29/10/2022
1335

CHÚA NHẬT 31 THƯỜNG NIÊN_C

Lời Chúa:  Kn 11,22-12,2;  2 Tx 1,11-2,2;  Lc 19,1-10

---------------------------------------


 

Mục lục

  1. Tất cả vì yêu (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)
  2. “Ngài gọi tên con” (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
  3. Tìm kiếm Chúa  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)
  4. Từ bỏ của cải không dễ (Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)
  5. Cuộc hoán cải kỳ diệu (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)
  6. Chúa là cùng đích của cuộc đời  (Sr. Anna Nguyễn Như Ý, MTG.Thủ Đức)
  7.  Gặp người đổi đời  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)
  8.  Bạn đang tìm gì?  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)
  9.  Lòng nhân từ  (Maria Đỗ Minh Thư, MTG.Thủ Đức)
  10. Khao khát tìm gặp Chúa để được cứu độ (Maria TrầnThắm, MTG.Thủ Đức)
  11.  Da-kêu được biến đổi (Lm. John Nguyễn)
  12.  Con người được đổi mới (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)
  13. Sám hối cụ thể như Zakêu (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)
  14. Thiên Chúa đi tìm (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)
  15.  Sám hối  (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng)
  16.  Lòng thương xót  (Lm. Trần Thanh Sơn)
  17.  Ơn cứu độ  (Lm. Vũ Minh Nghiễm)
  18. Thiên Chúa từ bi và nhân hậu  (Lm. Thanh Minh)
  19. Gặp gỡ và biến đổi (Lm. Jos Phạm Ngọc Ngôn)
  20.  Tôi phải lưu lại nhà anh (Lm. Louis Đặng Quang Tiến)

TẤT CẢ VÌ YÊU

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

Những cụm từ đã từng làm xáo trộn suy nghĩ nhiều người: nhỏ mà có võ, cú xấu mà cú lắm lông, xanh vỏ đỏ lòng, có thể bạn không cao, nhưng người khác phải ngước nhìn, liệu có còn phù hợp để “bàn bạc” không ? Đồng ý rằng: sông sâu biển thẳm dễ dò, nào ai lấy thước mà do lòng người. Quả là bất công, khi chúng ta vẫn phải nghe: xấu người, xấu cả nếtkhéo mồm miệng đỡ chân tay. Thực ra, tai tinh, mắt thính, sức khoẻ tốt, cơ hội thành đạt bao giờ cũng cao, ấy vậy, già lão, túng nghèo, trẻ em, lại là những phần tử dồi dào kinh nghiệm, và tự tin để nghe để hiểu để có hạnh phúc. Thành công của bạn là yếu tố kích thích tôi phải nỗ lực, vấp váp của bạn, là điều nhắc nhớ tôi cẩn thận, nghiêm túc hơn trong bổn phận hàng ngày, khiếm khuyết tội lỗi của bạn chính là chìa khoá mở trí lòng tôi, hãy khiêm tốn đừng tự mãn.

Cổ nhân có câu: người ta dễ dàng quen nhau vì diện mạo tướng tá, quý nhau vì tiền của dồi dào, xấu mấy ai thèm dòm, nghèo dễ gì có ai theo ! Câu truyện mà trang tin mừng hôm nay nói đến hết sức ly kỳ, cuộc gặp gỡ có một không hai, ít nhiều đã làm thay đổi suy nghĩ của nhiều người. Một Giakêu có chiều cao khiêm tốn, một Giakêu bị tai tiếng là tên thu thuế tội lỗi. Một Giakêu tưởng chừng không biết đến trời đất, cũng chẳng quan tâm động lòng trước đồng loại, và rồi “tình yêu Giêsu” đã biến đổi con tim khối óc của ông từ “ánh nhìn” đầy thiện cảm. Vì tình yêu, Đức Giêsu mời gọi: “hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ông”. Vì yêu, Đức Giêsu đã cho thấy người thánh thiện, kẻ tội lỗi, đều đáng hưởng lòng thương xót của Chúa. Vì yêu, Đức Giêsu đã tạo cơ hội để Giakêu minh chứng cho muôn thế hệ biết: tôi mập nhưng tấp nập người theo, tôi thấp bé, nhưng khối kẻ dõi nhìn.

Vì yêu, Giakêu bỏ lại tất cả để tiếp đón Đức Giêsu, bỏ ½ tài sản giúp người nghèo, sẵn sang đền gấp bốn, nếu ông lỗi đức công bằng với tha nhân, điều đẹp lòng Chúa hẳn là ông phải bỏ tội lỗi của ông. Vì yêu, Đức Giêsu không sợ đám đông dị nghị: “tại sao ông này đến trọ nhà người tội lỗi” ? Vì yêu, Đức Giêsu cho cả nhân loại hiểu rằng: chẳng ai tội lỗi, bất xứng đến độ, không được hưởng lòng thương xót của Chúa. Vì yêu, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người thu thuế, vẫn mãi là cơ hội, là dịp thuận lợi, nhằm giúp mỗi người nghe rõ và hiểu đúng hơn: “Con người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Vì yêu, đấng bậc sinh thành vẫn đang chuyển tải những hy sinh rất âm thầm mà mạnh mẽ: cha mẹ yêu con biển hồ lai láng. Vì yêu, kẻ làm con đã hiểu rằng: chỉ có cha mẹ mới yêu con vô điều kiện, thế giới này phải có điều kiện mới yêu con.

Tất cả vì yêu, Giakêu bỏ bàn thu thuế, trèo lên cây sung, ông chỉ ước mong nhìn thấy Vị Thầy sắp đi qua. Vì chưa hiểu, chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa giầu lòng xót thương, nên mới có hờn ghen oán trách: tại sao Thầy đạo đức thánh thiện lại đồng bàn với kẻ tội lỗi ! Vì yêu, gánh nặng bất công nơi tâm hồn Giakêu vơi đi, khi ông gặp gỡ Đức Giêsu và tin tưởng vào Đấng cứu chữa ông. Vì yêu, Đức Giêsu mở trí lòng cho Giakêu, soi sáng đám đông nhận biết: Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ, không giới hạn nơi người đạo đức: “hôm nay nhà này được chúc phúc”. Vì yêu, hành động sám hối của Giakêu được sánh ví như: ánh dương soi tỏ muôn chiều, cũng chưa rực rỡ bằng yêu thắm nồng. Đức Giêsu sẽ rất vui, khi mỗi người biết khao khát tìm gặp Đấng là hiện thân của lòng xót thương, Đấng đến để cứu chữa những gì đã hư mất.

Tất cả vì yêu, tất cả đều có cơ hội để trở thành người tốt, tất cả đều có cơ hội làm việc thiện, và tất cả mọi người đều có cơ hội chọn điều lành và xa tránh điều xấu. Giầu có không nói lên bạn đang hạnh phúc ở mức độ nào, bằng cấp cũng chưa chứng thực bạn có bao nhiêu kiến thức. Khóc to gào lớn cũng chẳng ai đo được tình yêu thương của bạn, nhưng việc thiện và hành động bác ái, chứng thực bạn đang trưởng thành trong đức tin kitô giáo. Tình yêu của Giakêu là từ bỏ, là thực hiện đức công bằng, là hành động yêu thương, là thật lòng sám hối trở về với Đấng là Thiên Chúa cứu độ. Vì thấp bé, Giakêu phải trèo leo như đứa trẻ con mới nhìn được Thầy Giêsu, vì yêu, Giakêu nghe và hiểu phải san sẻ tiền của vật chất để tâm tư ông được bình an, được niềm vui thật.

Vì yêu, Đức Giêsu cho Giakêu cơ hội, ông đón tiếp Chúa và sử dụng tốt nhất phương tiện mà ông có. Vì yêu, Đức Giêsu cho đám đông hiểu rằng: không sám hối, không liên đới hiệp thông, chẳng ai cảm nhận được Thiên Chúa hiện diện là Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ. Vui như ngày tết, hạnh phúc như Giakêu được Thầy ngỏ lời ngụ lại nhà ông, mới là khởi đầu cho tình yêu lớn lên, trưởng thành hơn. Dù mỗi chúng ta đây không phải là Giakêu, không phải là số đông đang dò xét tấm lòng bao dung tha thứ của Chúa, chúng vẫn cần đến cuộc gặp gỡ thân tình với Thầy Giêsu, bắt đầu từ cõi lòng mình. Vì yêu, Đức Giêsu vẫn đang muốn nhắn gởi chúng ta: hỡi bạn, Ta luôn yêu thương bạn như yêu thương người thu thuế Giakêu. Hỡi bạn: lười biếng sẽ không khai mở được tâm – đức; ý chí cùn, nghèo, tài giỏi, giầu có, cũng không thể đưa dẫn bạn tới hạnh phúc. Amen.

Về mục lục

.

“NGÀI GỌI TÊN CON”

Bông hồng nhỏ

Bài trích Phúc Âm theo thánh sử Luca kể về câu chuyện Chúa Giêsu đi vào thành Giêrikhô. Trong thành ấy, ông Giakêu là người đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Từ lâu, ông Giakêu đã nghe nói về Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng ông vẫn mang trong lòng một nỗi khắc khoải, đó là được nhìn thấy Chúa bằng cách của mình, tận mắt của mình. Ông không chấp nhận chỉ biết Chúa qua “lời người ta nói”. Khi ông đang vất vả tìm cách gặp được Chúa thì chính Chúa Giêsu tiến lại và gọi ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.

Ông Giakêu đã tìm mọi cách để gặp gỡ Chúa. Ông ấy muốn xem cho thấy Chúa Giêsu nhưng không được vì dân chúng quá đông, mà ông ấy lại lùn. Giới hạn thể lý không ngăn cản ông tìm cách gặp Chúa. Ông liền chạy lên phía trước, tách ra khỏi đám đông, nhưng ông vẫn chưa thể thấy được Chúa. Ông bèn nghĩ ra một cách là trèo lên một cây sung để xem cho được mặt của Chúa. Ông vất vả lắm mới leo lên được, ông ngồi trên đó mà thỏa thích nhìn Chúa từ xa. Ông trông thấy Chúa rồi nhưng Chúa còn ở xa quá, nên ông không thấy rõ. Kìa, Chúa Giêsu đang tiến về phía ông. Ông hồi hộp và lòng mừng vui vì được thấy Chúa rõ ràng hơn. Chúa đến, đứng dưới chân ông, Người ngước mắt lên nhìn ông và gọi ông xuống. Người báo cho ông một tin vui: hôm nay Người sẽ ở lại nhà ông.

Ông Giakêu là người đứng đầu những người thu thế và rất giàu có. Vậy tại sao ông phải tìm gặp Chúa Giêsu? Phải chăng ông Giakêu ngưỡng mộ tài năng và lời giảng dạy tuyệt vời của Chúa Giêsu! Phải chăng những thứ của cải trần gian không thể lấp đầy trái tim ông? Ta có đang tìm cách để gặp được Chúa Giêsu không? Còn Chúa Giêsu, Người rất mong được gặp gỡ ta. Chúa hiện diện với ta trong Bí tích Thánh Thể, Chúa nói với ta khi lắng nghe Lời Chúa, Chúa ở bên cạnh ta khi cầu nguyện, Chúa đến với ta khi ta tiếp đón những người nghèo khổ, … Chúa Giêsu rất vui lòng ngự đến trong tâm hồn ta, Người sẽ giúp ta sống tốt hơn, biết chia sẻ hơn; và Người cũng giúp cho mọi người trong gia đình, trong cộng đoàn biết quan tâm, yêu thương nhau hơn.

Vậy làm sao ta có thể đón Chúa Giêsu vào lòng và rước Chúa về nhà mình? Khi ông Giakêu đón rước Chúa về nhà mình, ông đã làm gì? Ông ấy mở một bữa tiệc thết đãi Chúa và mọi người, sau đó ông đã chia tài sản của mình cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những người mà ông đã chiếm đoạt của cải. Gặp Chúa, ông đã từ bỏ con đường tội lỗi của mình, từ bỏ hết những gì làm cho ông xa Chúa và xa mọi người. Ông đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng ông sẵn sàng từ bỏ hết mọi sự để được ở bên cạnh Chúa, làm môn đệ của Chúa, được yêu Chúa Giêsu. Ta yêu mến Chúa Giêsu. Tình yêu phải được diễn tả bằng việc làm. Khi ta nói yêu Chúa, ta cần phải loại bỏ những thứ đam mê của tội lỗi.

Lạy Chúa Giêsu! Giữa một đám đông, con thấy mình thật nhỏ bé và như mất hút. Nhưng từ giữa muôn người, Chúa đã gọi tên con, tỏ cho con biết ý muốn của Chúa. Con cảm tạ Chúa đã thương xót con, cho con được gặp Chúa, được đón rước Chúa vào tâm hồn, được rước Chúa về nhà mình. Con tạ ơn Chúa vì Chúa đã luôn đi bước trước để đến với con, chính Chúa đã tìm và cứu những gì con đã đánh mất vì tội lỗi. Chúa đã làm cho hồn con được hân hoan vui sướng. Xin cho con sau mỗi lần gặp Chúa thì can đảm thay đổi đời sống như Chúa mời gọi. Amen.

Về mục lục

.

TÌM KIẾM CHÚA

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Lúc con người bước vào đời cũng là lúc khởi đầu hành trình kiếm tìm Thượng Đế. Hành trình tìm kiếm này khác nhau nơi mỗi người: có người thì thuận lợi, có người thật khó khăn; có người thật lâu dài, lại có người rất đơn giản ngắn gọn. Mục đích của việc kiếm tìm Thượng Đế là để gặp gỡ Ngài, được Ngài chia sẻ tính thần thiêng và vinh quang của Ngài. Có nhiều cách trình bày Thượng Đế khác nhau, tùy truyền thống văn hóa hay quan niệm tôn giáo tín ngưỡng. Người Kitô hữu được mặc khải cho biết Đấng Cao Cả có một tên gọi: Thiên Chúa. Hành trình cuộc đời cũng là hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Nhờ nỗ lực tìm kiếm Chúa mà chúng ta có thể nên giống Ngài ngay khi còn sống ở thế gian này, là bảo đảm sẽ được nên giống Ngài hoàn toàn ở đời sau.

Ông Giakêu là một người tìm kiếm Chúa. Dưới ngòi bút của thánh Luca, Giakêu là một người khá giả và là một thủ lãnh của những người thu thuế. Tuy vậy, sự giàu có và sung túc của ông không làm cho ông được thỏa mãn. Vì vậy, khi nghe nói có vị ngôn sứ tên là Giêsu đi ngang qua, ông đã vượt qua mặc cảm tự ti về vóc dáng, sẵn sàng trèo lên cây vả để nhìn rõ vị ngôn sứ sắp đi ngang qua. Vóc dáng ông tuy lùn, nhưng ý chí của ông lại cao. Dù là một thủ lãnh thu thuế, ông không ngại những lời chê bai đàm tiếu của công chúng. Cử chỉ trèo lên cây cho thấy nỗ lực tìm kiếm Chúa của ông.

Nếu con người mọi thời đang nỗ lực tìm kiếm Chúa, thì  Chúa cũng chủ động kiếm tìm con người. Chúng ta thấy điều này nhiều nơi trong Tin Mừng thánh Luca. Những dụ ngôn “người chủ chiên đi tìm chiên lạc”, “người đàn bà tìm đồng bạc bị mất” đều diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Đang khi ông Giakêu còn loay hoay ngồi trên cây, thì Chúa Giêsu chủ động đề nghị: “Ông hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông”. Một vinh dự không ngờ! Giakêu chỉ nghĩ leo lên cây để nhìn Chúa đi ngang qua, nhưng Chúa lại đích thân đến nhà ông. Không phải chỉ có chúng ta ngạc nhiên, mà những người Do Thái đương thời cũng ngạc nhiên không kém. Không những ngạc nhiên, họ còn ganh tỵ với ông Giakêu và xầm xì với nhau. Đó là tâm lý thường thấy nơi con người. Khi thấy người ta hơn mình điều nọ điều kia thì tìm cách bới móc những khuyết điểm của họ để hạ thấp giá trị của họ xuống. Không chỉ ganh tỵ với ông Giakêu, những người đương thời còn tỏ ra bất bình với Chúa Giêsu, vì “nhà người tội lỗi mà ông ta cũng đến trọ”.

Trong khi những người Do Thái xầm xì với nhau, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố ông Giakêu là người được ơn Cứu độ. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã làm ông thay đổi cuộc đời. Từ một người thu thuế hay gian lận tham lam, ông trở thành người quảng đại, sửa lỗi bằng cách sẽ đền bù cho người bị thiệt và chia cơm sẻ áo cho người nghèo. “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đã giúp ông vượt lên mọi thành kiến xã hội, lấy lại tự tin và niềm hy vọng. Việc Chúa đến thăm nhà giúp ông xua tan mọi mặc cảm về nghề nghiệp cũng như thân phận của mình. Những gì ông thưa với Chúa cho thấy một sự đổi đời tận gốc rễ. Ông Giakêu, một người thu thuế đã thực sự trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, một người con đích thực của Abraham, người công chính. Ông Giakêu đại diện cho vô vàn vô số những người nam nữ già trẻ trong mọi thời đại đang tìm kiếm Chúa. Họ tìm kiếm Chúa như hoa hướng dương tìm về mặt trời, như suối tìm về nguồn và như chim tìm về tổ. Con người không ngừng tìm kiếm Chúa mặc dầu họ chưa biết rõ về Ngài. Tin Mừng Thánh Luca là “Tin Mừng của lòng thương xót”, vì vậy tác giả thường trình bày Chúa Giêsu như một vị Ngôn sứ rao giảng và diễn tả lòng bao dung. Hãy nhớ lại điều người cha ngỏ với con mình trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,31). Hoặc lời Chúa Giêsu trên thập giá: “Tôi bảo thật, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Thiên Chúa là Đấng hay thương xót. Đó là một điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn của Cựu ước. Đoạn sách trích từ sách Khôn ngoan hôm nay (Bài đọc I) là một ví dụ. Thiên Chúa thương xót hết mọi người. Ngài nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi của họ để mong họ sám hối trở về và được cứu rỗi. Chúa luôn giang rộng vòng tay ôm lấy các tội nhân, nếu họ thành tâm trở về với Ngài. Như thế, người tín hữu cần vững lòng trông cậy vào lòng từ bi Chúa. Niềm trông cậy phải được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày, qua cách ăn nết ở của chúng ta – Thánh Phaolô khuyên các tín hữu như vậy (Bài đọc II). Người trông cậy Chúa sẽ không hoang mang lo sợ trước những lời đồn đại và những tư tưởng lầm lạc, vì họ tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa.

Cuộc tìm kiếm Chúa mặc dù còn nhiều gian nan, nhưng chắc chắn những ai nỗ lực tìm Chúa sẽ được gặp Ngài. Chúa đang hiện diện trong cuộc đời và trong chính tâm hồn chúng ta. Việc gặp Chúa thực ra rất đơn giản: tin tưởng, yêu mến và cậy trông vào Ngài, tất yếu sẽ được gặp Ngài và được Ngài ban trọn niềm vui.

Về mục lục

.

TỪ BỎ CỦA CẢI KHÔNG DỄ

 Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Một đại đức ở tỉnh Vĩnh Phúc, sư Thích Thanh Toàn, sau khi được Giáo hội Phật giáo chấp thuận cho xả giới hoàn tục vì bị cáo buộc ‘gạ tình’, đã công khai với báo chí ông có khối tài sản khoảng 200 đến 300 tỷ đồng bao gồm tiền, vàng, xe, nhà đất, trang trại… Đại Đức Thích Thanh Toàn còn vui mừng bày tỏ ông sẽ lập gia đình và ăn chơi xả láng. . . Nhưng điều đó đã không thành, vì Giáo hội Phật giáo quy định kẻ đi tu thì không có quyền trên tài sản được công đức cho Chùa … ông phải ra về tay trắng trong ê chề.

Thành thực mà nói nhiều người đã không nhìn thấy người đi tu dám sống từ bỏ. Ngược lại, đôi khi lại thấy người đi lại luôn miệng cần tiền và tìm mọi cách vun quén của cải từ dân chúng. Người ta thấy người đi tu tích luỹ nhiều hơn ban phát. Người đi tu vẫn còn đầy tham sân si mà dường như chưa bỏ được bụi trần.

Ở đời chỉ những ai dám từ bỏ lòng tham và từ bỏ của cải thì mới thấy tâm hồn họ thanh thoát bình an. Chính tinh thần từ bỏ mới giúp họ sống không vì lợi ích bản thân và dám sống vì lợi ích mọi người.

Chúa Giê-su hôm nay khen ngợi Gia -kêu. Ông có quá khứ tham tiền. Ông có quá khứ sống ích kỷ và hưởng thụ bất chính trên đồng tiền không do mồ hôi của ông. Nhưng điều mừng là ông sám hối và từ bỏ. Qua Chúa Giê-su ông công khai sám hối và sẵn lòng đền bù cách tương xứng những thiệt hại do mình gây ra. Ông còn dám từ bỏ địa vị mình để từ nay ông sống thanh thoát khỏi danh lợi thú trần gian. Ông còn hứa sẽ sống một cuộc đời đầy ý nghĩa là cho đi tài sản của mình để giúp đỡ người nghèo và bất hạnh.

Đây là niềm vui của Gia-kêu khi ông biết cho đi. Có lẽ cuộc đời ông trước kia chỉ tích góp, chỉ biết vun quén, và vun quén bằng những hành vi bất chính. Ông có tiền và rất giầu. Ông có kho lẫm tích trữ rất nhiều nhưng ông không có niềm vui tâm hồn. Ông biết rằng khi trao ban mới có niềm vui nhưng ông không tìm được lý do để trao ban. Cho tới khi ông gặp Thầy Giê-su, ông mới mạnh dạn làm cái điều mà mình hằng thổn thức, hằng ước mong. Khi gặp Thầy Giê-su, ông chỉ muốn dùng tài sản của mình để đền bù cho những ngày tháng mình quá ích kỷ. Ông muốn làm việc nghĩa. Ông sẵn sàng làm tất cả để chuộc lại lỗi lầm. Giờ đây ông biết rằng: tiền bạc chẳng mua được hạnh phúc và càng không mua được Nước trời.

Cuộc sống đôi khi cũng làm cho chúng ta có đôi chút tham lam. Có những khi trong tâm trí chúng ta trỗi dậy lòng ham muốn của cải người khác. Cũng có những khi chúng ta đã sử dụng của cải một cách bất chính. Cũng có những khi chúng ta đã biến của chung thành của riêng. . .

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng tội lỗi ai cũng có, điều quan trọng là có dám như Gia-kêu để làm lại từ đầu. Để sám hối, để đền bù thiệt hại và để từ bỏ những cái không thuộc về mình cho xã hội hay Giáo hội hay không?

Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Chúa biết sống cho đi mà không tính toán, cho đi cả mạng sống mình vì hạnh phúc tha nhân để nhờ đó chúng ta được sống mãi trong tình thương của Chúa. Và xin cho chúng ta biết can đảm sửa lại lỗi lầm khi dám công khai nhìn nhận tội và dám đền bù thiệt hại mà mình đã gây nên. Amen

Về mục lục

.

CUỘC HOÁN CẢI KỲ DIỆU

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong tác phẩm nổi tiếng Những Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables), văn hào Victor Hugo miêu tả câu chuyện về cuộc đời của Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp của giết người đã từng bị ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã phải nếm mùi khinh dể vì bị mọi người xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; vào nhà trọ, thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; đi qua lũ chó, thấy bộ dạng nhếch nhác râu ria của anh, chúng liền thi nhau sủa inh ỏi… Chỉ khi bước vào nhà Đức Giám mục Myriê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa tối thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi lòng tham, nên nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao, rồi chuồn mất. Nhìn thấy bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền đòi khám xét chiếc túi vải anh đang vác trên vai và họ nhìn thấy mấy cái chân đèn bằng bạc. Anh liền bị giải đến trước mặt vị giám mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không kết tội, mà còn nhận là đã tặng cho anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu, nhưng con phải sám hối để làm lại cuộc đời.” Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương bao dung của ngài. Anh quyết tâm sám hối và sau đó đã trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau, Văn Giang đã chinh phục được tình cảm của mọi người và còn được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng của thành phố. Sở dĩ từ một tên tội phạm trở thành một người lương thiện và được kính nể là do ông đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục Myriê.

Câu chuyện trên đây có điều gì đó rất giống với câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca trình thuật lại biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Ở đó có một người tên là Dakêu. Ông đứng đầu những người thu thuế và là người giàu có. Khi Chúa Giêsu đi qua, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu. Thấy thế, Chúa Giêsu bảo ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người. Sau khi đón tiếp Chúa, ông tuyên bố rằng: “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (x. Lc 19,1-10).

Qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, thánh Luca muốn minh chứng cho chúng ta thấy những yếu tố làm nên cuộc hoán cải kỳ diệu của Dakêu.

1- Lòng thương xót của Thiên Chúa

Yếu tố thứ nhất phải nói đến đó là lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện qua những hành vi cứu độ và rất nhân bản của Chúa Giêsu đối với ông Dakêu
.
Bất chấp lý lịch ‘không mấy trong sáng’ của ông, Chúa Giêsu không nhìn ông với cái nhìn loại trừ và khinh bỉ như những người Do Thái; Người đã chủ động gặp ông, gọi tên ông và đến nhà ông dùng bữa. Luca muốn diễn tả sự hiện diện của Chúa Giêsu tại nhà ông chính là sự hiện diện của một Thiên Chúa cứu độ. Người là hiện thân của một vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót và tha thứ. Người đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất (Lc 19,10). Quả thế, Đức Giêsu chính là vị Thiên Chúa say mê con người, khát khao cứu độ con người; bởi đó, Người đã đi bước trước trong việc tìm kiếm, gặp gỡ và cứu độ con người. Chính lòng thương xót đó đã đụng chạm con tim của Dakêu và biến đổi ông. Đây là yếu tố quyết định làm nên cuộc hoán cải lạ lùng nơi Dakêu cũng như nơi biết bao tội nhân trong lịch sử của Giáo Hội.

Quả vậy, Thiên Chúa luôn mong muốn các tội nhân hoán cải. Người đi bước trước để giúp họ trở về. Cũng như vị giám mục trong câu chuyện trên đã hành xử theo lòng tốt, nhờ đó đã hoán cải tên cướp Văn Giang. Thiên Chúa không hành xử với tội nhân theo luật công bình, nhưng là theo lòng thương xót để tạo cơ hội giúp họ hoán cải. Đây là yếu tố của lòng thương xót, yếu tố của ân sủng.

2- Sự đáp trả của con người

Yếu tố thứ hai là sự thiện chí của Dakêu hay nói đúng hơn chính là sự cộng tác của ông. Dẫu là một người lùn, lại bị liệt vào hàng tội lỗi vì nghề thu thuế, bị loại trừ và khinh bỉ, nhưng Dakêu đã biết tìm mọi cách để vượt lên những giới hạn đó để được thấy Chúa. Những hành động của ông minh chứng ông là một người rất có thiện chí: “Trèo lên cây sung,” “tụt xuống để đón Chúa vào nhà,” “tiếp đãi Chúa” và nhất là “lấy tài sản bố thí và đền bù gấp bốn cho những ai thiệt hại.” Luca cho thấy những hành vi này diễn tả sự khát khao, sự đón nhận và cộng tác của ông với ơn Chúa. Sự thiện chí này là điều kiện cần thiết để cho ơn Chúa sinh hoa kết quả. Từ một “người tội lỗi,” bây giờ ông Dakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Ápbraham.”

Như thế, ân sủng kết hợp với sự cộng tác của con người tạo nên một cuộc đổi đời, một sự hoán cải kỳ diệu nơi Dakêu. Đó là hai yếu tố cần thiết cho mọi sự hoán cải. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Khi tạo dựng nên con, Chúa không cần con, nhưng để cứu chuộc con, cần phải có con.”

3- Hoa trái của hoán cải

Hoa trái của hoán cải là trở về với Thiên Chúa và hướng tới một đời sống công bình, huynh đệ và bác ái đối với tha nhân như trường hợp Dakêu. Sau khi gặp gỡ Chúa Giêsu tại nhà mình, ông quyết định lấy phân nửa tài sản của ông mà cho người nghèo và xin đền gấp bốn cho những người ông đã chiếm đoạt của cải của họ (x. Lc 19,8). Về điểm này, luật Môsê buộc phải đền trả những gì đã chiếm đoạt của người khác hơn một phần năm. Trong khi đó, luật Rôma buộc phải đền gấp bốn. Dakêu thực hiện theo luật này. Ngoài ra, ông còn sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo. Quả thế, sự biến đổi từ bên trong con người phải được thể hiện ra bên ngoài, như là hoa quả của việc hoán cải. Rõ ràng ông có một sự hoán cải tận căn, thay đổi não trạng, cách nghĩ khi không coi tiền bạc là trên hết, ông thay đổi con tim khi không còn bám víu và nô lệ tiền bạc và địa vị, ông thay đổi đời sống ích kỷ khi hướng tới tha nhân bằng đời sống công bình và bác ái.

Qua câu chuyện hoán cải của Dakêu, một đàng, chúng ta được mời gọi hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa; đàng khác, noi gương Dakêu, chúng ta hãy cố gắng hết mình, làm hết sức để cộng tác với ơn Chúa trong việc hoán cải bản thân cũng như tha nhân. Như một tác giả tu đức nói rằng: để được cứu độ, chúng ta hãy để cho Chúa làm nơi chúng ta 100% do ân sủng Chúa và đồng thời chúng ta phải làm hết sức mình 100% do nỗ lực cá nhân mỗi người.

Nguyện xin Chúa Giêsu đến viếng thăm ngôi nhà mỗi người và mang ơn cứu độ cho chúng ta để mỗi người cũng trở thành những Dakêu mới cho cuộc sống hôm nay. Amen!

Về mục lục

.

CHÚA LÀ CÙNG ĐÍCH CỦA CUỘC ĐỜI

Sr. Anna Nguyễn Như Ý

Cuộc sống bộn bề với trăm công nghìn việc làm cho con người quên đi cùng đích của đời mình là gì. Con người ngày hôm nay chỉ thích tìm kiếm những gì nhằm thỏa mãn bản thân, nhưng cuối cùng mọi thứ đều không thể làm cho họ thỏa mãn ước mơ cuộc đời, cho dù họ kiếm được nhiều tiền, nhà cao cửa rộng, công thành danh toại… Và thử hỏi trong số những người đi tìm sự khao khát ấy, có bao nhiêu người đã tìm được hạnh phúc đích thực cho cuộc đời mình.

Hình ảnh Gia-kêu trong đoạn Tin mừng của thánh Luca 19, 1 – 10 là một bằng chứng cụ thể cho cuộc sống của con người ngày hôm nay. Cuộc sống của ông có vẻ làm cho những ai khao khát sự thành công ở trần gian đều mơ ước. Nhưng đổi lại ông được gì? Sự khinh bỉ, sỉ nhục, ganh ghét của đồng bào mình. Điều này có làm cho ông thật sự hạnh phúc? Tâm hồn ông có thật sự bình an khi hằng ngày phải đối diện với chính lương tâm của ông? Chắc chắn một điều rằng, ngày nào đó ông cũng mong thoát khỏi sự khốn khổ bất hạnh này. Và ngày đó đã đến với chính cuộc đời ông, ngày mà Giêsu xuất hiện. Ở giữa đám đông, chẳng có ai thèm để ý đến ông thì ông lại là người được Giêsu để ý đến. Không ai nhìn thấy ông nhưng chính Chúa lại thấy ông. Ngày hạnh phúc đã đến với ông. Đối với ông chẳng còn niềm hạnh phúc nào có thể sánh ví được. Vì thế, ngày hôm ấy, ông đã sẵn sàng cho người nghèo phân nửa tài sản của ông, và sẽ đền gấp bốn nếu ông đã chiếm đoạt của ai cái gì (x.Lc 19, 8).

Điều gì đã làm thay đổi cuộc đời ông cách mạnh mẽ như vậy? Từ một con người đã bị dân chúng xầm xì là người tội lỗi (x.Lc 19, 7) thì nay ông đã được Chúa ở lại nhà (x.Lc 19, 5). Phải chăng đó là sự gặp gỡ mà ông hằng khao khát và tiềm kiếm bấy lâu nay. Chỉ có thể là sự gặp gỡ với Chúa thật sự, mới có thể làm thỏa mãn tâm hồn ông. Sư hiện diện của Chúa đã phá vỡ rào cản giữa ánh sáng của lòng bác ái và bóng tối của sự thù hận. Ông đã trả lại cho Chúa và tha nhân những gì không thuộc về ông. Đối với ông bây giờ Chúa đã là đủ rồi.

Hình ảnh Giakêu đâu đó cũng ẩn hiện nơi mỗi người chúng ta, những người đang sống trong ơn gọi Kitô hữu. Chúng ta nhiều khi tôi cũng loay hoay tìm kiếm những gì thuộc về thế gian mà quên mất cùng đích của đời mình là gì? Hằng ngày, chúng ta vẫn đọc kinh cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, rước Chúa đều đặn nhưng phải chăng tâm hồn chúng ta vẫn chưa thật sự bình an. Và cho dù chúng ta đã làm nhiều việc mang danh Chúa, nhưng chúng ta vẫn không cảm thấy thỏa mãn là bởi vì chúng ta vẫn còn tìm kiếm điều gì đó cho bản thân mà quên mất rằng mọi sự thế gian này chóng qua như hoa sớm nở chiều tàn. Chúng ta quên mất rằng chỉ có Chúa mới là cùng đích và là niềm hi vọng của đời ta. Đã bao lần chúng ta đã không tìm kiếm Chúa nơi những công việc ta đang thi hành. Chúng ta đã không nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Những việc ta làm có thể chỉ là thói quen, chưa phải là hành động của đức ái. Chúng ta hãy mở rộng lòng để cho Chúa đến và hướng dẫn ta như Chúa đã làm cho Giakêu khi xưa, nhưng với điều kiện là chúng ta phải luôn khao khát tìm kiếm Người với tất cả tấm lòng thành.

Lạy Chúa, xin biến đổi tâm hồn chúng con như Chúa đã làm cho Giakêu được trở nên bạn nghĩa thiết của Ngài. Chỉ khi nào chúng con cảm nghiệm được Chúa thật sự là nguồn hạnh phúc của đời chúng con thì chúng con chẳng còn tìm kiếm gì nữa ngoài Chúa. Xin hãy ở lại với chúng con và hướng dẫn chúng con trong mỗi giây giây phút sống, để những gì chúng con làm đều là để sống theo thánh ý Chúa,  để cuộc đời chúng con sẽ ngày càng hạnh phúc và ý nghĩa hơn. Amen.

Về mục lục

.

GẶP NGƯỜI ĐỔI ĐỜI

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu vào thành Giêrikhô, ta choáng ngợp trước một “rừng người” đang chen lấn nhau để nghe Thầy giảng. Ai cũng muốn được đến thật gần Thầy Giêsu. Cùng đi theo Thầy đó nhưng có mấy ai diễm phúc được đón

Người vào nhà như ông Dakêu hôm nay.

Ông Dakêu là một người đứng đầu những người thu thuế và rất giàu có. Ông nghe danh tiếng Thầy và muốn được nhìn thấy Thầy. Lòng khao khát của ông rất chân thành. Chen lấn mãi mà vẫn không lại gần Thầy được, ông bèn chạy lên trước đám đông, trèo lên cây sung để nhìn Thầy và ở đó chờ cho đến khi Thầy đến. Ông đã nhìn ngắm vị Thầy mình ngưỡng mộ trong âm thầm như thế. Đám đông chẳng hề biết có một người giàu sang đang ngồi trên cây sung. Thế nhưng, Thầy Giêsu biết ai là người thành tâm tìm gặp mình và Người biết rõ tấm lòng của họ. Người đã dành cho ông Dakêu một món quà rất bất ngờ, vượt quá điều mà ông mong ước. Dừng lại dưới gốc cây sung, Thầy ngước nhìn ông và gọi: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Ông đã vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người. Người ta biết ông là tên thu thuế tội lỗi nên xì xào bàn tán: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ” (Lc 19, 7). Lời ấy vừa nhắm thẳng để trách móc Thầy Giêsu nhưng cũng vừa để khinh dể ông Dakêu. Hơn ai hết, ông biết thân phận tội lỗi khốn cùng của mình. Ông không ngần ngại trước lời dèm pha chỉ trích của đám đông đang ganh tị với mình, bởi ông nhận thấy Thầy Giêsu đã thương xót đến mình. Tình thương của Thầy cho ông một niềm tin mạnh mẽ, một niềm hy vọng lớn lao để có thể đổi đời.

Trước đám đông, ông thưa cùng Thầy: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn (Lc 19, 8). Lòng sám hối phải được diễn tả rõ ràng qua hành động quyết liệt như thế. Chỉ khi cảm nhận mình được Chúa đón nhận, ta mới có thể hoán cải. Cũng như ông Dakêu, ta không ngờ rằng chính khi ta cố gắng để tìm gặp Chúa, chính Ngài đã tìm gặp ta trước. Ngài gọi chính tên ta và nói lên ý định đầy yêu thương của mình: “Hôm nay Ta phải lưu lại nhà con”. Nhiều người đã nhìn ta với cái nhìn khinh bỉ vì họ biết những yếu đuối của ta. Nhiều lần, ta đã cảm thấy bất lực khi phải vượt qua những rào cản từ phía “đám đông” và rào cản từ chính mặc cảm tội lỗi của mình. Nhiều lần, ta đã chỉ nghe tiếng Chúa nói qua trung gian, ta mong được gặp thấy Chúa. Món quà bất ngờ mà Chúa đã dành ông Dakêu hôm nay khiến ta cũng háo hức biết mấy. Để rồi, trong cuộc sống, dù nhiều lần vấp ngã, ta cũng sẽ can đảm tìm gặp Chúa, để nhìn về Thiên Chúa thiết tha nguyện xin, ơn thiêng của Chúa sẽ đỡ nâng ta. Chính khi tình yêu tìm gặp Đấng là Tình Yêu, tâm hồn ta sẽ được đổi mới.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết rõ lòng con khao khát Chúa. Chính Chúa đã tìm gặp con trước vì Chúa yêu con. Xin cho con mỗi ngày biết hướng lòng về Chúa để kiên trì vượt qua chính mình mà gặp Chúa. Con tin, Chúa sẽ vui lòng sống trong con và biến đổi con. Amen.

Về mục lục

.

BẠN ĐANG TÌM GÌ?

Anna Cỏ May 

Theo lẽ tự nhiên, người giàu có thường tìm cách để giàu có hơn. Người nghèo thì lo làm sao mình bớt nghèo đi. Người trẻ thì tìm kiếm những cuộc vui chơi mới lạ theo sở thích, người Già thì tìm sự an nhàn sau một đời lao nhọc. Còn tôi, tôi tìm gì, tôi có bao giờ đi tìm Chúa không?

Chúa Giêsu không bao giờ ngưng tìm kiếm con người. Còn con người ngày nay, mấy ai đi tìm gặp Chúa như ông Dakêu. Ông Dakêu là người đứng đầu những người thu thuế giàu có. Thời Chúa Giêsu, những người làm nghề thu thuế được khép vào hạng những người tội lỗi. Bởi đó, ông không thể tránh khỏi ánh mắt khinh bỉ của dân chúng. Dầu vậy, khi nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, ông vội tìm cách để biết Chúa Giêsu là ai. Với lòng háo hức và lòng khao khát muốn nhìn thấy Chúa Giêsu, ông đã quên đi thân phận giàu có, quên đi mặc cảm tội lỗi. Với thân hình nhỏ bé, ông không thể nhìn thấy Chúa Giêsu được vì dân chúng rất đông. Ông liền chạy tới phía trước, vượt qua đám dân chúng đang chen lấn và cố gắng leo lên cây sung để nhìn thấy Chúa Giêsu.

Lòng khao khát tìm cách để thấy Chúa Giêsu nơi ông đã chạm tới chính tấm lòng của Chúa Giêsu, vì chính Người cũng đang “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (x. Lc 19,10). Thật bất ngờ, điều ông nhận được còn vượt xa những gì ông mong đợi. Chúa Giêsu đã đứng dưới cây sung mà nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người, mặc cho dân chúng xầm xì. Chúa đã vào nhà ông, nói đúng hơn Người đã đi vào tâm hồn của ông và làm nó biến đổi. Sự biến đổi bên trong của ông biểu lộ ra lời nói và hành động bên ngoài. Ông nói: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn (Lc 19, 8). Đó không phải là lời hứa lúc ông cao hứng nhưng là lời thốt ra từ trái tim. Ông Dakêu đón Chúa vào nhà một ngày, nhưng ông đã đổi một cuộc đời đó là đời ông đã hoàn toàn đổi mới, hoàn toàn sống như Chúa Giêsu mong đợi. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa Giêsu vào lòng không biết bao nhiều lần, đời chúng ta đã nên giống Chúa Giêsu chút nào chưa? Người luôn luôn tìm kiếm và muốn ở trong lòng chúng ta qua bí tích Thánh Thể. Khi rước Chúa Giêsu là chúng ta cũng rước Chúa Cha và Chúa Thánh Thần vào trong lòng mình. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30). Ngoài ra, Chúa Giêsu vẫn đến và ở lại với mỗi người qua những người thấp bé, tội lỗi và bị bỏ rơi. Ngài nói: “Ai đón tiếp em nhỏ này vì danh Thầy là đón tiếp chính Thầy” (Lc 9, 48). Chúa Giêsu không muốn chúng ta phải chết nhưng được ăn năn và được sống. Nhìn lại chính mình, chúng ta có muốn rước Ngài vào trong tâm hồn của mình không? Chúng ta có tìm gặp Ngài dù chỉ một lần trong ngày không hay chúng ta chỉ thích lui tới những quán cà phê, thích tới những khu vui chơi giải trí? Còn Chúa Giêsu, Ngài vẫn đang chờ đợi chúng ta rước Ngài vào nhà mỗi ngày.

Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã luôn tìm kiếm và hằng muốn ở lại trong chúng con. Xin Chúa ban ơn cho chúng con vững tin và rước Chúa ngự vào nhà. Xin cho chúng con được đổi mới như lòng Chúa mong muốn. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG NHÂN TỪ

Maria Đỗ Minh Thư

Nhân từ là một đức tính cần thiết cho mỗi người trong chúng ta. Bao dung, tha thứ cho người khác khiến ta có được sự bình yên đáng có, được đáp trả lại bằng tình thương của mọi người. Chúa Giê-su là người Cha đầy lòng từ bi nhân hậu. Người luôn tha thứ cho mọi tội khiên của chúng ta khi chúng ta thật lòng ăn năn sám hối.

“Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” ”. (Lc 19, 5)

Da-kêu là một người thu thuế giàu có trong vùng Giê-ri-khô, là người mà trong thành khinh chê, là người mà định kiến thời đó cho là tội lỗi, là người không đáng được Chúa viếng thăm và ghé vào nghỉ chân nơi nhà ông. Nhưng không Chúa lại chọn nhà của người tội lỗi đó, của Da-kêu, Người không quan tâm đến người khác nói gì, cũng chẳng cần biết họ nghĩ như thế nào? Liệu có lý do nào để giải thích hành động của Đức Giê-su? Nếu là một kẻ trong đám đông hôm ấy, liệu có chắc tôi và các bạn nghĩ và nói gì?

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta không biết tha thứ cho người khác cũng như cho chính bản thân mình. Có những khi người khác gây ra cho chúng ta một sự tổn thương dù nhỏ bé đến đâu trong lòng con không thật sự tha thứ cho họ trong khi môi miệng đã nói lời tha thứ. Và ngay cả khi chúng ta gây ra sự tổn thương cho người khác, dù cho họ đã tha thứ chúng ta và sự tha thứ làm cho lòng họ cảm thấy bình an nhưng chính bản thân ta cũng không tha thứ được cho chính mình vì những gì mình đã gây ra. Sự tha thứ cho người khác sẽ làm cho người tha thứ cảm thấy bình an và vui vẻ hơn trong cuộc sống và trong các mối quan hệ với tha nhân.

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã ngự vào nhà của ông Da-kêu, nhà của một người tội lỗi vì lòng nhân từ và Người đã giúp ông trở về, về với con người thánh thiện. Lạy Chúa xin Chúa cũng ngự vào nhà con, ngự vào tâm hồn con cách thiêng liêng để con cũng được như ông Da-kêu, được biến đổi, được quay trở về vì con là người tội lỗi luôn cần đến tình thương và lòng vị tha của Người. Amen.

Về mục lục

.

KHAO KHÁT TÌM GẶP CHÚA ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ

Maria Trần Thắm

Lời Chúa: (Lc 19, 9-10)

Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.

Suy niệm:

Tâm hồn mỗi người chúng ta luôn khao khát tìm kiếm Chúa để được ơn cứu độ và có sự bình an trong một ngày sống. Nếu chúng ta muốn gặp gỡ Ngài, Ngài có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta, sớm hay muộn gì Ngài sẽ gặp chúng ta như đã gặp Người phụ nữ Samari và Dakêu. Nhưng gặp gỡ này chỉ có thể thay đổi được, nếu chúng ta khao khát đợi chờ Ngài. Chính vì Dakêu khao khát Ngài đã trở nên Đấng cứu độ cho ông.

Chúa Giêsu đã đến loan báo Tin Mừng ngay tại nhà ông Dakêu: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham” (Lc19,9). Giakêu, một nhân vật có đủ: sự giàu sang, chỗ đứng, quyền thế trước mặt người đời nhưng trước Nhan Thánh Chúa và dân tộc mình thì Dakêu vẫn cảm thấy mình là một tội nhân, thiếu tình thương và sự sống của Chúa. Nhân loại ngày nay có đầy đủ tất cả vật chất, của cải cần thiết cho cuộc sống con người. Chúng ta hay đi tìm chỗ ở cho mình thật cao sang, nhưng chỗ gần nhất thì không biết tìm đến là ngay chính trong tâm hồn của mình. Một chân lý nữa lại diễn ra: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc19,10). Cho thấy, Thiên Chúa luôn đi tìm và cứu những con người tội lỗi. Trong cuộc sống của thời đại này, con người bị cuốn vào guồng sống vội, sống nhanh, sống bon chen, vội vã. Và hệ lụy đôi khi là một lối sống buông thả, đánh mất ý nghĩa về giá trị đích thực của đời người. Có nhiều người không dám, và không đủ nghị lực, niềm tin để đứng dậy và trở về “với Cha”. Nhiều bạn trẻ vì thú vui bên ngoài, đánh mất ơn nghĩa mật thiết với Chúa, thờ ơ, không nhìn ra tội mình đã phạm làm Chúa phải buồn. Mặc dù, Chúa vẫn hằng giang tay chờ đón những con người tội lỗi biết ăn năn trở về. Điều đó nói lên rằng, những ai khiêm nhường nhận mình là tội nhân thì đều được Chúa ban ơn cứu độ. Hãy chấp nhận ra đi tìm kiếm Ngài, khám phá tình yêu vô bờ bến của Ngài theo gương Dakêu mau chóng trở về. Để trong đời sống mau mắn khiêm nhường hoán cải những lầm lỗi phạm đến Chúa và mọi người. .

 Ước gì chúng ta nhìn tha nhân bằng bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên thần linh hơn.

 Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống một con người công chính, ngay thẳng ở trước mặt Chúa. Khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari, Chúa cần đến nhà ông Gia kêu để nghỉ chân ban nhiều hồng phúc cho chúng con. Xin cho chúng con biết đền đáp những ơn lành Chúa hằng ban cho.Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người, khám phá ra đốm lửa của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi, biết gặp gỡ Chúa mỗi ngày để chúng con trở về và thay đổi cuộc sống tội lỗi. Như Thánh Giáo Hoàng Gio an Phaolô II nói: “ Hỡi các bạn trẻ hãy để Thiên Chúa là ơn cứu độ và là nguồn hạnh phúc của các bạn”.

Về mục lục

.

DA-KÊU ĐƯỢC BIẾN ĐỔI

Lm. John Nguyễn.

Tại Giê-ri-khô, ông Da-kêu được xếp vào loại người giàu có, nhờ cái nghề thu thuế. Ở trong vùng này, ai cũng đã biết rõ con người tham lam này. Và Da-kêu cũng thừa biết thiên hạ chẳng ưa thích gì ông ta, bởi vì ông đã làm những điều bất chính, thu gom của cải người dân để trục lợi cho bản thân với cái nghề cho vay nặng lãi. Dưới mắt bàn dân thiên hạ, ông ta là kẻ đáng bị quyền rủa và bị trừng phạt bởi việc làm gian tham của ông. Nhưng điều làm cho đám đông phải kinh ngạc bởi cách xử sự của Chúa Giê-su dành cho Da-Kêu, đã làm cho nhiều người xầm xì, bàn luận về việc của Chúa Giê-su ở lại nhà Da-kêu. Từ nguyên nhân này dẫn đến cuộc tranh luận không chỉ cho những người đi theo Chúa lúc bấy giờ mà còn là cho mọi người chúng ta suy gẫm về cách hành xử của Chúa Giê-su trước con người tội lỗi qua đoạn Tin Mừng của thánh Luca thuật lại hôm nay.

Chúng ta đi vào trang Tin Mừng thuật lại câu chuyện. Khi nghe tin Chúa Giê-su đi ngang qua, Da-kêu muốn biết Chúa Giê-su là ai? Vì ông đã được nghe danh tiếng của Chúa Giê-su lan truyền khắp nơi. Da-Kêu muốn được tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-su. Ông đã chen vào đám đông. Nhưng vì quá lùn, ông phải trèo lên cây sung để nhìn thấy Chúa Giê-su. Thay vì, ông ta muốn gặp Chúa Giê-su, thì chính Chúa lại đi tìm ông ta trước. Chúa Giê-su ngước nhìn lên cây sung và bảo cho Da-kêu: ” Này anh Da-Kêu xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh.” Ông mừng rỡ tụt xuống và rước Ngài về nhà. Mọi người thấy vậy sửng sốt và xầm xì với nhau: ” Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Một câu nói mỉa mai, đánh tiếng và chê bai của đám đông khi Chúa ghé nhà Da-kêu.

Thật sự, những thắc mắc và nghi ngờ của đám đông là có lý do, bởi vì họ đã biết rõ Da-kêu là người xấu. Một người thánh thiện, tốt lành không có thể đi chung với con như tội lỗi như Da-kêu. Người đời thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Còn Chúa Giê-su thì làm ngược lại cách nghĩ của đám đông đang vây quanh Ngài. Con người vốn mang xã hội tính: kẻ thù thì phải trừng trị, loại trừ, kẻ gian ác thì phỉa diệt vong và phải phân biệt tốt xấu rõ ràng. Cho nên, những người Pha-ri-siêu thường tách biệt những người thu thuế và tội lỗi ra khỏi cộng đồng của họ. Cụ thể, câu chuyện người Pha-ri-siêu và người thu thế vào đền thờ cầu nguyện trong tuần qua. Người Pha-ri-siêu luôn tự đắc mình là người thánh thiện, công chính để rồi kết án người khác, giữ đạo theo kiểu hình thức bên ngoài, khoát trên mình chiếc áo thụng chũm chọe để được người ta khen ngợi và tán thưởng, chúng giống như mồ mả tô vôi, chỉ đẹp bên ngoài nhưng lòng dạ thì xấu xa.

Tội của Da-kêu, ai cũng biết, ông ta không dám rước Chúa vào nhà ông vì ông không xứng đáng. Nhưng Chúa Giê-su đã nhận ra con người của ông, Chúa cần được đến với ông, vì Da-kêu cần chữa lành những vết thương tội lỗi của ông, cần được tắm rửa tội lỗi trong dòng suối mát tình yêu Thiên Chúa. Một Thiên Chúa giàu lòng xót thương cho những con người tội lỗi. Và chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới có thể làm biến đổi ông ta thành con người mới. Cha mẹ không thể ghét bỏ đứa con mình, cho dù nó có bất hiếu và ngược đãi với mình, cha mẹ vẫn yêu thương nó, tha thứ cho nó, kêu nó trở về nhà. Cha mẹ thế gian còn biết cho con mình những điều quý giá, thì tại sao chúng ta lại không nhận ra Thiên Chúa là tình yêu vô biên dành cho hết tất cả mọi người chúng ta. Khi ta nhận ra được lòng thương xót của Thiên Chúa là lúc chúng ta sống trong tình yêu đó với tha nhân. Chúng ta sẽ nhìn cuộc đời tốt đẹp hơn và bớt đi tính ích kỷ hẹp hòi với tha nhân.

Tình yêu Thiên Chúa thì không giới hạn bởi rào cản, bởi thành kiến, cách nhìn và cách đánh giá của người khác qua dáng vẻ bên ngoài, nhưng là tận nơi cõi lòng. Hành trình cuộc đời của thánh Matheu, ngài cũng là một người thu thuế và được Chúa gọi đi theo Ngài, để rồi từ bỏ nghề thu thuế để đi làm môn đệ của Chúa. Chúa luôn tìm kiếm con người và tạo điều kiện để có cơ hội trở về. Trái lại, những người Pha-ri-siêu thì loại trừ không chỉ là những người thu thế mà cả những người phong cùi ra khỏi cộng đồng. Họ tin vào Thiên Chúa, nhưng lại không sống yêu thương và tha thứ, đã nhiều lần bị Chúa Giê-su lên án: “đạo đức giả”.

Phải chăng lý do nhiều người xầm xì bảo Chúa Giê-su không được đến ăn uống với người tội lỗi cũng từ quan niệm và cách nhìn của con người loại trừ. Với lối sống và quan niệm vị kỷ như thế, thì việc Chúa Giê-su làm không thể tránh khỏi bởi dư luận bởi những người giữ luật quá khắc khe và tỉ mỷ, chính thế họ đã bóp chết lòng từ bi và khoan dung với tha nhân. Tôi thiết nghĩ câu chuyện ông Da-kêu hôm nay, Chúa Giê-su đã làm một cuộc cách mạng để làm thay đổi quan niệm, cách nhìn và thành kiến đối với những người làm nghề thu thuế mà hay đúng hơn là những người tội lỗi. Chính sự quan tâm đặc biệt của Chúa dành cho Da-kêu lại là cái cớ làm cho tính ganh tỵ của con người. Họ ganh tỵ vì không được Chúa viếng thăm nhà mình nên họ không bác ái đủ với ông ta. Nhưng với Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài luôn tìm kiếm những con chiên lạc, ốm đau bệnh tật để đưa chúng trở về đàn chiên. Ngài nói: “Bệnh nhân mới cần thầy thuốc”.

Hình ảnh Da-kêu có thể làm đại diện cho hàng triệu người trên thế giới hôm nay, họ cũng đang phải chịu bởi sức ép với cái nhìn thành kiến của con người của một xã hội đã cài đặt lên con người, để rồi chỉ biết kết án và thiếu lòng bác ái với những con người bị sa ngã. Họ cần có một ai đó đón nhận và cho họ có cơ hội để nhận ra giá trị tình yêu đích thực xuất phát từ tình yêu giàu lòng xót thương của Thiên Chúa. Họ cũng cần được chữa lành và cần tìm ra ánh sáng chân lý trong cuộc đời này, như Da-kêu đã được Chúa chữa lành và được cứu độ. Một vĩ nhân đã nói ” Muốn thay đổi một người, thì bạn hãy đến với người đó. Nếu bạn xa lánh và tránh né họ, thì bạn chẳng bao giờ biến đổi được ai”.

Thật vậy, khi Da-kêu gặp được Chúa Giê-su, ông đã từ bỏ lối sống củ, bỏ đi lòng tham của cải bất chính, biết cải thiện đời sống. Thay vào đó, ông đem nửa gia tài của mình để phân phát cho người nghèo, nếu ông làm thiệt hại và chiếm đoạt của cải ai, ông ta đền gấp bốn. Hành động của Da-kêu đáng khen ngợi và cho chúng suy ngẫm. Tôi đã làm thiệt hại ai không? Tôi có tham lam lấy tiền tiền bạc của cải người và làm điều bất chính không?

Tóm lại, Da-kêu được Chúa biết đổi bởi vì được Chúa yêu thương, tha thứ và đồng cảm được ước muốn được cải thiện đời sống, ông ta đã mạnh dạn đến với Chúa, và Chúa ở lại nhà Da-kêu, nhờ đó tâm hồn của ông ta được thay đổi. Vì Thiên Chúa luôn là Người Cha tốt lành, Ngài biết được nhu cầu của con cái Ngài. Chúa Giêsu dùng tình yêu để hoán cải Da-kêu.

Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Xin Chúa biến đổi tâm hồn con như Da-kêu. Khi con được biến đổi, thì đời sẽ thay đổi. Amen.

Về mục lục

.

CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI MỚI

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa mọi người”, đó là chủ đề của Lời Chúa hôm nay.

Thiên Chúa yêu thương mọi loài . Lý do : nếu Chúa không yêu thương thì Ngài đã không tạo dựng, nếu Ngài ghét bỏ thì Ngài đã không bảo tồn (bài đọc 1). Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa sống động và cụ thể cho tư tưởng trên đây. Quả thật, Thiên Chúa không thiên vị ai, không khinh bỉ ai, Ngài chỉ nhìn đến thiện chí của người ta và ban ơn cứu độ.

Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta câu chuyện của ông Giakêu trở lại như thế nào. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với hạng người trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, vì họ làm việc cho người La mã, nên người ta cho họ là những kẻ phản bội và ruồng bỏ họ. Trái lại, Đức Giêsu lại có lối hành xử khác, Ngài kêu gọi ông, lại còn đến ăn uống và trọ trong nhà ông nữa. Việc này làm cho người Do thái rất tức giận. Ngài xử sự như thế để tỏ rõ sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì hư mất”. Cảm động bởi lòng nhân hậu của Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy những sai lầm của mình và quyết tâm sửa đổi.

 “Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A.Pope). Đối với những người tội lỗi, chúng ta hãy có thái độ khoan dung và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải. Còn đối với từng người chúng ta, không ai dám nhận là mình hoàn toàn trong sạch, không bao giờ lầm lỗi. Hãy tin vào lòng nhân hậu và thương xót của Chúa, hãy tìm đến gặp Ngài và quyết chí thay đổi cuộc sống của mình để nên tốt hơn.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          + Bài đọc 1 :  Kn 11,22-12,2.

          Kết luận một trình thuật về cuộc Xuất hành, câu chuyện khá độc đáo ở điểm tác giả nhấn mạnh việc Thiên Chúa nương tay đối với người Ai cập (Kn 11,15-20). Vì sao Ngài nương tay ? Bởi vì Thiên Chúa thương yêu “tất cả những gì hiện hữu”; nếu không, Ngài đã không tạo thành. Vì thế, Thiên Chúa yêu thương mọi người bất kỳ ai và mời gọi họ hoán cải.

          Nhìn lại lịch sử, tác giả sách Khôn ngoan khám phá được đường lối hành xử của Thiên Chúa : Ngài tỏ ra rất khoan hồng đối với những người tội lỗi. Đây là một giảng dạy ngược với cách sống khép kín  của dân Do thái lưu lạc, họ không muốn tỏ cho lương dân thấy  Thiên Chúa không ngừng yêu thương họ.

          + Bài đọc 2 : 2Tx 1,11-2,2.

          Các Kitô hữu ở Thessalonica hoang mang bởi những lời tiên tri, những câu chuyện và những lá thư được gán cho thánh Phaolô nói đến ngày tận thế đã gần kề. Vì thế, họ đâm ra lười biếng không muốn làm việc nữa.

          Để giải tỏa những lo lắng của họ, thánh Phaolô viết lá thư thứ hai này khuyên họ đừng tin  vào những luận điệu mơ hồ ấy.

          + Bài Tin mừng : Lc 19,1-10.

          Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa cụ thể những khẳng định của sách Khôn ngoan :”Chúa xót thương mọi người và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải”. 

          Giakêu là một người đứng đầu những người thu thuế, ông rất giầu. Ông muốn tìm cách để biết xem Đức Giêsu là người thế nào. Thiện chí của ông đã được đáp ứng : Đức Giêsu hứa sẽ đến nhà thăm ông. Việc này đã làm cho nhiều người khó chịu, họ xầm xì với nhau:”Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”!

          Được Chúa thương vào nhà thăm, ông rất phấn khởi và tỏ ra quảng đại, ông đã tự nguyện hứa với Chúa : lấy nửa tài sản mà phân phát cho người nghèo và nếu làm hại đến ai thì xin đền gấp bốn.

          Đức Giêsu đã chấp nhận lòng quảng đại của ông và đã tuyên bố :”Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Lời tuyên bố này phù hợp với  lời Ngài đã phán:”Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Nhờ Đức Kitô, ông Giakêu không những  đã được giải hòa cùng Thiên Chúa mà còn được làm hòa cùng anh em đồng loại nữa.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. ĐỨC GIÊSU KÊU GỌI ÔNG GIAKÊU. 

          Bài Tin mừng hôm nay nhằm nói lên sứ mạng của Đức Giêsu là “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Ông Giakêu đã là người được cứu chữa. Ông là thủ lãnh những người thu thuế ở Giêricô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm biết Đức Giêsu, nên ông đã được gặp và còn được Ngài đến thăm nhà mình nữa. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã tỏ ra quảng đại, chia nửa phần tài sản cho kẻ khó và đền bù gấp bốn những ai ông đã làm hại. Vì thế Đức Giêsu đã tuyện bố :”Hôm này, nhà này được ơn cứu độ”. 

  1. Hoàn cảnh .

          Giêricô có biệt danh thật thơ mộng và đẹp đẽ là “Moon city” : thành phố Nguyệt Nga, một thành phố quan trọng ở phía Bắc của Biển chết, ở cách Giêrusalem 37 km, thấp hơn mặt biển 256 mét. Giêricô là thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình  của những người hành hương lên Giêrusalem.

          Trên con đường dẫn vào thành phố Giêricô có hai hàng cây đổ bóng mát. Loại cây thường được trồng có tên là sycamore – cây sung. Sung là một loại cây kết hợp hình thù của cây vả và cây dâu, với những cành to lớn không cách xa khỏi mặt đất, rất dễ trèo lên, dù người thấp bé và lùn như Giakêu.

          “Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” để đi lên Giêrusalem và đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình. Ngài lên Giêrusalem và chịu tử nạn ở đó. Trong cuộc hành trình này, tình cờ Ngài đã gặp ông Giakêu.

  1. Con người ông Giakêu.

          Ông là người Do thái, tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”. Phải chăng là một sự hài hước, hoặc chế diễu ? Ông không thanh khiết tí nào vì lòng ham mê tiền bạc, tham nhũng, hối lộ, và hà hiếp dân lành ?

          Nhưng chúng ta hãy chờ cho câu chuyện chấm dứt.

           Giakêu là trưởng ty thuế vụ giầu có ở Giêricô. Thu thuế là một nghề  bị người Do thái khinh chê, ghét bỏ. Ngay cả những người Rôma cũng không muốn làm nghề này, nên họ mướn những người Do thái làm. Kẻ làm nghề thu thuế bị coi là người phản bội lại dân tộc, chạy theo đế quốc Rôma. Họ bóc lột tiền bạc của dân chúng càng nhiều càng tốt để chính họ có thể tránh né khỏi phải trả thuế.

          Giakêu, một con người bị tránh xa như dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không được giao du với con người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi  khi đi ngang qua con người ấy.

          Ta thử tưởng tượng điều gì có thể thúc đẩy Giakêu bất chấp sự chế diễu,  đã xắn chiếc áo thụng của một ông trưởng giả Do thái và có lẽ cái áo choàng La mã để leo lên cây sung như một thằng nhóc tầm thường. Vì tính tò mò chăng ? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng ? Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng ? Phải nói rằng đây là cử chỉ nói lên lòng khao khát của Giakêu muốn nhìn thấy Đức Giêsu tận mắt, chứ không chỉ  nghe thấy tiếng vang của Ngài đối với người bình thường. Cử chỉ này không có gì đáng nói, nhưng đối với Giakêu, một người thu thuế tội lỗi bị người ta khinh bỉ và sống cách biệt, mà lại có lòng khao khát như vậy thì quả là một người có thiện chí và lòng ngay.

  1. Đức Giêsu gọi tên ông.

          Đứng trên cây sung, Giakêu đang trố mắt nhìn xuống Đức Giêsu, nhưng đồng thời Đức Giêsu cũng trố mắt nhìn lên Giakêu. Bốn con mắt nhìn nhau thật thắm tình. Đức Giêsu lên tiếng gọi :”Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Một lời kêu gọi bất ngờ đối với Giakêu vì Ngài gọi tên riêng ông, nhưng đối với Chúa thì không. Ta nhận thấy Đức Giêsu biết rõ con người của ông, chứ không phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên, Chúa đã gọi đúng tên ông như đã quen biết ông từ lâu rồi.  Chúa tỏ ý muốn vào nhà thăm và ở lại với ông như người bạn thân.

          Nghe được lời mời gọi này, Giakêu quá sung sướng nên vội vã tụt xuống. Vì quá lòng mong ước, nên Giakêu cũng có một lòng hiếu khách, một đức tính sẵn có trong dòng máu Do thái, ông đã mời Đức Giêsu vào nhà và tiếp đãi rất ân cần.

           Việc Đức Giêsu vào nhà ông Giakêu ăn tiệc, lại còn muốn trọ tại nhà ông mấy bữa  làm cho mấy người biệt phái ưa chỉ trích rất bất mãn; vì theo quan niệm của người Do thái, việc giao thiệp với người tội lỗi đưa đến sự dơ bẩn (Lc 5,30; 7,34; 15,2). Việc lẩm bẩm chỉ trích như vậy  tỏ thái độ khắt khe của con người đối với tội nhân, nhưng cử chỉ đón nhận của Đức Giêsu đối với tấm lòng ngay và thiện chí của Giakêu lại là thái độ đầy tình thương và cứu độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.

           Thấy thái độ thành thực của Giakêu, Đức Giêsu đã tuyên bố :”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Đức Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài:”Con Người đến đi tìm và cứu những gì đã hư mất”. Giakêu là con cái Abraham, nhưng đối với Giakêu, người Do thái cho là tội lỗi, không thuộc về dòng dõi Abraham nữa, thì nay nhờ ơn cứu độ lại là con cái Abraham một cách đúng nghĩa : Con cái Abraham không phải theo xác thịt nhưng là người được Thiên Chúa cứu độ.

II. CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI MỚI.

  1. Tiếng gọi của Thiên Chúa.

           Người ta nói :”Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Câu nói văn hoa và thâm thúy này chắc hẳn bắt nguồn từ Lời Đức Kitô:”Đèn của thân thể là con mắt…”(Mt 6,22t; Lc 11,34t). Hiểu được ánh mắt của một người quả là không mấy dễ dàng (có chăng là ánh mắt tuổi thơ). Vì ánh mắt của một người là biểu lộ của chính tâm hồn người đó… Mà mấy ai trong chúng ta dám cho rằng mình hiểu được tâm hồn ai ?  Dĩ nhiên là tùy vào cách xử sự và hành động… Như qua bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay, trong khi những người biệt phái chỉ nhìn các người thu thuế (như Giakêu) bằng cái nhìn khinh thị kết án – Thì Đức Kitô, với cái nhìn tuyệt vời không những đã làm đổi mới cuộc đời ông và gia đình, mà còn bao điều tốt đẹp  cho những người từng bị điêu đứng vì Giakêu. Cao qúi biết bao chỉ một cái nhìn…

           Cái nhìn của Đức Giêsu là cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt, một cái nhìn có sức cảm hóa tâm hồn, một cái nhìn nhân từ, như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầu  tiên chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.

           Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, con người theo sau. Người ta có thể gọi cây sung là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xẩy ra  nếu Đức Giêsu không ngước mắt nhìn lên Giakêu ở cây sung. Chúng ta tưởng rằng chúng ta tìm kiếm Chúa trong khi mà chính Ngài  tìm kiếm chúng ta trước, tự muôn đời.

  1. Sự đáp trả của con người.

           Được đón nhận lòng nhân hậu và thương xót của Đức Giêsu, Giakêu đã tỏ bầy một tâm trạng muốn hoán cải đời sống bằng cách ông muốn thực hiện ngay việc bác ái và công bằng. Ông quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất cả  những gian lận mà ông tự thú đã phạm.

           Trong việc đền trả này ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi.  Chỉ khi nào trộm là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới phải đền bù gấp bốn (x. Xh 22,1). Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). Nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5; Ds 5,7). Giakêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động, ông tỏ ra đã được biến cải.

           Giakêu đã tỏ ra là con người quảng đại sau khi đã hoán cải. Việc bố thí cho người nghèo sinh ích lợi nhiều cho ông. Thánh Kinh đã làm chứng :”Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11).

          Tiên tri Đaniel viết theo :”Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo”(Dn 4,24).

          Nơi khác lại khen :”Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa”(Cv 11,4).

          Đức Giêsu hứa:”Hãy bố thí, rồi mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các con”(Lc 11,41).

          Khi ở thành Rages về, sứ thần Raphael bảo cha con ông Tobia :”Nước mắt ông chảy ra cũng như của làm phúc bố thí với những lần bỏ bữa ăn đi chôn xác kẻ chết, Ta đã thu lượm và dâng lên trước mặt Thiên Chúa… bây giờ Ta về với Đấng đã sai Ta, ông hãy tạ ơn Thiên Chúa”(Tb 12,12-13).

  1. Khả năng đổi mới của con người.

          Sách Tam tự kinh có viết :”Nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận tập tương viễn”. Bản tính của con người lúc đầu là tốt nhưng vì hoàn cảnh mà trở nên xấu. Đây là chủ trương lạc quan của Mạnh Tử. Trái lại, Mặc Tử lại chủ trương :”Nhân chi sơ tính bản ác”. Nếu bản tính con người vốn tốt mà vì hoàn cảnh mà trở nên xấu thì dễ sửa hơn, còn nếu bản tính mà xấu rồi thì sẽ sửa làm sao ?

          Chúng ta phải khẳng định rằng con người xấu có thể trở nên tốt được bởi vì bản tính vốn là tốt, và nếu có ơn Chúa trợ giúp nữa thì sẽ dễ dàng. Chúng ta hãy lấy trường hợp ông Giakêu ra làm điển hình. Người Do thái coi ông là một người tội lỗi, ô uế, phải tránh xa, đã xấu thì cho xấu luôn, không thương tiếc.

          Nhưng sau cuộc gặp gỡ Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy tình yêu và lòng thương xót của Chúa đối với mình, ông nhận ra con người thật của ông : một con người xấu xa tội lỗi, đáng bị nguyền rủa. Nhưng ông thấy rằng mình có thể sửa đổi được, có thể cải tà qui chính, và ông thực sự đã hoán cải. Do đó, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng :”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”. Nhìn vào cuộc đời của Giakêu lúc này chúng ta phải lấy câu tục ngữ Việt nam mà khen ông :

Xanh vỏ đỏ lòng (Tục ngữ)

           Câu tục ngữ này có ý nói những cái bề ngòai xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt. Người ta chỉ có thể thấy cái bên ngoài của một người mà không biết được lòng người ta.

           Người ta muốn đánh giá Giakêu thế nào cũng được, nhưng Đức Giêsu có cái nhìn thấu suốt, không nhìn cái vẻ bề ngoài của con người mà Ngài nhìn rõ cả bên trong, cho nên Đức Giêsu sẽ khen cho Giakêu một câu chắc nịch như đinh đóng cột :

Xù xì da cóc trong bọc trứng tiên (câu đố).

          Đây là một câu đố bình dân mà người ta thường đố nhau. Vậy “xù xì da cóc trong bọc trứng tiên” là cái gì ? Chúng ta hãy giải đáp xem nó là cái gì. Nhưng cho dù nó là cái gì thì lúc nào cũng có ý nói rằng bề ngoài xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt, giống như câu “Xanh vỏ đỏ lòng” vậy.

          Nếu chúng ta có gặp được Giakêu sau khi nhờ ơn Chúa trở lại rồi thì ông sẽ tâm sự cho chúng ta nghe. Ông cho biết nhờ ơn Chúa ông đã thực sự sửa đổi con người của mình. Đời ông không còn như xưa nữa, nay đã trở nên con người mới hoàn toàn. Có thể bề ngòai không giống nhau, nhưng thực sự bề trong đã được đổi mới hoàn toàn :

 Thân em như quả ấu gai,

 Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi, nếm thử mà xem,

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

                                                (Ca dao)

Truyện : Harold Hughes trở lại.

          Harold Hughes xưa kia là Thống đốc tiểu bang Iowa, và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời điểm trong đời ông, đã phá hủy tất cả mọi sự, và mất tất cả.

          Một đêm nọ ông nhảy vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng shotgun vào bụng, rồi nhốt cái chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh Kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, qùi xuống nền gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong đời.  Ông viết trong cuốn tự truyện như sau :

          “Một sự bình an ấm áp dường như bao phủ lấy tôi. Những tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão, thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa, và tôi nói với Ngài,”Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi thánh ý Cha”. 

          Kinh nghiệm đáng nhớ muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình  giúp đỡ những người cai thuốc phiện và nghiện rượu (Nguyễn văn Thái).

  1. Thái độ với kẻ tội lỗi.

          Vấn đề chính của con người là ở chỗ chúng ta có thể thay đổi tâm hồn và học yêu thương người khác như thế nào. Phải có một tâm hồn cảm kích, mềm mại xúc động mới làm cho tâm hồn ấy mở ra và sau cùng chia sẻ sự phong phú, cảm thông. Một sự tiếp cận khắt khe làm cho tâm hồn khép kín và chai cứng. Một sự tiếp cận nhân từ, như cách Đức Giêsu thực hiện với Giakêu làm cho tâm hồn mềm mại và cởi mở không có gì có thể làm thay đổi tâm hồn bằng chính tâm hồn. Theo cách thức đó, ông Goethe đã phát biểu :”Đối xử với một người như người đang là sẽ làm cho người ấy trở nên tệ hơn, đối xử với người ấy như người ấy phải trở thành hoặc như người ấy mong ước trở thành sẽ làm cho người ấy trở nên tốt hơn, bởi vì khát vọng của chúng ta là phần chúng ta thật sự đã đóng góp”.

          Như vậy, gần gũi và biểu lộ tình thương với người tội lỗi là tốt nhất. Đây là thái độ Đức Giêsu thường xử sự đối với người tội lỗi, và hầu như luôn luôn có tác dụng tốt. Ngài không hề xa tránh những người thu thuế, bọn đĩ điếm, vốn bị coi là hạng người tội lỗi, như những biệt phái và luật sĩ thường làm.  Kết quả của thái độ nhân từ đó là biết bao người tội lỗi trở lại con đường ngay chính, say mê nghe Ngài rao giảng Tin mừng, mà bài Tin mừng hôm nay kể ra một trường hợp điển hình. Chính vì Đức Giêsu sẵn sàng vào nhà ông Giakêu, một kẻ bị coi là tội lỗi, ăn uống và trọ lại nhà ông, mà con người ông đã hoàn toàn thay đổi. Thử tưởng tượng xem, nếu Ngài cũng đối xử với Giakêu như cách mà người Do thái thường làm là tẩy chay và xa lánh ông, thì kết quả ra sao !

 Truyện : Thiền sư Sengai và đệ tử.

          Nhiều đệ tử đang theo học thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.

          Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo :

          – Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy.

          Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.

  1. Công cuộc đổi mới của mỗi người.

          Như ở trên chúng ta đã nói : “Nhân chi sơ tính bản thiện” thì con người có hư hỏng rồi cũng có thể cải thiện được. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã được trở nên tinh tuyền, đã được mặc lấy Chúa Kitô và có thể nói là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhưng chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đã được tha tội nguyên tổ  nhưng không thể tránh được hậu quả của tội ấy, do đó con người chúng ta trở nên yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội. Vì vậy, thánh Phaolô cảnh giác chúng ta :”Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã”. 

          “Sai phạm là bản tính của con người, còn tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A. Pope). Vì thế chúng ta có thể nói : sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường. Có biết bao nhiêu gương sa ngã mà đã chỗi dậy nhờ ơn Chúa.  Người lành thánh mà còn sai phạm một ngày ít là 7 lần, chúng ta chưa lành thánh là bao, có sai lỗi thì cũng là chuyện bình thường, không đáng lo, cứ cậy trông vào ơn Chúa và quyết tâm hoán cải.

Truyện : Leonard da Vinci vẽ hình.

Danh họa Leonard de Vinci đang thực hiện tuyệt tác “Bữa Tiệc ly”. Nhưng để diễn tả một phần nào đúng chân dung của Chúa và 12 vị tông đồ, danh họa phải đi tìm những nét mặt đó nơi những người đương thời. Một hôm, họa sĩ bắt gặp trong thánh đường ở Rôma, một vị kinh sĩ trẻ tuổi có gương mặt thanh tú, trong sạch tuyệt vời hợp với chân dung thánh Gioan. Thế là ông đi theo và xin vị Kinh sĩ ngồi làm mẫu cho mình vẽ. Vị Kinh sĩ bằng lòng và họa sĩ đã vẽ được một gương mặt đẹp như Thiên thần.

Vài năm sau, bức tranh “Bữa Tiệc ly” vẫn chưa hoàn thành vì không tìm ra người mẫu để vẽ chân dung độc đáo của Giuđa. Tình cờ, trên đường phố, họa sĩ gặp một người ăn mày, áo quần rách tả tơi với vẻ mặt quái đản, gian ác đến độ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm tự chủ :”Trời ơi, người mẫu này thật lý tưởng, ta sẽ vẻ mặt gian xảo này cho thật mâu thuẫnvới vẻ mặt Thiên thần của chàng trai trước đây”. Sau khi thương lượng với giá cao, người ăn mày bằng lòng làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Vẽ xong, họa sĩ sung sướng  lấy chân dung chàng trai trẻ đặt bên chân dung người ăn mày mà ngắm nghía. Còn người hành khất giật mình chết lặng, rồi hai dòng nước mắt chảy dài trên hai gò má đen đủi và nghẹn ngào nói:”Bức chân dung người trẻ kia chính là tôi mà ông đã vẽ cách đây mấy năm. Khi đó trông tôi tốt lành, trong trắng dường nào, nhưng bây giờ tôi là một tên ăn mày, cờ bạc rượu chè say sưa”. Nói xong, anh ta bỏ đi thật tội nghiệp.

          Nếu chẳng may chúng ta đã để cho mình trở nên xấu như chàng ăn mày kia, chúng ta hãy bắt chước ông Giakêu tìm đến gặp gỡ Đức Giêsu. Phía Chúa Ngài luôn khẳng định là Ngài xuống thế cốt tìm kiếm và cứu kẻ tội lỗi, nên Ngài luôn luôn hiện diện mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng theo dõi, đợi chờ con người tỏ dấu ăn năn thì Ngài sẽ hành động ngay.

          Nhưng nếu chỉ gặp Chúa mà thôi thì chưa đủ, cần phải có hành động cụ thể. Muốn biến cuộc gặp gỡ thành một cuộc tình gắn bó, một cuộc liên kết chặt chẽ, lâu dài thì phải thực hiện một công đoạn tiếp theo là đổi mới cuộc sống. Như Giakêu, ông ta không dừng lại ở chỗ gặp Chúa, trái lại ông ta muốn tiến xa hơn là thay đổi cuộc sống bằng cách bố thí và thực hiện đức công bằng. Cũng thế, để nhận được sự tha thứ và sự bình an của Chúa trao tặng, mỗi người chúng ta phải đổi mới ngay cuộc sống của mình bằng những cố gắng thực tế như : bỏ dần những tính hư tật xấu, cắt đứt ngay những liên hệ xấu xa, sửa lại những lầm lạc sai phạm, rồi dũng cảm thực hiện các việc đạo đức bình thường như đọc kinh, xem lễ, lần hạt và đi xưng tội, rước lễ…

Về mục lục

.

SÁM HỐI CỤ THỂ NHƯ ZAKÊU

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Để hiểu bài Tin mừng Chúa nhật tuần này về câu chuyện Zakêu người thu thuế, cần bắt đầu với chủ đề của sách Khôn ngoan về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Một cách rất hiện thực và trong một cái nhìn tổng thể, sách Khôn ngoan cho thấy điều kiện của nhân loại rất là mong manh yếu đuối trước mắt Thiên Chúa, ví được như là hạt gạo trên đĩa cân, hay sương sa trên mặt đất, nó chẳng là gì cả, dễ tan biến vào hư vô. Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng yêu thương vô bờ bến, Người yêu thương nhân loại vô cùng nên rất nhẫn nại và chờ đợi con người sám hối tội lỗi để trở về với Thiên Chúa. Bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với mọi loài là ý định tạo dựng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa tạo dựng, có nghĩa là Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại và có ý định ban tặng sự sống cho mọi loài. Và điều quan trọng, đó là lần hồi, nhờ thần trí của Thiên Chúa tốt lành, Chúa sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn những người tội lỗi để họ trở về với Thiên Chúa và từ bỏ con đường tội ác của mình mà được sống hạnh phúc sung mãn.

Điều này được cụ thể hoá qua hình ảnh cụ thể của người thu thuế Zakêu, một người tội lỗi, được Chúa Giêsu viếng thăm tại nhà và vui mừng thay đổi đời sống đón nhận ơn cứu độ. Điều rất cao đẹp và quí giá mà Thiên Chúa thực hiện cho con người, đó là từ tình trạng xấu xa tội lỗi và hậu quả là phải chết tủi nhục, Thiên Chúa biến đổi để con người trở nên thánh thiện và xứng đáng đón nhận sự sống đời đời. Sự biến đổi và thánh hóa của Thiên Chúa thực là kỳ diệu, và con người luôn được Thiên Chúa mời gọi và tìm kiếm, bởi vì Thiên Chúa luôn nhớ đến mỗi người và thành tín yêu thương vô cùng. Zakêu là một khuôn mặt tiêu biểu đáng nêu lên bởi vì sự biến đổi mà Thiên Chúa thực hiện nơi ông đã diễn ra một cách rất nhẹ nhàng và đầy niềm vui. Ông là một ông trùm trong số những người thu thuế giàu có, một người tội lỗi công khai vì nghề thu thuế tai tiếng. Đàng khác, vóc dáng nhỏ thó, lùn tịt của ông cũng làm cho ông bị người khác coi thường. Khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêrikô là nơi ông ở, Zakêu đã có một cử chỉ thực là hồn nhiên, là leo lên cây để được nhìn Chúa Giêsu đi ngang qua. Đáp lại, Chúa Giêsu quyết định đến gặp Zakêu tại nhà để đáp lại cách cụ thể ước muốn của ông, nên người nhìn lên và nói với ông: “Zakêu! Xuống mau đi, vì hôm nay tôi muốn tới ở nhà ông”. Và điều kỳ diệu bất ngờ đã xảy ra, vượt mọi dự đoán của mọi người. Trong khi mọi người khác vẫn còn đóng kín trong những phê phán hẹp hòi chật hẹp thiếu hiểu biết của mình, nói rằng Chúa Giêsu đến nhà  người tội lỗi.  Zakêu đã có những quyết định rất táo bạo cương quyết : “Thưa thầy, tôi xin bố thí nửa phần tài sản của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đến gấp bốn”. Ông không nói bố thí hết tài sản, mà chỉ chia một phân nửa,  phần còn lại giữ lại cho mình và đền bù gấp bốn lần cho những người mà ông đã làm thiệt hại. Thế nhưng đó đã là một cuộc hoán cải đầy đủ và trọn vẹn, nhắc lại phần nào lời giải đáp xưa kia của Gioan Tẩy giả khi rao giảng ở sông Giorđan. Cuộc gặp gỡ và hoán cải hiện thực là như thế, không viễn vông ảo tưởng nhưng chân thành hiện thực. Zakêu phải can đảm chấp nhận cho đi những của cải của mình. Đó không phải là điều dễ dàng. Nhưng phải chăng cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cứu độ là như thế, không dừng lại ở cái nhìn tò mò, nhưng là đón nhận chính Đấng cứu thế vào trong nhà mình và can đảm mở lòng để đền bù lại những thiệt hại mà mình gây cho người khác, giúp đỡ cho những người nghèo khổ túng thiếu.

Trên con đường Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, tin mừng theo Luca cho chúng ta được khám phá nhiều điều mới mẻ về ơn cứu độ. Chúa Giêsu đi đến gặp gỡ từng người trên con đường người đi qua. Một cách nghịch lý, những con người tội lỗi, bị ghét bỏ trong xã hội, bị đánh giá thấp lại là những người gặp gỡ được tình yêu thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Và lời nói tiêu biểu của Tin mừng Luca được lặp lại như đã được công bố ở hội đường Nazarét: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì người này cũng là con cái Abraham”. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu dẫn đến ơn cứu độ thực sự, đầy tràn niềm vui, đầy tràn sức sống. Ơn cứu độ trả lại cho con người phẩm giá làm con Thiên Chúa.  Zakêu, một con người bình thường như những người khác, lại có điều gì đó mà chúng ta cần phải học hỏi. Không yếu ớt, không tự phụ, không thu mình trong địa vị của hàng tư tế hay biệt phái tự cho mình là những người thánh thiện trong sạch,  nhưng dám quyết định và hành động mạnh mẽ chia sẻ chính tài sản của mình, đền bù lại những thiệt hại đã gây ra cho người khác. Đồng thời ơn cứu độ mà Zakêu nhận được là điều rất cao quí. Từ nay, ông lại được đón nhận thừa hưởng gia nghiệp của con cái Abraham. Từ tình trạng tội lỗi và thân phận phải hư mất đời đời, ông được chữa lành và được đón nhận vào trong sự sống sung mãn của Giao ước với Thiên Chúa. Lời mà Chúa Giêsu đã tuyên bố khởi đầu ở hội trường Nazarét, giờ đây lại được công bố cách mạnh mẽ: “Hôm nay ơn cứu độ lại đến với nhà này”.

Cộng đoàn Kitô giáo thời thánh Phaolô là cộng đoàn những người đã bắt đầu tin vào Chúa Giêsu và dấn thân trên con đường đón nhận ơn cứu độ của đời sống mới. Họ có thể bị chao đảo bởi những hoàn cảnh lịch sử mà họ đang phải trải qua. Họ vẫn tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại gần kề, nhưng nghịch lý là Chúa Giêsu vẫn chưa đến như mọi người mong đợi. Thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn hãy vững vàng trong ơn gọi của mình. Thái độ tỉnh thức và chờ đợi Chúa trở lại là thái độ cụ thể, không phải chỉ là những tâm tình chờ đợi hốt hoảng lo âu vì những tuyên bố của người này người khác không có thẩm quyền chính thức của tông đồ. Ngược lại, thái độ chờ đợi Chúa đến thực sự là luôn vững vàng trong lòng tin của mình và sống thánh thiện theo ơn Chúa kêu gọi.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA ĐI TÌM

Lm.Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Trên hành trình rao giảng Tin mừng, một hôm Đức Giêsu tới thành Giêricô, Ngài nhìn thấy Giakêu ở trên cây sung, và Giakêu bắt gặp ánh nhìn của Chúa, đời ông và gia đình được ơn biến đổi từ đây. Biến cố này làm nổi bậc lên dung mạo Thiên Chúa đầy lòng xót thương chủ động đi tìm con người. Và cuộc đi tìm không mấy dễ dàng. Thật vậy, để tìm được con chiên lạc, người chăn chiên phải vượt núi băng rừng, bất kể ngày đêm, thời tiết nắng mưa, bất chấp nguy hiểm tính mạng.

Cũng vậy, để đi tìm con người, được Giêsu phải từ bỏ trời cao xuống đất thấp. Phải từ bỏ địa vị Thiên Chúa nhập thể làm người. Phải từ bỏ ngôi nhà êm ấm để ra đi khắp mọi miền đất nước. Phải từ bỏ mạng sống để cho con người được sống.

Ngài đi tìm một Lêvi đang ngồi nơi bàn thu thuế, để đưa ông về sau này trở thành tông đồ thánh sử. Ngài đi tìm một Phaolô trên đường lầm lạc bắt đạo, biến đổi ông sau này trở thành tông đồ dân ngoại.

Hôm nay, Chúa đến thành Giêricô, một thành phố lớn, tấp nập kẻ buôn người bán, lại có đám đông cùng đi theo. Trong thành phố này có người tên là Giakêu, ông khao khát được nhìn thấy Chúa, nhưng vì ông khiêm nhường chiều cao, nên vội vàng trèo lên cây sung để nhìn thấy Chúa. Thế nhưng, khi Chúa đi gần đến nơi thì nhìn thấy Giakêu trước, lại còn gọi rõ tên ông.

Chính lòng thương xót mà Đức Giêsu đi tìm Giakêu. Lòng thương xót của Đấng quyền năng đi tìm phàm nhân thấp bé. Lòng thương xót của Đấng Tạo hoá đi tìm thụ tạo thấp hèn. Và lòng thương xót của Đấng Cứu độ trần gian đi tìm tội nhân cùng khốn. Qua sự tìm kiếm này, Giakêu cảm nghiệm được Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đã thay đổi đời ông.

Chúng ta ghi nhận rằng: Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người tội lỗi đến đâu đi nữa, thì tình thương của Ngài cao vời khôn ví phủ lấp muôn vàn tội lỗi. Tình thương Chúa luôn đi bước trước.

 Thật vậy, Giakêu chưa nhìn thấy Chúa, thì Chúa đã nhìn thấy ông. Giakêu chưa lên tiếng, thì Chúa đã gọi đích danh ông: Giakêu hãy xuống mau. Giakêu chưa kịp mời, thì Chúa đã ngỏ lời đến thăm nhà ông “Hôm nay, Ta sẽ lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Giakêu chưa mở lời thú tội, thì Chúa đã nói lời tha thứ cho ông trước rồi “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ” (Lc 19, 9).

Vì lòng thương xót mà Đức Giêsu nhìn tới Giakêu. Vì lòng thương xót mà Chúa đến thăm nhà Giakêu. Vì lòng thương xót nên Chúa tha thứ cho Giakêu. Chúa như người cha nhân hậu đầy lòng xót thương mong tìm đứa con trở về. Chúa như người mẹ hiền luôn bao dung tha thứ cho con mình, cho dù nó ngàn lần lầm lỗi.

Từ ánh nhìn quan tâm yêu thương của Chúa, đã làm trái tim ông Giakêu bừng lên ngọn lửa sám hối. Vì thế, ông đứng thẳng lên thưa cùng Chúa như một hành vi thú tội công khai: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần gia tài tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”(Lc 19, 8). Quả thật, ánh nhìn của Chúa có một năng lực cứu độ, có sức biến đổi lòng người.

Mỗi người chúng ta cho dù bé nhỏ tầm thường đến đâu đi nữa, đều là đối tượng của lòng Chúa thương xót. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta là hình ảnh, là giá máu cứu chuộc của Chúa. Thật vậy, vì lòng thương xót nhân loại lỗi lầm, mà Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài xuống trần gian, để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất.

Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa không dừng lại nơi đây, nhưng còn vượt xa hơn thế nữa kìa. Là sau khi tìm kiếm để tha thứ, để chữa lành, thì Thiên Chúa còn vui mừng biết bao. Hãy chia vui với tôi vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc (Lc 15,6);; hãy mở tiệc ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy (Lc 15, 32). Cũng vậy, cả triều thần thánh vui mừng, vì một người tội lỗi hối cải hơn là 99 người công chính không cần hối cải (Lc 15,10).

Anh chị em thân mến,

Giakêu nhận biết mình tội lỗi, nên ông tìm đến Chúa, thế nhưng, Chúa đã tìm thấy ông trước. Nhờ cuộc gặp gỡ này, mà đời ông và gia đình ông được ơn cứu độ.

Ước gì, qua biến cố Đức Giêsu gặp gỡ ông Giakêu hôm nay, xin cho mỗi chúng ta ngày càng cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa thương xót. Nếu chúng ta khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân bất xứng mọi bề, thì hãy noi gương ông Giakêu, là siêng năng tìm đến với Chúa mỗi ngày nơi nhà thờ này, để gặp gỡ Chúa qua Lời của Ngài; siêng năng gặp gỡ Chúa trong bí tích Thánh Thể và làm mới tâm hồn trong bí tích Hòa Giải. Từ nơi thánh thiêng này, mong sao chúng ta sẽ gặp được tấm lòng thương xót của Thiên Chúa. Hi vọng tâm hồn chúng ta được ơn đổi mới, hầu trở nên xứng đáng là con cái Chúa hơn. Amen.

Về mục lục

.

SÁM HỐI

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Cách đây ít lâu, đài truyền hình Nhật Bản đã trực tiếp truyền hình cho khán giả trên cả nước được xem toàn bộ ban quản trị của một công ty dược phẩm cung cấp máu có tên là “Thập tự xanh” đã ra trước ống kính truyền hình để thú nhận vai trò của họ trong việc phân phối máu có nhiễm vi-rút HIV hồi năm 1986 làm cho nhiều người phải mang bệnh Si-đa. Sau khi ông chủ tịch công ty đọc lời thú tội, thì trong đám đông có tiếng la lớn: “Hãy quì gối xuống”. Đó là tiếng kêu của một trong những nạn nhân của hành động thiếu trách nhiệm trên đây. Liền sau đó, một người khác cũng hô lớn: “Hãy nhận lấy trách nhiệm của các ngươi về tội ác”. Tức khắc, ông chủ tịch và năm người trong ban quản trị công ty đã quì gối trước mặt cử tọa và gục đầu xuống sàn nhà trong 10 phút để nhận tội và tỏ dấu sám hối.

Sám hối về những sai lỗi là điều bình thường, không có gì là hèn hạ và nhục nhã. Đạo của chúng ta xem việc sám hối ăn năn là một trong những đòi hỏi tiên quyết của niềm tin. Vì thế, sám hối là một đề tài mà không một ngôn sứ nào, không một tông đồ nào, không một nhà giảng thuyết nào không đề cập tới, chẳng hạn, thánh Gio-an Tẩy Giả khi bắt đầu giảng dạy, ngài kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối để đón Chúa đến”. Chúa Giêsu cũng vậy, bắt đầu cuộc đời công khai, lời truyền giảng đầu tiên của Ngài là kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Sám hối là chân thành nhìn nhận những lỗi lầm, những thiếu sót của mình và quyết tâm đổi mới đời sống. Do đó, sám hối không phải chỉ là hối tiếc những hành vi quá khứ, lại càng chẳng phải là thực thi cho đủ một nghi thức bên ngoài theo luật định, nhưng là thay lòng đổi dạ, đổi mới đời sống và cách sống của mình. Hiểu như vậy thì sám hối là việc bình thường nhưng cần thiết đối với tất cả mọi người.

Tin Mừng kể lại nhiều mẫu gương sám hối, một gương mẫu điển hình là ông Da-kêu. Ông là một người tội lỗi nhưng đầy thiện chí. Ông ước muốn được nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng dân chúng đông quá, ông lại lùn, nên ông trèo lên một cây sung ở bên đường  mà không sợ mọi người chế diễu. Quả thực, ông đã có thiện chí, bấy nhiêu thôi đã đủ để Chúa thưởng cho tấm lòng chân thành của ông, không những cho ông thấy mà Chúa còn đến nhà ông. Trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn, sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo, không những thế, ông còn thực hiện sự công bình, làm thiệt hại ai ông sẽ đền gấp bốn.

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của ông Da-kêu là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta cũng hãy thực hiện một cuộc gặp gỡ Chúa như thế. Thực vậy, ông Da-kêu là gương mẫu người sám hối như Chúa Giêsu mong muốn, nhìn vào ông chúng ta sẽ kinh nghiệm được thế nào là sám hối. Vậy điều quan trọng chúng ta hãy nhớ: việc sám hối là một đặc ân của Thiên Chúa, chứ không phải là sáng kiến của chúng ta. Đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có nhiệm vụ đáp lại. Ông Da-kêu vì tò mò muốn xem Chúa, nên trèo lên cây mà nhìn, nhưng tâm hồn ông chỉ thay đổi hẳn khi Chúa nhìn ông, kêu tên ông và vào nhà ông. Những chi tiết đó nói lên cho chúng ta biết một cách hùng hồn vai trò của ơn Chúa, của tình thương Chúa trong việc sám hối: ơn Chúa đi trước, kêu gọi và mời đón. Tuy nhiên, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, đáp lại sự trông đợi của Chúa thì công việc mới hoàn thành.

Chúng ta cần đến gặp Chúa Giêsu và sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời. Chúa Giêsu là tình thương, là đại dương tình thương, nên dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong tình trạng nào, dù cuộc đời chúng ta có xấu xa, bê bối thế nào, thậm chí tội lỗi chúng ta có nhiều và nặng nề đến đâu, vẫn không sao, Chúa sẽ tẩy xóa hết, Chúa sẽ tha thứ hết, để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thương trong đại dương yêu thương bao la của Chúa. Nhưng với điều kiện chúng ta phải đến với Chúa, phải gặp gỡ Chúa và thành thật nhìn nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Trần Thanh Sơn

Suốt mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong đời sống kitô hữu chúng ta. Trong Chúa Nhật 29, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cầu nguyện liên lỷ đừng nản lòng, như bà goá kiên trì trước vị Thẩm phán bất lương. Còn trong Chúa Nhật vừa rồi, Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta cầu nguyện với một tấm lòng khiêm tốn, biết nhận ra những lỗi lầm, yếu đuối của mình, để nhờ đó chúng ta nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, như người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ.

Sỡ dĩ Đức Giêsu luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện, vì Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ là một người Cha đầy lòng nhân ái. Ngài yêu thương chúng ta “đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Người Con đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đã được Chúa Cha sai đến thế gian, không phải để xét xử, nhưng là để chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đến trong thế gian là để ban ơn cứu độ, hay nói như lời Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”.

1- Lòng thương xót của Thiên Chúa:

Theo tâm lý tự nhiên, chúng ta thường muốn sự dữ, và những kẻ làm điều ác, những người sống bất công phải trả giá ngay lập tức. Khi suy nghĩ như thế, mặc nhiên chúng ta đang tự đặt mình trong tư thế của những người công chính để lên án kẻ khác. Nhưng Thiên Chúa thì khác, bài sách Khôn ngoan hôm nay cho chúng ta thấy rõ lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Mặc dù Thiên Chúa luôn đối lập với sự dữ, nơi Ngài không hề có bóng dáng của bất cứ một sự dữ nào, thế nhưng Ngài lại hết lòng thương xót các tội nhân. Ngài luôn chờ đợi sự trở về của những người tội lỗi. Và chính lòng thương xót vô biên đó đã chứng tỏ cho chúng ta thấy được quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Kinh nghiệm thực tế cũng cho chúng ta thấy rằng, chỉ những người yếu mới tìm cách để loại bỏ những người mình không ưa thích, còn những người mạnh mẽ thực sự thì lại thường dễ dàng bỏ qua những thiếu sót, và tạo mọi cơ hội để người khác có thể làm lại cuộc đời.

Tương tự như thế chính vì là Đấng dựng nên muôn loài, nên Thiên Chúa luôn yêu thương và không muốn bất cứ một tạo vật nào của Ngài phải hư đi, như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, … Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó. Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được?”. Thậm chí, Ngài còn “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối”. Thiên Chúa chưa xét xử và kết án chúng ta, không phải vì Ngài không biết, hay đồng ý với cách sống của chúng ta, nhưng Thiên Chúa muốn dành cho chúng ta một thời gian, một cơ hội để chúng ta “ăn năn sám hối”, trở lại với Ngài.Vâng, nếu Thiên Chúa cư xử với chúng ta như cách chúng ta cư xử với anh em, với những người chúng ta không thích, có lẽ tôi và quý vị không ai còn có mặt trên cõi đời này. Sỡ dĩ, chúng ta vẫn còn sống và đang tiếp tục nhận được biết bao hồng ân của Thiên Chúa, thì chẳng phải là do chúng ta đạo đức thánh thiện, nhưng bởi vì “Chúa là Đấng nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng”. Ngài luôn sẵn sàng đưa tay “nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên”.

Chính lòng thương xót đã thúc đẩy Đức Giêsu dừng bước để ngỏ lời và viếng thăm gia đình ông Giakêu, một thủ lãnh của những người thu thuế, nghĩa là một người tội lỗi đầy mình theo cái nhìn của người Do thái. Nhưng cho dù dưới mắt mọi người Giakêu có là người tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì dưới con mắt yêu thương của Đức Giêsu, Giakêu vẫn là “con cái Abraham”, nghĩa là xứng đáng nhận được ơn cứu độ. Do đó, Đức Giêsu đã đến và dùng bữa tại nhà ông, và ban ơn cứu độ cho gia đình ông, bởi lẽ sứ mạng của Đức Giêsu là “đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”. Cảm nghiệm điều này, thánh Phaolô chia sẻ với giáo đoàn Thessalônica: “Thiên Chúa chúng ta đã đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng với ơn Chúa kêu gọi anh em”.Thiên Chúa rất giàu lòng thương xót vẫn sẵn sàng ban ơn cứu độ cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, để nhận được ơn cứu độ, về phần mình, giống như Giakêu, mỗi người chúng ta cũng cần có những nỗ lực cá nhân để xứng đáng với ơn ban của Thiên Chúa.

2- Lời mời gọi đáp trả:

Trở lại với bài Tin mừng, lúc đó Đức Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem, và có rất đông dân chúng cùng đi với Ngài. Lúc đó có một người thủ lãnh của những người thu thuế tên là Giakêu cũng muốn đến gặp mặt Đức Giêsu, nhưng không thể được, vì dân chúng quá đông còn vóc dạng của ông thấp bé. Nhưng cho dù có nhiều trở ngại, ông vẫn không bỏ cuộc. Ông đã đoán hướng đi của Chúa và chạy trước đến một cây sung và trèo lên để có thể nhìn thấy Chúa. Điều này chứng tỏ được lòng nhiệt thành và quyết tâm của ông. Mặc dù là một thủ lãnh của những người thu thuế, nhưng ông đã quên đi địa vị của mình để rồi, trèo lên cây như một đứa trẻ. Và khi được Chúa ngỏ lời sẽ đến và ở lại nhà ông, ông đã vui vẻ trèo xuống và đón tiếp Người cách hân hoan, mặc cho những lời xì xầm, đàm tiếu của đám đông dân chúng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”. Ông biết rõ mình là người tội lỗi, nhưng ông không giấu giếm điều đó. Ông thành tâm muốn giao hoà với Thiên Chúa.

Không chỉ giao hoà với Thiên Chúa. Ông còn muốn giao hoà với anh em. Và chính sự giao hoà lại với anh em này của Giakêu đã trở nên một dấu chỉ rõ ràng cho tâm tình sám hối chân thành của ông. Ông thưa với Chúa: “Tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Không chỉ đền trả theo lẽ công bằng, Giakêu xin đền gấp bốn. Thậm chí ông còn tự nguyện chia sẻ nửa phần gia tài của ông cho tha nhân. Giakêu đã vượt qua sự công bình thông thường để đi đến đức ái. Lòng nhân ái của Giakêu, chắc hẳn phát xuất từ cảm nghiệm của ông về lòng nhân ái của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Ông biết Thiên Chúa luôn yêu thương ông. Do đó, ông cũng có bổn phận yêu thương và chia sẻ cho anh chị em mình.

Mặc dù câu chuyện của Giakêu đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng có lẽ mẫu gương của Giakêu vẫn là bài học thiết thực cho mỗi người chúng ta hôm nay. Tương tự như ông Giakêu, trong hành trình theo Chúa, mỗi người chúng ta vẫn đang gặp biết bao khó khăn, trở ngại. Nào là đường xá xa xôi, lầy lội, thời tiết bất thường đi lại khó khăn; nào là bận rộn với công việc làm ăn bởi vì hôm nay “người khôn của khó”; nào là Nhà thờ chật chội, nóng nực, lại còn bị muỗi đốt … Thế nhưng, theo gương của Giakêu, chúng ta hãy cố gắng “chạy lên trước” vượt qua những khó khăn bên ngoài, rồi can đảm “trèo lên cây”, để vượt thắng sự nhỏ bé ươn lười của chính bản thân, để đến với Chúa trong các Thánh Lễ mỗi ngày, nhất là Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, và sốt sắng đón Chúa vào lòng nhờ việc hiệp lễ một cách chu đáo. Và nhờ có Chúa trong tâm hồn, chắc chắn chúng ta sẽ nhận được ơn cứu độ. Đồng thời, cuộc sống của chúng ta sẽ là một lời chứng sống động để dẫn đưa anh chị em chúng ta đến với Chúa. Amen.

Về mục lục

.

ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Vũ Minh Nghiễm

“Hôm nay nhà nầy được ơn cứu độ.”

Toàn bộ sách Tin Mừng được viết ra tập trung vào một chủ đề: Đức Kitô là Đấng cứu độ trần gian. Đó là quan niệm của các môn đồ tiên khởi về thân thế và sự nghiệp của Ngài.

Trên thực tế, Ngài đã cứu họ. Ngài rất hiểu sứ mạng cứu thế của Ngài. Ngài nói: “Con Người đến trong thế gian để tìm cứu những gì đã hư mất” (Lc 19:10)

Điều đáng tiếc là trong Giáo hội, đề tài này chỉ mặc được một ý nghĩa rất giới hạn. Gần như chỉ giới hạn vào những gì sẽ xảy đến cho chúng ta sau khi chết mà thôi. Được cứu rỗi có nghĩa là đời sau, tại bên kia thế giới, chúng ta được vào thiên đàng, sống bên cạnh Chúa muôn đời.

Điều này thật sự thì rất dễ hiểu. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Thiên đàng là nơi cực lạc, thoát ra ngoài những truân chuyên buồn khổ của trần gian. Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng ước được vào thiên đàng.

Nhưng đây không phải là điều mà sách Phúc âm nhấn mạnh trước hết trong công cuộc cứu độ trần gian của Đức Kitô. Trong Phúc ân, các thánh sử đã trình bày Ngài như một vị Tôn sư giúp con người ta đối phó với những thử thách của cuộc đời, giải thoát con người ngay trên dương thế.

Bài Phúc âm hôm nay là một ví dụ điển hình. Đức Giêsu đến thăm nhà một ông trưởng thuế vụ. Chúng ta biết câu chuyện đã bắt đầu như thế nào, và đã kết thúc làm sao. Nhưng giữa đó những gì đã xảy ra? Chúng ta không được biết rõ. Đầu hết, Đức Giêsu trên đường đi ngang qua thành Yêricô, nhìn thấy trên cây sung một người thấp bé. Ngài liền nói:

“Hỡi Giakêu, hãy xuống mau. Hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi.”

Kết thúc là ông Giakêu hứa cùng Chúa sẽ lấy nửa phần của cải to lớn của ông bố thí cho người nghèo. Sẽ đền bù gấp bốn cho những người ông đã gian lận. Gian lận ai 100, ông sẽ bù lại cho 400. Chúng ta có thể đoán được sự Chúa viếng thăm ông đã làm cho ông được vui mừng hạnh phúc như thế nào, đã đổi mới đời ông, giải thoát ông như thế nào.

Và Đức Kitô đã tỏ mình là đấng cứu độ loài người ngay trên trần gian nầy như thế nào.

Đây lời Ngài phán trong cuộc tiếp xúc với ông Giakêu:

“Hôm nay đây, nhà này được ơn cứu độ.”

Lời Chúa vừa nói có nghĩa gì? Chúng ta có thể nghĩ rằng hôm nay ông Giakêu đang được ở trên thiên đàng?

Nhưng đó không phải là điều mà bài Phúc âm muốn nhắm. Chúa đang nói về kinh nghiệm cứu độ xảy đến ngay ngày hôm đó tại nhà ông Giakêu. Ông đã được cứu độ cách rất thiệt thực trong đời sống hằng ngày của ông tại thành Yêricô.

Nhìn vào bối cảnh của đời ông, chúng ta có thể hiểu được phần nào Đức Kitô đã cứu giúp ông như thế nào. Phúc Âm nói: “Ông là một trưởng ty thuế vụ vùng Yêricô, tức là người cầm đầu các nhân viên thu thuế. Điều nầy làm cho ông Giakêu trở thành một người bị đồng hương ghét bỏ hoàn toàn. Người thu thuế là hạng người đáng ghét nhứt, đáng khinh bỉ nhất trong dân Israel thời bấy giờ.

Người thu thuế trong Phúc âm với người có tội cũng là một. Họ có tội thứ nhất, là tội phản quốc. Cộng tác với kẻ thù là dân cai trị Rôma, để thâu tiền về cho đế quốc. Họ có tội thứ hai là tội lỗi phép công bằng. Họ thâu đa mà nộp thiểu. Họ thâu mười mà không biết có nộp cho chính phủ được bốn năm hay không? Họ được chính phủ cho phép tha hồ làm giàu trên dân chúng.

Người thu thuế quả là người có tội. Mà ông Giakêu không những là người thu thuế, mà còn là cầm đầu các người thu thuế. Với cương vị trưởng ty thuế vụ, ông còn bốc lột hơn các đồng nghiệp. Người thu thuế đã đáng ghét rồi, ông trưởng ty phải đáng ghét gấp bội. Không ai muốn nói chuyện với ông. Trên đường phố, ai cũng xa lánh ông. Ông bị cấm tham dự các buổi lễ nghi tôn giáo.

Sự khinh khi ghét bỏ của xã hội chung quanh đó hẳn gây ảnh hưởng tai hại lớn lao cho tính tình ông, cho đời sống hằng ngày của ông. Ông chỉ là cái đích cho thiên hạ phỉ nhổ.

Tôi sẽ không thể có được một chút tự tin hay hãnh diện nào về bản thân tôi, nếu không có một người nào khác giúp tôi có đuợc sự tự tín hay hãnh diện về tôi.

Đức Giêsu chính là người khác đó của ông Giakêu. Trong khi những người đồng hương xa lánh ông, coi ông như phẩn thổ, thì Đức Kitô nhận biết ông, gọi ông đích danh: “Hỡi Za khê”. Trong khi những người khác khinh thị ông, thì Đức Kitô kính nể ông. Ngài không sợ người chung quanh thấy Ngài chuyện vãn với ông. Hơn nữa, Ngài muốn lưu lại nhà ông hôm đó, dường như là bạn cố tri của ông Giakêu vậy.

Sự Đức Kitô chấp nhận ông là khởi điểm ơn cứu độ của ông. Ngài cho ông chỗ đứng trong đời sống mới.

Người chung quanh chỉ thấy ông là một người tham lam bất lương. Và hình như ông Giakêu cũng mặc nhận như vậy. Nhưng Đức Kitô nhìn thấy trong ông những đức tính tiềm tàng có thể làm ông trở nên một ngưới lương thiện.

Thái độ của Đức Kitô đối với ông đã làm cho những đức tính tiềm tàng kia hiện ra và đáp ứng với những thách đố của một đời sống cao thượng.

Trước đây ông vốn tham lam, bất lương. Nhưng hôm nay ông đã đổi đời, không đi theo con đường cũ nữa. Lòng quảng đại của ông đã bị chôn vùi trong bao nhiêu năm, hôm nay, với sự hiện diện của Đức Kitô, lòng quảng đại đó đã bộc phát một cách thật rõ ràng.

“Tôi xin bố thí nữa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu xưa nay tôi có làm thiệt hại ai, tôi xin bù lại gấp bốn.”

Quả là một sự lạ lùng. Rất lạ lùng: “Hôm nay đây nhà nầy được ơn cứu độ.”

Hôm nay đây ông Giakêu đã trở nên người hiền lương, một người bạn dân. Ông sẽ được các đồng hương kính nể, yêu vì. Khi cần, họ sẽ cầu bàu cùng Đức Giêsu cho ông như họ đã cầu bàu cùng Ngài cho viên sĩ quan Rôma rằng: “Ông nầy đáng được Ngài giúp đỡ, vì ông quí mến dân ta.” (Lc 7:5). Phải: “Hôm nay đây, chính hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”

Phương pháp Đức Kitô dùng để cứu đời là giúp người ta khai thác những khả năng tiềm tàng của mình: Ngài nhìn họ như người điêu khắc nhìn thấy một pho tượng tốt đẹp trong khối đá cẩm thạch sù sì. Ngài giúp họ khai thác các đức tính của họ như thầy giáo giúp học trò khai thác các tài năng của mình. Lòng ưu ái của Ngài đã làm cho những đức tính vốn tiềm tàng của họ được hiện ra sống động.

Một người khác tên Simon, vốn rất yếu đuối và nhu nhược, đến nỗi run sợ trước một cô sen, chối bỏ Thầy đến những ba lần. Thế mà lòng ưu ái của Ngài đã biến đổi con người yếu đuối dễ thất trung thất tín ấy thành Phêrô, hòn đá tảng của Giáo hội. Ông được cứu độ hoàn toàn trong đêm thứ Sáu Tuần thánh.

Một người khác nữa tên Saolô, thuộc nhóm biệt phái, cuồng tín, hung hăng dữ tợn, bắt bớ đạo Chúa không ai bằng. Thế mà Ngài đã cảm hóa được. Và Saolô đã trở thành Phaolô, vị tông đồ thượng thặng của các dân ngoại. Phaolô đã được cứu độ hoàn toàn trên đường Damas.

Đối với chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta có thể quả quyết rằng tất cả những gì là tốt lành, là lương thiện trong chúng ta, một phần lớn là do nơi lòng tin tưởng một cách nào đó, một lúc nào đó, của một người nào đó đối với chúng ta.

Cũng như sự nghi ngờ, khinh khi của người khác đối với tôi sẽ làm cho mất tinh thần, bế tắc, bại hoại, xuống giốc, thì lòng tin tưởng, ưu ái của người khác đối với tôi, là một động lực thúc đẩy tôi trở thành người tốt, hầu đáp lại lòng tin tưởng và ưu ái của họ.

Đức Kitô đã tin tưởng vào ông Giakêu. Ngài giúp ông tìm ra thế giá của mình.

Rồi Ngài đi một bước xa hơn. Ngài đã giúp ông ý thức được trách nhiệm đối với người khác. “Tôi sẽ chia sẻ nửa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu tôi đã làm thiệt hại ai, tôi sẽ đền bù cho họ gấp bốn.”

Trau dồi các nhân đức nơi bản thân và lưu tâm giúp đỡ kẻ khác, là như đôi ngựa song phi. Hai điều kiện hình thành ơn cứu độ. Người chỉ lo cứu linh hồn mình, mà không quan tâm gì đến việc giúp đỡ kẻ khác, người đó tự lừa dối mình.

Một buổi sáng bêm bờ hồ Galilê, Đức Giêsu hỏi Simon Phêrô:

– Con có yêu mến Thầy không?

Phêrô trả lời:

– Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.

Không đợi cho Phêrô nói gì thêm, Đức Giêsu tiếp liền:

– Hãy chăn dắt các con chiên Ta. (Yo 21:16)

Cứu độ là một danh từ vĩ đại trong tất cả các ngôn ngữ của thế giới. Toàn bộ sách Phúc âm được cấu tạo chung quanh hai tiếng cứu độ. Một ơn cứu độ torng đời sống thường ngày ngay trên trần gian. Nhưng ơn Cứu độ bao giờ cũng có hai chiều song song. Chúa cứu độ tôi. Và đến lượt tôi, tôi phải thực hành ơn cứu độ đó nơi kẻ khác, bằng cách bớt thời giờ, bớt sức lực, bớt tài năng, bớt của cải, để phục vụ Chúa nơi kẻ khác. Chỉ có lúc bấy giờ, lời Chúa phán hôm nay mới được đầy đủ thể hiện nơi tôi:

“Hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA TỪ BI VÀ NHÂN HẬU

Lm. Thanh Minh

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhất lé nhì lùn”. Đó là hai hạng người mà dân gian có thành kiến rằng “chẳng ra gì”. Nhưng không riêng gì Việt Nam mà có lẽ nhiều nước trên thế giới như Do Thái cũng không coi trọng hạng người thiếu thước này.

Phúc Âm hôm nay thuật lại một câu chuyện ngộ nghĩnh của một “chú lùn” lọt mắt xanh Chúa Giêsu đó là ông Giakêu, một người vừa lùn lại vừa làm nghề thu thuế là nghề được coi là bất chính dưới cái nhìn của dân Do thái.

Nhận biết thân phận lùn của mình, nên Giakêu đã làm một công việc có vẻ “ấu trĩ”, đó là trèo lên một cây cao để có thể nhìn thấy Đức Chúa Giêsu đi ngang qua, vì dân chúng đông đúc. Ông giật mình hoảng sợ vì không ngờ Đức Chúa Giêsu đã ngước nhì lên và gọi đích danh cùng ngỏ ý muốn trọ tại nhà ông. Ông vội vàng tụt xuống khỏi cành cây, lòng tràn ngập vui mừng đón rước Chúa vào nhà và khoản đãi trịnh trọng.

Trước mặt Chúa Cứu Thế, ông đã tà quy chính và hứa sẽ bồi thường thiệt hại gấp bội cho những ai mà mình đã làm thiệt hại. Đáp lại Chúa Giêsu đã tuyên phúc: “Hôm nay nhà được ơn cứu độ… Con Người đến để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã mất”. Vì lòng chân thành mà ông Giakêu đã được tha thứ vá chúc phúc, còn gì hạnh phúc hơn.

“Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 102:8.10).

Sách khôn ngoan nói bài đọc thứ nhất đã nói đến phẩm tính nầy của Thiên Chúa. Trong Phúc âm, đã nhiều lần Đức Chúa Giêsu dùng hình ảnh dụ ngôn để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa và sứ mạng của Ngài như: Người cha và đứa con hoang đàng, người mục tử đi tìm con chiên lạc, bà goá tìm một đồng bạc bị mất v..v..

Dĩ nhiên Thiên Chúa yêu thích những người thánh thiện công chính, nhưng cũng không bỏ rơi những kẻ lầm đường lạc lối. Chúng ta hãy cố gắng sống đạo đức thánh thiện nhưng đừng ngã lòng khi sa chân lỡ bước vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu.”

Về mục lục

.

GẶP GỠ VÀ BIẾN ĐỔI

Lm. Jos. Phạm Ngọc Ngôn

Chúng ta đang ở chặng cuối cùng của hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu và các môn đệ để thực thi công cuộc cứu độ. Chặng cuối của hành trình và cũng là cửa ngõ đi vào thánh thánh Giêrusalem chính là thành phố Giêrikhô. Chính nơi đây, thánh sử Luca ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên trưởng quan thu thuế Giakêu. Câu chuyện thật cảm động và thật ý nghĩa. Lý do là vì nó không chỉ cho chúng ta biết cách thức, hành trình của một tội nhân trở lại đón nhận ơn cứu độ, mà còn là dịp để chúng ta nhận ra tình yêu thương và sứ mệnh của Chúa Giêsu đối với người tội lỗi.

Tên gọi Giakêu có nghĩa là “người thanh liêm”- xem ra có vẻ mâu thuẫn với chính con người cũng như công việc hiện tại của ông, nhưng đó lại là sự thật. Vâng, thánh sử Luca đã không ngần ngại liệt kê lý lịch đầy bất hảo của ông- ít nữa trước mắt người Dothái: “Đứng đầu người thu thuế và là người giàu có”. Rõ ràng Giakêu là quan thu thuế, mà không chỉ là quan thu thuế bình thường, ông là đại quan, là “đầu sỏ” của những tên thu thuế, bóc lột dân đen để làm lợi cho đế quốc Rôma. Thế nên, sự giàu có của ông cũng là điều dễ hiểu. Đó là sự giàu có không do công sức của mình mà phần lớn xuất phát từ những trò ma mãnh trong ngành mà có. Vì lẽ đó, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Giakêu bị dân chúng Dothái khinh bỉ, bị tẩy chay và cho là kẻ ô uế. Thế nhưng dù có bị dân chúng tẩy chay, khinh bỉ, Giakêu vẫn cố tìm cách để nhìn thấy Chúa khi biết Người sẽ đi qua thành phố Giêrikhô thân yêu. Chúng ta có thể thấy nổ lực của Giakêu trong việc cố tìm cách để thấy Chúa không hẳn xuất phát từ sự tò mò, hiếu kỳ trước con người Giêsu, mà đó còn là khởi điểm cho một hành trình đức tin, tìm về cội nguồn chân lý. Đám đông cũng như vóc dáng nhỏ bé không cho phép ông nhìn thấy Chúa, ông không thất vọng, ông trèo lên cây sung và nóng lòng đợi chờ…

Những nổ lực của Giakêu cuối cùng đã có tác dụng nhờ Chúa Giêsu chính là người đã đi bước trước. “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Chính Chúa Giêsu đã cố tìm Giakêu vì sứ mệnh của Người là đi tìm những con chiên lạc, quy tụ về một ràn chiên. Không chỉ thế, Chúa Giêsu tự làm khách đến nhà của Giakêu – điều mà trước đây chẳng mấy ai làm, ngoại trừ bị ông kêu đến để hoạch hoẹ về chuyện thuế má. Chúa đến nhà ông, đồng bàn cùng ông, bởi như ngôn sứ Êdêkien, Chúa Giêsu “không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18, 23), Người muốn Giakêu nhận ra những lầm lỗi của mình để trở về.

Chúng ta có thế thấy nổi vui mừng khôn tả của Giakêu khi được Chúa Giêsu viếng thăm. Ông không thể ngờ rằng trong khi mọi người trong thành phố Giêrikhô này đều căm ghét, lạnh lùng và khinh bỉ ông, thì cái ông Giêsu “bắc kỳ” (miền Galilê) lại vui vẻ thân tình với ông. Ông có ngờ đâu đang khi người dân của thành phố Giêrikhô liệt ông vào hạng người tội lỗi, bán linh hồn cho ma quỷ, thì lại được Chúa Giêsu công khai nhìn nhận ông là “con cháu tổ phụ Apraham”. Ông cũng có ngờ đâu xuất phát từ ý muốn có thể là bộc phát chỉ để nhìn thấy Chúa, đơn giản thế thôi, thì giờ đây khi được tiếp xúc với Người, được đồng bàn với Người, ông quyết định làm lại cuộc đời. Cuộc đổi đời của Giakêu không chỉ trong việc ông chia sẻ, bố thí cho người nghèo “phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”, mà còn được thể hiện trong ước muốn sống đời sống công bình ngay thẳng nữa. Ông thú nhận với Chúa: “Nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúng ta biết luật Dothái cũng như luật Rôma chỉ quy định khi có bằng chứng xác thực về tội ăn trộm chiên hoặc bò, thì phải đền 5 lần đối với bò và 4 lần đối với chiên (x. Xh 21, 37). Giakêu không chỉ buộc mình có vậy, ông còn đi xa hơn nữa trong tất cả mọi của cải chiếm đoạt.

Có thể nói không gì có thể sánh ví niềm vui mừng khôn tả của Giakêu khi cuộc đời ông được gặp gỡ Chúa và được Chúa biến đổi. Cuộc gặp gỡ và biến đổi đó không chỉ trên bình diện cá nhân, mà còn lan rộng, mang chiều kích xã hội. Ước gì mỗi người trong chúng ta cũng được Chúa Kytô biến đổi để trở nên những Giakêu thanh liêm hầu mưu ích cho muôn người.

Về mục lục

.

TÔI PHẢI LƯU LẠI NHÀ ANH

Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến

Luca thuật lại hai câu chuyện liên quan đến thành Giêricô: người mù được chữa lành khi Chúa Giêsu đến gần đó (18,35-43), và ông Giakêu khi Người đi ngang qua thành (19,1-9). Câu chuyện Giakêu được đặt ở cuối hành trình lên Giêrusalem (9,51-19,27). Hành trình tạm ngưng khi Người dừng chân ở lại nhà người thu thuế nầy (x. 17,11;18,31). Có thể phân chia bố cục của đoạn như sau: – Bối cảnh dẫn nhập (c. 1); – Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6); – Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông, và kết luận (cc. 7-10). Hai phần chính có cấu trúc hình thức tương tự nhau. Trong phần đầu (cc. 2-6), Giakêu tìm gặp Chúa Giêsu, và bị dân chúng cản trở. Họ che ông khỏi thấy Người, vì ông thấp bé (c. 3). Ông tìm cách vượt qua trở ngại bằng cách trèo lên cây sung (c. 4). Chúa Giêsu đáp lại sự tìm kiếm của ông là đi ngang qua chỗ ông và nói với ông (c. 5). Người đến nhà ông và ông đón tiếp trong vui mừng (c. 6). Trong phần thứ hai (cc. 7-10), Chúa Giêsu đến nhà Giakêu, và bị dân chúng cản trở bằng những lời lẩm bẩm (c. 7). Người vẫn đến và Giakêu đáp lại bằng sự sửa mình của ông (c. 8). Chúa Giêsu vui mừng vì đã cứu vớt được một người con của Abraham (cc. 9-10). Những từ quan trọng liên kết hai phần với nhau đều nằm ở câu 5 và 9 là “hôm nay”, “ nhà” và “Giêsu”. Hai câu nầy là chìa khóa giúp hiểu ý nghĩa của mỗi phần. Từ eis-erchomai “đi vào”(c. 1) và erchomai “đi” “đến” (c. 10) đóng khung đoạn (inclusio), đánh dấu việc cứu độ Chúa Giêsu làm cho Giakêu đã xong tại Giêricô. Dựa trên câu chuyện của Giakêu, có thể thấy việc Giakêu tìm kiếm Chúa (c. 3) đã kết thúc với việc Chúa Giêsu tìm kiếm ông theo chiều ngược lại, và đã cứu vớt ông (c. 10).

Chúa Giêsu vội vã đi ngang qua Giêricô để lên Giêrusalem (c. 1). Động từ “đi ngang qua”, dia-erchomai, gợi lên ý tưởng đi xuyên lãnh thổ, và đi vội vã (x. 2,15; 4,30; 5,15). Người nhắm đến Giêrusalem và không muốn chậm trễ. Tuy nhiên, Người đã tự cầm chân mình lại trong nhà Giakêu để cứu vớt người nầy.

Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6). Phân đoạn nầy tập trung vào Giakêu: – Con người và ước muốn (cc. 2-3); – Thực hiện ước muốn và kết quả đến hơn cả lòng mong muốn (cc. 4-6). Cụm từ “Và nầy” mở đầu, dùng để kéo sự chú ý vào điều sắp được trình bày; tương tự như thế khi nói về Simêon (2,25). Luca giới thiệu tên, nghề nghiệp và thân thế của Giakêu (c. 2). Zacchaeus là hy lạp hoá tên hipri Zakkay (Nêh 7,14; Esdra 2,9), có nghĩa là “sạch, vô tội”. Là trưởng thu thuế, nên ông giàu có. Giêricô là trụ sở quan thuế thường được nhắc đến, và đây là thí dụ điển hình.

Giakêu tìm thấy cho bằng được Chúa Giêsu là ai (c. 3). Động từ “tìm kiếm” được dùng rất nhiều lần trong Luca; nhưng ở thể quá khứ chưa hoàn thành, chỉ được dùng cho Giakêu, cho Hêrôđê (9,9) và Giuđa (22,6). Khó có thể nghĩ là độ dài, sự lập lại của việc tìm kiếm của Giakêu chỉ xảy ra cách ngắn ngủi khi Chúa Giêsu vội vã ngang qua thành Giêricô. Nếu như thế, tìm kiếm ấy chỉ là một sự tò mò nhất thời. Sự tìm kiếm nầy phải là đã từ lâu, bây giờ là cơ hội để tìm thấy, như trường hợp của Hêrôđê (x. 23,7-8) và Giuđa (22,47). Động từ nầy thường hàm ý là tìm cho đến khi nào thấy được (2,48.49; 9,9). Tuy Giakêu đã đi tìm, chính Chúa Giêsu mới là người tìm thấy ông (c. 5). Người tỏ mình ra cho ông, như trong khẳng định “Ai tìm sẽ được cho” (11,9-10; 12,31). Sự thấp bé của Giakêu là sự kiện chứ không phải là nguyên nhân. Dân chúng mới là nguyên nhân “vì dân chúng” (c. 3). Họ cản trở không cho ông nhìn thấy Chúa Giêsu, cũng như họ không muốn Người đến nhà ông (c. 7). Đáng ngạc nhiên là Luca trình bày phản ứng của dân chúng tương tự như phản ứng của những người Pharisêô (x. 5,30; 15,2).

Khung cảnh thu nhỏ lại hơn. Chúa Giêsu “đi ngang qua Giêricô” đến “đi đến” chỗ cây vả nơi có Giakêu (c. 4). Chúa Giêsu dừng lại ở đó. Tên “Giêsu” được nêu rõ ở đây, cũng như ở câu 9, chỉ sự quan trọng của điều Người sắp nói: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh” (c. 5). Chúa Giêsu lên chương trình cho Giakêu. Ông phải “xuống mau” vì Người đang vội vã đi lên Giêrusalem. Nhưng Người “phải” ở lại, vì đó là sứ mệnh cứu độ của Người (x. 2,49; 4,43; 9,22…). “Hôm nay” sẽ được lập lại trong c. 9 chỉ thời điểm ơn cứu độ được thực hiện (2,11; 4,21; 5,26; 23,43). “Nhà của anh” đại từ chỉ ngôi “của anh” đặt sau “nhà” là vị trí nhấn mạnh. “Ở lại” là một phần của việc tông đồ (x. 1,56; 9,4; 10,7; 19,5; 24,29). Giakêu đã trèo lên để tìm xem Chúa (c. 4). Bây giờ ông trèo xuống vì đã gặp Người (c.6). “Vội vã” chỉ sự khao khát (x. 2,16). Động từ “đón tiếp” hàm ý sự hiếu khách (x. 10,38). Ông vui mừng vì Chúa ở lại nhà ông. Luca thường nói đến niềm vui của những người được Thiên Chúa can thiệp và cứu độ (x. 1,14; 1,28; 6,23; 10,20; 13,17; 19,6). Như thế, Giakêu đã nhận được nhiều hơn cả điều ông mong ước.

Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông (cc. 7-10). Động từ “cho” và “hoàn trả” (c. 8) ở thì hiện tại hiểu như là tương lai gần: “tôi sẽ cho”, “tôi sẽ hoàn trả lại” (x. 4,6; Cv 3,6). Giakêu đã không làm điều nầy trong quá khứ. Ông đã đặt giả thiết là ông có thể đã làm thiệt hại ai đó trong quá khứ (c. 8). Nên không lạ gì dân chúng nghĩ ông là “người tội lỗi” (c. 7). Do đó, quyết định nầy chứng tỏ ông đã hoán cải. Và Chúa Giêsu mới tuyên bố là “hôm nay ơn cứu độ đến với nhà nầy” (c. 9), và “Người đến để cứu vớt những người hư mất” (c. 10). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã biến đổi đời ông. Động từ “sykophante” có nghĩa là “gian lận”, “áp bức”, “hăm dọa tống tiền” (x. 3,14). Làm nghề thu thuế, Giakêu gian lận tiền bạc của người khác cho chính mình. Dựa vào luật Môse, phải đền trả lại “gấp bốn” (x. Xh 21,37; 2 Sam 12,6) hay “gấp năm” (x. Lv 6,5; Ds 5,6-7).

Như câu 5 ở trên, Chúa Giêsu lại tuyên bố (c. 9), và lần nầy Người nói đến sự cứu độ cho Giakêu, “người con của Abraham.” “Cứu độ” được gắn liền với “hôm nay”; xem ở trên. “Con cháu của Abraham” không phải chỉ do bởi sự thuộc về dân tộc Do thái. Chúa Giêsu đã phê bình những người tự hào là họ có Abraham là tổ tiên, nhưng thiếu lòng hoán cải (x. 3,8). Chính sự hoán cải trở về với Thiên Chúa mới chứng thực ai là con cái của Abraham. Giakêu đã làm điều nầy và đáng được gọi là con cái của Abraham. Câu 10 lấy lại ý tưởng của câu 5,32 với nhiều thay đổi từ ngữ. Đó là “đến tìm kiếm” và “những người hư mất”, thay vì nói đến việc kêu gọi “người tội lỗi hoán cải”. Việc thay đổi từ ngữ nấy nhằm nhấn mạnh sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu; xem dụ ngôn đi tìm chiên lạc (15,4-7). Tước hiệu “Người Con của Nhân Loại” gắn liền với cuộc thương khó, sự chết và vinh quang (9,26.44; 12,8; 22,69); đồng thời cũng gắn liền với những người thu thuế và tội lỗi (7,34; 19,10). Họ là những người đầu tiên “phải” được tìm đến và cứu chuộc. Vậy như lời hứa với Abraham (1,73), Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với con cháu của ông (1,55) qua việc ban ơn cứu độ cho Giakêu.

Thiên Chúa vẫn còn đi ngang qua trần gian nầy để tìm kiếm và cứu độ những người đã hư mất. Hãy mở cửa nhà cho Chúa. Mời Người vào và lãnh nhận ơn cứu độ.

Về mục lục

.

TẤT CẢ VÌ YÊU

Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc

Những cụm từ đã từng làm xáo trộn suy nghĩ nhiều người: nhỏ mà có võ, cú xấu mà cú lắm lông, xanh vỏ đỏ lòng, có thể bạn không cao, nhưng người khác phải ngước nhìn, liệu có còn phù hợp để “bàn bạc” không ? Đồng ý rằng: sông sâu biển thẳm dễ dò, nào ai lấy thước mà do lòng người. Quả là bất công, khi chúng ta vẫn phải nghe: xấu người, xấu cả nếtkhéo mồm miệng đỡ chân tay. Thực ra, tai tinh, mắt thính, sức khoẻ tốt, cơ hội thành đạt bao giờ cũng cao, ấy vậy, già lão, túng nghèo, trẻ em, lại là những phần tử dồi dào kinh nghiệm, và tự tin để nghe để hiểu để có hạnh phúc. Thành công của bạn là yếu tố kích thích tôi phải nỗ lực, vấp váp của bạn, là điều nhắc nhớ tôi cẩn thận, nghiêm túc hơn trong bổn phận hàng ngày, khiếm khuyết tội lỗi của bạn chính là chìa khoá mở trí lòng tôi, hãy khiêm tốn đừng tự mãn.

Cổ nhân có câu: người ta dễ dàng quen nhau vì diện mạo tướng tá, quý nhau vì tiền của dồi dào, xấu mấy ai thèm dòm, nghèo dễ gì có ai theo ! Câu truyện mà trang tin mừng hôm nay nói đến hết sức ly kỳ, cuộc gặp gỡ có một không hai, ít nhiều đã làm thay đổi suy nghĩ của nhiều người. Một Giakêu có chiều cao khiêm tốn, một Giakêu bị tai tiếng là tên thu thuế tội lỗi. Một Giakêu tưởng chừng không biết đến trời đất, cũng chẳng quan tâm động lòng trước đồng loại, và rồi “tình yêu Giêsu” đã biến đổi con tim khối óc của ông từ “ánh nhìn” đầy thiện cảm. Vì tình yêu, Đức Giêsu mời gọi: “hỡi Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại nhà ông”. Vì yêu, Đức Giêsu đã cho thấy người thánh thiện, kẻ tội lỗi, đều đáng hưởng lòng thương xót của Chúa. Vì yêu, Đức Giêsu đã tạo cơ hội để Giakêu minh chứng cho muôn thế hệ biết: tôi mập nhưng tấp nập người theo, tôi thấp bé, nhưng khối kẻ dõi nhìn.

Vì yêu, Giakêu bỏ lại tất cả để tiếp đón Đức Giêsu, bỏ ½ tài sản giúp người nghèo, sẵn sang đền gấp bốn, nếu ông lỗi đức công bằng với tha nhân, điều đẹp lòng Chúa hẳn là ông phải bỏ tội lỗi của ông. Vì yêu, Đức Giêsu không sợ đám đông dị nghị: “tại sao ông này đến trọ nhà người tội lỗi” ? Vì yêu, Đức Giêsu cho cả nhân loại hiểu rằng: chẳng ai tội lỗi, bất xứng đến độ, không được hưởng lòng thương xót của Chúa. Vì yêu, cuộc gặp gỡ giữa Đức Giêsu và người thu thuế, vẫn mãi là cơ hội, là dịp thuận lợi, nhằm giúp mỗi người nghe rõ và hiểu đúng hơn: “Con người đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Vì yêu, đấng bậc sinh thành vẫn đang chuyển tải những hy sinh rất âm thầm mà mạnh mẽ: cha mẹ yêu con biển hồ lai láng. Vì yêu, kẻ làm con đã hiểu rằng: chỉ có cha mẹ mới yêu con vô điều kiện, thế giới này phải có điều kiện mới yêu con.

Tất cả vì yêu, Giakêu bỏ bàn thu thuế, trèo lên cây sung, ông chỉ ước mong nhìn thấy Vị Thầy sắp đi qua. Vì chưa hiểu, chưa biết Đức Giêsu là Thiên Chúa giầu lòng xót thương, nên mới có hờn ghen oán trách: tại sao Thầy đạo đức thánh thiện lại đồng bàn với kẻ tội lỗi ! Vì yêu, gánh nặng bất công nơi tâm hồn Giakêu vơi đi, khi ông gặp gỡ Đức Giêsu và tin tưởng vào Đấng cứu chữa ông. Vì yêu, Đức Giêsu mở trí lòng cho Giakêu, soi sáng đám đông nhận biết: Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ, không giới hạn nơi người đạo đức: “hôm nay nhà này được chúc phúc”. Vì yêu, hành động sám hối của Giakêu được sánh ví như: ánh dương soi tỏ muôn chiều, cũng chưa rực rỡ bằng yêu thắm nồng. Đức Giêsu sẽ rất vui, khi mỗi người biết khao khát tìm gặp Đấng là hiện thân của lòng xót thương, Đấng đến để cứu chữa những gì đã hư mất.

Tất cả vì yêu, tất cả đều có cơ hội để trở thành người tốt, tất cả đều có cơ hội làm việc thiện, và tất cả mọi người đều có cơ hội chọn điều lành và xa tránh điều xấu. Giầu có không nói lên bạn đang hạnh phúc ở mức độ nào, bằng cấp cũng chưa chứng thực bạn có bao nhiêu kiến thức. Khóc to gào lớn cũng chẳng ai đo được tình yêu thương của bạn, nhưng việc thiện và hành động bác ái, chứng thực bạn đang trưởng thành trong đức tin kitô giáo. Tình yêu của Giakêu là từ bỏ, là thực hiện đức công bằng, là hành động yêu thương, là thật lòng sám hối trở về với Đấng là Thiên Chúa cứu độ. Vì thấp bé, Giakêu phải trèo leo như đứa trẻ con mới nhìn được Thầy Giêsu, vì yêu, Giakêu nghe và hiểu phải san sẻ tiền của vật chất để tâm tư ông được bình an, được niềm vui thật.

Vì yêu, Đức Giêsu cho Giakêu cơ hội, ông đón tiếp Chúa và sử dụng tốt nhất phương tiện mà ông có. Vì yêu, Đức Giêsu cho đám đông hiểu rằng: không sám hối, không liên đới hiệp thông, chẳng ai cảm nhận được Thiên Chúa hiện diện là Thiên Chúa yêu thương, Thiên Chúa cứu độ. Vui như ngày tết, hạnh phúc như Giakêu được Thầy ngỏ lời ngụ lại nhà ông, mới là khởi đầu cho tình yêu lớn lên, trưởng thành hơn. Dù mỗi chúng ta đây không phải là Giakêu, không phải là số đông đang dò xét tấm lòng bao dung tha thứ của Chúa, chúng vẫn cần đến cuộc gặp gỡ thân tình với Thầy Giêsu, bắt đầu từ cõi lòng mình. Vì yêu, Đức Giêsu vẫn đang muốn nhắn gởi chúng ta: hỡi bạn, Ta luôn yêu thương bạn như yêu thương người thu thuế Giakêu. Hỡi bạn: lười biếng sẽ không khai mở được tâm – đức; ý chí cùn, nghèo, tài giỏi, giầu có, cũng không thể đưa dẫn bạn tới hạnh phúc. Amen.

Về mục lục

.

“NGÀI GỌI TÊN CON”

Bông hồng nhỏ

Bài trích Phúc Âm theo thánh sử Luca kể về câu chuyện Chúa Giêsu đi vào thành Giêrikhô. Trong thành ấy, ông Giakêu là người đứng đầu những người thu thuế, và là người giàu có. Từ lâu, ông Giakêu đã nghe nói về Chúa Giêsu rất nhiều, nhưng ông vẫn mang trong lòng một nỗi khắc khoải, đó là được nhìn thấy Chúa bằng cách của mình, tận mắt của mình. Ông không chấp nhận chỉ biết Chúa qua “lời người ta nói”. Khi ông đang vất vả tìm cách gặp được Chúa thì chính Chúa Giêsu tiến lại và gọi ông: “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống, và mừng rỡ đón rước Người.

Ông Giakêu đã tìm mọi cách để gặp gỡ Chúa. Ông ấy muốn xem cho thấy Chúa Giêsu nhưng không được vì dân chúng quá đông, mà ông ấy lại lùn. Giới hạn thể lý không ngăn cản ông tìm cách gặp Chúa. Ông liền chạy lên phía trước, tách ra khỏi đám đông, nhưng ông vẫn chưa thể thấy được Chúa. Ông bèn nghĩ ra một cách là trèo lên một cây sung để xem cho được mặt của Chúa. Ông vất vả lắm mới leo lên được, ông ngồi trên đó mà thỏa thích nhìn Chúa từ xa. Ông trông thấy Chúa rồi nhưng Chúa còn ở xa quá, nên ông không thấy rõ. Kìa, Chúa Giêsu đang tiến về phía ông. Ông hồi hộp và lòng mừng vui vì được thấy Chúa rõ ràng hơn. Chúa đến, đứng dưới chân ông, Người ngước mắt lên nhìn ông và gọi ông xuống. Người báo cho ông một tin vui: hôm nay Người sẽ ở lại nhà ông.

Ông Giakêu là người đứng đầu những người thu thế và rất giàu có. Vậy tại sao ông phải tìm gặp Chúa Giêsu? Phải chăng ông Giakêu ngưỡng mộ tài năng và lời giảng dạy tuyệt vời của Chúa Giêsu! Phải chăng những thứ của cải trần gian không thể lấp đầy trái tim ông? Ta có đang tìm cách để gặp được Chúa Giêsu không? Còn Chúa Giêsu, Người rất mong được gặp gỡ ta. Chúa hiện diện với ta trong Bí tích Thánh Thể, Chúa nói với ta khi lắng nghe Lời Chúa, Chúa ở bên cạnh ta khi cầu nguyện, Chúa đến với ta khi ta tiếp đón những người nghèo khổ, … Chúa Giêsu rất vui lòng ngự đến trong tâm hồn ta, Người sẽ giúp ta sống tốt hơn, biết chia sẻ hơn; và Người cũng giúp cho mọi người trong gia đình, trong cộng đoàn biết quan tâm, yêu thương nhau hơn.

Vậy làm sao ta có thể đón Chúa Giêsu vào lòng và rước Chúa về nhà mình? Khi ông Giakêu đón rước Chúa về nhà mình, ông đã làm gì? Ông ấy mở một bữa tiệc thết đãi Chúa và mọi người, sau đó ông đã chia tài sản của mình cho người nghèo và đền bù gấp bốn cho những người mà ông đã chiếm đoạt của cải. Gặp Chúa, ông đã từ bỏ con đường tội lỗi của mình, từ bỏ hết những gì làm cho ông xa Chúa và xa mọi người. Ông đã chứng tỏ cho mọi người thấy rằng ông sẵn sàng từ bỏ hết mọi sự để được ở bên cạnh Chúa, làm môn đệ của Chúa, được yêu Chúa Giêsu. Ta yêu mến Chúa Giêsu. Tình yêu phải được diễn tả bằng việc làm. Khi ta nói yêu Chúa, ta cần phải loại bỏ những thứ đam mê của tội lỗi.

Lạy Chúa Giêsu! Giữa một đám đông, con thấy mình thật nhỏ bé và như mất hút. Nhưng từ giữa muôn người, Chúa đã gọi tên con, tỏ cho con biết ý muốn của Chúa. Con cảm tạ Chúa đã thương xót con, cho con được gặp Chúa, được đón rước Chúa vào tâm hồn, được rước Chúa về nhà mình. Con tạ ơn Chúa vì Chúa đã luôn đi bước trước để đến với con, chính Chúa đã tìm và cứu những gì con đã đánh mất vì tội lỗi. Chúa đã làm cho hồn con được hân hoan vui sướng. Xin cho con sau mỗi lần gặp Chúa thì can đảm thay đổi đời sống như Chúa mời gọi. Amen.

Về mục lục

.

TÌM KIẾM CHÚA

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Lúc con người bước vào đời cũng là lúc khởi đầu hành trình kiếm tìm Thượng Đế. Hành trình tìm kiếm này khác nhau nơi mỗi người: có người thì thuận lợi, có người thật khó khăn; có người thật lâu dài, lại có người rất đơn giản ngắn gọn. Mục đích của việc kiếm tìm Thượng Đế là để gặp gỡ Ngài, được Ngài chia sẻ tính thần thiêng và vinh quang của Ngài. Có nhiều cách trình bày Thượng Đế khác nhau, tùy truyền thống văn hóa hay quan niệm tôn giáo tín ngưỡng. Người Kitô hữu được mặc khải cho biết Đấng Cao Cả có một tên gọi: Thiên Chúa. Hành trình cuộc đời cũng là hành trình tìm kiếm Thiên Chúa. Nhờ nỗ lực tìm kiếm Chúa mà chúng ta có thể nên giống Ngài ngay khi còn sống ở thế gian này, là bảo đảm sẽ được nên giống Ngài hoàn toàn ở đời sau.

Ông Giakêu là một người tìm kiếm Chúa. Dưới ngòi bút của thánh Luca, Giakêu là một người khá giả và là một thủ lãnh của những người thu thuế. Tuy vậy, sự giàu có và sung túc của ông không làm cho ông được thỏa mãn. Vì vậy, khi nghe nói có vị ngôn sứ tên là Giêsu đi ngang qua, ông đã vượt qua mặc cảm tự ti về vóc dáng, sẵn sàng trèo lên cây vả để nhìn rõ vị ngôn sứ sắp đi ngang qua. Vóc dáng ông tuy lùn, nhưng ý chí của ông lại cao. Dù là một thủ lãnh thu thuế, ông không ngại những lời chê bai đàm tiếu của công chúng. Cử chỉ trèo lên cây cho thấy nỗ lực tìm kiếm Chúa của ông.

Nếu con người mọi thời đang nỗ lực tìm kiếm Chúa, thì  Chúa cũng chủ động kiếm tìm con người. Chúng ta thấy điều này nhiều nơi trong Tin Mừng thánh Luca. Những dụ ngôn “người chủ chiên đi tìm chiên lạc”, “người đàn bà tìm đồng bạc bị mất” đều diễn tả việc Thiên Chúa đi tìm kiếm con người. Đang khi ông Giakêu còn loay hoay ngồi trên cây, thì Chúa Giêsu chủ động đề nghị: “Ông hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải lưu lại nhà ông”. Một vinh dự không ngờ! Giakêu chỉ nghĩ leo lên cây để nhìn Chúa đi ngang qua, nhưng Chúa lại đích thân đến nhà ông. Không phải chỉ có chúng ta ngạc nhiên, mà những người Do Thái đương thời cũng ngạc nhiên không kém. Không những ngạc nhiên, họ còn ganh tỵ với ông Giakêu và xầm xì với nhau. Đó là tâm lý thường thấy nơi con người. Khi thấy người ta hơn mình điều nọ điều kia thì tìm cách bới móc những khuyết điểm của họ để hạ thấp giá trị của họ xuống. Không chỉ ganh tỵ với ông Giakêu, những người đương thời còn tỏ ra bất bình với Chúa Giêsu, vì “nhà người tội lỗi mà ông ta cũng đến trọ”.

Trong khi những người Do Thái xầm xì với nhau, thì Chúa Giêsu lại tuyên bố ông Giakêu là người được ơn Cứu độ. Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã làm ông thay đổi cuộc đời. Từ một người thu thuế hay gian lận tham lam, ông trở thành người quảng đại, sửa lỗi bằng cách sẽ đền bù cho người bị thiệt và chia cơm sẻ áo cho người nghèo. “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Lời tuyên bố của Chúa Giêsu đã giúp ông vượt lên mọi thành kiến xã hội, lấy lại tự tin và niềm hy vọng. Việc Chúa đến thăm nhà giúp ông xua tan mọi mặc cảm về nghề nghiệp cũng như thân phận của mình. Những gì ông thưa với Chúa cho thấy một sự đổi đời tận gốc rễ. Ông Giakêu, một người thu thuế đã thực sự trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, một người con đích thực của Abraham, người công chính. Ông Giakêu đại diện cho vô vàn vô số những người nam nữ già trẻ trong mọi thời đại đang tìm kiếm Chúa. Họ tìm kiếm Chúa như hoa hướng dương tìm về mặt trời, như suối tìm về nguồn và như chim tìm về tổ. Con người không ngừng tìm kiếm Chúa mặc dầu họ chưa biết rõ về Ngài. Tin Mừng Thánh Luca là “Tin Mừng của lòng thương xót”, vì vậy tác giả thường trình bày Chúa Giêsu như một vị Ngôn sứ rao giảng và diễn tả lòng bao dung. Hãy nhớ lại điều người cha ngỏ với con mình trong dụ ngôn “Người cha nhân hậu”: “Con à, lúc nào con cũng ở với cha. Tất cả những gì của cha đều là của con. Nhưng chúng ta phải ăn mừng vì em con đây đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy” (Lc 15,31). Hoặc lời Chúa Giêsu trên thập giá: “Tôi bảo thật, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên thiên đàng” (Lc 23,43).

Thiên Chúa là Đấng hay thương xót. Đó là một điểm nhấn quan trọng trong giáo huấn của Cựu ước. Đoạn sách trích từ sách Khôn ngoan hôm nay (Bài đọc I) là một ví dụ. Thiên Chúa thương xót hết mọi người. Ngài nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi của họ để mong họ sám hối trở về và được cứu rỗi. Chúa luôn giang rộng vòng tay ôm lấy các tội nhân, nếu họ thành tâm trở về với Ngài. Như thế, người tín hữu cần vững lòng trông cậy vào lòng từ bi Chúa. Niềm trông cậy phải được thể hiện trong cuộc sống hằng ngày, qua cách ăn nết ở của chúng ta – Thánh Phaolô khuyên các tín hữu như vậy (Bài đọc II). Người trông cậy Chúa sẽ không hoang mang lo sợ trước những lời đồn đại và những tư tưởng lầm lạc, vì họ tin vào quyền năng và tình yêu thương của Thiên Chúa.

Cuộc tìm kiếm Chúa mặc dù còn nhiều gian nan, nhưng chắc chắn những ai nỗ lực tìm Chúa sẽ được gặp Ngài. Chúa đang hiện diện trong cuộc đời và trong chính tâm hồn chúng ta. Việc gặp Chúa thực ra rất đơn giản: tin tưởng, yêu mến và cậy trông vào Ngài, tất yếu sẽ được gặp Ngài và được Ngài ban trọn niềm vui.

Về mục lục

.

TỪ BỎ CỦA CẢI KHÔNG DỄ

 Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Một đại đức ở tỉnh Vĩnh Phúc, sư Thích Thanh Toàn, sau khi được Giáo hội Phật giáo chấp thuận cho xả giới hoàn tục vì bị cáo buộc ‘gạ tình’, đã công khai với báo chí ông có khối tài sản khoảng 200 đến 300 tỷ đồng bao gồm tiền, vàng, xe, nhà đất, trang trại… Đại Đức Thích Thanh Toàn còn vui mừng bày tỏ ông sẽ lập gia đình và ăn chơi xả láng. . . Nhưng điều đó đã không thành, vì Giáo hội Phật giáo quy định kẻ đi tu thì không có quyền trên tài sản được công đức cho Chùa … ông phải ra về tay trắng trong ê chề.

Thành thực mà nói nhiều người đã không nhìn thấy người đi tu dám sống từ bỏ. Ngược lại, đôi khi lại thấy người đi lại luôn miệng cần tiền và tìm mọi cách vun quén của cải từ dân chúng. Người ta thấy người đi tu tích luỹ nhiều hơn ban phát. Người đi tu vẫn còn đầy tham sân si mà dường như chưa bỏ được bụi trần.

Ở đời chỉ những ai dám từ bỏ lòng tham và từ bỏ của cải thì mới thấy tâm hồn họ thanh thoát bình an. Chính tinh thần từ bỏ mới giúp họ sống không vì lợi ích bản thân và dám sống vì lợi ích mọi người.

Chúa Giê-su hôm nay khen ngợi Gia -kêu. Ông có quá khứ tham tiền. Ông có quá khứ sống ích kỷ và hưởng thụ bất chính trên đồng tiền không do mồ hôi của ông. Nhưng điều mừng là ông sám hối và từ bỏ. Qua Chúa Giê-su ông công khai sám hối và sẵn lòng đền bù cách tương xứng những thiệt hại do mình gây ra. Ông còn dám từ bỏ địa vị mình để từ nay ông sống thanh thoát khỏi danh lợi thú trần gian. Ông còn hứa sẽ sống một cuộc đời đầy ý nghĩa là cho đi tài sản của mình để giúp đỡ người nghèo và bất hạnh.

Đây là niềm vui của Gia-kêu khi ông biết cho đi. Có lẽ cuộc đời ông trước kia chỉ tích góp, chỉ biết vun quén, và vun quén bằng những hành vi bất chính. Ông có tiền và rất giầu. Ông có kho lẫm tích trữ rất nhiều nhưng ông không có niềm vui tâm hồn. Ông biết rằng khi trao ban mới có niềm vui nhưng ông không tìm được lý do để trao ban. Cho tới khi ông gặp Thầy Giê-su, ông mới mạnh dạn làm cái điều mà mình hằng thổn thức, hằng ước mong. Khi gặp Thầy Giê-su, ông chỉ muốn dùng tài sản của mình để đền bù cho những ngày tháng mình quá ích kỷ. Ông muốn làm việc nghĩa. Ông sẵn sàng làm tất cả để chuộc lại lỗi lầm. Giờ đây ông biết rằng: tiền bạc chẳng mua được hạnh phúc và càng không mua được Nước trời.

Cuộc sống đôi khi cũng làm cho chúng ta có đôi chút tham lam. Có những khi trong tâm trí chúng ta trỗi dậy lòng ham muốn của cải người khác. Cũng có những khi chúng ta đã sử dụng của cải một cách bất chính. Cũng có những khi chúng ta đã biến của chung thành của riêng. . .

Lời Chúa hôm nay nhắc nhở chúng ta rằng tội lỗi ai cũng có, điều quan trọng là có dám như Gia-kêu để làm lại từ đầu. Để sám hối, để đền bù thiệt hại và để từ bỏ những cái không thuộc về mình cho xã hội hay Giáo hội hay không?

Xin cho chúng ta cũng biết noi gương Chúa biết sống cho đi mà không tính toán, cho đi cả mạng sống mình vì hạnh phúc tha nhân để nhờ đó chúng ta được sống mãi trong tình thương của Chúa. Và xin cho chúng ta biết can đảm sửa lại lỗi lầm khi dám công khai nhìn nhận tội và dám đền bù thiệt hại mà mình đã gây nên. Amen

Về mục lục

.

CUỘC HOÁN CẢI KỲ DIỆU

Lm Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong tác phẩm nổi tiếng Những Kẻ Khốn Cùng (Les Misérables), văn hào Victor Hugo miêu tả câu chuyện về cuộc đời của Văn Giang (Han Valjean), một tên cướp của giết người đã từng bị ở tù 19 năm. Khi vừa được thả ra, anh đã phải nếm mùi khinh dể vì bị mọi người xa lánh: Bước vào tiệm ăn, anh liền bị chủ tiệm xua đuổi; vào nhà trọ, thì người gác cửa đã đóng sập cửa ngay trước mặt; đi qua lũ chó, thấy bộ dạng nhếch nhác râu ria của anh, chúng liền thi nhau sủa inh ỏi… Chỉ khi bước vào nhà Đức Giám mục Myriê, anh mới được tiếp đãi nồng hậu như một con người: Anh được ăn một bữa tối thật ngon, được nằm trên một chiếc giường êm ấm. Nhưng rồi đêm hôm ấy, nhìn thấy các chân đèn bằng bạc quí giá, anh không cưỡng nổi lòng tham, nên nhẹ nhàng lấy năm cái chân đèn cho vào bao, rồi chuồn mất. Nhìn thấy bộ dạng khả nghi của anh, cảnh sát liền đòi khám xét chiếc túi vải anh đang vác trên vai và họ nhìn thấy mấy cái chân đèn bằng bạc. Anh liền bị giải đến trước mặt vị giám mục để làm rõ. Nhưng ngài không những không kết tội, mà còn nhận là đã tặng cho anh mấy cái chân đèn bạc kia. Hơn nữa, ngài còn tặng thêm hai chân đèn nữa cho đủ bộ và nói nhỏ với anh: “Ta không kết tội con đâu, nhưng con phải sám hối để làm lại cuộc đời.” Sau khi được thả, anh luôn suy nghĩ về những lời nhắn nhủ của vị giám mục và xúc động trước tình thương bao dung của ngài. Anh quyết tâm sám hối và sau đó đã trở thành một người lương thiện. Nhiều năm sau, Văn Giang đã chinh phục được tình cảm của mọi người và còn được dân chúng tín nhiệm bầu làm thị trưởng của thành phố. Sở dĩ từ một tên tội phạm trở thành một người lương thiện và được kính nể là do ông đã cảm nghiệm được tình thương của vị giám mục Myriê.

Câu chuyện trên đây có điều gì đó rất giống với câu chuyện Tin Mừng hôm nay. Thánh Luca trình thuật lại biến cố Chúa Giêsu vào thành Giêricô. Ở đó có một người tên là Dakêu. Ông đứng đầu những người thu thuế và là người giàu có. Khi Chúa Giêsu đi qua, vì dân chúng thì đông, mà ông ta lại lùn. Ông liền chạy phía trước, leo lên một cây sung để xem Đức Giêsu. Thấy thế, Chúa Giêsu bảo ông: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông!” Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người. Sau khi đón tiếp Chúa, ông tuyên bố rằng: “Thưa Ngài, tôi xin lấy phân nửa tài sản của tôi mà cho người nghèo; và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn” (x. Lc 19,1-10).

Qua câu chuyện Tin Mừng hôm nay, thánh Luca muốn minh chứng cho chúng ta thấy những yếu tố làm nên cuộc hoán cải kỳ diệu của Dakêu.

1- Lòng thương xót của Thiên Chúa

Yếu tố thứ nhất phải nói đến đó là lòng thương xót của Thiên Chúa, được thể hiện qua những hành vi cứu độ và rất nhân bản của Chúa Giêsu đối với ông Dakêu
.
Bất chấp lý lịch ‘không mấy trong sáng’ của ông, Chúa Giêsu không nhìn ông với cái nhìn loại trừ và khinh bỉ như những người Do Thái; Người đã chủ động gặp ông, gọi tên ông và đến nhà ông dùng bữa. Luca muốn diễn tả sự hiện diện của Chúa Giêsu tại nhà ông chính là sự hiện diện của một Thiên Chúa cứu độ. Người là hiện thân của một vị Thiên Chúa giàu lòng thương xót và tha thứ. Người đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã mất (Lc 19,10). Quả thế, Đức Giêsu chính là vị Thiên Chúa say mê con người, khát khao cứu độ con người; bởi đó, Người đã đi bước trước trong việc tìm kiếm, gặp gỡ và cứu độ con người. Chính lòng thương xót đó đã đụng chạm con tim của Dakêu và biến đổi ông. Đây là yếu tố quyết định làm nên cuộc hoán cải lạ lùng nơi Dakêu cũng như nơi biết bao tội nhân trong lịch sử của Giáo Hội.

Quả vậy, Thiên Chúa luôn mong muốn các tội nhân hoán cải. Người đi bước trước để giúp họ trở về. Cũng như vị giám mục trong câu chuyện trên đã hành xử theo lòng tốt, nhờ đó đã hoán cải tên cướp Văn Giang. Thiên Chúa không hành xử với tội nhân theo luật công bình, nhưng là theo lòng thương xót để tạo cơ hội giúp họ hoán cải. Đây là yếu tố của lòng thương xót, yếu tố của ân sủng.

2- Sự đáp trả của con người

Yếu tố thứ hai là sự thiện chí của Dakêu hay nói đúng hơn chính là sự cộng tác của ông. Dẫu là một người lùn, lại bị liệt vào hàng tội lỗi vì nghề thu thuế, bị loại trừ và khinh bỉ, nhưng Dakêu đã biết tìm mọi cách để vượt lên những giới hạn đó để được thấy Chúa. Những hành động của ông minh chứng ông là một người rất có thiện chí: “Trèo lên cây sung,” “tụt xuống để đón Chúa vào nhà,” “tiếp đãi Chúa” và nhất là “lấy tài sản bố thí và đền bù gấp bốn cho những ai thiệt hại.” Luca cho thấy những hành vi này diễn tả sự khát khao, sự đón nhận và cộng tác của ông với ơn Chúa. Sự thiện chí này là điều kiện cần thiết để cho ơn Chúa sinh hoa kết quả. Từ một “người tội lỗi,” bây giờ ông Dakêu được Chúa phục hồi quyền làm “con cháu tổ phụ Ápbraham.”

Như thế, ân sủng kết hợp với sự cộng tác của con người tạo nên một cuộc đổi đời, một sự hoán cải kỳ diệu nơi Dakêu. Đó là hai yếu tố cần thiết cho mọi sự hoán cải. Đúng như lời thánh Augustinô nói: “Khi tạo dựng nên con, Chúa không cần con, nhưng để cứu chuộc con, cần phải có con.”

3- Hoa trái của hoán cải

Hoa trái của hoán cải là trở về với Thiên Chúa và hướng tới một đời sống công bình, huynh đệ và bác ái đối với tha nhân như trường hợp Dakêu. Sau khi gặp gỡ Chúa Giêsu tại nhà mình, ông quyết định lấy phân nửa tài sản của ông mà cho người nghèo và xin đền gấp bốn cho những người ông đã chiếm đoạt của cải của họ (x. Lc 19,8). Về điểm này, luật Môsê buộc phải đền trả những gì đã chiếm đoạt của người khác hơn một phần năm. Trong khi đó, luật Rôma buộc phải đền gấp bốn. Dakêu thực hiện theo luật này. Ngoài ra, ông còn sẵn sàng chia một nửa tài sản cho người nghèo. Quả thế, sự biến đổi từ bên trong con người phải được thể hiện ra bên ngoài, như là hoa quả của việc hoán cải. Rõ ràng ông có một sự hoán cải tận căn, thay đổi não trạng, cách nghĩ khi không coi tiền bạc là trên hết, ông thay đổi con tim khi không còn bám víu và nô lệ tiền bạc và địa vị, ông thay đổi đời sống ích kỷ khi hướng tới tha nhân bằng đời sống công bình và bác ái.

Qua câu chuyện hoán cải của Dakêu, một đàng, chúng ta được mời gọi hãy tín thác vào lòng thương xót Chúa; đàng khác, noi gương Dakêu, chúng ta hãy cố gắng hết mình, làm hết sức để cộng tác với ơn Chúa trong việc hoán cải bản thân cũng như tha nhân. Như một tác giả tu đức nói rằng: để được cứu độ, chúng ta hãy để cho Chúa làm nơi chúng ta 100% do ân sủng Chúa và đồng thời chúng ta phải làm hết sức mình 100% do nỗ lực cá nhân mỗi người.

Nguyện xin Chúa Giêsu đến viếng thăm ngôi nhà mỗi người và mang ơn cứu độ cho chúng ta để mỗi người cũng trở thành những Dakêu mới cho cuộc sống hôm nay. Amen!

Về mục lục

.

CHÚA LÀ CÙNG ĐÍCH CỦA CUỘC ĐỜI

Sr. Anna Nguyễn Như Ý

Cuộc sống bộn bề với trăm công nghìn việc làm cho con người quên đi cùng đích của đời mình là gì. Con người ngày hôm nay chỉ thích tìm kiếm những gì nhằm thỏa mãn bản thân, nhưng cuối cùng mọi thứ đều không thể làm cho họ thỏa mãn ước mơ cuộc đời, cho dù họ kiếm được nhiều tiền, nhà cao cửa rộng, công thành danh toại… Và thử hỏi trong số những người đi tìm sự khao khát ấy, có bao nhiêu người đã tìm được hạnh phúc đích thực cho cuộc đời mình.

Hình ảnh Gia-kêu trong đoạn Tin mừng của thánh Luca 19, 1 – 10 là một bằng chứng cụ thể cho cuộc sống của con người ngày hôm nay. Cuộc sống của ông có vẻ làm cho những ai khao khát sự thành công ở trần gian đều mơ ước. Nhưng đổi lại ông được gì? Sự khinh bỉ, sỉ nhục, ganh ghét của đồng bào mình. Điều này có làm cho ông thật sự hạnh phúc? Tâm hồn ông có thật sự bình an khi hằng ngày phải đối diện với chính lương tâm của ông? Chắc chắn một điều rằng, ngày nào đó ông cũng mong thoát khỏi sự khốn khổ bất hạnh này. Và ngày đó đã đến với chính cuộc đời ông, ngày mà Giêsu xuất hiện. Ở giữa đám đông, chẳng có ai thèm để ý đến ông thì ông lại là người được Giêsu để ý đến. Không ai nhìn thấy ông nhưng chính Chúa lại thấy ông. Ngày hạnh phúc đã đến với ông. Đối với ông chẳng còn niềm hạnh phúc nào có thể sánh ví được. Vì thế, ngày hôm ấy, ông đã sẵn sàng cho người nghèo phân nửa tài sản của ông, và sẽ đền gấp bốn nếu ông đã chiếm đoạt của ai cái gì (x.Lc 19, 8).

Điều gì đã làm thay đổi cuộc đời ông cách mạnh mẽ như vậy? Từ một con người đã bị dân chúng xầm xì là người tội lỗi (x.Lc 19, 7) thì nay ông đã được Chúa ở lại nhà (x.Lc 19, 5). Phải chăng đó là sự gặp gỡ mà ông hằng khao khát và tiềm kiếm bấy lâu nay. Chỉ có thể là sự gặp gỡ với Chúa thật sự, mới có thể làm thỏa mãn tâm hồn ông. Sư hiện diện của Chúa đã phá vỡ rào cản giữa ánh sáng của lòng bác ái và bóng tối của sự thù hận. Ông đã trả lại cho Chúa và tha nhân những gì không thuộc về ông. Đối với ông bây giờ Chúa đã là đủ rồi.

Hình ảnh Giakêu đâu đó cũng ẩn hiện nơi mỗi người chúng ta, những người đang sống trong ơn gọi Kitô hữu. Chúng ta nhiều khi tôi cũng loay hoay tìm kiếm những gì thuộc về thế gian mà quên mất cùng đích của đời mình là gì? Hằng ngày, chúng ta vẫn đọc kinh cầu nguyện, tham dự Thánh lễ, rước Chúa đều đặn nhưng phải chăng tâm hồn chúng ta vẫn chưa thật sự bình an. Và cho dù chúng ta đã làm nhiều việc mang danh Chúa, nhưng chúng ta vẫn không cảm thấy thỏa mãn là bởi vì chúng ta vẫn còn tìm kiếm điều gì đó cho bản thân mà quên mất rằng mọi sự thế gian này chóng qua như hoa sớm nở chiều tàn. Chúng ta quên mất rằng chỉ có Chúa mới là cùng đích và là niềm hi vọng của đời ta. Đã bao lần chúng ta đã không tìm kiếm Chúa nơi những công việc ta đang thi hành. Chúng ta đã không nhận ra sự hiện diện của Chúa nơi những người chúng ta gặp gỡ hằng ngày. Những việc ta làm có thể chỉ là thói quen, chưa phải là hành động của đức ái. Chúng ta hãy mở rộng lòng để cho Chúa đến và hướng dẫn ta như Chúa đã làm cho Giakêu khi xưa, nhưng với điều kiện là chúng ta phải luôn khao khát tìm kiếm Người với tất cả tấm lòng thành.

Lạy Chúa, xin biến đổi tâm hồn chúng con như Chúa đã làm cho Giakêu được trở nên bạn nghĩa thiết của Ngài. Chỉ khi nào chúng con cảm nghiệm được Chúa thật sự là nguồn hạnh phúc của đời chúng con thì chúng con chẳng còn tìm kiếm gì nữa ngoài Chúa. Xin hãy ở lại với chúng con và hướng dẫn chúng con trong mỗi giây giây phút sống, để những gì chúng con làm đều là để sống theo thánh ý Chúa,  để cuộc đời chúng con sẽ ngày càng hạnh phúc và ý nghĩa hơn. Amen.

Về mục lục

.

GẶP NGƯỜI ĐỔI ĐỜI

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, theo chân Thầy Giêsu vào thành Giêrikhô, ta choáng ngợp trước một “rừng người” đang chen lấn nhau để nghe Thầy giảng. Ai cũng muốn được đến thật gần Thầy Giêsu. Cùng đi theo Thầy đó nhưng có mấy ai diễm phúc được đón

Người vào nhà như ông Dakêu hôm nay.

Ông Dakêu là một người đứng đầu những người thu thuế và rất giàu có. Ông nghe danh tiếng Thầy và muốn được nhìn thấy Thầy. Lòng khao khát của ông rất chân thành. Chen lấn mãi mà vẫn không lại gần Thầy được, ông bèn chạy lên trước đám đông, trèo lên cây sung để nhìn Thầy và ở đó chờ cho đến khi Thầy đến. Ông đã nhìn ngắm vị Thầy mình ngưỡng mộ trong âm thầm như thế. Đám đông chẳng hề biết có một người giàu sang đang ngồi trên cây sung. Thế nhưng, Thầy Giêsu biết ai là người thành tâm tìm gặp mình và Người biết rõ tấm lòng của họ. Người đã dành cho ông Dakêu một món quà rất bất ngờ, vượt quá điều mà ông mong ước. Dừng lại dưới gốc cây sung, Thầy ngước nhìn ông và gọi: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Ông đã vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người. Người ta biết ông là tên thu thuế tội lỗi nên xì xào bàn tán: “Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ” (Lc 19, 7). Lời ấy vừa nhắm thẳng để trách móc Thầy Giêsu nhưng cũng vừa để khinh dể ông Dakêu. Hơn ai hết, ông biết thân phận tội lỗi khốn cùng của mình. Ông không ngần ngại trước lời dèm pha chỉ trích của đám đông đang ganh tị với mình, bởi ông nhận thấy Thầy Giêsu đã thương xót đến mình. Tình thương của Thầy cho ông một niềm tin mạnh mẽ, một niềm hy vọng lớn lao để có thể đổi đời.

Trước đám đông, ông thưa cùng Thầy: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn (Lc 19, 8). Lòng sám hối phải được diễn tả rõ ràng qua hành động quyết liệt như thế. Chỉ khi cảm nhận mình được Chúa đón nhận, ta mới có thể hoán cải. Cũng như ông Dakêu, ta không ngờ rằng chính khi ta cố gắng để tìm gặp Chúa, chính Ngài đã tìm gặp ta trước. Ngài gọi chính tên ta và nói lên ý định đầy yêu thương của mình: “Hôm nay Ta phải lưu lại nhà con”. Nhiều người đã nhìn ta với cái nhìn khinh bỉ vì họ biết những yếu đuối của ta. Nhiều lần, ta đã cảm thấy bất lực khi phải vượt qua những rào cản từ phía “đám đông” và rào cản từ chính mặc cảm tội lỗi của mình. Nhiều lần, ta đã chỉ nghe tiếng Chúa nói qua trung gian, ta mong được gặp thấy Chúa. Món quà bất ngờ mà Chúa đã dành ông Dakêu hôm nay khiến ta cũng háo hức biết mấy. Để rồi, trong cuộc sống, dù nhiều lần vấp ngã, ta cũng sẽ can đảm tìm gặp Chúa, để nhìn về Thiên Chúa thiết tha nguyện xin, ơn thiêng của Chúa sẽ đỡ nâng ta. Chính khi tình yêu tìm gặp Đấng là Tình Yêu, tâm hồn ta sẽ được đổi mới.

Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết rõ lòng con khao khát Chúa. Chính Chúa đã tìm gặp con trước vì Chúa yêu con. Xin cho con mỗi ngày biết hướng lòng về Chúa để kiên trì vượt qua chính mình mà gặp Chúa. Con tin, Chúa sẽ vui lòng sống trong con và biến đổi con. Amen.

Về mục lục

.

BẠN ĐANG TÌM GÌ?

Anna Cỏ May 

Theo lẽ tự nhiên, người giàu có thường tìm cách để giàu có hơn. Người nghèo thì lo làm sao mình bớt nghèo đi. Người trẻ thì tìm kiếm những cuộc vui chơi mới lạ theo sở thích, người Già thì tìm sự an nhàn sau một đời lao nhọc. Còn tôi, tôi tìm gì, tôi có bao giờ đi tìm Chúa không?

Chúa Giêsu không bao giờ ngưng tìm kiếm con người. Còn con người ngày nay, mấy ai đi tìm gặp Chúa như ông Dakêu. Ông Dakêu là người đứng đầu những người thu thuế giàu có. Thời Chúa Giêsu, những người làm nghề thu thuế được khép vào hạng những người tội lỗi. Bởi đó, ông không thể tránh khỏi ánh mắt khinh bỉ của dân chúng. Dầu vậy, khi nghe biết Chúa Giêsu đi ngang qua, ông vội tìm cách để biết Chúa Giêsu là ai. Với lòng háo hức và lòng khao khát muốn nhìn thấy Chúa Giêsu, ông đã quên đi thân phận giàu có, quên đi mặc cảm tội lỗi. Với thân hình nhỏ bé, ông không thể nhìn thấy Chúa Giêsu được vì dân chúng rất đông. Ông liền chạy tới phía trước, vượt qua đám dân chúng đang chen lấn và cố gắng leo lên cây sung để nhìn thấy Chúa Giêsu.

Lòng khao khát tìm cách để thấy Chúa Giêsu nơi ông đã chạm tới chính tấm lòng của Chúa Giêsu, vì chính Người cũng đang “đến để tìm và cứu những gì đã mất” (x. Lc 19,10). Thật bất ngờ, điều ông nhận được còn vượt xa những gì ông mong đợi. Chúa Giêsu đã đứng dưới cây sung mà nói: “Này ông Dakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” (Lc 19, 5). Ông vội vàng tụt xuống và mừng rỡ đón rước Người, mặc cho dân chúng xầm xì. Chúa đã vào nhà ông, nói đúng hơn Người đã đi vào tâm hồn của ông và làm nó biến đổi. Sự biến đổi bên trong của ông biểu lộ ra lời nói và hành động bên ngoài. Ông nói: “Thưa Ngài, đây phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo, và nếu tôi đã chiếm đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn (Lc 19, 8). Đó không phải là lời hứa lúc ông cao hứng nhưng là lời thốt ra từ trái tim. Ông Dakêu đón Chúa vào nhà một ngày, nhưng ông đã đổi một cuộc đời đó là đời ông đã hoàn toàn đổi mới, hoàn toàn sống như Chúa Giêsu mong đợi. Còn chúng ta, chúng ta đã rước Chúa Giêsu vào lòng không biết bao nhiều lần, đời chúng ta đã nên giống Chúa Giêsu chút nào chưa? Người luôn luôn tìm kiếm và muốn ở trong lòng chúng ta qua bí tích Thánh Thể. Khi rước Chúa Giêsu là chúng ta cũng rước Chúa Cha và Chúa Thánh Thần vào trong lòng mình. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Tôi và Chúa Cha là một” (Ga 10, 30). Ngoài ra, Chúa Giêsu vẫn đến và ở lại với mỗi người qua những người thấp bé, tội lỗi và bị bỏ rơi. Ngài nói: “Ai đón tiếp em nhỏ này vì danh Thầy là đón tiếp chính Thầy” (Lc 9, 48). Chúa Giêsu không muốn chúng ta phải chết nhưng được ăn năn và được sống. Nhìn lại chính mình, chúng ta có muốn rước Ngài vào trong tâm hồn của mình không? Chúng ta có tìm gặp Ngài dù chỉ một lần trong ngày không hay chúng ta chỉ thích lui tới những quán cà phê, thích tới những khu vui chơi giải trí? Còn Chúa Giêsu, Ngài vẫn đang chờ đợi chúng ta rước Ngài vào nhà mỗi ngày.

Lạy Chúa! Chúng con cảm tạ Chúa đã luôn tìm kiếm và hằng muốn ở lại trong chúng con. Xin Chúa ban ơn cho chúng con vững tin và rước Chúa ngự vào nhà. Xin cho chúng con được đổi mới như lòng Chúa mong muốn. Amen.

Về mục lục

.

LÒNG NHÂN TỪ

Maria Đỗ Minh Thư

Nhân từ là một đức tính cần thiết cho mỗi người trong chúng ta. Bao dung, tha thứ cho người khác khiến ta có được sự bình yên đáng có, được đáp trả lại bằng tình thương của mọi người. Chúa Giê-su là người Cha đầy lòng từ bi nhân hậu. Người luôn tha thứ cho mọi tội khiên của chúng ta khi chúng ta thật lòng ăn năn sám hối.

“Khi Đức Giê-su tới chỗ ấy, thì Người nhìn lên và nói với ông: “Này ông Da-kêu, xuống mau đi. Vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông” ”. (Lc 19, 5)

Da-kêu là một người thu thuế giàu có trong vùng Giê-ri-khô, là người mà trong thành khinh chê, là người mà định kiến thời đó cho là tội lỗi, là người không đáng được Chúa viếng thăm và ghé vào nghỉ chân nơi nhà ông. Nhưng không Chúa lại chọn nhà của người tội lỗi đó, của Da-kêu, Người không quan tâm đến người khác nói gì, cũng chẳng cần biết họ nghĩ như thế nào? Liệu có lý do nào để giải thích hành động của Đức Giê-su? Nếu là một kẻ trong đám đông hôm ấy, liệu có chắc tôi và các bạn nghĩ và nói gì?

Trong cuộc sống, đôi khi chúng ta không biết tha thứ cho người khác cũng như cho chính bản thân mình. Có những khi người khác gây ra cho chúng ta một sự tổn thương dù nhỏ bé đến đâu trong lòng con không thật sự tha thứ cho họ trong khi môi miệng đã nói lời tha thứ. Và ngay cả khi chúng ta gây ra sự tổn thương cho người khác, dù cho họ đã tha thứ chúng ta và sự tha thứ làm cho lòng họ cảm thấy bình an nhưng chính bản thân ta cũng không tha thứ được cho chính mình vì những gì mình đã gây ra. Sự tha thứ cho người khác sẽ làm cho người tha thứ cảm thấy bình an và vui vẻ hơn trong cuộc sống và trong các mối quan hệ với tha nhân.

Lạy Chúa Giê-su, Chúa đã ngự vào nhà của ông Da-kêu, nhà của một người tội lỗi vì lòng nhân từ và Người đã giúp ông trở về, về với con người thánh thiện. Lạy Chúa xin Chúa cũng ngự vào nhà con, ngự vào tâm hồn con cách thiêng liêng để con cũng được như ông Da-kêu, được biến đổi, được quay trở về vì con là người tội lỗi luôn cần đến tình thương và lòng vị tha của Người. Amen.

Về mục lục

.

KHAO KHÁT TÌM GẶP CHÚA ĐỂ ĐƯỢC CỨU ĐỘ

Maria Trần Thắm

Lời Chúa: (Lc 19, 9-10)

Chúa Giêsu bảo ông ấy rằng: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham. Vì chưng Con Người đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”.

Suy niệm:

Tâm hồn mỗi người chúng ta luôn khao khát tìm kiếm Chúa để được ơn cứu độ và có sự bình an trong một ngày sống. Nếu chúng ta muốn gặp gỡ Ngài, Ngài có thể thay đổi cuộc sống của chúng ta, sớm hay muộn gì Ngài sẽ gặp chúng ta như đã gặp Người phụ nữ Samari và Dakêu. Nhưng gặp gỡ này chỉ có thể thay đổi được, nếu chúng ta khao khát đợi chờ Ngài. Chính vì Dakêu khao khát Ngài đã trở nên Đấng cứu độ cho ông.

Chúa Giêsu đã đến loan báo Tin Mừng ngay tại nhà ông Dakêu: “Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cái Abraham” (Lc19,9). Giakêu, một nhân vật có đủ: sự giàu sang, chỗ đứng, quyền thế trước mặt người đời nhưng trước Nhan Thánh Chúa và dân tộc mình thì Dakêu vẫn cảm thấy mình là một tội nhân, thiếu tình thương và sự sống của Chúa. Nhân loại ngày nay có đầy đủ tất cả vật chất, của cải cần thiết cho cuộc sống con người. Chúng ta hay đi tìm chỗ ở cho mình thật cao sang, nhưng chỗ gần nhất thì không biết tìm đến là ngay chính trong tâm hồn của mình. Một chân lý nữa lại diễn ra: “Vì Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất” (Lc19,10). Cho thấy, Thiên Chúa luôn đi tìm và cứu những con người tội lỗi. Trong cuộc sống của thời đại này, con người bị cuốn vào guồng sống vội, sống nhanh, sống bon chen, vội vã. Và hệ lụy đôi khi là một lối sống buông thả, đánh mất ý nghĩa về giá trị đích thực của đời người. Có nhiều người không dám, và không đủ nghị lực, niềm tin để đứng dậy và trở về “với Cha”. Nhiều bạn trẻ vì thú vui bên ngoài, đánh mất ơn nghĩa mật thiết với Chúa, thờ ơ, không nhìn ra tội mình đã phạm làm Chúa phải buồn. Mặc dù, Chúa vẫn hằng giang tay chờ đón những con người tội lỗi biết ăn năn trở về. Điều đó nói lên rằng, những ai khiêm nhường nhận mình là tội nhân thì đều được Chúa ban ơn cứu độ. Hãy chấp nhận ra đi tìm kiếm Ngài, khám phá tình yêu vô bờ bến của Ngài theo gương Dakêu mau chóng trở về. Để trong đời sống mau mắn khiêm nhường hoán cải những lầm lỗi phạm đến Chúa và mọi người. .

 Ước gì chúng ta nhìn tha nhân bằng bằng ánh mắt của Chúa, dám hy vọng không ngơi vào lòng tốt của mỗi người và can đảm tin tưởng vào sự quảng đại của họ, nhờ đó thế giới của chúng con trở nên thần linh hơn.

 Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con biết sống một con người công chính, ngay thẳng ở trước mặt Chúa. Khi đến với chúng con Chúa thường đến như một người hành khất. Chúa cần chút nước của người phụ nữ Samari, Chúa cần đến nhà ông Gia kêu để nghỉ chân ban nhiều hồng phúc cho chúng con. Xin cho chúng con biết đền đáp những ơn lành Chúa hằng ban cho.Xin dạy chúng con biết cách đến với mọi người, khám phá ra đốm lửa của sự thiện vẫn cháy sáng nơi lòng người tội lỗi, biết gặp gỡ Chúa mỗi ngày để chúng con trở về và thay đổi cuộc sống tội lỗi. Như Thánh Giáo Hoàng Gio an Phaolô II nói: “ Hỡi các bạn trẻ hãy để Thiên Chúa là ơn cứu độ và là nguồn hạnh phúc của các bạn”.

Về mục lục

.

DA-KÊU ĐƯỢC BIẾN ĐỔI

Lm. John Nguyễn.

Tại Giê-ri-khô, ông Da-kêu được xếp vào loại người giàu có, nhờ cái nghề thu thuế. Ở trong vùng này, ai cũng đã biết rõ con người tham lam này. Và Da-kêu cũng thừa biết thiên hạ chẳng ưa thích gì ông ta, bởi vì ông đã làm những điều bất chính, thu gom của cải người dân để trục lợi cho bản thân với cái nghề cho vay nặng lãi. Dưới mắt bàn dân thiên hạ, ông ta là kẻ đáng bị quyền rủa và bị trừng phạt bởi việc làm gian tham của ông. Nhưng điều làm cho đám đông phải kinh ngạc bởi cách xử sự của Chúa Giê-su dành cho Da-Kêu, đã làm cho nhiều người xầm xì, bàn luận về việc của Chúa Giê-su ở lại nhà Da-kêu. Từ nguyên nhân này dẫn đến cuộc tranh luận không chỉ cho những người đi theo Chúa lúc bấy giờ mà còn là cho mọi người chúng ta suy gẫm về cách hành xử của Chúa Giê-su trước con người tội lỗi qua đoạn Tin Mừng của thánh Luca thuật lại hôm nay.

Chúng ta đi vào trang Tin Mừng thuật lại câu chuyện. Khi nghe tin Chúa Giê-su đi ngang qua, Da-kêu muốn biết Chúa Giê-su là ai? Vì ông đã được nghe danh tiếng của Chúa Giê-su lan truyền khắp nơi. Da-Kêu muốn được tận mắt nhìn thấy Chúa Giê-su. Ông đã chen vào đám đông. Nhưng vì quá lùn, ông phải trèo lên cây sung để nhìn thấy Chúa Giê-su. Thay vì, ông ta muốn gặp Chúa Giê-su, thì chính Chúa lại đi tìm ông ta trước. Chúa Giê-su ngước nhìn lên cây sung và bảo cho Da-kêu: ” Này anh Da-Kêu xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh.” Ông mừng rỡ tụt xuống và rước Ngài về nhà. Mọi người thấy vậy sửng sốt và xầm xì với nhau: ” Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”. Một câu nói mỉa mai, đánh tiếng và chê bai của đám đông khi Chúa ghé nhà Da-kêu.

Thật sự, những thắc mắc và nghi ngờ của đám đông là có lý do, bởi vì họ đã biết rõ Da-kêu là người xấu. Một người thánh thiện, tốt lành không có thể đi chung với con như tội lỗi như Da-kêu. Người đời thường nói: “Gần mực thì đen, gần đèn thì sáng.” Còn Chúa Giê-su thì làm ngược lại cách nghĩ của đám đông đang vây quanh Ngài. Con người vốn mang xã hội tính: kẻ thù thì phải trừng trị, loại trừ, kẻ gian ác thì phỉa diệt vong và phải phân biệt tốt xấu rõ ràng. Cho nên, những người Pha-ri-siêu thường tách biệt những người thu thuế và tội lỗi ra khỏi cộng đồng của họ. Cụ thể, câu chuyện người Pha-ri-siêu và người thu thế vào đền thờ cầu nguyện trong tuần qua. Người Pha-ri-siêu luôn tự đắc mình là người thánh thiện, công chính để rồi kết án người khác, giữ đạo theo kiểu hình thức bên ngoài, khoát trên mình chiếc áo thụng chũm chọe để được người ta khen ngợi và tán thưởng, chúng giống như mồ mả tô vôi, chỉ đẹp bên ngoài nhưng lòng dạ thì xấu xa.

Tội của Da-kêu, ai cũng biết, ông ta không dám rước Chúa vào nhà ông vì ông không xứng đáng. Nhưng Chúa Giê-su đã nhận ra con người của ông, Chúa cần được đến với ông, vì Da-kêu cần chữa lành những vết thương tội lỗi của ông, cần được tắm rửa tội lỗi trong dòng suối mát tình yêu Thiên Chúa. Một Thiên Chúa giàu lòng xót thương cho những con người tội lỗi. Và chỉ có tình yêu Thiên Chúa mới có thể làm biến đổi ông ta thành con người mới. Cha mẹ không thể ghét bỏ đứa con mình, cho dù nó có bất hiếu và ngược đãi với mình, cha mẹ vẫn yêu thương nó, tha thứ cho nó, kêu nó trở về nhà. Cha mẹ thế gian còn biết cho con mình những điều quý giá, thì tại sao chúng ta lại không nhận ra Thiên Chúa là tình yêu vô biên dành cho hết tất cả mọi người chúng ta. Khi ta nhận ra được lòng thương xót của Thiên Chúa là lúc chúng ta sống trong tình yêu đó với tha nhân. Chúng ta sẽ nhìn cuộc đời tốt đẹp hơn và bớt đi tính ích kỷ hẹp hòi với tha nhân.

Tình yêu Thiên Chúa thì không giới hạn bởi rào cản, bởi thành kiến, cách nhìn và cách đánh giá của người khác qua dáng vẻ bên ngoài, nhưng là tận nơi cõi lòng. Hành trình cuộc đời của thánh Matheu, ngài cũng là một người thu thuế và được Chúa gọi đi theo Ngài, để rồi từ bỏ nghề thu thuế để đi làm môn đệ của Chúa. Chúa luôn tìm kiếm con người và tạo điều kiện để có cơ hội trở về. Trái lại, những người Pha-ri-siêu thì loại trừ không chỉ là những người thu thế mà cả những người phong cùi ra khỏi cộng đồng. Họ tin vào Thiên Chúa, nhưng lại không sống yêu thương và tha thứ, đã nhiều lần bị Chúa Giê-su lên án: “đạo đức giả”.

Phải chăng lý do nhiều người xầm xì bảo Chúa Giê-su không được đến ăn uống với người tội lỗi cũng từ quan niệm và cách nhìn của con người loại trừ. Với lối sống và quan niệm vị kỷ như thế, thì việc Chúa Giê-su làm không thể tránh khỏi bởi dư luận bởi những người giữ luật quá khắc khe và tỉ mỷ, chính thế họ đã bóp chết lòng từ bi và khoan dung với tha nhân. Tôi thiết nghĩ câu chuyện ông Da-kêu hôm nay, Chúa Giê-su đã làm một cuộc cách mạng để làm thay đổi quan niệm, cách nhìn và thành kiến đối với những người làm nghề thu thuế mà hay đúng hơn là những người tội lỗi. Chính sự quan tâm đặc biệt của Chúa dành cho Da-kêu lại là cái cớ làm cho tính ganh tỵ của con người. Họ ganh tỵ vì không được Chúa viếng thăm nhà mình nên họ không bác ái đủ với ông ta. Nhưng với Thiên Chúa giàu lòng thương xót, Ngài luôn tìm kiếm những con chiên lạc, ốm đau bệnh tật để đưa chúng trở về đàn chiên. Ngài nói: “Bệnh nhân mới cần thầy thuốc”.

Hình ảnh Da-kêu có thể làm đại diện cho hàng triệu người trên thế giới hôm nay, họ cũng đang phải chịu bởi sức ép với cái nhìn thành kiến của con người của một xã hội đã cài đặt lên con người, để rồi chỉ biết kết án và thiếu lòng bác ái với những con người bị sa ngã. Họ cần có một ai đó đón nhận và cho họ có cơ hội để nhận ra giá trị tình yêu đích thực xuất phát từ tình yêu giàu lòng xót thương của Thiên Chúa. Họ cũng cần được chữa lành và cần tìm ra ánh sáng chân lý trong cuộc đời này, như Da-kêu đã được Chúa chữa lành và được cứu độ. Một vĩ nhân đã nói ” Muốn thay đổi một người, thì bạn hãy đến với người đó. Nếu bạn xa lánh và tránh né họ, thì bạn chẳng bao giờ biến đổi được ai”.

Thật vậy, khi Da-kêu gặp được Chúa Giê-su, ông đã từ bỏ lối sống củ, bỏ đi lòng tham của cải bất chính, biết cải thiện đời sống. Thay vào đó, ông đem nửa gia tài của mình để phân phát cho người nghèo, nếu ông làm thiệt hại và chiếm đoạt của cải ai, ông ta đền gấp bốn. Hành động của Da-kêu đáng khen ngợi và cho chúng suy ngẫm. Tôi đã làm thiệt hại ai không? Tôi có tham lam lấy tiền tiền bạc của cải người và làm điều bất chính không?

Tóm lại, Da-kêu được Chúa biết đổi bởi vì được Chúa yêu thương, tha thứ và đồng cảm được ước muốn được cải thiện đời sống, ông ta đã mạnh dạn đến với Chúa, và Chúa ở lại nhà Da-kêu, nhờ đó tâm hồn của ông ta được thay đổi. Vì Thiên Chúa luôn là Người Cha tốt lành, Ngài biết được nhu cầu của con cái Ngài. Chúa Giêsu dùng tình yêu để hoán cải Da-kêu.

Lạy Chúa, xin thương xót chúng con là kẻ tội lỗi. Xin Chúa biến đổi tâm hồn con như Da-kêu. Khi con được biến đổi, thì đời sẽ thay đổi. Amen.

Về mục lục

.

CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI MỚI

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP.

Thiên Chúa yêu thương và cứu chữa mọi người”, đó là chủ đề của Lời Chúa hôm nay.

Thiên Chúa yêu thương mọi loài . Lý do : nếu Chúa không yêu thương thì Ngài đã không tạo dựng, nếu Ngài ghét bỏ thì Ngài đã không bảo tồn (bài đọc 1). Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa sống động và cụ thể cho tư tưởng trên đây. Quả thật, Thiên Chúa không thiên vị ai, không khinh bỉ ai, Ngài chỉ nhìn đến thiện chí của người ta và ban ơn cứu độ.

Trong bài Tin mừng hôm nay, thánh Luca thuật lại cho chúng ta câu chuyện của ông Giakêu trở lại như thế nào. Vào thời ấy, những người thu thuế bị xếp chung với hạng người trộm cắp, giết người và đĩ điếm. Hơn nữa, vì họ làm việc cho người La mã, nên người ta cho họ là những kẻ phản bội và ruồng bỏ họ. Trái lại, Đức Giêsu lại có lối hành xử khác, Ngài kêu gọi ông, lại còn đến ăn uống và trọ trong nhà ông nữa. Việc này làm cho người Do thái rất tức giận. Ngài xử sự như thế để tỏ rõ sứ mạng của Ngài là “đến tìm và cứu chữa những gì hư mất”. Cảm động bởi lòng nhân hậu của Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy những sai lầm của mình và quyết tâm sửa đổi.

 “Sai lầm là bản tính của con người và tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A.Pope). Đối với những người tội lỗi, chúng ta hãy có thái độ khoan dung và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải. Còn đối với từng người chúng ta, không ai dám nhận là mình hoàn toàn trong sạch, không bao giờ lầm lỗi. Hãy tin vào lòng nhân hậu và thương xót của Chúa, hãy tìm đến gặp Ngài và quyết chí thay đổi cuộc sống của mình để nên tốt hơn.

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

          + Bài đọc 1 :  Kn 11,22-12,2.

          Kết luận một trình thuật về cuộc Xuất hành, câu chuyện khá độc đáo ở điểm tác giả nhấn mạnh việc Thiên Chúa nương tay đối với người Ai cập (Kn 11,15-20). Vì sao Ngài nương tay ? Bởi vì Thiên Chúa thương yêu “tất cả những gì hiện hữu”; nếu không, Ngài đã không tạo thành. Vì thế, Thiên Chúa yêu thương mọi người bất kỳ ai và mời gọi họ hoán cải.

          Nhìn lại lịch sử, tác giả sách Khôn ngoan khám phá được đường lối hành xử của Thiên Chúa : Ngài tỏ ra rất khoan hồng đối với những người tội lỗi. Đây là một giảng dạy ngược với cách sống khép kín  của dân Do thái lưu lạc, họ không muốn tỏ cho lương dân thấy  Thiên Chúa không ngừng yêu thương họ.

          + Bài đọc 2 : 2Tx 1,11-2,2.

          Các Kitô hữu ở Thessalonica hoang mang bởi những lời tiên tri, những câu chuyện và những lá thư được gán cho thánh Phaolô nói đến ngày tận thế đã gần kề. Vì thế, họ đâm ra lười biếng không muốn làm việc nữa.

          Để giải tỏa những lo lắng của họ, thánh Phaolô viết lá thư thứ hai này khuyên họ đừng tin  vào những luận điệu mơ hồ ấy.

          + Bài Tin mừng : Lc 19,1-10.

          Câu chuyện ông Giakêu là một minh họa cụ thể những khẳng định của sách Khôn ngoan :”Chúa xót thương mọi người và tạo điều kiện cho họ ăn năn hối cải”. 

          Giakêu là một người đứng đầu những người thu thuế, ông rất giầu. Ông muốn tìm cách để biết xem Đức Giêsu là người thế nào. Thiện chí của ông đã được đáp ứng : Đức Giêsu hứa sẽ đến nhà thăm ông. Việc này đã làm cho nhiều người khó chịu, họ xầm xì với nhau:”Nhà người tội lỗi mà ông ấy cũng vào trọ”!

          Được Chúa thương vào nhà thăm, ông rất phấn khởi và tỏ ra quảng đại, ông đã tự nguyện hứa với Chúa : lấy nửa tài sản mà phân phát cho người nghèo và nếu làm hại đến ai thì xin đền gấp bốn.

          Đức Giêsu đã chấp nhận lòng quảng đại của ông và đã tuyên bố :”Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ”. Lời tuyên bố này phù hợp với  lời Ngài đã phán:”Con Người đến để tìm và cứu những gì đã mất”. Nhờ Đức Kitô, ông Giakêu không những  đã được giải hòa cùng Thiên Chúa mà còn được làm hòa cùng anh em đồng loại nữa.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. ĐỨC GIÊSU KÊU GỌI ÔNG GIAKÊU. 

          Bài Tin mừng hôm nay nhằm nói lên sứ mạng của Đức Giêsu là “tìm và cứu chữa những gì đã hư mất”. Ông Giakêu đã là người được cứu chữa. Ông là thủ lãnh những người thu thuế ở Giêricô, nhờ gặp được Đức Giêsu nên đã được ơn hoán cải. Do thành tâm đi tìm biết Đức Giêsu, nên ông đã được gặp và còn được Ngài đến thăm nhà mình nữa. Trước tình thương của Đức Giêsu, ông đã tỏ ra quảng đại, chia nửa phần tài sản cho kẻ khó và đền bù gấp bốn những ai ông đã làm hại. Vì thế Đức Giêsu đã tuyện bố :”Hôm này, nhà này được ơn cứu độ”. 

  1. Hoàn cảnh .

          Giêricô có biệt danh thật thơ mộng và đẹp đẽ là “Moon city” : thành phố Nguyệt Nga, một thành phố quan trọng ở phía Bắc của Biển chết, ở cách Giêrusalem 37 km, thấp hơn mặt biển 256 mét. Giêricô là thành phố cuối cùng trong cuộc hành trình  của những người hành hương lên Giêrusalem.

          Trên con đường dẫn vào thành phố Giêricô có hai hàng cây đổ bóng mát. Loại cây thường được trồng có tên là sycamore – cây sung. Sung là một loại cây kết hợp hình thù của cây vả và cây dâu, với những cành to lớn không cách xa khỏi mặt đất, rất dễ trèo lên, dù người thấp bé và lùn như Giakêu.

          “Đức Giêsu đi ngang qua thành phố ấy” để đi lên Giêrusalem và đây là giai đoạn cuối cùng của cuộc hành trình. Ngài lên Giêrusalem và chịu tử nạn ở đó. Trong cuộc hành trình này, tình cờ Ngài đã gặp ông Giakêu.

  1. Con người ông Giakêu.

          Ông là người Do thái, tên Giakêu tiếng Do thái là “Zakkay” có nghĩa là “người thanh khiết – người công chính”. Phải chăng là một sự hài hước, hoặc chế diễu ? Ông không thanh khiết tí nào vì lòng ham mê tiền bạc, tham nhũng, hối lộ, và hà hiếp dân lành ?

          Nhưng chúng ta hãy chờ cho câu chuyện chấm dứt.

           Giakêu là trưởng ty thuế vụ giầu có ở Giêricô. Thu thuế là một nghề  bị người Do thái khinh chê, ghét bỏ. Ngay cả những người Rôma cũng không muốn làm nghề này, nên họ mướn những người Do thái làm. Kẻ làm nghề thu thuế bị coi là người phản bội lại dân tộc, chạy theo đế quốc Rôma. Họ bóc lột tiền bạc của dân chúng càng nhiều càng tốt để chính họ có thể tránh né khỏi phải trả thuế.

          Giakêu, một con người bị tránh xa như dịch. Kẻ tội lỗi hoàn toàn bị hư mất. Đồ thối tha. Cấm không được giao du với con người hư hỏng ấy. Người ta nhổ xuống đất và quay mặt đi  khi đi ngang qua con người ấy.

          Ta thử tưởng tượng điều gì có thể thúc đẩy Giakêu bất chấp sự chế diễu,  đã xắn chiếc áo thụng của một ông trưởng giả Do thái và có lẽ cái áo choàng La mã để leo lên cây sung như một thằng nhóc tầm thường. Vì tính tò mò chăng ? Vì sự lôi cuốn mầu nhiệm chăng ? Vì nỗi khắc khoải mơ hồ và chán chường cuộc sống của mình chăng ? Phải nói rằng đây là cử chỉ nói lên lòng khao khát của Giakêu muốn nhìn thấy Đức Giêsu tận mắt, chứ không chỉ  nghe thấy tiếng vang của Ngài đối với người bình thường. Cử chỉ này không có gì đáng nói, nhưng đối với Giakêu, một người thu thuế tội lỗi bị người ta khinh bỉ và sống cách biệt, mà lại có lòng khao khát như vậy thì quả là một người có thiện chí và lòng ngay.

  1. Đức Giêsu gọi tên ông.

          Đứng trên cây sung, Giakêu đang trố mắt nhìn xuống Đức Giêsu, nhưng đồng thời Đức Giêsu cũng trố mắt nhìn lên Giakêu. Bốn con mắt nhìn nhau thật thắm tình. Đức Giêsu lên tiếng gọi :”Hỡi Giakêu hãy xuống mau, vì hôm nay Ta phải lưu lại tại nhà ngươi”. Một lời kêu gọi bất ngờ đối với Giakêu vì Ngài gọi tên riêng ông, nhưng đối với Chúa thì không. Ta nhận thấy Đức Giêsu biết rõ con người của ông, chứ không phải là một cuộc gặp gỡ tình cờ, ngẫu nhiên, Chúa đã gọi đúng tên ông như đã quen biết ông từ lâu rồi.  Chúa tỏ ý muốn vào nhà thăm và ở lại với ông như người bạn thân.

          Nghe được lời mời gọi này, Giakêu quá sung sướng nên vội vã tụt xuống. Vì quá lòng mong ước, nên Giakêu cũng có một lòng hiếu khách, một đức tính sẵn có trong dòng máu Do thái, ông đã mời Đức Giêsu vào nhà và tiếp đãi rất ân cần.

           Việc Đức Giêsu vào nhà ông Giakêu ăn tiệc, lại còn muốn trọ tại nhà ông mấy bữa  làm cho mấy người biệt phái ưa chỉ trích rất bất mãn; vì theo quan niệm của người Do thái, việc giao thiệp với người tội lỗi đưa đến sự dơ bẩn (Lc 5,30; 7,34; 15,2). Việc lẩm bẩm chỉ trích như vậy  tỏ thái độ khắt khe của con người đối với tội nhân, nhưng cử chỉ đón nhận của Đức Giêsu đối với tấm lòng ngay và thiện chí của Giakêu lại là thái độ đầy tình thương và cứu độ của Thiên Chúa đối với tội nhân.

           Thấy thái độ thành thực của Giakêu, Đức Giêsu đã tuyên bố :”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ, bởi người này cũng là con cháu tổ phụ Abraham”. Giakêu trở thành kiểu mẫu đón nhận ơn cứu độ và là cơ hội để Đức Giêsu khẳng định sứ mạng của Ngài:”Con Người đến đi tìm và cứu những gì đã hư mất”. Giakêu là con cái Abraham, nhưng đối với Giakêu, người Do thái cho là tội lỗi, không thuộc về dòng dõi Abraham nữa, thì nay nhờ ơn cứu độ lại là con cái Abraham một cách đúng nghĩa : Con cái Abraham không phải theo xác thịt nhưng là người được Thiên Chúa cứu độ.

II. CON NGƯỜI ĐƯỢC ĐỔI MỚI.

  1. Tiếng gọi của Thiên Chúa.

           Người ta nói :”Con mắt là cửa sổ của tâm hồn”. Câu nói văn hoa và thâm thúy này chắc hẳn bắt nguồn từ Lời Đức Kitô:”Đèn của thân thể là con mắt…”(Mt 6,22t; Lc 11,34t). Hiểu được ánh mắt của một người quả là không mấy dễ dàng (có chăng là ánh mắt tuổi thơ). Vì ánh mắt của một người là biểu lộ của chính tâm hồn người đó… Mà mấy ai trong chúng ta dám cho rằng mình hiểu được tâm hồn ai ?  Dĩ nhiên là tùy vào cách xử sự và hành động… Như qua bài Tin mừng Chúa nhật hôm nay, trong khi những người biệt phái chỉ nhìn các người thu thuế (như Giakêu) bằng cái nhìn khinh thị kết án – Thì Đức Kitô, với cái nhìn tuyệt vời không những đã làm đổi mới cuộc đời ông và gia đình, mà còn bao điều tốt đẹp  cho những người từng bị điêu đứng vì Giakêu. Cao qúi biết bao chỉ một cái nhìn…

           Cái nhìn của Đức Giêsu là cái nhìn chinh phục, cái nhìn của tình thương muốn cứu vớt, một cái nhìn có sức cảm hóa tâm hồn, một cái nhìn nhân từ, như không thấy tội gì trong ông. Chính cái nhìn đầu  tiên chân tình và yêu thương ấy đã khiến ông nhìn lại chính mình và quyết tâm đổi mới.

           Thiên Chúa luôn luôn đi bước trước, con người theo sau. Người ta có thể gọi cây sung là “nơi hai ánh mắt gặp nhau”. Bề ngoài, cái nhìn đầu tiên là của Giakêu, đang cháy bỏng ước muốn xem Đức Giêsu. Nhưng sẽ không có gì xẩy ra  nếu Đức Giêsu không ngước mắt nhìn lên Giakêu ở cây sung. Chúng ta tưởng rằng chúng ta tìm kiếm Chúa trong khi mà chính Ngài  tìm kiếm chúng ta trước, tự muôn đời.

  1. Sự đáp trả của con người.

           Được đón nhận lòng nhân hậu và thương xót của Đức Giêsu, Giakêu đã tỏ bầy một tâm trạng muốn hoán cải đời sống bằng cách ông muốn thực hiện ngay việc bác ái và công bằng. Ông quyết định đem nửa phần gia tài mình phân phát cho người nghèo, và nửa phần còn lại ông cũng không định giữ riêng cho ông, song ông sẽ dùng để đền bù cho tất cả  những gian lận mà ông tự thú đã phạm.

           Trong việc đền trả này ông lại còn đi xa hơn điều luật pháp đòi hỏi.  Chỉ khi nào trộm là một hành động bạo lực và dụng tâm gây tàn hại, bấy giờ mới phải đền bù gấp bốn (x. Xh 22,1). Nếu chỉ là việc trộm cắp thường và nguyên vật không thể hoàn trả, thì phải tính gấp đôi mà đền (x. Xh 22,4.7). Nếu bị can tự thú và tình nguyện hoàn trả thì chỉ phải trả theo giá nguyên vật, cộng thêm một phần năm nữa thôi (x. Lv 6,5; Ds 5,7). Giakêu nhất định làm nhiều hơn điều luật pháp đòi hỏi. Bằng hành động, ông tỏ ra đã được biến cải.

           Giakêu đã tỏ ra là con người quảng đại sau khi đã hoán cải. Việc bố thí cho người nghèo sinh ích lợi nhiều cho ông. Thánh Kinh đã làm chứng :”Bố thí thì cứu cho khỏi tội và khỏi chết” (Tb 4,11).

          Tiên tri Đaniel viết theo :”Hãy chuộc tội con bằng bố thí, và bằng sự thương yêu kẻ khó nghèo”(Dn 4,24).

          Nơi khác lại khen :”Của bố thí bay lên như hương thơm trước mặt Chúa”(Cv 11,4).

          Đức Giêsu hứa:”Hãy bố thí, rồi mọi sự sẽ trở nên trong sạch cho các con”(Lc 11,41).

          Khi ở thành Rages về, sứ thần Raphael bảo cha con ông Tobia :”Nước mắt ông chảy ra cũng như của làm phúc bố thí với những lần bỏ bữa ăn đi chôn xác kẻ chết, Ta đã thu lượm và dâng lên trước mặt Thiên Chúa… bây giờ Ta về với Đấng đã sai Ta, ông hãy tạ ơn Thiên Chúa”(Tb 12,12-13).

  1. Khả năng đổi mới của con người.

          Sách Tam tự kinh có viết :”Nhân chi sơ tính bản thiện, tính tương cận tập tương viễn”. Bản tính của con người lúc đầu là tốt nhưng vì hoàn cảnh mà trở nên xấu. Đây là chủ trương lạc quan của Mạnh Tử. Trái lại, Mặc Tử lại chủ trương :”Nhân chi sơ tính bản ác”. Nếu bản tính con người vốn tốt mà vì hoàn cảnh mà trở nên xấu thì dễ sửa hơn, còn nếu bản tính mà xấu rồi thì sẽ sửa làm sao ?

          Chúng ta phải khẳng định rằng con người xấu có thể trở nên tốt được bởi vì bản tính vốn là tốt, và nếu có ơn Chúa trợ giúp nữa thì sẽ dễ dàng. Chúng ta hãy lấy trường hợp ông Giakêu ra làm điển hình. Người Do thái coi ông là một người tội lỗi, ô uế, phải tránh xa, đã xấu thì cho xấu luôn, không thương tiếc.

          Nhưng sau cuộc gặp gỡ Đức Giêsu, Giakêu đã nhận thấy tình yêu và lòng thương xót của Chúa đối với mình, ông nhận ra con người thật của ông : một con người xấu xa tội lỗi, đáng bị nguyền rủa. Nhưng ông thấy rằng mình có thể sửa đổi được, có thể cải tà qui chính, và ông thực sự đã hoán cải. Do đó, Đức Giêsu đã tuyên bố rằng :”Hôm nay nhà này được ơn cứu độ”. Nhìn vào cuộc đời của Giakêu lúc này chúng ta phải lấy câu tục ngữ Việt nam mà khen ông :

Xanh vỏ đỏ lòng (Tục ngữ)

           Câu tục ngữ này có ý nói những cái bề ngòai xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt. Người ta chỉ có thể thấy cái bên ngoài của một người mà không biết được lòng người ta.

           Người ta muốn đánh giá Giakêu thế nào cũng được, nhưng Đức Giêsu có cái nhìn thấu suốt, không nhìn cái vẻ bề ngoài của con người mà Ngài nhìn rõ cả bên trong, cho nên Đức Giêsu sẽ khen cho Giakêu một câu chắc nịch như đinh đóng cột :

Xù xì da cóc trong bọc trứng tiên (câu đố).

          Đây là một câu đố bình dân mà người ta thường đố nhau. Vậy “xù xì da cóc trong bọc trứng tiên” là cái gì ? Chúng ta hãy giải đáp xem nó là cái gì. Nhưng cho dù nó là cái gì thì lúc nào cũng có ý nói rằng bề ngoài xem ra xấu xa nhưng bên trong thì tốt, giống như câu “Xanh vỏ đỏ lòng” vậy.

          Nếu chúng ta có gặp được Giakêu sau khi nhờ ơn Chúa trở lại rồi thì ông sẽ tâm sự cho chúng ta nghe. Ông cho biết nhờ ơn Chúa ông đã thực sự sửa đổi con người của mình. Đời ông không còn như xưa nữa, nay đã trở nên con người mới hoàn toàn. Có thể bề ngòai không giống nhau, nhưng thực sự bề trong đã được đổi mới hoàn toàn :

 Thân em như quả ấu gai,

 Ruột trong thì trắng vỏ ngoài thì đen.

Ai ơi, nếm thử mà xem,

Nếm ra mới biết rằng em ngọt bùi.

                                                (Ca dao)

Truyện : Harold Hughes trở lại.

          Harold Hughes xưa kia là Thống đốc tiểu bang Iowa, và là một nghị sĩ của Hoa kỳ. Nhưng cuộc đời của ông đã không luôn luôn thành công. Trong tập tự truyện, Hughes kể lại rằng thời trai trẻ ông đã là “một người nghiện rượu, dối trá và lừa đảo”. Vào một thời điểm trong đời ông, đã phá hủy tất cả mọi sự, và mất tất cả.

          Một đêm nọ ông nhảy vào bồn tắm và chuẩn bị tự tử. Ông dí khẩu súng shotgun vào bụng, rồi nhốt cái chùi giẻ vào miệng. Khi ông sắp sửa bóp cò súng, thình lình ông nhớ lại Thánh Kinh đã nói giết mạng sống mình là sai. Và ông đã cố cắt nghĩa với Chúa lý do tại sao ông lại làm điều kinh tởm này. Ông trèo ra khỏi bồn tắm, qùi xuống nền gạch lạnh lẽo, và gục đầu trên thành bồn tắm. Trong tư thế đó, ông nói chuyện với Chúa đang khi khóc nức nở. Sau đó có một điều gì đã xẩy ra mà ông chưa bao giờ cảm nghiệm thấy trong đời.  Ông viết trong cuốn tự truyện như sau :

          “Một sự bình an ấm áp dường như bao phủ lấy tôi. Những tội lỗi của tôi dường như tan biến. Thiên Chúa cúi xuống và ôm lấy tôi. Giống như một đứa trẻ bị thất lạc trong cơn giông bão, thình lình tôi bị vấp chân ngã vào cánh tay ấm áp của Cha tôi. Đang khi quì gối trên nền nhà tắm, tôi đã hiến dâng hoàn toàn con người của tôi cho Thiên Chúa, và tôi nói với Ngài,”Bất cứ việc gì Ngài sai con làm, lạy Cha, con sẽ thực thi thánh ý Cha”. 

          Kinh nghiệm đáng nhớ muôn đời đó đã bắt đầu một sự biến đổi hoàn toàn đối với Harold Hughes. Mười năm sau, ông được bầu làm Thống đốc tiểu bang Iowa. Bảy năm sau nữa, ông được bầu vào Thượng viện của Hoa kỳ. Sau cùng, vào năm 1975, ông rút lui khỏi hậu trường chính trị, về hưu và làm việc trọn ngày cho chương trình  giúp đỡ những người cai thuốc phiện và nghiện rượu (Nguyễn văn Thái).

  1. Thái độ với kẻ tội lỗi.

          Vấn đề chính của con người là ở chỗ chúng ta có thể thay đổi tâm hồn và học yêu thương người khác như thế nào. Phải có một tâm hồn cảm kích, mềm mại xúc động mới làm cho tâm hồn ấy mở ra và sau cùng chia sẻ sự phong phú, cảm thông. Một sự tiếp cận khắt khe làm cho tâm hồn khép kín và chai cứng. Một sự tiếp cận nhân từ, như cách Đức Giêsu thực hiện với Giakêu làm cho tâm hồn mềm mại và cởi mở không có gì có thể làm thay đổi tâm hồn bằng chính tâm hồn. Theo cách thức đó, ông Goethe đã phát biểu :”Đối xử với một người như người đang là sẽ làm cho người ấy trở nên tệ hơn, đối xử với người ấy như người ấy phải trở thành hoặc như người ấy mong ước trở thành sẽ làm cho người ấy trở nên tốt hơn, bởi vì khát vọng của chúng ta là phần chúng ta thật sự đã đóng góp”.

          Như vậy, gần gũi và biểu lộ tình thương với người tội lỗi là tốt nhất. Đây là thái độ Đức Giêsu thường xử sự đối với người tội lỗi, và hầu như luôn luôn có tác dụng tốt. Ngài không hề xa tránh những người thu thuế, bọn đĩ điếm, vốn bị coi là hạng người tội lỗi, như những biệt phái và luật sĩ thường làm.  Kết quả của thái độ nhân từ đó là biết bao người tội lỗi trở lại con đường ngay chính, say mê nghe Ngài rao giảng Tin mừng, mà bài Tin mừng hôm nay kể ra một trường hợp điển hình. Chính vì Đức Giêsu sẵn sàng vào nhà ông Giakêu, một kẻ bị coi là tội lỗi, ăn uống và trọ lại nhà ông, mà con người ông đã hoàn toàn thay đổi. Thử tưởng tượng xem, nếu Ngài cũng đối xử với Giakêu như cách mà người Do thái thường làm là tẩy chay và xa lánh ông, thì kết quả ra sao !

 Truyện : Thiền sư Sengai và đệ tử.

          Nhiều đệ tử đang theo học thiền định dưới sự hướng dẫn của thiền sư Sengai. Một người trong bọn họ thường hay thức dậy ban đêm, vượt tường ra phố để dạo mát cho thỏa thích.

          Một đêm kia, Sengai đi giám thị phòng ngủ, thấy một đệ tử vắng mặt và cũng khám phá ra được chiếc ghế đẩu cao mà anh ta thường dùng để leo qua tường. Sengai dời chiếc ghế đi chỗ khác và đứng thay vào chỗ đó. Khi anh chàng rong chơi trở về, không biết rằng Sengai là chiếc ghế, anh ta đặt chân lên đầu thầy và nhảy xuống đất. Lúc khám phá ra việc mình đã làm, anh ta hoảng sợ, nhưng Sengai nhẹ nhàng bảo :

          – Sáng sớm hôm nay trời lạnh lắm. Con hãy cẩn thận kẻo bị cảm đấy.

          Từ đó, người đệ tử ấy không bao giờ bỏ ra ngoài ban đêm nữa. Anh chuyên tâm học tập và trở thành người đệ tử gương mẫu của thầy Sengai.

  1. Công cuộc đổi mới của mỗi người.

          Như ở trên chúng ta đã nói : “Nhân chi sơ tính bản thiện” thì con người có hư hỏng rồi cũng có thể cải thiện được. Khi chịu phép Rửa tội, chúng ta đã được trở nên tinh tuyền, đã được mặc lấy Chúa Kitô và có thể nói là trở nên đồng hình đồng dạng với Ngài, nhưng chúng ta phải nhớ rằng chúng ta đã được tha tội nguyên tổ  nhưng không thể tránh được hậu quả của tội ấy, do đó con người chúng ta trở nên yếu đuối, dễ sa ngã phạm tội. Vì vậy, thánh Phaolô cảnh giác chúng ta :”Ai đang đứng ý tứ kẻo ngã”. 

          “Sai phạm là bản tính của con người, còn tha thứ là bản tính của Thiên Chúa”(A. Pope). Vì thế chúng ta có thể nói : sai lỗi là chuyện bình thường, sa ngã mà không biết chỗi dậy mới là bất bình thường. Có biết bao nhiêu gương sa ngã mà đã chỗi dậy nhờ ơn Chúa.  Người lành thánh mà còn sai phạm một ngày ít là 7 lần, chúng ta chưa lành thánh là bao, có sai lỗi thì cũng là chuyện bình thường, không đáng lo, cứ cậy trông vào ơn Chúa và quyết tâm hoán cải.

Truyện : Leonard da Vinci vẽ hình.

Danh họa Leonard de Vinci đang thực hiện tuyệt tác “Bữa Tiệc ly”. Nhưng để diễn tả một phần nào đúng chân dung của Chúa và 12 vị tông đồ, danh họa phải đi tìm những nét mặt đó nơi những người đương thời. Một hôm, họa sĩ bắt gặp trong thánh đường ở Rôma, một vị kinh sĩ trẻ tuổi có gương mặt thanh tú, trong sạch tuyệt vời hợp với chân dung thánh Gioan. Thế là ông đi theo và xin vị Kinh sĩ ngồi làm mẫu cho mình vẽ. Vị Kinh sĩ bằng lòng và họa sĩ đã vẽ được một gương mặt đẹp như Thiên thần.

Vài năm sau, bức tranh “Bữa Tiệc ly” vẫn chưa hoàn thành vì không tìm ra người mẫu để vẽ chân dung độc đáo của Giuđa. Tình cờ, trên đường phố, họa sĩ gặp một người ăn mày, áo quần rách tả tơi với vẻ mặt quái đản, gian ác đến độ vừa kinh ngạc vừa mừng thầm tự chủ :”Trời ơi, người mẫu này thật lý tưởng, ta sẽ vẻ mặt gian xảo này cho thật mâu thuẫnvới vẻ mặt Thiên thần của chàng trai trước đây”. Sau khi thương lượng với giá cao, người ăn mày bằng lòng làm mẫu cho họa sĩ vẽ. Vẽ xong, họa sĩ sung sướng  lấy chân dung chàng trai trẻ đặt bên chân dung người ăn mày mà ngắm nghía. Còn người hành khất giật mình chết lặng, rồi hai dòng nước mắt chảy dài trên hai gò má đen đủi và nghẹn ngào nói:”Bức chân dung người trẻ kia chính là tôi mà ông đã vẽ cách đây mấy năm. Khi đó trông tôi tốt lành, trong trắng dường nào, nhưng bây giờ tôi là một tên ăn mày, cờ bạc rượu chè say sưa”. Nói xong, anh ta bỏ đi thật tội nghiệp.

          Nếu chẳng may chúng ta đã để cho mình trở nên xấu như chàng ăn mày kia, chúng ta hãy bắt chước ông Giakêu tìm đến gặp gỡ Đức Giêsu. Phía Chúa Ngài luôn khẳng định là Ngài xuống thế cốt tìm kiếm và cứu kẻ tội lỗi, nên Ngài luôn luôn hiện diện mọi nơi mọi lúc, sẵn sàng theo dõi, đợi chờ con người tỏ dấu ăn năn thì Ngài sẽ hành động ngay.

          Nhưng nếu chỉ gặp Chúa mà thôi thì chưa đủ, cần phải có hành động cụ thể. Muốn biến cuộc gặp gỡ thành một cuộc tình gắn bó, một cuộc liên kết chặt chẽ, lâu dài thì phải thực hiện một công đoạn tiếp theo là đổi mới cuộc sống. Như Giakêu, ông ta không dừng lại ở chỗ gặp Chúa, trái lại ông ta muốn tiến xa hơn là thay đổi cuộc sống bằng cách bố thí và thực hiện đức công bằng. Cũng thế, để nhận được sự tha thứ và sự bình an của Chúa trao tặng, mỗi người chúng ta phải đổi mới ngay cuộc sống của mình bằng những cố gắng thực tế như : bỏ dần những tính hư tật xấu, cắt đứt ngay những liên hệ xấu xa, sửa lại những lầm lạc sai phạm, rồi dũng cảm thực hiện các việc đạo đức bình thường như đọc kinh, xem lễ, lần hạt và đi xưng tội, rước lễ…

Về mục lục

.

SÁM HỐI CỤ THỂ NHƯ ZAKÊU

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Để hiểu bài Tin mừng Chúa nhật tuần này về câu chuyện Zakêu người thu thuế, cần bắt đầu với chủ đề của sách Khôn ngoan về lòng thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Một cách rất hiện thực và trong một cái nhìn tổng thể, sách Khôn ngoan cho thấy điều kiện của nhân loại rất là mong manh yếu đuối trước mắt Thiên Chúa, ví được như là hạt gạo trên đĩa cân, hay sương sa trên mặt đất, nó chẳng là gì cả, dễ tan biến vào hư vô. Nhưng bởi vì Thiên Chúa là Đấng yêu thương vô bờ bến, Người yêu thương nhân loại vô cùng nên rất nhẫn nại và chờ đợi con người sám hối tội lỗi để trở về với Thiên Chúa. Bằng chứng của tình yêu Thiên Chúa đối với mọi loài là ý định tạo dựng của Thiên Chúa. Nếu Thiên Chúa tạo dựng, có nghĩa là Thiên Chúa đã yêu thương nhân loại và có ý định ban tặng sự sống cho mọi loài. Và điều quan trọng, đó là lần hồi, nhờ thần trí của Thiên Chúa tốt lành, Chúa sửa phạt những kẻ lầm lạc, khuyên răn những người tội lỗi để họ trở về với Thiên Chúa và từ bỏ con đường tội ác của mình mà được sống hạnh phúc sung mãn.

Điều này được cụ thể hoá qua hình ảnh cụ thể của người thu thuế Zakêu, một người tội lỗi, được Chúa Giêsu viếng thăm tại nhà và vui mừng thay đổi đời sống đón nhận ơn cứu độ. Điều rất cao đẹp và quí giá mà Thiên Chúa thực hiện cho con người, đó là từ tình trạng xấu xa tội lỗi và hậu quả là phải chết tủi nhục, Thiên Chúa biến đổi để con người trở nên thánh thiện và xứng đáng đón nhận sự sống đời đời. Sự biến đổi và thánh hóa của Thiên Chúa thực là kỳ diệu, và con người luôn được Thiên Chúa mời gọi và tìm kiếm, bởi vì Thiên Chúa luôn nhớ đến mỗi người và thành tín yêu thương vô cùng. Zakêu là một khuôn mặt tiêu biểu đáng nêu lên bởi vì sự biến đổi mà Thiên Chúa thực hiện nơi ông đã diễn ra một cách rất nhẹ nhàng và đầy niềm vui. Ông là một ông trùm trong số những người thu thuế giàu có, một người tội lỗi công khai vì nghề thu thuế tai tiếng. Đàng khác, vóc dáng nhỏ thó, lùn tịt của ông cũng làm cho ông bị người khác coi thường. Khi Chúa Giêsu đi ngang qua thành Giêrikô là nơi ông ở, Zakêu đã có một cử chỉ thực là hồn nhiên, là leo lên cây để được nhìn Chúa Giêsu đi ngang qua. Đáp lại, Chúa Giêsu quyết định đến gặp Zakêu tại nhà để đáp lại cách cụ thể ước muốn của ông, nên người nhìn lên và nói với ông: “Zakêu! Xuống mau đi, vì hôm nay tôi muốn tới ở nhà ông”. Và điều kỳ diệu bất ngờ đã xảy ra, vượt mọi dự đoán của mọi người. Trong khi mọi người khác vẫn còn đóng kín trong những phê phán hẹp hòi chật hẹp thiếu hiểu biết của mình, nói rằng Chúa Giêsu đến nhà  người tội lỗi.  Zakêu đã có những quyết định rất táo bạo cương quyết : “Thưa thầy, tôi xin bố thí nửa phần tài sản của tôi cho người nghèo, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đến gấp bốn”. Ông không nói bố thí hết tài sản, mà chỉ chia một phân nửa,  phần còn lại giữ lại cho mình và đền bù gấp bốn lần cho những người mà ông đã làm thiệt hại. Thế nhưng đó đã là một cuộc hoán cải đầy đủ và trọn vẹn, nhắc lại phần nào lời giải đáp xưa kia của Gioan Tẩy giả khi rao giảng ở sông Giorđan. Cuộc gặp gỡ và hoán cải hiện thực là như thế, không viễn vông ảo tưởng nhưng chân thành hiện thực. Zakêu phải can đảm chấp nhận cho đi những của cải của mình. Đó không phải là điều dễ dàng. Nhưng phải chăng cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa cứu độ là như thế, không dừng lại ở cái nhìn tò mò, nhưng là đón nhận chính Đấng cứu thế vào trong nhà mình và can đảm mở lòng để đền bù lại những thiệt hại mà mình gây cho người khác, giúp đỡ cho những người nghèo khổ túng thiếu.

Trên con đường Chúa Giêsu đi lên Giêrusalem, tin mừng theo Luca cho chúng ta được khám phá nhiều điều mới mẻ về ơn cứu độ. Chúa Giêsu đi đến gặp gỡ từng người trên con đường người đi qua. Một cách nghịch lý, những con người tội lỗi, bị ghét bỏ trong xã hội, bị đánh giá thấp lại là những người gặp gỡ được tình yêu thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Và lời nói tiêu biểu của Tin mừng Luca được lặp lại như đã được công bố ở hội đường Nazarét: “Hôm nay, ơn cứu độ đã đến cho nhà này, bởi vì người này cũng là con cái Abraham”. Việc gặp gỡ Chúa Giêsu dẫn đến ơn cứu độ thực sự, đầy tràn niềm vui, đầy tràn sức sống. Ơn cứu độ trả lại cho con người phẩm giá làm con Thiên Chúa.  Zakêu, một con người bình thường như những người khác, lại có điều gì đó mà chúng ta cần phải học hỏi. Không yếu ớt, không tự phụ, không thu mình trong địa vị của hàng tư tế hay biệt phái tự cho mình là những người thánh thiện trong sạch,  nhưng dám quyết định và hành động mạnh mẽ chia sẻ chính tài sản của mình, đền bù lại những thiệt hại đã gây ra cho người khác. Đồng thời ơn cứu độ mà Zakêu nhận được là điều rất cao quí. Từ nay, ông lại được đón nhận thừa hưởng gia nghiệp của con cái Abraham. Từ tình trạng tội lỗi và thân phận phải hư mất đời đời, ông được chữa lành và được đón nhận vào trong sự sống sung mãn của Giao ước với Thiên Chúa. Lời mà Chúa Giêsu đã tuyên bố khởi đầu ở hội trường Nazarét, giờ đây lại được công bố cách mạnh mẽ: “Hôm nay ơn cứu độ lại đến với nhà này”.

Cộng đoàn Kitô giáo thời thánh Phaolô là cộng đoàn những người đã bắt đầu tin vào Chúa Giêsu và dấn thân trên con đường đón nhận ơn cứu độ của đời sống mới. Họ có thể bị chao đảo bởi những hoàn cảnh lịch sử mà họ đang phải trải qua. Họ vẫn tin rằng Chúa Giêsu sẽ trở lại gần kề, nhưng nghịch lý là Chúa Giêsu vẫn chưa đến như mọi người mong đợi. Thánh Phaolô nhắc nhở cộng đoàn hãy vững vàng trong ơn gọi của mình. Thái độ tỉnh thức và chờ đợi Chúa trở lại là thái độ cụ thể, không phải chỉ là những tâm tình chờ đợi hốt hoảng lo âu vì những tuyên bố của người này người khác không có thẩm quyền chính thức của tông đồ. Ngược lại, thái độ chờ đợi Chúa đến thực sự là luôn vững vàng trong lòng tin của mình và sống thánh thiện theo ơn Chúa kêu gọi.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA ĐI TÌM

Lm.Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Trên hành trình rao giảng Tin mừng, một hôm Đức Giêsu tới thành Giêricô, Ngài nhìn thấy Giakêu ở trên cây sung, và Giakêu bắt gặp ánh nhìn của Chúa, đời ông và gia đình được ơn biến đổi từ đây. Biến cố này làm nổi bậc lên dung mạo Thiên Chúa đầy lòng xót thương chủ động đi tìm con người. Và cuộc đi tìm không mấy dễ dàng. Thật vậy, để tìm được con chiên lạc, người chăn chiên phải vượt núi băng rừng, bất kể ngày đêm, thời tiết nắng mưa, bất chấp nguy hiểm tính mạng.

Cũng vậy, để đi tìm con người, được Giêsu phải từ bỏ trời cao xuống đất thấp. Phải từ bỏ địa vị Thiên Chúa nhập thể làm người. Phải từ bỏ ngôi nhà êm ấm để ra đi khắp mọi miền đất nước. Phải từ bỏ mạng sống để cho con người được sống.

Ngài đi tìm một Lêvi đang ngồi nơi bàn thu thuế, để đưa ông về sau này trở thành tông đồ thánh sử. Ngài đi tìm một Phaolô trên đường lầm lạc bắt đạo, biến đổi ông sau này trở thành tông đồ dân ngoại.

Hôm nay, Chúa đến thành Giêricô, một thành phố lớn, tấp nập kẻ buôn người bán, lại có đám đông cùng đi theo. Trong thành phố này có người tên là Giakêu, ông khao khát được nhìn thấy Chúa, nhưng vì ông khiêm nhường chiều cao, nên vội vàng trèo lên cây sung để nhìn thấy Chúa. Thế nhưng, khi Chúa đi gần đến nơi thì nhìn thấy Giakêu trước, lại còn gọi rõ tên ông.

Chính lòng thương xót mà Đức Giêsu đi tìm Giakêu. Lòng thương xót của Đấng quyền năng đi tìm phàm nhân thấp bé. Lòng thương xót của Đấng Tạo hoá đi tìm thụ tạo thấp hèn. Và lòng thương xót của Đấng Cứu độ trần gian đi tìm tội nhân cùng khốn. Qua sự tìm kiếm này, Giakêu cảm nghiệm được Thiên Chúa là Đấng giàu lòng thương xót đã thay đổi đời ông.

Chúng ta ghi nhận rằng: Thiên Chúa không bao giờ thất vọng về con người, cho dù con người tội lỗi đến đâu đi nữa, thì tình thương của Ngài cao vời khôn ví phủ lấp muôn vàn tội lỗi. Tình thương Chúa luôn đi bước trước.

 Thật vậy, Giakêu chưa nhìn thấy Chúa, thì Chúa đã nhìn thấy ông. Giakêu chưa lên tiếng, thì Chúa đã gọi đích danh ông: Giakêu hãy xuống mau. Giakêu chưa kịp mời, thì Chúa đã ngỏ lời đến thăm nhà ông “Hôm nay, Ta sẽ lưu lại tại nhà ngươi” (Lc 19, 5). Giakêu chưa mở lời thú tội, thì Chúa đã nói lời tha thứ cho ông trước rồi “Hôm nay, nhà này được ơn cứu độ” (Lc 19, 9).

Vì lòng thương xót mà Đức Giêsu nhìn tới Giakêu. Vì lòng thương xót mà Chúa đến thăm nhà Giakêu. Vì lòng thương xót nên Chúa tha thứ cho Giakêu. Chúa như người cha nhân hậu đầy lòng xót thương mong tìm đứa con trở về. Chúa như người mẹ hiền luôn bao dung tha thứ cho con mình, cho dù nó ngàn lần lầm lỗi.

Từ ánh nhìn quan tâm yêu thương của Chúa, đã làm trái tim ông Giakêu bừng lên ngọn lửa sám hối. Vì thế, ông đứng thẳng lên thưa cùng Chúa như một hành vi thú tội công khai: “Lạy Ngài, tôi xin bố thí nửa phần gia tài tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”(Lc 19, 8). Quả thật, ánh nhìn của Chúa có một năng lực cứu độ, có sức biến đổi lòng người.

Mỗi người chúng ta cho dù bé nhỏ tầm thường đến đâu đi nữa, đều là đối tượng của lòng Chúa thương xót. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta là hình ảnh, là giá máu cứu chuộc của Chúa. Thật vậy, vì lòng thương xót nhân loại lỗi lầm, mà Thiên Chúa Cha đã sai Con Một của Ngài xuống trần gian, để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất.

Hơn nữa, tình yêu Thiên Chúa không dừng lại nơi đây, nhưng còn vượt xa hơn thế nữa kìa. Là sau khi tìm kiếm để tha thứ, để chữa lành, thì Thiên Chúa còn vui mừng biết bao. Hãy chia vui với tôi vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc (Lc 15,6);; hãy mở tiệc ăn mừng vì em con đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy (Lc 15, 32). Cũng vậy, cả triều thần thánh vui mừng, vì một người tội lỗi hối cải hơn là 99 người công chính không cần hối cải (Lc 15,10).

Anh chị em thân mến,

Giakêu nhận biết mình tội lỗi, nên ông tìm đến Chúa, thế nhưng, Chúa đã tìm thấy ông trước. Nhờ cuộc gặp gỡ này, mà đời ông và gia đình ông được ơn cứu độ.

Ước gì, qua biến cố Đức Giêsu gặp gỡ ông Giakêu hôm nay, xin cho mỗi chúng ta ngày càng cảm nghiệm sâu hơn tình Chúa thương xót. Nếu chúng ta khiêm tốn nhìn nhận mình là tội nhân bất xứng mọi bề, thì hãy noi gương ông Giakêu, là siêng năng tìm đến với Chúa mỗi ngày nơi nhà thờ này, để gặp gỡ Chúa qua Lời của Ngài; siêng năng gặp gỡ Chúa trong bí tích Thánh Thể và làm mới tâm hồn trong bí tích Hòa Giải. Từ nơi thánh thiêng này, mong sao chúng ta sẽ gặp được tấm lòng thương xót của Thiên Chúa. Hi vọng tâm hồn chúng ta được ơn đổi mới, hầu trở nên xứng đáng là con cái Chúa hơn. Amen.

Về mục lục

.

SÁM HỐI

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Cách đây ít lâu, đài truyền hình Nhật Bản đã trực tiếp truyền hình cho khán giả trên cả nước được xem toàn bộ ban quản trị của một công ty dược phẩm cung cấp máu có tên là “Thập tự xanh” đã ra trước ống kính truyền hình để thú nhận vai trò của họ trong việc phân phối máu có nhiễm vi-rút HIV hồi năm 1986 làm cho nhiều người phải mang bệnh Si-đa. Sau khi ông chủ tịch công ty đọc lời thú tội, thì trong đám đông có tiếng la lớn: “Hãy quì gối xuống”. Đó là tiếng kêu của một trong những nạn nhân của hành động thiếu trách nhiệm trên đây. Liền sau đó, một người khác cũng hô lớn: “Hãy nhận lấy trách nhiệm của các ngươi về tội ác”. Tức khắc, ông chủ tịch và năm người trong ban quản trị công ty đã quì gối trước mặt cử tọa và gục đầu xuống sàn nhà trong 10 phút để nhận tội và tỏ dấu sám hối.

Sám hối về những sai lỗi là điều bình thường, không có gì là hèn hạ và nhục nhã. Đạo của chúng ta xem việc sám hối ăn năn là một trong những đòi hỏi tiên quyết của niềm tin. Vì thế, sám hối là một đề tài mà không một ngôn sứ nào, không một tông đồ nào, không một nhà giảng thuyết nào không đề cập tới, chẳng hạn, thánh Gio-an Tẩy Giả khi bắt đầu giảng dạy, ngài kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối để đón Chúa đến”. Chúa Giêsu cũng vậy, bắt đầu cuộc đời công khai, lời truyền giảng đầu tiên của Ngài là kêu gọi mọi người: “Hãy sám hối và tin vào Tin Mừng”.

Sám hối là chân thành nhìn nhận những lỗi lầm, những thiếu sót của mình và quyết tâm đổi mới đời sống. Do đó, sám hối không phải chỉ là hối tiếc những hành vi quá khứ, lại càng chẳng phải là thực thi cho đủ một nghi thức bên ngoài theo luật định, nhưng là thay lòng đổi dạ, đổi mới đời sống và cách sống của mình. Hiểu như vậy thì sám hối là việc bình thường nhưng cần thiết đối với tất cả mọi người.

Tin Mừng kể lại nhiều mẫu gương sám hối, một gương mẫu điển hình là ông Da-kêu. Ông là một người tội lỗi nhưng đầy thiện chí. Ông ước muốn được nhìn thấy Chúa Giêsu, nhưng dân chúng đông quá, ông lại lùn, nên ông trèo lên một cây sung ở bên đường  mà không sợ mọi người chế diễu. Quả thực, ông đã có thiện chí, bấy nhiêu thôi đã đủ để Chúa thưởng cho tấm lòng chân thành của ông, không những cho ông thấy mà Chúa còn đến nhà ông. Trước tình thương của Chúa, ông đã mở rộng tâm hồn, sẵn sàng chuộc lại tội lỗi, đem nửa gia tài phân phát cho người nghèo, không những thế, ông còn thực hiện sự công bình, làm thiệt hại ai ông sẽ đền gấp bốn.

Kinh nghiệm gặp gỡ Chúa Giêsu của ông Da-kêu là cái mẫu gặp gỡ Chúa của chúng ta, và yêu cầu chúng ta cũng hãy thực hiện một cuộc gặp gỡ Chúa như thế. Thực vậy, ông Da-kêu là gương mẫu người sám hối như Chúa Giêsu mong muốn, nhìn vào ông chúng ta sẽ kinh nghiệm được thế nào là sám hối. Vậy điều quan trọng chúng ta hãy nhớ: việc sám hối là một đặc ân của Thiên Chúa, chứ không phải là sáng kiến của chúng ta. Đó là tiếng gọi của Chúa mà chúng ta có nhiệm vụ đáp lại. Ông Da-kêu vì tò mò muốn xem Chúa, nên trèo lên cây mà nhìn, nhưng tâm hồn ông chỉ thay đổi hẳn khi Chúa nhìn ông, kêu tên ông và vào nhà ông. Những chi tiết đó nói lên cho chúng ta biết một cách hùng hồn vai trò của ơn Chúa, của tình thương Chúa trong việc sám hối: ơn Chúa đi trước, kêu gọi và mời đón. Tuy nhiên, chúng ta phải đáp lại tiếng gọi của Chúa, đáp lại sự trông đợi của Chúa thì công việc mới hoàn thành.

Chúng ta cần đến gặp Chúa Giêsu và sám hối để được tha thứ và đổi mới cuộc đời. Chúa Giêsu là tình thương, là đại dương tình thương, nên dù chúng ta là ai, dù chúng ta đang sống trong tình trạng nào, dù cuộc đời chúng ta có xấu xa, bê bối thế nào, thậm chí tội lỗi chúng ta có nhiều và nặng nề đến đâu, vẫn không sao, Chúa sẽ tẩy xóa hết, Chúa sẽ tha thứ hết, để mỗi người chúng ta sẽ là một giọt tình thương trong đại dương yêu thương bao la của Chúa. Nhưng với điều kiện chúng ta phải đến với Chúa, phải gặp gỡ Chúa và thành thật nhìn nhận thân phận yếu hèn và tội lỗi của mình.

Về mục lục

.

LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Trần Thanh Sơn

Suốt mấy tuần lễ vừa qua, Lời Chúa nhấn mạnh đến tầm quan trọng của lời cầu nguyện trong đời sống kitô hữu chúng ta. Trong Chúa Nhật 29, Đức Giêsu mời gọi chúng ta cầu nguyện liên lỷ đừng nản lòng, như bà goá kiên trì trước vị Thẩm phán bất lương. Còn trong Chúa Nhật vừa rồi, Đức Giêsu lại mời gọi chúng ta cầu nguyện với một tấm lòng khiêm tốn, biết nhận ra những lỗi lầm, yếu đuối của mình, để nhờ đó chúng ta nhận được lòng thương xót của Thiên Chúa, như người thu thuế cầu nguyện trong Đền Thờ.

Sỡ dĩ Đức Giêsu luôn kêu mời chúng ta cầu nguyện, vì Thiên Chúa, Đấng chúng ta tôn thờ là một người Cha đầy lòng nhân ái. Ngài yêu thương chúng ta “đến nỗi đã ban Con Một của Người, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được sự sống đời đời” (Ga 3, 16). Người Con đó chính là Đức Giêsu Kitô, Ngài đã được Chúa Cha sai đến thế gian, không phải để xét xử, nhưng là để chứng tỏ lòng thương xót của Thiên Chúa. Đức Giêsu đã đến trong thế gian là để ban ơn cứu độ, hay nói như lời Đức Giêsu trong bài Tin mừng hôm nay, Ngài đến để “tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất”.

1- Lòng thương xót của Thiên Chúa:

Theo tâm lý tự nhiên, chúng ta thường muốn sự dữ, và những kẻ làm điều ác, những người sống bất công phải trả giá ngay lập tức. Khi suy nghĩ như thế, mặc nhiên chúng ta đang tự đặt mình trong tư thế của những người công chính để lên án kẻ khác. Nhưng Thiên Chúa thì khác, bài sách Khôn ngoan hôm nay cho chúng ta thấy rõ lòng từ bi nhân hậu của Thiên Chúa. Mặc dù Thiên Chúa luôn đối lập với sự dữ, nơi Ngài không hề có bóng dáng của bất cứ một sự dữ nào, thế nhưng Ngài lại hết lòng thương xót các tội nhân. Ngài luôn chờ đợi sự trở về của những người tội lỗi. Và chính lòng thương xót vô biên đó đã chứng tỏ cho chúng ta thấy được quyền năng vô cùng của Thiên Chúa. Kinh nghiệm thực tế cũng cho chúng ta thấy rằng, chỉ những người yếu mới tìm cách để loại bỏ những người mình không ưa thích, còn những người mạnh mẽ thực sự thì lại thường dễ dàng bỏ qua những thiếu sót, và tạo mọi cơ hội để người khác có thể làm lại cuộc đời.

Tương tự như thế chính vì là Đấng dựng nên muôn loài, nên Thiên Chúa luôn yêu thương và không muốn bất cứ một tạo vật nào của Ngài phải hư đi, như chúng ta vừa nghe trong bài đọc một: “Chúa thương xót mọi loài, vì Chúa có thể tác tạo mọi sự, … Chúa yêu thương mọi tạo vật, và không ghét bỏ bất cứ vật gì Chúa đã tác thành: vì nếu Chúa ghét bỏ một vật gì, thì Người đâu có tác tạo nó. Nếu Chúa không ưng, thì làm sao một vật có thể tồn tại được?”. Thậm chí, Ngài còn “nhắm mắt làm ngơ trước tội lỗi loài người để họ ăn năn sám hối”. Thiên Chúa chưa xét xử và kết án chúng ta, không phải vì Ngài không biết, hay đồng ý với cách sống của chúng ta, nhưng Thiên Chúa muốn dành cho chúng ta một thời gian, một cơ hội để chúng ta “ăn năn sám hối”, trở lại với Ngài.Vâng, nếu Thiên Chúa cư xử với chúng ta như cách chúng ta cư xử với anh em, với những người chúng ta không thích, có lẽ tôi và quý vị không ai còn có mặt trên cõi đời này. Sỡ dĩ, chúng ta vẫn còn sống và đang tiếp tục nhận được biết bao hồng ân của Thiên Chúa, thì chẳng phải là do chúng ta đạo đức thánh thiện, nhưng bởi vì “Chúa là Đấng nhân ái và từ bi, chậm bất bình và giàu ân sủng”. Ngài luôn sẵn sàng đưa tay “nâng đỡ hết thảy những ai sa ngã, và cho mọi kẻ khòm lưng đứng thẳng lên”.

Chính lòng thương xót đã thúc đẩy Đức Giêsu dừng bước để ngỏ lời và viếng thăm gia đình ông Giakêu, một thủ lãnh của những người thu thuế, nghĩa là một người tội lỗi đầy mình theo cái nhìn của người Do thái. Nhưng cho dù dưới mắt mọi người Giakêu có là người tội lỗi đến đâu đi chăng nữa, thì dưới con mắt yêu thương của Đức Giêsu, Giakêu vẫn là “con cái Abraham”, nghĩa là xứng đáng nhận được ơn cứu độ. Do đó, Đức Giêsu đã đến và dùng bữa tại nhà ông, và ban ơn cứu độ cho gia đình ông, bởi lẽ sứ mạng của Đức Giêsu là “đến tìm kiếm và cứu chữa điều gì đã hư mất”. Cảm nghiệm điều này, thánh Phaolô chia sẻ với giáo đoàn Thessalônica: “Thiên Chúa chúng ta đã đoái thương làm cho anh em nên xứng đáng với ơn Chúa kêu gọi anh em”.Thiên Chúa rất giàu lòng thương xót vẫn sẵn sàng ban ơn cứu độ cho tất cả chúng ta. Tuy nhiên, để nhận được ơn cứu độ, về phần mình, giống như Giakêu, mỗi người chúng ta cũng cần có những nỗ lực cá nhân để xứng đáng với ơn ban của Thiên Chúa.

2- Lời mời gọi đáp trả:

Trở lại với bài Tin mừng, lúc đó Đức Giêsu đang trên đường tiến về Giêrusalem, và có rất đông dân chúng cùng đi với Ngài. Lúc đó có một người thủ lãnh của những người thu thuế tên là Giakêu cũng muốn đến gặp mặt Đức Giêsu, nhưng không thể được, vì dân chúng quá đông còn vóc dạng của ông thấp bé. Nhưng cho dù có nhiều trở ngại, ông vẫn không bỏ cuộc. Ông đã đoán hướng đi của Chúa và chạy trước đến một cây sung và trèo lên để có thể nhìn thấy Chúa. Điều này chứng tỏ được lòng nhiệt thành và quyết tâm của ông. Mặc dù là một thủ lãnh của những người thu thuế, nhưng ông đã quên đi địa vị của mình để rồi, trèo lên cây như một đứa trẻ. Và khi được Chúa ngỏ lời sẽ đến và ở lại nhà ông, ông đã vui vẻ trèo xuống và đón tiếp Người cách hân hoan, mặc cho những lời xì xầm, đàm tiếu của đám đông dân chúng: “Ông này lại đến trọ nhà một người tội lỗi”. Ông biết rõ mình là người tội lỗi, nhưng ông không giấu giếm điều đó. Ông thành tâm muốn giao hoà với Thiên Chúa.

Không chỉ giao hoà với Thiên Chúa. Ông còn muốn giao hoà với anh em. Và chính sự giao hoà lại với anh em này của Giakêu đã trở nên một dấu chỉ rõ ràng cho tâm tình sám hối chân thành của ông. Ông thưa với Chúa: “Tôi xin bố thí nửa phần của cải tôi cho kẻ khó, và nếu tôi có làm thiệt hại cho ai điều gì, tôi xin đền gấp bốn”. Không chỉ đền trả theo lẽ công bằng, Giakêu xin đền gấp bốn. Thậm chí ông còn tự nguyện chia sẻ nửa phần gia tài của ông cho tha nhân. Giakêu đã vượt qua sự công bình thông thường để đi đến đức ái. Lòng nhân ái của Giakêu, chắc hẳn phát xuất từ cảm nghiệm của ông về lòng nhân ái của Thiên Chúa nơi Đức Giêsu. Ông biết Thiên Chúa luôn yêu thương ông. Do đó, ông cũng có bổn phận yêu thương và chia sẻ cho anh chị em mình.

Mặc dù câu chuyện của Giakêu đã xảy ra cách đây hơn 2000 năm, nhưng có lẽ mẫu gương của Giakêu vẫn là bài học thiết thực cho mỗi người chúng ta hôm nay. Tương tự như ông Giakêu, trong hành trình theo Chúa, mỗi người chúng ta vẫn đang gặp biết bao khó khăn, trở ngại. Nào là đường xá xa xôi, lầy lội, thời tiết bất thường đi lại khó khăn; nào là bận rộn với công việc làm ăn bởi vì hôm nay “người khôn của khó”; nào là Nhà thờ chật chội, nóng nực, lại còn bị muỗi đốt … Thế nhưng, theo gương của Giakêu, chúng ta hãy cố gắng “chạy lên trước” vượt qua những khó khăn bên ngoài, rồi can đảm “trèo lên cây”, để vượt thắng sự nhỏ bé ươn lười của chính bản thân, để đến với Chúa trong các Thánh Lễ mỗi ngày, nhất là Thánh Lễ ngày Chúa Nhật, và sốt sắng đón Chúa vào lòng nhờ việc hiệp lễ một cách chu đáo. Và nhờ có Chúa trong tâm hồn, chắc chắn chúng ta sẽ nhận được ơn cứu độ. Đồng thời, cuộc sống của chúng ta sẽ là một lời chứng sống động để dẫn đưa anh chị em chúng ta đến với Chúa. Amen.

Về mục lục

.

ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Vũ Minh Nghiễm

“Hôm nay nhà nầy được ơn cứu độ.”

Toàn bộ sách Tin Mừng được viết ra tập trung vào một chủ đề: Đức Kitô là Đấng cứu độ trần gian. Đó là quan niệm của các môn đồ tiên khởi về thân thế và sự nghiệp của Ngài.

Trên thực tế, Ngài đã cứu họ. Ngài rất hiểu sứ mạng cứu thế của Ngài. Ngài nói: “Con Người đến trong thế gian để tìm cứu những gì đã hư mất” (Lc 19:10)

Điều đáng tiếc là trong Giáo hội, đề tài này chỉ mặc được một ý nghĩa rất giới hạn. Gần như chỉ giới hạn vào những gì sẽ xảy đến cho chúng ta sau khi chết mà thôi. Được cứu rỗi có nghĩa là đời sau, tại bên kia thế giới, chúng ta được vào thiên đàng, sống bên cạnh Chúa muôn đời.

Điều này thật sự thì rất dễ hiểu. Một ngày nào đó chúng ta sẽ chết. Thiên đàng là nơi cực lạc, thoát ra ngoài những truân chuyên buồn khổ của trần gian. Dĩ nhiên, ai trong chúng ta cũng ước được vào thiên đàng.

Nhưng đây không phải là điều mà sách Phúc âm nhấn mạnh trước hết trong công cuộc cứu độ trần gian của Đức Kitô. Trong Phúc ân, các thánh sử đã trình bày Ngài như một vị Tôn sư giúp con người ta đối phó với những thử thách của cuộc đời, giải thoát con người ngay trên dương thế.

Bài Phúc âm hôm nay là một ví dụ điển hình. Đức Giêsu đến thăm nhà một ông trưởng thuế vụ. Chúng ta biết câu chuyện đã bắt đầu như thế nào, và đã kết thúc làm sao. Nhưng giữa đó những gì đã xảy ra? Chúng ta không được biết rõ. Đầu hết, Đức Giêsu trên đường đi ngang qua thành Yêricô, nhìn thấy trên cây sung một người thấp bé. Ngài liền nói:

“Hỡi Giakêu, hãy xuống mau. Hôm nay Ta phải lưu lại nhà ngươi.”

Kết thúc là ông Giakêu hứa cùng Chúa sẽ lấy nửa phần của cải to lớn của ông bố thí cho người nghèo. Sẽ đền bù gấp bốn cho những người ông đã gian lận. Gian lận ai 100, ông sẽ bù lại cho 400. Chúng ta có thể đoán được sự Chúa viếng thăm ông đã làm cho ông được vui mừng hạnh phúc như thế nào, đã đổi mới đời ông, giải thoát ông như thế nào.

Và Đức Kitô đã tỏ mình là đấng cứu độ loài người ngay trên trần gian nầy như thế nào.

Đây lời Ngài phán trong cuộc tiếp xúc với ông Giakêu:

“Hôm nay đây, nhà này được ơn cứu độ.”

Lời Chúa vừa nói có nghĩa gì? Chúng ta có thể nghĩ rằng hôm nay ông Giakêu đang được ở trên thiên đàng?

Nhưng đó không phải là điều mà bài Phúc âm muốn nhắm. Chúa đang nói về kinh nghiệm cứu độ xảy đến ngay ngày hôm đó tại nhà ông Giakêu. Ông đã được cứu độ cách rất thiệt thực trong đời sống hằng ngày của ông tại thành Yêricô.

Nhìn vào bối cảnh của đời ông, chúng ta có thể hiểu được phần nào Đức Kitô đã cứu giúp ông như thế nào. Phúc Âm nói: “Ông là một trưởng ty thuế vụ vùng Yêricô, tức là người cầm đầu các nhân viên thu thuế. Điều nầy làm cho ông Giakêu trở thành một người bị đồng hương ghét bỏ hoàn toàn. Người thu thuế là hạng người đáng ghét nhứt, đáng khinh bỉ nhất trong dân Israel thời bấy giờ.

Người thu thuế trong Phúc âm với người có tội cũng là một. Họ có tội thứ nhất, là tội phản quốc. Cộng tác với kẻ thù là dân cai trị Rôma, để thâu tiền về cho đế quốc. Họ có tội thứ hai là tội lỗi phép công bằng. Họ thâu đa mà nộp thiểu. Họ thâu mười mà không biết có nộp cho chính phủ được bốn năm hay không? Họ được chính phủ cho phép tha hồ làm giàu trên dân chúng.

Người thu thuế quả là người có tội. Mà ông Giakêu không những là người thu thuế, mà còn là cầm đầu các người thu thuế. Với cương vị trưởng ty thuế vụ, ông còn bốc lột hơn các đồng nghiệp. Người thu thuế đã đáng ghét rồi, ông trưởng ty phải đáng ghét gấp bội. Không ai muốn nói chuyện với ông. Trên đường phố, ai cũng xa lánh ông. Ông bị cấm tham dự các buổi lễ nghi tôn giáo.

Sự khinh khi ghét bỏ của xã hội chung quanh đó hẳn gây ảnh hưởng tai hại lớn lao cho tính tình ông, cho đời sống hằng ngày của ông. Ông chỉ là cái đích cho thiên hạ phỉ nhổ.

Tôi sẽ không thể có được một chút tự tin hay hãnh diện nào về bản thân tôi, nếu không có một người nào khác giúp tôi có đuợc sự tự tín hay hãnh diện về tôi.

Đức Giêsu chính là người khác đó của ông Giakêu. Trong khi những người đồng hương xa lánh ông, coi ông như phẩn thổ, thì Đức Kitô nhận biết ông, gọi ông đích danh: “Hỡi Za khê”. Trong khi những người khác khinh thị ông, thì Đức Kitô kính nể ông. Ngài không sợ người chung quanh thấy Ngài chuyện vãn với ông. Hơn nữa, Ngài muốn lưu lại nhà ông hôm đó, dường như là bạn cố tri của ông Giakêu vậy.

Sự Đức Kitô chấp nhận ông là khởi điểm ơn cứu độ của ông. Ngài cho ông chỗ đứng trong đời sống mới.

Người chung quanh chỉ thấy ông là một người tham lam bất lương. Và hình như ông Giakêu cũng mặc nhận như vậy. Nhưng Đức Kitô nhìn thấy trong ông những đức tính tiềm tàng có thể làm ông trở nên một ngưới lương thiện.

Thái độ của Đức Kitô đối với ông đã làm cho những đức tính tiềm tàng kia hiện ra và đáp ứng với những thách đố của một đời sống cao thượng.

Trước đây ông vốn tham lam, bất lương. Nhưng hôm nay ông đã đổi đời, không đi theo con đường cũ nữa. Lòng quảng đại của ông đã bị chôn vùi trong bao nhiêu năm, hôm nay, với sự hiện diện của Đức Kitô, lòng quảng đại đó đã bộc phát một cách thật rõ ràng.

“Tôi xin bố thí nữa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu xưa nay tôi có làm thiệt hại ai, tôi xin bù lại gấp bốn.”

Quả là một sự lạ lùng. Rất lạ lùng: “Hôm nay đây nhà nầy được ơn cứu độ.”

Hôm nay đây ông Giakêu đã trở nên người hiền lương, một người bạn dân. Ông sẽ được các đồng hương kính nể, yêu vì. Khi cần, họ sẽ cầu bàu cùng Đức Giêsu cho ông như họ đã cầu bàu cùng Ngài cho viên sĩ quan Rôma rằng: “Ông nầy đáng được Ngài giúp đỡ, vì ông quí mến dân ta.” (Lc 7:5). Phải: “Hôm nay đây, chính hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”

Phương pháp Đức Kitô dùng để cứu đời là giúp người ta khai thác những khả năng tiềm tàng của mình: Ngài nhìn họ như người điêu khắc nhìn thấy một pho tượng tốt đẹp trong khối đá cẩm thạch sù sì. Ngài giúp họ khai thác các đức tính của họ như thầy giáo giúp học trò khai thác các tài năng của mình. Lòng ưu ái của Ngài đã làm cho những đức tính vốn tiềm tàng của họ được hiện ra sống động.

Một người khác tên Simon, vốn rất yếu đuối và nhu nhược, đến nỗi run sợ trước một cô sen, chối bỏ Thầy đến những ba lần. Thế mà lòng ưu ái của Ngài đã biến đổi con người yếu đuối dễ thất trung thất tín ấy thành Phêrô, hòn đá tảng của Giáo hội. Ông được cứu độ hoàn toàn trong đêm thứ Sáu Tuần thánh.

Một người khác nữa tên Saolô, thuộc nhóm biệt phái, cuồng tín, hung hăng dữ tợn, bắt bớ đạo Chúa không ai bằng. Thế mà Ngài đã cảm hóa được. Và Saolô đã trở thành Phaolô, vị tông đồ thượng thặng của các dân ngoại. Phaolô đã được cứu độ hoàn toàn trên đường Damas.

Đối với chúng ta hôm nay thì sao? Chúng ta có thể quả quyết rằng tất cả những gì là tốt lành, là lương thiện trong chúng ta, một phần lớn là do nơi lòng tin tưởng một cách nào đó, một lúc nào đó, của một người nào đó đối với chúng ta.

Cũng như sự nghi ngờ, khinh khi của người khác đối với tôi sẽ làm cho mất tinh thần, bế tắc, bại hoại, xuống giốc, thì lòng tin tưởng, ưu ái của người khác đối với tôi, là một động lực thúc đẩy tôi trở thành người tốt, hầu đáp lại lòng tin tưởng và ưu ái của họ.

Đức Kitô đã tin tưởng vào ông Giakêu. Ngài giúp ông tìm ra thế giá của mình.

Rồi Ngài đi một bước xa hơn. Ngài đã giúp ông ý thức được trách nhiệm đối với người khác. “Tôi sẽ chia sẻ nửa phần của cải tôi cho người nghèo. Nếu tôi đã làm thiệt hại ai, tôi sẽ đền bù cho họ gấp bốn.”

Trau dồi các nhân đức nơi bản thân và lưu tâm giúp đỡ kẻ khác, là như đôi ngựa song phi. Hai điều kiện hình thành ơn cứu độ. Người chỉ lo cứu linh hồn mình, mà không quan tâm gì đến việc giúp đỡ kẻ khác, người đó tự lừa dối mình.

Một buổi sáng bêm bờ hồ Galilê, Đức Giêsu hỏi Simon Phêrô:

– Con có yêu mến Thầy không?

Phêrô trả lời:

– Lạy Thầy, Thầy biết con yêu mến Thầy.

Không đợi cho Phêrô nói gì thêm, Đức Giêsu tiếp liền:

– Hãy chăn dắt các con chiên Ta. (Yo 21:16)

Cứu độ là một danh từ vĩ đại trong tất cả các ngôn ngữ của thế giới. Toàn bộ sách Phúc âm được cấu tạo chung quanh hai tiếng cứu độ. Một ơn cứu độ torng đời sống thường ngày ngay trên trần gian. Nhưng ơn Cứu độ bao giờ cũng có hai chiều song song. Chúa cứu độ tôi. Và đến lượt tôi, tôi phải thực hành ơn cứu độ đó nơi kẻ khác, bằng cách bớt thời giờ, bớt sức lực, bớt tài năng, bớt của cải, để phục vụ Chúa nơi kẻ khác. Chỉ có lúc bấy giờ, lời Chúa phán hôm nay mới được đầy đủ thể hiện nơi tôi:

“Hôm nay đây, nhà nầy được ơn cứu độ.”

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA TỪ BI VÀ NHÂN HẬU

Lm. Thanh Minh

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Nhất lé nhì lùn”. Đó là hai hạng người mà dân gian có thành kiến rằng “chẳng ra gì”. Nhưng không riêng gì Việt Nam mà có lẽ nhiều nước trên thế giới như Do Thái cũng không coi trọng hạng người thiếu thước này.

Phúc Âm hôm nay thuật lại một câu chuyện ngộ nghĩnh của một “chú lùn” lọt mắt xanh Chúa Giêsu đó là ông Giakêu, một người vừa lùn lại vừa làm nghề thu thuế là nghề được coi là bất chính dưới cái nhìn của dân Do thái.

Nhận biết thân phận lùn của mình, nên Giakêu đã làm một công việc có vẻ “ấu trĩ”, đó là trèo lên một cây cao để có thể nhìn thấy Đức Chúa Giêsu đi ngang qua, vì dân chúng đông đúc. Ông giật mình hoảng sợ vì không ngờ Đức Chúa Giêsu đã ngước nhì lên và gọi đích danh cùng ngỏ ý muốn trọ tại nhà ông. Ông vội vàng tụt xuống khỏi cành cây, lòng tràn ngập vui mừng đón rước Chúa vào nhà và khoản đãi trịnh trọng.

Trước mặt Chúa Cứu Thế, ông đã tà quy chính và hứa sẽ bồi thường thiệt hại gấp bội cho những ai mà mình đã làm thiệt hại. Đáp lại Chúa Giêsu đã tuyên phúc: “Hôm nay nhà được ơn cứu độ… Con Người đến để tìm kiếm và cứu chuộc những gì đã mất”. Vì lòng chân thành mà ông Giakêu đã được tha thứ vá chúc phúc, còn gì hạnh phúc hơn.

“Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu: Người đại lượng và chan chứa tình thương, Người không nỡ với ta như ta đáng tội và không trả cho ta theo lỗi của ta.” (Tv 102:8.10).

Sách khôn ngoan nói bài đọc thứ nhất đã nói đến phẩm tính nầy của Thiên Chúa. Trong Phúc âm, đã nhiều lần Đức Chúa Giêsu dùng hình ảnh dụ ngôn để diễn tả tình yêu của Thiên Chúa và sứ mạng của Ngài như: Người cha và đứa con hoang đàng, người mục tử đi tìm con chiên lạc, bà goá tìm một đồng bạc bị mất v..v..

Dĩ nhiên Thiên Chúa yêu thích những người thánh thiện công chính, nhưng cũng không bỏ rơi những kẻ lầm đường lạc lối. Chúng ta hãy cố gắng sống đạo đức thánh thiện nhưng đừng ngã lòng khi sa chân lỡ bước vì “Thiên Chúa là Đấng từ bi và nhân hậu.”

Về mục lục

.

GẶP GỠ VÀ BIẾN ĐỔI

Lm. Jos. Phạm Ngọc Ngôn

Chúng ta đang ở chặng cuối cùng của hành trình lên Giêrusalem của Chúa Giêsu và các môn đệ để thực thi công cuộc cứu độ. Chặng cuối của hành trình và cũng là cửa ngõ đi vào thánh thánh Giêrusalem chính là thành phố Giêrikhô. Chính nơi đây, thánh sử Luca ghi lại cuộc gặp gỡ giữa Chúa Giêsu và viên trưởng quan thu thuế Giakêu. Câu chuyện thật cảm động và thật ý nghĩa. Lý do là vì nó không chỉ cho chúng ta biết cách thức, hành trình của một tội nhân trở lại đón nhận ơn cứu độ, mà còn là dịp để chúng ta nhận ra tình yêu thương và sứ mệnh của Chúa Giêsu đối với người tội lỗi.

Tên gọi Giakêu có nghĩa là “người thanh liêm”- xem ra có vẻ mâu thuẫn với chính con người cũng như công việc hiện tại của ông, nhưng đó lại là sự thật. Vâng, thánh sử Luca đã không ngần ngại liệt kê lý lịch đầy bất hảo của ông- ít nữa trước mắt người Dothái: “Đứng đầu người thu thuế và là người giàu có”. Rõ ràng Giakêu là quan thu thuế, mà không chỉ là quan thu thuế bình thường, ông là đại quan, là “đầu sỏ” của những tên thu thuế, bóc lột dân đen để làm lợi cho đế quốc Rôma. Thế nên, sự giàu có của ông cũng là điều dễ hiểu. Đó là sự giàu có không do công sức của mình mà phần lớn xuất phát từ những trò ma mãnh trong ngành mà có. Vì lẽ đó, chúng ta không ngạc nhiên khi thấy Giakêu bị dân chúng Dothái khinh bỉ, bị tẩy chay và cho là kẻ ô uế. Thế nhưng dù có bị dân chúng tẩy chay, khinh bỉ, Giakêu vẫn cố tìm cách để nhìn thấy Chúa khi biết Người sẽ đi qua thành phố Giêrikhô thân yêu. Chúng ta có thể thấy nổ lực của Giakêu trong việc cố tìm cách để thấy Chúa không hẳn xuất phát từ sự tò mò, hiếu kỳ trước con người Giêsu, mà đó còn là khởi điểm cho một hành trình đức tin, tìm về cội nguồn chân lý. Đám đông cũng như vóc dáng nhỏ bé không cho phép ông nhìn thấy Chúa, ông không thất vọng, ông trèo lên cây sung và nóng lòng đợi chờ…

Những nổ lực của Giakêu cuối cùng đã có tác dụng nhờ Chúa Giêsu chính là người đã đi bước trước. “Này ông Giakêu, xuống mau đi, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà ông”. Chính Chúa Giêsu đã cố tìm Giakêu vì sứ mệnh của Người là đi tìm những con chiên lạc, quy tụ về một ràn chiên. Không chỉ thế, Chúa Giêsu tự làm khách đến nhà của Giakêu – điều mà trước đây chẳng mấy ai làm, ngoại trừ bị ông kêu đến để hoạch hoẹ về chuyện thuế má. Chúa đến nhà ông, đồng bàn cùng ông, bởi như ngôn sứ Êdêkien, Chúa Giêsu “không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn năn sám hối và được sống” (Ed 18, 23), Người muốn Giakêu nhận ra những lầm lỗi của mình để trở về.

Chúng ta có thế thấy nổi vui mừng khôn tả của Giakêu khi được Chúa Giêsu viếng thăm. Ông không thể ngờ rằng trong khi mọi người trong thành phố Giêrikhô này đều căm ghét, lạnh lùng và khinh bỉ ông, thì cái ông Giêsu “bắc kỳ” (miền Galilê) lại vui vẻ thân tình với ông. Ông có ngờ đâu đang khi người dân của thành phố Giêrikhô liệt ông vào hạng người tội lỗi, bán linh hồn cho ma quỷ, thì lại được Chúa Giêsu công khai nhìn nhận ông là “con cháu tổ phụ Apraham”. Ông cũng có ngờ đâu xuất phát từ ý muốn có thể là bộc phát chỉ để nhìn thấy Chúa, đơn giản thế thôi, thì giờ đây khi được tiếp xúc với Người, được đồng bàn với Người, ông quyết định làm lại cuộc đời. Cuộc đổi đời của Giakêu không chỉ trong việc ông chia sẻ, bố thí cho người nghèo “phân nửa tài sản của tôi, tôi cho người nghèo”, mà còn được thể hiện trong ước muốn sống đời sống công bình ngay thẳng nữa. Ông thú nhận với Chúa: “Nếu tôi đã cưỡng đoạt của ai cái gì, tôi xin đền gấp bốn”. Chúng ta biết luật Dothái cũng như luật Rôma chỉ quy định khi có bằng chứng xác thực về tội ăn trộm chiên hoặc bò, thì phải đền 5 lần đối với bò và 4 lần đối với chiên (x. Xh 21, 37). Giakêu không chỉ buộc mình có vậy, ông còn đi xa hơn nữa trong tất cả mọi của cải chiếm đoạt.

Có thể nói không gì có thể sánh ví niềm vui mừng khôn tả của Giakêu khi cuộc đời ông được gặp gỡ Chúa và được Chúa biến đổi. Cuộc gặp gỡ và biến đổi đó không chỉ trên bình diện cá nhân, mà còn lan rộng, mang chiều kích xã hội. Ước gì mỗi người trong chúng ta cũng được Chúa Kytô biến đổi để trở nên những Giakêu thanh liêm hầu mưu ích cho muôn người.

Về mục lục

.

TÔI PHẢI LƯU LẠI NHÀ ANH

Lm. Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến

Luca thuật lại hai câu chuyện liên quan đến thành Giêricô: người mù được chữa lành khi Chúa Giêsu đến gần đó (18,35-43), và ông Giakêu khi Người đi ngang qua thành (19,1-9). Câu chuyện Giakêu được đặt ở cuối hành trình lên Giêrusalem (9,51-19,27). Hành trình tạm ngưng khi Người dừng chân ở lại nhà người thu thuế nầy (x. 17,11;18,31). Có thể phân chia bố cục của đoạn như sau: – Bối cảnh dẫn nhập (c. 1); – Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6); – Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông, và kết luận (cc. 7-10). Hai phần chính có cấu trúc hình thức tương tự nhau. Trong phần đầu (cc. 2-6), Giakêu tìm gặp Chúa Giêsu, và bị dân chúng cản trở. Họ che ông khỏi thấy Người, vì ông thấp bé (c. 3). Ông tìm cách vượt qua trở ngại bằng cách trèo lên cây sung (c. 4). Chúa Giêsu đáp lại sự tìm kiếm của ông là đi ngang qua chỗ ông và nói với ông (c. 5). Người đến nhà ông và ông đón tiếp trong vui mừng (c. 6). Trong phần thứ hai (cc. 7-10), Chúa Giêsu đến nhà Giakêu, và bị dân chúng cản trở bằng những lời lẩm bẩm (c. 7). Người vẫn đến và Giakêu đáp lại bằng sự sửa mình của ông (c. 8). Chúa Giêsu vui mừng vì đã cứu vớt được một người con của Abraham (cc. 9-10). Những từ quan trọng liên kết hai phần với nhau đều nằm ở câu 5 và 9 là “hôm nay”, “ nhà” và “Giêsu”. Hai câu nầy là chìa khóa giúp hiểu ý nghĩa của mỗi phần. Từ eis-erchomai “đi vào”(c. 1) và erchomai “đi” “đến” (c. 10) đóng khung đoạn (inclusio), đánh dấu việc cứu độ Chúa Giêsu làm cho Giakêu đã xong tại Giêricô. Dựa trên câu chuyện của Giakêu, có thể thấy việc Giakêu tìm kiếm Chúa (c. 3) đã kết thúc với việc Chúa Giêsu tìm kiếm ông theo chiều ngược lại, và đã cứu vớt ông (c. 10).

Chúa Giêsu vội vã đi ngang qua Giêricô để lên Giêrusalem (c. 1). Động từ “đi ngang qua”, dia-erchomai, gợi lên ý tưởng đi xuyên lãnh thổ, và đi vội vã (x. 2,15; 4,30; 5,15). Người nhắm đến Giêrusalem và không muốn chậm trễ. Tuy nhiên, Người đã tự cầm chân mình lại trong nhà Giakêu để cứu vớt người nầy.

Giakêu tìm và gặp Chúa Giêsu (cc. 2-6). Phân đoạn nầy tập trung vào Giakêu: – Con người và ước muốn (cc. 2-3); – Thực hiện ước muốn và kết quả đến hơn cả lòng mong muốn (cc. 4-6). Cụm từ “Và nầy” mở đầu, dùng để kéo sự chú ý vào điều sắp được trình bày; tương tự như thế khi nói về Simêon (2,25). Luca giới thiệu tên, nghề nghiệp và thân thế của Giakêu (c. 2). Zacchaeus là hy lạp hoá tên hipri Zakkay (Nêh 7,14; Esdra 2,9), có nghĩa là “sạch, vô tội”. Là trưởng thu thuế, nên ông giàu có. Giêricô là trụ sở quan thuế thường được nhắc đến, và đây là thí dụ điển hình.

Giakêu tìm thấy cho bằng được Chúa Giêsu là ai (c. 3). Động từ “tìm kiếm” được dùng rất nhiều lần trong Luca; nhưng ở thể quá khứ chưa hoàn thành, chỉ được dùng cho Giakêu, cho Hêrôđê (9,9) và Giuđa (22,6). Khó có thể nghĩ là độ dài, sự lập lại của việc tìm kiếm của Giakêu chỉ xảy ra cách ngắn ngủi khi Chúa Giêsu vội vã ngang qua thành Giêricô. Nếu như thế, tìm kiếm ấy chỉ là một sự tò mò nhất thời. Sự tìm kiếm nầy phải là đã từ lâu, bây giờ là cơ hội để tìm thấy, như trường hợp của Hêrôđê (x. 23,7-8) và Giuđa (22,47). Động từ nầy thường hàm ý là tìm cho đến khi nào thấy được (2,48.49; 9,9). Tuy Giakêu đã đi tìm, chính Chúa Giêsu mới là người tìm thấy ông (c. 5). Người tỏ mình ra cho ông, như trong khẳng định “Ai tìm sẽ được cho” (11,9-10; 12,31). Sự thấp bé của Giakêu là sự kiện chứ không phải là nguyên nhân. Dân chúng mới là nguyên nhân “vì dân chúng” (c. 3). Họ cản trở không cho ông nhìn thấy Chúa Giêsu, cũng như họ không muốn Người đến nhà ông (c. 7). Đáng ngạc nhiên là Luca trình bày phản ứng của dân chúng tương tự như phản ứng của những người Pharisêô (x. 5,30; 15,2).

Khung cảnh thu nhỏ lại hơn. Chúa Giêsu “đi ngang qua Giêricô” đến “đi đến” chỗ cây vả nơi có Giakêu (c. 4). Chúa Giêsu dừng lại ở đó. Tên “Giêsu” được nêu rõ ở đây, cũng như ở câu 9, chỉ sự quan trọng của điều Người sắp nói: “Giakêu, hãy xuống mau, vì hôm nay tôi phải ở lại nhà anh” (c. 5). Chúa Giêsu lên chương trình cho Giakêu. Ông phải “xuống mau” vì Người đang vội vã đi lên Giêrusalem. Nhưng Người “phải” ở lại, vì đó là sứ mệnh cứu độ của Người (x. 2,49; 4,43; 9,22…). “Hôm nay” sẽ được lập lại trong c. 9 chỉ thời điểm ơn cứu độ được thực hiện (2,11; 4,21; 5,26; 23,43). “Nhà của anh” đại từ chỉ ngôi “của anh” đặt sau “nhà” là vị trí nhấn mạnh. “Ở lại” là một phần của việc tông đồ (x. 1,56; 9,4; 10,7; 19,5; 24,29). Giakêu đã trèo lên để tìm xem Chúa (c. 4). Bây giờ ông trèo xuống vì đã gặp Người (c.6). “Vội vã” chỉ sự khao khát (x. 2,16). Động từ “đón tiếp” hàm ý sự hiếu khách (x. 10,38). Ông vui mừng vì Chúa ở lại nhà ông. Luca thường nói đến niềm vui của những người được Thiên Chúa can thiệp và cứu độ (x. 1,14; 1,28; 6,23; 10,20; 13,17; 19,6). Như thế, Giakêu đã nhận được nhiều hơn cả điều ông mong ước.

Chúa Giêsu đến nhà Giakêu và ban ơn cứu độ cho ông (cc. 7-10). Động từ “cho” và “hoàn trả” (c. 8) ở thì hiện tại hiểu như là tương lai gần: “tôi sẽ cho”, “tôi sẽ hoàn trả lại” (x. 4,6; Cv 3,6). Giakêu đã không làm điều nầy trong quá khứ. Ông đã đặt giả thiết là ông có thể đã làm thiệt hại ai đó trong quá khứ (c. 8). Nên không lạ gì dân chúng nghĩ ông là “người tội lỗi” (c. 7). Do đó, quyết định nầy chứng tỏ ông đã hoán cải. Và Chúa Giêsu mới tuyên bố là “hôm nay ơn cứu độ đến với nhà nầy” (c. 9), và “Người đến để cứu vớt những người hư mất” (c. 10). Cuộc gặp gỡ với Chúa Giêsu đã biến đổi đời ông. Động từ “sykophante” có nghĩa là “gian lận”, “áp bức”, “hăm dọa tống tiền” (x. 3,14). Làm nghề thu thuế, Giakêu gian lận tiền bạc của người khác cho chính mình. Dựa vào luật Môse, phải đền trả lại “gấp bốn” (x. Xh 21,37; 2 Sam 12,6) hay “gấp năm” (x. Lv 6,5; Ds 5,6-7).

Như câu 5 ở trên, Chúa Giêsu lại tuyên bố (c. 9), và lần nầy Người nói đến sự cứu độ cho Giakêu, “người con của Abraham.” “Cứu độ” được gắn liền với “hôm nay”; xem ở trên. “Con cháu của Abraham” không phải chỉ do bởi sự thuộc về dân tộc Do thái. Chúa Giêsu đã phê bình những người tự hào là họ có Abraham là tổ tiên, nhưng thiếu lòng hoán cải (x. 3,8). Chính sự hoán cải trở về với Thiên Chúa mới chứng thực ai là con cái của Abraham. Giakêu đã làm điều nầy và đáng được gọi là con cái của Abraham. Câu 10 lấy lại ý tưởng của câu 5,32 với nhiều thay đổi từ ngữ. Đó là “đến tìm kiếm” và “những người hư mất”, thay vì nói đến việc kêu gọi “người tội lỗi hoán cải”. Việc thay đổi từ ngữ nấy nhằm nhấn mạnh sứ vụ mục tử của Chúa Giêsu; xem dụ ngôn đi tìm chiên lạc (15,4-7). Tước hiệu “Người Con của Nhân Loại” gắn liền với cuộc thương khó, sự chết và vinh quang (9,26.44; 12,8; 22,69); đồng thời cũng gắn liền với những người thu thuế và tội lỗi (7,34; 19,10). Họ là những người đầu tiên “phải” được tìm đến và cứu chuộc. Vậy như lời hứa với Abraham (1,73), Thiên Chúa đã tỏ lòng thương xót với con cháu của ông (1,55) qua việc ban ơn cứu độ cho Giakêu.

Thiên Chúa vẫn còn đi ngang qua trần gian nầy để tìm kiếm và cứu độ những người đã hư mất. Hãy mở cửa nhà cho Chúa. Mời Người vào và lãnh nhận ơn cứu độ.

Về mục lục

.


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...