗi khi tham dự thánh lễ, linh mục thay mặt Chúa và Giáo hội cầu chúc: “Bình an của Chúa ở cùng anh chị em”, rồi linh mục nói với chúng ta: “Anh chị em hãy chúc bình an cho nhau”. Có bình an của Chúa ở nơi mình, chúng ta mới có bình an để chia sẻ cho nhau.

Bình an là một hồng ân Chúa ban và cũng là một trách nhiệm. Không phải chúng ta chỉ cầu khẩn và tìm kiếm bình an cho mình mà còn phải là “khí cụ bình an của Chúa”, góp phần tạo nên bình an cho mọi người và cho toàn xã hội.

Ước gì cuộc đời của tôi của bạn, trong mọi nơi mọi lúc, nhất là lúc cam go sợ hãi thử thách luôn nghe được lời chúc bình an của Chúa Phục Sinh: Bình an cho anh em.

 

12. Phúc cho ai lắng nghe và giữ lời Chúa

(Suy niệm của Lm Giuse Nguyễn Hữu An)

Tháng Năm về, một tháng trong năm với tên gọi thật thơ mộng, thật tươi vui: Tháng Hoa. Mỗi độ tháng Hoa, các Nhà thờ rộn rã mùa dâng hoa kính Đức Mẹ. Phụng vụ Mùa Hoa tưng bừng nhộn nhịp với nhiều thể loại phong phú Rước hoa và Dâng hoa tuỳ mỗi tập quán mỗi đặc trưng văn hoá địa phương.

Nói tới hoa là nghĩ về một kỳ công của Thiên Chúa. Hoa muôn màu muôn sắc, hoa tươi xinh, hoa thơm ngào ngạt. Hoa tô thắm vũ trụ nên xinh tươi. Hoa mời gọi ong bướm đến hút mật. Hoa khoe sắc thắm, nhoẻn cười với con người. Lời của hoa thật diệu huyền giữa thiên nhiên. Hoa hòa vào lòng người dâng lời cảm tạ Thiên Chúa.

Hoa đã trở thành một người bạn thật thân thiết với con người. Khi vui người ta tặng hoa để chúc mừng nhau. Khi buồn người ta cũng trao gởi lẵng hoa như trao gởi tấm lòng đồng cảm thân thương. Hoa khích lệ lòng người. Hoa hướng con người nhớ tới Đấng tạo hoá đã xoay vần vũ trụ bốn mùa xinh tươi. Hoa mơn man lòng người đau khổ. Hoa khích lệ những ai thất bại. Hoa chúc mừng những ai chiến thắng. Hoa ca vang kỳ công kiệt tác của Thiên Chúa. Đôi khi chỉ một cánh hoa đủ trào dâng lòng mến của Thánh Têrêxa Hài Đồng. Nhiều lần một dàn hoa làm tâm hồn Thánh Phanxicô ngây ngất tình Chúa.

Lắng nghe tiếng nói huyền diệu của hoa, Thánh Bênađô biết được tâm trạng của hoa. Chẳng hạn, Hoa Hồng giàu lòng yêu mến. Hoa Huệ biểu tượng đức Khiết trinh, Hoa Tím là duyên đức đoan trang khiêm tốn. Thánh nhân ca ngợi các nhân đức Đức Mẹ qua ý nghĩa các loài hoa. Hoa Hồng đức mến, Hoa Huệ đức Khiết trinh, Hoa Tím đức Khiêm nhường. Đức Mẹ là Hoa Huệ khiết trinh. Đức Mẹ là Hoa Hồng yêu mến. Hương thanh khiết và tình yêu của Mẹ đã làm cho mùa xuân trần gian được hồi sinh. Ơn cứu độ được ban tặng cho trần đời nhờ hoa lòng của Mẹ hằng đẹp lòng Thiên Chúa.

Sứ Thần Gabriel đã cung kính thưa với Mẹ rằng: “Mừng vui lên, hỡi Đấng đầy ơn phước, Thiên Chúa ở cùng bà!” (Lc 1,28). “Đấng đầy ơn phước” là tên gọi đẹp nhất của Mẹ Maria, tên gọi mà Thiên Chúa đã ban cho Đức Mẹ, để chỉ cho biết rằng từ muôn thuở và cho đến muôn đời, Đức Mẹ là Đấng được yêu thương, được Thiên Chúa tuyển chọn, được tiền định để đón nhận hồng ân quý giá nhất, là Chúa Giêsu, “tình thương nhập thể của Thiên Chúa” (x.Thông điệp Thiên Chúa là tình yêu, số 12).

Chúa nhật thứ hai trong Tháng Năm là ngày Hiền Mẫu, Mother’s Day. Xin chúc mừng và tôn vinh tất cả những người nữ nhận từ Thiên Chúa thiên chức làm Mẹ. Xin tạ ơn Chúa. Xin tạ ơn người Mẹ của chúng con, dù sống hoặc đã về bên Chúa.

Mỗi người chúng ta đều có một người mẹ. Tình yêu của mẹ bao la hơn biển cả, cao vời hơn các tầng mây, vĩ đại hơn những rặng núi, mênh mông vô tận. Một văn sĩ đã viết: “Thơ viết về mẹ bao giờ cũng đạt, nhạc viết về mẹ bao giờ cũng hay, tranh vẽ về mẹ bao giờ cũng tuyệt, cũng đẹp. Bởi hiển nhiên, mẹ là nguồn xúc cảm sâu xa, vô tận và nhiệm mầu nhất trong mọi nguồn sáng tạo”. Tình yêu của mẹ là một nguồn cảm hứng không bao giờ cạn vơi, là những tư tưởng vô tận của các thi sĩ, văn sĩ và nghệ sĩ.

Tình mẹ thương con bao la như trời như biển. Nói đến tình mẹ, không có thứ tình cảm nào đậm đà và cao quý như tình mẹ thương con. Đã có biết bao nhiêu vần thơ, bao nhiêu câu hò, điệu hát ca tụng tình mẹ thiêng liêng.

“Lòng mẹ bao la như biển Thái Bình dạt dào,

Tình mẹ tha thiết như dòng suối hiền ngọt ngào.”

Với giai điệu mượt mà, sâu lắng, với ca từ thấm đẫm chất thơ gợi lên những hình ảnh bình dị, gần gũi, nhạc sĩ Y Vân đã viết thành một bài hát tuyệt vời ca ngợi tình mẹ. Thương con mẹ nào có quản nắng mưa, có ngại gì sớm khuya vất vả… Tình mẹ mãi mãi là như thế, dẫu ở thời nào, dẫu thuộc nền văn minh văn hóa nào và dẫu ở đâu tình mẹ cũng vẫn cứ mãi mãi là như thế.

Ngôi Lời Thiên Chúa đã nhập thể làm người cũng nhận lấy tình mẫu tử trân quý ấy. Mẹ Maria đã đảm nhận trọn vẹn thiên chức cao quý nhưng không thiếu khổ đau như bất cứ người mẹ nào trong nhân loại. Trong lòng tin, người mẹ ấy đã âm thầm vâng phục, đón nhận, lắng nghe và bước theo Con của mình suốt hành trình cứu độ.

Trang Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu dạy rằng: “Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy”. Yêu mến và giữ lời Đức Kitô, mỗi tín hữu được đón nhận sự sống của Ba Ngôi Thiên Chúa. Trong tình yêu này, thiên đàng chớm nở. Thiên đàng thật gần, ngay trong lòng mỗi người. Thiên đàng ấm áp nơi tâm hồn những ai biết yêu Đức Kitô và tuân giữ lời Ngài. Các bí tích đều nhằm mục đích làm cho tình yêu giữa mỗi người với Đức Kitô được lớn lên.

Đức Maria là mẫu gương yêu mến và tuân giữ Lời Chúa. Tin Mừng (Lc 11,27-28) kể câu chuyện: Một người phụ nữ nghe Chúa giảng dạy, bà nghe say mê. Với tính nhạy cảm của một người nữ, bà cảm nghiệm niềm hạnh phúc của người mẹ có một người con tuyệt vời như Chúa Giêsu. Giữa đám đông, bà bày tỏ niềm thán phục Chúa, bà tán dương Mẹ Maria là “người mẹ có phúc đã cưu mang Thầy và vú đã cho Thầy bú mớm”. Đáp lại lời tán dương ấy, Chúa nói đến hạnh phúc cho ai nghe và giữ lời Thiên Chúa: “Bà ơi, đúng hơn phải nói rằng: phúc thay kẻ biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa”.

Người phụ nữ kia đã tán dương Đức Mẹ là có phúc vì Mẹ có các vinh dự làm Mẹ của một người con tài ba kỳ diệu là Chúa Giêsu. Đây mới chỉ là vinh dự trần gian. Mẹ Maria còn có một hạnh phúc lớn lao hơn là “nghe và giữ lời Thiên Chúa”. Khi biết lắng nghe, đón nhận và giữ lời Thiên Chúa thì thiên đàng đã ở trong người ấy, vinh phúc đời đời ở trong người ấy, Thiên Chúa ở trong người ấy. Đó là vinh phúc của Mẹ Maria.

Bởi đó, Chúa nói với người phụ nữ kia, không chỉ dừng lại nơi lời khen Mẹ Maria có phúc vì đã có vinh dự cứu mang, nuôi dưỡng một người con tuyệt vời, mà cần hướng đến ý nghĩa cao cả hơn. Phúc thay cho ai biết lắng nghe và giữ lời Thiên Chúa. Đó là hạnh phúc cao quý nhất của Đức Mẹ.

Đức Mẹ nghe và giữ lời Thiên Chúa như thế nào? Đây là bài học chúng ta cần học hỏi trong Năm Tin.

Vào ngày Thiên Thần Gabriel đến truyền tin, Đức Mẹ đã đứng trước một mầu nhiệm lạ lùng. Mẹ cưu mang con Thiên Chúa. Mẹ suy nghĩ và trao đổi. Mẹ biết đây là thánh ý của Thiên Chúa. Mẹ đáp trả lời “Xin Vâng”. Mẹ đã lắng nghe, Mẹ đã tin và chấp nhận dấn thân. Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể trong lòng Mẹ. Chính Ngài là Ngôi Lời Thiên Chúa đang đến với nhân loại và trở nên Emmanuel.Lời đó đang đến gõ cửa lòng ta hằng ngày. Chúa mong ta cưu mang Ngài, sống với Ngài, thực hiện lời Ngài. Hôm nay Chúa Phục Sinh đang ở với chúng ta qua Bí Tích Thánh Thể, qua Lời Ngài mà Giáo Hội đang rao giảng.

Ngày kia, Chúa đang rao giảng, có người tin cho Chúa biết: “có Mẹ và anh em Thầy đang chờ gặp Thầy”. Chúa nói ngay với họ: “ai là Mẹ tôi, ai là anh em tôi? Ai nghe và giữ lời Thiên Chúa, người đó là anh chị em tôi, là mẹ tôi”. Lại một lần nữa Chúa nói lời với hai ý nghĩa. Ý nghĩa thứ nhất là tán dương Mẹ Maria là người diễm phúc luôn lắng nghe và tuân giữ lời Thiên Chúa. Ý nghĩa thứ hai, Chúa mời gọi mọi người trở nên những người thân thuộc của gia đình mới, gia đình thiêng liêng của Ngài, bằng cách lắng nghe, tin yêu và tuân giữ lời Thiên Chúa.

Có lẽ, chúng ta đã nghe Lời Chúa nhiều, ít là hằng tuần, nhưng đã thực hiện lời Chúa thế nào? Chúng ta có thói quen đọc Lời Chúa trong gia đình không?

Mục tiêu hàng đầu của đời sống tín hữu là biết lắng nghe và giữ Lời Thiên Chúa, là đem Lời Chúa ra thực hành hằng ngày. Trước mọi biến cố xảy đến, Đức Mẹ đều coi là thánh ý Thiên Chúa nên Mẹ ghi nhớ và suy đi nghĩ lại trong lòng để xin vâng thánh ý Chúa.

Tại tiệc cưới Cana, Mẹ xin Chúa giúp đỡ gia đình tân hôn đang hết rượu. Với một lời đề nghị tế nhị: “Con ơi, họ hết rượu rồi”. Chúa đáp lại như một lời từ chối: “Thưa bà, việc đó liên can chi đến bà và tôi? Giờ của tôi chưa đến”. Mẹ tin nơi tình thương của Chúa. Chúa sẽ làm những gì tốt nhất, đẹp nhất cho con người. Vì thế, Mẹ dặn dò người giúp vịêc: “Người bảo gì, các anh cứ việc làm theo”.

Trong cuộc thương khó của Chúa, Mẹ đau đớn và luôn vâng theo thánh ý Chúa. Dưới chân thập giá, Mẹ hịêp thông trọn vẹn trong lễ tế hiến dâng với con.

Hỡi các bà mẹ, cuộc đời của người mẹ nào cũng đầy cam go, truân chuyên vất vả. Gian truân hơn bất cứ bà mẹ nào trong chúng ta đây. Nhưng Mẹ Maria đã vượt qua tất cả trong niềm tin yêu vào Lời Chúa. Mẹ luôn tín thác vào tình thương của Ngài. Hãy vững tin vào Lời Chúa. Hãy để Lời Chúa hướng dẫn cuộc sống sẽ tốt đẹp mỗi ngày.

Mỗi dịp tháng Năm về, mỗi lần thưởng thức hương hoa, ta hãy hướng theo nhân Đức Mẹ, xin Mẹ tỏa hương thiên đàng của người, ấp ủ ta biến thành những đóa hoa tươi thắm của Mẹ. Mỗi khi hái hoa dâng tiến Đức Mẹ, ta hãy mượn hương sắc và lời huyền diệu của hoa để ca tụng và khấn xin. Dâng Hoa Hồng, xin Mẹ cho ta được yêu mến Mẹ nhiều hơn. Dâng Hoa Huệ, ta ca ngợi đức khiết trinh của Mẹ. Xin Mẹ lấy hương huệ trinh nguyên của hồn Mẹ ướp hồn ta nên trong trắng.

Những ngày Tháng Năm này, nếu thiếu những bông hoa hữu hình, ta hãy hái hoa hồng thiêng là kinh Mân Côi để dâng lên Mẹ. Nhưng thế nào đi nữa, nguyện ước trái tim chúng ta hãy biến thành một dàn hoa kết đủ những hương hoa thơm ngát nhân đức dâng kính Mẹ.

Trong cuộc hành hương nội tâm hay lữ hành nơi dương thế, chúng ta tin có Mẹ Maria luôn cầu bầu che chở, yêu thương nâng đỡ. Chúng ta nhìn lên Mẹ như mẫu gương của bậc thầy lắng nghe và tuân giữ Lời Chúa. Hãy luôn vững lòng cậy trông với niềm tin yêu. Đức Mẹ hằng yêu thương phù trợ mỗi người chúng ta.

Xin dâng lên Mẹ những sắc hoa của cuộc đời chúng con. Ước gì cuộc đời chúng con luôn là những bông hoa tươi thắm dâng tặng cho đời xuân sắc, lan toả hương thơm bác ái trong môi trường sống của chúng con. Amen.

 

13. Bình an

Cuộc chuyển biến vừa qua tại Thái Lan đã làm cho thế giới chú ý đến vai trò của nhà vua nước này. Một trong những hình ảnh đáng chú ý và cảm động nhất hẳn phải cảnh tượng của thủ tướng và đối thủ của ông là tướng Chamlon cùng ra trước mặt quốc phủ phục và lắng nghe những khuyên nhủ của ông. Những lời lẽ của một ông vua được toàn dân yêu mến và tuân phục đã có sức thuyết phục tướng Chamlon từ bỏ con đường tham vọng của ông. Cơn khủng khoảng của Thái Lan xem ra đã kết thúc, mọi người ca ngợi sự dàn xếp của quốc vương Thái Lan. Trong lịch sử Thái Lan, quốc vương vẫn được dân chúng xem như là một nguyên thủ hợp lý của đất nươc. Theo truyền thống, các vua Thái Lan trước khi lên ngôi phải tu luyện cho đủ mười điều đức hạnh của đạo Phật về khoan nhượng và vị tha, họ phải trở thành điều mà dân Thái Lan gọi là “ vua của mọi giai cấp, mọi nhóm xã hội và mọi chủng tộc”.

Hình ảnh của quốc vương Thái Lan trên đây hẳn phải mời gọi chúng ta suy nghĩ về sứ mệnh hòa bình, sứ mệnh hòa giải của người Kitô hữu. Lời Chúa trong bài tin mừng hôm có thể tóm gọn trong cả chủ đề của lời Chúa trong Chúa nhật thứ 6 Phục Sinh: “Thầy để lại bình an cho các con. Thầy ban bình an của Thầy cho các con. Thầy ban bình an của Thầy không như thế gian ban tặng”. Chúa Giêsu không chỉ trao ban bình an cho chúng ta như là một quà tặng mà Ngài còn ủy thác cho chúng ta một sứ mệnh, đó là sứ mệnh xây dựng “ Hòa Bình”. Ngôn ngữ Việt Nam chúng ta có lẽ đủ thâm thúy để diễn tả điều Chúa Giêsu muốn nói với chúng ta. Thật thế, hầu hết các ngôn ngữ trên thế giới đều có một danh từ để chỉ hòa bình. Nhưng ngôn ngữ Việt Nam chúng ta ít nhất có hai từ để nói về ý niệm này, chúng ta nói: “ Bình an” để chỉ một trạng thái của tâm hồn. Chúng ta dùng hai chữ “ Hòa Bình” để chỉ mối tương quan giữa người với người hoặc quốc gia với quốc gia.

Chúa Giêsu đã phân biệt hai bình diện ấy của hòa bình khi Ngài nói với ra rằng, bình an mà Ngài ban tặng cho chúng ta không phải là thứ hòa bình của thế giới vẫn thường nói đến. Khi nói đến hòa bình của thế giới thì ám chỉ đến một trật tự không có chiến tranh, không có tiếng súng, không có xung khắc, một thứ hòa bình lén lút, giải tạo và chóng qua. Đàng sau một thứ trật tự như thế còn có biết bao nhiêu suy tính của tham vọng, của thù hận, của đe dọa chỉ chờ đợi để bùng nổ. Chiến tranh lạnh giữa hai khối Đông-Tây đã chấm dứt, thế nhưng thế giới đã thực sự hưởng được hòa bình chưa?

“ Bình an”hay “ Hòa bình” đích thực mà Chúa Giêsu hứa ban cho chúng ta thiết yếu là sự bình an trong tâm hồn. Chỉ khi nào con người có được sự bình an đích cho thì mới có thể xây dựng được hòa bình với người khác. Bình an nội tâm là điều tiên quyết để xây dựng hòa bình. Bao lâu tâm hồn chúng ta vẫn còn cưu mang hận thù, tham lam, ích kỷ, đố kỵ, ghen ghét… thì bấy lâu bình an không thể có trong chúng ta và hòa bình ấy cũng không thể đến với người xung quanh được, dù ở bất quy mô nào cũng không bao giờ có được sự hòa bình đích thực ấy.

“Bình an” hay “ hòa bình” đích thực là một công trình xây dựng không ngừng đòi hỏi hy sinh và phấn đấu trong chính nội tâm của mỗi người, nó đòi hỏi con người chiến đấu để thắng vượt những nhỏ nhen ích kỷ của mình để trung thành với những cam kết của mình, để ra khỏi chính mình và đến với tha nhân nhiều hơn.

“Bình an” hay “ hòa bình” đích thực thiết yếu là quà tặng của Chúa, quà tặng ấy cũng chính là Chúa. Thiên Chúa tự trao ban cho chúng ta khi tâm hồn con người được Chúa chiếm trọn, khi tâm hồn người chọn được chính Chúa. Khi con người chọn chính Chúa làm gia nghiệp của mình thì lúc đó con người sẽ có được bình đích thực. Hiểu như thế thì sứ mệnh xây dựng hòa bình của người Kitô hữu chúng ta chính là chia sẻ quà tặng ấy với mọi người xung quanh.

Trong một xã hội mất định hướng thì người Kitô hữu thực thi sứ mệnh thiên định của mình, và thể hiện bằng những việc làm cụ thể. Trong một xã hội băng hoại vì giành giật, ích kỷ, người tín hữu Kitô thực thi sứ mệnh hòa bình bằng một niềm tín thác kiên vững vào tình yêu của Thiên Chúa.

 

14. Bình an Chúa ban

(Suy niệm của Lm Phêrô Bùi Quang Tuấn)

Vào trung tuần tháng 11 năm 2000, đang khi các giám mục Công giáo Hoa kỳ tiến hành cuộc họp thường niên, một số các nhà hoạt động bênh vực “quyền lợi” của những người đồng tính luyến ái đã đột nhập và phản đối ồn ào, chống lại những giáo huấn của giáo hội liên quan đến “quyền lợi” của những người đồng tính.

Được biết trong cuộc họp lần này, các giám mục Hoa kỳ đã đưa ra bản tuyên ngôn về hôn nhân, kêu gọi một sự tín trung hơn trong giao ước hôn nhân giữa nam và nữ. Bản tuyên ngôn xác định rõ ràng hôn phối là sự kết hiệp thánh thiện giữa một người đàn ông và một người đàn bà. Không thể chấp nhận chuyện những người cùng phái lấy nhau.

Đã có khoảng 200 người tụ tập biểu tình đòi giáo hội chấm dứt tình trạng “khủng bố tinh thần” chống lại những người đồng tính hay đổi phái. Sau đó có khoảng 100 người biểu tình bị bắt giữ vì đã có hành vi bạo động quá đáng. Một số người trong tổ chức “Dignity and Soul Force” cho rằng Giáo hội không đi đúng đường lối Phúc âm khi không mang lại an bình cho tâm hồn người ta, lại còn tạo nên bầu khí phân cách đối với người đồng tính.

Đức Cha Joseph A. Galante, Giám mục Phó của địa phận Dallas đã trả lời những người trong tổ chức Dignity and Soul Force rằng: “Phúc âm vẫn là Phúc âm. Trong đó luôn có thách đố, nhưng chắc chắn không có việc khơi mào bạo động hay thù hận đối với ai. Tuy nhiên có những người dùng Thánh kinh như để phục vụ cho mục đích riêng của mình chứ không phải để trung tín bước theo ý nghĩa xác thực của Tin Mừng.”

Hoa trái của Tin Mừng là bình an, thứ bình an do Thiên Chúa ban tặng chứ không phải đến từ thế gian. Có nhiều người lầm tưởng bình an là những cảm giác yên hàn, mọi chuyện xuôi đẹp, không có chông gai, chiến tranh, thập giá. Đây không phải là thứ bình an đích thực. Nó tuỳ thuộc vào ngoại cảnh. Nó không phải là thứ bình an mà Đức Giêsu đã hứa ban cho các môn đệ trong bữa tiệc ly. Bình an Chúa ban luôn có bóng hình thập giá.

Danh ngôn thế giới có câu “Nemo dat quod non habet” – Không ai cho kẻ khác điều mình không có. Vậy thì làm sao Đức Giêsu lại có thể có được an bình để trao ban cho các môn đệ khi mà trước mắt Ngài là những đau thương và ngăm đe của khổ hình thập giá, cùng với muôn sự ruồng bỏ dể duôi của bao người?

Có lẽ chỉ khi nhìn vào Đức Giêsu trong thời điểm đối diện với những gian nan thử thách, chiến đấu cam go, người ta mới thấy rõ hơn sự bình an sâu thẳm mà Ngài để lại cho các môn đệ như món gia bảo cuối đời. Đây là thứ bình an nội tại, một thứ bình an được kết tinh nhờ sự hiệp thông với Thiên Chúa Cha, thế nên, dù bóng cao thập giá có mịt mùng thì hồn Ngài vẫn là nguồn sáng cho nhân loại.

Một khi có được sự hiệp thông với Thiên Chúa thì dù gặp thành công hay thất bại, may mắn hay rủi ro, giàu có hay khó nghèo, chống đối hay ủng hộ, đều không làm người ta xao xuyến, nhát đảm, hoặc bất an. Còn khi bước sai lệch nẻo đường đến với Thiên Chúa thì dù muôn sự tưởng như thuận buồm xuôi gió hay an nhàn vô sự, tâm hồn vẫn mãi bất an cho đến khi tìm lại được ơn giao hoà.

“Ta để lại bình an cho các ngươi; Ta ban bình an cho các ngươi” (Ga 14:27a). Hẳn là Chúa Giêsu muốn nói đến sự bình an mà Ngài sẽ mang lại cho con người qua mầu nhiệm thập giá. Bởi vì bấy lâu nay, kể từ ngày Adong Eva sa ngã, nhân loại mãi sống trong tội, chạy theo những đam mê thế tục, để cho những tên giặc xác thịt khuấy động và làm bất an tâm hồn. Nay qua cuộc khổ nạn đau thương của Chúa Giêsu mà an bình được ban xuống cho nhân loại. Chiếc cầu giao hoà giữa trời cao với đất thấp được lập nên nhờ thập giá.

Biết bao bạo động, chiến tranh sảy ra đều phát xuất từ những dục tình xấu xa nơi tâm hồn người ta. Muốn dẹp chiến tranh bạo động trước hết phải học chế ngự những mầm mống nổi loạn của trí lòng. Muốn chế ngự được những mầm mống đó không thể không có sự trợ lực của hy sinh, khổ giá. Nhưng điều kỳ lạ mà Tin Mừng Đức Kitô mang cho con người lại là chính khi đón nhận khổ giá thì bình an và sự sống lại phát sinh dồi dào.

Những lời sau đây trích trong sách “Gương Chúa Giêsu” đáng để chúng ta suy gẫm giữa bao vinh nhục, thăng trầm của cuộc sống:

Đời hứa bình an cho những ai phụng sự đời. Nhưng thứ bình an nền tảng ở tiền tài, sắc dục, kiêu ngạo… đã đánh lừa những người theo đuổi nó, và nó đã tiêu tan đi như giấc mộng đẹp.

Trái lại, bình an thực nền tảng ở một lương tâm thanh thản. Nó hệ tại biết kìm hãm ước muốn, biết tự thoát, khiêm nhường, hơn là thoả mãn dục vọng, ăn trên ngồi trốc.

Lạy Chúa, xin ban cho chúng con thứ Bình an của Chúa, thứ bình an mà người đời không thể cho được, để chúng con được thư thả mà phụng thờ Chúa và được hạnh phúc an nghỉ trong Chúa cho đến muôn đời.

Thành tâm tuân giữ luật Chúa, bước theo Đức Kitô như Ngài đang “tiến đến với Cha” (Ga 14:28), dù bước tiến đó đầy chông gai, thử thách, và đau đớn xác thân, chắc một điều: an bình, niềm vui, và sự sống chính là phần thưởng cho những người môn đệ tín trung.

 

15. Chúa Nhật 6 Phục Sinh

Anh chị em thân mến.

Mỗi ngày và mỗi ngày, cứ đến giờ quy định, trước các cổng trường mẫu giáo, nhà trẻ và các trường cấp I, có rất nhiều xe chờ đón bên ngoài. Dù trời mưa hay nắng, những người chờ đợi nầy không bao giờ lỗi hẹn. Càng lạ lùng hơn nữa, nếu trời mưa bất chợt, thì những tài xế nầy sẳn sàn để cho cơn mưa hành hạ mình, còn người được rước luôn được bảo vệ hết sức có thể.

Những chiếc xe chờ đón đó là ai? Thưa đó là những người cha, người mẹ của những đứa con đang học trong những ngôi trường mà họ chờ đợi trước cổng. Vì yêu thương mà cứ mỗi ngày họ lại đúng hẹn, cho dù bận rộn nhiều công việc, nhưng với đứa con thân yêu của mình, họ vẫn giữ đúng hẹn. Chỉ vì yêu thương họ mới có thể trung thành được như thế, họ mới có thể giữ đúng lời hứa đến như thế.

” Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy… kẻ không yêu mến Thầy thì không giữ lời Thầy.”

Chúa Giêsu đã nói lên những lời tâm phúc với các môn đệ của mình. Nhìn thấy các ông buồn rầu lo sợ, Ngài trấn an các ông, Ngài chỉ đòi hỏi các ông về lòng yêu thương. Dấu chỉ để chứng tỏ tình yêu là vâng giữ lời của Ngài. Tình yêu thương không chỉ là những lời nói suông, nhưng phải được biểu lộ bằng hành động.

Các môn đệ đã vâng giữ lời, đã chứng tỏ được lòng yêu mến qua cuộc sống, qua con người của các ông. Giờ đây các ông được sống trọn vẹn trong tình yêu mà các ông đã chúng tỏ qua việc tuân giữ lời.

Trải qua hơn 2000 năm lịch sử. Giờ đây Chúa Giêsu cũng nói với những người môn đệ của ngày hôm nay, những người đang ngồi trong nhà thờ, những người đang lắng nghe những lời nói của Tình Yêu.

“Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy.”

Nếu giờ nầy có ai chất vấn chúng ta về tình yêu, chúng ta sẽ trả lời sao đây? Có lẽ chúng ta cũng dám tự hào rằng mình yêu mến Chúa. Nhưng coi chừng, chúng ta yêu mến Chúa chỉ bằng môi miệng, còn tâm hồn thì ở tận đâu. Chúng ta ngở rằng Thiên Chúa của mình ở trong nhà thờ, bị nhốt trong nhà tạm. Chúng ta chỉ nhìn thấy Chúa trong kinh nguyện, trong những giờ phút mà chúng ta gọi là việc đạo đức. Ngoài những việc đó ra, chúng ta cứ mặc tình thoải mái, muốn sống sao thì sống.

“Ai yêu mến Thầy, sẽ giữ lời Thầy.”

Chúng ta ngỡ rằng với những lời kinh, những lúc ngồi trong nhà thờ lâu giờ, như thế gọi là yêu mến Chúa, còn ngoài ra cuộc sống dường như không có Chúa bên cạnh. Như vậy chúng ta giữ lời Chúa như thế nào để chứng tỏ tình yêu của mình? Chúng ta có còn biết Lời Chúa là Lời như thế nào hay không? Lời Chúa là LỜI YÊU THƯƠNG. Chúa dạy chúng ta yêu thương. Nhưng yêu thương không phải chỉ là những lời nói suông. Yêu thương phải được thể hiện qua hành động, qua việc vâng giữ Lời Chúa.

Nếu chúng ta yêu mến, nếu giữ Lời Chúa thì chúng ta sẽ tận tâm hơn trong công việc hằng ngày, tận tâm hơn với trách nhiệm mà mình được trao cho.

Nếu chúng ta yêu mến và giữ Lời Chúa, chúng ta sẽ không còn thấy những người chung quanh như gánh nặng trên vai của mình nữa.

Nếu chúng ta yêu mến Chúa không chỉ bằng lời nói suông, thì đôi tay chúng ta sẽ hành động, không quảng ngại những khó khăn trắc trở. Khi đó tình yêu sẽ thúc đẩy chúng ta hành động giống như người cha, người mẹ không ngại mưa nắng khó khăn, sẳn sàn bảo vệ tình yêu của mình đối với đứa con thân yêu. Nếu chúng ta hành động được như thế, là chúng ta yêu mến Chúa qua cách đối xử với người anh em. Đó là đã vâng giữ lời Chúa và chúng ta sẽ được Thiên Chúa ở cùng.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho chúng ta biết vâng giữ lời Chúa bằng hành động yêu thương.

 

16. Quà tặng của Chúa

(Suy niệm của AM. Trần Bình An)

Sau khi chiến tranh lạnh vừa kết thúc (1991), thế giới chưa kịp hưởng thái bình được bao lâu, thì sự kiện ngày 9/11/2001 trên đất Mỹ, đánh dấu thảm họa khủng bố bắt đầu lan tràn trên toàn cầu. Phập phồng mối lo sợ sự dữ không hề thuyên giảm, mà càng ngày càng dồn dập lan nhanh khắp nơi.

Mới đây, ngày 15/4/2013 xảy ra vụ khủng bố tại đích đến của cuộc thi marathon Boston, khiến dân chúng Hoa Kỳ càng thêm kinh hoàng. Trong khi đó, cả thế giới còn đang lo lắng chiến tranh hạt nhân, đe dọa châm ngòi bất cứ lúc nào từ Bắc Triều Tiên.

Như thế nền hòa bình, sự bình an của thế gian chỉ tạm bợ, bấp bênh và rất phù du. Còn sự bình an trong tâm hồn mỗi người cũng phù phiếm và bất định không kém.

Hôm nay qua Tin Mừng Thánh Gioan, Chúa Giêsu lại trao ban sự bình an. “Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ. hãi.” (Ga 14, 27)

Bất an

Ngay từ khi Adam và Eva phạm tội, con người bắt đầu nếm mùi sợ hãi, bất an. Cả hai hoảng sợ, trốn tránh, xấu hổ, khi Thiên Chúa tìm đến họ nâng đỡ, an ủi. Sự bất an kéo đến xâm chiếm con người, khi mối tương quan giữa Thiên Chúa với con người bị phá vỡ bởi tội lỗi. Thành ra con người mới cảm thấy bơ vơ, lạc lõng giữa môi trường dù quen hay lạ.

Hệ lụy tiếp theo, con người cảm thấy bất an với chính đồng loại, khi Thiên Chúa không còn hiện diện trong cuộc sống, không còn là nơi nương tựa. Sự tham lam, giận ghét, ghen tuông, thù hận, theo cái ác phát triển như như cỏ dại, như gai góc, như thú dữ xuất hiện ngay trong Vườn Địa Đàng, sau khi xảy ra tội nguyên tổ. Cain đã lạnh lùng giết chết Abel, em ruột. Các cuộc xung đột giết chóc phát sinh vô tận giữa các bộ lạc, sắc tộc và dân tộc, liên miên suốt chiều dài lịch sử nhân loại.

Trong thâm tâm mỗi người, sự lo lắng bất an luôn đi cùng suốt cuộc đời, từ khi chào đời đến khi xuôi tay, nhắm mắt. Con người luôn cảm thấy yếu đuối, bất lực trước phong ba, bão táp, nghịch cảnh.

Khi Chúa Cứu Thế Giáng Sinh, món quà đầu tiên Người gửi đến nhân loại chính là hai chữ bình an: “Bình an dưới thế cho người thiện tâm!” (Lc 2, 14)

Bình an

Chỉ con người thiện tâm, trở về với Nguồn Cội là Thiên Chúa, mới có thể đón nhận sự bình an, tặng phẩm Giáng Sinh cao quý. Sám hối trở lại, hàn gắn mối giao hòa với Thiên Chúa, từ bỏ tội lỗi, những đam mê xác thịt, những quyến rũ trần thế, những tham, sân, si, nghi, mạn, ác, con người mới xứng đáng đón nhận hồng ân bình an.

Điều tiên quyết khi đã trở về theo Chúa, chính là bỏ mình, bỏ tất cả con người cũ tội lỗi, chấp nhận đau thương, thánh giá Chúa gửi đến, sống theo Lời Hằng Sống, chấp nhận lội ngược dòng, chịu sỉ nhục và bắt bớ, nhục hình.

Ông Phêrô đã toan trốn khỏi thành Roma để khỏi chịu khổ nạn, thấy Chúa Giêsu đi ngược trở vào thành. Ông kinh ngạc liền hỏi: “Quo Vadis?” (Thầy đi đâu vậy?) Chúa đáp: “Romam Vado iterum crucifigi.” (Thầy đến Roma để chịu đóng đinh lần nữa). Nghe vậy, ông Phêrô bèn hối lỗi, giác ngộ, trở vào thành an tâm tiếp tục sứ vụ, để cuối cùng được phúc tử vì đạo, bằng cách chịu đóng đinh ngược. Nhờ đồng hành cùng Chúa, ông Phêrô mới cảm thấy bình an, dù đứng trước ngay thách đố sinh tử. (Henryk Sienkiewicz, Quo Vadis)

Khi đã thành tín giao hòa cùng Chúa, con người mới có thể giao hòa với tha nhân, với anh em mọi người, quen biết cũng như xa lạ, thân thiết cũng như thù địch, mà tâm hồn vẫn bình an, thanh thản, vô ưu. Do vậy, các thánh nhân mới can đảm và bình thản chịu nhục hình cho đến hơi thở cuối cùng.

Tái củng cố mối liên kết với Chúa, con người mới có thể thân thiện với tạo vật, với môi trường. Mới tôn trọng, gìn giữ môi trường xanh, sạch và đẹp. Mới thân thiết, yêu quý các loại động vật hoang dã. Đáp lại, môi trường không bị hủy diệt, tận diệt, không bị biến đổi khí hậu, không bị ô nhiễm, hay sa mạc hóa, mà trở nên Vườn Địa Đàng, hành tinh xanh đáng sống và đáng yêu.

Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa,

Để con đem yêu thương vào nơi oán thù,

Đem thứ tha vào nơi lăng nhục,

Đem an hòa vào nơi tranh chấp,

Đem chân lý vào chốn lỗi lầm;

Đề con đem tin kính vào nơi nghi nan,

Chiếu trông cậy vào nơi thất vọng;

Đề con dọi ánh sáng vào nơi tối tăm,

Đem niềm vui đến chốn u sầu. (Lm Kim Long, Kinh Hòa Bình)

Lạy Mẹ Maria, xin cho con biết noi gương Thánh Gia, để con nhận được quà tặng bình an viên mãn của Chúa trao ban. Amen.

 

17. Bình an – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Truyện kể về bác nông dân nối cầu hoà bình: Ngày nào bác cũng phải khàn cả tiếng để đuổi đám gà của những người hàng xóm. Gà chui qua hàng rào và bới nát cả vườn tược của bác. Bác xin những người láng giềng nhốt gà lại, thế nhưng không ai thèm chú ý đến lời yêu cầu của bác. Là một người ưa chuộng hoà bình, bác không muốn ăn miếng trả miếng. Bác liền nghĩ ra một giải pháp độc đáo: Bác đi mua trứng gà bỏ vào giỏ và cứ vài ngày, bác lại mang trứng gà sang cho những người láng giềng và nói rằng đám gà của họ đã đẻ trong vườn của bác. Bác làm thế 3 lần và kết quả diễn ra nhanh chóng. Những người láng giềng vội rào dậu cẩn thận để giữ gà ở nhà đẻ trứng. Chỉ mất một ít trứng gà mà bác đã tránh được những tranh chấp vô ích có thể làm sứt mẻ tình hàng xóm.

Thị phi ở đời thật khó lường, đôi khi có bé thì xé ra to. Cách tốt nhất là cùng nhau xây dựng hoà bình. Mọi người sẽ có một cuộc sống an lạc, vui tươi và hạnh phúc. Các cộng đoàn tín hữu thời sơ khai cũng gặp rất nhiều những vấn đề nan giải. Một số người thủ cựu với óc hẹp hòi thường gây xáo trộn bằng cách rỉ tai và loan truyền những lời thất thiệt gây nghi ngờ: Chúng tôi nghe biết có một số người trong chúng tôi, không được chúng tôi uỷ nhiệm, mà lại đi nói những điều gây xáo trộn nơi anh em, làm anh em hoang mang (Cv 15,24). Trong giai đoạn tranh tối tranh sáng giữa lề luật của đạo cũ và đạo mới đã làm cho nhiều tâm hồn bất an. Vì có nhiều người sống đạo chỉ cậy dựa vào những hình thức bên ngoài và chu toàn những khoản luật không đi đôi với đời sống nội tâm nên đã gặp nhiều xao xuyến.

Đại diện Giáo Hội đã gửi Phaolô, Barnaba, Giuđa, Sila và những vị có uy tín đến với các anh chị em thuộc dân ngoại ở Antiokia, Syria và Cilicia để khuyên dạy và gởi lời chào thăm của các Tông đồ và Kỳ lão. Các Tông đồ không muốn đặt gánh nặng nào khác lên vai những người đã tòng giáo. Một số điều cần thiết nên thực hiện: Là kiêng ăn đồ đã cúng cho ngẫu tượng, kiêng ăn tiết, ăn thịt loài vật không cắt tiết và tránh gian dâm. Anh em cẩn thận tránh những điều đó là tốt rồi. Chúc anh em an mạnh (Cv 15,29). Các Tông đồ đã quyết định không thực hành việc cắt bì cho những tân tòng gia nhập Giáo Hội. Vì theo truyền thống của người Dothái, mọi con trai đều được cắt bì theo luật Môsê.

Chúa Giêsu đã vượt qua từ cõi chết tới sự sống lại. Đường vào đạo của Chúa Giêsu khởi đi từ trái tim yêu thương. Vâng giữ lệnh truyền của Thầy là yêu mến Thầy. Tình yêu là hạt nhân sống đạo. Thánh Augustinô viết rằng: Cứ yêu đi, rồi làm. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu chọn lựa: Ơn gọi của con là tình yêu. Mẹ Têrêxa thành Calcutta lập dòng Thừa sai Bác ái. Mẹ Têrêxa đã phát biểu: Qua dòng máu, tôi là người Albania. Bởi quyền công dân, tôi là người Ấn Độ. Với niềm tin, tôi là một nữ tu Công giáo. Từ trái tim, tôi hoàn toàn thuộc về Thánh tâm của Chúa Giêsu. Thánh Tâm của Chúa đầy lửa mến và lòng xót thương. Đức Giêsu nói: Ai yêu mến Thầy, thì sẽ giữ lời Thầy. Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy. Cha Thầy và Thầy sẽ đến và ở lại với người ấy (Ga 14, 23). Tình yêu là tất cả. Chúa Giêsu đã sống và đã chết cho tình yêu để tình yêu sống mãi.

Mỗi lần hiện ra cùng các Tông đồ, Chúa Giêsu luôn cầu chúc bình an. Sự bình an đích thực trong tâm hồn: Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy. Thầy ban cho anh em không theo kiểu thế gian. Anh em đừng xao xuyến cũng đừng sợ hãi (Ga 14,27). Khi Chúa Giêsu giáng trần, các thiên thần đã đồng thanh ca hát rằng: Bình an dưới thế cho người thiện tâm. Ai trong chúng ta cũng mong muốn có sự an lạc và yên vui trong cuộc sống. Muốn tìm sự an vui thanh thản, chúng ta cần buông bỏ những ràng buộc kéo lôi và tranh chấp vô ích. Nếu chúng ta có tâm thiện, chúng ta sẽ chuyển hóa mọi điều tiêu cực trở thành tích cực. Giống như khi đeo kính, nếu chúng ta mang kính sáng thì sẽ thấy mọi sự vật rõ ràng trong sáng. Khi đeo kính màu hay kính râm, chúng ta sẽ nhìn thấy khung cảnh chung quanh đổi mầu và mờ ảo. Cũng vậy khi lòng chúng ta áy náy và buồn phiền, tâm của chúng ta sẽ bị xao xuyến và lo lắng. Tâm trong thì lòng thành.

Sự bình an của Chúa ở trong những mảnh hồn có thiện tâm. Thiện tâm hay tâm thiện là phải có tâm từ, tâm bi, tâm hỉ và tâm xả. Tâm từ có khả năng đối trị lòng tham và sự giận hờn. Tâm từ là đem niềm vui cho người khác một cách vô điều kiện. Tâm bi là xoa dịu những nỗi đau và nỗi khổ của con người. Chia sẻ và cảm thông những nỗi bất hạnh của người khác. Thấy người đau, chúng ta cảm thông nỗi đau. Tâm hỉ, đối lại là tâm tị hiềm và ganh ghét. Tâm chúng ta luôn hoan hỉ với việc làm tốt của người khác. Thấy người khác công thành danh đạt, thì chúng ta chúc mừng. Thấy người khác siêng năng, tinh tấn, tốt lành và may mắn, chúng ta chung vui hoan hỉ. Tâm xả, đối trị lại với tâm kỳ thị và cố chấp của mỗi con người. Chúng ta sống thảnh thơi, nhàn hạ, cởi mở và không vướng lụy vào điều gì khác.

Khi thời gian đã mãn, Chúa Giêsu phải rời thế gian để về cùng Chúa Cha. Chúa Giêsu đã hiện diện cùng các môn đệ và Giáo Hội một cách khác. Đấng Bảo Trợ sẽ đến để dạy chúng ta mọi điều. Chúa Giêsu mạc khải cho chúng ta về Ngôi Ba Thiên Chúa. Nhờ các ơn sủng trợ giúp của Chúa Thánh Thần, Giáo Hội tiếp tục cuộc lữ hành trần thế: Nhưng Đấng Bảo Trợ là Thánh Thần Chúa Cha sẽ sai đến nhân danh Thầy, Đấng đó sẽ dạy anh em mọi điều và sẽ làm cho anh em nhớ lại mọi điều Thầy đã nói với anh em (Ga 14,26). Chúng ta biết Giáo Hội là một tổ chức có cơ cấu như một xã hội, nhưng lại có sứ vụ linh thánh (divine mission). Giáo Hội tập trung sứ mệnh cao cả là rao giảng Tin Mừng của Chúa Giêsu Kitô.

Chúng ta tin rằng Chúa Thánh Thần vẫn luôn hoạt động trong Giáo Hội qua mọi biến cố. Ngày tháng qua, chúng ta đã chứng kiến những luồng gió tươi mát qua sự kiện từ chức của Đức Giáo hoàng Bênêđictô XVI và bầu chọn Đức tân Giáo hoàng Phanxicô. Đức Giáo hoàng Phanxicô đã bày tỏ với các yồng y: Các ngài phải gắn bó niềm tin chặt chẽ với tận gộc rễ của Tin Mừng và xa tránh những cám dỗ của thời hiện đại. Trái lại, Giáo Hội có nguy cơ trở nên nhóm bác ái khác mà không có sứ vụ thánh. Đức Giáo hoàng nói: Chúng ta có thể bước tới mọi nơi mà chúng ta muốn và có thể xây dựng mọi thứ, nhưng nếu chúng ta không loan báo Chúa Giêsu Kitô, có vài điều sai lạc. Chúng ta trở nên một tổ chức thương cảm phi chính phủ và không còn là Giáo Hội, Hiền Thê của Chúa Kitô. Chính Chúa Kitô mới là trung tâm điểm đời sống của các Kitô hữu và Giáo Hội trong mọi nơi và mọi thời.

Thánh Gioan trong Sách Khải Huyền, đã thị kiến vinh quang quê hương vĩnh cửu nơi Chúa Kitô đang ngự bên hữu Thiên Chúa: Rồi đang khi tôi xuất thần, thì người đem tôi lên một ngọn núi cao hùng vĩ và chỉ cho tôi thấy Thành Thánh, là Giêrusalem, từ trời, từ nơi Thiên Chúa mà xuống (Kh 21,10-11). Để cùng chung hưởng hạnh phúc với Chúa Kitô Phục Sinh, Đức Giáo hoàng Phanxicô nhắc nhở chúng ta: Ai không cầu nguyện với Thiên Chúa, người đó cầu nguyện với thần dữ. Khi chúng ta không tuyên xưng Chúa Giêsu Kitô, là chúng ta tuyên xưng thế giới của ma quỷ và thần dữ. Chỉ có Chúa là Đấng Thánh, chỉ có Chúa là Chúa và chỉ có Chúa là Đấng Tối Cao. Chúng ta cùng đặt niềm tin yêu và hy vọng vào Chiên Thiên Chúa vì Ngài là nguyên thuỷ và cùng đích của tất cả vũ trụ muôn loài: Thành chẳng cần mặt trời mặt trăng chiếu sáng, vì đã có vinh quang Thiên Chúa toả rạng và Con Chiên là ngọn đèn chiếu soi (Kh 21,23).

Lạy Chúa, tình yêu Chúa bao la ngập tràn, xin nguồn ân sủng Chúa biến đổi tâm hồn chúng con trở nên tổ ấm của tình yêu. Xin cho chúng con được ngụp lặn trong biển tình bình an, để chúng con luôn mến Chúa và yêu người. Amen.

 

18. Nguồn bình an

Trong cuộc sống chúng ta thường thấy cảnh này, khi có những sự rắc rối nào đó liên quan đến ai đó mà họ không muốn liên luỵ nên họ lắc đầu liên tục và bảo rằng “Xin cho tôi hai chữ bình an”. Họ muốn an phận, họ không muốn day vào những rắc rối. Thế thì bình an có phải là không chút gợn sóng, không chút khoấy động, không có phản ứng chống đối…

Đoạn Tin Mừng chúng ta được đọc hôm nay Chúa Giêsu hứa ” Thầy để lại bình an cho anh em, Thầy ban cho anh em bình an của Thầy, Thầy ban cho anh em không như thế gian ban tặng “. Như thế bình an của Chúa Giêsu có gì đó rất khác với bình an của thế gian. Vậy bình an của Chúa Kitô là gì? Bình an của Chúa Kitô không phải là một tình trạng yên ôn không bị khuâý động, không bị chống đối. Bình an của Chúa Kitô là được sống tròn đầy do sự hiện diện của Chúa Kitô ” Chúa Kitô là sự bình an của chúng ta ” (Ep2, 14). Sự bình an này đã được Chúa Kitô diễn tả trong cuộc sống của Ngài và đặc biệt trong cuộc thương khó. Chúa Giêsu bước vào vườn Ghêtsêmani với sự sợ hãi hoang mang đến độ Ngài xin Cha cho khỏi uống chén đắng là cuộc thương khó. Nhưng khi nhận ra ý định của Chúa Cha cũng như tình yêu của Chúa Cha thì Ngài đã bình an bước vào cuộc thương khó với niềm tin tưởng cậy trông. Như thế sự hiện diện của Chúa Kitô chính là nguồn đem lại bình an cho chúng ta. Các môn đệ vất vả suốt đêm chèo chống vì ngược gió như khi Chúa Giêsu ngự đến thì sóng biển yên lặng và đưa các ông đến bến bình an. Chúng ta cũng có thể thấy điều này dễ dàng nơi các trẻ em tập đi. Muốn cho em bé đi được thì bé phải tập đi. Mẹ của bé sẽ ở cách xa và chuẩn bị đỡ lấy bé nếu bé ngã còn người kia thì buông bé ra để bé đi đến với mẹ. Mặc dù bé đi rất loạng choạng nhưng bé vẫn muốn đi vì bé biết rằng mẹ bé luôn sẵn sàng đỡ lấy bé khi bé té ngã. Như thế sự bình an của chúng ta nhận được phải là sự bình an trong mọi lúc, phải là sự tin tưởng trọn vẹn nơi Chúa. Chúa luôn dõi bước ngay bên chúng ta, sẵn sàng nâng đỡ chúng ta khi chúng ta gặp gian lao thử thách.

“Ai yêu mến Thầy thì sẽ giữ lời Thầy”. Yêu ai là muốn nên giống người đó và làm đẹp lòng người đó. Với thước đo này ta có thể đo được lòng mến của chúng ta đối với Thiên Chúa. Ta có giữ lời của Thiên Chúa chưa? Ta có thực sự muốn nên giống Chúa chưa? Tình yêu của chúng ta đối với Thiên Chúa không hệ tại ở những cảm xúc tự nhiên hay những câu nói suông nhưng là hệ tại ở việc sống Lời Chúa. Sống Lời Chúa là thực thi lòng mến, biết yêu mến tha nhân, thể hiện tình yêu của Thiên Chúa nơi những ngươi chung quanh.

Người Kitô hữu phải là người có sự bình an thật vì hoạ lại hình ảnh của Chúa Kitô nơi trần thế khi thực thi lời Chúa dạy. Như thế, nhiệm vụ của người Kitô hữu là phải làm lan toả sự bình an ấy nơi những người chung quanh, cho xã hội cho thế giới. Bình an là khát vọng của mỗi con người nhưng chưa thể thực hiện được vì nỗi sợ hãi lo âu, lo cho chính mình, cho dân tộc mình, cho đất nước mình nên còn hoài những cuộc chiến những cuộc xâm lăng. Người Kitô hữu phải là những người tái tạo hoà bình, phải là những người làm chứng cho hoà bình trong thế giới bằng cuộc sống không bạo lực, bằng cách sống đồng tâm nhất trí với nhau. Nhưng muốn được như thế mỗi người chúng ta phải là những con người thực sự bình an trong tâm hồn. Nếu chúng ta còn khư khư bám víu cuộc sống mình cách ích kỷ, nếu chúng ta còn sợ mất mát của cải, chúng ta còn muốn hưởng thụ, còn muốn thống trị kẻ khác… thì làm sao chúng ta có thể xây dựng hoà bình cho được.

Hãy tin tưởng vào Chúa, có Chúa hiện diện thì còn lý do gì nữa để chúng ta lo lắng sợ hãi. Như đứa con vững tin ngon giấc trong vòng tay người mẹ thì chúng ta cũng hãy phó thác mọi sự cho Chúa. Cho dù khó khăn, cho dù chống đối, cho dù bất ổn nhưng hãy tin rằng Chúa luôn có cách của Chúa để mang lại những điều thiện ích cho chúng ta.

Có Chúa hiện diện thì ta còn lo lắng sự gì nữa. Chúa thật là nguồn bình an.

 

19. Chơi trò hoà bình

Một ông nhà văn ngồi trên ghế đá công viên, đưa mắt quan sát nhìn xem mấy em nhỏ đang chơi đùa với nhau nơi thảm cỏ. Ông lên tiếng hỏi:

– Này các em, các em đang chơi trò gì thế?

Các em trả lời:

– Chúng cháu đang chơi trò chiến tranh. Chúng cháu đang chơi trò đánh nhau.

Nghe thế, ông hơi cau mặt, gọi các em lại và giải thích:

– Tại sao các em lại cứ thích chơi tró chiến tranh, chơi trò đánh nhau. Chiến tranh và đánh nhau thì có gì là tốt đẹp. Vậy tại sao các em lại không chơi trò hoà bình.

Cả bọn tụm đầu vào nhau và bàn tán. Thấy chúng đón nhận ý kiến của mình, ông nhà văn mỉm cười hài lòng và bước đi. Tuy nhiên, chưa bước đi được bao xa, các em đã đuổi theo và hỏi:

– Bác ơi! Chơi trò hoà bình là như thế nào? Chúng cháu không biết.

Phải, làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi các em chỉ thấy người lớn chơi trò chiến tranh. Làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi trên báo chí, truyền thanh và truyền hình, các em chỉ thấy hình ảnh những người lớn bắn giết nhau. Làm sao các em có thể chơi trò hoà bình, trong khi tại gia đình các em chỉ thấy các anh các chị và đôi khi ngay cả cha mẹ cũng lớn tiếng cãi cọ và mắng chửi lẫn nhau, nhiều lúc còn thượng cẳng chân hạ cẳng tay với nhau nữa.

Rồi trong thực tế, bầu khí người lớn tạo ra để cho các em được phát triển, không phải là một bầu khí hoà bình, mà là một bầu khí chiến tranh. Đến bao giờ người lớn mới thực tâm tìm phương thế giải quyết những mâu thuẫn, những bất đồng với nhau. Mỗi ngày trên thế giới, người lớn đã bỏ ra hằng tỷ mỹ kim cho việc nghiên cứu và trang bị vũ khí, đang khi đó có tới tám trăm triệu người sống trong cảnh nghèo đói và túng thiếu, có tới hơn sáu trăm triệu người mù chữ. Chỉ có bốn trong số mười em sinh ra là được cắp sách đến trường cho hết bậc tiểu học. Và cứ mười em được sinh ra trong cảnh cơ hàn, thì đã có hai em bị chết đói trong năm đầu tiên.

Thế giới người lớn phải bắt tay ngay vào việc loại trừ chiến tranh, nếu họ muốn cho các em thiếu nhi noi gương họ mà chơi trò hoà bình. Đồng thời, phương thức để loại trừ chiến tranh và xây dựng hoà bình, không gì hữu hiệu hơn cho bằng sống tinh thần hoà giải.

Thực vậy, hoà bình chỉ là kết quả đương nhiên của việc hoà giải mà thôi. Chúng ta phải hoà giải với Thiên Chúa bằng việc sám hối ăn năn và lãnh nhận ơn tha thứ. Đồng thời chúng ta còn phải hoà giải với anh em bằng việc lấy tình thương xoá bỏ hận thù. Chính vì thế, trong đêm giáng sinh, các thiên thần đã hát vang trên cánh đồng Bêlem:

– Vinh danh Thiên Chúa trên trời,

Bình an dưới thế cho người thiện tâm.

Và sau khi sống lại, lúc hiện ra với các môn đệ, sau lời chào chúc bình an, thì lập tức Chúa Giêsu đã trao ban cho các ông quyền cầm buộc và cởi mở. Hay nói đúng hơn, Ngài đã trao ban cho các ông quyền tha thứ, quyền hoà giải:

– Anh em tha tội cho ai, thì người ấy được tha; anh em cầm giữ ai, thì người ấy bị cầm giư

Để kết thúc, chúng ta hãy cùng nhau ghi nhớ và suy gẫm lời kinh Hoà bình của thánh Phanxicô Assie:

– Lạy Chúa, xin hãy dùng con như khí cụ bình an của Chúa. Để con đem yêu thương vào nơi oán thù, đem thứ tha vào nơi lăng nhục, đem an hoà vào nơi tranh chấp, đem chân lý vào chốn lỗi lầm.

 

20. Sáng kiến – Lm Vũ Đình Tường

Không phải tất cả các sáng kiến đều sáng cả đâu. Có những tư tưởng gọi là sáng nhưng bản chất của nó tối mò. Sáng kiến mang bản chất tối có thế nói đùa là độ sáng của nó lớn vừa đủ soi sáng cái kiến.

Tư tưởng mới phát sinh mỗi ngày. Có những thay đổi chỉ bùng lên một thời rồi chìm vào quên lãng, lại cũng có những thay đổi vững chắc biến đổi xã hội. Thay đổi phát sinh bởi hoàn cảnh mới đòi giải quyết vấn đề mới phát sinh mà truyền thống cũ không đáp ứng thoả đáng hay tệ hại hơn là truyền thống cấm đoán vì trái nghịch với truyền thống. Thay đổi ảnh hưởng mạnh đến xã hội, làm thay đổi lối suy nghĩ, cách đối xử, cách điều hành công việc. Lối ăn, cách uống từ nhà, ngoài ngõ đều ảnh hưởng bởi những sáng kiến. Những thay đổi này ảnh hưởng đến việc đề nghị xét lại cách thực hành và tinh thần sống đạo truyền thống. Khi những đề nghị thay đổi không được chấp thuận sẽ xảy ra tình trạng đơn giản là phê bình, lớn hơn là bất mãn và tệ hại là sinh bè, lập nhóm, tạo phe, gây phái. Điều này dẫn đến việc chia rẽ trong cộng đoàn dân Chúa. Nhóm hỗ trợ thay đổi tự nhận là cấp tiến phê bình chỉ trích nhóm bảo thủ. Họ tự nhận là tân tiến, thích ứng với thời cuộc và chỉ trích Giáo Hội là chậm tiến, bảo thủ, không theo kịp đổi thay của thời đại. Còn một nhóm nữa đứng giữa thầm lặng, không ủng hộ cấp iến, cũng không chê bảo thủ, truyền thống, sao cũng được và sẵn sàng chấp nhận thay đổi cho thích hợp với hoàn cảnh.

Sáng kiến dẫn đến thay đổi cần khuyến khích, cổ võ nếu sáng kiến đó bảo vệ sự sống, cổ võ tình yêu chân chính và tinh thần phục vụ vô vị lợi vì những điều này hợp với giáo huấn của Đức Kitô truyền dậy. Truyền thống dù cũ mấy cũng là truyền thống có giá trị và tốt đẹp khi truyền thống cổ võ bảo vệ sự linh thánh của con người và hợp với điều Đức Kitô truyền dậy về luật yêu thương và phục vụ. Sáng kiến, đề nghị xem ra sáng sủa, nghe hợp lí, thích ứng với hoàn cảnh cần phải cẩn trọng khi đón nhận vì đằng sau những lí thuyết xem ra hợp lí, ăn khách, thức thời nhưng không chừng có ẩn dấu mầm mống làm hại sự sống để mưu ích riêng cho thiểu số, phe đảng. Sáng kiến trên lí thuyết dựa vào sự sống, phục vụ để đòi thay đổi nhưng thực tế, trong thực hành, không trực tiếp bảo vệ sự sống, không chân thành cổ võ tình yêu chân chính và không thành tâm thiết tha phục vụ tha nhân vô vị lợi đều trái giáo huấn của Đức Kitô. Mọi đề nghị, tư tưởng cho là cao siêu hơn giáo huấn của Đức Kitô đều ngầm chứa tinh thần kiêu ngạo. Những gì thuộc về kiêu ngạo không thể đến từ Thiên Chúa yêu thương vì bản chất của yêu thương là khiêm nhường phục vụ.

Giáo huấn của Đức Kitô không bao giờ lỗi thời vì giáo huấn của Ngài vượt lên trên thời gian. Vì tư tưởng của Ngài đến từ Thiên Chúa hằng sống cộng với hướng dẫn của Thánh Thần Chúa nên giáo huấn của Ngài luôn mới với mọi thời đại, thích hợp với mọi truyền thống và hợp với mọi dân tộc. Nếu cần đổi thay cho thích hợp với giáo luật yêu thương thì đối tượng đổi thay là truyền thống, là phong tục, là tập quán địa phương cần thay đổi cho trong sáng hơn, thích hợp với luật yêu thương tha thứ và phục vụ.

Câu chuyện thầy giáo yêu cầu học sinh viết luận về giáo huấn của Đức Kitô liên quan đến bảo vệ đời sống, cổ võ yêu thương chân thành và phục vụ tha thiết. Trong đó có lời phê bình cho thấy không phải mọi thay đổi đều tốt; cũng như không phải mọi truyền thống đều dở.

Bài văn của em có nhiều tư tưởng hay và nhiều tư tưởng mới. Không may tư tưởng mới thì không hay và tư tưởng hay thì không mới.

Chúng ta cần thay đổi cho thích hợp với hoàn cảnh, với tiến bộ khoa học nhưng căn bản phải đặt trên giáo huấn của Đức Kitô về phương diện bảo vệ sự linh thánh của cuộc sống, yêu thương chân chính và chân thành phục vụ tha nhân vô vị lợi. Thay đổi trái nghịch giáo huấn của Đức Kitô là không yêu mến Ngài

Ai yêu mến Thầy thì tuân giữ lời Thầy và Cha Thầy sẽ yêu mến người ấy và chúng ta sẽ đến và ở trong người ấy Gioan 14,23.


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...