03/11/2022
1905


CHÚA NHẬT 32 THƯỜNG NIÊN NĂM C

Lời Chúa: 2Mcb. 7, 1-2.9-14;  2Tx. 2,16-3,5;  Lc. 20, 27-38

----------------------------------------------


 

Mục lục

1. Một tương lai đẹp (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

2. Sống chứ không phải chết (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

3. Sự sống lại và hôn nhân ở đời sau  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

4. Sự sống mới (Sr.Nguyễn Như Ý, MTG.Thủ Đức)

5. Tất cả đều đang sống (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

6. Cuộc sống nơi trần gian (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)

7. .Sự sống đời sau (Maria Mỹ Loan, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

8. Sống lại  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

9. Đổi mới trong Chúa (Lm. Vũ Đình Tường)

10. Tin vào sự sống lại đời sau  (Lm. Trần Bình Trọng)

11. Niềm tin xác tín  (Lm. Quốc Toản, CRM)

12. Họ là con cái Thiên Chúa giống như các Thiên thần (Lm. Huy Châu, CRM)

13. Sự sống đời sau. (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

14. Sống lại từ cõi chết (Lm. John Nguyễn Tươi)

15. Thực tại mới, tương giao mới  (Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật)

16. Vấn đề sống lại  (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)

17. Sống  (Lm. Giuse Đỗ Vân Lực)

18. Mầu nhiệm sự sống lại (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

19. Thiên Chúa của kẻ sống (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

20. Sự sống đời sau sẽ như thế nào?  (Lm. Giuse Đỗ Đức Trí)


 

MỘT TƯƠNG LAI ĐẸP

Lm. Jos DĐH.

Sau cơn mưa, trời sáng ; sau đêm đen, bình minh ló dạng, đó là quy trình vạn vật vũ trụ phát đi tín hiệu ấm áp tình, lan toả khắp muôn phương. Nhờ tai mắt tinh thông, người ta nghe, nhìn, và có khả năng đoán biết được nhiều “hoạ-phúc” đang xảy đến. Phải chăng, suy bụng ta ra bụng người, có quan sát điềm trời để biết người biết ta, hầu rút kinh nghiệm cho tương quan tha nhân tốt đẹp, cuộc sống ý nghĩa hơn, đó là một nghệ thuật mỗi người cần trang bị ? Triết lý ở đời cho rằng: trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên. Muốn có một gia đình hạnh phúc người ta phải đầu tư, muốn có một tâm hồn thanh thản, người ta phải “gieo điều lành”. Muốn nghe nhìn và gặt hái quả ngọt trái thơm ở tương lai, ai cũng phải ý thức chung tay xây dựng một gia đình hiện tại ngay lúc này chan hoà tình yêu thương.

Được sinh ra làm người là vinh dự, một khởi đầu xuôi thuận rồi, tiếp đến: tự do, chọn lựa, ý chí quyết định, của mỗi người sẽ hình thành và góp phần làm nên một xã hội có tâm, có tầm hạnh phúc. Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học ; đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Thắc mắc mong được giải thích, được hiểu, khác với thắc mắc để bảo vệ cho lập trường sai lạc của mình: chết là hết ! Không hiểu đằng sau sự chết là gì, không biết sau khi từ giã cõi đời này, mỗi người sẽ ra sao, vẫn mãi là điều bí mật nơi vũ trụ vạn vật này. Quan trọng là người ta tin như thế nào về vấn đề chết và sống ? Đức Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho đám đông, cho chúng ta: “con cái đời này cưới vợ lấy chồng, nhưng những ai xét đáng được phúc là sống lại đời sau thì không lấy vợ lấy chồng nữa. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì họ sẽ ngang hàng với các thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa, là con cái sự sống”.

Ngày hôm nay, không phải chỉ có người kitô hữu chúng ta chủ trương: ở hiền gặp lành, đại đa số các đấng bậc sinh thành đều ý thức phải sống lời răn dạy của tiền nhân: cha mẹ hiền lành để đức cho con. Ngày hôm nay, quan niệm: sống lành chết lành, bảo bệ môi trường, bảo vệ sự sống, bác ái từ thiện, các phần cơm miễn phí, tất cả mọi người giầu nghèo không phân biệt lương giáo, đang cùng chung tay xây dựng tình người theo lẽ sống: công bằng yêu thương. Cũng vì tình yêu, vì kinh nghiệm, và vì muốn chia sẻ để con cháu sống ý nghĩa ở hiện tại và hướng đến điều tốt đẹp trong tương lai. Các hiền nhân nói rằng: miệng ít nói tự nhiên ít hoạ, bụng dạ ít ăn, tự nhiên ít bệnh, trong lòng ít muốn, tự nhiên ít lo, thân mình ít sự, tự nhiên ít khổ. (Khổng Minh). Chắc không phải tự nhiên mà phái Xa-đốc tranh luận với Đức Giêsu về sự sống lại, cũng không phải do tình cờ mà Đức Giêsu trưng dẫn đoạn thánh kinh khi ông Môi-sê gọi “Thiên Chúa là Chúa của các tổ phụ: Abraham, Isa-ác, Gia-cóp, và Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”.

Đức Giêsu không lý sự dài dòng với những ai tự mãn kiêu căng, Ngài vẫn muốn vắn gọn với tất cả những ai tin và theo Ngài: “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”. Chính vì đang sống, nên hiện tại Thiên Chúa cho mỗi người được tự do để trở thành người tốt, tự do để học biết suy nghĩ đúng và hành động đẹp, tự do để đủ cảm nhận đằng sau sự chết ở trần gian không phải là chấm hết. Một cuộc sống an vui hạnh phúc, luôn khởi đi từ gia đình, một tâm hồn bình an là một tâm hồn được nuôi dạy, được học hỏi và ý thức sống quảng đại yêu thương. Muốn có tương lai tốt đẹp, thì hiện tại phải đầu tư, muốn: con hơn cha, nhà có phúc, là sự thực, bậc cha mẹ phải hy sinh, phải chịu vất vả, quan tâm giáo dục con cháu. Kinh nghiệm của tiền nhân để lại: người ta không gieo trồng tri thức khi còn trẻ, nó sẽ không cho ta bóng râm khi về già.

Một tương lai đẹp, một cuộc đời an vui hạnh phúc, cũng là một hiền tài đức độ đang góp phần sống động cho hiện tại và thế giới muôn phương. Vì tinh thần dân tộc, vì ơn gọi sống mãi trong tình yêu Thiên Chúa, người theo Đức Kitô không phải chỉ lưu danh hậu thế, cũng không chú trọng dưỡng nuôi linh hồn, loại bỏ thân xác hư hèn. Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, Thiên Chúa đến trần gian cứu độ vạn vật vũ trụ, cứu cả người tội lỗi thánh thiện, cứu cả thân xác hay chết của mỗi người. Một tâm hồn tốt lành thánh đức, phải là một một tâm hồn được thao luyện, phải là một tâm hồn được Đức Kitô biến đổi mỗi ngày một nên toàn vẹn xứng hợp tình yêu Chúa. Để có một tương lai tốt đẹp, để thấy quê hương sống động trong tình yêu thương, trong Nước Trời hạnh phúc, Thiên Chúa qua các bậc sinh thành vẫn đang nhắc nhớ con cháu: khuyên ai ăn ở cho lành, kiếp này chưa gặp để dành kiếp sau. Xin tình yêu Đức Kitô giúp mỗi người chúng con biết tự tin, vì chúng con chính là những phần tử sống động của Thiên Chúa, là Chúa sự sống hôm nay và mai sau. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG CHỨ KHÔNG PHẢI CHẾT

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Con người sinh ra để sống chứ không phải để chết! Thế nhưng, con người đang sống lại đang tìm về cái chết, do chính ích kỷ, tư lợi. Sống mà không tin rằng sẽ sống đời đời, đó là cái sống phung phá chính mình và thiên nhiên. Sống cần biết rằng sự sống tiếp tục luôn mãi mới quý trọng sự sống đang có.

Chúa Giêsu mạc khải về sự sống muôn đời bất diệt là để mời gọi con người vào tham dự vào vinh phúc của Thiên Chúa.

Mở rộng tâm hồn để sống.

Con người được dựng nên với người khác, cho người khác và vì người khác, như vẫn thường nói: “Không ai là một ốc đảo”. Cũng thế, con người không chỉ sống cô độc giữa sa mạc mênh mông, con người được sống với thiên nhiên, với rừng xanh, với những thác nguồn, sông suối, thảo mộc và động vật các loại. Khi sáng tạo ban đầu Chúa đã đặt con người vào giữa thiên nhiên ấy để sống phong phú, dồi dào sinh lực.

Khi con người chiếm hữu, bắt đầu con người tự kết thúc đời mình bằng những ghen ghét, ăn thua, thù oán, giàu nghèo cách biệt xa thêm mãi. Với thiên nhiên, con người tham lam vơ vét tài nguyên, thoả mãn cá nhân. Càng thu vén cá nhân càng dẫn vào diệt vong, thiên nhiên cũng chết ngạt trong sự tham lam của con người. Con người vơ vét cho cá nhân, càng cảm thấy cuộc sống dường như vô nghĩa, cuộc sống khốn nạn nhiều hơn hạnh phúc, và từ ấy ru ngủ mình bằng những thú vui hoang dã, lấp đầy cuộc sống bằng những vật chất. Khi đánh mất linh hồn con người chỉ còn thể xác chết thối.

Con người tham lam chiếm hữu cũng đánh mất một niềm vui sống với người khác và với thiên nhiên. Đông Phương luôn ý thức hạnh phúc mỗi người gắn liền với hạnh phúc của toàn thể: Con người với nhau và với thiên nhiên. Khi con người cắt đứt với toàn thể, con người tự nhốt mình trong sự giam hãm của nhà tù ích kỷ, giết chết căn rễ sâu xa của con người xuất phát từ thần linh. Có thể thấy những triết thuyết đề cao vật chất đã giết chết tinh thần và tâm linh.

Sự Sống đời đời con người tìm kiếm

“Tôi sẽ luôn luôn đuổi xua khỏi tâm hồn mọi ác ý sâu xa và vun trồng cho tình yêu trong mình bừng nở, vì hiểu người đã ngự trị từ lâu trong sâu thẳm tim tôi.” (Lời Dâng, bài số 4, R. Tagore). Niềm vui cuộc sống chỉ tồn tại khi con người nhận ra sức sống thần linh đang cuốn hút con người đi tới. Một thế giới bất diệt không có trong thế giới vật chất này! Thế nên, khi đi tìm sự bất diệt trong cõi tạm này, con người thấy hụt hẫng: “Cộng niên tuế ước chừng bảy chục, khỏe lắm chăng cũng được bát tuần. Hầu trọn kiếp chỉ là lao đao khốn khó, vì năm tháng sầm sập qua đi và chúng tôi vụt mất!” (Tv 90 10).

Ngay cả trước cái chết, niềm vui sống vĩnh cửu xoá tan mọi lo âu, sợ hãi, hân hoan vui bước vào nơi an nghỉ. Trong tâm hồn người tình cuộc đời, thi sỹ của tình yêu đã thấy khung trời rộng mở: “Kính lạy người lần cuối, xin cho giác quan tôi trải rộng, tiếp xúc thế giới dưới chân người” (Lời Dâng, bài 103, R. Tagore)

Có lẽ thướng thấy hơn, khi con người tập chết đi trong cái tôi mỗi ngày, để sống yêu thương hơn, gắn bó hơn với cuộc sống. Niềm vui dấn thân đi tới, sống với anh chị em, sống cho anh chị em và vì anh chị em. Tính năng động của sự sống càng gia tăng, nghịch lại với cái tôi ích kỷ đang chết dần đi. “Thượng Đế, đây lời tôi cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường. Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó hay cúi đầu khuất phục ngạo mạn, đầy quyền uy. Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý người muốn.” (Lời Dâng, bài số 36, R. Tagore)

Xin Chúa Thánh Thần đốt cháy đi những cản trở của niềm vui sống trong Chúa, nơi cuộc đời chúng con!

Niềm vui bất tận ấy là tiếng gọi của thần linh, của Thiên Chúa: “Lòng nhiệt thành nhà Chúa thiêu đốt cuộc đời tôi” (Ga 2, 17). Vươn tới và vui sống mỗi ngày vì không chỉ sống cho mình mà còn cho anh chị em mình. Không chỉ sống thực tại trần thế mà còn sống vì thực tại Nước Trời. Không chỉ sống với Thiên Chúa mà còn được sống trong Thiên Chúa.

Thiên Chúa của sự sống chứ không phải là sự chết, trong lời loan báo đó, con người được mời gọi: “Tất cả mọi người đều đang sống” (Lc 20, 38).

Sống trong niềm vui và hân hoan trong Chúa Thánh Thần!

Về mục lục

.

SỰ SỐNG LẠI VÀ HÔN NHÂN Ở ĐỜI SAU

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

1- Vấn nạn về sự sống mai hậu

Gần cuối năm phụng vụ, chủ đề chính mà Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu là sự sống lại, hướng chúng ta tới cuộc sống mai sau. Đây là chủ đề được con người mọi thời quan tâm, cả những người Do Thái vào thời Chúa Giêsu và cả chúng ta hôm nay. Trong bài Tin Mừng, khi trả lời câu hỏi mà những người Xađốc đặt ra để gài bẫy Chúa Giêsu về người đàn bà có bảy người chồng. Trước hết Chúa Giêsu tái khẳng định rằng có sự sống lại ở đời sau, đồng thời Người điều chỉnh quan niệm méo mó duy vật và thực dụng của phái Xađốc về sự sống lại mai hậu.

Quả thế, hạnh phúc đời sau không phải là sự gia tăng niềm vui trần thế hay là kéo dài sự sống trần thế. Đời sống mai hậu là một đời sống hoàn toàn khác, có một phẩm chất khác như Chúa Giêsu quả quyết: “Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần” (Lc 20,35-36).

Ở cuối bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giải thích lý do tại sao có sự sống lại sau khi chết khi nói rằng: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy Thiên Chúa của tổ phụ Ápbraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,37-38). Vậy đâu là nền tảng của sự sống lại? Nếu Thiên Chúa được định nghĩa là Thiên Chúa của Ápbraham, Ixaác và Giacóp và là Thiên Chúa của sự sống, chứ không phải của sự chết, thì điều này có nghĩa là các tổ phụ Ápbraham, Ixaác và Giacóp vẫn còn sống ở bên Thiên Chúa, dầu họ đã chết hàng thế kỷ rồi so với lúc mà Thiên Chúa nói với Môsê. Như thế, Thiên Chúa của sự sống là nền tảng cho niềm tin vào sự sống lại của con người. Người là Đấng hằng sống và Người không muốn con người phải chết, nhưng được sống mãi. Việc Thiên Chúa đã sai Con Một làm người, chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển để giải thoát con người khỏi chết và cho họ được sống mãi trong Thiên Chúa là bằng chứng hùng hồn cho sự sống lại mai sau.

2- Vấn nạn về hôn nhân sau khi chết

Một số người giải thích cách sai lầm câu trả lời của Chúa Giêsu cho phái Xađốc, nên đã quả quyết rằng: hôn nhân gia đình sẽ không còn tiếp tục ở trên thiên đàng. Nhưng trong câu trả lời này, Chúa Giêsu bác bỏ quan niệm méo mó mà những người Xađốc trình bày về đời sau, một quan niệm cho rằng thiên đàng đơn thuần là một sự tiếp tục tương quan vợ chồng ở trần gian. Đồng thời Chúa Giêsu mời gọi các đôi vợ chồng phải tái khám phá trong Thiên Chúa sợi dây đã liên kết họ khi ở trần gian.

Chúng ta thử đặt ra vài câu hỏi: phải chăng khi ở trần gian các đôi vợ chồng đã sống với nhau và suốt đời kính sợ Thiên Chúa, nhưng khi chết, những gì thuộc về hôn nhân của họ như tương quan vợ chồng, tình yêu và dây hôn phối… sẽ bị quên lãng hay biến mất để chỉ dành cho tình yêu Thiên Chúa mà thôi? Phải chăng có điều gì đó trái ngược với điều mà Chúa Giêsu đã nói rằng: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, thì loài người không được phân ly?” (Mt 19,6). Nếu Thiên Chúa đã liên kết họ ở trần gian, tại sao Người lại phân ly họ trên thiên đàng? Phải chăng toàn bộ cuộc sống hôn nhân này không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống của họ ở thiên đàng sao?

3- Định mệnh của sự vĩnh cửu

Chúng ta tìm thấy câu trả lời từ chính mạc khải Kinh Thánh về niềm hy vọng này. Đó cũng chính là ước vọng tự nhiên của các đôi vợ chồng. Kinh Thánh quả quyết rằng hôn nhân là “một bí tích,” bởi vì hôn nhân biểu tượng sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (Ep 5,32). Theo cái nhìn này, làm sao có thể hiểu được nếu hôn nhân sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn ở trên thiên đàng. Hôn nhân không hoàn toàn kết thúc với cái chết, tương quan và sợi dây hôn phối vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng nó được biến đổi, được “thần hóa” nhờ sự hiệp thông với Thiên Chúa. Nhờ đó, nó xóa bỏ những giới hạn, bất toàn của đời sống hôn nhân ở trần gian.

Một cách tương tự, mối tương quan giữa cha mẹ và con cái hoặc tương quan bạn bè cũng vẫn tiếp tục tồn tại mà không bị quên lãng. Trong lời Kinh Tiền Tụng của thánh lễ cầu hồn, phụng vụ nói rằng: “Sự sống này chỉ thay đổi, chứ không mất đi.” Chúng ta có thể nói một cách tương tự như thế về hôn nhân, là một phần của đời sống, nó chỉ thay đổi, chứ không mất đi ở đời sau.

Đó là trường hợp của các cặp vợ chồng sống yêu thương và chung thủy với nhau trọn đời. Nhưng đối với trường hợp những người đã phải trải qua những kinh nghiệm bất đồng và đau khổ trong hôn nhân ở trần gian thì sao? Số phận của họ như thế nào? Phải chăng sợi dây hôn phối vẫn còn sẽ là một sự an ủi hay là lý do gây sợ hãi cho họ? Dựa vào giáo lý của Giáo Hội, chúng ta có thể trả lời rằng: trong thế giới của Thiên Chúa, sự dữ sẽ không còn tồn tại; những khiếm khuyết, sự thiếu thấu hiểu, cả những đau khổ đã làm họ tổn thương sẽ biến mất. Chỉ còn lại tình yêu và những gì tốt lành giữa họ tồn tại.

Các đôi vợ chồng sẽ được trải nghiệm tình yêu đích thực khi họ được tái kết hợp trong Thiên Chúa và nhờ đó, họ có niềm hạnh phúc và sự viên mãn của sự kết hợp mà họ đã có khi ở trần gian. Nhà thơ Goethe diễn tả điều này trong câu chuyện tình yêu giữa Faust và Margeret: “Chỉ trên thiên đàng, sự kết hợp và niềm hạnh phúc viên mãn giữa hai thụ tạo yêu nhau mới trở thành hiện thực. Đó là điều không thể tìm thấy ở trần gian.” Trong Thiên Chúa, tất cả sẽ hiểu nhau, sẽ được hòa giải và mọi người sẽ tha thứ cho nhau.

Còn đối với trường hợp những người đã kết hôn một cách hợp luật nhiều lần thì sao? Tương quan giữa họ thế nào? Đây chính là trường hợp mà nhóm Xađốc hỏi Chúa Giêsu về bảy anh em lấy cùng một người vợ khi sống (x. Mc 12,18-27). Khi chết ai là chồng của người đàn bà này? Ngay cả trường hợp này, chúng ta phải nhắc lại một điều tương tự: đó là tình yêu đích thực và sự hiến dâng giữa vợ chồng là một điều tốt lành đến từ Thiên Chúa, chúng sẽ không bị biến mất. Nhưng trên thiên đàng không có sự tranh dành, tranh đua và ghen tuông trong tình yêu vợ chồng. Chúng là những giới hạn thuộc bản năng của thụ tạo khi ở trần gian, chúng sẽ biến mất khi ở trên thiên đàng, sẽ được hoàn toàn biến đổi. Họ sống như các thiên thần, được kết hợp nên một với Thiên Chúa và với nhau. Họ sống tình yêu đích thực của Thiên Chúa, nên họ vẫn yêu thương và tôn trọng nhau trong “trời mới đất mới.”

Như thế, cuộc sống hôn nhân ở trần gian là sự chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Trong thế giới đó, ơn gọi và đời sống gia đình sẽ được viên mãn nhờ quyền năng và ân sủng Thiên Chúa. Vì thế, các đôi vợ chồng được mời gọi hãy sống yêu thương và trung tín với nhau khi ở trần gian, để cùng nhau hưởng hạnh phúc trên thiên đàng. Đó là lời hứa và phần thưởng cho những ai sống đời sống gia đình. Amen!

Về mục lục

.

SỰ SỐNG MỚI

Sr. Nguyễn Như Ý

Trong cuộc sống, con người chúng ta ai cũng mong muốn cho mình có một điều gì đó mới mẻ, giá trị và tồn tại mãi. Vì vậy mà có người cho rằng, tôi sẽ sống mãi, không bao giờ chết vì tôi có nhiều tiền, tôi có thể mua cả bệnh viện tốt nhất khi tôi bệnh, nhưng họ đâu biết rằng tiền của không mua được sức khỏe. Điều đó cho ta biết một sự thật, sự sống thể xác không hệ tại do quyết định của chính chúng ta, nhưng là nơi bàn tay uy quyền của Đấng tác tạo nên ta. Điều quan trọng là mỗi người đã và đang chuẩn bị gì cho sự sống mới trong tương lai của chúng ta, giống như trong lời bài hát “Ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay” (N.S Hoàng Vân).

Tin mừng cho ta thấy rằng, sự sống đời này và đời sau không giống nhau “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng” (Lc 20, 34) còn “con cái đời sau giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa vì họ là con cái của sự sống lại (Lc 20,36 ). Để được sự sống đời này hay để có sự sống đời sau là chính mỗi người chúng ta tự do quyết định và chọn lựa. Và để thực hiện những quyết định đó, chúng ta cần có ơn Chúa trợ giúp bởi vì chúng ta sinh ra đã là những con người yếu đuối mang thân phận tội lỗi. Có những lúc chúng ta nghĩ rằng ta có thể làm được việc này chuyện kia một cách tốt đẹp không cần ơn phù trợ. Và cũng có khi ta cho rằng mình đủ mạnh mẽ để vượt thắng những cạm bẫy thế gian, nhưng cuối cùng ta cũng bị bại trận vì “Ai tưởng mình đứng vững, coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12).  Nhưng cho dù ta có yếu đuối vấp ngã thế nào, Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn và cho ta cơ hội để làm lại cuộc đời, bằng chứng là Ngài đã cho con của Ngài xuống trần gian để “tìm và cứu chữa nhng gì đã hư mất” (Lc 19, 10).

Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống vĩnh cửu qua việc trao hiến thân mình Ngài cho ta, về phần chúng ta, ta cũng cần có chút gì đó để đền đáp ân tình mà Ngài đã tặng ban cho ta. Chúa không cần ta đáp lễ cho Ngài cách trọn vẹn, Ngài muốn thấy nơi ta lòng khao khát được sống trong Ngài bởi khi “Ngài tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta. Nhưng khi cứu độ ta, Ngài không thể thiếu ta” (St. Augustine). Hơn nữa, vì Ngài là Đấng yêu thương, Ngài yêu thương hết mọi loài hiện hữu, không ghét bỏ bất cứ loài nào, vì nếu ghét loài nào thì Ngài đã chẳng dựng nên (x. Kn 11,24). Ngài muốn chúng ta được sống và sống hạnh phúc với Ngài. Để được sống hạnh phúc với Chúa, ta cũng hãy sống như Đức Giêsu đã sống. Bởi thế, đã là Kitô hữu, là đã mang trong mình sứ mạng cao cả là sống, làm chứng cho tình yêu và sự sống của Thiên Chúa đang tồn tại nơi trần gian này, ta cần luôn cố gắng biểu lộ sự sống ấy nơi chính cuộc sống thường ngày của ta qua việc sống chứng tá Tin mừng, bởi ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy. Trách nhiệm của chúng ta phải là người sống Tin mừng trước hết, bởi qua chính cuộc sống của ta mọi người sẽ nhận ra tình yêu và sự sống của Chúa đang hiện hữu nơi trần gian này vì Nước Trời không “Ở đây này! hay “Ở kia kìa!, nhưng Nước Trời đang ở giữa các con” (x.Lc 17, 20 – 21). Và “Nước Trời cũng chẳng phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14, 17). Bởi chính những điều tốt đẹp ấy, mọi người sẽ tin rằng Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện nơi trần gian này.

Lạy Chúa, con khao khát được sống và sống mãi trong tình yêu Chúa hứa ban. Tuy nhiên, có những lúc con cảm thấy mình yếu hèn và bất xứng để có thể lãnh nhận ơn trọng đại này. Xin Chúa giúp con luôn biết tận dụng những hoàn cảnh thuận lợi cũng như bất thuận lợi để huấn luyện bản thân mỗi ngày sống trọn vẹn hơn cho tình yêu Chúa, và mai sau con cũng xứng đáng hưởng hạnh phúc cùng Chúa. Amen.

Về mục lục

.

TẤT CẢ ĐỀU ĐANG SỐNG

Bông hồng nhỏ

Có những lúc, ta tưởng mình sẽ sống mãi trên mặt đất nến cứ mải mê với những gì chóng qua. Ta quên mất rằng, kiếp sống này, ta chỉ là thân lữ khách. Quê hương của ta ở trên Trời, nơi có Thiên Chúa là Đấng yêu thương ta. Người không ngừng mời gọi ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng sẽ giải thoát ta khỏi mọi thứ ràng buộc của tội lỗi và đưa ta vào hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau.

Khi suy nghĩ về sự sống đời sau, ta cảm thấy thật băn khoăn. Lắng nghe Lời Chúa, lòng ta như được tháo cởi và tìm thấy niềm hy vọng và ánh sáng để bước đi. Hôm nay, khi nhóm Xađốc đến gặp Chúa Giêsu để hỏi về việc bảy anh em lấy cùng một người vợ, vì cả bảy người đều đã chết đi mà không có con nối dõi, Người đã hé mở cho ta về sự sống đời sau. Đời này, người ta cưới vợ lấy chồng để truyền sinh, để cùng nhau xây dựng gia đình và xã hội. Đó là lẽ thường tình và là điều rất tốt đẹp. Những tương quan huyết thống ở đời này giúp con người gắn bó với nhau, cùng nhau sống hạnh phúc trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”. (Lc 20, 34-36). Cuộc sống đời này sẽ chuẩn bị cho ta bước vào cuộc sống đời sau. Ở đời này nếu ta sống theo thánh ý Thiên Chúa, ngày sau ta sẽ được Người cho hưởng sự sống muôn đời.

“Đối với Thiên Chúa, tất cả đều đang sống” (Lc 20, 38). Ta có thật sự đang sống không? Theo con người tự nhiên, ta vẫn đang sống từng ngày như bao người khác nhưng để sống thật sự thì ta phải sống sự sống mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho ta. Đó là luôn biết lắng nghe và sống Lời Chúa Giêsu đã dạy, và đây cũng chính là niềm tin sống động của ta. Khi chiêm ngắm gương sống của chính Chúa Giêsu, ta sẽ tìm ra con đường đi đến với Chúa Cha, vì chính Người đã khẳng định: “Chính Thầy là con đường là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Chính khi hết lòng sống theo gương Chúa Giêsu, ta sẽ được hưởng nếm hạnh phúc quê Trời ngay ở đời này,vì hạnh phúc mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho ta chính là được sống trong tình yêu với Chúa.

Lạy Chúa Giêsu! Cuộc sống này luôn muốn lôi cuốn chúng con rời xa Chúa bằng những vẻ đẹp rực rỡ của nó. Có nhiều lúc, con bị phù hoa của đời này lôi cuốn, khi niềm vui chóng qua chẳng còn, con rơi vào nỗi buồn chán, cô đơn và thất vọng. Trong thảm trạng đó, xin Chúa chạm vào lòng con, nâng con lên và ban cho con niềm hy vọng. Xin cho con mỗi ngày luôn biết dành một khoảng lặng trong tâm hồn để tìm về với lòng mình, để gặp gỡ Chúa và nhận biết con được Chúa yêu thương, để con thật sự sống và sống dồi dào trong Chúa. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC SỐNG NƠI TRẦN GIAN

Anna Cỏ May

Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ đời sau thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Đó là sự thật mà Chúa Giêsu đã khẳng định.

Cuộc sống ở thế gian, việc dựng vợ gả chồng là để duy trì dòng giống gia tộc. Đó cũng là một trong những ơn gọi Thiên Chúa muốn dành cho con người. Bí tích Hôn phối là dây liên kết giữa người nam và người nữ, giúp họ chu toàn trong tình yêu của mình. Từ tình yêu ấy làm nên mối liên hệ trong gia đình. Mối liên hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái và anh chị em với nhau là mối quan hệ thật chính đáng và quý giá nơi cuộc sống thế gian. Nhưng mối liên hệ này sẽ không còn nữa khi con người bước vào cuộc sống đời sau. Đúng hơn, là sau khi mỗi người chúng ta chết và sống lại thì sẽ không còn mối dây liên hệ theo máu huyết nữa. Có nhiều người đã không tin có sự sống đời sau và họ chỉ sống trong sự thỏa mãn ở đời này.

Trong Tin Mừng Luca, những người thuộc nhóm Xa Đốc chủ trương không có sự sống lại, họ đến hỏi Đức Giêsu về câu chuyện bảy anh em lấy chung một vợ nhưng không có con nối dõi và rồi người đàn bà ấy cũng chết. “Trong ngày kẻ chết sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?” (x. Lc 20, 29-33). Đức Giêsu biết rõ sự sống đời sau vì chính Ngài đã đến từ đó. Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không còn cưới vợ hay lấy chồng. Mọi người sẽ được sống ngang hàng với các thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa, sống thân mật với Ngài.

Như vậy, việc cưới vợ gả chồng là việc ở đời này, nó chỉ tạm thời và sẽ chấm dứt sau khi chết. Mỗi người chúng ta được mời gọi để không bám víu hay dính chặt vào các mối liên hệ ở đời này mà phải vượt qua để đạt tới mối liên hệ siêu nhiên ngay từ đời này. Thật khó để chúng ta có thể thực hiện điều này vì chúng ta vẫn là con người yếu đuối, cần có chỗ cậy dựa. Chỗ dựa tuyệt vời mà chúng ta cần bám vào đó chính là Đức Giêsu. Chúng ta đừng quá phụ thuộc vào những mối liên hệ ở thế gian này, nhất là những mối liên hệ trái với ý Thiên Chúa, vì ý Thiên Chúa là muốn cho người vợ người chồng luôn sống chung thủy với nhau. Thật là có phúc cho những ai không thấy mà tin vào Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu! Chúng con dâng lên Chúa những mối liên hệ ở trần gian này. Xin cho chúng con sống đúng với ý Chúa và chu toàn sứ mạng Chúa trao, nhờ đó chúng con xứng đáng hơn trong ngày xét xử mà hưởng hạnh phúc đời sau.

Về mục lục

.

.SỰ SỐNG ĐỜI SAU

Maria Mỹ Loan

 LỜI CHÚA: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không lấy vợ cũng chẳng lấy chồng”. (Lc 20,34-35)

Giữa cuộc sống trần gian, khi đến tuổi trưởng thành thì người ta lấy vợ cưới chồng như một tất yếu. Đời sống hôn nhân được Thiên Chúa chúc lành và giữ gìn. Quy luật này nhằm mục đích phát triển sự sống, con cái. Những mối liên hệ giữa vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em là những mối liên hệ chính đáng trong cuộc sống trần gian. Nhưng vẫn có những trường hợp là ngoại lệ. Có những người vì những lí do khác nhau mà chọn cuộc sống độc thân. Đối với công giáo đặc biệt là Kitô Giáo, thì những vị linh mục, tu sĩ nam nữ, vì những lí tưởng của đời sống siêu nhiên mà chọn kết hiệp mật thiết với Chúa hơn là đời sống vợ chồng. Nhưng dù sống cuộc sống hôn nhân hay là ơn gọi tu trì thì tất cả mọi người đều hướng về Thiên Chúa là cùng đích. Thiên Chúa mới là điều quan trọng chứ không phải quà tặng hay con đường đến với Chúa quan trọng.

Vì những ai đáng hưởng sự sống đời sau và sống lại từ cõi chết thì không còn giữ những mối liên hệ ở trần gian nữa. Mà giờ đây mối liên hệ duy nhất của họ chính là Thiên Chúa – một mối liên hệ siêu nhiên, không phai nhạt hay biến đi mà được củng cố mỗi ngày để thắm thiết hơn, bền vững hơn. Mọi Kitô hữu được mời gọi để hướng tới mối liên hệ siêu nhiên ở đời sau, mà không bám víu hay dính chặt vào những mối liên hệ của trần gian ngay từ đời này. Vậy chúng ta phải luôn tỉnh thức và thay đổi cái nhìn cho phù hợp với niềm tin Kitô giáo. Can đảm từ bỏ tội lỗi và mọi điều xấu xa để bớt bất xứng với ơn cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa.

“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Thiên Chúa tất cả đều đang sống”. (Lc 20,38)

Thiên Chúa của tổ phụ Ap-ra-ham, I-xa-ac, Gia-cop vì các Ngài đã cùng sống với Thiên Chúa qua những điềm thiêng, sự tỏ mình của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho con người sự sống tự nhiên và sự sống siêu nhiên. Sự sống tự nhiên biến mất để nhường chỗ cho sự sống siêu nhiên khi con người chết đi và sống lại ở đời sau. Tuy nhiên, con người lại ham muốn sự sống tự nhiên hơn, bám dính vào cuộc sống ở đời này, làm những việc tội lỗi mà không chuẩn bị gì cho đời sau. Để cho con người cũng được sống như các Thiên Thần, Thiên Chúa chấp nhận sống trong xác phàm như con người và đã chịu chết để làm cho thân xác Đức Kitô sống lại và trở thành nguồn sống mới cho các tín hữu sống ở đời này. Như đã có lời khẳng định: “Tôi đến để đoàn chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10)

Ý thức được sự lệ thuộc vào sự Phục Sinh của Chúa Kitô, Thánh Phaolô đã nhắc nhở mọi Kitô hữu: “Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2Cr 5,15). Vì vậy, chúng ta phải sống và hướng về Thiên Chúa là sự sống đích thực và đời đời.

Lạy Chúa xin cho chúng con biết tránh xa tội lỗi, những gì thuộc về thế gian để trở nên kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô là nguồn sống vĩnh hằng.

Về mục lục

.

SỐNG LẠI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Không tin sự sống đời sau,
Mắt nhìn thiển cận, nỗi đau quấy rầy.
Tâm tư thắc mắc điều này,
Vợ chồng kết hợp, tình say mặn nồng.
Kết hôn gắn bó tương đồng,
Thủy chung son sắt, đèo bồng xứng đôi.
Sao mà chia cách đơn côi,
Ngày sau sống lại, kết tôi với mình.
Người anh cưới vợ gái trinh,
Chẳng may bệnh chết, mối tình dở dang.
Không con nối dõi gia cang,
Người em kế tiếp, cưới nàng lập hôn.
Tiếp theo năm chú đồng môn,
Bảy người đều chết, mồ chôn mả dài.
Không ai thừa tự quản cai,
Ngày sau vợ chết, nhận ai là chồng.
Chúa rằng sống lại đợi trông,
Không còn cưới gả, vợ chồng lứa đôi.
Đời sau sống mãi tinh khôi,
Nhẹ nhàng thánh thoát, xứng ngôi thiên thần.

Qua hai ngàn năm, đã có hằng tỷ người cùng tuyên xưng một đức tin: Xác loài người ngày sau sẽ sống lại. Bài Phúc âm hôm nay mở lối cho chúng ta về sự sống ngày sau. Những người Sađucêô không tin có sự sống lại. Họ mượn cớ một câu truyện về một gia đình bảy anh em lần lượt cưới cùng một người vợ, sau cùng mọi người chết, vậy ai sẽ là chồng của cô ta. Họ dựa vào lý luận và cuộc sống trần thế để giải đáp về cuộc sống mai hậu. Chúa Giêsu cho chúng ta một câu trả lời xác đáng: Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng, họ sẽ không chết nữa, vì họ giống như thiên thần.

Trong lịch sử các tôn giáo trên thế giới, tôn giáo nào cũng cố gắng tìm giải đáp cho ước vọng sâu xa của con người về cuộc sống ngày sau. Có hai quan điểm chính từ Ấn Độ, Phật Giáo quan niệm cuộc sống như vòng tròn, xoay vần, như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và đi hết vòng này sang vòng khác. Vì thế họ tin vào thuyết luân hồi. Sống kiếp này chưa tốt, đầu thai vào kiếp khác, cho tới khi hoàn hảo sẽ được hưởng lạc trên Niết Bàn. Theo quan điểm Kitô Giáo là quan niệm cuộc đời theo đường thẳng. Mỗi người có khởi đầu và có chấm dứt. Sau khi mãn cuộc đời này sẽ bắt đầu cuộc sống mới. Khi chết hồn và xác tách biệt. Xác tan rã và hồn bất tử chịu sự phán xét về việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn ở trần thế. Hồn xác sẽ sống lại vào ngày quang lâm.

Hồn và xác kết hợp làm nên một chủ thể. Phật giáo tin thuyết nhân qủa, gieo gió thì gặt bão, cây nào sinh trái đó và cây tốt sinh trái tốt. Nhìn qủa biết cây và làm tốt sẽ được thưởng. Đạo Công Giáo cũng một niềm tin, nếu chúng ta sống tốt thì sẽ được hưởng hạnh phúc. Làm dữ sẽ bị đoán phạt. Nên cuộc đời trần thế là một chặng đường chuẩn bị cho hạnh phúc mai sau.

Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, đó là hoa qủa đầu mùa của những kẻ đã yên giấc. Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể, chúng ta là chi thể, đầu đi tới đâu thì thân thể cũng sẽ đi tới đó. Chúa Giêsu nói Ngài về cùng Chúa Cha và dọn chỗ cho chúng ta. Chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta tiến bước trong hy vọng.

Nhìn cảnh vật chung quanh, mùa Thu lá đổi mầu và rụng xuống, để cây trơ trụi, trải qua mùa Đông dài và mùa Xuân tới, cây cối sẽ lại trổ mầm sinh tươi. Chúng ta cũng phải bước qua ngưỡng cửa sự chết mới đạt tới sự sống lại. Như hạt giống gieo xuống đất phải chịu mục nát mới có thể trổ sinh hoa trái. Chúa Giêsu đã nằm xuống qua cái chết, Chúa đã sống lại. Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian.

Lạy Chúa chúng con tin Chúa là sự sống và là sự sống lại. Chúng ta cùng tuyên xưng trong kinh tin kính: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Về mục lục

.

ĐỔI MỚI TRONG CHÚA

Lm Vũđình Tường

Khả năng con người quá hạn hẹp khi phải khám phá sức sống của vật thể hữu hình. Nguồn sống vô tận này cung cấp sự sống cho con người, thanh tẩy bầu quí quyển, làm sạch nước đại dương và là nguồn cảm hứng của học hỏi, phỏng theo sáng chế dụng cụ cho con người. Càng ngày càng có nhiều khám phá mới về cuộc sống của vũ trụ. Nhân loại dường như không bao giờ khai thác, học hỏi, hiểu biết cặn kẽ về vật thể hữu hình quanh ta. Chỉ riêng những vấn đề như làm thế nào sống vui hơn, mạnh hơn, giảm bệnh tật và thọ hơn cũng đủ điên đầu các khoa học gia. Vấn đề đời sống hiện tại đã thế, nói đến vấn đề tâm linh, siêu hình còn phức tạp hơn gấp bội. Mọi tranh biện có hay không có sự sống sau cuộc sống này đều là những võ đoán, lí luận riêng của cá nhân. Khối óc con người vất vả phấn đấu đêm ngày mới hiểu được phần nào cách cấu kết, sinh hoạt về cuộc sống hữu hình đời này. Nói về cuộc sống vô hình, cuộc sống đời sau mọi kết luận có hay không có sự sống đời sau chắc chắn là vượt quá giới hạn của khối óc. Đây không phải là vấn đề mới mẻ. Vấn đề cuộc sống trường sinh dường như đồng hành với cuộc sống của nhân loại, còn nhân loại trên mặt đất vấn đề còn được đặt ra, bởi sống và suy luận luôn đồng hành. Con người muốn sống bất tử nhưng khi bàn về bất tử kẻ chấp nhận, người chối bỏ. Cái mâu thuẫn này không có kết thúc chung. Mỗi cá nhân tự chọn niềm tin riêng cho mình. Mọi cố gắng áp đặt niềm tin trên tập thể chỉ là tin cách giả tạo, bởi ai đo được niềm tin tiềm ẩn, sâu kín trong lòng. Dù tin hay không cũng không thể chối bỏ được cuộc sống tâm linh, thần bí trong trong đời. Lãnh tụ các thời đại ước mơ có những người con tài trí, nhưng ước mơ và hiện thực không song hành. Như thế con người đầu hàng trước thế giới thần linh.

Hai nhóm Pharisiêu và Biệt Phái dù bất đồng nhưng họ cấu kết với nhau triệt hạ Đức Kitô. Cả hai đều trọng Luật của Môisen nhưng vì chiến tranh, di dân, ảnh hưởng bởi văn hoá ngoại bang và chức tước bổng lộc nên mỗi nhóm đi theo một đường và cuối cùng chê trách nhau. Nhóm Pharisiêu tự hào về quyền dịch sách Ngũ Thư và tôn trọng truyền thống; nhóm Biệt Phái không chấp nhận truyền thống và chú trọng vào việc lãnh đạo Đền Thờ. Họ kết hợp với nhau vì Đức Kitô chỉ trích họ trong việc phụng thờ và coi luật lệ trọng hơn sự sống. Họ đến hỏi Ngài về sự sống lại. Nhóm Pharisiêu tin có sự sống lại, nhóm Biệt Phái tin chết là hết. Họ không hỏi để tìm hiểu mà hỏi tìm cớ giết Ngài. Đức Kitô vạch cho họ biết cái sai của họ.

Thứ nhất Ngài xác định rõ những ai sống theo đường lối Chúa sẽ được hưởng sự sống đời sau. Sự sống vĩnh cửu trong nước Chúa. Sẽ không còn chết, không còn đau khổ, tang thương.

Thứ hai, nhu cầu vật chất cần thiết cho sự sống của thân xác đời này và nhu cầu cuộc sống tâm linh hoàn toàn khác biệt.

Thứ ba, niềm vui của thân xác đến từ vật chất trần thế; niềm vui tâm linh đến từ tình yêu Chúa. Vì thế cuộc sống trần thế lập gia đình để hỗ trợ nhau, thoả mãn nhu cầu cuộc sống; cuộc sống tâm linh sống bằng tình yêu Chúa và họ không còn thiếu, thèm khát bất cứ điều chi nên không còn nhu cầu đòi hỏi. Tình yêu Chúa ban cho họ cuộc sống vui thoả, không còn thiếu thốn chi.

Thứ tư, Đức Kitô cũng cho họ biết họ sai lầm khi giảng giải Ngũ Thư. Câu chuyện Môisen trông thấy bụi gai cháy và có sự hiện diện của các Tổ Phụ: Abraham, Isaac và Jacob cho biết các Ngài đang sống hạnh phúc trong nước Chúa. Đối với thế giới họ đã chết, đã ra khỏi thế giới nhiều năm trước. Chuyện bụi gai cho biết họ không chết mà chính là từ bỏ thế giới vật chất để vào sống hạnh phúc trong thế giới siêu hình.

Tranh biện về cuộc sống trường sinh không có kết thúc. Còn con người còn có lí luận khác nhau và còn tranh biện. Đức Kitô là Đấng sống lại từ cõi chết. Ngài là Đấng duy nhất có tiếng nói chính đáng nhất trong vấn đề này. Từ chối lắng nghe tiếng của Ngài sẽ không còn tiếng nói nào chính xác hơn, đáng tin hơn bởi tất cả đều là sản phẩm của suy tưởng, lí luận. Thắng hay thua trong việc tranh biện đều không quan trọng. Điều quan trọng là tin vào món quà sự sống trường sinh Đức Kitô hứa ban. Quà này ban cho những ai yêu mến và tin vào Ngài. Nhìn vào giá trị món quà để định giá là cách trẻ em thực hiện. Chúng reo vui khi thích quà tặng, buồn ra mặt khi không thích. Người lớn không nhìn vào giá trị món quà mà nhìn vào tình yêu người tặng quà dành cho. Quà chỉ là biểu tượng của tình yêu. Kitô hữu đón nhận sự sống trường sinh với tất cả lòng yêu mến vì chúng ta không đáng hưởng tình yêu chan chứa của Thiên Chúa nhưng Ngài ban cho vì thế chúng ta đón nhận với tâm tình cảm tạ, khiêm nhường.

Rất có thể cuộc sống trường sinh, hạnh phúc, nhiều ít thế nào ra sao trong tương lai được đo lường bằng niềm tin hiện tại. Tin mãnh liệt sẽ sống tích cực, yêu mến Thiên Chúa và thương tha nhân sẽ hưởng tình yêu Chúa cách nồng nàn. Tin ít hơn, hời hợt hơn sẽ sống đời sống chứng nhân hời hợt hơn và cuộc sống trường sinh cũng nhạt màu. Tin rất ít sẽ đáp trả lại tình yêu Chúa cách lạnh nhạt vì thế sẽ không thể nào hưởng trọn tình yêu Chúa trong cuộc sống mới. Đời sống hiện tại chính là khung sườn, ảnh hưởng đến cuộc sống trường sinh bởi cuộc sống trường sinh là cuộc sống yêu thương. Thiếu yêu thương nơi trần thế sẽ chẳng thể nào hội nhập vào yêu thương cao cả trong nước Chúa.

Về mục lục

.

TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI ĐỜI SAU

Lm Trần Bình Trọng

Nếu đời này là cùng đích và là cứu cánh của con người, thì nhiều sự việc xẩy ra ở trần thế là bất công, khi người gian ác được giầu sang, mạnh khoẻ; còn người hiền đức lại phải sống cảnh nghèo khó, bệnh tật. Nếu không có đời sau thì người ta phải tận hưởng những sự vật đời này cho tới mức tối đa, người ta phải tìm ăn ngon, mặc đẹp và kiếm tìm những thú vui cho thoả mãn ở đời này. Người theo các tôn giáo lớn như Phật Giáo, Ấn Giáo và Hồi Giáo đều tin có một kiếp sống nào đó ở đời sau. Còn đối với người Thiên Chúa Giáo, thì việc trải qua từ đời này sang đời sau, được gọi là phục sinh hay sống lại.

Nhóm người Xa Ðốc dựa vào sách Thứ luật, không tin vào sự sống lại vì bổn sách không đề cập tới. Hôm nay lợi dụng cơ hội hiếm có, nhóm Xa Ðốc lại đặt vấn đề về sự sống đời sau với Chúa Giêsu, và họ đặt câu hỏi cách tài tình, nhưng lại mưu mô. Họ dựa vào luật Thế huynh nối dòng trong sách Thứ luật (Ðnl 25:5-6) để bịa ra câu chuyện như sau. Một người đàn bà có bảy đời chồng là bảy anh em ruột. Người đàn bà cưới người anh cả, rồi người anh cả chết đi, không con. Chị ta bèn phải lấy người em thứ hai, rồi người này cũng chết mà không con. Và sự việc cứ xẩy ra như vậy cho tới người thứ bảy, mà không ai có con. Sau cùng người đàn bà cũng chết. Vậy nếu bảo rằng có sự sống đời sau, thì ai sẽ là chồng chị trong kiếp sống mai hậu? Nhóm người Pharisêu không trả lời được vấn đề này vì theo họ thì đời sau, người ta cũng cưới hỏi như đời này.

Thực ra thì nhóm Xa Ðốc không quan tâm ai sẽ là chồng của người đàn bà trong cuộc sống đời sau. Vấn đề thắc mắc về hôn nhân chỉ là cạm bẫy họ dùng để bắt bẻ Chúa Giêsu về sự sống đời sau. Tại sao họ phải dựng câu chuyện về bảy người chồng như vậy? Trong trường hợp này, họ chỉ cần trưng ra hai người chồng thì cũng đủ biện minh cho lí lẽ của họ. Trưng ra bảy người chồng có lẽ họ muốn nói đến bảy anh em trong sách Macabêô đã chết vì tin theo Chúa với hi vọng được sống lại chăng (2 Mcb 7:9)?

Theo sách Macabêô thì người Do Thái từ thế kỉ thứ hai trước Chúa Giêsu giáng sinh đã tin có sự sống lại. Tuy vậy không phải hết mọi người Do thái thời đó đều tin có sự sống đời sau như nhóm người Xa Ðốc. Nhóm Xa Ðóc chỉ nhận bộ sách Ngũ kinh, trong đó sách Thứ luật không bàn gì về sự sống lại. Họ không công nhận những sách khác trong Cựu ước, gồm sách Macabêô có ghi lại niềm tin của bảy anh em về sự sống lại.

Ðến đây thì Chúa giải thích cho nhóm người Xa đốc hiểu rằng, theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, thì kiếp sống đời sau khác hẳn thực tại của kiếp sống đời này. Mối liên hệ mật thiết nhất ở đời này là tình luyến lái trong đời sống hôn nhân cũng không còn cần thiết cho đời sau (Lc 20:34), vì một trong những mục đích của hôn nhân là tìm sự luyến ái vợ chồng để nâng đỡ nhau về đời sống tình cảm và để sinh con đẻ cái, đã được hoàn tất ở đời này rồi.

Trong cuộc sống đời sau trên thiên quốc, người ta được hưởng nhan thánh Chúa cách trực tiếp và sung mãn (c. 36), nên tình nghĩa vợ chồng không còn cần thiết nữa. Trong cuộc sống mai hậu, người ta cũng không cần ăn uống và do đó cũng không có nhu cầu đi vệ sinh. Phúc âm thánh Luca có ghi: sau khi sống lại, các tông đồ đưa cho Chúa một nhát cá nướng, rồi Chúa cầm lấy mà ăn (Lc 24:42-43). Sách Công Vụ Tông Đồ cũng ghi: sau khi sống lại Chúa cùng ăn uống với các tông đồ (Cv 10:41). Việc Chúa ăn uống ở đây là vì các tông đồ, chứ trong thân thể phục sinh của Chúa, Chúa không cần ăn uống. Việc Chúa ăn ở đây giống như thiên sứ Ra-pha-en ăn, rồi trả lời cho hai cha con ông Tôbít và Tobia: Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thực ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy (Tb 12:19).

Khi có người thắc mắc kẻ chết sống lại sẽ lấy thân thể nào mà trở về (1 Cr 15:35), thánh Phaolô trả lời thân xác phục sinh khác thân xác trước kia như sau: Gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1 Cr 15:44). Đó là lí do tại sao các tông đồ lúc đầu không nhận ra Chúa phục sinh khi Người hiện ra với các ông (Lc 21:16, 37; Ga 20:14; Ga 21: 4) vì theo thánh Mác-cô: Chúa tỏ mình dưới một hình dạng khác (Mc 16:12), nghĩa là hình dạng đã biến đổi.

Ðể thuyết phục nhóm Xa Ðốc sao cho họ xác tín về sự sống lại, Chúa Giêsu còn trích dẫn đoạn Thánh kinh trong sách Xuất hành về việc ông Môsê, khi được Chúa hiện ra đã tuyên xưng: Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp (Xh 3:6;Lc 20:37). Vậy nếu Chúa là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, thì mặc nhiên ba tổ phụ này đã sống lại (c. 38). Nhóm Xa Ðốc biết nhiều về Thánh kinh nên họ đã chịu khuất phục trước lối cắt nghĩa của Chúa về việc sống lại. Và như thánh sử Luca ghi lại: Họ không dám chất vấn Người điều gì nữa (Lc 20:40).

Giáo lí công giáo dạy phục sinh không phải là một hình thức luân hồi. Giáo lí công giáo coi việc sống lại không phải chỉ dạy rằng con người có linh hồn bất tử. Theo lời Chúa trong Phúc âm hôm nay thì: Họ không thể chết nữa vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa vì là con cái sự sống lại (Lc 20:36). Và Chúa cũng đặt những điều kiện là: Những ai được xét xử là đáng được hưởng hạnh phúc đời đời (Lc 20:35) thì được hưởng sự sống lại.

Ðức tin và lí trí của người tín hữu đòi hỏi phải có sự sống lại. Ðức tin của người tín hữu  trong kinh Tin Kính tuyên xưng: Tôi tin xác sống lại và sự sống đời sau. Lí trí của ta đòi hỏi sự sống lại là vì ta được tạo dựng gồm cả hồn và xác để phụng sự Thiên Chúa. Nếu không có sự sống lại thì người tín hữu không cần cầu nguyện cho người quá cố, không cần xin lễ cầu nguyện cho linh hồn nọ, linh hồn kia. Nếu không có sự sống lại thì việc xin lễ cầu nguyện cho linh hồn nọ kia, là việc làm mất thời giờ uổng công. Theo Tín điều Các thánh cùng thông công của các công đồng Nicea II, Firenze và Triđentinô, mà Công đồng Vaticanô II gọi là Hiệp thông Sống động (Giáo hội # 51), thì người tín hữu tại thế có thể hiệp thông với các thánh trên trời và thông công với các linh hồn nơi luyện ngục bằng cách cầu nguyện hi sinh cho họ.

Trong tháng Các Linh hồn, người tín hữu nhớ đến các linh hồn nơi luyện ngục một cách đặc biệt bằng cách dâng lễ cầu nguyện. Ðặc biệt người tín hữu được nhắc nhở cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc và những linh hồn mồi côi. Nếu có ai hỏi vây phải cầu nguyện cho người quá cố tới bao giờ? Câu trả lời là tới bao lâu người tín hữu còn sống. Nếu linh hồn người quá cố mà ta cầu nguyện cho đã được lên thiên đàng, thì theo Tín điều Các Thánh cùng Thông công, mà Công đồng Vaticanô II gọi là Hiệp thông sống động, Thiên Chúa sẽ chuyển những lời cầu nguyện, lễ dâng và công hiệu thiêng liêng của việc hi sinh bác ái ta làm, cho những linh hồn khác nơi luyện ngục.

Lời cầu nguyện xin cho được hưởng sự sống lại:

Lạy Chúa, Chúa là vinh quang của các thánh

và là nguồn hi vọng của người tín hữu.

Xin cho những người tin tưởng vào Chúa

và tuân giữ giới răn Chúa khỏi phải thất vọng.

Xin dạy con biết tìm kiếm những của vững bền

để làm hành trang cho kiếp sống mai hậu.

Xin Chúa là gia nghiệp của con ở đời này và đời sau. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM TIN XÁC TÍN

Lm. Quốc Toản

Chúng ta sống trên đời này là để thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân hầu được phúc hưởng nhan Thiên Chúa Hằng Sống đời sau. Để được thế mỗi người phải chiếu giãi đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Còn gương lành nào chiếu giãi đức tin cho bằng gương của bảy anh em lần lượt chịu tử đạo trước sự chứng kiến của người mẹ can đảm trong Bài Đọc thứ nhất hôm nay? (x. 2Mac 7:1-2; 9-14). Đây qủa là một tấm gương đáng được ghi nhớ muôn đời trong lịch sử nhân loại!

Bảy anh em đã chiếu sáng sự thánh thiện và lòng kiên trì qua sự chấp nhận những tra tấn dã man dưới tay phường vô nhân đạo. Sở dĩ họ chịu đựng được những tra tấn cũng một phần do sự khuyên bảo và khích lệ của người mẹ tràn đầy lòng tin. Đặc biệt hơn nữa là vì họ có một niềm tin xác tín rằng Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa của công bằng và yêu thương, Đấng mà họ sẵn sàng hy sinh mạng sống đời này, đã dành cho họ một cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đàng.

Trải qua hơn hai ngàn năm, hằng triệu Kitô hữu đã hy sinh mạng sống cách anh hùng vì đức tin. Trong số đó có các Thánh Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Ngày nay cũng có hằng triệu người đang chịu đau khổ và tử đạo liên lỉ vì cùng một đức tin. Tuy nhiên, họ may mắn hơn bảy anh em người Do-thái xưa vì họ có gương lành của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chịu đựng một cuộc tử đạo đau đớn dã man hơn mọi người. Vì thế, một cách nào đó, gương lành của người mẹ và bảy anh em Do-thái đáng được ngưỡng mộ hơn. Nhưng, điều quan trọng là cũng chính một Thiên Chúa, Đấng đã ban cho họ những ơn cần thiết để chịu đựng mọi cơn thử thách, ngày nay vẫn tiếp tục ban cho mọi Kitô hữu những ơn cần thiết để chịu đựng mọi thử thách hầu được hưởng cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời với Thiên Chúa Hằng Sống.

Những gương anh dũng của các tiền nhân đều đáng cho chúng ta phải thật sự ngưỡng mộ. Tuy nhiên, là những Kitô hữu, ngưỡng mộ không chưa đủ! Ta cần phải bắt chước và thực hành những gương anh hùng đó trong cuộc sống thường ngày. Theo tự nhiên, ai trong chúng ta khi nghĩ đến những thử thách tra tấn cũng phải giùng mình kinh hãi. Chắc chắn các đấng đi trước cũng vậy. Nhưng, khi cơn thử thách đến thì Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chịu đựng như Chúa đã ban cho các đấng tiền nhân.

Những tấm gương chứng nhân đức tin sáng ngời của các bậc đi trước là một thách đố mà chúng ta có thể áp dụng cho cuộc sống ngày nay. Chúng ta không cần phải hỏi, “Tôi có sẵn sàng chấp nhận những cực hình và cái chết vì đức tin hay không?” Điều chúng ta nên làm là xét xem mình có sẵn sàng và thật sự sống đức tin trong cuộc sống hằng ngày chưa. Nghĩa là chúng ta đã sống tinh thần chịu đựng, hy sinh và can đảm đúng với địa vị của mình hay chưa? Thí dụ: vợ chồng có nhịn nhục, can đảm hy sinh chịu đựng lẫn nhau hay không? Bố mẹ có quan tâm đến con cái và săn sóc, dậy dỗ chúng nên người hay chỉ lo làm ăn đến độ bỏ bê chúng? Con cái có biết vâng lời bố mẹ và chăm chỉ học hành cho giỏi hay chỉ biết đi chơi và phá nghịch xóm làng…v.v.?

Cuộc sống là một chuỗi ngày chiến đấu với ma quỉ, thế gian và xác thịt. Vì thế, để sống đúng địa vị của chính mình không phải là một chuyện dễ làm đối với bất cứ một ai. Với nhiều người đây chính là một cuộc tử đạo liên lỉ. Nhưng, hãy nghĩ đến hoặc nhìn lại những tấm gương xác tín đã tăng cường sức lực cho người mẹ và bảy anh em Do-thái xưa. Mọi Kitô hữu phải luôn tạo cho mình có một niềm tin xác tín vào Thiên Chúa Hằng Sống như thế.

Nếu chúng ta trung thành với Chúa thì Ngài sẽ thưởng chúng ta. Nếu chúng ta trung thành với giới răn của Chúa thì Ngài sẽ giữ lời hứa của Ngài. Và nếu Chúa có muốn chúng ta hy sinh mạng sống để làm chứng nhân cho Ngài thì Ngài sẽ ban cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc trường sinh trên quê trời. Được thế thì chúng ta đã hoàn tất được mục đích cuộc sống đời này; đó là chiếm được cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau với Thiên Chúa Hằng Sống.

Về mục lục

.

HỌ LÀ CON CÁI THIÊN CHÚA GIỐNG NHƯ CÁC THIÊN THẦN

Lm. Huy Châu

Bài đọc thứ nhất và Phúc Âm hôm nay có cùng một nội dung: sự sống lại đời sau. Vấn đề sự sống lại trong bài Phúc Âm hôm nay được nêu lên do nhóm Xađuxê. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu qua về nhóm này: Hai nhóm vị vọng trong dân Do Thái thời Chúa Giêsu mà Phúc Âm thường nhắc đến là Pharisiêu và Xađuxê. Hai nhóm này có nhiều khác biệt. Điển hình là nhóm Pharisiêu chủ trương lo việc tôn giáo, không nhúng tay vào chính trị. Họ tin có sự sống đời sau và có thiên thần. Ngược lại Xađuxê là một nhóm nhỏ nhưng có chỗ đứng trong guồng máy cai trị của người Rôma. Phái Xađuxê không tin có thiên thần và không tin có sự sống đời sau.

Nhìn lại bối cảnh Phúc Âm, có lẽ sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sự sống đời sau, nhóm Xađuxê cảm thấy “khó chịu” nên muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu và đặt Ngài vào chỗ bí. Câu hỏi họ đặt ra về việc một người đàn bà lần lượt lấy 7 anh em theo luật Maisen có ghi trong sách Đệ Nhị Luật, đoạn 25, câu 5. Họ hỏi nếu người đàn bà đó lấy cả 7 anh em, thì sau khi sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ của ai? Câu hỏi này khi mới nghe thì có vẻ hóc búa và có lẽ nhóm Xađuxê hí hửng vì bắt bí được Chúa Giêsu. Nhưng câu trả lời của Chúa trước hết khiến cho họ bẽ mặt và làm cho câu hỏi đó thật chỉ là câu hỏi có vẻ “trẻ con”. Thứ nữa, câu trả lời của Chúa hé mở cho chúng ta thấy “tình trạng” con người được sống lại trên thiên đàng thế nào: trên thiên đàng người ta không sống trong tình trạng vợ chồng nhưng sống như các thiên thần (Lc 20:34-36). Thực sự chúng ta không biết các thiên thần “sống” như thế nào trên thiên đàng nhưng một số điều căn bản chúng ta biết về các thiên thần là các ngài không có thể xác, không lệ thuộc vào vật chất, và các ngài được hưởng kiến nhan Chúa nên được tràn ngập hạnh phúc.

Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy một tình trạng tâm lý tự nhiên là khi người ta được an toàn dư dật trong cuộc sống vật chất và danh vọng thì người ta coi nhẹ hay ít màng tới đời sống tinh thần. Họ thoả mãn với cuộc sống hiện tại, nên việc họ không tin vào đời sống sau này cũng là một điều dễ hiểu. Một điều lạ là ngày nay số người tin có sự sống sau khi chết (life after death) hay linh hồn bất tử tại Hoa Kỳ gia tăng. Nhưng nhiều người chỉ tin một cách mơ hồ nào đó chứ không tin theo lối tin truyền thống của niềm tin Kitô Giáo. Là những Kitô Hữu đích thực, chúng ta cần xác tín một chân lý là đời sống trên thế gian này không phải là đích tối hậu, nhưng là thiên đàng mai sau. Dầu thế, thiên đàng bắt đầu ngay từ đời này. Do đó đời sống hiện tại của chúng ta sẽ quyết định đời sống mai sau.

Theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, con người là chiếc cầu nối liền thế giới thần linh (spiritual) và vật chất (material) vì trong con người có cả hai yếu tố: linh hồn và thể xác. Qua con người, thế giới vật chất được nâng lên biên giới của thế giới thần linh (xem God and the World, tr. 89). Như thế, ngay ở đời này, chúng ta cũng có thể bắt đầu “sống như thiên thần”, và nếu chúng ta muốn bắt đầu cuộc sống như thiên thần trên đời này, chúng ta cũng cần phải đặt lại thứ tự giá trị cuộc sống: giá trị tinh thần trên vật chất; đòi hỏi của Phúc Âm và Giáo Hội trên đòi hỏi của nhu cầu tự nhiên; hướng tất cả về đời sống mai sau. Có lẽ chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu dạy: “Được lời lãi cả thế gian này mà mất linh hồn mai sau thì được ích gì” (Mt 16:26). Lời Chúa hôm nay, một lần nữa kêu gọi chúng ta lựa chọn: Đời này hay đời sau.

Về mục lục

.

SỰ SỐNG ĐỜI SAU.

Lm.Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Vào thời Đức Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau. Những người thuộc nhóm Biệt phái tin linh hồn bất tử và tin có sự sống lại đời sau. Một số khác tin rằng: cuộc sống sau khi chết cũng ăn uống, dựng vợ gã chồng, buôn bán, vui chơi bình thường như cuộc sống dương gian. Còn riêng nhóm Sađốc là những người quí tộc Do Thái, phần đông gồm các tư tế giàu có, giữ những chức vụ cao nhất trong đạo Do thái. Họ lấy Ngũ Thư tức 5 cuốn sách đầu của bộ Cựu ước (St, Lv, Ds, Xh, Đnl) làm tiêu chuẩn độc nhất về đạo lý, mà những sách này không nói rõ ràng về sự sống lại, cho nên đối với họ, linh hồn và thể xác chết là hết, và như vậy họ không tin có sự sống lại ở đời sau.

Chính vì thế, họ đặt vấn nạn với Đức Giêsu qua câu chuyện: người em phải lấy chị dâu để có con nối dõi tông đường, nếu người anh chết mà chưa có con. Họ đặt ra trường hợp có 7 anh em nhà kia cùng lấy một người đàn bà. Vậy sau khi sống lại người đàn bà ấy là vợ của ai?(Lc 20, 33).

Dựa vào nền tảng Thánh kinh, chúng ta chứng minh tin có sự sống lại ở đời sau.

Thứ nhất, chỉ những ai được tuyển chọn mới được vào Nước Chúa. Trong Tin mừng, Đức Giêsu nhiều lần đề cập đến việc tuyển chọn này. Chẳng hạn như dụ ngôn nói về ngày phán xét, Chúa tách chiên ra khỏi dê. Chiên tượng trưng cho người sống ăn ngay ở lành, còn dê tượng trưng cho những người làm điều gian ác (Mt 25, 31-46).

Dụ ngôn cỏ lùng, cỏ lùng bị gom lại bó thành bó và đem đốt đi, còn lúa thì thu lại đem vào kho lẫm (Mt 13, 24-30). Dụ ngôn chiếc lưới, cá tốt thì giữ lại, cá xấu thì bỏ đi (Mt 13, 47-50).

Dụ ngôn người phú hộ và người hành khất Lazarô. Người phú hộ rơi xuống biển lửa, còn Lazarô thì được hạnh phúc trong lòng tổ phụ Abraham (Lc 16, 19-31).

Thứ hai, thánh Phaolô nói rằng: “Tất cả chúng ta sẽ không chết, nhưng sẽ được biến đổi trong giây lát, trong nháy mắt….vì chưng, cái thân xác hay hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự trường sinh bất tử” (1 Cor 15, 51-53).

Như vậy, chết không phải là hết, nhưng là bước vào đời sống mới. Lúc bấy giờ con người sẽ sống giống như các thiên thần, nên không còn ăn uống. Vì người ta không chết nữa, cũng không còn cưới vợ lấy chồng, chẳng còn sinh sản con cái để nối dõi tông đường.

Cuối cùng, ngày lãnh Bí tích rửa tội, chúng ta được tái sinh làm con Chúa, được gọi Chúa là Cha, sau này được đồng thừa tự với Đức Kitô, được tham dự vào sự sống của Chúa Ba ngôi. Nếu ngay ở đời này, chúng ta ăn ngay ở lành, lập công tích đức, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, thì sau khi chết sẽ được Chúa ân thưởng vào Nước trời. Vì Đức Giêsu đã hứa: “Những người làm điều thiện sẽ phục sinh để được sống, còn những người làm điều ác sẽ sống lại để chịu án phạt” (Ga. 5,19).

Anh chị em thân mến,

Việc Đức Kitô phục sinh là bằng chứng hiển nhiên có sự sống lại đời sau, và đó cũng là nền tảng đức tin Kitô giáo.

 Vì như lời thánh Phaolô khẳng định: “Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì đức tin của chúng ta chỉ là hảo huyền, và lời rao giảng của chúng tôi cũng trở nên vô ích…(1Cor 15,14”.

Thật vậy, nếu không có sự sống lại đời sau, thì các thánh tử đạo không điên dại gì mà phải đổ máu mình ra. Nếu không có sự sống lại đời sau, thì các nhà truyền giáo không điên cuồng gì mà phải từ bỏ quê hương xứ sở để ra đi loan báo Tin mừng. Nếu không tin có sự thưởng phạt ở đời sau, thì chúng ta chẳng cần phải nỗ lực sống đạo hay lập công tích đức để làm gì.

Hơn nữa, chỉ vì tin có sự sống lại ở đời sau mà Giáo hội mời gọi các tín hữu sống mầu nhiệm các thánh cùng thông công, là cầu khấn cùng các thánh trên trời, cầu hồn xin lễ cho các linh hồn trong luyện tội. Một lần nữa, để xác tín niềm tin có sự sống lại ở đời sau, kính mời tất cả cộng đoàn cùng đứng lên tuyên xưng đức tin. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT

Lm. John Nguyễn Tươi

“Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời”

Theo quy luật của kiếp nhân sinh, con người được sinh ra, lớn lên, già yếu, bệnh tật và chết đi. Không ai có thể thoát khỏi quy luật này. Tuy nhiên, người ta vẫn đặt câu hỏi. Sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?

Trong trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ nghe câu trả lời của Chúa Giê-su về sự sống lại từ cõi chết. Khi nhóm Xa-đốc đến gặp Chúa Giêsu, nhóm này chủ chương không tin có sự sống lại, và họ đặt câu hỏi cho Chúa Giê-su: “Có bảy người anh em lấy một phụ nữ. Sau đó, tất cả điều phải chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết đi. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Câu hỏi này không chỉ nhóm Xa-đốc đặt ra cho Chúa Giêsu về sự sống lại mà ngay cả thời đại này, con người vẫn đang đi tìm câu giải đáp sự sống đời sau.

Tất cả các tôn giáo đều tin có sự sống đời sau. Thuyết luân hồi của đạo Phật, người ta tin vong hồn sẽ đầu thai vào một thân xác nào đó, và trở thành một kiếp khác theo quy luật nhân quả quy định. Giáo lý nhà Phật gọi là vòng luân hồi. Nó cứ mãi chuyển xoay đến khi nào linh hồn rũ sạch hết bụi trần. Giáo thuyết nhấn mạnh đến cái nghiệp quả của người kiếp trước. Vì vậy, họ tin rằng, cái nghiệp đó sẽ được diệt sạch bằng việc tu tâm và lòng từ bi thì sẽ được siêu thoát.

Dưới ánh sáng Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu giải đáp rõ về sự sống đời sau: Khi con người sống lại, những ai được xét và hưởng phúc đời sau, họ sẽ được sống lại từ cõi chết, thì họ không còn cưới vợ gã chồng nữa và không thể chết nữa vì họ được ngang hàng với các thiên thần. Tất cả là con cái của Thiên Chúa và được hưởng viễn mãn trên thiên đàng. Tất nhiên, người phụ nữa đó cũng chẳng thuộc về ai.

Với cái nhìn của con người, chúng ta thường bị giới hạn bởi không gian và thời gian, hay lệ thuộc về một người nào đó, khi chúng ta sở hữu những thứ chúng ta có. Chẳng hạn, cái nhà chiếc xe, hay ngay cả chuyện vợ chồng. Chết rồi còn hỏi Chúa cô ta thì thuộc về ai. Con nguời luôn tự ràng buộc mình vào những thứ thuộc về thế gian, nên họ cố bám víu vào nó như là thước đo cho những giá trị hạnh phúc ở đời. Nhóm người Xa-đốc, họ vẫn còn mang nặng mùi theo kiểu trần tục trong việc vợ chồng, rồi họ đặt ra vấn đề cô ta sẽ thuộc về ai.?

Ngẫm nghĩ sự đời, người ta vẫn thường nói: “Chết rồi cũng không buông tha”. Đời người thật mong manh, chóng qua.

Dựa trên các quan niệm về đời sau, chúng ta có thể nhận thấy rằng, con người luôn khao khát tìm kiếm chân lý, để làm cứu cánh và định hướng đi cho cuộc đời. Lòng khát khao đó giúp cho con người sống mỗi ngày để hoàn thiện bản thân mình, thì Thiên Chúa là con đường cho ta bước theo, là ánh sáng dẫn bước chúng ta. Ngài là ánh, là chân lý vĩnh cửu và trường tồn. Ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô thắp lên niềm tin và hy vọng cho tất cả nhân loại nhân, để nhận biết sự sống chiết suất từ Thiên Chúa. “Ai tin vào Ta sẽ được sống đời đời.” Giáo hội mời gọi chúng ta hãy luôn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn trong tháng 11 này.

Chúa cho Lazarô sống lại thì Ngài cũng cho kẻ chết sống lại. Niềm tin và hy vọng của chúng ta là nơi Chúa Phục Sinh, Ngài sẽ chúng ta cũng được sống lại trong ngày sau hết, để hưởng phúc trên thiên đàng. Sự sống này chỉ thay đổi, chứ không mất đi. Với niềm xác tín vào sự sống đời đời, chúng ta sẽ biết chọn cho mình cách sống và hướng đi thích hợp ở đời này và cho đời sau. Đó là cách chọn lựa của mỗi người khi chúng ta sống trên trần gian này. Chúa Giê-su phán: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được gì?.”

Lạy Chúa:

– Con vẫn nghe Lời Chúa dặn, con người sẽ được sống lại, nhưng tâm hồn con vẫn còn xa lìa Chúa.

– Con biết một ngày nào đó, con sẽ từ giã cõi đời này, nhưng nơi cõi lòng con vẫn còn tham lam của cải, danh vọng và lạc thú.

– Con vẫn biết trần gian là quán trọ để dừng chân, nhưng chân con vẫn chạy theo những thứ vui giả trá để giết chết thể xác và linh hồn.

– Con biết sự dữ và tội ác đang vây bủa thân con bởi kiêu ngạo, hận thù và gian ác nhưng con vẫn làm ngơ trước sự cám dỗ của ma quỷ.

Xin Ngài thương xót và cứu chữa linh hồn con cả đời này và đời sau. Amen.

Về mục lục

.

THỰC TẠI MỚI, TƯƠNG GIAO MỚI

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật

Câu trả lời của Vị Ngôn Sứ

Đứng trước cái chết, con người cảm thấy cuộc đời cá nhân của mình bị cắt ngang, họ tìm cách kéo dài sự hiện diện, sự tổn tại của mình qua các tác phẩm nghệ thuât, qua các công trình, qua con cái. Với những dấu vết đó, họ tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng họ không hoàn toàn biến mất, không hoàn toàn tiêu tan vì vẫn có những người nhắc nhớ đến họ, vẫn lưu giữ những kỷ niệm, những dấu vết của họ. Theo chiều hướng này, luật Mô-sê đã đưa ra điều khoản về “thế huynh” (xem Đnl 27,5-6): một người đàn bà goá mà không có con, phải kết hôn với em chổng để duy trì dòng dõi cho người anh quá cố.

Luật Mô-sê dành ưu tiên cho người đàn ông, nên phụ nữ, trẻ con chỉ là phương tiện, và từ đó tạo nên cả một hệ thống về quyền lợi, dựa trên những mối liên hệ khác nhau của ý định muốn tổn tại lâu dài. Những người thuộc phái Xa-đốc đã bắt đầu từ những mối liên hệ, những quyền lợi của cuộc sống này để đặt câu hỏi với Đức Giêsu: “Người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?”

Theo một khía cạnh, câu hỏi đó có lý, vì nó khởi đi từ quan niệm về sự tổn tại, về quyền lợi, như đã được ghi lại trong luật Mô-sê, với mục đích duy trì dòng dõi của con người.

Thế nhưng, câu hỏi tự nó có tính cách phi lý và quá chi li: đây là một câu hỏi lắt léo nhằm để bắt bẻ hơn là làm sáng tỏ vấn đề. Đức Giêsu biết điều đó và Người không quan tâm. Người làm bùng nỗ hệ thống tư tưởng của con người về cuộc sống mai sau. Với tư cách là Vị Ngôn Sứ, Đức Giêsu đưa ra câu trả lời không theo lối suy nghĩ và những hoàn cảnh của cuộc sống trần gian. Người đến để loan báo, để thông ban sự sống mới, nhưng sự sống đó không phải là một sự tổn tại, không phải là trường thọ; trái lại, đó là một cuộc tái sinh, là sự đạt tới một thực tại khác, một mức độ mới.

Câu trả lời của Đức Giêsu không hề có ý nói rằng thực tại mới sẽ làm cho mọi người, mọi mối tương giao trở nên bằng nhau, như là một kiểu san bằng tất cả, nhưng chỉ có ý gạt bỏ khía cạnh xác thịt hay tình cảm của những mối tương giao: đó chỉ là những điểm khởi đầu có tính cách tự nhiên.

Khi người ta khen ngợi thân mẫu của Người, Đức Giêsu đã nói: “Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi?”, và Người đã khẳng định về một tương giao mới, về ý nghĩa của gia đình dựa trên mối tương giao với Lời Chúa. Những tương giao nhân bản vẫn có giá trị, nhưng sẽ phải nhường chôỵ cho một tương giao đích thực, trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.

Thực tại mới

Như thế, đời sau là một thực tại, một thực tại mới, khắc hẳn với trần thế này. Trong thực tại mới đó, tất cả đều biến đỗi: không thể lấy những tiêu chuẩn của trần gian để xét đoán, để mô tả đời sau. Thật là lầm lẫn khi đặt vấn đề: trong cuộc sống mai sau không có hôn nhân sao? hay tương tự như thế: ở đời sau có đá banh không? có ti-vi không? có… không? Những câu hỏi này vẫn chỉ dựa trên cái nhìn của trần thế để hiểu về đời sau.

Tuy vậy, vẫn có thể dựa trên mặc khải để hiểu về thực tại mới này như sau:

– Con người được nhìn thấy Thiên Chúa “nhãn tiền”. Thiên Chúa như thế nào, con người được thấy như vậy: đó là hưởng kiến, đó là hạnh phúc, vì được nhìn thấy Thiên Chúa với tất cả vinh quang của Người. Trong Thiên Chúa, con người hiểu rõ những gì liên quan đến mình, kể cả mối tương giao với bạn bè, với người thân trên mặt đất.

– Trong thực tại mới này, con người chìm ngập trong vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa, không có gì cao đẹp hơn vinh quang đó, và con người chỉ có việc hưởng vinh quang, ca tụng vinh quang.

– Trong cuộc sống trần thế, con người vui hưởng tình yêu, cái đẹp, sự hiểu biết, quyền lực… những điều này chỉ có tính cách tương đối. Còn trong thực tại mới, Thiên Chúa là chính tình yêu, tình yêu trọn vẹn, là toàn năng, toàn mỹ, toàn thiện.

Đàng khác, theo thánh Phao-lô: thân xác của con người trong thực tại mới này sẽ hoàn toàn khác hẳn với thân xác trên mặt đất, như một cây to lớn khác với hạt giống khởi đầu. Cái gieo xuống là thân xác tự nhiên, cái mọc lên là thân xác thiêng liêng.

Thân xác vinh hiển không cần phải ăn uống hay những liên hệ của trần thế này. Khi ấy, con người được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa: họ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và quy hướng về Người.

Tin vào Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống

Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu được giải thích như sau: Với cái chết, nhân loại được biến đỗi từ tình trạng thể lý, và được giải thoát khỏi những ràng buộc của trần thế. Chính Đức Kitô, Đấng sẽ chịu chết và phục sinh, loan báo sự thay đỗi này. Không chỉ có số phận của thân xác được thay đỗi, nhưng cả các tương giao xã hội: cơ chế và luật pháp sẽ chẳng còn giá trị, bởi vì chúng chỉ là thực tại tạm thời và vô ích, được sử dụng cho cuộc sống trần gian. Còn trong thực tại mới, tất cả phải biến mất, vì đó là cuộc sống vinh quang, là thời gian viên mãn, là “thời của Đức Kitô”.

Trong trình thuật này, Đức Giêsu nối kết hai ý niệm “con Thiên Chúa” và “được sống lại”. Điều này có nghĩa là con Thiên Chúa là những người được sinh ra trong đời sống vĩnh cửu, đời sống của chính Thiên Chúa.

Những người được hưởng ơn phục sinh có hai nét đặc trưng:

– Một là sự tự do của con cái Thiên Chúa. Theo thánh Phao-lô: những người con của Thiên Chúa không còn phải chịu nô lệ dưới ách lề luật, nhưng là những người hưởng tự do trong ân sủng.

– Hai là họ được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn. Nhờ sự vâng phục Thánh Thần – không hề đi ngược với tự do – họ trở nên những người sống giữa trần gian với nét độc đáo riêng của mình.

Nói thế, bởi vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống: Người đã tạo tác sự sống và không để sự sống phải tiêu vong; trái lại, Người duy trì sự sống qua việc làm cho kẻ chết sống lại và ban phát sự sống trường cửu. Đức Giêsu sẽ chịu chết và Người sẽ sống lại để tất cả mọi người đều được phục sinh, được tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Khi Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa của tỗ phụ Áp-ra-ham, của tỗ phụ I-xa-ác, của tỗ phụ Gia-cóp”, Người không chỉ gợi lại các biến cố của thời quá khứ và các nhân vật đã qua, nhưng còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng Bất Tử, là Đấng Bảo Tổn. Tất cả những ai đã chân thành, đã tin Thiên Chúa đều được sống với Người, sống vĩnh cửu. Niềm tin chân chính vào Thiên Chúa cũng gắn liền với niềm tin vào sự sống vĩnh cửu.

Qua cuộc đối thoại giữa Vị Ngôn Sứ của sự sống vĩnh cửu và những người không tin vào sự sống này, chúng ta được nhìn thấy những viễn tượng mới, rất rộng lớn.

Con người được mời gọi tín thác vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng luôn yêu thương và hằng mong ước cho họ được sống với Người mãi mãi. Sự sống, tình thương nơi Thiên Chúa không phải là điều bất toàn, có tính cách tạm thời; trái lại đó là sự sống, là tình thương trọn vẹn, vĩnh cửu. Bởi vì Người là Đấng Hằng Sống và là Tình Yêu. Không nhận điều đó tức là không tin Người là Đấng Toàn Năng, và coi Thiên Chúa như bất cứ ngẫu tượng nào khác.

Ngoài ra, con người được kêu gọi vượt qua những giới hạn của tình trạng gia đình, nghề nghiệp, xã hội; đổng thời họ được kêu gọi vượt qua những biên giới của tình yêu trần thế, để ngay từ cuộc sống nơi trần thế, họ đã khởi đầu cho những tương giao mới, đạt tới tầm mức của con cái Thiên Chúa sẽ được hoàn tất trong cuộc sống mai sau.

Như vậy, với Đức Giêsu, cái chết không còn là một kết thúc, nhưng là khởi đầu cho cuộc sống mới, cuộc sống đích thực, cuộc sống vĩnh cửu.

Hạnh phúc cho những ai, trong những mối tương giao nhân loại, đã bắt đầu kiến tạo thực tại vĩnh cửu này. Bởi vì ngay từ bây giờ, họ đã khám phá ra sự thật của mối tương giao mới, mối tương giao do chính Thiên Chúa làm nảy sinh.

* * *

Lạy Thiên Chúa, Đấng sáng tạo tâm hổn,

Chúa là Đấng cho mọi loài được sống,

xin ban hạnh phúc cho chúng con.

Chúng con sống

không nhờ sức lực của chúng con

nhưng nhờ sự sống của Chúa

đang thấm nhuần cả vũ trụ.

Không phải tự sức chúng con

hoàn thành các công việc,

nhưng chính quyền năng cao cả của Chúa,

đang sống trong chúng con.

Một bạn trẻ Nhật Bản

Về mục lục

.

VẤN ĐỀ SỐNG LẠI

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Mấu chốt của vấn đề mà nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu là sự sống lại và sự sống đó như thế nào. Chúa đã trả lời làm hai bước: Trước hết, Chúa nói về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại, sau đó, Chúa đưa ra một lập luận dựa trên một kiểu nói cơ bản nhất trong bộ Ngũ Kinh là những sách mà những người Xa-đốc công nhận là Sách Thánh.

Trước hết, về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại. Chúa cho biết nó không phải là một sự lặp lại cuộc sống trần gian, hai yếu tố của cuộc sống trần gian mà những người Xa-đốc nêu lên là chuyện cưới vợ lấy chồng và cái chết thì sẽ không còn nữa, những người đã sống lại thì được ngang hàng với các thiên thần nên không thể chết được nữa. Sự sống sau khi sống lại là sự tham dự trọn vẹn vào cuộc sống của Thiên Chúa, lúc đó người ta mới thể hiện đầy đủ bản chất là con Thiên Chúa, vì người ta được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Con của loài vật thì có sự sống của loài vật, con của loài người thì có sự sống của loài người, con của Thiên Chúa thì có sự sống của Thiên Chúa. Người ta được ngang hàng với các thiên thần, giống như các thiên thần, không còn bận tâm nào khác ngoài việc chiêm ngắm và ngợi khen Thiên Chúa. Vậy thì lập luận của những người Xa-đốc không đứng vững, bởi vì chính quan niệm của họ về cuộc sống sau khi sống lại không đúng.

Tiếp theo, Chúa Giêsu dựa vào một kiểu nói cơ bản rút ra từ một đoạn văn then chốt trong Cựu Ước và đối với lịch sử Do Thái, đó là đoạn văn kể việc Thiên Chúa hiện ra với ông Mô-sê dưới hình ngọn lửa cháy trong bụi gai (Xuất Ai Cập 3,6). Chúa nhấn mạnh vào ông Mô-sê, vì phái Xa-đốc nhìn nhận uy quyền của ông. Trong sách thì đây là lời Thiên Chúa tự xưng với ông Mô-sê, nhưng vì truyền thống Do Thái coi đây là sách do ông Mô-sê viết, nên Chúa Giêsu dựa vào đó mà lập luận. Ông Mô-sê gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Phái Xa-đốc không tin có đời sau, chết là hết, bởi vậy Chúa Giêsu lập luận: nếu chết là hết, thì các vị tổ phụ kia đã chết rồi, mắc mớ chi mà gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ đâu phải là Thiên Chúa của kẻ chết. Bởi vì đã gọi Ngài là Thiên Chúa của ai tức là người đó đang sống, tuy đối chúng ta thì người đó chết rồi. Ông Mô-sê không khẳng định có sự sống lại, nhưng trong kiểu nói này ông Mô-sê cho thấy rằng có cuộc sống đời sau, con người không chỉ có cuộc sống trên trần gian này thôi, chết không phải là hết, nhưng là đi vào một cuộc sống mới, sống trước mặt Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa.

Chúng ta thấy lối lập luận của Chúa Giêsu thật độc đáo, nên những người tranh luận với Chúa đã chịu lý và không thể cãi lại. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về lời tuyên xưng cuối cùng trong kinh Tin Kính về sự sống lại và sự sống đời sau. Thực vậy, chúng ta tin có sự sống lại và có sự sống đời sau, nên chết không phải là hết, nhưng là bắt đầu sống thực sự, như chúng ta vẫn hát trong thánh lễ an táng: “Lạy Chúa, đối với tín hữu Chúa, đời sống thay đổi chứ không bị tiêu diệt”. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trên giường hấp hối, cũng đã nói: “Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống”. Quả thực, sự chết vẫn hiện hữu, nhưng chết chỉ là chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi: từ tạm thời sang vĩnh cửu, từ hữu hạn sang vô hạn, chết là bắt đầu một đời sống mới, một cuộc đời vĩnh cửu.

Tóm lại, chết là một sự kiện hiển nhiên không cần phải chứng minh, đã là con người thì sẽ phải chết. Và đối với đức tin của chúng ta, thì thân xác chúng ta chắc chắn sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống như thiên thần hay quỷ dữ lại là chuyện khác. Chắc chắn thân xác chúng ta sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống hạnh phúc muôn đời hay bất hạnh ngàn thu là vấn đề chúng ta phải hết sức quan tâm, bởi vì kẻ lành, kẻ sống tốt lành thánh thiện cũng sống lại, và kẻ dữ, kẻ sống xấu xa tội lỗi cũng sống lại, nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, đó là điều khác biệt. Căn cứ vào đâu để Thiên Chúa thưởng hay phạt chúng ta? Căn cứ vào đời sống hiện nay của chúng ta, đời này quyết định số phận đời sau, như Chúa đã quả quyết: “Ai sống làm sao Ta sẽ trả cho như vậy”, “gieo thứ gì gặt thứ ấy”.

Lạy Chúa, cuộc sống này có là bao? Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Xin cho chúng con luôn nhớ mình sẽ phải chết để sống tốt, sống lành hầu xứng đáng đón nhận phần thưởng vĩnh phúc.

Về mục lục

.

SỐNG

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực

Càng bị đe dọa, sự sống càng vùng dậy mãnh liệt. Cái chết là một đe dọa lớn nhất và ghê sợ nhất. Muốn vươn đạt tới sự sống vĩnh hằng, con người phải có một sức mạnh hơn tử thần. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ta tới một cuộc sống trên cõi thiên thần.

HAI CUỘC SỐNG.

Cuộc sống rất tương đối. Sự sống thật hữu hạn. Thế nhưng niềm tin mở ra một chân trời mới. Thế giới đang tiến về một đỉnh cao dành cho “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết” (Lc 20,35) Sống trong thế giới đó, con người không còn bị lệ thuộc vào những điều kiện vật chất hữu hạn nữa. Tất cả đều “là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” (Lc 20,36) Một cuộc lột xác hoàn toàn sẽ đem lại cho nhân loại một sự sống mới chưa từng thấy.

Sự sống bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Bởi vậy, sự sống không thể thua sự chết, không thể bị tắc nghẽn vì những giới hạn tử thần. “Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (1 Cr 15,56-57) Nếu không có Đức Giêsu, chắc chắn tất cả nhân loại sẽ bị tử thần khuất phục. Đó là điều sỉ nhục đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã phục sinh để chứng minh Thiên Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,38) nhờ máu Đức Giêsu đổ ra trên thập giá. Chính niềm xác tín vào sự sống như thế đã cho ta có quyền hi vọng vào chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa, Đấng “đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp.” (2 Tx 2,16)

Nếu chỉ nhìn theo nhãn quan trần thế, không thể nào có được niềm an ủi và cậy trông đó. Nhóm Xađốc đã dựa trên hiện tại để củng cố “chủ trương không có sự sống lại.” (Lc 20,27) Họ hoàn toàn căn cứ vào tương quan hôn nhân để phi bác cả một thế giới thiêng liêng, nơi con người “không thể chết nữa, vì được ngang hàng với thiên thần.” (Lc 20,35) Chỉ trong cuộc sinh tồn đắp đổi này, con người mới cần đến hôn nhân để duy trì cuộc sống. Còn trong cõi vĩnh hằng, tại sao cần phải duy trì sự sống bằng những phương tiện của thế giới vật chất nữa? Hai thế giới khác nhau không thể dựa trên cùng một nền tảng. Lập luận của nhóm Xađốc hoàn toàn nằm ngoài qui luật thiên giới. Họ không thể vượt ra ngoài cõi tục để thấy được cuộc sống của con cái Thiên Chúa, vì họ không phải là con cái sự sống lại. Cuộc sống đó thật là mầu nhiệm và siêu việt, nhưng lại rất thực tiễn vì đáp ứng được niềm ước vọng bất tử của nhân loại và vào chính sự phục sinh của Đức Giêsu. Thật vậy, “nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không chỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em.” (1 Cr 15,13.16) Nếu niềm tin chúng ta hoàn toàn hão huyền, làm sao Kitô giáo lại có thể đem lại cho nhân loại một nền văn minh tốt đẹp như vậy? Thực tế, nhân loại đã được giải thoát khỏi xích xiềng tội lỗi nhờ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Bởi thế, không thể không có sự sống lại. Đó là niềm tin căn bản nhất và vững chắc nhất, chi phối toàn thể cuộc sống Kitô hữu.

Niềm tin đó đã bắt nguồn rất sâu xa trong Kinh thánh. Quả thế, “hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ” (2 Mcb 7,1) dưới thời vua Antiôkhô. Họ đã có tất cả sức mạnh chiến thắng tử thần nhờ “dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hi vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2 Mcb 7,14) Bao nhiêu cực hình đã không chiến thắng nổi niềm tin vững chắc và đầy quả cảm đó. Nếu “luật pháp của cha ông” (2 Mcb 7,8) đã khiến cho họ có sức mạnh lớn lao đến thế, thì “Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8,11) Thế nên, niềm tin vào sự sống lại được chính Ba Ngôi bảo đảm. Niềm tin đó đang trổ sinh những mùa màng tươi tốt trên toàn thế giới.

Như vậy Đức Giêsu đã dùng một lập luận vững chắc để phi bác niềm tin của phai Xađốc. Lập luận đó căn cứ trên thực tế cuộc sống thiên thần và qui chiếu vào Kinh thánh. Chính thực tại lớn lao là “Thiên Chúa của kẻ sống” đã đủ mạnh để áp đảo tất cả những lập luận bênh vực cho sự chết. Đối với Thiên Chúa, không có vấn đề chết. Vì tất cả đã được Đức Kitô trả lại sự sống mới bắt nguồn từ Thiên Chúa.

MỞ RỘNG TẦM NHÌN.

Không có sự sống mới đó, cuộc sống hiện tại sẽ trở thành nhàm chán và vô nghĩa. Nói khác sự sống lại không phải là sự nối tiếp cuộc sống hiện tại. Bởi vậy vấn đề các người Xađốc đặt ra hoàn toàn “trật dơ”. Sự sống lại khác tự bản chất, vì con người sẽ “ngang hàng với các thiên thần.” (Lc 20,36) Không có niềm hi vọng sống lại, không thể đủ nghị lực và phấn khởi vượt qua những thách đố phi lý của cuộc sống hiện tại. Trái lại, sự sống lại là động cơ thúc đẩy con người vươn tới những mục tiêu siêu việt.

Không mở rộng tầm nhìn, không thể thấy được tất cả ý nghĩa sự sống lại đem lại cho sự sống hôm nay. Sự sống hôm nay đang dẫn tới cái chết. Đó là một sự phi lý hoàn toàn. Nhưng sự sống lại giúp con người hiểu được tại sao mình sống và đang đi về đâu. Sự sống lại sẽ dẫn con người tới một sự thật: Thiên Chúa là “Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38) Nghĩa là, đối với các tín hữu, không gì, kể cả cái chết, có thể làm họ thất vọng. Những người không có niềm tin vào “Thiên Chúa của kẻ sống”, chỉ thích chọn giải pháp dễ dãi của tử thần. Chẳng hạn, những người chủ trương cho chết êm dịu, phá thai, triệt sản, khủng bố v.v hoàn toàn đóng khung tầm nhìn vào những giới hạn trần giới.

Bởi đấy, cần phải mở rộng tầm nhìn vào cõi sống của “con cái sự sống lại” để tìm một giải pháp toàn diện cho những bế tắc hôm nay. Nhưng đừng để bị những kẻ mơ mộng đánh lừa. Họ có thể nhân danh sự sống đời sau để đẩy con người vào cõi chết. Những kẻ khủng bố 11/9/2001 vừa qua cũng tin vào sự sống bất diệt nơi Thiên Chúa. Nhưng họ đã tạo ra bao đau thương cho chính mình và nhân loại. Có một sự mâu thuẫn giữa cuộc sống hiện tại và tương lai trong niềm tin của họ. Mặc dù có sự khác biệt sâu xa, nhưng niềm tin vào cõi bất tử không thể là một lối thoát cho những người tuyệt vọng như vậy.

Bởi đấy niềm tin vào sự sống lại chỉ chính đáng khi đem lại cho con người sức mạnh xây dựng cuộc sống hiện tại tốt đẹp hơn. Niềm tin đó đang là điểm tựa cho nhiều người trong cuộc chiến chống lại tử thần. Đó là lý do tại sao Kitô hữu không ngừng vận dụng mọi nỗ lực xây dựng nền văn minh sự sống, chống lại nền văn minh sự chết. Từ nay nhờ Đức Giêsu, trong văn minh sự sống Kitô hữu có thể đem lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại.

Tất cả đều “dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2 Mcb 7,14) Lời hứa đó thực sự đã được thực hiện trên thập giá Đức Giêsu. Chính Người “là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25) của chúng ta. Không có Người, tất cả sẽ trở thành vô nghĩa và vô giá trị, vì tất cả bị thần chết tiêu diệt. Nhưng nếu muốn thoát ách tử thần, Kitô hữu phải “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hi vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3,10) Thập giá là con đường dẫn tới sự sống và sự sống lại trong Đức Giêsu Kitô.

Về mục lục

.

MẦU NHIỆM SỰ SỐNG LẠI

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Niềm tin vào sự Phục sinh thân xác là điều mới mẻ và được lần hồi tin tưởng và khẳng định trong lịch sử dân Israel, nhất là vào giai đoạn muộn thời của thế kỷ II vào những năm 165 trước Chúa giáng sinh, trong cuộc chiến của anh em nhà Macabê chống lại những cuộc xâm lăng của nhà vua Hy lạp Antiôkhô Êpiphane. Bận tâm của những người do thái là Đền thờ và Lề luật, họ luôn nhắc nhở mọi người trung thành với Đền thờ và Lề luật là những yếu tố cốt lõi của đời sống tôn giáo của dân tộc của họ. Cuộc chiến đấu của anh em nhà Macabê là một cuộc chiến tranh dành độc lập cho dân tộc chống lại những người Hy lạp đến làm ô uế đền thờ và thay đổi phong tục thiêng liêng của người do thái. Họ quan niệm rằng cuộc chiến của họ vì đức tin và vì lề luật sẽ là hoàn cảnh giúp cho dân Chúa được ý thức nhiều hơn về lòng trung tín của mình đối với Thiên Chúa là Đấng trung tín, luôn có sự sống sung mãn sẽ ban tặng lại sự sống đời đời cho những ai tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa qua việc trung tín với lề luật và dám hy sinh mạng sống mình. Câu chuyện trích đoạn hôm nay nhắc lại cái chết tử đạo cao cả đẩm máu của người mẹ và bảy con trai của bà. Tất cả họ đều can đảm tuyên xưng niềm tin và lòng trung tín đối với lề luật chống lại quân vô đạo, bắt ép họ bỏ lề luật cha ông bằng cái chết của mình. Họ thà chết chứ không chấp nhận vâng theo lệnh vua mà từ bỏ lề luật. Họ đều tuyên xưng rằng dù có chết, nhưng Thiên Chúa là Đấng hằng sống sẽ ban lại cho họ sự sống đời sau bất diệt cao quí hơn nhiều sự sống đời này.

          Vào thời Chúa Giêsu, những người thuộc phái Sađuxê là những người rất bảo thủ. Họ luôn bám vào sách Ngũ thư, vẫn được gọi là sách Luật, để từ chối niềm tin vào sự sống lại đã được hình thành lần hồi qua trào lưu các tiên tri, nhất là vào thời cuộc chiến tranh của nhà Macabê vào khoảng những năm 165 trước Chúa giáng sinh. Những người Sađuxê biết rằng Chúa Giêsu, những người Pharisiêu và phần đông dân chúng tin vào sự phục sinh nên họ đặt ra một tình huống nan giải để chứng minh không thể có sự phục sinh. Có bảy anh em lần lượt cùng cưới một người đàn bà làm vợ, vậy nếu có sự sống lại thì bà sẽ là vợ của ai. Theo luật levirat vốn đã lỗi thời lúc đó, cho phép người em có thể cưới chị dâu khi người anh ruột qua đời mà không có con. Người con đầu lòng mà người chị dâu này sinh ra sẽ mang tên người anh đã quá cố và sẽ được xem như là con của người anh theo luật pháp. Theo quan niệm bình dân lúc bấy giờ, người ta vốn tin rằng những người chết sẽ sống lại vài giai đoạn trước thời kỳ của Đấng cứu thế, diễn ra trước phán xét chung. Những người chết sống lại sẽ sống một cuộc đời tiếp nối cuộc đời trần thế này, và họ sẽ tham dự vào cuộc phán xét chung. Chúa Giêsu giải thích chống lại những lối hiểu chật hẹp này, người điều chỉnh lại quan niệm này. Sự sống lại không phải chỉ là tiếp nối sự sống trần thế. Đây sẽ là sự sống giống như của các thiên thần, người ta sẽ không cưới vợ lấy chồng nữa. Đây sẽ là một sự tạo dựng mới, một sự biến đổi tận căn triệt để, được tham dự vào ánh sáng mới huy hoàng của Thiên Chúa, được tham dự vào vinh quang chói lòa, được gọi là con Thiên Chúa, và sự sống này chỉ dành cho những người công chính là những người được xét xứng đáng tham dự vào vinh quang  đời đời, trong khi đó những người tội lỗi thì không được tham dự vào sự sống này, nhưng họ sẽ phải bị chết tủi nhục muôn đời. Chúa Giêsu nhắc lại câu chuyện hiện ra với Môisen trong bụi gai bốc cháy: Thiên Chúa của Abraham, Isaác, Giacóp. Tương quan mà người ta có được với Thiên Chúa là một tương quan bền vững, không hề bị gián đoạn và Thiên Chúa luôn là Đấng thành tín với giao ước mà người đã thiết lập. Sự chết không làm đổ vỡ giao ước của Thiên Chúa với những người mà Thiên Chúa yêu thương và hằng đặt lòng tin tưởng cậy trông vào người.

          Mầu nhiệm phục sinh thân xác là điều mới mẻ mà Chúa Giêsu chỉ mới hé lộ phần nào. Người ta dễ có quan niệm hoặc là phủ nhận như người Sađuxêô, hoặc quan niệm đó sẽ là một sự tiếp nối của đời sống trần gian, với đời sống phái tính, vợ chồng và sinh con đẻ cái. Thật ra, khi khẳng định có sự sống lại, Chúa Giêsu không bảo đảm rằng những gì mà chúng ta đã xây dựng, đã có trên trần gian này sẽ được bảo đảm mãi mãi ở đời sống mai sau. Rồi thì chúng ta sẽ quay trở lại cuộc sống xinh đẹp khoẻ mạnh giống như chúng ta đang sống, gặp gỡ lại những người thân quen đầy đủ không thiếu một ai và sự sống lại chỉ đơn giản là hành động của Thiên Chúa bảo đảm cho mọi sự lại tiếp nối và những gì mà chúng ta đã biết như hiện nay vẫn cứ tiếp tục mãi như thế. Điều Chúa Giêsu hé mở phần nào cho chúng ta, đó là sự sống lại là một thế giới mới, hoàn toàn khác với những gì chúng ta hình dung. Chúng ta không cần phải có con cái để tiếp tục duy trì nòi giống, nhưng chúng ta sẽ cảm nghiệm sự sống chân thật  vĩnh cửu đầy vinh quang của Thiên Chúa, khi đó những tương quan giữa con người không còn chỉ là những tương quan thân xác như chúng ta vốn có trong đời sống con người mà sẽ là những tương quan tinh thần như là tương quan giữa các thiên thần. Nói chung, chúng ta được mời gọi chuẩn bị cho một thế giới mới, hoàn toàn khác với thế giới chúng ta đang sống. Sâu xa hơn nữa, chúng ta được mời gọi đón nhận và trải nghiệm điều này, đó là sự sống mới này bắt đầu từ bây giờ, trong đời sống hiện tại từ khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội  là đã bắt đầu đi vào tương quan với Chúa Giêsu, được đón nhận sự sống mới thần linh, và được không ngừng nuôi dưỡng trong đời sống này ngay từ cuộc đời hiện tại như chút men người đàn bà đã trộn vào đấu bột, như hạt cải bé nhỏ không ngừng lớn lên để trở thành một cây lớn mà chim trời đến đậu.

          Khẳng định mầu nhiệm Phục sinh dẫn chúng ta đến việc suy nghĩ về việc Chúa Giêsu sẽ trở lại lần thứ hai. Việc Chúa trở lại không phải để làm cho chúng ta lo sợ mà để chuẩn bị chúng ta. Người đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết, sự phán xét này sẽ xác định xem chúng ta có được phúc tham dự sự sống đời đời hay phải chịu tủi nhục muôn đời. Phúc cho chúng ta đó là được nhắc nhở để rồi biết chuẩn bị xứng đáng và những chọn lựa trong đời sống hằng ngày mà chúng ta bắt đầu thực hiện sẽ quyết định cho sự phán xét sau này khi Chúa trở lại.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Thiên đàng theo ý con người

Không có một tôn giáo nào mô tả Thiên Đàng là một khu vườn với những lạc thú vật chất và nhất là những lạc thú nhục dục tuyệt đỉnh với những cô gái trinh đẹp tuyệt vời và trẻ mãi không già… như trong kinh Koran. Người ta gọi Thiên Đàng của Hồi Giáo là Thiên Đàng của lạc thú (The Paradise of Delights) hoặc Thiên Đàng của Kinh Koran (The Koranic Paradise).

Kinh Koran (47:15) cho biết trên thiên đàng có những con sông với những dòng nước nguyên chất (rivers of purest water) những con sông sữa tươi không bao giờ hư (rivers of milk for ever fresh) và những con sông mật ong trong sạch nhất (rivers of clearest honey). Chương 56:16-39 mô tả thiên đàng là những khu vườn lạc thú (garden of delights) và mọi người lên thiên đàng đều trở thành những thanh niên trẻ mãi không già (Immortal Youth). Điều đặc biệt nhất là trên thiên đàng Hồi Giáo có các cô gái trinh đẹp tuyệt vời với những cặp mắt đen huyền vô cùng quyến rũ (the dark-eye houris).

Thiên Chúa Allah đã phán rằng: “Ta đã tạo ra các cô trinh nữ tuyệt vời đó, giữ cho họ mãi mãi trinh trắng với tình yêu nồng nàn để làm phần thưởng cho những ai làm việc phải” (We created the hourist and made them virgins, loving compassion, a reward for those on the right hand – Koran: surah 56).

Hầu hết các thanh niên Hồi Giáo cuồng tín đều ước mơ sớm được lên thiên đàng lạc thú. Con đường ngắn nhất và bảo đảm nhất để họ đạt được mục đích này là sẵn sàng tử đạo trong các cuộc thánh chiến (Jihad). Kinh Koran hứa rằng: “Những ai bị giết vì Chúa đều được vào thiên đàng lạc thú” (As for those who are slain in the cause of God, He will admit them to the Paradise of Delight). “Đừng bao giờ nghĩ rằng những người bị giết vì Chúa sẽ chết. Họ sẽ sống mãi, không có gì phải sợ hãi hoặc hối hận, hãy vui hưởng các hồng ân của Chúa. Chúa không bao giờ từ chối phần thưởng dành cho các tín đồ của Ngài” (Never think that those who were slain in the cause of God are dead. They are alive and well provided for by the Lord. Have nothing to fear or to regret, rejoicing in God’s grace. God will not deny the faithful their reward – Koran 3:169). (Internet)

Ở Trung Quốc, khi người ta khai quật những phần mộ cổ xưa, đặc biệt hạng người giàu có, và vua chúa, người ta khám phá nhiều thứ đồ mang theo để phục vụ cho “cuộc sống mai sau” được sung túc như cuộc sống trần gian họ từng được hưởng. Tần Thủy Hoàng là một thí dụ. Năm 1974, người ta bắt đầu khai quật và khám phá hàng ngàn tượng lính đất nung trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Theo tài liệu sử học Trung Quốc và những truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi, nó giống như một phần bản đồ thành phố với những bức tường, cung điện, nghĩa trang, tức là có thể phục vụ Tần Thủy Hoàng khi ông sang thế giới bên kia.

Ở Việt Nam, cũng có tục lệ đốt “hàng mã”. Hàng mã gồm đủ loại, từ nhà lầu, xe hơi, xe Honda, đến quần áo, tiền bạc, để người chết dùng khi về cõi âm phủ.

Hóa ra, hạnh phúc trên Thiên Đàng, trong cõi vĩnh hằng, cũng tầm thường, nhàm chán đến thế sao? Và chính cái tầm thường, nhàm chán, chóng qua ấy, lại chính là sự cản trở bước tiến con người, cản trở sự vươn cao, sự thăng hoa của con người. Hạnh phúc của cuộc sống sau khi chết cũng không khác gì cuộc sống trần thế, nên phải thụ hưởng những gì ta đang có trên cõi đời này, cần gì tin những hứa hẹn xa xôi về hạnh phúc mà mình sẽ có.

Những thứ hạnh phúc giới hạn phù phiếm kiểu trần gian ấy rồi cũng dẫn đến những giới hạn của cuộc sống, những ngang trái, u sầu, những khát vọng vô tận không thể đáp ứng được…

Tình huống người vợ có bảy đời chồng mà nhóm Xa-đốc đặt ra thật khó xử nếu con người sống lại và “cuộc sống trần gian” lập lại ở… bên kia thế giới! Khi đưa ra trường hợp này, phái Xa-đốc thật có lý khi nhìn thấy bao điều rắc rối của cuộc sống sau khi con người sống lại và nếu cuộc sống “kiếp sau” này giống hệt đời người đã đi qua. Và như thế, con người phải giải quyết những gì cuộc sống trần gian còn dang dở.

Thực tế, câu chuyện mà nhóm Xa-đốc đưa ra chỉ là một trong muôn thứ vấn đề rắc rối khó giải quyết khi con người từ cõi chết sống lại và tiếp tục sống như chưa từng chết. Hãy thử tưởng tượng còn biết bao nhiêu chuyện ngang trái, biết bao nhiêu nghịch cảnh, biết bao chuyện trắng đen, con người sẽ giải quyết ra sau khi con người sống lại.

Thật, nhóm Xa-đốc cũng có lý của họ khi dựa vào đó để bảo vệ lập trường của mình. Vì họ không tìm thấy câu giải đáp cho vấn đề.

Sở dĩ họ không thể tìm thấy câu giải đáp, vì họ quan niệm sự sống lại – cõi vĩnh hằng – hay vào Thiên Đàng – không khác gì cuộc đời trần thế. Con người sau khi sống lại, vẫn là con người của ngày nào khi còn sống ở trần gian!

Thế thì, bản thân con người, sự sống lại đó có khác gì sự thức dậy từ một giấc ngủ? Và cuộc sống sau khi chết, có khác gì thay đổi một chỗ định cư?

Thiên đàng theo thánh ý Chúa.

Sự sống lại.

Cuộc hành trình của con người là một cuộc hành trình lột xác, không ngừng thay đổi và lớn lên trong Thánh Thần.

Con người phải nhận ra những tội lỗi thấp hèn của mình và sống trong tình yêu của Thiên Chúa. – Sống trong tình yêu Thiên Chúa, là sự sống lại trong Đức Giêsu Kitô. “Khi còn nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chổ chết. Nhưng giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc sự sống đời đời. Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Kitô, Chúa chúng ta”. (Rm.6,20-23).

Chính nhờ sự sống trong Đức Kitô, con người được thanh sạch, trong trắng. Sự sống lại ấy làm con người trở nên như thiên thần. Cuộc sống của một con người mới trong một thế giới mới.

“Phép rửa nay đã cứu thoát anh em. Nhờ phép rửa này, không phải là anh em được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cầu xin Thiên Chúa ban cho mình một lương tâm trong trắng, nhờ Đức Kitô phục sinh, Đấng đã lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (1Pr.3,21-22).

Thế giới vĩnh hằng

Thiên Chúa ban sự sống cho mọi loài thụ tạo. Và sự sống bởi Ngài mà có. Ngài yêu thương sự sống mà Ngài tạo dựng ra.

Do đó, Ngài không bao giờ hủy diệt sự sống, điều mà Ngài đã tạo dựng và Ngài thấy tốt lành. “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”(Lc.20,28).

Thế giới vĩnh hằng không phải là thế giới trần gian kéo dài để tiếp nhận con người từ cõi chết sống lại. Cõi Vĩnh Hằng là một thế giới hoàn toàn mới với hạnh phúc vô biên vượt qua thứ hạnh phúc dục vọng phàm phu của kiếp người trần thế. Thế giới ấy là “Trời mới Đất mới” mà những con người đã được thanh luyện và sống lại trong Đức Kitô mới hiểu được và vào được. “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm đến đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh. 21,1-4).

Những điều cũ đã biến mất, nên không có sự tồn tại của câu chuyện “người đàn bà có bảy đời chồng” hay những “chuyện cũ” tương tự. Tất cả đã trở nên tinh tuyền trong Đức Kitô. Và tất cả chỉ còn là niềm hạnh phúc vô tận trong Tình Yêu Thiên Chúa. “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”. (Kh.7,14).

Nếu con người vẫn còn mê ngủ trong những cuộc vui hưởng thụ trần thế, họ sẽ dừng lại hạnh phúc đời người ở giới hạn đó. Nếu con người không vươn cao lên, con người không thể nào hiểu được thế nào là sống lại và thế nào là hạnh phúc trong Đức Kitô. Không thể nào hiểu được thì không thể nào tin được con người sẽ sống lại, như những người thuộc nhóm Xa-đốc. Vì, mọi sự chỉ sáng tỏ trong ánh sáng Đức Kitô. Và Nước Trời chỉ thuộc về những ai Ngài tuyển chọn. “Kìa đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhàn lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’”. (Kh.7,9-10).

Thực tế, con người ngày nay với những bước tiến khoa học, đã vươn ra rất xa. Vươn xa đến tận cuối chân trời, vươn xa vào vũ trụ mênh mông, nhưng con người đã không vươn cao được, ngược lại con người còn tuột dốc. Những giá trị đạo đức của con người ngày nay thu hẹp lại, còn những điều phi nhân phi nghĩa thì phình to ra. Con người vươn rộng chiều ngang nhưng lại thu ngắn chiều cao. Tâm hồn của con người cạn dần sức sống thiêng liêng và những giá trị nhất thời thay thế dần những giá trị cao siêu bền vững.

Thật sự, sống lại, phải được hiểu là sự sống lại trọn vẹn xác hồn. Sống dồi dào. Sống hạnh phúc. Và như thế, không có sự sống lại và không có thiên đường trong những con tim không có tình yêu Thiên Chúa ngự trị.

Lạy Chúa,

Xin cho con từng ngày luôn tỉnh thức, từng ngày đổi mới, từng ngày sống lại, trong tình yêu Chúa. Amen.

Về mục lục

.

SỰ SỐNG ĐỜI SAU SẼ NHƯ THẾ NÀO?

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Kính thưa quý OBACE

Gần đây từ Miền Bắc đến Miền Nam, xuất hiện nhiều người tự xưng mình là những “nhà ngoại cảm” có khả năng tiếp xúc với vong hồn, cõi âm, cũng từ đó rộ lên phong trào tìm hài cốt người thân. Không chỉ như thế, nhiều nhà ngoại cảm đã biến mình trở thành những thứ thày bói, thày thuốc, chữa bệnh và bói bệnh cho nhiều người, chữa bệnh bằng cách đào nhà để tìm cốt. Trong số này có cả một vài linh mục tu sĩ biến mình trở thành ông thày bà cốt. Có một thời gian Bộ Thương Binh Xã hội cũng cậy nhờ những người này để truy tìm hài cốt các liệt sĩ, tuy nhiên một vài tuần gần đây báo đài đồng loại đưa tin và lật tẩy cảc chiêu lừa của các nhà ngoại cảm này. Qua xét nghiệm ADN, thì đa số đều không chính xác, có khi là xương hoặc răng thú vật. Điều này đang khiến dân chúng hoang mang nửa tin nửa ngờ. Việc bốc cốt tìm cốt này nó không chỉ tác động trên đời sống người dân, mà nó còn tác động trên đời sống đức tin của nhiều tín hữu, và điều nguy hiểm hơn nữa là nó đang làm sai lệch giáo lý của Giáo Hội Công Giáo về Bốn Sự Sau: Sự chết, Phán xét, Thiên Đàng và Hỏa ngục.

Cho đến hiện nay thì cả những người xưng mình là vô thần, cũng không thể phủ nhận được niềm tin linh hồn bất tử và sự hiện hữu của một cuộc sống sau khi chết. Trước đây, có một thời những người duy vật, vô thần cực đoan đã phủ nhận Thiên Chúa và tất cả các thực tại thiêng liêng, và họ cho rằng con người chỉ là vật chất, chết là hết. Thế nhưng ngày nay trong thực tế, chính những người này lại đang tin vào thế giới vô hình, thế giới của các linh hồn, và tin rằng thế giới ấy đang ảnh hưởng trên thế giới trên cuộc sống hiện tại và còn ảnh hưởng trên tương lai sự nghiệp của họ. Chính vì vậy mà họ cúng bái, tin kiêng, yểm bùa và không dám xúc phạm đến xác chết, đến mồ mả của người chết.

Quả thực nếu chết là hết theo quan niệm của những người chủ trương duy vật vô thần, thì con người không khác chi con vật. Nếu con người không có linh hồn, thì cái chết của con người cũng không khác chi cái chết của con chó, và người ta cũng không cần thắp nhang tôn kính người qua đời. Niềm tin tôn giáo chỉ cho chúng ta biết rằng, con người có xác có hồn. Đặc biệt đức tin Kitô Giáo còn cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng: Cái chết chỉ là một giai đoạn tạm thời, là giai đoạn chờ đợi, rồi tất cả chúng ta sẽ có ngày sống lại khi Đức Kitô trở lại.

Niềm tin kẻ chết sống lại là một niềm tin đã có từ lâu nơi các dân tộc, đặc biệt nơi những người Do Thái. Họ tin rằng những ai trung thành với lề luật của Thiên Chúa, thì sẽ được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Câu chuyện trong sách Macabê cho thấy những người Do Thái đã kiên cường với đức tin của cha ông, chấp nhận mọi đau khổ cực hình, can đảm chấp nhận cái chết, vì tin tưởng và hy vọng, Thiên Chúa sẽ trả lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn. Câu chuyện sách Macabê thuật lại có bảy anh em cùng chịu chết một cách đau đớn nhưg họ không sợ hãi vì tất cả họ tin rằng sau một giây lát chịu cực hình họ sẽ được gặp lại Thiên Chúa, và vì thế họ thà chịu chết chứ không chịu lỗi luật của thiên Chúa.

Trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xứng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Niềm tin vào sự sống lại đời sau vẫn là một thách thức đối với nhiều người, khiến họ không dễ gì chấp nhận. Thời Chúa Giêsu cũng có một nhóm người thuộc phải Xadốc không chấp nhận niềm tin này, nên họ mới đặt vấn đề với Chúa Giêsu: Có một người cưới bảy anh em trai, mà cuối cùng chết đi không ai có con, thì sau này nếu như sống lại người ấy là vợ của ai trong số họ? Nhân cuộc tranh luận này, Chúa Giêsu sửa lại lối suy nghĩ của họ về cuộc sống đời sau, vì họ nghĩ rằng cuộc sống đời sau hoàn toàn giống như cuộc sống tại thế, cũng dựng vợ gả chồng, cũng xây nhà cửa, cũng có của cải vật chất…, Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cuộc sống đời sau trổi vượt hơn hẳn cuộc sống đời này và hoàn toàn khác với cuộc sống đời này. Cuộc sống mai sau là cuộc sống không còn đau khổ chết chóc, không còn dựng vợ gả chồng, không còn tìm thú vui thể xác nữa, mà trái lại mọi người sống siêu thoát, sống hạnh phúc trong thế giới của Thiên Chúa giống như các thần linh, và họ hạnh phúc vì được ở cùng Thiên Chúa. Hạnh phúc ở đời sau mới là hạnh phúc đích thật của con người và là niềm khao khát của mọi người, khao khát được trở nên như thần linh, được gặp gỡ Thiên Chúa là cội nguồn cuộc đời của mình,

Cũng trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu cho thấy, Thiên Chúa dựng nên con người vì yêu thương và Ngài muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc mãi mãi, và vì thế, Ngài đã “thổi hơi” thở thần linh của Ngài cho con người, hơi thở ấy chính là sức sống của Thiên Chúa được thông chia cho con người, ban tặng cho con người. Chính vì thế, những ai thuộc về Thiên Chúa, giữ gìn mối dây sự sống với Thiên Chúa thì sẽ không bị hủy diệt. Thiên Chúa mãi là Thiên Chúa của kẻ sống, và các tổ phụ như Apraham, Isaac, Giacop, hay tất cả mỗi chúng ta, là những người đón nhận sự sống từ Thiên Chúa họ vẫn đang sống, song vì sự hiện diện của họ khác chúng ta nên chúng ta không nhìn thấy họ, nhưng họ vẫn đang nhìn thấy chúng ta.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tin một cách chắc chắn rằng, chúng ta sẽ không bị hủy diệt vĩnh viễn, nhưng nhờ kiên trì theo Chúa ở thế gian này, chúng ta sẽ được sống mãi mãi bên Chúa, và ngày sau hết chúng ta sẽ từ bụi đất sống lại. Đồng thời xin cho chúng ta biết thể hiện niềm tin vào cuộc sống mai sau bằng cách ngay từ hôm nay sống tốt và sống đầy tràn tình yêu thương mỗi ngày, vì chúng ta chỉ có thể sống trong vương quốc của tình yêu thương khi hôm nay chúng ta biết yêu thương, và nhờ đời sống của mỗi tín hữu chúng ta làm chứng cho mọi người về niềm tin vào sự sống mai sau của chúng ta.

Thưa quý OBACE, chính vì muốn biết sự sống bên kia cái chết sẽ như thế nào nên con người từ cổ tới kim vẫn đang cố gắng để giải thích và diễn tả cuộc sống ấy, có điều là nhiều người đã không tin và không dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa, mà muốn tự mình hoặc là cho mình có khả năng để biết và tiếp xúc được với thế giới ấy. Những câu chuyện về ma quỷ là những câu chuyện hấp dẫn và được thêm bởi nhiều tình tiết cho ly kỳ và gợi lên sự tò mò cho nhiều người, đặc biệt gần đây những câu chuyện về vong hồn dường như đang có sức ảnh hưởng đến nhiều người.

Là kitô hữu, chúng ta tin rằng tất cả những ai trung thành với giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống công chính thánh thiện, thì sau khi chết họ sẽ được vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa, sống hạnh phúc đời đời, còn nhưng ai chưa xứng đáng thì phải trải qua một thời gian thanh luyện để nên xứng đáng hơn. Còn những người khi sống đã quyết liệt từ chối Đức Kitô và ân sủng của Ngài thì sau khi chết họ sẽ không được gặp Đức Kitô, không được bước vào nhà của Ngài, mà phải rơi vào nơi đầy hận thù, thất vọng và chết chóc. Như thế, thì sẽ không thể có những linh hồn đi lang thang, và cũng không ai có thể nói chuyện được với vong hồn, vì hai thế giới hoàn toàn khác nhau.

Chúng ta đừng quên rằng, ma quỷ là tên luôn gieo sự nghi ngờ, ngay từ đầu, nó đã gieo nghi ngờ cho Adam – Eva, và đến nay nó tìm mọi cách quấy phá và làm lung lạc đức tin của chúng ta. Nó có thể mượn các hình thức của vong hồn, mượn miệng của người sống để nói về đủ điều, kể cả những điều tốt lành, hoặc những điều ghê sợ để gieo vào trong chúng ta sự nghi ngờ về sự hiện diện, và quyền năng của Thiên Chúa, và khuyến khích chúng ta tin vào quyền năng và sự ly kỳ của nó, cuối cùng là chạy theo nó.

Chúng ta cũng cần nhớ rằng, ma quỷ nó không cám dỗ chúng ta ngay một lúc, nhưng nó dùng các câu chuyện được thêu dệt và truyền miệng từ người này qua người khác để dần dần đánh gục đức tin của chúng ta, nó dùng các hình thức bói toán gọi hồn, để khiến chúng ta tin vào các ông thày bà thày mỗi khi gặp khó khăn hay bệnh tật, khiến cho người tin hữu đánh mất thói quen cầu nguyện, và sống phó thác, không còn muốn lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa nữa. Trong thư thánh Phêrô, đã có lần chia sẻ: Ma quỷ thù địch của anh em, nó như sư tử rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự.

Dựa vào lời Thánh Phaolô hôm nay, để chúng ta cầu xin Đức Giêsu Kitô và xin Thiên Chúa Cha của Ngài luôn gìn giữ và bảo vệ chúng ta, xin Ngài làm cho tâm hồn chúng ta nên vững mạnh sống với niềm hy vọng phục sinh và xin đừng để chúng ta sa chứơc cám dỗ của ma quỷ. Amen.

Về mục lục

MỘT TƯƠNG LAI ĐẸP

Lm. Jos DĐH.

Sau cơn mưa, trời sáng ; sau đêm đen, bình minh ló dạng, đó là quy trình vạn vật vũ trụ phát đi tín hiệu ấm áp tình, lan toả khắp muôn phương. Nhờ tai mắt tinh thông, người ta nghe, nhìn, và có khả năng đoán biết được nhiều “hoạ-phúc” đang xảy đến. Phải chăng, suy bụng ta ra bụng người, có quan sát điềm trời để biết người biết ta, hầu rút kinh nghiệm cho tương quan tha nhân tốt đẹp, cuộc sống ý nghĩa hơn, đó là một nghệ thuật mỗi người cần trang bị ? Triết lý ở đời cho rằng: trời nào có phụ ai đâu, hay làm thì giầu, có chí thì nên. Muốn có một gia đình hạnh phúc người ta phải đầu tư, muốn có một tâm hồn thanh thản, người ta phải “gieo điều lành”. Muốn nghe nhìn và gặt hái quả ngọt trái thơm ở tương lai, ai cũng phải ý thức chung tay xây dựng một gia đình hiện tại ngay lúc này chan hoà tình yêu thương.

Được sinh ra làm người là vinh dự, một khởi đầu xuôi thuận rồi, tiếp đến: tự do, chọn lựa, ý chí quyết định, của mỗi người sẽ hình thành và góp phần làm nên một xã hội có tâm, có tầm hạnh phúc. Muốn biết phải hỏi, muốn giỏi phải học ; đi một ngày đàng, học một sàng khôn. Thắc mắc mong được giải thích, được hiểu, khác với thắc mắc để bảo vệ cho lập trường sai lạc của mình: chết là hết ! Không hiểu đằng sau sự chết là gì, không biết sau khi từ giã cõi đời này, mỗi người sẽ ra sao, vẫn mãi là điều bí mật nơi vũ trụ vạn vật này. Quan trọng là người ta tin như thế nào về vấn đề chết và sống ? Đức Giêsu đã thẳng thắn trả lời cho đám đông, cho chúng ta: “con cái đời này cưới vợ lấy chồng, nhưng những ai xét đáng được phúc là sống lại đời sau thì không lấy vợ lấy chồng nữa. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì họ sẽ ngang hàng với các thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa, là con cái sự sống”.

Ngày hôm nay, không phải chỉ có người kitô hữu chúng ta chủ trương: ở hiền gặp lành, đại đa số các đấng bậc sinh thành đều ý thức phải sống lời răn dạy của tiền nhân: cha mẹ hiền lành để đức cho con. Ngày hôm nay, quan niệm: sống lành chết lành, bảo bệ môi trường, bảo vệ sự sống, bác ái từ thiện, các phần cơm miễn phí, tất cả mọi người giầu nghèo không phân biệt lương giáo, đang cùng chung tay xây dựng tình người theo lẽ sống: công bằng yêu thương. Cũng vì tình yêu, vì kinh nghiệm, và vì muốn chia sẻ để con cháu sống ý nghĩa ở hiện tại và hướng đến điều tốt đẹp trong tương lai. Các hiền nhân nói rằng: miệng ít nói tự nhiên ít hoạ, bụng dạ ít ăn, tự nhiên ít bệnh, trong lòng ít muốn, tự nhiên ít lo, thân mình ít sự, tự nhiên ít khổ. (Khổng Minh). Chắc không phải tự nhiên mà phái Xa-đốc tranh luận với Đức Giêsu về sự sống lại, cũng không phải do tình cờ mà Đức Giêsu trưng dẫn đoạn thánh kinh khi ông Môi-sê gọi “Thiên Chúa là Chúa của các tổ phụ: Abraham, Isa-ác, Gia-cóp, và Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống”.

Đức Giêsu không lý sự dài dòng với những ai tự mãn kiêu căng, Ngài vẫn muốn vắn gọn với tất cả những ai tin và theo Ngài: “Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”. Chính vì đang sống, nên hiện tại Thiên Chúa cho mỗi người được tự do để trở thành người tốt, tự do để học biết suy nghĩ đúng và hành động đẹp, tự do để đủ cảm nhận đằng sau sự chết ở trần gian không phải là chấm hết. Một cuộc sống an vui hạnh phúc, luôn khởi đi từ gia đình, một tâm hồn bình an là một tâm hồn được nuôi dạy, được học hỏi và ý thức sống quảng đại yêu thương. Muốn có tương lai tốt đẹp, thì hiện tại phải đầu tư, muốn: con hơn cha, nhà có phúc, là sự thực, bậc cha mẹ phải hy sinh, phải chịu vất vả, quan tâm giáo dục con cháu. Kinh nghiệm của tiền nhân để lại: người ta không gieo trồng tri thức khi còn trẻ, nó sẽ không cho ta bóng râm khi về già.

Một tương lai đẹp, một cuộc đời an vui hạnh phúc, cũng là một hiền tài đức độ đang góp phần sống động cho hiện tại và thế giới muôn phương. Vì tinh thần dân tộc, vì ơn gọi sống mãi trong tình yêu Thiên Chúa, người theo Đức Kitô không phải chỉ lưu danh hậu thế, cũng không chú trọng dưỡng nuôi linh hồn, loại bỏ thân xác hư hèn. Thiên Chúa là Chúa của kẻ sống, Thiên Chúa đến trần gian cứu độ vạn vật vũ trụ, cứu cả người tội lỗi thánh thiện, cứu cả thân xác hay chết của mỗi người. Một tâm hồn tốt lành thánh đức, phải là một một tâm hồn được thao luyện, phải là một tâm hồn được Đức Kitô biến đổi mỗi ngày một nên toàn vẹn xứng hợp tình yêu Chúa. Để có một tương lai tốt đẹp, để thấy quê hương sống động trong tình yêu thương, trong Nước Trời hạnh phúc, Thiên Chúa qua các bậc sinh thành vẫn đang nhắc nhớ con cháu: khuyên ai ăn ở cho lành, kiếp này chưa gặp để dành kiếp sau. Xin tình yêu Đức Kitô giúp mỗi người chúng con biết tự tin, vì chúng con chính là những phần tử sống động của Thiên Chúa, là Chúa sự sống hôm nay và mai sau. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG CHỨ KHÔNG PHẢI CHẾT

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Con người sinh ra để sống chứ không phải để chết! Thế nhưng, con người đang sống lại đang tìm về cái chết, do chính ích kỷ, tư lợi. Sống mà không tin rằng sẽ sống đời đời, đó là cái sống phung phá chính mình và thiên nhiên. Sống cần biết rằng sự sống tiếp tục luôn mãi mới quý trọng sự sống đang có.

Chúa Giêsu mạc khải về sự sống muôn đời bất diệt là để mời gọi con người vào tham dự vào vinh phúc của Thiên Chúa.

Mở rộng tâm hồn để sống.

Con người được dựng nên với người khác, cho người khác và vì người khác, như vẫn thường nói: “Không ai là một ốc đảo”. Cũng thế, con người không chỉ sống cô độc giữa sa mạc mênh mông, con người được sống với thiên nhiên, với rừng xanh, với những thác nguồn, sông suối, thảo mộc và động vật các loại. Khi sáng tạo ban đầu Chúa đã đặt con người vào giữa thiên nhiên ấy để sống phong phú, dồi dào sinh lực.

Khi con người chiếm hữu, bắt đầu con người tự kết thúc đời mình bằng những ghen ghét, ăn thua, thù oán, giàu nghèo cách biệt xa thêm mãi. Với thiên nhiên, con người tham lam vơ vét tài nguyên, thoả mãn cá nhân. Càng thu vén cá nhân càng dẫn vào diệt vong, thiên nhiên cũng chết ngạt trong sự tham lam của con người. Con người vơ vét cho cá nhân, càng cảm thấy cuộc sống dường như vô nghĩa, cuộc sống khốn nạn nhiều hơn hạnh phúc, và từ ấy ru ngủ mình bằng những thú vui hoang dã, lấp đầy cuộc sống bằng những vật chất. Khi đánh mất linh hồn con người chỉ còn thể xác chết thối.

Con người tham lam chiếm hữu cũng đánh mất một niềm vui sống với người khác và với thiên nhiên. Đông Phương luôn ý thức hạnh phúc mỗi người gắn liền với hạnh phúc của toàn thể: Con người với nhau và với thiên nhiên. Khi con người cắt đứt với toàn thể, con người tự nhốt mình trong sự giam hãm của nhà tù ích kỷ, giết chết căn rễ sâu xa của con người xuất phát từ thần linh. Có thể thấy những triết thuyết đề cao vật chất đã giết chết tinh thần và tâm linh.

Sự Sống đời đời con người tìm kiếm

“Tôi sẽ luôn luôn đuổi xua khỏi tâm hồn mọi ác ý sâu xa và vun trồng cho tình yêu trong mình bừng nở, vì hiểu người đã ngự trị từ lâu trong sâu thẳm tim tôi.” (Lời Dâng, bài số 4, R. Tagore). Niềm vui cuộc sống chỉ tồn tại khi con người nhận ra sức sống thần linh đang cuốn hút con người đi tới. Một thế giới bất diệt không có trong thế giới vật chất này! Thế nên, khi đi tìm sự bất diệt trong cõi tạm này, con người thấy hụt hẫng: “Cộng niên tuế ước chừng bảy chục, khỏe lắm chăng cũng được bát tuần. Hầu trọn kiếp chỉ là lao đao khốn khó, vì năm tháng sầm sập qua đi và chúng tôi vụt mất!” (Tv 90 10).

Ngay cả trước cái chết, niềm vui sống vĩnh cửu xoá tan mọi lo âu, sợ hãi, hân hoan vui bước vào nơi an nghỉ. Trong tâm hồn người tình cuộc đời, thi sỹ của tình yêu đã thấy khung trời rộng mở: “Kính lạy người lần cuối, xin cho giác quan tôi trải rộng, tiếp xúc thế giới dưới chân người” (Lời Dâng, bài 103, R. Tagore)

Có lẽ thướng thấy hơn, khi con người tập chết đi trong cái tôi mỗi ngày, để sống yêu thương hơn, gắn bó hơn với cuộc sống. Niềm vui dấn thân đi tới, sống với anh chị em, sống cho anh chị em và vì anh chị em. Tính năng động của sự sống càng gia tăng, nghịch lại với cái tôi ích kỷ đang chết dần đi. “Thượng Đế, đây lời tôi cầu nguyện: Xin tận diệt, tận diệt trong tim tôi mọi biển lận tầm thường. Xin cho tôi sức mạnh thản nhiên để gánh chịu mọi buồn vui. Xin cho tôi sức mạnh hiên ngang để đem tình yêu gánh vác việc đời. Xin cho tôi sức mạnh ngoan cường để chẳng bao giờ khinh rẻ người nghèo khó hay cúi đầu khuất phục ngạo mạn, đầy quyền uy. Xin cho tôi sức mạnh dẻo dai để nâng tâm hồn vươn lên khỏi ti tiện hằng ngày Và cho tôi sức mạnh tràn trề để âu yếm dâng mình theo ý người muốn.” (Lời Dâng, bài số 36, R. Tagore)

Xin Chúa Thánh Thần đốt cháy đi những cản trở của niềm vui sống trong Chúa, nơi cuộc đời chúng con!

Niềm vui bất tận ấy là tiếng gọi của thần linh, của Thiên Chúa: “Lòng nhiệt thành nhà Chúa thiêu đốt cuộc đời tôi” (Ga 2, 17). Vươn tới và vui sống mỗi ngày vì không chỉ sống cho mình mà còn cho anh chị em mình. Không chỉ sống thực tại trần thế mà còn sống vì thực tại Nước Trời. Không chỉ sống với Thiên Chúa mà còn được sống trong Thiên Chúa.

Thiên Chúa của sự sống chứ không phải là sự chết, trong lời loan báo đó, con người được mời gọi: “Tất cả mọi người đều đang sống” (Lc 20, 38).

Sống trong niềm vui và hân hoan trong Chúa Thánh Thần!

Về mục lục

.

SỰ SỐNG LẠI VÀ HÔN NHÂN Ở ĐỜI SAU

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

1- Vấn nạn về sự sống mai hậu

Gần cuối năm phụng vụ, chủ đề chính mà Lời Chúa hôm nay muốn giới thiệu là sự sống lại, hướng chúng ta tới cuộc sống mai sau. Đây là chủ đề được con người mọi thời quan tâm, cả những người Do Thái vào thời Chúa Giêsu và cả chúng ta hôm nay. Trong bài Tin Mừng, khi trả lời câu hỏi mà những người Xađốc đặt ra để gài bẫy Chúa Giêsu về người đàn bà có bảy người chồng. Trước hết Chúa Giêsu tái khẳng định rằng có sự sống lại ở đời sau, đồng thời Người điều chỉnh quan niệm méo mó duy vật và thực dụng của phái Xađốc về sự sống lại mai hậu.

Quả thế, hạnh phúc đời sau không phải là sự gia tăng niềm vui trần thế hay là kéo dài sự sống trần thế. Đời sống mai hậu là một đời sống hoàn toàn khác, có một phẩm chất khác như Chúa Giêsu quả quyết: “Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần” (Lc 20,35-36).

Ở cuối bài Tin Mừng, Chúa Giêsu giải thích lý do tại sao có sự sống lại sau khi chết khi nói rằng: “Còn về vấn đề kẻ chết trỗi dậy, thì chính ông Môsê cũng đã cho thấy Thiên Chúa của tổ phụ Ápbraham, Thiên Chúa của tổ phụ Ixaác và Thiên Chúa của tổ phụ Giacóp. Mà Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,37-38). Vậy đâu là nền tảng của sự sống lại? Nếu Thiên Chúa được định nghĩa là Thiên Chúa của Ápbraham, Ixaác và Giacóp và là Thiên Chúa của sự sống, chứ không phải của sự chết, thì điều này có nghĩa là các tổ phụ Ápbraham, Ixaác và Giacóp vẫn còn sống ở bên Thiên Chúa, dầu họ đã chết hàng thế kỷ rồi so với lúc mà Thiên Chúa nói với Môsê. Như thế, Thiên Chúa của sự sống là nền tảng cho niềm tin vào sự sống lại của con người. Người là Đấng hằng sống và Người không muốn con người phải chết, nhưng được sống mãi. Việc Thiên Chúa đã sai Con Một làm người, chịu tử nạn và phục sinh vinh hiển để giải thoát con người khỏi chết và cho họ được sống mãi trong Thiên Chúa là bằng chứng hùng hồn cho sự sống lại mai sau.

2- Vấn nạn về hôn nhân sau khi chết

Một số người giải thích cách sai lầm câu trả lời của Chúa Giêsu cho phái Xađốc, nên đã quả quyết rằng: hôn nhân gia đình sẽ không còn tiếp tục ở trên thiên đàng. Nhưng trong câu trả lời này, Chúa Giêsu bác bỏ quan niệm méo mó mà những người Xađốc trình bày về đời sau, một quan niệm cho rằng thiên đàng đơn thuần là một sự tiếp tục tương quan vợ chồng ở trần gian. Đồng thời Chúa Giêsu mời gọi các đôi vợ chồng phải tái khám phá trong Thiên Chúa sợi dây đã liên kết họ khi ở trần gian.

Chúng ta thử đặt ra vài câu hỏi: phải chăng khi ở trần gian các đôi vợ chồng đã sống với nhau và suốt đời kính sợ Thiên Chúa, nhưng khi chết, những gì thuộc về hôn nhân của họ như tương quan vợ chồng, tình yêu và dây hôn phối… sẽ bị quên lãng hay biến mất để chỉ dành cho tình yêu Thiên Chúa mà thôi? Phải chăng có điều gì đó trái ngược với điều mà Chúa Giêsu đã nói rằng: “Sự gì Thiên Chúa đã phối hợp, thì loài người không được phân ly?” (Mt 19,6). Nếu Thiên Chúa đã liên kết họ ở trần gian, tại sao Người lại phân ly họ trên thiên đàng? Phải chăng toàn bộ cuộc sống hôn nhân này không phải là sự chuẩn bị cho cuộc sống của họ ở thiên đàng sao?

3- Định mệnh của sự vĩnh cửu

Chúng ta tìm thấy câu trả lời từ chính mạc khải Kinh Thánh về niềm hy vọng này. Đó cũng chính là ước vọng tự nhiên của các đôi vợ chồng. Kinh Thánh quả quyết rằng hôn nhân là “một bí tích,” bởi vì hôn nhân biểu tượng sự hiệp nhất giữa Chúa Kitô và Giáo Hội (Ep 5,32). Theo cái nhìn này, làm sao có thể hiểu được nếu hôn nhân sẽ bị xóa bỏ hoàn toàn ở trên thiên đàng. Hôn nhân không hoàn toàn kết thúc với cái chết, tương quan và sợi dây hôn phối vẫn tiếp tục tồn tại, nhưng nó được biến đổi, được “thần hóa” nhờ sự hiệp thông với Thiên Chúa. Nhờ đó, nó xóa bỏ những giới hạn, bất toàn của đời sống hôn nhân ở trần gian.

Một cách tương tự, mối tương quan giữa cha mẹ và con cái hoặc tương quan bạn bè cũng vẫn tiếp tục tồn tại mà không bị quên lãng. Trong lời Kinh Tiền Tụng của thánh lễ cầu hồn, phụng vụ nói rằng: “Sự sống này chỉ thay đổi, chứ không mất đi.” Chúng ta có thể nói một cách tương tự như thế về hôn nhân, là một phần của đời sống, nó chỉ thay đổi, chứ không mất đi ở đời sau.

Đó là trường hợp của các cặp vợ chồng sống yêu thương và chung thủy với nhau trọn đời. Nhưng đối với trường hợp những người đã phải trải qua những kinh nghiệm bất đồng và đau khổ trong hôn nhân ở trần gian thì sao? Số phận của họ như thế nào? Phải chăng sợi dây hôn phối vẫn còn sẽ là một sự an ủi hay là lý do gây sợ hãi cho họ? Dựa vào giáo lý của Giáo Hội, chúng ta có thể trả lời rằng: trong thế giới của Thiên Chúa, sự dữ sẽ không còn tồn tại; những khiếm khuyết, sự thiếu thấu hiểu, cả những đau khổ đã làm họ tổn thương sẽ biến mất. Chỉ còn lại tình yêu và những gì tốt lành giữa họ tồn tại.

Các đôi vợ chồng sẽ được trải nghiệm tình yêu đích thực khi họ được tái kết hợp trong Thiên Chúa và nhờ đó, họ có niềm hạnh phúc và sự viên mãn của sự kết hợp mà họ đã có khi ở trần gian. Nhà thơ Goethe diễn tả điều này trong câu chuyện tình yêu giữa Faust và Margeret: “Chỉ trên thiên đàng, sự kết hợp và niềm hạnh phúc viên mãn giữa hai thụ tạo yêu nhau mới trở thành hiện thực. Đó là điều không thể tìm thấy ở trần gian.” Trong Thiên Chúa, tất cả sẽ hiểu nhau, sẽ được hòa giải và mọi người sẽ tha thứ cho nhau.

Còn đối với trường hợp những người đã kết hôn một cách hợp luật nhiều lần thì sao? Tương quan giữa họ thế nào? Đây chính là trường hợp mà nhóm Xađốc hỏi Chúa Giêsu về bảy anh em lấy cùng một người vợ khi sống (x. Mc 12,18-27). Khi chết ai là chồng của người đàn bà này? Ngay cả trường hợp này, chúng ta phải nhắc lại một điều tương tự: đó là tình yêu đích thực và sự hiến dâng giữa vợ chồng là một điều tốt lành đến từ Thiên Chúa, chúng sẽ không bị biến mất. Nhưng trên thiên đàng không có sự tranh dành, tranh đua và ghen tuông trong tình yêu vợ chồng. Chúng là những giới hạn thuộc bản năng của thụ tạo khi ở trần gian, chúng sẽ biến mất khi ở trên thiên đàng, sẽ được hoàn toàn biến đổi. Họ sống như các thiên thần, được kết hợp nên một với Thiên Chúa và với nhau. Họ sống tình yêu đích thực của Thiên Chúa, nên họ vẫn yêu thương và tôn trọng nhau trong “trời mới đất mới.”

Như thế, cuộc sống hôn nhân ở trần gian là sự chuẩn bị cho cuộc sống mai sau. Trong thế giới đó, ơn gọi và đời sống gia đình sẽ được viên mãn nhờ quyền năng và ân sủng Thiên Chúa. Vì thế, các đôi vợ chồng được mời gọi hãy sống yêu thương và trung tín với nhau khi ở trần gian, để cùng nhau hưởng hạnh phúc trên thiên đàng. Đó là lời hứa và phần thưởng cho những ai sống đời sống gia đình. Amen!

Về mục lục

.

SỰ SỐNG MỚI

Sr. Nguyễn Như Ý

Trong cuộc sống, con người chúng ta ai cũng mong muốn cho mình có một điều gì đó mới mẻ, giá trị và tồn tại mãi. Vì vậy mà có người cho rằng, tôi sẽ sống mãi, không bao giờ chết vì tôi có nhiều tiền, tôi có thể mua cả bệnh viện tốt nhất khi tôi bệnh, nhưng họ đâu biết rằng tiền của không mua được sức khỏe. Điều đó cho ta biết một sự thật, sự sống thể xác không hệ tại do quyết định của chính chúng ta, nhưng là nơi bàn tay uy quyền của Đấng tác tạo nên ta. Điều quan trọng là mỗi người đã và đang chuẩn bị gì cho sự sống mới trong tương lai của chúng ta, giống như trong lời bài hát “Ngày mai bắt đầu từ ngày hôm nay” (N.S Hoàng Vân).

Tin mừng cho ta thấy rằng, sự sống đời này và đời sau không giống nhau “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng” (Lc 20, 34) còn “con cái đời sau giống như thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa vì họ là con cái của sự sống lại (Lc 20,36 ). Để được sự sống đời này hay để có sự sống đời sau là chính mỗi người chúng ta tự do quyết định và chọn lựa. Và để thực hiện những quyết định đó, chúng ta cần có ơn Chúa trợ giúp bởi vì chúng ta sinh ra đã là những con người yếu đuối mang thân phận tội lỗi. Có những lúc chúng ta nghĩ rằng ta có thể làm được việc này chuyện kia một cách tốt đẹp không cần ơn phù trợ. Và cũng có khi ta cho rằng mình đủ mạnh mẽ để vượt thắng những cạm bẫy thế gian, nhưng cuối cùng ta cũng bị bại trận vì “Ai tưởng mình đứng vững, coi chừng kẻo ngã” (1Cr 10, 12).  Nhưng cho dù ta có yếu đuối vấp ngã thế nào, Thiên Chúa vẫn luôn kiên nhẫn và cho ta cơ hội để làm lại cuộc đời, bằng chứng là Ngài đã cho con của Ngài xuống trần gian để “tìm và cứu chữa nhng gì đã hư mất” (Lc 19, 10).

Thiên Chúa đã ban cho ta sự sống vĩnh cửu qua việc trao hiến thân mình Ngài cho ta, về phần chúng ta, ta cũng cần có chút gì đó để đền đáp ân tình mà Ngài đã tặng ban cho ta. Chúa không cần ta đáp lễ cho Ngài cách trọn vẹn, Ngài muốn thấy nơi ta lòng khao khát được sống trong Ngài bởi khi “Ngài tạo dựng chúng ta, Ngài không cần ta. Nhưng khi cứu độ ta, Ngài không thể thiếu ta” (St. Augustine). Hơn nữa, vì Ngài là Đấng yêu thương, Ngài yêu thương hết mọi loài hiện hữu, không ghét bỏ bất cứ loài nào, vì nếu ghét loài nào thì Ngài đã chẳng dựng nên (x. Kn 11,24). Ngài muốn chúng ta được sống và sống hạnh phúc với Ngài. Để được sống hạnh phúc với Chúa, ta cũng hãy sống như Đức Giêsu đã sống. Bởi thế, đã là Kitô hữu, là đã mang trong mình sứ mạng cao cả là sống, làm chứng cho tình yêu và sự sống của Thiên Chúa đang tồn tại nơi trần gian này, ta cần luôn cố gắng biểu lộ sự sống ấy nơi chính cuộc sống thường ngày của ta qua việc sống chứng tá Tin mừng, bởi ngày nay người ta cần chứng nhân hơn thầy dạy. Trách nhiệm của chúng ta phải là người sống Tin mừng trước hết, bởi qua chính cuộc sống của ta mọi người sẽ nhận ra tình yêu và sự sống của Chúa đang hiện hữu nơi trần gian này vì Nước Trời không “Ở đây này! hay “Ở kia kìa!, nhưng Nước Trời đang ở giữa các con” (x.Lc 17, 20 – 21). Và “Nước Trời cũng chẳng phải là chuyện ăn chuyện uống, nhưng là sự công chính, bình an và hoan lạc trong Thánh Thần” (Rm 14, 17). Bởi chính những điều tốt đẹp ấy, mọi người sẽ tin rằng Thiên Chúa vẫn luôn hiện diện nơi trần gian này.

Lạy Chúa, con khao khát được sống và sống mãi trong tình yêu Chúa hứa ban. Tuy nhiên, có những lúc con cảm thấy mình yếu hèn và bất xứng để có thể lãnh nhận ơn trọng đại này. Xin Chúa giúp con luôn biết tận dụng những hoàn cảnh thuận lợi cũng như bất thuận lợi để huấn luyện bản thân mỗi ngày sống trọn vẹn hơn cho tình yêu Chúa, và mai sau con cũng xứng đáng hưởng hạnh phúc cùng Chúa. Amen.

Về mục lục

.

TẤT CẢ ĐỀU ĐANG SỐNG

Bông hồng nhỏ

Có những lúc, ta tưởng mình sẽ sống mãi trên mặt đất nến cứ mải mê với những gì chóng qua. Ta quên mất rằng, kiếp sống này, ta chỉ là thân lữ khách. Quê hương của ta ở trên Trời, nơi có Thiên Chúa là Đấng yêu thương ta. Người không ngừng mời gọi ta tin vào Chúa Giêsu Kitô, Đấng sẽ giải thoát ta khỏi mọi thứ ràng buộc của tội lỗi và đưa ta vào hưởng hạnh phúc với Người ở đời sau.

Khi suy nghĩ về sự sống đời sau, ta cảm thấy thật băn khoăn. Lắng nghe Lời Chúa, lòng ta như được tháo cởi và tìm thấy niềm hy vọng và ánh sáng để bước đi. Hôm nay, khi nhóm Xađốc đến gặp Chúa Giêsu để hỏi về việc bảy anh em lấy cùng một người vợ, vì cả bảy người đều đã chết đi mà không có con nối dõi, Người đã hé mở cho ta về sự sống đời sau. Đời này, người ta cưới vợ lấy chồng để truyền sinh, để cùng nhau xây dựng gia đình và xã hội. Đó là lẽ thường tình và là điều rất tốt đẹp. Những tương quan huyết thống ở đời này giúp con người gắn bó với nhau, cùng nhau sống hạnh phúc trong sự quan phòng của Thiên Chúa. Chúa Giêsu đã khẳng định: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Quả thật, họ không thể chết nữa, vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại”. (Lc 20, 34-36). Cuộc sống đời này sẽ chuẩn bị cho ta bước vào cuộc sống đời sau. Ở đời này nếu ta sống theo thánh ý Thiên Chúa, ngày sau ta sẽ được Người cho hưởng sự sống muôn đời.

“Đối với Thiên Chúa, tất cả đều đang sống” (Lc 20, 38). Ta có thật sự đang sống không? Theo con người tự nhiên, ta vẫn đang sống từng ngày như bao người khác nhưng để sống thật sự thì ta phải sống sự sống mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho ta. Đó là luôn biết lắng nghe và sống Lời Chúa Giêsu đã dạy, và đây cũng chính là niềm tin sống động của ta. Khi chiêm ngắm gương sống của chính Chúa Giêsu, ta sẽ tìm ra con đường đi đến với Chúa Cha, vì chính Người đã khẳng định: “Chính Thầy là con đường là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy” (Ga 14, 6). Chính khi hết lòng sống theo gương Chúa Giêsu, ta sẽ được hưởng nếm hạnh phúc quê Trời ngay ở đời này,vì hạnh phúc mà Thiên Chúa muốn dành tặng cho ta chính là được sống trong tình yêu với Chúa.

Lạy Chúa Giêsu! Cuộc sống này luôn muốn lôi cuốn chúng con rời xa Chúa bằng những vẻ đẹp rực rỡ của nó. Có nhiều lúc, con bị phù hoa của đời này lôi cuốn, khi niềm vui chóng qua chẳng còn, con rơi vào nỗi buồn chán, cô đơn và thất vọng. Trong thảm trạng đó, xin Chúa chạm vào lòng con, nâng con lên và ban cho con niềm hy vọng. Xin cho con mỗi ngày luôn biết dành một khoảng lặng trong tâm hồn để tìm về với lòng mình, để gặp gỡ Chúa và nhận biết con được Chúa yêu thương, để con thật sự sống và sống dồi dào trong Chúa. Amen.

Về mục lục

.

CUỘC SỐNG NƠI TRẦN GIAN

Anna Cỏ May

Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ đời sau thì không cưới vợ cũng chẳng lấy chồng. Đó là sự thật mà Chúa Giêsu đã khẳng định.

Cuộc sống ở thế gian, việc dựng vợ gả chồng là để duy trì dòng giống gia tộc. Đó cũng là một trong những ơn gọi Thiên Chúa muốn dành cho con người. Bí tích Hôn phối là dây liên kết giữa người nam và người nữ, giúp họ chu toàn trong tình yêu của mình. Từ tình yêu ấy làm nên mối liên hệ trong gia đình. Mối liên hệ vợ chồng, cha mẹ, con cái và anh chị em với nhau là mối quan hệ thật chính đáng và quý giá nơi cuộc sống thế gian. Nhưng mối liên hệ này sẽ không còn nữa khi con người bước vào cuộc sống đời sau. Đúng hơn, là sau khi mỗi người chúng ta chết và sống lại thì sẽ không còn mối dây liên hệ theo máu huyết nữa. Có nhiều người đã không tin có sự sống đời sau và họ chỉ sống trong sự thỏa mãn ở đời này.

Trong Tin Mừng Luca, những người thuộc nhóm Xa Đốc chủ trương không có sự sống lại, họ đến hỏi Đức Giêsu về câu chuyện bảy anh em lấy chung một vợ nhưng không có con nối dõi và rồi người đàn bà ấy cũng chết. “Trong ngày kẻ chết sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?” (x. Lc 20, 29-33). Đức Giêsu biết rõ sự sống đời sau vì chính Ngài đã đến từ đó. Những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết thì không còn cưới vợ hay lấy chồng. Mọi người sẽ được sống ngang hàng với các thiên thần, họ là con cái Thiên Chúa, sống thân mật với Ngài.

Như vậy, việc cưới vợ gả chồng là việc ở đời này, nó chỉ tạm thời và sẽ chấm dứt sau khi chết. Mỗi người chúng ta được mời gọi để không bám víu hay dính chặt vào các mối liên hệ ở đời này mà phải vượt qua để đạt tới mối liên hệ siêu nhiên ngay từ đời này. Thật khó để chúng ta có thể thực hiện điều này vì chúng ta vẫn là con người yếu đuối, cần có chỗ cậy dựa. Chỗ dựa tuyệt vời mà chúng ta cần bám vào đó chính là Đức Giêsu. Chúng ta đừng quá phụ thuộc vào những mối liên hệ ở thế gian này, nhất là những mối liên hệ trái với ý Thiên Chúa, vì ý Thiên Chúa là muốn cho người vợ người chồng luôn sống chung thủy với nhau. Thật là có phúc cho những ai không thấy mà tin vào Chúa Giêsu.

Lạy Chúa Giêsu! Chúng con dâng lên Chúa những mối liên hệ ở trần gian này. Xin cho chúng con sống đúng với ý Chúa và chu toàn sứ mạng Chúa trao, nhờ đó chúng con xứng đáng hơn trong ngày xét xử mà hưởng hạnh phúc đời sau.

Về mục lục

.

.SỰ SỐNG ĐỜI SAU

Maria Mỹ Loan

 LỜI CHÚA: “Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, chứ những ai được xét hưởng hạnh phúc đời sau và sống lại từ cõi chết, thì không lấy vợ cũng chẳng lấy chồng”. (Lc 20,34-35)

Giữa cuộc sống trần gian, khi đến tuổi trưởng thành thì người ta lấy vợ cưới chồng như một tất yếu. Đời sống hôn nhân được Thiên Chúa chúc lành và giữ gìn. Quy luật này nhằm mục đích phát triển sự sống, con cái. Những mối liên hệ giữa vợ chồng, cha mẹ con cái, anh chị em là những mối liên hệ chính đáng trong cuộc sống trần gian. Nhưng vẫn có những trường hợp là ngoại lệ. Có những người vì những lí do khác nhau mà chọn cuộc sống độc thân. Đối với công giáo đặc biệt là Kitô Giáo, thì những vị linh mục, tu sĩ nam nữ, vì những lí tưởng của đời sống siêu nhiên mà chọn kết hiệp mật thiết với Chúa hơn là đời sống vợ chồng. Nhưng dù sống cuộc sống hôn nhân hay là ơn gọi tu trì thì tất cả mọi người đều hướng về Thiên Chúa là cùng đích. Thiên Chúa mới là điều quan trọng chứ không phải quà tặng hay con đường đến với Chúa quan trọng.

Vì những ai đáng hưởng sự sống đời sau và sống lại từ cõi chết thì không còn giữ những mối liên hệ ở trần gian nữa. Mà giờ đây mối liên hệ duy nhất của họ chính là Thiên Chúa – một mối liên hệ siêu nhiên, không phai nhạt hay biến đi mà được củng cố mỗi ngày để thắm thiết hơn, bền vững hơn. Mọi Kitô hữu được mời gọi để hướng tới mối liên hệ siêu nhiên ở đời sau, mà không bám víu hay dính chặt vào những mối liên hệ của trần gian ngay từ đời này. Vậy chúng ta phải luôn tỉnh thức và thay đổi cái nhìn cho phù hợp với niềm tin Kitô giáo. Can đảm từ bỏ tội lỗi và mọi điều xấu xa để bớt bất xứng với ơn cứu độ và tình yêu của Thiên Chúa.

“Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Thiên Chúa tất cả đều đang sống”. (Lc 20,38)

Thiên Chúa của tổ phụ Ap-ra-ham, I-xa-ac, Gia-cop vì các Ngài đã cùng sống với Thiên Chúa qua những điềm thiêng, sự tỏ mình của Thiên Chúa. Thiên Chúa ban cho con người sự sống tự nhiên và sự sống siêu nhiên. Sự sống tự nhiên biến mất để nhường chỗ cho sự sống siêu nhiên khi con người chết đi và sống lại ở đời sau. Tuy nhiên, con người lại ham muốn sự sống tự nhiên hơn, bám dính vào cuộc sống ở đời này, làm những việc tội lỗi mà không chuẩn bị gì cho đời sau. Để cho con người cũng được sống như các Thiên Thần, Thiên Chúa chấp nhận sống trong xác phàm như con người và đã chịu chết để làm cho thân xác Đức Kitô sống lại và trở thành nguồn sống mới cho các tín hữu sống ở đời này. Như đã có lời khẳng định: “Tôi đến để đoàn chiên được sống và sống dồi dào.” (Ga 10,10)

Ý thức được sự lệ thuộc vào sự Phục Sinh của Chúa Kitô, Thánh Phaolô đã nhắc nhở mọi Kitô hữu: “Đức Kitô đã chết thay cho mọi người, để những ai đang sống, không còn sống cho chính mình nữa, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại vì mình” (2Cr 5,15). Vì vậy, chúng ta phải sống và hướng về Thiên Chúa là sự sống đích thực và đời đời.

Lạy Chúa xin cho chúng con biết tránh xa tội lỗi, những gì thuộc về thế gian để trở nên kết hiệp với Chúa Giêsu Kitô là nguồn sống vĩnh hằng.

Về mục lục

.

SỐNG LẠI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Không tin sự sống đời sau,
Mắt nhìn thiển cận, nỗi đau quấy rầy.
Tâm tư thắc mắc điều này,
Vợ chồng kết hợp, tình say mặn nồng.
Kết hôn gắn bó tương đồng,
Thủy chung son sắt, đèo bồng xứng đôi.
Sao mà chia cách đơn côi,
Ngày sau sống lại, kết tôi với mình.
Người anh cưới vợ gái trinh,
Chẳng may bệnh chết, mối tình dở dang.
Không con nối dõi gia cang,
Người em kế tiếp, cưới nàng lập hôn.
Tiếp theo năm chú đồng môn,
Bảy người đều chết, mồ chôn mả dài.
Không ai thừa tự quản cai,
Ngày sau vợ chết, nhận ai là chồng.
Chúa rằng sống lại đợi trông,
Không còn cưới gả, vợ chồng lứa đôi.
Đời sau sống mãi tinh khôi,
Nhẹ nhàng thánh thoát, xứng ngôi thiên thần.

Qua hai ngàn năm, đã có hằng tỷ người cùng tuyên xưng một đức tin: Xác loài người ngày sau sẽ sống lại. Bài Phúc âm hôm nay mở lối cho chúng ta về sự sống ngày sau. Những người Sađucêô không tin có sự sống lại. Họ mượn cớ một câu truyện về một gia đình bảy anh em lần lượt cưới cùng một người vợ, sau cùng mọi người chết, vậy ai sẽ là chồng của cô ta. Họ dựa vào lý luận và cuộc sống trần thế để giải đáp về cuộc sống mai hậu. Chúa Giêsu cho chúng ta một câu trả lời xác đáng: Con cái đời này cưới vợ lấy chồng, song những ai sẽ xét đáng được dự phần đời sau và được sống lại từ cõi chết, thì sẽ không cưới vợ lấy chồng, họ sẽ không chết nữa, vì họ giống như thiên thần.

Trong lịch sử các tôn giáo trên thế giới, tôn giáo nào cũng cố gắng tìm giải đáp cho ước vọng sâu xa của con người về cuộc sống ngày sau. Có hai quan điểm chính từ Ấn Độ, Phật Giáo quan niệm cuộc sống như vòng tròn, xoay vần, như bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông và đi hết vòng này sang vòng khác. Vì thế họ tin vào thuyết luân hồi. Sống kiếp này chưa tốt, đầu thai vào kiếp khác, cho tới khi hoàn hảo sẽ được hưởng lạc trên Niết Bàn. Theo quan điểm Kitô Giáo là quan niệm cuộc đời theo đường thẳng. Mỗi người có khởi đầu và có chấm dứt. Sau khi mãn cuộc đời này sẽ bắt đầu cuộc sống mới. Khi chết hồn và xác tách biệt. Xác tan rã và hồn bất tử chịu sự phán xét về việc lành dữ chúng ta đã làm khi còn ở trần thế. Hồn xác sẽ sống lại vào ngày quang lâm.

Hồn và xác kết hợp làm nên một chủ thể. Phật giáo tin thuyết nhân qủa, gieo gió thì gặt bão, cây nào sinh trái đó và cây tốt sinh trái tốt. Nhìn qủa biết cây và làm tốt sẽ được thưởng. Đạo Công Giáo cũng một niềm tin, nếu chúng ta sống tốt thì sẽ được hưởng hạnh phúc. Làm dữ sẽ bị đoán phạt. Nên cuộc đời trần thế là một chặng đường chuẩn bị cho hạnh phúc mai sau.

Chúa Kitô đã chết và đã sống lại, đó là hoa qủa đầu mùa của những kẻ đã yên giấc. Chúa Giêsu là đầu nhiệm thể, chúng ta là chi thể, đầu đi tới đâu thì thân thể cũng sẽ đi tới đó. Chúa Giêsu nói Ngài về cùng Chúa Cha và dọn chỗ cho chúng ta. Chúng ta đặt niềm tin vào Chúa Kitô Phục Sinh. Chúng ta tiến bước trong hy vọng.

Nhìn cảnh vật chung quanh, mùa Thu lá đổi mầu và rụng xuống, để cây trơ trụi, trải qua mùa Đông dài và mùa Xuân tới, cây cối sẽ lại trổ mầm sinh tươi. Chúng ta cũng phải bước qua ngưỡng cửa sự chết mới đạt tới sự sống lại. Như hạt giống gieo xuống đất phải chịu mục nát mới có thể trổ sinh hoa trái. Chúa Giêsu đã nằm xuống qua cái chết, Chúa đã sống lại. Ngài không còn bị giới hạn bởi không gian và thời gian.

Lạy Chúa chúng con tin Chúa là sự sống và là sự sống lại. Chúng ta cùng tuyên xưng trong kinh tin kính: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại, tôi tin hằng sống vậy. Amen.

Về mục lục

.

ĐỔI MỚI TRONG CHÚA

Lm Vũđình Tường

Khả năng con người quá hạn hẹp khi phải khám phá sức sống của vật thể hữu hình. Nguồn sống vô tận này cung cấp sự sống cho con người, thanh tẩy bầu quí quyển, làm sạch nước đại dương và là nguồn cảm hứng của học hỏi, phỏng theo sáng chế dụng cụ cho con người. Càng ngày càng có nhiều khám phá mới về cuộc sống của vũ trụ. Nhân loại dường như không bao giờ khai thác, học hỏi, hiểu biết cặn kẽ về vật thể hữu hình quanh ta. Chỉ riêng những vấn đề như làm thế nào sống vui hơn, mạnh hơn, giảm bệnh tật và thọ hơn cũng đủ điên đầu các khoa học gia. Vấn đề đời sống hiện tại đã thế, nói đến vấn đề tâm linh, siêu hình còn phức tạp hơn gấp bội. Mọi tranh biện có hay không có sự sống sau cuộc sống này đều là những võ đoán, lí luận riêng của cá nhân. Khối óc con người vất vả phấn đấu đêm ngày mới hiểu được phần nào cách cấu kết, sinh hoạt về cuộc sống hữu hình đời này. Nói về cuộc sống vô hình, cuộc sống đời sau mọi kết luận có hay không có sự sống đời sau chắc chắn là vượt quá giới hạn của khối óc. Đây không phải là vấn đề mới mẻ. Vấn đề cuộc sống trường sinh dường như đồng hành với cuộc sống của nhân loại, còn nhân loại trên mặt đất vấn đề còn được đặt ra, bởi sống và suy luận luôn đồng hành. Con người muốn sống bất tử nhưng khi bàn về bất tử kẻ chấp nhận, người chối bỏ. Cái mâu thuẫn này không có kết thúc chung. Mỗi cá nhân tự chọn niềm tin riêng cho mình. Mọi cố gắng áp đặt niềm tin trên tập thể chỉ là tin cách giả tạo, bởi ai đo được niềm tin tiềm ẩn, sâu kín trong lòng. Dù tin hay không cũng không thể chối bỏ được cuộc sống tâm linh, thần bí trong trong đời. Lãnh tụ các thời đại ước mơ có những người con tài trí, nhưng ước mơ và hiện thực không song hành. Như thế con người đầu hàng trước thế giới thần linh.

Hai nhóm Pharisiêu và Biệt Phái dù bất đồng nhưng họ cấu kết với nhau triệt hạ Đức Kitô. Cả hai đều trọng Luật của Môisen nhưng vì chiến tranh, di dân, ảnh hưởng bởi văn hoá ngoại bang và chức tước bổng lộc nên mỗi nhóm đi theo một đường và cuối cùng chê trách nhau. Nhóm Pharisiêu tự hào về quyền dịch sách Ngũ Thư và tôn trọng truyền thống; nhóm Biệt Phái không chấp nhận truyền thống và chú trọng vào việc lãnh đạo Đền Thờ. Họ kết hợp với nhau vì Đức Kitô chỉ trích họ trong việc phụng thờ và coi luật lệ trọng hơn sự sống. Họ đến hỏi Ngài về sự sống lại. Nhóm Pharisiêu tin có sự sống lại, nhóm Biệt Phái tin chết là hết. Họ không hỏi để tìm hiểu mà hỏi tìm cớ giết Ngài. Đức Kitô vạch cho họ biết cái sai của họ.

Thứ nhất Ngài xác định rõ những ai sống theo đường lối Chúa sẽ được hưởng sự sống đời sau. Sự sống vĩnh cửu trong nước Chúa. Sẽ không còn chết, không còn đau khổ, tang thương.

Thứ hai, nhu cầu vật chất cần thiết cho sự sống của thân xác đời này và nhu cầu cuộc sống tâm linh hoàn toàn khác biệt.

Thứ ba, niềm vui của thân xác đến từ vật chất trần thế; niềm vui tâm linh đến từ tình yêu Chúa. Vì thế cuộc sống trần thế lập gia đình để hỗ trợ nhau, thoả mãn nhu cầu cuộc sống; cuộc sống tâm linh sống bằng tình yêu Chúa và họ không còn thiếu, thèm khát bất cứ điều chi nên không còn nhu cầu đòi hỏi. Tình yêu Chúa ban cho họ cuộc sống vui thoả, không còn thiếu thốn chi.

Thứ tư, Đức Kitô cũng cho họ biết họ sai lầm khi giảng giải Ngũ Thư. Câu chuyện Môisen trông thấy bụi gai cháy và có sự hiện diện của các Tổ Phụ: Abraham, Isaac và Jacob cho biết các Ngài đang sống hạnh phúc trong nước Chúa. Đối với thế giới họ đã chết, đã ra khỏi thế giới nhiều năm trước. Chuyện bụi gai cho biết họ không chết mà chính là từ bỏ thế giới vật chất để vào sống hạnh phúc trong thế giới siêu hình.

Tranh biện về cuộc sống trường sinh không có kết thúc. Còn con người còn có lí luận khác nhau và còn tranh biện. Đức Kitô là Đấng sống lại từ cõi chết. Ngài là Đấng duy nhất có tiếng nói chính đáng nhất trong vấn đề này. Từ chối lắng nghe tiếng của Ngài sẽ không còn tiếng nói nào chính xác hơn, đáng tin hơn bởi tất cả đều là sản phẩm của suy tưởng, lí luận. Thắng hay thua trong việc tranh biện đều không quan trọng. Điều quan trọng là tin vào món quà sự sống trường sinh Đức Kitô hứa ban. Quà này ban cho những ai yêu mến và tin vào Ngài. Nhìn vào giá trị món quà để định giá là cách trẻ em thực hiện. Chúng reo vui khi thích quà tặng, buồn ra mặt khi không thích. Người lớn không nhìn vào giá trị món quà mà nhìn vào tình yêu người tặng quà dành cho. Quà chỉ là biểu tượng của tình yêu. Kitô hữu đón nhận sự sống trường sinh với tất cả lòng yêu mến vì chúng ta không đáng hưởng tình yêu chan chứa của Thiên Chúa nhưng Ngài ban cho vì thế chúng ta đón nhận với tâm tình cảm tạ, khiêm nhường.

Rất có thể cuộc sống trường sinh, hạnh phúc, nhiều ít thế nào ra sao trong tương lai được đo lường bằng niềm tin hiện tại. Tin mãnh liệt sẽ sống tích cực, yêu mến Thiên Chúa và thương tha nhân sẽ hưởng tình yêu Chúa cách nồng nàn. Tin ít hơn, hời hợt hơn sẽ sống đời sống chứng nhân hời hợt hơn và cuộc sống trường sinh cũng nhạt màu. Tin rất ít sẽ đáp trả lại tình yêu Chúa cách lạnh nhạt vì thế sẽ không thể nào hưởng trọn tình yêu Chúa trong cuộc sống mới. Đời sống hiện tại chính là khung sườn, ảnh hưởng đến cuộc sống trường sinh bởi cuộc sống trường sinh là cuộc sống yêu thương. Thiếu yêu thương nơi trần thế sẽ chẳng thể nào hội nhập vào yêu thương cao cả trong nước Chúa.

Về mục lục

.

TIN VÀO SỰ SỐNG LẠI ĐỜI SAU

Lm Trần Bình Trọng

Nếu đời này là cùng đích và là cứu cánh của con người, thì nhiều sự việc xẩy ra ở trần thế là bất công, khi người gian ác được giầu sang, mạnh khoẻ; còn người hiền đức lại phải sống cảnh nghèo khó, bệnh tật. Nếu không có đời sau thì người ta phải tận hưởng những sự vật đời này cho tới mức tối đa, người ta phải tìm ăn ngon, mặc đẹp và kiếm tìm những thú vui cho thoả mãn ở đời này. Người theo các tôn giáo lớn như Phật Giáo, Ấn Giáo và Hồi Giáo đều tin có một kiếp sống nào đó ở đời sau. Còn đối với người Thiên Chúa Giáo, thì việc trải qua từ đời này sang đời sau, được gọi là phục sinh hay sống lại.

Nhóm người Xa Ðốc dựa vào sách Thứ luật, không tin vào sự sống lại vì bổn sách không đề cập tới. Hôm nay lợi dụng cơ hội hiếm có, nhóm Xa Ðốc lại đặt vấn đề về sự sống đời sau với Chúa Giêsu, và họ đặt câu hỏi cách tài tình, nhưng lại mưu mô. Họ dựa vào luật Thế huynh nối dòng trong sách Thứ luật (Ðnl 25:5-6) để bịa ra câu chuyện như sau. Một người đàn bà có bảy đời chồng là bảy anh em ruột. Người đàn bà cưới người anh cả, rồi người anh cả chết đi, không con. Chị ta bèn phải lấy người em thứ hai, rồi người này cũng chết mà không con. Và sự việc cứ xẩy ra như vậy cho tới người thứ bảy, mà không ai có con. Sau cùng người đàn bà cũng chết. Vậy nếu bảo rằng có sự sống đời sau, thì ai sẽ là chồng chị trong kiếp sống mai hậu? Nhóm người Pharisêu không trả lời được vấn đề này vì theo họ thì đời sau, người ta cũng cưới hỏi như đời này.

Thực ra thì nhóm Xa Ðốc không quan tâm ai sẽ là chồng của người đàn bà trong cuộc sống đời sau. Vấn đề thắc mắc về hôn nhân chỉ là cạm bẫy họ dùng để bắt bẻ Chúa Giêsu về sự sống đời sau. Tại sao họ phải dựng câu chuyện về bảy người chồng như vậy? Trong trường hợp này, họ chỉ cần trưng ra hai người chồng thì cũng đủ biện minh cho lí lẽ của họ. Trưng ra bảy người chồng có lẽ họ muốn nói đến bảy anh em trong sách Macabêô đã chết vì tin theo Chúa với hi vọng được sống lại chăng (2 Mcb 7:9)?

Theo sách Macabêô thì người Do Thái từ thế kỉ thứ hai trước Chúa Giêsu giáng sinh đã tin có sự sống lại. Tuy vậy không phải hết mọi người Do thái thời đó đều tin có sự sống đời sau như nhóm người Xa Ðốc. Nhóm Xa Ðóc chỉ nhận bộ sách Ngũ kinh, trong đó sách Thứ luật không bàn gì về sự sống lại. Họ không công nhận những sách khác trong Cựu ước, gồm sách Macabêô có ghi lại niềm tin của bảy anh em về sự sống lại.

Ðến đây thì Chúa giải thích cho nhóm người Xa đốc hiểu rằng, theo chương trình quan phòng của Thiên Chúa, thì kiếp sống đời sau khác hẳn thực tại của kiếp sống đời này. Mối liên hệ mật thiết nhất ở đời này là tình luyến lái trong đời sống hôn nhân cũng không còn cần thiết cho đời sau (Lc 20:34), vì một trong những mục đích của hôn nhân là tìm sự luyến ái vợ chồng để nâng đỡ nhau về đời sống tình cảm và để sinh con đẻ cái, đã được hoàn tất ở đời này rồi.

Trong cuộc sống đời sau trên thiên quốc, người ta được hưởng nhan thánh Chúa cách trực tiếp và sung mãn (c. 36), nên tình nghĩa vợ chồng không còn cần thiết nữa. Trong cuộc sống mai hậu, người ta cũng không cần ăn uống và do đó cũng không có nhu cầu đi vệ sinh. Phúc âm thánh Luca có ghi: sau khi sống lại, các tông đồ đưa cho Chúa một nhát cá nướng, rồi Chúa cầm lấy mà ăn (Lc 24:42-43). Sách Công Vụ Tông Đồ cũng ghi: sau khi sống lại Chúa cùng ăn uống với các tông đồ (Cv 10:41). Việc Chúa ăn uống ở đây là vì các tông đồ, chứ trong thân thể phục sinh của Chúa, Chúa không cần ăn uống. Việc Chúa ăn ở đây giống như thiên sứ Ra-pha-en ăn, rồi trả lời cho hai cha con ông Tôbít và Tobia: Các ngươi đã thấy tôi ăn, nhưng thực ra tôi không ăn gì cả, đó chỉ là một thị kiến mà các ngươi thấy (Tb 12:19).

Khi có người thắc mắc kẻ chết sống lại sẽ lấy thân thể nào mà trở về (1 Cr 15:35), thánh Phaolô trả lời thân xác phục sinh khác thân xác trước kia như sau: Gieo xuống là thân thể có sinh khí, mà chỗi dậy là thân thể có thần khí (1 Cr 15:44). Đó là lí do tại sao các tông đồ lúc đầu không nhận ra Chúa phục sinh khi Người hiện ra với các ông (Lc 21:16, 37; Ga 20:14; Ga 21: 4) vì theo thánh Mác-cô: Chúa tỏ mình dưới một hình dạng khác (Mc 16:12), nghĩa là hình dạng đã biến đổi.

Ðể thuyết phục nhóm Xa Ðốc sao cho họ xác tín về sự sống lại, Chúa Giêsu còn trích dẫn đoạn Thánh kinh trong sách Xuất hành về việc ông Môsê, khi được Chúa hiện ra đã tuyên xưng: Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-xa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp (Xh 3:6;Lc 20:37). Vậy nếu Chúa là Thiên Chúa của Áp-ra-ham, I-xa-ác và Gia-cóp, thì mặc nhiên ba tổ phụ này đã sống lại (c. 38). Nhóm Xa Ðốc biết nhiều về Thánh kinh nên họ đã chịu khuất phục trước lối cắt nghĩa của Chúa về việc sống lại. Và như thánh sử Luca ghi lại: Họ không dám chất vấn Người điều gì nữa (Lc 20:40).

Giáo lí công giáo dạy phục sinh không phải là một hình thức luân hồi. Giáo lí công giáo coi việc sống lại không phải chỉ dạy rằng con người có linh hồn bất tử. Theo lời Chúa trong Phúc âm hôm nay thì: Họ không thể chết nữa vì được ngang hàng với các thiên thần. Họ là con cái Thiên Chúa vì là con cái sự sống lại (Lc 20:36). Và Chúa cũng đặt những điều kiện là: Những ai được xét xử là đáng được hưởng hạnh phúc đời đời (Lc 20:35) thì được hưởng sự sống lại.

Ðức tin và lí trí của người tín hữu đòi hỏi phải có sự sống lại. Ðức tin của người tín hữu  trong kinh Tin Kính tuyên xưng: Tôi tin xác sống lại và sự sống đời sau. Lí trí của ta đòi hỏi sự sống lại là vì ta được tạo dựng gồm cả hồn và xác để phụng sự Thiên Chúa. Nếu không có sự sống lại thì người tín hữu không cần cầu nguyện cho người quá cố, không cần xin lễ cầu nguyện cho linh hồn nọ, linh hồn kia. Nếu không có sự sống lại thì việc xin lễ cầu nguyện cho linh hồn nọ kia, là việc làm mất thời giờ uổng công. Theo Tín điều Các thánh cùng thông công của các công đồng Nicea II, Firenze và Triđentinô, mà Công đồng Vaticanô II gọi là Hiệp thông Sống động (Giáo hội # 51), thì người tín hữu tại thế có thể hiệp thông với các thánh trên trời và thông công với các linh hồn nơi luyện ngục bằng cách cầu nguyện hi sinh cho họ.

Trong tháng Các Linh hồn, người tín hữu nhớ đến các linh hồn nơi luyện ngục một cách đặc biệt bằng cách dâng lễ cầu nguyện. Ðặc biệt người tín hữu được nhắc nhở cầu nguyện cho tổ tiên, ông bà, cha mẹ và thân bằng quyến thuộc và những linh hồn mồi côi. Nếu có ai hỏi vây phải cầu nguyện cho người quá cố tới bao giờ? Câu trả lời là tới bao lâu người tín hữu còn sống. Nếu linh hồn người quá cố mà ta cầu nguyện cho đã được lên thiên đàng, thì theo Tín điều Các Thánh cùng Thông công, mà Công đồng Vaticanô II gọi là Hiệp thông sống động, Thiên Chúa sẽ chuyển những lời cầu nguyện, lễ dâng và công hiệu thiêng liêng của việc hi sinh bác ái ta làm, cho những linh hồn khác nơi luyện ngục.

Lời cầu nguyện xin cho được hưởng sự sống lại:

Lạy Chúa, Chúa là vinh quang của các thánh

và là nguồn hi vọng của người tín hữu.

Xin cho những người tin tưởng vào Chúa

và tuân giữ giới răn Chúa khỏi phải thất vọng.

Xin dạy con biết tìm kiếm những của vững bền

để làm hành trang cho kiếp sống mai hậu.

Xin Chúa là gia nghiệp của con ở đời này và đời sau. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM TIN XÁC TÍN

Lm. Quốc Toản

Chúng ta sống trên đời này là để thờ phượng Chúa và phục vụ tha nhân hầu được phúc hưởng nhan Thiên Chúa Hằng Sống đời sau. Để được thế mỗi người phải chiếu giãi đức tin trong cuộc sống hằng ngày. Còn gương lành nào chiếu giãi đức tin cho bằng gương của bảy anh em lần lượt chịu tử đạo trước sự chứng kiến của người mẹ can đảm trong Bài Đọc thứ nhất hôm nay? (x. 2Mac 7:1-2; 9-14). Đây qủa là một tấm gương đáng được ghi nhớ muôn đời trong lịch sử nhân loại!

Bảy anh em đã chiếu sáng sự thánh thiện và lòng kiên trì qua sự chấp nhận những tra tấn dã man dưới tay phường vô nhân đạo. Sở dĩ họ chịu đựng được những tra tấn cũng một phần do sự khuyên bảo và khích lệ của người mẹ tràn đầy lòng tin. Đặc biệt hơn nữa là vì họ có một niềm tin xác tín rằng Thiên Chúa Hằng Sống, Thiên Chúa của công bằng và yêu thương, Đấng mà họ sẵn sàng hy sinh mạng sống đời này, đã dành cho họ một cuộc sống vĩnh cửu trên thiên đàng.

Trải qua hơn hai ngàn năm, hằng triệu Kitô hữu đã hy sinh mạng sống cách anh hùng vì đức tin. Trong số đó có các Thánh Tử Đạo Việt Nam của chúng ta. Ngày nay cũng có hằng triệu người đang chịu đau khổ và tử đạo liên lỉ vì cùng một đức tin. Tuy nhiên, họ may mắn hơn bảy anh em người Do-thái xưa vì họ có gương lành của Chúa Kitô, Con Thiên Chúa làm người, Đấng đã chịu đựng một cuộc tử đạo đau đớn dã man hơn mọi người. Vì thế, một cách nào đó, gương lành của người mẹ và bảy anh em Do-thái đáng được ngưỡng mộ hơn. Nhưng, điều quan trọng là cũng chính một Thiên Chúa, Đấng đã ban cho họ những ơn cần thiết để chịu đựng mọi cơn thử thách, ngày nay vẫn tiếp tục ban cho mọi Kitô hữu những ơn cần thiết để chịu đựng mọi thử thách hầu được hưởng cuộc sống vĩnh cửu trên quê trời với Thiên Chúa Hằng Sống.

Những gương anh dũng của các tiền nhân đều đáng cho chúng ta phải thật sự ngưỡng mộ. Tuy nhiên, là những Kitô hữu, ngưỡng mộ không chưa đủ! Ta cần phải bắt chước và thực hành những gương anh hùng đó trong cuộc sống thường ngày. Theo tự nhiên, ai trong chúng ta khi nghĩ đến những thử thách tra tấn cũng phải giùng mình kinh hãi. Chắc chắn các đấng đi trước cũng vậy. Nhưng, khi cơn thử thách đến thì Thiên Chúa sẽ ban cho chúng ta những ơn cần thiết để chịu đựng như Chúa đã ban cho các đấng tiền nhân.

Những tấm gương chứng nhân đức tin sáng ngời của các bậc đi trước là một thách đố mà chúng ta có thể áp dụng cho cuộc sống ngày nay. Chúng ta không cần phải hỏi, “Tôi có sẵn sàng chấp nhận những cực hình và cái chết vì đức tin hay không?” Điều chúng ta nên làm là xét xem mình có sẵn sàng và thật sự sống đức tin trong cuộc sống hằng ngày chưa. Nghĩa là chúng ta đã sống tinh thần chịu đựng, hy sinh và can đảm đúng với địa vị của mình hay chưa? Thí dụ: vợ chồng có nhịn nhục, can đảm hy sinh chịu đựng lẫn nhau hay không? Bố mẹ có quan tâm đến con cái và săn sóc, dậy dỗ chúng nên người hay chỉ lo làm ăn đến độ bỏ bê chúng? Con cái có biết vâng lời bố mẹ và chăm chỉ học hành cho giỏi hay chỉ biết đi chơi và phá nghịch xóm làng…v.v.?

Cuộc sống là một chuỗi ngày chiến đấu với ma quỉ, thế gian và xác thịt. Vì thế, để sống đúng địa vị của chính mình không phải là một chuyện dễ làm đối với bất cứ một ai. Với nhiều người đây chính là một cuộc tử đạo liên lỉ. Nhưng, hãy nghĩ đến hoặc nhìn lại những tấm gương xác tín đã tăng cường sức lực cho người mẹ và bảy anh em Do-thái xưa. Mọi Kitô hữu phải luôn tạo cho mình có một niềm tin xác tín vào Thiên Chúa Hằng Sống như thế.

Nếu chúng ta trung thành với Chúa thì Ngài sẽ thưởng chúng ta. Nếu chúng ta trung thành với giới răn của Chúa thì Ngài sẽ giữ lời hứa của Ngài. Và nếu Chúa có muốn chúng ta hy sinh mạng sống để làm chứng nhân cho Ngài thì Ngài sẽ ban cho chúng ta một cuộc sống hạnh phúc trường sinh trên quê trời. Được thế thì chúng ta đã hoàn tất được mục đích cuộc sống đời này; đó là chiếm được cuộc sống hạnh phúc vĩnh cửu đời sau với Thiên Chúa Hằng Sống.

Về mục lục

.

HỌ LÀ CON CÁI THIÊN CHÚA GIỐNG NHƯ CÁC THIÊN THẦN

Lm. Huy Châu

Bài đọc thứ nhất và Phúc Âm hôm nay có cùng một nội dung: sự sống lại đời sau. Vấn đề sự sống lại trong bài Phúc Âm hôm nay được nêu lên do nhóm Xađuxê. Vậy chúng ta hãy tìm hiểu qua về nhóm này: Hai nhóm vị vọng trong dân Do Thái thời Chúa Giêsu mà Phúc Âm thường nhắc đến là Pharisiêu và Xađuxê. Hai nhóm này có nhiều khác biệt. Điển hình là nhóm Pharisiêu chủ trương lo việc tôn giáo, không nhúng tay vào chính trị. Họ tin có sự sống đời sau và có thiên thần. Ngược lại Xađuxê là một nhóm nhỏ nhưng có chỗ đứng trong guồng máy cai trị của người Rôma. Phái Xađuxê không tin có thiên thần và không tin có sự sống đời sau.

Nhìn lại bối cảnh Phúc Âm, có lẽ sau khi nghe Chúa Giêsu nói về sự sống đời sau, nhóm Xađuxê cảm thấy “khó chịu” nên muốn tìm cách gài bẫy Chúa Giêsu và đặt Ngài vào chỗ bí. Câu hỏi họ đặt ra về việc một người đàn bà lần lượt lấy 7 anh em theo luật Maisen có ghi trong sách Đệ Nhị Luật, đoạn 25, câu 5. Họ hỏi nếu người đàn bà đó lấy cả 7 anh em, thì sau khi sống lại, người đàn bà đó sẽ là vợ của ai? Câu hỏi này khi mới nghe thì có vẻ hóc búa và có lẽ nhóm Xađuxê hí hửng vì bắt bí được Chúa Giêsu. Nhưng câu trả lời của Chúa trước hết khiến cho họ bẽ mặt và làm cho câu hỏi đó thật chỉ là câu hỏi có vẻ “trẻ con”. Thứ nữa, câu trả lời của Chúa hé mở cho chúng ta thấy “tình trạng” con người được sống lại trên thiên đàng thế nào: trên thiên đàng người ta không sống trong tình trạng vợ chồng nhưng sống như các thiên thần (Lc 20:34-36). Thực sự chúng ta không biết các thiên thần “sống” như thế nào trên thiên đàng nhưng một số điều căn bản chúng ta biết về các thiên thần là các ngài không có thể xác, không lệ thuộc vào vật chất, và các ngài được hưởng kiến nhan Chúa nên được tràn ngập hạnh phúc.

Kinh nghiệm sống cho chúng ta thấy một tình trạng tâm lý tự nhiên là khi người ta được an toàn dư dật trong cuộc sống vật chất và danh vọng thì người ta coi nhẹ hay ít màng tới đời sống tinh thần. Họ thoả mãn với cuộc sống hiện tại, nên việc họ không tin vào đời sống sau này cũng là một điều dễ hiểu. Một điều lạ là ngày nay số người tin có sự sống sau khi chết (life after death) hay linh hồn bất tử tại Hoa Kỳ gia tăng. Nhưng nhiều người chỉ tin một cách mơ hồ nào đó chứ không tin theo lối tin truyền thống của niềm tin Kitô Giáo. Là những Kitô Hữu đích thực, chúng ta cần xác tín một chân lý là đời sống trên thế gian này không phải là đích tối hậu, nhưng là thiên đàng mai sau. Dầu thế, thiên đàng bắt đầu ngay từ đời này. Do đó đời sống hiện tại của chúng ta sẽ quyết định đời sống mai sau.

Theo Đức Thánh Cha Bênêđictô XVI, con người là chiếc cầu nối liền thế giới thần linh (spiritual) và vật chất (material) vì trong con người có cả hai yếu tố: linh hồn và thể xác. Qua con người, thế giới vật chất được nâng lên biên giới của thế giới thần linh (xem God and the World, tr. 89). Như thế, ngay ở đời này, chúng ta cũng có thể bắt đầu “sống như thiên thần”, và nếu chúng ta muốn bắt đầu cuộc sống như thiên thần trên đời này, chúng ta cũng cần phải đặt lại thứ tự giá trị cuộc sống: giá trị tinh thần trên vật chất; đòi hỏi của Phúc Âm và Giáo Hội trên đòi hỏi của nhu cầu tự nhiên; hướng tất cả về đời sống mai sau. Có lẽ chúng ta còn nhớ lời Chúa Giêsu dạy: “Được lời lãi cả thế gian này mà mất linh hồn mai sau thì được ích gì” (Mt 16:26). Lời Chúa hôm nay, một lần nữa kêu gọi chúng ta lựa chọn: Đời này hay đời sau.

Về mục lục

.

SỰ SỐNG ĐỜI SAU.

Lm.Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Vào thời Đức Giêsu, giới lãnh đạo Do thái chia thành nhiều nhóm khác nhau. Những người thuộc nhóm Biệt phái tin linh hồn bất tử và tin có sự sống lại đời sau. Một số khác tin rằng: cuộc sống sau khi chết cũng ăn uống, dựng vợ gã chồng, buôn bán, vui chơi bình thường như cuộc sống dương gian. Còn riêng nhóm Sađốc là những người quí tộc Do Thái, phần đông gồm các tư tế giàu có, giữ những chức vụ cao nhất trong đạo Do thái. Họ lấy Ngũ Thư tức 5 cuốn sách đầu của bộ Cựu ước (St, Lv, Ds, Xh, Đnl) làm tiêu chuẩn độc nhất về đạo lý, mà những sách này không nói rõ ràng về sự sống lại, cho nên đối với họ, linh hồn và thể xác chết là hết, và như vậy họ không tin có sự sống lại ở đời sau.

Chính vì thế, họ đặt vấn nạn với Đức Giêsu qua câu chuyện: người em phải lấy chị dâu để có con nối dõi tông đường, nếu người anh chết mà chưa có con. Họ đặt ra trường hợp có 7 anh em nhà kia cùng lấy một người đàn bà. Vậy sau khi sống lại người đàn bà ấy là vợ của ai?(Lc 20, 33).

Dựa vào nền tảng Thánh kinh, chúng ta chứng minh tin có sự sống lại ở đời sau.

Thứ nhất, chỉ những ai được tuyển chọn mới được vào Nước Chúa. Trong Tin mừng, Đức Giêsu nhiều lần đề cập đến việc tuyển chọn này. Chẳng hạn như dụ ngôn nói về ngày phán xét, Chúa tách chiên ra khỏi dê. Chiên tượng trưng cho người sống ăn ngay ở lành, còn dê tượng trưng cho những người làm điều gian ác (Mt 25, 31-46).

Dụ ngôn cỏ lùng, cỏ lùng bị gom lại bó thành bó và đem đốt đi, còn lúa thì thu lại đem vào kho lẫm (Mt 13, 24-30). Dụ ngôn chiếc lưới, cá tốt thì giữ lại, cá xấu thì bỏ đi (Mt 13, 47-50).

Dụ ngôn người phú hộ và người hành khất Lazarô. Người phú hộ rơi xuống biển lửa, còn Lazarô thì được hạnh phúc trong lòng tổ phụ Abraham (Lc 16, 19-31).

Thứ hai, thánh Phaolô nói rằng: “Tất cả chúng ta sẽ không chết, nhưng sẽ được biến đổi trong giây lát, trong nháy mắt….vì chưng, cái thân xác hay hư nát này sẽ mặc lấy sự bất diệt; và cái thân xác phải chết này sẽ mặc lấy sự trường sinh bất tử” (1 Cor 15, 51-53).

Như vậy, chết không phải là hết, nhưng là bước vào đời sống mới. Lúc bấy giờ con người sẽ sống giống như các thiên thần, nên không còn ăn uống. Vì người ta không chết nữa, cũng không còn cưới vợ lấy chồng, chẳng còn sinh sản con cái để nối dõi tông đường.

Cuối cùng, ngày lãnh Bí tích rửa tội, chúng ta được tái sinh làm con Chúa, được gọi Chúa là Cha, sau này được đồng thừa tự với Đức Kitô, được tham dự vào sự sống của Chúa Ba ngôi. Nếu ngay ở đời này, chúng ta ăn ngay ở lành, lập công tích đức, luôn sống trong ơn nghĩa Chúa, thì sau khi chết sẽ được Chúa ân thưởng vào Nước trời. Vì Đức Giêsu đã hứa: “Những người làm điều thiện sẽ phục sinh để được sống, còn những người làm điều ác sẽ sống lại để chịu án phạt” (Ga. 5,19).

Anh chị em thân mến,

Việc Đức Kitô phục sinh là bằng chứng hiển nhiên có sự sống lại đời sau, và đó cũng là nền tảng đức tin Kitô giáo.

 Vì như lời thánh Phaolô khẳng định: “Nếu Đức Kitô chết mà không sống lại, thì đức tin của chúng ta chỉ là hảo huyền, và lời rao giảng của chúng tôi cũng trở nên vô ích…(1Cor 15,14”.

Thật vậy, nếu không có sự sống lại đời sau, thì các thánh tử đạo không điên dại gì mà phải đổ máu mình ra. Nếu không có sự sống lại đời sau, thì các nhà truyền giáo không điên cuồng gì mà phải từ bỏ quê hương xứ sở để ra đi loan báo Tin mừng. Nếu không tin có sự thưởng phạt ở đời sau, thì chúng ta chẳng cần phải nỗ lực sống đạo hay lập công tích đức để làm gì.

Hơn nữa, chỉ vì tin có sự sống lại ở đời sau mà Giáo hội mời gọi các tín hữu sống mầu nhiệm các thánh cùng thông công, là cầu khấn cùng các thánh trên trời, cầu hồn xin lễ cho các linh hồn trong luyện tội. Một lần nữa, để xác tín niềm tin có sự sống lại ở đời sau, kính mời tất cả cộng đoàn cùng đứng lên tuyên xưng đức tin. Amen.

Về mục lục

.

SỐNG LẠI TỪ CÕI CHẾT

Lm. John Nguyễn Tươi

“Ai tin vào Ta thì có sự sống đời đời”

Theo quy luật của kiếp nhân sinh, con người được sinh ra, lớn lên, già yếu, bệnh tật và chết đi. Không ai có thể thoát khỏi quy luật này. Tuy nhiên, người ta vẫn đặt câu hỏi. Sau khi chết, con người sẽ đi về đâu?

Trong trang Tin Mừng hôm nay, chúng ta sẽ nghe câu trả lời của Chúa Giê-su về sự sống lại từ cõi chết. Khi nhóm Xa-đốc đến gặp Chúa Giêsu, nhóm này chủ chương không tin có sự sống lại, và họ đặt câu hỏi cho Chúa Giê-su: “Có bảy người anh em lấy một phụ nữ. Sau đó, tất cả điều phải chết đi mà không để lại đứa con nào. Cuối cùng, người đàn bà ấy cũng chết đi. Vậy trong ngày sống lại, người đàn bà ấy sẽ là vợ của ai, vì cả bảy đều đã lấy nàng làm vợ?” Câu hỏi này không chỉ nhóm Xa-đốc đặt ra cho Chúa Giêsu về sự sống lại mà ngay cả thời đại này, con người vẫn đang đi tìm câu giải đáp sự sống đời sau.

Tất cả các tôn giáo đều tin có sự sống đời sau. Thuyết luân hồi của đạo Phật, người ta tin vong hồn sẽ đầu thai vào một thân xác nào đó, và trở thành một kiếp khác theo quy luật nhân quả quy định. Giáo lý nhà Phật gọi là vòng luân hồi. Nó cứ mãi chuyển xoay đến khi nào linh hồn rũ sạch hết bụi trần. Giáo thuyết nhấn mạnh đến cái nghiệp quả của người kiếp trước. Vì vậy, họ tin rằng, cái nghiệp đó sẽ được diệt sạch bằng việc tu tâm và lòng từ bi thì sẽ được siêu thoát.

Dưới ánh sáng Tin Mừng hôm nay, Chúa Giêsu đã cho chúng ta câu giải đáp rõ về sự sống đời sau: Khi con người sống lại, những ai được xét và hưởng phúc đời sau, họ sẽ được sống lại từ cõi chết, thì họ không còn cưới vợ gã chồng nữa và không thể chết nữa vì họ được ngang hàng với các thiên thần. Tất cả là con cái của Thiên Chúa và được hưởng viễn mãn trên thiên đàng. Tất nhiên, người phụ nữa đó cũng chẳng thuộc về ai.

Với cái nhìn của con người, chúng ta thường bị giới hạn bởi không gian và thời gian, hay lệ thuộc về một người nào đó, khi chúng ta sở hữu những thứ chúng ta có. Chẳng hạn, cái nhà chiếc xe, hay ngay cả chuyện vợ chồng. Chết rồi còn hỏi Chúa cô ta thì thuộc về ai. Con nguời luôn tự ràng buộc mình vào những thứ thuộc về thế gian, nên họ cố bám víu vào nó như là thước đo cho những giá trị hạnh phúc ở đời. Nhóm người Xa-đốc, họ vẫn còn mang nặng mùi theo kiểu trần tục trong việc vợ chồng, rồi họ đặt ra vấn đề cô ta sẽ thuộc về ai.?

Ngẫm nghĩ sự đời, người ta vẫn thường nói: “Chết rồi cũng không buông tha”. Đời người thật mong manh, chóng qua.

Dựa trên các quan niệm về đời sau, chúng ta có thể nhận thấy rằng, con người luôn khao khát tìm kiếm chân lý, để làm cứu cánh và định hướng đi cho cuộc đời. Lòng khát khao đó giúp cho con người sống mỗi ngày để hoàn thiện bản thân mình, thì Thiên Chúa là con đường cho ta bước theo, là ánh sáng dẫn bước chúng ta. Ngài là ánh, là chân lý vĩnh cửu và trường tồn. Ánh sáng Phục sinh của Chúa Kitô thắp lên niềm tin và hy vọng cho tất cả nhân loại nhân, để nhận biết sự sống chiết suất từ Thiên Chúa. “Ai tin vào Ta sẽ được sống đời đời.” Giáo hội mời gọi chúng ta hãy luôn nhớ cầu nguyện cho các linh hồn trong tháng 11 này.

Chúa cho Lazarô sống lại thì Ngài cũng cho kẻ chết sống lại. Niềm tin và hy vọng của chúng ta là nơi Chúa Phục Sinh, Ngài sẽ chúng ta cũng được sống lại trong ngày sau hết, để hưởng phúc trên thiên đàng. Sự sống này chỉ thay đổi, chứ không mất đi. Với niềm xác tín vào sự sống đời đời, chúng ta sẽ biết chọn cho mình cách sống và hướng đi thích hợp ở đời này và cho đời sau. Đó là cách chọn lựa của mỗi người khi chúng ta sống trên trần gian này. Chúa Giê-su phán: “Lời lãi cả thế gian mà mất linh hồn thì được gì?.”

Lạy Chúa:

– Con vẫn nghe Lời Chúa dặn, con người sẽ được sống lại, nhưng tâm hồn con vẫn còn xa lìa Chúa.

– Con biết một ngày nào đó, con sẽ từ giã cõi đời này, nhưng nơi cõi lòng con vẫn còn tham lam của cải, danh vọng và lạc thú.

– Con vẫn biết trần gian là quán trọ để dừng chân, nhưng chân con vẫn chạy theo những thứ vui giả trá để giết chết thể xác và linh hồn.

– Con biết sự dữ và tội ác đang vây bủa thân con bởi kiêu ngạo, hận thù và gian ác nhưng con vẫn làm ngơ trước sự cám dỗ của ma quỷ.

Xin Ngài thương xót và cứu chữa linh hồn con cả đời này và đời sau. Amen.

Về mục lục

.

THỰC TẠI MỚI, TƯƠNG GIAO MỚI

Lm. Giuse Nguyễn Cao Luật

Câu trả lời của Vị Ngôn Sứ

Đứng trước cái chết, con người cảm thấy cuộc đời cá nhân của mình bị cắt ngang, họ tìm cách kéo dài sự hiện diện, sự tổn tại của mình qua các tác phẩm nghệ thuât, qua các công trình, qua con cái. Với những dấu vết đó, họ tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng họ không hoàn toàn biến mất, không hoàn toàn tiêu tan vì vẫn có những người nhắc nhớ đến họ, vẫn lưu giữ những kỷ niệm, những dấu vết của họ. Theo chiều hướng này, luật Mô-sê đã đưa ra điều khoản về “thế huynh” (xem Đnl 27,5-6): một người đàn bà goá mà không có con, phải kết hôn với em chổng để duy trì dòng dõi cho người anh quá cố.

Luật Mô-sê dành ưu tiên cho người đàn ông, nên phụ nữ, trẻ con chỉ là phương tiện, và từ đó tạo nên cả một hệ thống về quyền lợi, dựa trên những mối liên hệ khác nhau của ý định muốn tổn tại lâu dài. Những người thuộc phái Xa-đốc đã bắt đầu từ những mối liên hệ, những quyền lợi của cuộc sống này để đặt câu hỏi với Đức Giêsu: “Người đàn bà ấy sẽ là vợ ai?”

Theo một khía cạnh, câu hỏi đó có lý, vì nó khởi đi từ quan niệm về sự tổn tại, về quyền lợi, như đã được ghi lại trong luật Mô-sê, với mục đích duy trì dòng dõi của con người.

Thế nhưng, câu hỏi tự nó có tính cách phi lý và quá chi li: đây là một câu hỏi lắt léo nhằm để bắt bẻ hơn là làm sáng tỏ vấn đề. Đức Giêsu biết điều đó và Người không quan tâm. Người làm bùng nỗ hệ thống tư tưởng của con người về cuộc sống mai sau. Với tư cách là Vị Ngôn Sứ, Đức Giêsu đưa ra câu trả lời không theo lối suy nghĩ và những hoàn cảnh của cuộc sống trần gian. Người đến để loan báo, để thông ban sự sống mới, nhưng sự sống đó không phải là một sự tổn tại, không phải là trường thọ; trái lại, đó là một cuộc tái sinh, là sự đạt tới một thực tại khác, một mức độ mới.

Câu trả lời của Đức Giêsu không hề có ý nói rằng thực tại mới sẽ làm cho mọi người, mọi mối tương giao trở nên bằng nhau, như là một kiểu san bằng tất cả, nhưng chỉ có ý gạt bỏ khía cạnh xác thịt hay tình cảm của những mối tương giao: đó chỉ là những điểm khởi đầu có tính cách tự nhiên.

Khi người ta khen ngợi thân mẫu của Người, Đức Giêsu đã nói: “Ai là mẹ tôi, ai là anh em tôi?”, và Người đã khẳng định về một tương giao mới, về ý nghĩa của gia đình dựa trên mối tương giao với Lời Chúa. Những tương giao nhân bản vẫn có giá trị, nhưng sẽ phải nhường chôỵ cho một tương giao đích thực, trọn vẹn trong Nước Thiên Chúa.

Thực tại mới

Như thế, đời sau là một thực tại, một thực tại mới, khắc hẳn với trần thế này. Trong thực tại mới đó, tất cả đều biến đỗi: không thể lấy những tiêu chuẩn của trần gian để xét đoán, để mô tả đời sau. Thật là lầm lẫn khi đặt vấn đề: trong cuộc sống mai sau không có hôn nhân sao? hay tương tự như thế: ở đời sau có đá banh không? có ti-vi không? có… không? Những câu hỏi này vẫn chỉ dựa trên cái nhìn của trần thế để hiểu về đời sau.

Tuy vậy, vẫn có thể dựa trên mặc khải để hiểu về thực tại mới này như sau:

– Con người được nhìn thấy Thiên Chúa “nhãn tiền”. Thiên Chúa như thế nào, con người được thấy như vậy: đó là hưởng kiến, đó là hạnh phúc, vì được nhìn thấy Thiên Chúa với tất cả vinh quang của Người. Trong Thiên Chúa, con người hiểu rõ những gì liên quan đến mình, kể cả mối tương giao với bạn bè, với người thân trên mặt đất.

– Trong thực tại mới này, con người chìm ngập trong vinh quang rực rỡ của Thiên Chúa, không có gì cao đẹp hơn vinh quang đó, và con người chỉ có việc hưởng vinh quang, ca tụng vinh quang.

– Trong cuộc sống trần thế, con người vui hưởng tình yêu, cái đẹp, sự hiểu biết, quyền lực… những điều này chỉ có tính cách tương đối. Còn trong thực tại mới, Thiên Chúa là chính tình yêu, tình yêu trọn vẹn, là toàn năng, toàn mỹ, toàn thiện.

Đàng khác, theo thánh Phao-lô: thân xác của con người trong thực tại mới này sẽ hoàn toàn khác hẳn với thân xác trên mặt đất, như một cây to lớn khác với hạt giống khởi đầu. Cái gieo xuống là thân xác tự nhiên, cái mọc lên là thân xác thiêng liêng.

Thân xác vinh hiển không cần phải ăn uống hay những liên hệ của trần thế này. Khi ấy, con người được như thiên thần và nên con cái Thiên Chúa: họ hoàn toàn sống cho Thiên Chúa và quy hướng về Người.

Tin vào Thiên Chúa, Đấng Hằng Sống

Như vậy, câu trả lời của Đức Giêsu được giải thích như sau: Với cái chết, nhân loại được biến đỗi từ tình trạng thể lý, và được giải thoát khỏi những ràng buộc của trần thế. Chính Đức Kitô, Đấng sẽ chịu chết và phục sinh, loan báo sự thay đỗi này. Không chỉ có số phận của thân xác được thay đỗi, nhưng cả các tương giao xã hội: cơ chế và luật pháp sẽ chẳng còn giá trị, bởi vì chúng chỉ là thực tại tạm thời và vô ích, được sử dụng cho cuộc sống trần gian. Còn trong thực tại mới, tất cả phải biến mất, vì đó là cuộc sống vinh quang, là thời gian viên mãn, là “thời của Đức Kitô”.

Trong trình thuật này, Đức Giêsu nối kết hai ý niệm “con Thiên Chúa” và “được sống lại”. Điều này có nghĩa là con Thiên Chúa là những người được sinh ra trong đời sống vĩnh cửu, đời sống của chính Thiên Chúa.

Những người được hưởng ơn phục sinh có hai nét đặc trưng:

– Một là sự tự do của con cái Thiên Chúa. Theo thánh Phao-lô: những người con của Thiên Chúa không còn phải chịu nô lệ dưới ách lề luật, nhưng là những người hưởng tự do trong ân sủng.

– Hai là họ được Thánh Thần Thiên Chúa hướng dẫn. Nhờ sự vâng phục Thánh Thần – không hề đi ngược với tự do – họ trở nên những người sống giữa trần gian với nét độc đáo riêng của mình.

Nói thế, bởi vì Thiên Chúa là Đấng Hằng Sống: Người đã tạo tác sự sống và không để sự sống phải tiêu vong; trái lại, Người duy trì sự sống qua việc làm cho kẻ chết sống lại và ban phát sự sống trường cửu. Đức Giêsu sẽ chịu chết và Người sẽ sống lại để tất cả mọi người đều được phục sinh, được tham dự vào sự sống vĩnh cửu của Thiên Chúa.

Khi Đức Giêsu nói: “Thiên Chúa của tỗ phụ Áp-ra-ham, của tỗ phụ I-xa-ác, của tỗ phụ Gia-cóp”, Người không chỉ gợi lại các biến cố của thời quá khứ và các nhân vật đã qua, nhưng còn cho thấy Thiên Chúa là Đấng Bất Tử, là Đấng Bảo Tổn. Tất cả những ai đã chân thành, đã tin Thiên Chúa đều được sống với Người, sống vĩnh cửu. Niềm tin chân chính vào Thiên Chúa cũng gắn liền với niềm tin vào sự sống vĩnh cửu.

Qua cuộc đối thoại giữa Vị Ngôn Sứ của sự sống vĩnh cửu và những người không tin vào sự sống này, chúng ta được nhìn thấy những viễn tượng mới, rất rộng lớn.

Con người được mời gọi tín thác vào Thiên Chúa hằng sống, Đấng luôn yêu thương và hằng mong ước cho họ được sống với Người mãi mãi. Sự sống, tình thương nơi Thiên Chúa không phải là điều bất toàn, có tính cách tạm thời; trái lại đó là sự sống, là tình thương trọn vẹn, vĩnh cửu. Bởi vì Người là Đấng Hằng Sống và là Tình Yêu. Không nhận điều đó tức là không tin Người là Đấng Toàn Năng, và coi Thiên Chúa như bất cứ ngẫu tượng nào khác.

Ngoài ra, con người được kêu gọi vượt qua những giới hạn của tình trạng gia đình, nghề nghiệp, xã hội; đổng thời họ được kêu gọi vượt qua những biên giới của tình yêu trần thế, để ngay từ cuộc sống nơi trần thế, họ đã khởi đầu cho những tương giao mới, đạt tới tầm mức của con cái Thiên Chúa sẽ được hoàn tất trong cuộc sống mai sau.

Như vậy, với Đức Giêsu, cái chết không còn là một kết thúc, nhưng là khởi đầu cho cuộc sống mới, cuộc sống đích thực, cuộc sống vĩnh cửu.

Hạnh phúc cho những ai, trong những mối tương giao nhân loại, đã bắt đầu kiến tạo thực tại vĩnh cửu này. Bởi vì ngay từ bây giờ, họ đã khám phá ra sự thật của mối tương giao mới, mối tương giao do chính Thiên Chúa làm nảy sinh.

* * *

Lạy Thiên Chúa, Đấng sáng tạo tâm hổn,

Chúa là Đấng cho mọi loài được sống,

xin ban hạnh phúc cho chúng con.

Chúng con sống

không nhờ sức lực của chúng con

nhưng nhờ sự sống của Chúa

đang thấm nhuần cả vũ trụ.

Không phải tự sức chúng con

hoàn thành các công việc,

nhưng chính quyền năng cao cả của Chúa,

đang sống trong chúng con.

Một bạn trẻ Nhật Bản

Về mục lục

.

VẤN ĐỀ SỐNG LẠI

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Mấu chốt của vấn đề mà nhóm Xa-đốc hỏi Chúa Giêsu là sự sống lại và sự sống đó như thế nào. Chúa đã trả lời làm hai bước: Trước hết, Chúa nói về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại, sau đó, Chúa đưa ra một lập luận dựa trên một kiểu nói cơ bản nhất trong bộ Ngũ Kinh là những sách mà những người Xa-đốc công nhận là Sách Thánh.

Trước hết, về bản chất của cuộc sống sau khi sống lại. Chúa cho biết nó không phải là một sự lặp lại cuộc sống trần gian, hai yếu tố của cuộc sống trần gian mà những người Xa-đốc nêu lên là chuyện cưới vợ lấy chồng và cái chết thì sẽ không còn nữa, những người đã sống lại thì được ngang hàng với các thiên thần nên không thể chết được nữa. Sự sống sau khi sống lại là sự tham dự trọn vẹn vào cuộc sống của Thiên Chúa, lúc đó người ta mới thể hiện đầy đủ bản chất là con Thiên Chúa, vì người ta được sống bằng chính sự sống của Thiên Chúa. Con của loài vật thì có sự sống của loài vật, con của loài người thì có sự sống của loài người, con của Thiên Chúa thì có sự sống của Thiên Chúa. Người ta được ngang hàng với các thiên thần, giống như các thiên thần, không còn bận tâm nào khác ngoài việc chiêm ngắm và ngợi khen Thiên Chúa. Vậy thì lập luận của những người Xa-đốc không đứng vững, bởi vì chính quan niệm của họ về cuộc sống sau khi sống lại không đúng.

Tiếp theo, Chúa Giêsu dựa vào một kiểu nói cơ bản rút ra từ một đoạn văn then chốt trong Cựu Ước và đối với lịch sử Do Thái, đó là đoạn văn kể việc Thiên Chúa hiện ra với ông Mô-sê dưới hình ngọn lửa cháy trong bụi gai (Xuất Ai Cập 3,6). Chúa nhấn mạnh vào ông Mô-sê, vì phái Xa-đốc nhìn nhận uy quyền của ông. Trong sách thì đây là lời Thiên Chúa tự xưng với ông Mô-sê, nhưng vì truyền thống Do Thái coi đây là sách do ông Mô-sê viết, nên Chúa Giêsu dựa vào đó mà lập luận. Ông Mô-sê gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, Thiên Chúa của tổ phụ I-sa-ác, và Thiên Chúa của tổ phụ Gia-cóp. Phái Xa-đốc không tin có đời sau, chết là hết, bởi vậy Chúa Giêsu lập luận: nếu chết là hết, thì các vị tổ phụ kia đã chết rồi, mắc mớ chi mà gọi Đức Chúa là Thiên Chúa của tổ phụ Áp-ra-ham, I-sa-ác, Gia-cóp. Ngài là Thiên Chúa của kẻ sống chứ đâu phải là Thiên Chúa của kẻ chết. Bởi vì đã gọi Ngài là Thiên Chúa của ai tức là người đó đang sống, tuy đối chúng ta thì người đó chết rồi. Ông Mô-sê không khẳng định có sự sống lại, nhưng trong kiểu nói này ông Mô-sê cho thấy rằng có cuộc sống đời sau, con người không chỉ có cuộc sống trên trần gian này thôi, chết không phải là hết, nhưng là đi vào một cuộc sống mới, sống trước mặt Thiên Chúa và sống cho Thiên Chúa.

Chúng ta thấy lối lập luận của Chúa Giêsu thật độc đáo, nên những người tranh luận với Chúa đã chịu lý và không thể cãi lại. Vì thế, bài Tin Mừng hôm nay là dịp thuận tiện để chúng ta suy nghĩ về lời tuyên xưng cuối cùng trong kinh Tin Kính về sự sống lại và sự sống đời sau. Thực vậy, chúng ta tin có sự sống lại và có sự sống đời sau, nên chết không phải là hết, nhưng là bắt đầu sống thực sự, như chúng ta vẫn hát trong thánh lễ an táng: “Lạy Chúa, đối với tín hữu Chúa, đời sống thay đổi chứ không bị tiêu diệt”. Thánh Têrêxa Hài Đồng Giêsu, trên giường hấp hối, cũng đã nói: “Tôi không chết, tôi đang bước vào sự sống”. Quả thực, sự chết vẫn hiện hữu, nhưng chết chỉ là chốc lát, một khoảnh khắc, một giây phút, một bước đi: từ tạm thời sang vĩnh cửu, từ hữu hạn sang vô hạn, chết là bắt đầu một đời sống mới, một cuộc đời vĩnh cửu.

Tóm lại, chết là một sự kiện hiển nhiên không cần phải chứng minh, đã là con người thì sẽ phải chết. Và đối với đức tin của chúng ta, thì thân xác chúng ta chắc chắn sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống như thiên thần hay quỷ dữ lại là chuyện khác. Chắc chắn thân xác chúng ta sẽ sống lại, nhưng sống lại để sống hạnh phúc muôn đời hay bất hạnh ngàn thu là vấn đề chúng ta phải hết sức quan tâm, bởi vì kẻ lành, kẻ sống tốt lành thánh thiện cũng sống lại, và kẻ dữ, kẻ sống xấu xa tội lỗi cũng sống lại, nhưng sống lại để được thưởng hay chịu phạt, đó là điều khác biệt. Căn cứ vào đâu để Thiên Chúa thưởng hay phạt chúng ta? Căn cứ vào đời sống hiện nay của chúng ta, đời này quyết định số phận đời sau, như Chúa đã quả quyết: “Ai sống làm sao Ta sẽ trả cho như vậy”, “gieo thứ gì gặt thứ ấy”.

Lạy Chúa, cuộc sống này có là bao? Ba vạn sáu ngàn ngày là mấy? Xin cho chúng con luôn nhớ mình sẽ phải chết để sống tốt, sống lành hầu xứng đáng đón nhận phần thưởng vĩnh phúc.

Về mục lục

.

SỐNG

Lm. Giuse Đỗ Vân Lực

Càng bị đe dọa, sự sống càng vùng dậy mãnh liệt. Cái chết là một đe dọa lớn nhất và ghê sợ nhất. Muốn vươn đạt tới sự sống vĩnh hằng, con người phải có một sức mạnh hơn tử thần. Hôm nay, Đức Giêsu dẫn ta tới một cuộc sống trên cõi thiên thần.

HAI CUỘC SỐNG.

Cuộc sống rất tương đối. Sự sống thật hữu hạn. Thế nhưng niềm tin mở ra một chân trời mới. Thế giới đang tiến về một đỉnh cao dành cho “những ai được xét là đáng hưởng phúc đời sau và sống lại từ cõi chết” (Lc 20,35) Sống trong thế giới đó, con người không còn bị lệ thuộc vào những điều kiện vật chất hữu hạn nữa. Tất cả đều “là con cái Thiên Chúa, vì là con cái sự sống lại.” (Lc 20,36) Một cuộc lột xác hoàn toàn sẽ đem lại cho nhân loại một sự sống mới chưa từng thấy.

Sự sống bắt nguồn từ chính Thiên Chúa. Bởi vậy, sự sống không thể thua sự chết, không thể bị tắc nghẽn vì những giới hạn tử thần. “Hỡi tử thần, đâu là nọc độc của ngươi? Tạ ơn Thiên Chúa, vì Người đã cho chúng ta chiến thắng nhờ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta.” (1 Cr 15,56-57) Nếu không có Đức Giêsu, chắc chắn tất cả nhân loại sẽ bị tử thần khuất phục. Đó là điều sỉ nhục đối với Thiên Chúa. Nhưng Đức Giêsu đã phục sinh để chứng minh Thiên Chúa “không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống” (Lc 20,38) nhờ máu Đức Giêsu đổ ra trên thập giá. Chính niềm xác tín vào sự sống như thế đã cho ta có quyền hi vọng vào chiến thắng cuối cùng của Thiên Chúa, Đấng “đã dùng ân sủng mà ban cho chúng ta niềm an ủi bất diệt và niềm cậy trông tốt đẹp.” (2 Tx 2,16)

Nếu chỉ nhìn theo nhãn quan trần thế, không thể nào có được niềm an ủi và cậy trông đó. Nhóm Xađốc đã dựa trên hiện tại để củng cố “chủ trương không có sự sống lại.” (Lc 20,27) Họ hoàn toàn căn cứ vào tương quan hôn nhân để phi bác cả một thế giới thiêng liêng, nơi con người “không thể chết nữa, vì được ngang hàng với thiên thần.” (Lc 20,35) Chỉ trong cuộc sinh tồn đắp đổi này, con người mới cần đến hôn nhân để duy trì cuộc sống. Còn trong cõi vĩnh hằng, tại sao cần phải duy trì sự sống bằng những phương tiện của thế giới vật chất nữa? Hai thế giới khác nhau không thể dựa trên cùng một nền tảng. Lập luận của nhóm Xađốc hoàn toàn nằm ngoài qui luật thiên giới. Họ không thể vượt ra ngoài cõi tục để thấy được cuộc sống của con cái Thiên Chúa, vì họ không phải là con cái sự sống lại. Cuộc sống đó thật là mầu nhiệm và siêu việt, nhưng lại rất thực tiễn vì đáp ứng được niềm ước vọng bất tử của nhân loại và vào chính sự phục sinh của Đức Giêsu. Thật vậy, “nếu kẻ chết không sống lại, thì Đức Kitô đã không chỗi dậy. Mà nếu Đức Kitô đã không chỗi dậy, thì lòng tin của anh em thật hão huyền, và anh em vẫn còn sống trong tội lỗi của anh em.” (1 Cr 15,13.16) Nếu niềm tin chúng ta hoàn toàn hão huyền, làm sao Kitô giáo lại có thể đem lại cho nhân loại một nền văn minh tốt đẹp như vậy? Thực tế, nhân loại đã được giải thoát khỏi xích xiềng tội lỗi nhờ cuộc phục sinh của Đức Giêsu. Bởi thế, không thể không có sự sống lại. Đó là niềm tin căn bản nhất và vững chắc nhất, chi phối toàn thể cuộc sống Kitô hữu.

Niềm tin đó đã bắt nguồn rất sâu xa trong Kinh thánh. Quả thế, “hồi ấy, có bảy anh em bị bắt cùng với bà mẹ” (2 Mcb 7,1) dưới thời vua Antiôkhô. Họ đã có tất cả sức mạnh chiến thắng tử thần nhờ “dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hi vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2 Mcb 7,14) Bao nhiêu cực hình đã không chiến thắng nổi niềm tin vững chắc và đầy quả cảm đó. Nếu “luật pháp của cha ông” (2 Mcb 7,8) đã khiến cho họ có sức mạnh lớn lao đến thế, thì “Đấng đã làm cho Đức Giêsu sống lại từ cõi chết cũng sẽ dùng Thần Khí của Người đang ngự trong anh em, mà làm cho thân xác của anh em được sự sống mới.” (Rm 8,11) Thế nên, niềm tin vào sự sống lại được chính Ba Ngôi bảo đảm. Niềm tin đó đang trổ sinh những mùa màng tươi tốt trên toàn thế giới.

Như vậy Đức Giêsu đã dùng một lập luận vững chắc để phi bác niềm tin của phai Xađốc. Lập luận đó căn cứ trên thực tế cuộc sống thiên thần và qui chiếu vào Kinh thánh. Chính thực tại lớn lao là “Thiên Chúa của kẻ sống” đã đủ mạnh để áp đảo tất cả những lập luận bênh vực cho sự chết. Đối với Thiên Chúa, không có vấn đề chết. Vì tất cả đã được Đức Kitô trả lại sự sống mới bắt nguồn từ Thiên Chúa.

MỞ RỘNG TẦM NHÌN.

Không có sự sống mới đó, cuộc sống hiện tại sẽ trở thành nhàm chán và vô nghĩa. Nói khác sự sống lại không phải là sự nối tiếp cuộc sống hiện tại. Bởi vậy vấn đề các người Xađốc đặt ra hoàn toàn “trật dơ”. Sự sống lại khác tự bản chất, vì con người sẽ “ngang hàng với các thiên thần.” (Lc 20,36) Không có niềm hi vọng sống lại, không thể đủ nghị lực và phấn khởi vượt qua những thách đố phi lý của cuộc sống hiện tại. Trái lại, sự sống lại là động cơ thúc đẩy con người vươn tới những mục tiêu siêu việt.

Không mở rộng tầm nhìn, không thể thấy được tất cả ý nghĩa sự sống lại đem lại cho sự sống hôm nay. Sự sống hôm nay đang dẫn tới cái chết. Đó là một sự phi lý hoàn toàn. Nhưng sự sống lại giúp con người hiểu được tại sao mình sống và đang đi về đâu. Sự sống lại sẽ dẫn con người tới một sự thật: Thiên Chúa là “Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống.” (Lc 20,38) Nghĩa là, đối với các tín hữu, không gì, kể cả cái chết, có thể làm họ thất vọng. Những người không có niềm tin vào “Thiên Chúa của kẻ sống”, chỉ thích chọn giải pháp dễ dãi của tử thần. Chẳng hạn, những người chủ trương cho chết êm dịu, phá thai, triệt sản, khủng bố v.v hoàn toàn đóng khung tầm nhìn vào những giới hạn trần giới.

Bởi đấy, cần phải mở rộng tầm nhìn vào cõi sống của “con cái sự sống lại” để tìm một giải pháp toàn diện cho những bế tắc hôm nay. Nhưng đừng để bị những kẻ mơ mộng đánh lừa. Họ có thể nhân danh sự sống đời sau để đẩy con người vào cõi chết. Những kẻ khủng bố 11/9/2001 vừa qua cũng tin vào sự sống bất diệt nơi Thiên Chúa. Nhưng họ đã tạo ra bao đau thương cho chính mình và nhân loại. Có một sự mâu thuẫn giữa cuộc sống hiện tại và tương lai trong niềm tin của họ. Mặc dù có sự khác biệt sâu xa, nhưng niềm tin vào cõi bất tử không thể là một lối thoát cho những người tuyệt vọng như vậy.

Bởi đấy niềm tin vào sự sống lại chỉ chính đáng khi đem lại cho con người sức mạnh xây dựng cuộc sống hiện tại tốt đẹp hơn. Niềm tin đó đang là điểm tựa cho nhiều người trong cuộc chiến chống lại tử thần. Đó là lý do tại sao Kitô hữu không ngừng vận dụng mọi nỗ lực xây dựng nền văn minh sự sống, chống lại nền văn minh sự chết. Từ nay nhờ Đức Giêsu, trong văn minh sự sống Kitô hữu có thể đem lại niềm hi vọng lớn lao cho nhân loại.

Tất cả đều “dựa vào lời Thiên Chúa hứa mà hy vọng sẽ được Người cho sống lại.” (2 Mcb 7,14) Lời hứa đó thực sự đã được thực hiện trên thập giá Đức Giêsu. Chính Người “là sự sống lại và là sự sống” (Ga 11,25) của chúng ta. Không có Người, tất cả sẽ trở thành vô nghĩa và vô giá trị, vì tất cả bị thần chết tiêu diệt. Nhưng nếu muốn thoát ách tử thần, Kitô hữu phải “đồng hình đồng dạng với Người trong cái chết của Người, với hi vọng có ngày cũng được sống lại từ trong cõi chết.” (Pl 3,10) Thập giá là con đường dẫn tới sự sống và sự sống lại trong Đức Giêsu Kitô.

Về mục lục

.

MẦU NHIỆM SỰ SỐNG LẠI

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Niềm tin vào sự Phục sinh thân xác là điều mới mẻ và được lần hồi tin tưởng và khẳng định trong lịch sử dân Israel, nhất là vào giai đoạn muộn thời của thế kỷ II vào những năm 165 trước Chúa giáng sinh, trong cuộc chiến của anh em nhà Macabê chống lại những cuộc xâm lăng của nhà vua Hy lạp Antiôkhô Êpiphane. Bận tâm của những người do thái là Đền thờ và Lề luật, họ luôn nhắc nhở mọi người trung thành với Đền thờ và Lề luật là những yếu tố cốt lõi của đời sống tôn giáo của dân tộc của họ. Cuộc chiến đấu của anh em nhà Macabê là một cuộc chiến tranh dành độc lập cho dân tộc chống lại những người Hy lạp đến làm ô uế đền thờ và thay đổi phong tục thiêng liêng của người do thái. Họ quan niệm rằng cuộc chiến của họ vì đức tin và vì lề luật sẽ là hoàn cảnh giúp cho dân Chúa được ý thức nhiều hơn về lòng trung tín của mình đối với Thiên Chúa là Đấng trung tín, luôn có sự sống sung mãn sẽ ban tặng lại sự sống đời đời cho những ai tuyên xưng lòng tin vào Thiên Chúa qua việc trung tín với lề luật và dám hy sinh mạng sống mình. Câu chuyện trích đoạn hôm nay nhắc lại cái chết tử đạo cao cả đẩm máu của người mẹ và bảy con trai của bà. Tất cả họ đều can đảm tuyên xưng niềm tin và lòng trung tín đối với lề luật chống lại quân vô đạo, bắt ép họ bỏ lề luật cha ông bằng cái chết của mình. Họ thà chết chứ không chấp nhận vâng theo lệnh vua mà từ bỏ lề luật. Họ đều tuyên xưng rằng dù có chết, nhưng Thiên Chúa là Đấng hằng sống sẽ ban lại cho họ sự sống đời sau bất diệt cao quí hơn nhiều sự sống đời này.

          Vào thời Chúa Giêsu, những người thuộc phái Sađuxê là những người rất bảo thủ. Họ luôn bám vào sách Ngũ thư, vẫn được gọi là sách Luật, để từ chối niềm tin vào sự sống lại đã được hình thành lần hồi qua trào lưu các tiên tri, nhất là vào thời cuộc chiến tranh của nhà Macabê vào khoảng những năm 165 trước Chúa giáng sinh. Những người Sađuxê biết rằng Chúa Giêsu, những người Pharisiêu và phần đông dân chúng tin vào sự phục sinh nên họ đặt ra một tình huống nan giải để chứng minh không thể có sự phục sinh. Có bảy anh em lần lượt cùng cưới một người đàn bà làm vợ, vậy nếu có sự sống lại thì bà sẽ là vợ của ai. Theo luật levirat vốn đã lỗi thời lúc đó, cho phép người em có thể cưới chị dâu khi người anh ruột qua đời mà không có con. Người con đầu lòng mà người chị dâu này sinh ra sẽ mang tên người anh đã quá cố và sẽ được xem như là con của người anh theo luật pháp. Theo quan niệm bình dân lúc bấy giờ, người ta vốn tin rằng những người chết sẽ sống lại vài giai đoạn trước thời kỳ của Đấng cứu thế, diễn ra trước phán xét chung. Những người chết sống lại sẽ sống một cuộc đời tiếp nối cuộc đời trần thế này, và họ sẽ tham dự vào cuộc phán xét chung. Chúa Giêsu giải thích chống lại những lối hiểu chật hẹp này, người điều chỉnh lại quan niệm này. Sự sống lại không phải chỉ là tiếp nối sự sống trần thế. Đây sẽ là sự sống giống như của các thiên thần, người ta sẽ không cưới vợ lấy chồng nữa. Đây sẽ là một sự tạo dựng mới, một sự biến đổi tận căn triệt để, được tham dự vào ánh sáng mới huy hoàng của Thiên Chúa, được tham dự vào vinh quang chói lòa, được gọi là con Thiên Chúa, và sự sống này chỉ dành cho những người công chính là những người được xét xứng đáng tham dự vào vinh quang  đời đời, trong khi đó những người tội lỗi thì không được tham dự vào sự sống này, nhưng họ sẽ phải bị chết tủi nhục muôn đời. Chúa Giêsu nhắc lại câu chuyện hiện ra với Môisen trong bụi gai bốc cháy: Thiên Chúa của Abraham, Isaác, Giacóp. Tương quan mà người ta có được với Thiên Chúa là một tương quan bền vững, không hề bị gián đoạn và Thiên Chúa luôn là Đấng thành tín với giao ước mà người đã thiết lập. Sự chết không làm đổ vỡ giao ước của Thiên Chúa với những người mà Thiên Chúa yêu thương và hằng đặt lòng tin tưởng cậy trông vào người.

          Mầu nhiệm phục sinh thân xác là điều mới mẻ mà Chúa Giêsu chỉ mới hé lộ phần nào. Người ta dễ có quan niệm hoặc là phủ nhận như người Sađuxêô, hoặc quan niệm đó sẽ là một sự tiếp nối của đời sống trần gian, với đời sống phái tính, vợ chồng và sinh con đẻ cái. Thật ra, khi khẳng định có sự sống lại, Chúa Giêsu không bảo đảm rằng những gì mà chúng ta đã xây dựng, đã có trên trần gian này sẽ được bảo đảm mãi mãi ở đời sống mai sau. Rồi thì chúng ta sẽ quay trở lại cuộc sống xinh đẹp khoẻ mạnh giống như chúng ta đang sống, gặp gỡ lại những người thân quen đầy đủ không thiếu một ai và sự sống lại chỉ đơn giản là hành động của Thiên Chúa bảo đảm cho mọi sự lại tiếp nối và những gì mà chúng ta đã biết như hiện nay vẫn cứ tiếp tục mãi như thế. Điều Chúa Giêsu hé mở phần nào cho chúng ta, đó là sự sống lại là một thế giới mới, hoàn toàn khác với những gì chúng ta hình dung. Chúng ta không cần phải có con cái để tiếp tục duy trì nòi giống, nhưng chúng ta sẽ cảm nghiệm sự sống chân thật  vĩnh cửu đầy vinh quang của Thiên Chúa, khi đó những tương quan giữa con người không còn chỉ là những tương quan thân xác như chúng ta vốn có trong đời sống con người mà sẽ là những tương quan tinh thần như là tương quan giữa các thiên thần. Nói chung, chúng ta được mời gọi chuẩn bị cho một thế giới mới, hoàn toàn khác với thế giới chúng ta đang sống. Sâu xa hơn nữa, chúng ta được mời gọi đón nhận và trải nghiệm điều này, đó là sự sống mới này bắt đầu từ bây giờ, trong đời sống hiện tại từ khi chúng ta lãnh nhận bí tích rửa tội  là đã bắt đầu đi vào tương quan với Chúa Giêsu, được đón nhận sự sống mới thần linh, và được không ngừng nuôi dưỡng trong đời sống này ngay từ cuộc đời hiện tại như chút men người đàn bà đã trộn vào đấu bột, như hạt cải bé nhỏ không ngừng lớn lên để trở thành một cây lớn mà chim trời đến đậu.

          Khẳng định mầu nhiệm Phục sinh dẫn chúng ta đến việc suy nghĩ về việc Chúa Giêsu sẽ trở lại lần thứ hai. Việc Chúa trở lại không phải để làm cho chúng ta lo sợ mà để chuẩn bị chúng ta. Người đến để phán xét kẻ sống và kẻ chết, sự phán xét này sẽ xác định xem chúng ta có được phúc tham dự sự sống đời đời hay phải chịu tủi nhục muôn đời. Phúc cho chúng ta đó là được nhắc nhở để rồi biết chuẩn bị xứng đáng và những chọn lựa trong đời sống hằng ngày mà chúng ta bắt đầu thực hiện sẽ quyết định cho sự phán xét sau này khi Chúa trở lại.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA CỦA KẺ SỐNG

Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Thiên đàng theo ý con người

Không có một tôn giáo nào mô tả Thiên Đàng là một khu vườn với những lạc thú vật chất và nhất là những lạc thú nhục dục tuyệt đỉnh với những cô gái trinh đẹp tuyệt vời và trẻ mãi không già… như trong kinh Koran. Người ta gọi Thiên Đàng của Hồi Giáo là Thiên Đàng của lạc thú (The Paradise of Delights) hoặc Thiên Đàng của Kinh Koran (The Koranic Paradise).

Kinh Koran (47:15) cho biết trên thiên đàng có những con sông với những dòng nước nguyên chất (rivers of purest water) những con sông sữa tươi không bao giờ hư (rivers of milk for ever fresh) và những con sông mật ong trong sạch nhất (rivers of clearest honey). Chương 56:16-39 mô tả thiên đàng là những khu vườn lạc thú (garden of delights) và mọi người lên thiên đàng đều trở thành những thanh niên trẻ mãi không già (Immortal Youth). Điều đặc biệt nhất là trên thiên đàng Hồi Giáo có các cô gái trinh đẹp tuyệt vời với những cặp mắt đen huyền vô cùng quyến rũ (the dark-eye houris).

Thiên Chúa Allah đã phán rằng: “Ta đã tạo ra các cô trinh nữ tuyệt vời đó, giữ cho họ mãi mãi trinh trắng với tình yêu nồng nàn để làm phần thưởng cho những ai làm việc phải” (We created the hourist and made them virgins, loving compassion, a reward for those on the right hand – Koran: surah 56).

Hầu hết các thanh niên Hồi Giáo cuồng tín đều ước mơ sớm được lên thiên đàng lạc thú. Con đường ngắn nhất và bảo đảm nhất để họ đạt được mục đích này là sẵn sàng tử đạo trong các cuộc thánh chiến (Jihad). Kinh Koran hứa rằng: “Những ai bị giết vì Chúa đều được vào thiên đàng lạc thú” (As for those who are slain in the cause of God, He will admit them to the Paradise of Delight). “Đừng bao giờ nghĩ rằng những người bị giết vì Chúa sẽ chết. Họ sẽ sống mãi, không có gì phải sợ hãi hoặc hối hận, hãy vui hưởng các hồng ân của Chúa. Chúa không bao giờ từ chối phần thưởng dành cho các tín đồ của Ngài” (Never think that those who were slain in the cause of God are dead. They are alive and well provided for by the Lord. Have nothing to fear or to regret, rejoicing in God’s grace. God will not deny the faithful their reward – Koran 3:169). (Internet)

Ở Trung Quốc, khi người ta khai quật những phần mộ cổ xưa, đặc biệt hạng người giàu có, và vua chúa, người ta khám phá nhiều thứ đồ mang theo để phục vụ cho “cuộc sống mai sau” được sung túc như cuộc sống trần gian họ từng được hưởng. Tần Thủy Hoàng là một thí dụ. Năm 1974, người ta bắt đầu khai quật và khám phá hàng ngàn tượng lính đất nung trong lăng mộ Tần Thủy Hoàng. Theo tài liệu sử học Trung Quốc và những truyền thuyết được lưu truyền rộng rãi, nó giống như một phần bản đồ thành phố với những bức tường, cung điện, nghĩa trang, tức là có thể phục vụ Tần Thủy Hoàng khi ông sang thế giới bên kia.

Ở Việt Nam, cũng có tục lệ đốt “hàng mã”. Hàng mã gồm đủ loại, từ nhà lầu, xe hơi, xe Honda, đến quần áo, tiền bạc, để người chết dùng khi về cõi âm phủ.

Hóa ra, hạnh phúc trên Thiên Đàng, trong cõi vĩnh hằng, cũng tầm thường, nhàm chán đến thế sao? Và chính cái tầm thường, nhàm chán, chóng qua ấy, lại chính là sự cản trở bước tiến con người, cản trở sự vươn cao, sự thăng hoa của con người. Hạnh phúc của cuộc sống sau khi chết cũng không khác gì cuộc sống trần thế, nên phải thụ hưởng những gì ta đang có trên cõi đời này, cần gì tin những hứa hẹn xa xôi về hạnh phúc mà mình sẽ có.

Những thứ hạnh phúc giới hạn phù phiếm kiểu trần gian ấy rồi cũng dẫn đến những giới hạn của cuộc sống, những ngang trái, u sầu, những khát vọng vô tận không thể đáp ứng được…

Tình huống người vợ có bảy đời chồng mà nhóm Xa-đốc đặt ra thật khó xử nếu con người sống lại và “cuộc sống trần gian” lập lại ở… bên kia thế giới! Khi đưa ra trường hợp này, phái Xa-đốc thật có lý khi nhìn thấy bao điều rắc rối của cuộc sống sau khi con người sống lại và nếu cuộc sống “kiếp sau” này giống hệt đời người đã đi qua. Và như thế, con người phải giải quyết những gì cuộc sống trần gian còn dang dở.

Thực tế, câu chuyện mà nhóm Xa-đốc đưa ra chỉ là một trong muôn thứ vấn đề rắc rối khó giải quyết khi con người từ cõi chết sống lại và tiếp tục sống như chưa từng chết. Hãy thử tưởng tượng còn biết bao nhiêu chuyện ngang trái, biết bao nhiêu nghịch cảnh, biết bao chuyện trắng đen, con người sẽ giải quyết ra sau khi con người sống lại.

Thật, nhóm Xa-đốc cũng có lý của họ khi dựa vào đó để bảo vệ lập trường của mình. Vì họ không tìm thấy câu giải đáp cho vấn đề.

Sở dĩ họ không thể tìm thấy câu giải đáp, vì họ quan niệm sự sống lại – cõi vĩnh hằng – hay vào Thiên Đàng – không khác gì cuộc đời trần thế. Con người sau khi sống lại, vẫn là con người của ngày nào khi còn sống ở trần gian!

Thế thì, bản thân con người, sự sống lại đó có khác gì sự thức dậy từ một giấc ngủ? Và cuộc sống sau khi chết, có khác gì thay đổi một chỗ định cư?

Thiên đàng theo thánh ý Chúa.

Sự sống lại.

Cuộc hành trình của con người là một cuộc hành trình lột xác, không ngừng thay đổi và lớn lên trong Thánh Thần.

Con người phải nhận ra những tội lỗi thấp hèn của mình và sống trong tình yêu của Thiên Chúa. – Sống trong tình yêu Thiên Chúa, là sự sống lại trong Đức Giêsu Kitô. “Khi còn nô lệ tội lỗi, anh em được tự do không phải làm điều công chính. Bấy giờ anh em thu được kết quả nào, bởi làm những việc mà ngày nay anh em phải xấu hổ? Vì rốt cuộc những việc ấy đưa đến chổ chết. Nhưng giờ đây anh em đã được giải thoát khỏi ách tội lỗi mà trở thành nô lệ của Thiên Chúa; anh em thu được kết quả là được trở nên thánh thiện, và rốt cuộc sự sống đời đời. Thật vậy, lương bổng mà tội lỗi trả cho người ta, là cái chết; còn ân huệ Thiên Chúa ban không, là sự sống đời đời trong Đức Kitô, Chúa chúng ta”. (Rm.6,20-23).

Chính nhờ sự sống trong Đức Kitô, con người được thanh sạch, trong trắng. Sự sống lại ấy làm con người trở nên như thiên thần. Cuộc sống của một con người mới trong một thế giới mới.

“Phép rửa nay đã cứu thoát anh em. Nhờ phép rửa này, không phải là anh em được tẩy sạch vết nhơ thể xác, mà là cầu xin Thiên Chúa ban cho mình một lương tâm trong trắng, nhờ Đức Kitô phục sinh, Đấng đã lên trời ngự bên hữu Thiên Chúa” (1Pr.3,21-22).

Thế giới vĩnh hằng

Thiên Chúa ban sự sống cho mọi loài thụ tạo. Và sự sống bởi Ngài mà có. Ngài yêu thương sự sống mà Ngài tạo dựng ra.

Do đó, Ngài không bao giờ hủy diệt sự sống, điều mà Ngài đã tạo dựng và Ngài thấy tốt lành. “Người không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống, vì đối với Người, tất cả đều đang sống”(Lc.20,28).

Thế giới vĩnh hằng không phải là thế giới trần gian kéo dài để tiếp nhận con người từ cõi chết sống lại. Cõi Vĩnh Hằng là một thế giới hoàn toàn mới với hạnh phúc vô biên vượt qua thứ hạnh phúc dục vọng phàm phu của kiếp người trần thế. Thế giới ấy là “Trời mới Đất mới” mà những con người đã được thanh luyện và sống lại trong Đức Kitô mới hiểu được và vào được. “Bấy giờ tôi thấy trời mới đất mới, vì trời cũ đất cũ đã biến đi mất, và biển cũng không còn nữa. Và tôi thấy Thành Thánh Giêrusalem mới, từ nơi Thiên Chúa mà xuống, sẵn sàng như tân nương trang điểm đến đón tân lang. Rồi tôi nghe từ phía ngai có tiếng hô to: “Đây là nhà tạm Thiên Chúa ở cùng nhân loại, Người sẽ cư ngụ cùng với họ. Họ sẽ là dân của Người, còn chính Người sẽ là Thiên-Chúa-ở-cùng-họ. Thiên Chúa sẽ lau sạch nước mắt họ. Sẽ không còn sự chết; cũng chẳng còn tang tóc, kêu than và đau khổ nữa, vì những điều cũ đã biến mất” (Kh. 21,1-4).

Những điều cũ đã biến mất, nên không có sự tồn tại của câu chuyện “người đàn bà có bảy đời chồng” hay những “chuyện cũ” tương tự. Tất cả đã trở nên tinh tuyền trong Đức Kitô. Và tất cả chỉ còn là niềm hạnh phúc vô tận trong Tình Yêu Thiên Chúa. “Họ là những người đã đến, sau khi trải qua cơn thử thách lớn lao. Họ đã giặt sạch và tẩy trắng áo mình trong máu Con Chiên. Vì thế, họ được chầu trước ngai Thiên Chúa, đêm ngày thờ phượng trong Đền Thờ của Người”. (Kh.7,14).

Nếu con người vẫn còn mê ngủ trong những cuộc vui hưởng thụ trần thế, họ sẽ dừng lại hạnh phúc đời người ở giới hạn đó. Nếu con người không vươn cao lên, con người không thể nào hiểu được thế nào là sống lại và thế nào là hạnh phúc trong Đức Kitô. Không thể nào hiểu được thì không thể nào tin được con người sẽ sống lại, như những người thuộc nhóm Xa-đốc. Vì, mọi sự chỉ sáng tỏ trong ánh sáng Đức Kitô. Và Nước Trời chỉ thuộc về những ai Ngài tuyển chọn. “Kìa đoàn người thật đông không tài nào đếm nổi, thuộc mọi dân, mọi chi tộc, mọi nước và mọi ngôn ngữ. Họ đứng trước ngai và trước Con Chiên, mình mặc áo trắng, tay cầm nhàn lá thiên tuế. Họ lớn tiếng tung hô: ‘Chính Thiên Chúa chúng ta, Đấng ngự trên ngai, và chính Con Chiên đã cứu độ chúng ta’”. (Kh.7,9-10).

Thực tế, con người ngày nay với những bước tiến khoa học, đã vươn ra rất xa. Vươn xa đến tận cuối chân trời, vươn xa vào vũ trụ mênh mông, nhưng con người đã không vươn cao được, ngược lại con người còn tuột dốc. Những giá trị đạo đức của con người ngày nay thu hẹp lại, còn những điều phi nhân phi nghĩa thì phình to ra. Con người vươn rộng chiều ngang nhưng lại thu ngắn chiều cao. Tâm hồn của con người cạn dần sức sống thiêng liêng và những giá trị nhất thời thay thế dần những giá trị cao siêu bền vững.

Thật sự, sống lại, phải được hiểu là sự sống lại trọn vẹn xác hồn. Sống dồi dào. Sống hạnh phúc. Và như thế, không có sự sống lại và không có thiên đường trong những con tim không có tình yêu Thiên Chúa ngự trị.

Lạy Chúa,

Xin cho con từng ngày luôn tỉnh thức, từng ngày đổi mới, từng ngày sống lại, trong tình yêu Chúa. Amen.

Về mục lục

.

SỰ SỐNG ĐỜI SAU SẼ NHƯ THẾ NÀO?

Lm. Giuse Đỗ Đức Trí

Kính thưa quý OBACE

Gần đây từ Miền Bắc đến Miền Nam, xuất hiện nhiều người tự xưng mình là những “nhà ngoại cảm” có khả năng tiếp xúc với vong hồn, cõi âm, cũng từ đó rộ lên phong trào tìm hài cốt người thân. Không chỉ như thế, nhiều nhà ngoại cảm đã biến mình trở thành những thứ thày bói, thày thuốc, chữa bệnh và bói bệnh cho nhiều người, chữa bệnh bằng cách đào nhà để tìm cốt. Trong số này có cả một vài linh mục tu sĩ biến mình trở thành ông thày bà cốt. Có một thời gian Bộ Thương Binh Xã hội cũng cậy nhờ những người này để truy tìm hài cốt các liệt sĩ, tuy nhiên một vài tuần gần đây báo đài đồng loại đưa tin và lật tẩy cảc chiêu lừa của các nhà ngoại cảm này. Qua xét nghiệm ADN, thì đa số đều không chính xác, có khi là xương hoặc răng thú vật. Điều này đang khiến dân chúng hoang mang nửa tin nửa ngờ. Việc bốc cốt tìm cốt này nó không chỉ tác động trên đời sống người dân, mà nó còn tác động trên đời sống đức tin của nhiều tín hữu, và điều nguy hiểm hơn nữa là nó đang làm sai lệch giáo lý của Giáo Hội Công Giáo về Bốn Sự Sau: Sự chết, Phán xét, Thiên Đàng và Hỏa ngục.

Cho đến hiện nay thì cả những người xưng mình là vô thần, cũng không thể phủ nhận được niềm tin linh hồn bất tử và sự hiện hữu của một cuộc sống sau khi chết. Trước đây, có một thời những người duy vật, vô thần cực đoan đã phủ nhận Thiên Chúa và tất cả các thực tại thiêng liêng, và họ cho rằng con người chỉ là vật chất, chết là hết. Thế nhưng ngày nay trong thực tế, chính những người này lại đang tin vào thế giới vô hình, thế giới của các linh hồn, và tin rằng thế giới ấy đang ảnh hưởng trên thế giới trên cuộc sống hiện tại và còn ảnh hưởng trên tương lai sự nghiệp của họ. Chính vì vậy mà họ cúng bái, tin kiêng, yểm bùa và không dám xúc phạm đến xác chết, đến mồ mả của người chết.

Quả thực nếu chết là hết theo quan niệm của những người chủ trương duy vật vô thần, thì con người không khác chi con vật. Nếu con người không có linh hồn, thì cái chết của con người cũng không khác chi cái chết của con chó, và người ta cũng không cần thắp nhang tôn kính người qua đời. Niềm tin tôn giáo chỉ cho chúng ta biết rằng, con người có xác có hồn. Đặc biệt đức tin Kitô Giáo còn cho chúng ta một niềm tin chắc chắn rằng: Cái chết chỉ là một giai đoạn tạm thời, là giai đoạn chờ đợi, rồi tất cả chúng ta sẽ có ngày sống lại khi Đức Kitô trở lại.

Niềm tin kẻ chết sống lại là một niềm tin đã có từ lâu nơi các dân tộc, đặc biệt nơi những người Do Thái. Họ tin rằng những ai trung thành với lề luật của Thiên Chúa, thì sẽ được hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Câu chuyện trong sách Macabê cho thấy những người Do Thái đã kiên cường với đức tin của cha ông, chấp nhận mọi đau khổ cực hình, can đảm chấp nhận cái chết, vì tin tưởng và hy vọng, Thiên Chúa sẽ trả lại cho họ một cuộc sống tốt đẹp hơn. Câu chuyện sách Macabê thuật lại có bảy anh em cùng chịu chết một cách đau đớn nhưg họ không sợ hãi vì tất cả họ tin rằng sau một giây lát chịu cực hình họ sẽ được gặp lại Thiên Chúa, và vì thế họ thà chịu chết chứ không chịu lỗi luật của thiên Chúa.

Trong kinh Tin Kính chúng ta tuyên xứng: Tôi tin xác loài người ngày sau sống lại. Niềm tin vào sự sống lại đời sau vẫn là một thách thức đối với nhiều người, khiến họ không dễ gì chấp nhận. Thời Chúa Giêsu cũng có một nhóm người thuộc phải Xadốc không chấp nhận niềm tin này, nên họ mới đặt vấn đề với Chúa Giêsu: Có một người cưới bảy anh em trai, mà cuối cùng chết đi không ai có con, thì sau này nếu như sống lại người ấy là vợ của ai trong số họ? Nhân cuộc tranh luận này, Chúa Giêsu sửa lại lối suy nghĩ của họ về cuộc sống đời sau, vì họ nghĩ rằng cuộc sống đời sau hoàn toàn giống như cuộc sống tại thế, cũng dựng vợ gả chồng, cũng xây nhà cửa, cũng có của cải vật chất…, Nhưng Chúa Giêsu cho thấy cuộc sống đời sau trổi vượt hơn hẳn cuộc sống đời này và hoàn toàn khác với cuộc sống đời này. Cuộc sống mai sau là cuộc sống không còn đau khổ chết chóc, không còn dựng vợ gả chồng, không còn tìm thú vui thể xác nữa, mà trái lại mọi người sống siêu thoát, sống hạnh phúc trong thế giới của Thiên Chúa giống như các thần linh, và họ hạnh phúc vì được ở cùng Thiên Chúa. Hạnh phúc ở đời sau mới là hạnh phúc đích thật của con người và là niềm khao khát của mọi người, khao khát được trở nên như thần linh, được gặp gỡ Thiên Chúa là cội nguồn cuộc đời của mình,

Cũng trong đoạn Tin Mừng này, Chúa Giêsu cho thấy, Thiên Chúa dựng nên con người vì yêu thương và Ngài muốn cho con người được sống và sống hạnh phúc mãi mãi, và vì thế, Ngài đã “thổi hơi” thở thần linh của Ngài cho con người, hơi thở ấy chính là sức sống của Thiên Chúa được thông chia cho con người, ban tặng cho con người. Chính vì thế, những ai thuộc về Thiên Chúa, giữ gìn mối dây sự sống với Thiên Chúa thì sẽ không bị hủy diệt. Thiên Chúa mãi là Thiên Chúa của kẻ sống, và các tổ phụ như Apraham, Isaac, Giacop, hay tất cả mỗi chúng ta, là những người đón nhận sự sống từ Thiên Chúa họ vẫn đang sống, song vì sự hiện diện của họ khác chúng ta nên chúng ta không nhìn thấy họ, nhưng họ vẫn đang nhìn thấy chúng ta.

Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta xác tin một cách chắc chắn rằng, chúng ta sẽ không bị hủy diệt vĩnh viễn, nhưng nhờ kiên trì theo Chúa ở thế gian này, chúng ta sẽ được sống mãi mãi bên Chúa, và ngày sau hết chúng ta sẽ từ bụi đất sống lại. Đồng thời xin cho chúng ta biết thể hiện niềm tin vào cuộc sống mai sau bằng cách ngay từ hôm nay sống tốt và sống đầy tràn tình yêu thương mỗi ngày, vì chúng ta chỉ có thể sống trong vương quốc của tình yêu thương khi hôm nay chúng ta biết yêu thương, và nhờ đời sống của mỗi tín hữu chúng ta làm chứng cho mọi người về niềm tin vào sự sống mai sau của chúng ta.

Thưa quý OBACE, chính vì muốn biết sự sống bên kia cái chết sẽ như thế nào nên con người từ cổ tới kim vẫn đang cố gắng để giải thích và diễn tả cuộc sống ấy, có điều là nhiều người đã không tin và không dựa vào sự mạc khải của Thiên Chúa, mà muốn tự mình hoặc là cho mình có khả năng để biết và tiếp xúc được với thế giới ấy. Những câu chuyện về ma quỷ là những câu chuyện hấp dẫn và được thêm bởi nhiều tình tiết cho ly kỳ và gợi lên sự tò mò cho nhiều người, đặc biệt gần đây những câu chuyện về vong hồn dường như đang có sức ảnh hưởng đến nhiều người.

Là kitô hữu, chúng ta tin rằng tất cả những ai trung thành với giới răn lề luật của Thiên Chúa, sống công chính thánh thiện, thì sau khi chết họ sẽ được vào hưởng vinh quang với Thiên Chúa, sống hạnh phúc đời đời, còn nhưng ai chưa xứng đáng thì phải trải qua một thời gian thanh luyện để nên xứng đáng hơn. Còn những người khi sống đã quyết liệt từ chối Đức Kitô và ân sủng của Ngài thì sau khi chết họ sẽ không được gặp Đức Kitô, không được bước vào nhà của Ngài, mà phải rơi vào nơi đầy hận thù, thất vọng và chết chóc. Như thế, thì sẽ không thể có những linh hồn đi lang thang, và cũng không ai có thể nói chuyện được với vong hồn, vì hai thế giới hoàn toàn khác nhau.

Chúng ta đừng quên rằng, ma quỷ là tên luôn gieo sự nghi ngờ, ngay từ đầu, nó đã gieo nghi ngờ cho Adam – Eva, và đến nay nó tìm mọi cách quấy phá và làm lung lạc đức tin của chúng ta. Nó có thể mượn các hình thức của vong hồn, mượn miệng của người sống để nói về đủ điều, kể cả những điều tốt lành, hoặc những điều ghê sợ để gieo vào trong chúng ta sự nghi ngờ về sự hiện diện, và quyền năng của Thiên Chúa, và khuyến khích chúng ta tin vào quyền năng và sự ly kỳ của nó, cuối cùng là chạy theo nó.

Chúng ta cũng cần nhớ rằng, ma quỷ nó không cám dỗ chúng ta ngay một lúc, nhưng nó dùng các câu chuyện được thêu dệt và truyền miệng từ người này qua người khác để dần dần đánh gục đức tin của chúng ta, nó dùng các hình thức bói toán gọi hồn, để khiến chúng ta tin vào các ông thày bà thày mỗi khi gặp khó khăn hay bệnh tật, khiến cho người tin hữu đánh mất thói quen cầu nguyện, và sống phó thác, không còn muốn lắng nghe tiếng nói của Thiên Chúa nữa. Trong thư thánh Phêrô, đã có lần chia sẻ: Ma quỷ thù địch của anh em, nó như sư tử rảo quanh tìm mồi cắn xé. Anh em hãy đứng vững trong đức tin mà chống cự.

Dựa vào lời Thánh Phaolô hôm nay, để chúng ta cầu xin Đức Giêsu Kitô và xin Thiên Chúa Cha của Ngài luôn gìn giữ và bảo vệ chúng ta, xin Ngài làm cho tâm hồn chúng ta nên vững mạnh sống với niềm hy vọng phục sinh và xin đừng để chúng ta sa chứơc cám dỗ của ma quỷ. Amen.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...