17/01/2023
906

CHÚA NHẬT 3 THƯỜNG NIÊN_A

Lời Chúa: Is 8,23b-9,3;  1Cr 1,10-13.17;  Mt 4,12-23
--------------------------------------

Mục lục

1. Galilê, Ơn gọi đầu tiên (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

2. Chúa Giêsu, Ánh Sáng muôn dân  (Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

3. Ánh sáng cho trần gian (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

4. Lời rao giảng  (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Ánh sáng  (Lm. Trần Việt Hùng)

6. Nước Trời đang đến (Lm. Nguyễn Văn Nghĩa)

7. Ơn gọi đâu dành để riêng ai  (Lm. Giuse Lê Quan Trung)

8. Mọi người là con Chúa cả (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

9. Ánh sáng huy hoàng (Anmai)

10. Nước Trời đã đến gần (Jos. Hồng Ân)

11. Xin cho được lòng sám hối tội lỗi  (Lm. Trần Bình Trọng)

12. Từ Caphanaum, ChúaGiêsu xuất phát thi hành sứ vụ(Lm.Đaminh TrầnĐình Nhi)

13. Sám hối thì mới được cứu độ  (Jos.Vinc. Ngọc Biển, SSP)

14. Trở về Galilê và kêu gọi các môn đệ đầu tiên (Học viện Giáo hoàng Piô X Đà Lạt)

15. Suy niệm chú giải Lời Chúa-Chúa Nhật 3 TN_A (Lm. Inhaxio Hồ Thông)

16. Dân chài  (Trầm Thiên Thu)

17. Đức Giêsu – Ánh sáng chiếu soi trần gian (Lm. Đan Vinh)


 

GALILÊ, ƠN GỌI ĐẦU TIÊN

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Theo sử gia Josephus, Galilê không phải là mảnh đất dành cho mặc khải bắt đầu, ở đó có đông dân, yêu nước và bồng bột.  Dân chúng Giêrusalem thường khinh miệt người dân vùng Galilê này. Chúa Giê su xuất hiện ở đó và kêu gọi những môn đệ đầu tiên, Galilê từ đó nhiều người biết đến.

Con người tại Galilê

Galilê vùng đất phì nhiêu hơn những vùng khác tại Israel. Những người dân ngoại thường sống ở đây, có một số ít người Do Thái cũng chẳng sùng đạo lắm cư ngụ. Người Do Thái ngoan đạo thường coi khinh những người dân cư ở Galilê. Trường hợp của Nathanael nói: “Có gì hay ở Nazareth đâu?” (Ga 1, 46), Nazareth là một làng quê nhỏ bé thuộc Galilê. Ngay cả giọng nói của người Galilê nghe cũng không êm tai nữa, Chúa Giêsu sống thời thơ ấu của Ngài ở đó và cũng bắt đầu sứ vụ của Ngài ở đấy nên người ta càng chú ý, để xem con người này sẽ làm gì to lớn?

Sứ vụ của Chúa Giêsu không hoạt động một mình, Ngài kêu gọi những người Ngài quen biết theo Ngài làm môn đệ. Họ là những người sống bằng nghề ngư phủ, những nghề bình dân khác, không học cao, không nhiều tài sản gì.

Sứ vụ người tông đồ.

Theo truyền thống người Do Thái thời đó, các môn đệ đi tìm cho mình vị thầy để học mở mang kiến thức, hoặc học hỏi về kinh Cora cặn kẽ. Chúa Giêsu lại khác, Ngài chọn các môn đệ, gọi họ đi theo mình để huấn luyện họ. Cách Ngài giảng dạy cũng khác với các thầy giảng khác. Chúa Giêsu giảng bằng đời sống của Ngài, cũng không nhiệm nhặt giải nghĩa kinh Tora. Chính Chúa Giêsu cũng không phải là vị thầy đúng nghĩa như các vị tiến sỹ luật, những chuyên gia học thuật về Thánh Kinh. Chúa Giêsu giảng dạy như người nghe nhận định: “Người giảng dạy như Đấng có uy quyền, chứ không như các kinh sư” (Mc, 1, 21).

Người môn đệ của Chúa Giêsu không chỉ học lý thuyết. Riêng nhóm mười hai bị đòi hỏi nhiều hơn, gác bỏ khoái lạc trần gian, sinh kế là việc thứ yếu, hôn nhân và gia đình, sở hữu riêng cần đặt đúng vị trí. Sau nữa, họ còn chịu sự bắt bớ, roi đòn, và cả sự chết.

Mười hai môn đệ của Chúa cũng nếm được phần nào vinh quang khi theo Chúa. Lòng họ cũng cảm nhận được niềm vui. Lắm lúc, niềm vui này lại thái quá khi thấy mình thành công, Chúa Giêsu bảo họ “tìm nơi vắng vẻ mà nghỉ ngơi, cầu nguyện” (Mc 6, 31). Cũng có lúc môn đệ còn ham vui quyền thế để ngồi vào chỗ nhất trong vương quyền

Có những phụ nữ đi theo Chúa Giêsu trợ giúp. Điều này, rất khác với văn hóa người Do Thái thời ấy, chẳng ai thấy có thầy giảng nào lại có nữ đệ tử. Môn đệ chỉ là nam giới, những người sẵn sàng với sương gió: “Chim có tổ, chồn có hang, con người không chỗ gối đầu” (Lc 9, 58). Vậy mà các bà theo Chúa qua khắp nẻo đường tại Galilê, chẳng sợ hãi dị nghị, và còn theo Chúa lên Giêrusalem và chứng kiến cái chết của Ngài trên thập giá.

Môn đệ trở nên bạn hữu.

“Thầy gọi anh em là bạn hữu, vì tất cả những gì Thầy nghe được nơi Cha Thầy, Thầy đã cho anh em biết.” (Ga 15, 15). Người bạn thân trung tín là món quà quý trong cuộc đời, dù thế nào cũng không bị bạn chê cười ghét bỏ, mà còn đầy tình thương mến trợ giúp, cho những lời khuyên tốt lành. Chúa Giêsu muốn các môn đệ trở thành bạn ở một cấp độ agapé. Một cấp độ cao nhất trong tình bạn như thế dành cho các môn đệ, để họ hiểu biết sâu xa hơn những gì thuộc về Chúa.

Trong tình bạn với Chúa để ở lại trong tình bạn, mỗi ngày thắm tiết hơn, mỗi ngày hiểu biết Chúa nhiều hơn, yêu mến Chúa nhiều hơn. Từ đó làm chứng về Chúa trong tình bạn mà người môn đệ đã hết lòng, hết trí, hết sức thấm nhuần trong tình Chúa yêu thương.

Galilê, chẳng có gì hay! Nhưng hãy đến mà xem, rồi ở lại đó, Chúa Giêsu sẽ cho biết có những gì hay. “Hãy theo tôi!” (Mt 4, 19).

Về mục lục

.

CHÚA GIÊSU, ÁNH SÁNG MUÔN DÂN

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Trong thánh lễ Chúa Nhật III này, chúng ta suy niệm về chủ đề mà phụng vụ Lời Chúa hôm nay gợi lên: “Chúa Giêsu là ánh sáng muôn dân.”

1- Ánh sáng đến từ đêm tối

Trong bài đọc I, hình ảnh được dùng ở đây là ánh sáng. Tiên tri Isaia nói về Galilê là mảnh đất của dân ngoại, những con người không thanh sạch và nhỏ bé, thấp hèn. Nhưng trong cái nhìn tiên tri của Isaia, đây là nơi mà ánh sáng của Thiên Chúa sẽ xuất hiện và “dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi” (Is 9,1). Dưới ánh sáng của mạc khải Tân Ước, chúng ta nhận ra ánh sáng mà Isaia loan báo đó chính là Đức Giêsu, Người là ánh sáng soi chiếu cho muôn dân.

Trong bài đọc II, thánh Phaolô nói với dân chúng ở Côrintô, những người được coi là đã đón nhận ánh sáng Chúa Kitô, ánh sáng đó đã đến với họ để soi chiếu lòng trí họ nhận ra con đường dẫn tới ơn cứu độ. Tuy nhiên, khốn thay có những tranh chấp, xung đột và chia rẽ đã xảy ra giữa cộng đoàn vì lòng trung thành và trung tín của họ. Ánh sáng của Chúa Kitô đã bị giảm thiểu và hiểu một cách sai lạc. Họ tranh luận nhau: “Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô. Thế ra Đức Kitô bị chia năm xẻ bảy rồi ư?” (1 Cr 1,12-13). Thế ra, thay vì tập trung vào Chúa Kitô, họ lại tập trung vào các Tông Đồ, những người rao giảng về Chúa Kitô. Và như thế có một sự cắt đứt với ánh sáng ở giữa họ: một số thì trung thành hơn với thánh Phêrô, một số thì trung thành hơn với Phaolô hay Apôlô hơn là trung thành với Chúa Giêsu. Điều này đã mang đến cho cộng đoàn những bóng tối về sự chia rẽ, thiếu sự hiệp nhất. Điều này là một sự nhắc nhở rất ý nghĩa cho chúng ta, những tông đồ của Chúa, các giám mục, linh mục, giáo dân, các cô thầy giáo, những người hướng dẫn… chúng ta không được chiếm chỗ của Chúa Kitô nơi dân chúng, không được cạnh tranh với Người. Bởi Người là ánh sáng cho muôn người và khi dân chúng đến với chúng ta, chúng ta phải hướng họ đến với Chúa Kitô như Phaolô đã làm.

2- Chúa Giêsu, ánh sáng thật

Trong bài Tin Mừng, chúng ta thấy Chúa Giêsu bước vào một khoảnh khắc của bóng tối, tương tự như trong bài đọc I, Isaia nói tới, dân bước đi trong đêm tối. Ở đây là bóng tối gì vậy? Gioan Tẩy Giả đã bị bắt và bị bỏ tù. Đó là một giây phút rất đen tối của xã hội lúc bấy giờ đối với các môn đệ của Gioan và cả các môn đệ của Chúa Giêsu, những người được Gioan giới thiệu đến với Người. Nhưng đây là khoảnh khắc đêm tối không biết làm sao để hướng tới ánh sáng, bởi vì khi Gioan Tẩy Giả bị bắt, Chúa Giêsu rút lui và lánh qua miền Galilê, đến ở Caphácnaum, một thành ven biển hồ Galilê. Người đến với đoàn dân ngoại, không trong sạch và bị khinh thường, từ đó ánh sáng đã bừng lên chiếu rọi mọi người.

Theo thánh Mátthêu, việc Chúa Giêsu rút lui để đến Galilê, nơi dân ngoại sinh sống là để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia đã nói: Ánh sáng sẽ đến và ánh sáng Chúa Kitô đến với một thông điệp mở đầu: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17).

Nước Trời không phải là triều đại của thế giới này, nhưng là triều đại đến từ trên cao. Nước Thiên Chúa rất gần, đang đến với chúng ta và nó đến với chúng ta qua Galilê, qua một dân tộc bị ngờ vực, một dân tộc không thanh sạch. Ánh sáng sẽ đến. Nước Thiên Chúa đang đến với chúng ta. Nên chúng ta phải hoán cải đời sống. Vì Chúa đang đến với chúng ta, nên những gì không thuộc về Thiên Chúa cần phải từ bỏ và quay về với Chúa, trở về với ánh sáng này. Nước Thiên Chúa đang đến với chúng ta, vậy ngay bây giờ, chúng ta hãy chọn lựa để thuộc về Thiên Chúa. Nhưng chúng ta phải từ bỏ những sự lệ thuộc, những dính bén của chúng ta với những gì mà chúng ngăn cản chúng ta đến với ánh sáng Chúa Kitô.

3- Để nên ánh sáng cho đời

Có một cách thế khác để ánh sáng của Nước Thiên Chúa đến với dân chúng ở Galilê: Chúa Giêsu gọi 4 môn đệ đầu tiên của mình không ở Giêrusalem, thành thánh, nhưng ở miền quê Galilê. Phêrô, Anrê, Gioan và Giacôbê. Người mời gọi họ: “Hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Đây là lời mời gọi khác: Nước Thiên Chúa đã đến gần. Nào hãy đến và theo tôi. Tôi sẽ tôn trọng các anh, những ngư phủ. Tôi biết khả năng của các anh. Tôi biết các anh giỏi về mặt gì. Nào, hãy đến và theo tôi, tôi sẽ biến đổi các anh trở thành những kẻ lưới người. Cũng là một nghề, nhưng có gì đó khác biệt bởi vì từ đây, họ trở thành những người phục vụ Nước Trời. Họ sẽ trở thành những kẻ đánh bắt cá người như là ánh sáng đến chiếu soi và hướng dẫn họ đến với ánh sáng Chúa Kitô. Ngày hôm nay, Giáo Hội mời gọi tất cả chúng ta tham gia vào sứ vụ loan báo Tin Mừng cho thế giới. Đây là sứ vụ cao cả, đòi hỏi chúng ta phải từ bỏ như các môn đệ đầu tiên để có thể lên đường theo Chúa và loan báo Nước Trời. Tất cả chúng ta đều được mời gọi: Hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ loan báo Tin Mừng cho con người hôm nay.

Như thế, lời mời gọi của Chúa Giêsu không chỉ dừng lại ở việc là xa lánh các tội lỗi, nhưng còn làm cho mình sẵn sàng trở thành người phục vụ Nước Thiên Chúa, nhờ đó qua tôi, trong mọi sự, tôi trở thành một ngư phủ, một cảnh sát, một thầy, cô giáo, một doanh nhân, một thương gia… tôi có thể đưa những người khác tới ánh sáng Nước Trời trong Chúa Kitô. Nhờ ánh sáng đó soi sáng, chúng ta đã được thoát cảnh tối tăm của u mê, tội lỗi, và giúp chúng ta sẵn sàng phục vụ Người. Amen!

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG CHO TRẦN GIAN

Bông hồng nhỏ

Giữa đêm tối mịt mù cần lắm một ánh sáng soi đường. Trong đêm tối, người ta không thể nhìn thấy gì nếu không có ánh sáng. Đó có thể là ánh sáng của ánh trăng, của ngọn hải đăng, của một ngọn nến nhỏ; và hơn hết đó có thể là một người bạn đồng hành, một người thầy hướng dẫn. Hôm nay, Chúa Giêsu được nhắc đến như một ánh sáng huy hoàng bừng lên chiếu rọi những ai đang ngồi trong cảnh tối tăm.

Là môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta được mời gọi trở nên ánh sáng cho thế gian. Chính Ngài đã là ánh sáng cho nhân loại. Ngài đi đến đâu thì bình an lan tỏa đến đó. Chúa Giêsu đã rao giảng điều gì? Ngài rao giảng rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17). Đó là lời mời gọi chung cho tất cả chúng ta. Mỗi người trong vai trò của mình đều cần phải sám hối vì biết bao điều lầm lỗi. Chúng ta luôn luôn cần phải sám hối. Vậy, chúng ta phải sám hối như thế nào? Sám hối là canh tân đời sống, là đổi mới tâm hồn mình. Bao lâu chúng ta còn lặng thinh không thú lỗi thì chúng ta chưa được sống trong ánh sáng của Chúa Giêsu. Thánh Gioan Tông đồ đã khẳng định: “Thiên Chúa là ánh sáng; nơi Người, không có một chút bóng tối nào” (1Ga 1,5). Để trở nên ánh sáng của Chúa Giêsu, chúng ta phải đi trong ánh sáng của Người và hiệp thông với nhau, vì “nếu chúng ta đi trong ánh sáng cũng như Thiên Chúa hằng ngự trong ánh sáng, thì chúng ta được hiệp thông với nhau, và máu Đức Giêsu, Con của Người, thanh tẩy chúng ta sạch hết mọi tội lỗi” (1Ga 1,7). Chính Chúa Giêsu sẽ đổ tràn Thánh Thần của Người trên chúng ta, làm cho chúng ta được bừng sáng ánh sáng của tình thương yêu.

Ai được trở nên môn đệ của Chúa Giêsu? Chúa Giêsu đã tuyển chọn những người ngư phủ, người thu thuế, … để cộng tác với Ngài. Ngày hôm nay, Chúa Giêsu cũng mời gọi mỗi chúng ta trở nên môn đệ của Ngài. Chính Chúa Giêsu đã nói: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Chúa Giêsu kêu gọi và chúng ta đáp trả bằng thái độ dứt khoát như các môn đệ đầu tiên. Điều quan trọng không hệ tại ở việc chúng ta đã làm được những việc lớn lao nào nhưng là chính Chúa Giêsu đã làm tất cả. Người sẽ làm cho chúng ta trở thành “những kẻ lưới người như lưới cá”. Chúng ta có đang để cho Người tự do thực hiện tất cả những gì Người muốn làm nơi chúng ta không? Chính khi hoàn toàn để cho Chúa Giêsu làm chủ cuộc đời mình, chúng ta sẽ trở nên ánh sáng cho trần gian. Được cùng Chúa Giêsu làm cho ánh sáng tình thương của Thiên Chúa hiện diện nơi trần gian là một hạnh phúc của mỗi chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu! Cảm tạ Chúa đã ban cho chúng con áng sáng tình thương của Ngài. Xin đốt lòng chúng con ngày càng thêm yêu mến Chúa để chúng con được cùng Chúa hân hoan phục vụ Nước Trời. Xin cũng dạy chúng con biết sám hối bằng việc canh tân đời sống và cộng tác với ơn Chúa trong việc đổi mới tâm hồn mình. Amen.

Về mục lục

.

LỜI RAO GIẢNG

Anna Cỏ may

 Trong cuộc sống, chúng ta nghe rất nhiều lời kêu gọi. Kêu gọi bảo vệ sự sống, bảo vệ môi trường, bảo vệ hoà bình. Kêu gọi quyền tự do, sự công bằng. Cũng có những lời kêu gọi để ủng hộ cho đảng phái chính trị, kinh tế. Hôm nay, Chúa Giêsu cũng kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì nước trời đã đến gần”(Mt 4, 17).

“Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. Đây không phải là lời kêu gọi có tính chính trị, kinh tế hay xã hội. Đây là lời kêu gọi của Con Thiên Chúa làm người, lời kêu gọi của Đấng là tình yêu, lời kêu gọi chẳng vì điều gí khác ngoài lợi ích cho người được kêu gọi. Ngài mời gọi mọi người tự canh tân bản thân, tự sám hối về những hành vi mình đã làm cho anh em, cho người thân, cho mọi người xung quanh hay những người mình đã gặp gỡ trong ngày sống, để sám hối về những việc mình đã làm mà không xuất phát từ Thiên Chúa Tình Yêu. Lời kêu gọi Ngài là Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn, cho người bị giam cầm, cho người đang bước đi trong tăm tối. Lời kêu gọi của người là lời mang lại tự do cho người bị áp bức và đem an bình cho mọi người (x Lc 4,18). Lời kêu gọi của Ngài thì lợi ích cho người nghe để họ được hạnh phúc nhưng Ngài không ép buộc mọi người đáp lại, mà là tự do để đáp lại. Vì thế, ai sám hối thì được hưởng Nước Trời.

Chúng ta được sinh ra là để sống cho người khác. Bao lâu chúng ta hướng về người khác, chúng ta sẽ tìm được niềm vui và ý nghĩa cho cuộc sống của mình. Bao lâu chúng ta chỉ vun vén cho bản thân, bấy lâu chúng ta sẽ đau khổ và tăm tối. Bao lâu chúng ta chỉ biết mình thì bây lâu thế giới vẫn chưa được bình an.  Nước Trời không phải là tương lai nhưng chính là thực tại của mỗi ngày sống. Nước Trời không ở đây ở kia nhưng là ở trong tinh thần sám hối của chúng ta.

Lạy Chúa, trong cuộc sống hôm nay, lời mời gọi của Chúa “Anh em hãy sám hối, vì nước trời đã đến gần”(Mt 4, 17) vẫn luôn vang vọng bên tai con. Xin cho chúng con khắc ghi lời Chúa mời gọi và đem ra thực hành trong cuộc sống. Nhờ đó, xã hội được hòa bình và muôn người được hưởng cuộc sống Nước Trời ngay tại thế gian này. Amen.

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Chúa Giêsu là ánh sáng thế gian. Ngài đến thế gian để đốt lên ngọn lửa yêu mến và muốn lửa đó được bùng cháy lên. Chúa đã mở ra một chân trời mới trong công trình cứu độ. Tiên tri Isaia xưa đã loan báo rằng dân ngồi trong tối tăm đã thấy ánh sáng huy hoàng. Những người sống trong lầm than, nay thấy ánh sáng bừng lên chiếu soi cho toàn dân đang trong bóng tối sự chết.

Dân chúng đi trong tối tăm, đã thấy ánh sáng huy hoàng. Con người ngày ngày đã chế ngự bóng đêm bằng các phương tiện khoa học. Nơi nào có con người, nơi đó văn minh tiến bộ đã len lỏi vào. Họ đã có ánh sáng, có điện và đèn soi sáng. Khi chúng ta có cơ hội ngồi trên máy bay nhìn xuống lúc ban đêm, chúng ta thấy có ánh sáng chập chờn khắp các đại lục. Ánh sáng là dấu hiệu có sự hiện hữu của con người trên trái đất.

Quan sát, chúng ta nhận thấy những nơi văn minh sáng sủa nhất đã dần bị lu mờ bởi sự lạm dụng của con người. Lòng người đổi thay, ánh sáng bên ngoài càng sáng, thì ánh sáng trong lòng lại bị lu mờ vì tội lỗi, gian tham và bạo tàn. Bóng đêm của ma qủi đã theo vào nơi ánh sáng để tiêu diệt con người. Kinh nghiệm cho chúng ta thấy nơi nào càng văn minh, càng nhiều ánh sáng thì con người càng đi sâu vào bóng tối tội lỗi. Những thành phố lớn và những tỉnh lỵ giầu có thường là những nơi ăn chơi trụy lạc và tiêu xài hoang phí.

Chúa Kitô là ánh sáng đã đến thế gian, nhưng thế gian không muốn tiếp nhận ánh sáng. Chúa dọi chiếu ánh sáng vào tâm hồn khi chúng ta lãnh nhận phép Rửa Tội. Ngài mong ước ngọn nến cháy mãi và dọi chiếu ánh sáng trong tối tăm. Đó chính là ánh sáng đức tin. Ánh sáng đức tin cần đặt trên giá cao để soi sáng dẫn chúng ta đi.

Có gia đình nọ mời linh mục đến làm phép nhà. Chủ nhà hướng dẫn linh mục đi rẩy nước thánh các phòng ốc trong nhà. Chỗ nào cha thấy cũng sạch sẽ và ngăn nắp. Nên chỗ nào cha cũng rẩy nước thánh. Sau khi làm phép mọi nơi xong, tới khu hầm kho, bà chủ nhà chần chừ không muốn bước xuống và bà nói: Dưới đó lộn xộn và dơ dáy lắm cha ơi. Cha trả lời: Càng lộn xộn, càng dơ dáy thì càng phải làm phép. Phải đem ánh sáng vào chỗ tối tăm chứ.

Chúa mời gọi chúng ta hãy bước ra khỏi đêm tối và đi giữa ban ngày. Bóng tối là nơi rình rập của ma qủi. Chúng ta là con cái sự sáng, hãy bước đi trong ánh sáng của Chúa Kitô.

Về mục lục

.

NƯỚC TRỜI ĐANG ĐẾN

Lm Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Không thể phủ nhận một trong những chủ đề chính của lời rao giảng của Chúa Kitô đó là “hãy ăn năn sám hối” (x.Mt 4,17; Mc 1,15). Sám hối ăn năn không chỉ là nhìn nhận sự sai lầm trong thái độ, hành vi của mình, cũng không chỉ là ân hận về những lầm lỗi mình đã phạm, nhưng còn là một sự thay đổi tận căn lối sống của mình. Các nhà chú giải Kinh Thánh thường phân tích hạn từ “Metanoia”, nghĩa là nghĩ khác trước, đổi ý, đổi tâm tình, đổi não trạng…để khẳng định ăn năn sám hối là thay đổi cách ăn, nếp ở, thay đổi hướng đi, để trở về với Thiên Chúa, sống theo đường lối Thiên Chúa chỉ dạy.

Làm cho một người thay đổi lối sống quả là không dễ chút nào, nhất là khi lối sống ấy đã trở thành nếp do một quá trình hình thành từ lâu. Tuy nhiên, với Thiên Chúa thì mọi sự đều là có thể. Và một phương thế Thiên Chúa đã thực thi đó là chiếu giải ánh sáng tình yêu diệu kỳ. Sứ ngôn Isaia đã loan báo xưa: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng…”(Is 9,1). Ánh sáng ấy chính là tình yêu, là ân sủng mà Thiên Chúa đổ xuống trên họ, khi cho họ thoát khỏi ách gông cùm nô lệ. Thánh sử Matthêu đã lấy lại lời của sứ ngôn Isaia để áp dụng vào trường hợp dân chúng vùng Capharnaum, những người đang hưởng phúc lành của Chúa Giêsu, Đấng đi đến đâu thì giáng phúc thi ân đến đó (x.Cvtđ 10,38).

Để mời gọi các nhà lãnh đạo cũng như dân chúng sám hối ăn năn, thay đổi đời sống, thì các ngôn sứ ngày xưa thường nghiêng chiều việc cảnh báo về các tai hoạ do Thiên Chúa sẽ đoán phạt nhiều hơn là tình yêu và lòng từ nhân của Thiên Chúa. Vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước là Gioan tẩy giả cũng như vậy. Ngài nghiêm nghị cảnh báo nhiều người thuộc phái Pharisiêu và phái Sađốc: “Hỡi nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống…cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quẳng vào lửa” (Mt 3,7-10, x.Lc 3,7-18).

Chúa Giêsu thì trái lại, Người chủ yếu mạc khải về tình yêu vô bờ của Thiên Chúa để con người cảm mến, tin tưởng trở về. Các Tin Mừng Nhất lãm tường thuật lời rao giảng của Chúa Giêsu khi Người khởi đầu sứ vụ như sau: “Thời kỳ đã mãn, và Triều đại Nước Thiên đã đến gần. Anh em hãy sám hối và tin vào Tin Mừng” (Mc 1,15); “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4,17); “Hôm nay ứng nghiệm lời Kinh Thánh quý vị vừa nghe đó là: ‘Thần Khí Chúa ngự trên tôi, vì Chúa đã xức dầu tấn phong tôi, để tôi loan báo Tin Mừng cho kẻ nghèo hèn. Người sai tôi đi công bố cho kẻ bị giam cầm biết họ được tha, cho người mù biết họ được sáng mắt, trả lại tự do cho người bị áp bức, công bố một năm hồng ân của Thiên Chúa” (Lc 4,18-19). Tin Mừng thứ tư thì tuờng thuật việc Chúa Giêsu hoá nước thành rượu ngon tại một tiệc cưới ở Cana cho dù trước đó Người nói rằng giờ của Người chưa đến (x.Ga 2,1-12).

Trời càng sáng thì những chỗ bẩn, chỗ nhơ càng lộ rõ. Ân phúc của Thiên Chúa là ánh sáng giúp con người nhận ra thân phận tội lỗi của mình. Hơn thế nữa, tình yêu của Thiên Chúa chính là ánh sáng dẫn đưa con người quay bước trở về. Khi biết mình được yêu, được tha thứ, được đón nhận thì tội nhân sẽ can đảm chỗi dậy và đổi thay. Trên con đường chiếu giải ánh sáng thiên linh, Chúa Giêsu mời gọi một số người cộng tác là các tông đồ, các môn đệ. Người đã sai các vị đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời bằng việc chữa lành bệnh tật, xua trừ ma quỷ và chia sẻ ơn bình an (x.Mt 10,1-16).

Thiên Chúa yêu thế gian đến nỗi đã ban và sai Con của Người đến thế gian không phải để luận phạt thế gian nhưng để những ai tin vào Con của Người thì được sống muôn đời (x.Ga 3,16-17). Đến thế gian, một trong những sứ mạng chính yếu của Chúa Kitô đó là mạc khải chân dung Thiên Chúa là Cha toàn năng, Đấng đầy quyền năng và cũng là Đấng toàn thiện, toàn hảo, Đấng không chỉ “không dập tắt tim đèn còn khói, không bẻ gảy cây lau bị giập” mà còn “cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi sáng người công chính lẫn tội nhân”, Đấng khộng chỉ sẵn sàng bỏ chín mươi chín con chiên trên núi để đi tìm một con chiên lạc đàn mà còn sẵn sàng giang rộng cánh tay đón nhận đứa con đi hoang trở về, cho dù lý do nó trở về là để kiếm chút cơm canh lót dạ mà thôi (x.Mt 6,43-45; Lc 15).

Có thể nói rằng đường lối của Thiên Chúa chủ yếu là tỏ bày tình yêu để con người cảm mến, tin tưởng mà hoán cải, đổi thay. Tuy nhiên chúng ta cũng có thể nhận ra đây là đường lối chung của Thiên Chúa dành cho người bé mọn, kẻ yếu đuối, người tội lỗi, thấp hèn. Còn với một số ít người xem ra cố chấp, tự hào về tài năng, chức quyền hay về chút công trạng của mình mà ở lỳ trong tội, thì Chúa Kitô có vẻ nghiêm khắc cách khác thường. Nhiều người biệt phái, luật sĩ hay tư tế Do Thái thời bấy giờ ở trong trường hợp này. Và Chúa Kitô đã dùng những kiểu nói đanh thép để cảnh tỉnh họ như “khốn cho các nguơi”, hay “vô phúc cho các ngươi” (x.Lc 6,24-26; 11,37-52; Mt 23,1-36).

Cũng như các môn đệ năm xưa, chúng ta hôm nay được Chúa Kitô mời gọi làm kẻ chài “lưới người như lưới cá”. Để mời gọi tha nhân hoán cải ăn năn không gì hơn là hãy cho họ thấy Nước Trời đang ở giữa họ (x.Lc 17,21), tức là nỗ lực dệt xây một môi trường sống trong tình thương và chân lý, trong bình an và sự liên đới hiệp thông, thoát khỏi vòng kiềm tỏa của thần dữ. “Nếu Tôi dùng ngón tay Thiên Chúa mà trừ quỷ thì quả là Triều Đại Thiên Chúa đã đến giữa các ông” (Lc 11,21). Khi chúng ta tích cực gieo rắc ân tình, thì một cách nào đó, chúng ta làm cho người yếu đuối, kẻ tội lỗi nhận biết họ vẫn được yêu thương, được đón nhận. Tuy nhiên, chúng ta cũng đừng quên mạnh mẻ cảnh báo những ai vì quá tham danh, hám lợi hay vì cao ngạo mà cố chấp và cố tình ở lỳ trong tội, đồng thời gây cớ vấp phạm cho kẻ bé mọn, gây thiệt hại cho những người cô thân, phận bé. Nước Trời thường được Chúa Giêsu ví như bữa tiệc đầy sơn hào hải vị mà Thiên Chúa ban cách nhưng không (x.Mt 22,1-10), nhưng Nước Trời cũng được ví như tấm lưới kéo từ biển lên, cá tốt thì cho vào giỏ, còn cá xấu thì bị vứt ra ngoài (x.Mt 13,47-48).

Về mục lục

.

ƠN GỌI ĐÂU DÀNH ĐỂ RIÊNG AI

Lm Giuse Lê Quan Trung

Có lẽ do khởi đầu sứ vụ rao giảng công khai về Tin Mừng Nước Trời, Đức Giêsu đã tuyền chọn bốn môn đệ đầu tiên: Simon Phêrô-Anrê-Giacôbê-Gioan, mà sau này cả bốn vị đều trở thành Đức Giám Mục với vị đứng đầu là Đức Giáo Hoàng tiên khởi Phêrô, mà từ đó rất nhiều người, hễ nghe nói tới ơn gọi, là họ nghĩ ngay đến ơn thiên triệu, ơn gọi giáo sĩ, tu sĩ, ơn gọi dâng hiến, ơn gọi “độc thân vì nước trời”!

Cũng từ đó, nhiều thảm cảnh đã xảy ra trong các gia đình, họ tộc: không chấp nhận những đứa con đã đi dự tu, đã vào chủng viện, đã vô nhà dòng, mà còn dám cả gan bỏ Chúa, dám trở lại thế gian để lấy chồng, lấy vợ!

Họ coi đó là một nỗi ô nhục, một vết chàm tím bầm mà muôn đời không cách nào tẩy xóa được. Giận cho họ mà cũng thương cho họ biết bao!

Ý Chúa nào phải chỉ tuyển một ơn gọi đóng khung! Một ơn gọi tách biệt! Một ơn gọi riêng lẻ! Chúa muốn tất cả mọi người đều trở thành người thợ trong vườn nho của Chúa tùy theo khả năng, tùy theo tấm lòng, tùy theo sự lựa chọn của tự mỗi người mà! Không hiểu đúng ơn gọi sẽ không chọn đúng ơn gọi. Không chọn đúng, không thể nào sống đúng! Và nỗi bất hạnh chắc chắn sẽ xảy ra,chỉ là sớm hay muộn thôi!

1) Hạnh phúc đâu chỉ trong đời dâng hiến:

Lựa chọn nào cũng có mất mát. Tuyển lọc nào cũng có rụng rơi. Hạnh phúc nào phải cũng trả giá. Mộng mơ một hạnh phúc vẹn tuyền, toàn hảo, không đau đớn, không đánh đổi, không hy sinh, là một ảo vọng! Ngay bước khởi đầu khi được Chúa gọi mời,với bản chất tự nhiên và nhân bản,ai dám bảo bốn môn đệ tiên khởi đều thanh thản, vui vẻ, phấn khởi lên đường liền? Cũng phải đớn đau từ giã mẹ cha. Cũng phải đắng lòng rời con xa vợ. Cũng phải bịn rịn chia tay bạn hữu. Tình người chia cắt, phải dễ đâu một sớm một chiều! Trình thuật của thánh Matthêu ngắn gọn (Mt 4, 18- 4,22), nhưng sự lựa chọn của các ngài, quyết tâm theo Chúa của các ngài, bỏ lại sau lưng tất cả thân bằng quyến thuộc của các ngài, thật không đơn giản chút nào nếu ta đọc hết cả bốn tin mừng mà bốn thánh sử Matthêu, Maccô, Luca và Gioan đã ghi lại. Không ít lần họ đã bị thử thách mà thử thách đến tận cùng: bằng chính cái chết để thể hiện, để bảo vệ, để giữ trọn và để phát triển niềm tin của mình.

Chúa gọi nhiều, chọn ít! Ai cũng biết điều đó. Nhưng “ít” đây không có nghĩa là loại trừ nhóm không được chọn! Với Chúa, mỗi người Chúa giao những nén bạc riêng, trong những hoàn cảnh riêng, môi trường riêng, khả năng riêng. Hạnh phúc nhất chính là khi ta tìm gặp niềm vui nơi chính ơn gọi, vị trí, chổ đứng của mình trong ý định của Thiên Chúa với sự cộng tác tích cực của mình. Khi mình yêu thích công việc ấy và biết chắc, dẫu lựa chọn đó sẽ có thể một lúc nào đó gây cho mình nhiều đớn đau, nhiều buồn tủi, nhiều cam go, nhưng rồi mình sẽ đủ sức vượt qua vì tình yêu và niềm vui đã đủ lớn để trợ lực cho sự lựa chọn của mình.

2) Hạnh phúc đâu chỉ nếp sống hôn nhân:

Chỉ những ai đã từng nếm trải cuộc sống hôn nhân mới cảm nghiệm rõ một điều: hôn nhân không chỉ toàn là đóa hoa hồng hạnh phúc! Mà trong đó cũng có đủ vị cay đắng ngọt bùi! Không ít người đã quyết tâm hiến dâng đời mình để phục vụ Chúa và tha nhân trong nếp sống tu trì, nhưng rồi nữa đường gãy gánh, vì không lường trước hết cái giá phải trả của nếp sống ấy. Bởi một chút nản chí sờn lòng vì nhiệt tình phục vụ của mình không được đón nhận hay đáp ứng một cách tích cực, không cậy nương vào Chúa, không đủ tình với Chúa… Bến bờ tựa nương của họ sẽ là những luật bù trừ: đặt tình yêu của mình vào một đối tượng khác! Để rồi khi cơn khủng hoảng dịu lại,qua đi, hiểu được chuyện thì đã muộn màng! Bởi họ không lường trước được: hôn nhân đâu chỉ là những đóa hồng tươi! Gặp lúc nắng, hồng tươi cũng héo!

Ngay thuở ban đầu, Chúa đã liên kết con người bằng tình yêu giới tính, bằng kết hợp âm dương, bằng tình yêu nam nữ. Chính ơn gọi đó đã dẫn dần đến ơn gọi hiến dâng. Ai sống đúng ơn gọi của mình, người đó sẽ tìm thấy hạnh phúc đích thực! Dù ơn gọi gia đình hay ơn gọi dâng hiến, cái nào cũng có niềm vui và nỗi buồn, đắng cay và ngọt dịu, khó khăn và dễ dàng của nó. Miễn là ta thực sự yêu chính đời sống của ơn gọi đó, thì mầm hạnh phúc không ở đâu xa.

3) Hạnh phúc còn ở nhiệm vụ Chúa trao:

Ơn gọi hiến dâng, ơn gọi gia đình, là những ơn gọi đặc biệt mà Chúa trao ban và ta tự đón nhận để tìm hạnh phúc cho đời mình. Đã chọn, đừng luyến tiếc! Đã chọn, đừng “bắt cá hai tay”! Đã chọn, đừng ngậm ngùi tủi phận, đừng ân hận dày vò, đừng đắn đo ngó lại! Hạnh phúc nhất là hiểu đúng lời Chúa dạy! Sống đúng lời Chúa trao! Làm đúng lời Chúa dặn! Không dễ, cũng không khó, nếu ta biết: hạnh phúc thật của đời ta không có điểm dừng, điểm tận cùng, điểm kết thúc ở đời này, mà là ở cuộc đời mai hậu.

Làm tròn bổn phận và tìm được niềm vui trong bổn phận, đó đã là hạnh phúc!

Chu toàn nhiệm vụ được giao,là ta đã đáp ứng thật tâm lời mời gọi của Chúa: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4,19). Bài ca sứ vụ loan báo Tin Mừng Nước Trời của một ngư phủ chuyên nghiệp, của một thợ vườn nho lành nghề chính là đời sống tỏa rạng niềm vui và hạnh phúc trong chính đời sống chứng nhân nơi ơn gọi mà mình đang sống, làm tròn những bổn phận: chủ chăn nơi cộng đoàn đức tin, cha mẹ con cái trong gia đình, ban mục vụ, ban hành giáo, ca đoàn, lễ sinh, giáo dân trong giáo xứ và thấy mình luôn bình an, luôn hạnh phúc dù gặp không ít những trắc trở khi sống khi thực hiện những nhiệm vụ đó, là mình đã không bị lệch hướng trên con đường đáp lại lời Người!

Về mục lục

.

MỌI NGƯỜI LÀ CON CHÚA CẢ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

Những chuyến đi của con người …

Thuở ban đầu, Thiên Chúa tạo dựng con người có nam có nữ, Ngài đặt tên cho họ là Adam và Eva. Đó là cộng đồng Dân Chúa đầu tiên, là xã hội đầu tiên của nhân loại. Con người được sống trong một môi trường bình an và hạnh phúc.

Nhưng con người đã bỏ Chúa mà đi.

“Người đàn bà thấy trái cây đó: ăn thì phải ngon, trông thì đẹp mắt, và đáng quý vì làm cho mình được tinh khôn. Bà liền hái trái cây mà ăn, rồi đưa cho cả chồng đang ở đó với mình; ông cũng ăn. Bấy giờ mắt hai người mở ra, và họ thấy mình trần truồng: họ mới kết lá vả làm khố che thân.

Nghe thấy tiếng Đức Chúa là Thiên Chúa đi dạo trong vườn lúc gió thổi trong ngày, con người và vợ mình trốn vào giữa cây cối trong vườn, để khỏi giáp mặt Đức Chúa, là Thiên Chúa. (St.36-8).

Đó là chuyến đi đầu tiên của con người rời xa Chúa. Chuyến đi nội tâm đầy bất an và bất hạnh. Chúa vẫn ở bên con người, nhưng lòng con người đã khác, khoảng cách với Thiên Chúa đã xa. Và những ngày đầm ấm hạnh phúc bên Thiên Chúa đã lùi vào dĩ vãng.

“Đức Chúa là Thiên Chúa đuổi con người ra khỏi vườn Ê-đên để cày cấy đất đai, từ đó con người được lấy ra. Người trục xuất con người, và ở phía đông vườn Ê-đên, Người đặt các thần hộ giá với lưỡi gươm sáng lóe, để canh giữ đường đến cây trường sinh. (St.3,23-24).

Và dòng đời cứ thế trôi đi …

Con người lại tiếp tục vương những lỗi lầm, tiếp tục có những chuyến đi lìa xa Tình Chúa. Mầm móng kiêu căng và tham vọng tiếp tục sinh sôi nẩy nở trong thế giới nội tâm con người, Máu và nước mắt, khổ đau và tuyệt vọng tiếp tục tràn lan trong kiếp sống nhân sinh!

Đức Chúa phán với Ca-in: “Aben em ngươi đâu rồi?” Ca-in thưa: “Con không biết. Con là người giữ em con hay sao?” Đức Chúa phán: “Ngươi đã làm gì vậy? Từ dưới đất, tiếng máu của em ngươi đang kêu lên Ta! Giờ đây ngươi bị nguyền rủa bởi chính đất đã từng há miệng hút lấy máu em người, do tay ngươi đổ ra” (St.4,9-11).

Con người càng lúc càng lún sâu vào những suy nghĩ và hành động đen tối, tiến dần đến thái độ chối từ và chống lại Thiên Chúa. Và cũng vì thế, con người càng chia rẻ, phân tán. Không còn một nhân loại hiệp nhất, đệ huynh, quây quần bên Thiên Chúa.

“Nào! Ta hãy xây cho mình một thành phố và một tháp có đỉnh cao chọc trời. Ta phải làm cho danh Ta lẫy lừng, để khỏi bị phân tán trên khắp mặt đất”.

Đức Chúa xuống xem thành và tháp con cái loài người đang xây. Đức Chúa phán “Đây, tất cả chúng nó họp thành một dân, nói một thứ tiếng. Chúng mới khởi công mà đã như thế thì từ nay, chẳng có gì chúng định làm mà không làm được. Nào! Ta xuống và làm cho tiếng nói của chúng phải xáo trộn, khiến chúng không ai hiểu ai nữa”. Thế là Đức Chúa phân tán họ từ chỗ đó ra khắp nơi trên mặt đất, và họ phải thôi không xây thành phố nữa. Bởi vậy, người ta đặt tên cho thành ấy là Ba-ben, vì tại đó, Đức Chúa làm cho xáo trộn tiếng nói của mọi người trên mặt đất, và cũng từ chỗ đó, Đức Chúa đã phân tán họ ra khắp nơi trên mặt đất”. (St.11,3-9).

Và, con người mất dần hình ảnh Thiên Chúa trong lòng họ. Dần dần họ là trở thành Dân Ngoại, không còn niềm tin vào Thiên Chúa.

Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa, nhưng hình ảnh Thiên Chúa đã bị hiểu sai lầm, lệch lạc, mờ ảo, nhạt nhòa.

Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa với tấm lòng thành tâm, thiện chí, nhưng không biết con đường, không nhận ra hướng đi.

Cũng có những cuộc tìm về Thiên Chúa, nhưng niềm tin hòa lẫn cùng lợi lộc thế tục. Trắng đen, hư thực pha trộn, không biết đâu là chánh, đâu là tà!

Những chuyến đi của Thiên Chúa…

Ngay từ buổi ban đầu, sau khi con người sa ngã, Thiên Chúa vẫn yêu thương con người, dù rằng con người đã phản bội Thiên Chúa với quyền tự do chọn lựa của mình.

“Ta sẽ đặt hận thù giữa ngươi và người đàn bà, giữa dòng giống ngươi và dòng giống nó. Dòng giống nó sẽ đạp đầu ngươi, còn ngươi sẽ táp lại gót chân” (St.3,15).

Để thực hiện chương trình cứu chuộc con người, Thiên Chúa đã chọn cho mình một “Dân riêng” để chuẩn bị một chuyến đi viếng thăm nhân loại. “Thiên Chúa xuống thế làm người và ở cùng chúng ta”.

Hạnh phúc thay quốc gia được Chúa làm Chúa Tể. Hạnh phúc thay dân nào Người chọn làm gia nghiệp. (Tv.33,12).

Và, Ơn Cứu Độ đã đến với mọi nước, mọi dân, khởi đi từ Do Thái, dân riêng của Chúa.

Vì Ơn Cứu Độ là của mọi dân tộc, là của con người, Chúa Giêsu không thể chấp nhận sự tự hào đến mức kiêu căng tự phụ của Do Thái, đặc biệt là những người Pha-ri-sêu về việc họ là dân riêng của Chúa. Thái độ ấy dẫn đến hình ảnh một Thiên Chúa chỉ biết đến họ vì chỉ có họ mới xứng đáng và loại trừ tất cả mọi dân tộc khác, những dân tộc mà người Do Thái liệt vào dân ngoại và không được Thiên Chúa đoái thương.

“Thưa ông, tôi thấy ông thật là một ngôn sứ… Cha ông chúng tôi đã thờ phượng Thiên Chúa trên núi này; còn các ông lại bảo: Giê-ru-sa-lem mới chính là nơi phải thờ phượng Thiên Chúa”. Chúa Giêsu phán:“này chị, hãy tin tôi: đã đến giờ các người sẽ thờ phượng Chúa Cha không phải trên núi này hay tại Giê-ru-sa-lem. Các người thờ Đấng các người không biết; còn chúng tôi thờ Đấng chúng tôi biết, vì ơn cứu độ phát xuất từ dân Do Thái. Nhưng đã đến giờ – và chính là lúc này đây – giờ những người thờ phượng đích thực sẽ thờ phượng Chúa Cha trong thần khí và sự thật, vì Chúa Cha tìm kiếm những ai thờ phượng người như thế. (Ga 4,19-23).

Chúa Giêsu đã đến với mọi người. Thiên-Chúa-làm-người cứu độ tất cả mọi chúng sinh tin tưởng vào Ngài. Ngài là ánh sáng muôn dân. Ngài đem đến cho nhân loại hình ảnh Thiên Chúa là Cha và rất mực yêu thương con người.

Hỡi Galilê, miền đất của dân ngoại! Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. (Mt.4,15-16).

Và, Chương Trình Cứu Độ được tiếp tục mãi cho đến ngày Chúa đến. Chúa Giêsu đã tuyển chọn 12 môn đệ tiếp tục sứ mạng loan báo Tin Mừng Tình Thương của Thiên Chúa đối với con người. Sứ mạng ấy cũng chính là sứ mạng đem mọi người về với Chúa, đem mọi người trở về địa vị cao cả nhất và nhân bản nhất, đó là được làm con Thiên Chúa.

Có một chuyến đi quyết định, đó là chuyến đi của “Thiên Chúa viếng thăm dân người”. Đó là chuyến đi khởi đầu cho những chuyến đi trên mọi miền đất nước Do Thái.

“Đức Giêsu đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền. Đức Giêsu thấy đám đông, Người chạnh lòng thương, vì họ lầm than vất vưởng, như bầy chiên không người chăn dắt. Bấy giờ Người nói với các môn đệ rằng: “Lúa chín đầy đồng, mà thợ gặt thì ít. Vậy anh em hãy xin chủ mùa gặt sai thợ ra gặt lúa về”. (Mt. 9,35-38).

Và, bước theo Thầy Chí Thánh, các môn đệ tiếp nối sứ mạng của Chúa Giêsu, nhân danh Ngài, các ông đã thực hiện những chuyến đi đến khắp cùng bờ cõi trái đất để làm chứng nhân cho Giêsu, Đấng quy tụ nhân loại về một mối.

“Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc.16,15).

Tất cả, là vì mục đích: “muôn dân được thuộc về Chúa”, con người được trở về thuở ban đầu: “được làm con cái Chúa”.

Cuộc hành trình niềm tin chỉ cần sám hối và tin vào Chúa Giêsu, Đấng dẫn dắt chúng ta về với Chúa Cha, bến bờ hạnh phúc trong Vương Quốc Tình Yêu của Thiên Chúa.

“Thầy đã được trao toàn quyền trên trời dưới đất. Vậy anh em hãy đi và làm cho muôn dân trở thành môn đệ, làm làm phép rửa cho họ nhân danh Chúa Cha, Chúa Con, và Chúa Thánh Thần, dạy bảo họ tuân giữ mọi điều Thầy đã truyền cho anh em. Và đây, Thầy ở cùng anh em mọi ngày cho đến tận thế” (Mt.28, 18-20).

Cuộc trở về của con người.

Vườn Địa Đàng ngày nào, sau bao nhiêu năm “lưu lạc”, con người được quay trở về, được sống trong Tình Cha – Miền Đất Hứa – sau một đời lâm lụy ở trần gian.

Không còn là Dân Ngoại, Dân Riêng, tất cả là một trong Tình Yêu Thiên Chúa, nhờ Đức Giêsu Ki-tô, con người được quay quần trong thế giới yêu thương huynh đệ. Không có con đường nào khác ngoài con đường Tình Yêu mà Thiên Chúa đã vạch ra cho loài người.

Tất cả chúng ta, dầu là Do Thái hay Hy Lạp, nô lệ hay tự do, chúng ta đều chịu phép rửa trong cùng một thần khí để trở nên một thân thể (1Cr.17,21).

Đó là ước mơ của cả nhân loại sống hòa bình, hiệp nhất trong một Chân Lý Tình Yêu. Đó là Vườn Địa Đàng tìm thấy, hạnh phúc vô biên mà con người đã đánh mất ngày nào.

Chỉ một Chúa, một đức tin, một phép rửa. Chỉ có một Thiên Chúa, Cha của mọi người, Đấng ngự trên mọi người và trong mọi người. (Ep.4,5-6).

Lạy Chúa,

Xin cho niềm tin vào Giêsu được lan tràn khắp địa cầu,

Xin cho mọi người chúng con

can đảm loan truyền niềm tin vào Thiên Chúa,

Xin hiệp nhất chúng con nên một,

trong tình yêu của Ngài. Amen.

Về mục lục

.

ÁNH SÁNG HUY HOÀNG

Anmai

Chuyện kể rằng vào thời vua Akhát, con vua Giotham, cháu vua Útdigiahu, trị vì Giuđa, thì vua Aram là Rơxin, và vua Israel là Pecác, con ông Romangiahu, lên đánh Giêrusalem, nhưng không thể tấn công được. Tin dữ đến với nhà Đavít rằng: “Aram đã đóng quân ở Épraim.” Khi nghe được tin dữ ấy lòng vua cũng như lòng dân đều rung động như cây rừng rung rinh trước gió.

Thiên Chúa, mãi mãi yêu thương dân của Ngài nên rồi Ngài ra tay cứu dân. Ngài bảo với Isaia: “Ngươi hãy cùng với Sơa Giasúp, con ngươi, ra đón vua Akhát ở cuối kênh dẫn nước của hồ trên, phía đường dẫn tới cánh đồng Thợ Nện Dạ. Ngươi hãy nói với nhà vua: “Ngài hãy coi chừng, cứ bình tĩnh, đừng sợ, chớ sờn lòng trước hai cái đầu que củi chỉ còn khói đó, trước cơn giận sôi sục của Rơxin, vua Aram, và của người con Rơmangiahu. Vì Aram cùng với Épraim và người con Rơmangiahu đã mưu tính hại ngài và nói: “Ta hãy lên đánh Giuđa, làm cho nó khiếp sợ ta, và đặt con ông Tápên làm vua ở đó.”

Thiên Chúa không chỉ cứu dân Israel thoát khỏi bàn tay của Aram nhưng còn làm vẻ vang dân của Ngài ở miền bên kia sông Giođan – vùng đất của dân ngoại. Lời hứa ấy chúng ta vừa nghe Isaia thuật lại: “Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơvulun và đất Náptali, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Giođan, vùng đất của dân ngoại. Ơn giải thoát.

Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm. Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian”.

Có lẽ thời vua Akhát là thời mà dân cảm thấy hạnh phúc nhất vì lẽ không chỉ sống trong cảnh anh bình thịnh vượng mà còn được niềm vui. Niềm vui ấy tăng lên khi thắng trận mà còn được chia nhau chiến lợi phẩm, ách nặng không còn đè lên cổ và không phải chịu đòn roi của kẻ hà hiếp nữa. Và, hạnh phúc lớn nhất của họ là từ nay họ đã được ơn giải thoát, ơn cứu độ.

Hạnh phúc của dân thời ấy phải chăng cũng là hạnh phúc của vua Đavít ? Ở Thánh Vịnh 27 – Thánh Vịnh đáp ca mà chúng ta vừa đọc, vừa nghe lại chính là tâm tình, là nỗi niềm hạnh phúc của Đavít khi ông nhận ra Chúa chính là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của đời ông.

Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi,

tôi còn sợ người nào?

Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi,

tôi khiếp gì ai nữa?

Khi ác nhân xông vào, định nuốt sống thân tôi,

ai ngờ chính đối phương, chính những thù địch ấy,

lại lảo đảo té nhào.

Dù cả một đạo quân vây đánh, lòng tôi chẳng sợ gì.

Dù có phải lâm vào chiến trận, tôi vẫn cứ cậy tin.

Một điều tôi kiếm tôi xin,

là luôn được ở trong đền Chúa tôi

mọi ngày trong suốt cuộc đời,

để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang,

ngắm xem thánh điện huy hoàng.

Cuối tâm tình ấy của Thánh Vịnh 27, Đavit đã thốt lên:

Tôi vững vàng tin tưởng

sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.

Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào!

Hãy cậy trông vào Chúa.

Quả thật, nhìn lại cuộc đời của Đavít, chúng ta thấy hết sức hay và hết sức đặc biệt. Mang trong mình thân phận hết sức yếu đuối của con người, đã phạm trọng tội nhưng ông đã quay trở về với Thiên Chúa là Tình Yêu. Cảm nhận hay nói đúng hơn là xác tín của ông về một Thiên Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ là một xác tín mà chúng ta cần phải học hỏi, cần phải cảm nhận để nhìn nhận Chúa chính là nguồn ơn cứu độ và là nguồn ánh sáng thật của đời chúng ta chứ không phải là ai khác.

Thiên Chúa vẫn yêu thương, Thiên Chúa vẫn cứu độ con người bằng cách này cách khác. Thiên Chúa đã bày tỏ Tình Yêu của Ngài cho con người mọi lúc mọi nơi có thể được.

Một “ánh sáng” mà Thiên Chúa gửi đến cho cuộc đời đang lui vào bóng tối đó là Gioan Tẩy Giả thì một “ánh sáng” khác đó là Đấng Cứu Độ trần gian đã được gửi đến cho nhân loại.

Sau khi “ánh sáng” Gioan đến và làm chứng cho Ánh Sáng, cho Sự Thật đã bị thế gian đẩy lùi và thủ tiêu thì ánh sáng Giêsu đã đến để tiếp tục làm chứng cho Ánh Sáng thật, cho Sự Thật trên thế gian này.

Trước khi Chúa Giêsu nhập thể, thế gian ở trong tình trạng tối tăm và đáng sợ. Nhưng giữa tình trạng hãi hùng này đã vọng lên tiếng nói trấn an của Isaia, là vị tiên tri đã hứa với dân chúng rằng chẳng bao lâu nữa một ánh sáng vĩ đại sẽ xuất hiện để phá tan đêm tăm tối. Và lời hứa của tiên tri Isaia đã được thực hiện viên mãn khi Chúa Giêsu nhập thể.

Matthêu so sánh Chúa Giêsu đến và xuất hiện giữa cuộc đời như một ánh sáng huy hòang chiếu soi mọi người đang sống trong bóng đêm sâu thẳm. Matthêu thấy Chúa Giêsu là sự hòan thành lời tiên tri cao cả của Isaia: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hòang, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Chúa Giêsu đã từng vẽ nên sứ vụ của Ngài bằng những lời tương tự khi Ngài nói: “Ta là ánh sáng thế gian”.

Con người cũng như vạn vật cần có ánh sáng để sống, riêng với con người thì không những ánh sáng cần cho sự sống của thân xác mà còn giúp cho con người khỏi cô đơn. Bóng tối thường làm cho con người cảm thấy cô đơn và sợ hãi. Có nhiều thứ bóng tối trong cuộc đời chúng ta: bóng tối của ích kỷ, của ganh ghét, của hận thù, của đam mê. Càng giam mình trong những bóng tối ấy, chúng ta càng cảm thấy cô đơn và càng trở nên bệnh họan. Người nào càng sống ích kỷ, và người nào càng nghiền ngẫm đắng cay hận thù, người đó càng hạ giảm nhân tính của mình. Vì thế, chúng ta cần có ánh sáng để sống, để lớn lên trong tình người như để chữa trị những băng họai trong tâm hồn.

Lời của ngôn sứ Isaia nói xưa đã được Chúa Giêsu làm nên hiện thực. Chúa Giêsu chính là ánh sáng. Ngài đến để soi sáng cho kẻ ngồi trong bóng tối, ban niềm vui, niềm hy vọng sống cho tất cả mọi người. Chúa cũng muốn chúng ta khám phá ánh sáng của Ngài. Chúa mời gọi chúng ta cũng trở nên ánh sáng cho những người mà chúng ta gặp gỡ.

Trong cuốn Justs for today người ta có kể lại: ông J. Keller, một nhà diễn thuyết nổi tiếng, đang nói truyện trước trăm ngàn thính giả tại vận động trường Los Angeles, Hoa kỳ, đang diễn thuyết, ông bỗng dừng lại và nói: “Bây giờ xin các bạn đừng sợ, tôi sắp cho tắt tất cả các đèn điện trong sân vận động này”. Ông vừa dứt lời thì cả sân vận động chìm trong bóng tối. Nhà diễn thuyết nói tiếp: “Bây giờ tôi xin đốt một que diêm, những ai nhìn thấy que diêm tôi đốt, xin kêu lên: “Đã thấy”. Cả sân vận động vang dội tiếng: “Đã thấy”. Rồi tất cả đèn điện lại được bật sáng. Diễn giả giải thích: “Ánh sáng của một nghĩa cử sẽ chiếu sáng trong đêm đen của nhân lọai như thế. Một lần nữa, tất cả đèn điện lại tắt. Một giọng nói vang lên ra lệnh: “Tất cả những ai ở đây có đem theo diêm quẹt hãy bật lửa, xin hãy đốt cháy lên”. Bỗng chốc, cả sân vận động rực sáng. Diễn giả kết luận như sau: “Nếu tất cả chúng ta cùng hiệp lực với nhau, chúng ta có thể chiến thắng bóng tối của sự dữ, hận thù bằng những đốm sáng nhỏ của tình thương và lòng tốt của chúng ta”.

Ánh sáng Giêsu đến trần gian để xóa tan mọi hận thù, chia rẽ, tranh giành. Ánh sáng Giêsu đến thế gian để quy tụ tất cả mọi người nên hiệp nhất, nên một trong Tình Yêu của Ngài. Hiệp nhất, yêu thương cũng chính là tâm tình mà Thánh Phaolô mời gọi cộng đoàn Côrintô mà chúng ta vừa nghe: Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau. Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơlôe cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em. Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: “Tôi thuộc về ông Phao-lô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kêpha, tôi thuộc về Đức Kitô.” Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao?

Tâm tình Thánh Phaolô để lại hôm nay cũng là tâm tình hết sức dễ thương mà chúng ta phải học hỏi, phải bắt chước. Một khi đã nhận ra ánh sáng Giêsu trong đời mình thì khi ấy chúng ta cũng phải sống yêu thương, hiệp nhất, một lòng một ý với anh chị em đồng loại.

Hãy bắt đầu là ánh sáng của Giêsu ngay từ trong môi trường nhỏ bé là gia đình, là chòm xóm, là công sở, nơi xứ đạo của chúng ta.

Nguyện xin ánh sáng Giêsu đến và ở lại trên mỗi người chúng ta để ngày mỗi ngày chúng ta cũng chiếu tỏa ánh sáng Giêsu trong cuộc đời của mỗi người chúng ta.

Về mục lục

.

NƯỚC TRỜI ĐÃ ĐẾN GẦN

Jos. Hồng Ân

Loan báo Tin Mừng Nước Trời là sứ điệp quan trọng, nên Chúa Giêsu đã quên ăn, quên ngủ, không quản chi mệt nhọc, vất vả đi khắp các làng mạc, thành thị loan báo Tin Mừng, mời gọi mọi người ăn năn sám hối, đón nhận Nước Trời để được ơn cứu độ.

Chúa còn chọn gọi và sai các môn đệ ra đi rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa cho muôn dân nước.

Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin mừng, Chúa Giêsu đã kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” (Mt 4, 17). Chúa Giêsu muốn cho thấy tầm quan trọng của Nước Trời, điều kiện căn bản để đón nhận Nước Trời là phải sám hối, không sám hối thì không thể vào được Nước trời, Nước Trời chỉ dành cho những ai biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, sửa đổi đời sống để nên hoàn thiện và cầu xin Chúa tha thứ. Điệp khúc này được lặp đi lặp lại rất nhiều lần trong các lời giáo huấn của Ngài. Có trở về, có thay đổi, có sám hối con người mới vào được Nước Thiên Chúa. Sám hối là khởi điểm của cuộc hành trình đức tin Kitô giáo. Sám hối còn là chìa khoá để vào Nước Trời.

Chúa Giêsu dạy chúng ta phải ưu tiên tìm kiếm Nước Thiên Chúa trước hết, còn mọi thứ khác Ngài sẽ ban cho sau (x. Lc 12, 31). Ngài còn dạy: “Hãy bán của cải mình đi mà bố thí. Hãy sắm lấy những túi tiền chẳng bao giờ cũ rách, một kho tàng chẳng thể hao hụt ở trên trời, nơi kẻ trộm cắp không bén mảng, mối mọt cũng không đục phá” (Lc 12, 33). Nước Thiên Chúa là cùng đích đời người nên có giá trị tuyệt đối, phải đặt lên trên hết mọi sự, phải sẵn sàng hy sinh tất cả và bằng mọi giá để vào được Nước Trời (x. Mt 13, 44-46). Thánh Phaolô nói: “Những đau khổ chúng ta chịu bây giờ sánh sao được với vinh quang mà Thiên Chúa sẽ mạc khải nơi chúng ta” (Rm 8,18). Vì vậy, để vào được Nước Trời, chúng ta cần phải sám hối, từ bỏ những gì là xấu xa tội lỗi, từ bỏ những gì ngăn cản ta tìm kiếm Nước Trời. Từ bỏ những gì nước trần gian, nước của sa tan lôi kéo chúng ta như: tiền của vật chất, danh vọng địa vị, thú vui xác thịt. Chúng ta phải luôn chiến đấu với ba thù: ma quỷ, thế gian và xác thịt.

Sau khi kêu gọi dân chúng sám hối để đón nhận Nước Trời, Chúa Giêsu mời gọi các môn đệ, để các ông đi theo Người, cộng tác với Người rao giảng Tin Mừng Nước Thiên Chúa. “Người đang đi dọc theo biển hồ Galilê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-môn, cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. Ngài bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá” (Mt 4, 18-19). Các ông không so đo tính toán, không ngần ngại lên đường đi theo Chúa: “Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người” (Mt 4, 20). Chúa gọi các ông đi theo Người, không phải để thành lập một tập đoàn kinh tế hay chính trị. Nhưng là để các ông học hỏi nơi Người cách sống và làm việc, tất cả vì công cuộc loan báo Tin Mừng Thiên Chúa, tất cả vì hạnh phúc, vì phần dỗi của con người.

Chúa đi rao giảng Tin Mừng Nước Trời, Ngài không chỉ rao giảng trên môi miệng, mà còn bằng việc làm cụ thể, “Đức Giêsu đi khắp miền Galilê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân” (Mt 4, 23). Chúa rao giảng và chữa lành bệnh hoạn, tật nguyền phần hồn, phần xác, để giúp con người nhận ra giá trị đích thực của Nước Trời là được bình an hạnh phúc, không còn đau khổ, bệnh tật, không phải bom chen, cạnh tranh… Vì đó là sứ điệp quan trọng, nên trước khi về trời, Đức Giêsu đã truyền cho các tông đồ: “Anh em hãy đi khắp tứ phương thiên hạ, loan báo Tin Mừng cho mọi loài thọ tạo” (Mc 16, 15).

Ngày nay, tiếng Chúa nói “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần” vẫn còn vang vọng bên tai của chúng ta. Chúa vẫn kêu gọi, vẫn chữa lành để ta nhận ra chân giá trị của Nước Trời. Vậy mà ta vẫn bưng tai bịt mắt không nghe cũng chẳng nhìn, cho là Nước Trời còn xa tít trên chín tầng mây, nên không quan tâm, không để ý, không xem xét, vẫn mặt dày mày dạn, lòng chai dạ đá, không đáp lại lời mời gọi của Chúa, không chịu sám hối, vẫn tiếp tục đi trên con đường tội lỗi, vẫn tìm kiếm khoái lạc, tìm hưởng thụ, sống bất công, điêu ngoa, gian dối, lừa lọc, giận hờn ghen ghét, mưu mô sảo quyệt, đội trên đạp dưới làm hại anh em. Nhiều khi đi làm tông đồ cũng dựng bè kéo cánh, cũng tranh giành sự ảnh hưởng, tranh giành chỗ đứng, tranh giành nơi làm việc, dèm pha, nói xấu đủ điều…

Là Kitô hữu, chúng ta hãy đáp lại lời mời gọi của Chúa, biết sám hối, nhìn nhận tội lỗi của mình, từ bỏ tất cả những gì là tội lỗi xấu xa, quay trở về với Chúa, cầu xin Người thứ tha, để ta đón nhận Tin Mừng Nước Thiên Chúa và hưởng ơn cứu độ Người ban. Chúng ta cũng hãy cộng tác với Chúa ra đi loan báo Tin Mừng, kêu gọi mọi người ăn năn sám hối để đón nhận Nước Trời.

Về mục lục

.

XIN CHO ĐƯỢC LÒNG SÁM HỐI TỘI LỖI

Lm Trần Bình Trọng

Thánh Kinh Cựu ước và Tân ước có liên hệ mật thiết với nhau. Có thể nói những gì ghi chép trong Cựu ước đều được ứng nghiệm trong Tân ước.

Ngôn sứ Isaia trong Cựu ước hôm nay tiên báo: Dân đang lần bước giữa tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng (Is 9:1). Trong Phúc âm, thánh sử Mát-thêu nhận ra Ðức Kitô đã đến để hoàn thành lời ngôn sứ Isaia: Ðoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng (Mt 4:16). Ðức Kitô đến mang ánh sáng chiếu soi để loại trừ bóng tối: bóng tối lầm lạc và tội lỗi, gồm tội chia rẽ.

Thánh Phaolô nhận ra tín hữu Corintô đã làm lu mờ ánh sáng Ðức Kitô bằng cách phân tán thành bè phái trong cộng đoàn. Hôm nay thư thánh Phaolô gửi tín hữu Corintô ghi lại, giáo dân chia thành năm bè, bảy nhóm: Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Khêpha, tôi thuộc về Ðức Kitô (1 Cr 1:12). Ðiều đó khiến thánh Phaolô thắc mắc: Thế ra Ðức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi sao (1 Cr 1:13)? Những vấn đề tranh chấp giữa họ không thuộc phạm vi tín lý hay luân lý, nhưng chỉ là những khác biệt về tính tình và sở thích. Khi đã đến lúc phải chận đứng vấn đề phe nhóm trong giáo đoàn, thánh Phaolô bảo họ: Anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao? (1 Cr 1:13). Thánh Phaolô muốn nói với họ rằng họ chỉ chịu phép rửa nhân danh Ðức Kitô mà thôi.

Thánh Phaolô là người hơn ai hết hiểu được ý niệm thần học của nhiệm thể màu nhiệm Chúa Kitô. Trên đường đi xin uỷ nhiệm thư để bách hại người Kitô giáo, một luồng sáng từ trời chiếu toả quanh người, khiến Phaolô bị choáng váng, ngã xuống đất, ông nghe có tiếng phán bảo: Saolê, Saolê, tại sao nhà ngươi bách hại ta (Cv 9:4). Thực sự thì Phaolô chỉ bách hại người Kitô hữu mà thôi. Sau này nhờ suy niệm, cầu nguyện và được ơn thánh linh soi sáng, Phaolô hiểu được người Kitô hữu là phần chi thể trong nhiệm thể màu nhiệm mà Chúa Kitô là đầu. Cắt nghĩa theo ý niệm thần học của thánh Phaolô thì bách hại người Kitô hữu là bách hại chính Chúa Kitô. Trong bữa tiêc li, Chúa cầu nguyện cho các tông đồ và cho tất cả những người nghe theo lời giảng dạy của các tông đồ được hiệp nhất trong một Giáo hội mà Chúa đã thiết lập trên nền tảng đá thánh Phêrô. Người còn làm hơn nữa ngoài việc cầu nguyện. Người đã chịu chết để họ được hiệp nhất.

Nếu đưa mắt nhìn quanh, ta thấy bao nhiêu giáo phái Kitô giáo khác nhau trên thế giới được tìm thấy xuất hiện. Phái nào cũng mạo nhận là theo gót chân Chúa một cách trung thực. Ngoài Giáo hội Công giáo, còn có các Giáo hội Chính thống, các Giáo hội Ðông phương không hiệp thông với Giáo hội Công giáo và cả hàng trăm giáo phái Tin lành khác nhau. Nhiều người lập ra những giáo hội hay giáo phái Kitô giáo không hiệp thông với Giáo hội công giáo, lúc đầu cũng nằm trong Giáo hội Công giáo. Vì những lí do khác nhau như bất đồng quan điểm hoặc bất phục tùng, hoặc vì đam mê hoặc tham vọng cá nhân, đã tách rời khỏi Giáo hội Công giáo để lập những giáo phái riêng. Lịch sử giáo hội cho thấy nếu không ở lại hiệp nhất với Giáo hội mà chính Chúa đã thiết lập, người ta còn tiếp tục chia rẽ thêm nữa.

Trong tuần lễ cầu nguyện cho sự hiệp nhất Kitô giáo, mỗi người Kitô giáo cần nhận thức rằng việc chia rẽ phân tán trong thế giới Kitô giáo nói chung, và trong Giáo hội Công giáo nói riêng, đang làm suy yếu nhiệm thể Chúa Kitô, khiến cho việc rao giảng sứ điệp Phúc âm ít hấp dẫn đối với người ngoài Kitô giáo. Vậy sứ vụ của người Kitô giáo là cầu nguyện cho việc hiệp nhất giữa những người tin theo Chúa.

Người tín hữu cũng cần cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong chính Giáo hội Công giáo. Nếu muốn cổ võ sự hiệp nhất trong thế giới Kitô giáo, trước hết ta cần cầu nguyện cho sự hiệp nhất trong Giáo hội: Giáo hội duy nhất, thánh thiện, công giáo và tông truyền. Ðể được hiệp nhất, người công giáo cần tôn trọng quyền giáo huấn chính thức của giáo hội. Người tín hữu cần cầu nguyện cho các giám mục được hiệp nhất với Ðức Giáo hoàng là người kế vị thánh Phêrô. Người tín hữu còn cần cầu nguyện cho các linh mục được hiệp nhất với Giám mục bản quyền. Và người tín hữu cần biểu lộ sự hiệp nhất bằng lời nói, hành động và lời cầu nguyện.

Ðể được bước đi trong ánh sáng – ánh sáng chân lí – Chúa dạy phải sám hối (Mt 4:17), nghĩa là phải loại trừ bóng tối lầm lạc và tội lỗi. Sám hối theo nghĩa thánh kinh có nghĩa là từ bỏ nếp sống tội lỗi. Có những tội mà người ta phạm, và sở dĩ người ta phạm những tội đó, là vì người ta có vấn đề. Khi mà người ta đối đầu với vấn đề, người ta cần đem vấn đề ra ánh sáng. Trước hết người ta phải thú nhận rằng người ta có vấn đề, hay nói trắng ra là người ta có bệnh, thường là bệnh tâm lí. Không nhận mình có bệnh thì không thể nào được chữa khỏi. Khi người ta nhận mình có bệnh là người ta đã được chữa lành một phần. Bời vì khi nhận mình có bệnh, người ta mới tìm gặp thầy thuốc tâm linh để được chữa trị, hoặc người ta sẽ đọc sách tìm hiểu sao mình mắc bệnh đó và người ta cầu nguyện xin Chúa giải thoát mình khỏi bệnh.

Ðể đối chất với vấn đề, người ta cần đi qua ba giai đoạn. (1) Thứ  nhất tìm ra căn nguyên cội rễ tại sao mình có bệnh phạm tội đó. Lí do có thể là vì cô đơn, hoặc vì tò mò, ham muốn, tham lam, ghen tuông, đánh giá thấp về mình (low self-esteem), hoặc tự ti mặc cảm về phương diện nào đó, hoặc chưa thoả hiệp với chính mình, với những gì mình có, hoặc ước muốn chưa được toại nguyện.. Do đó mà người ta mới phạm tội để mong được toại nguyện. Người ta không ý thức được rằng tìm cách toại nguyện kiểu này thì không bao giờ toại nguyện được. (2) Thứ hai tìm cách phát triển những tài năng hay ưu điểm mình có để mình cũng có gì để hãnh diện, cũng có một thế đứng nào đó trong nhóm, hay trong cộng đồng hay trong xã hội, để mình có thể mãn nguyện về mình về phương diện nào đó. Người ta cũng có thể tình nguyện làm những việc bác ái xã hội nào đó để đem lại sự thoải mái về tinh thần hay thoải mái thiêng liêng cho đời sống. (3) Khi không phát triển được tài năng hay ưu điểm nào để được mãn nguyện, người ta phải học để chấp nhận: chấp nhận bản thân và hoàn cảnh, và học để biết đầu hàng ý mình, ý muốn và tham vọng của mình trước ý Chúa. Từ đó mình học để thiết lập mối liên hệ cá biệt và gần gũi với Chúa, hầu có thể cảm nghiệm được tình yêu của Chúa đối với mình.

Lời cầu nguyện xin cho ánh sáng chiếu rọi vào bóng tối lầm lạc và tội lỗi:

Lạy Chúa Giêsu, Con Một Thiên Chúa!

Chúa xuống thế chịu chết để giao hoà đất trời.

Chúa thiết lập Giáo hội trên nền tảng các tông đồ,

và đặt Phêrô làm người lãnh đạo.

Xin cho các giáo phái Kitô giáo được hiệp nhất

trong một nhiệm thể mà Chúa là đầu

để làm chứng cho chân lí Phúc âm.

Xin chiếu soi ánh sáng vào tâm trí và đời sống con

để con biết tìm ra đâu là sự thật, đâu là giả trá. Amen.

Về mục lục

.

TỪ CAPHANAUM, CHÚA GIÊSU XUẤT PHÁT THI HÀNH SỨ VỤ

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 8:23b – 9:3;  1 Cr 1:10-13, 17;  Mt 4:12-23)

          Sau những năm tháng sống ẩn dật tại Na-da-rét, Chúa Giê-su chịu phép rửa của ông Gio-an và từ nay Người dấn thân thi hành sứ vụ rao giảng Tin Mừng.  Đây là một sứ mệnh cao cả đòi hỏi người thi hành phải chuẩn bị kỹ lưỡng.  Vậy Chúa Giê-su đã chuẩn bị như thế nào?  Trước hết Chúa lựa chọn một địa điểm xuất phát, đó là Ca-phác-na-um miền Ga-li-lê.  Lý do chọn địa điểm này đã được ngôn sứ I-sai-a tiên báo (bài đọc 1).  Sau đó, Chúa Giê-su kêu gọi một số môn đệ sẽ được chính Người huấn luyện (bài Tin Mừng) để họ đi theo Người và tiếp tục sứ mệnh của Người sau này.  Chúa cũng kêu gọi chúng ta hôm nay làm môn đệ Người và sai đi rao giảng Tin Mừng, giống như Người đã sai thánh Phao-lô đến với dân ngoại (bài đọc 2).

          Chọn Ca-phác-na-um làm trung tâm truyền giáo tiên khởi.  Có lẽ chúng ta thắc mắc tại sao Chúa Giê-su không chọn Giê-ru-sa-lem hay một thành nổi tiếng khác mà lại chọn Ca-phác-na-um làm nơi xuất phát truyền giáo.  Trước hết chúng ta hãy theo dấu chân Chúa sau khi Người chịu phép rửa của ông Gio-an.  Người lui vào hoang địa và chịu ma quỷ cám dỗ.  Sau đó, nghe tin ông Gio-an bị bắt, Người “lánh qua miền Ga-li-lê” về lại Na-da-rét, rồi Người rời Na-da-rét đến ở Ca-phác-na-um, để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a tiên báo về Ga-li-lê.  Vậy ngôn sứ báo trước rằng tại Ga-li-lê, “đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.  Miền Ga-li-lê là hình ảnh ám chỉ thế giới của những kẻ tội lỗi và phải chết.  Vì thế, khi Chúa Giê-su xuất hiện để đem nhân loại ra khỏi cảnh tối tăm của tội lỗi và khỏi vùng bóng tối của sự chết, thì Người chính là ánh sáng huy hoàng và ánh sáng bừng lên chiếu rọi.  Thế là tại Ca-phác-na-um, ngay giữa Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại, Chúa Giê-su bắt đầu sứ vụ rao giảng và nói rằng:  “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”.  Người làm như thế là “để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a đã nói”.

          Sau khi đã chọn nơi xuất phát và bắt đầu rao giảng, Chúa Giê-su nhìn tới con đường lâu dài, nên Người nhận thấy một việc khác cần phải làm, là kêu gọi môn đệ.  Ca-phác-na-um và vùng lân cận đâu phải là đất văn vật, nên làm gì có kẻ học rộng tài cao.  Thôi thì có gì xài nấy.  Hơn nữa, công việc rao giảng Tin Mừng không đòi phải có những người tài giỏi, mà cần những người nhiệt thành và trung kiên.  Cho nên những người đầu tiên “lọt mắt xanh” của Chúa là những người địa phương làm nghề đánh cá gồm hai cặp anh em là Si-môn và An-rê, Gia-cô-bê và Gio-an.  Chúa chỉ đòi hỏi họ làm một điều là hãy đi theo Người, rồi mọi sự sau đó để Người lo.  Họ sẽ lên đường cùng với Người, quan sát và học hỏi trực tiếp với Người.  Cuộc huấn luyện “tại chỗ” quả thực tuyệt vời, vì nó không chỉ trao lại những kinh nghiệm của ông thầy, mà còn tạo mối tương quan thầy trò mật thiết nữa.  Kết quả sau này cho ta thấy rõ tài của Chúa Giê-su “làm cho họ thành những kẻ lưới người như lưới cá”!  Tới đây, chúng ta lại thấy Mát-thêu lập lại điệp khúc:  Thế rồi Chúa Giê-su “đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân”.

          Đúng vậy, Người đã bắt đầu tại Ca-phác-na-um, rồi từ đây Người đi khắp miền Ga-li-lê để thi hành sứ vụ.  Lộ trình của việc thi hành sứ vụ bắt đầu từ Ca-phác-na-um đến khắp miền Ga-li-lê và còn đi xa mãi cho đến khi dừng lại trên đồi Can-vê tại Giê-ru-sa-lem.  Trên con đường truyền giáo ấy, dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần, Chúa Giê-su luôn trung thành và vâng lời Chúa Cha để khởi sự, ra đi, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, chữa lành, và cuối cùng chấp nhận cái chết khổ nhục trên thập giá.

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Ngôn sứ I-sai-a và thánh sử Mát-thêu vừa kể lại cho chúng ta nghe những ngày đầu Chúa Giê-su thi hành sứ mệnh.  Bây giờ đến lượt thánh Phao-lô dạy chúng ta tiếp tục sứ mệnh rao giảng Tin Mừng của Chúa Giê-su như thế nào.  Phao-lô đã có rất nhiều kinh nghiệm truyền giáo và rao giảng Tin Mừng.  Thành công đã nhiều, nhưng thất bại cũng không ít.  Phao-lô nhìn bổn phận của Ki-tô hữu rao giảng Tin Mừng cách rất thực tế, không phải bằng tài ăn nói trình bày, nhưng họ phải tạo thành một cộng đoàn “nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ, nhưng sống hòa thuận, một lòng một ý với nhau”.  Thực hiện được như vậy, Ki-tô hữu sẽ để lại cho những người chưa nhận biết Chúa và chưa được nghe Tin Mừng một câu hỏi lớn lao:  Có điều gì đặc biệt nơi người Ki-tô hữu giúp họ có được một cộng đoàn tuyệt vời như vậy?  Chắc chắn ở đây thánh Phao-lô đã học được bài học của cộng đoàn Ki-tô tiên khởi Giê-ru-sa-lem và đem áp dụng cho anh chị em tín hữu Cô-rin-tô.  Tại Giê-ru-sa-lem, dân chúng ngạc nhiên khi thấy các Ki-tô hữu thương yêu giúp đỡ lẫn nhau, để rồi nhờ vậy có rất nhiều người đã trở lại đạo (Cv 2:42-47).  Bản thân thánh Phao-lô đã có kinh nghiệm rao giảng Tin Mừng không phải bằng lời lẽ khôn khéo như tại Athêna, Hy-lạp (Cv 17:22-34), nhưng bằng lối sống Ki-tô hữu đích thực là bác ái yêu thương.  Do đó, ngài mới khuyên tín hữu Cô-rin-tô như vậy.  Với chúng ta hôm nay, hãy tự hỏi:  Tôi bắt đầu rao giảng ở đâu và phải rao giảng thế nào?

Về mục lục

.

SÁM HỐI THÌ MỚI ĐƯỢC CỨU ĐỘ

Jos.Vinc. Ngọc Biển

Trong 4 Tin Mừng được viết lại cuộc đời Chúa Cứu Thế, thì thánh sử Mátthêu đặc biệt nhắm vào người Dothái thời bấy giờ. Vì thế, ngài thường trưng dẫn những điều đã được tiên báo trong Cựu Ước để làm toát lên sự nối tiếp giữa Cựu Ước và Tân Ước, ngõ hầu hậu thuận cho việc chứng minh Đức Giêsu chính là Đấng Thiên Sai đã được các ngôn sứ loan báo trước đó.

Thế nên, hôm nay, thánh sử Mátthêu đã làm toát lên sự tiếp nối giữa Gioan và Đức Giêsu ngay sau khi Gioan kết thúc thì Đức Giêsu khởi đầu. Nhưng có lẽ lời giáo huấn về sự sám hối và sứ vụ truyền giáo là đề tài quan trọng hơn cả!

Chính vì điều này mà trình thuật Tin Mừng cho chúng ta thấy chủ đích của Đức Giêsu khi lựa chọn Capharnaum để loan báo Tin Mừng đầu tiên, đồng thời, cũng cho thấy được nội dung quan trọng của lời rao giảng này.

  1. Tại sao Đức Giêsu lại chọn Capharnaum là nơi khởi đầu sứ vụ?

Khởi đầu sứ vụ công khai của Đức Giêsu và cũng là khởi đầu hành trình truyền giáo, Đức Giêsu đã chọn Capharnaum là trung tâm truyền giáo. Có nhiều lý do để Ngài chọn nơi này mà không chọn nơi khác! Một trong những lý do chính là bởi vì dân này là một dân ngoại và đã được tiên báo từ thời Cựu Ước để đón nhận Tin Mừng: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu soi”. Tại sao lại có lời loan báo này? Thưa, vì dân Capharnaum là một dân ô hợp từ nhiều nơi hội tụ về. Họ đến đây sau khi dân Israel bị lưu đày ở Babylon.

Chính vì là dân tứ xứ, nên họ bị coi là dân ngoại. Khái niệm dân ngoại đối với Capharnaum không chỉ về địa dư hành chính là cách xa đền thờ Giêrusalem, mà họ còn bị coi là dân ngoại khi những truyền thống của cha ông bị lơ là.

Thật vậy, người Galilê không mặn mà với những lễ nghi truyền thống của tổ tiên. Vì thế, lẽ tất yếu, họ bị những người Dothái coi thường và khinh bỉ vì đã không sống những tập tục của tiền nhân.

Tuy nhiên, điều đáng quý của người Galilê và đặc biệt là dân thành Capharnaum này chính là sự chân tình, cởi mở và hiếu khách. Chính vì điều này mà họ dễ dàng đón nhận Đức Giêsu cũng như tiếp nhận những giáo huấn mới mẻ của Ngài. Đây có lẽ là lý do chính yếu mà Đức Giêsu đã dễ dàng thâu nhận được 4 môn đệ đầu tiên tại nơi đây để cùng Ngài tiếp nối sứ vụ loan báo Tin Mừng.

  1. Nội dung của lời rao giảng

Đề tài sám hối chính là nội dung lời loan báo đầu tiên và quan trọng của Đức Giêsu khi khởi đầu sứ vụ.

Nếu Gioan đã loan báo về đề tài sám hối để chuẩn bị dân dọn lòng chờ đợi Đấng Cứu Thế, thì khi Đức Giêsu đến, Ngài mời gọi họ không phải sám hối để đón Ngài ngự đến nữa, vì Ngài đã đến và hiện diện giữa dân của Ngài, nhưng Ngài mời gọi họ hãy sám hối vì “Nước trời đã đến gần”.

Sự tiếp nối của Gioan và Đức Giêsu về đề tài sám hối hé mở cho chúng ta thấy tầm quan trọng của sứ điệp. Có thể nói: sám hối chính là điều kiện tiên quyết để được vào Nước Trời. Ngược lại, nếu không sám hối thì sẽ chẳng bao giờ thuộc về công dân của Nước Hằng Sống.

Vậy, tại sao phải sám hối?

Khi nói đến sám hối là nói đến sự trở về. Trở về tức là từ bỏ con đường, lối sống, cung cách, quan niệm cũ để đón nhận một cái gì đó mới và hợp hơn.

Thật vậy, có những người đi sai một con đường, cần phải trở về và khởi đầu lại thì mới có thể tới đích.

Cũng có người sống theo lối sống xưa kia mà nay không còn phù hợp, nên cần thay đổi.

Lại có người có những cách hành xử chỉ hợp với người này mà không hợp với người kia; chỉ hợp với nơi này mà không phù hợp với nơi khác, vì thế, cần thích ứng và hội nhập để cho phù hợp với đối tượng và nơi chốn mình hiện diện.

Và cũng không thiếu những người khư khư giữ quan niệm của riêng mình mà đâu biết rằng điều đó không thể áp dụng và hấp dẫn đối với thời cuộc…

Chính vì điều đó, nên cần trở về mới mong đạt tới đích, nếu không trở về, có lẽ sự phấn đấu của mình chỉ là công dã tràng! Ở điểm này, thánh Augustinô đã nói: “Chạy nhanh đấy nhưng lạc đường.

Đại triết gia thời cổ Hylạp xưa, ông Platon, đã nói: “Người chạy thì bao giờ cũng phải tới đích. Nếu không tới đích thì chạy mau lẹ đến đâu cũng bằng vứt đi”.

Tuy nhiên, làm cách nào để sám hối có hiệu quả? Thưa, đơn giản, đó là: phải biết khiêm nhường nhìn nhận mình là người bất toàn, thiếu xót và bất xứng.

Đây cũng là điều kiện cần để mình được lớn lên theo khuôn mẫu của Thiên Chúa, bởi vì, càng khiêm tốn, con người càng giống Thiên Chúa.

Khiêm tốn là biết mình. Biết những mặt mạnh và mặt yếu của mình. Cổ nhân thường nói: “Khôn chết, dại chết, biết là sống”.  Chính vì thế, ông Socrate đã mở đầu triết thuyết của mình bằng câu châm ngôn nổi tiếng: “Anh hãy tự biết mình” (Connais-toi, toi même).

Có lẽ nhiều người vẫn tự hào rằng mình biết nhiều thứ, nhưng biết mình tưởng chừng là dễ dàng, bởi vì nó gần mình hơn ai hết, nhưng thật ra lại là khó nhất, bởi lẽ có nhiều người cả đời vẫn không biết mình!

Vì thế, không lạ gì khi có người nói: “Không ai biết khuôn mặt thật của mình bao giờ, họa chăng có biết là biết qua một trung gian chiếc gương. Tuy nhiên, điều đó cũng không phải thật 100%”.

Tương tự như thế, về phần linh hồn con người cũng khó có thể biết được nếu không có ơn Chúa và Giáo Huấn của Người soi dẫn. Như vậy, Lời Chúa và ơn Chúa Thánh Thần là điều cần thiết trong việc giúp cho con người nhận ra điểm yếu của mình để chấn chỉnh và sửa sang cũng như thay đổi, vì: “Lời Chúa là đèn soi cho chúng ta bước, là ánh sáng chỉ đường chúng ta đi”.

  1. Sống Sứ điệp Lời Chúa

Trong đời sống đạo hiện nay của mỗi chúng ta, dù là cá nhân hay tập thể… nhiều khi rơi vào tình trạng ghen tương, đố kỵ, ích kỷ, dã tâm … tất cả do thói kiêu ngạo, hóng hách chỉ đạo. Đây cũng chính là mầm mống gây nên những chia rẽ, bất hòa trong gia đình, đoàn thể và xã hội.

Oái oăm thay! Sự thật ấy ít người biết đến, hay nếu có biết đến thì cũng cố chấp và không chịu thay đổi để đón nhận điều tốt hơn! Vẫn còn đó những người đang đi sai đường, trật lối nhưng thay vì quay trở về để khởi đầu một hành trình mới nhằm đạt tới đích, ngược lại họ tiếp tục lún sâu trong cái tôi ích kỷ của chính mình để rồi dẫn đến tình trạng nằm ù lỳ trong vũng lầy êm ái của tội và rơi vào tình trạng: “Mù dắt mù cả hai cùng sa xuống hố”.

Sứ điệp Lời Chúa hôm nay mời gọi chúng ta hãy biết sám hối để được cứu độ. Hơn nữa, cần phải sám hối để trở thành khí cụ của sự hiệp nhất và lòng thương xót của Chúa nơi anh chị em.

Ước mong sao lời mời gọi của Đức Giêsu khi xưa cho người đương thời với Ngài về lòng sám hối ăn năn, thì cũng là lời mời gọi, hối thúc cho mỗi chúng ta hôm nay.

Lạy Chúa Giêsu, lời Chúa hôm nay đã khẳng đinh: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Xin cho chúng con hiểu rằng: “Nếu không sám hối thì không thể được cứu độ”. Vì thế, xin Chúa giúp cho chúng con nhận ra sự yếu đuối của bản thân, ngõ hầu có được một tâm hồn khiêm nhường thẳm sâu để đáng được hưởng dồi dào ơn thánh của Chúa và được đi trong đường lối của Người để đạt tới đích là quê trời vĩnh cửu. Amen.

Về mục lục

.

TRỞ VỀ GALILE VÀ KÊU GỌI CÁC MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN

Học viện Giáo hoàng Piô X Đà Lạt

CÂU HỎI GỢI Ý

1. Thành ngữ “Galilê các dân ngoại (4,15) gợi lên điều gì đối với người đương thời của Chúa Giê-su và Mt? Phải chăng đó là một sự khai mở có tính cách phổ cập, theo viễn tượng đã được phác họa ở chương 2?

2. Mt muốn diễn tả gì khi đặt ngay đầu sứ vụ Chúa Giêsu trình thuật quá giản lược về việc gọi bốn môn đồ đầu tiên (4, 18- 22)? Đặc biệt đâu là mối liên lạc giữa nổ với bản toát lược hoạt động của Chúa Giêsu (4, 23- 25) và với diễn từ kế tiếp (ch. 5- 7)?

Xét về phương diện văn chương, đây là một bản toát lược trước hoạt động của Chúa Giêsu suốt cả giai đoạn tương ứng với phần đầu Tin Mừng Mt (4, 18- 16, 20) Mt trình bày cho thấy Người khai mạc sứ vụ tại Galilê, sau biến cố quyết định là việc tống giam Gioan Tẩy giả. Chính trong giai đoạn sứ vụ tại Galilê này mà các tác giả Nhất lãm đã thu gộp lại điểm chính yếu của nhưng gì các ông tường thuật về ngôn hành của Chúa Giêsu.

CHÚ GIẢI CHI TIẾT

“Nghe tin Gioan bị tống giam”, dịch sát chữ : “Nghe nói Gioan đã bị nộp” (so sánh với Mt 10, 4 ; 17, 22 ; 20, 18- 19 ; 26, 2 : trong tất cả các đoạn vừa kể, Mt dùng chữ “bị nộp”, parêdothê để nói về Con Người như ở đây, điều đó ngụ ý Gioan Tẩy giả và Chúa Giê-su có chung một số phận): Thể thụ động ngầm bảo rằng biến cố xảy ra do ý muốn Thiên Chúa; chương trình của Thiên Chúa hoàn tất nơi Gioan, như  nơi Chúa Giêsu sau này. Hơn nữa, cả hai sứ vụ đều liên kết làm một trong chương trình Thiên Chúa: Chúa Giêsu khởi đầu hoạt động công khai của Người vào lúc Thiên Chúa chấm dứt hoạt động Gioan.

“Người trở lại”, dịch sát chữ: “Người lui về” (anachoreô): Tại Giuđê, Chúa Giêsu như ở trong pháo đài của Do thái giáo chính thức, mà đại diện là nhóm Saducêo và Biệt phái. Hạng người sau, tích cực hơn dịch thủ họ nhiều, hằng quan tâm gây ảnh hường tôn giáo trên dân và tỏ ra nghi ngại những ai không xuất thân từ trường của họ. Để chống lại Chúa Giêsu, họ đã vạch trần gốc tích Galilê của Người (x. Ga 7, 52: “Không một ngôn sứ nào đến từ Galilê cả”). Việc tống giam Gioan Tẩy giả có thể đã khuyến khích họ loại trừ Người nữa luôn. Thấy mình ở trong một vùng bất an, Chúa Giê-su có lẽ đã quyết định khai mạc thực sự sứ vụ Người tại Galilê. Trong vùng này, là vùng cách biệt Giuđê về phượng diện địa dư và chính trị, ảnh hưởng của Hội đồng Công tọa và của biệt phái khá yếu ớt. Khi lại sử dụng ở đây động từ anachoreô (rút lui, lui về) có lẽ Mt muốn ngụ ý (như ở 2, 12 ; 9, 24 ; 12, 15 ; 15, 21 v.v) rằng sự cứng lòng của miền Giuđê (do ảnh hưởng Biệt phái), biểu lộ qua việc khước từ Gioan Tẩy giả, đã bắt buộc Chúa Giêsu phải ngỏ lời với “Galilê của dân ngoại”.

“Rời Nadarét”, dịch sát chữ: “Bỏ Nadarét”, không có nghĩa là Chúa Giêsu, khi trở về Galilê, viếng Nadarét trước rồi sau đó bỏ quê hương. Mt chỉ nhấn mạnh trong Người không” muốn chọn quê hương mình như khởi điểm xuất phát sứ vụ, nhưng là Caphamaum. Chi tiết này chắc hẳn không phải chỉ là một chú thích địa dư. Nó nhắm chuẩn bị cho sấm ngôn Is nơi các 13-14, y như chi tiết “ven bờ biển” vậy. “Trong địa hạt Dabulôn và Neptháli.”: Caphamaum ngày xưa nằm trong vùng định cư của hai bộ lạc Dabulôn và Nepthali (Gs 19, 10- 16. 32- 39). Vào thời Chúa Glêsu, không còn lối phân chia lãnh thổ như thế nữa; do đó sẽ chẳng hiểu được lời quy chiếu này nếu không có câu trích dẫn Isaia đi liền theo sau đề cập tới đất Dabulôn và đất Nepthali.

Sở dĩ Mt muốn móc nối với Isaia ở câu 14 như vậy, là vì muốn trả lời cho một vấn nạn về Galilê, khởi điểm và sân khấu chính của hoạt động Chúa Giêsu. Tại sao Chúa Kitô đã dành phần lớn thời gian Người cho cái vùng heo hút này, nơi đã chẳng có một ngôn sứ nào của Thiên Chúa xuất thân? Thưa vì theo kế đồ Thiên Chúa (được công bố qua sấm ngôn Isaia), Đấng Messia phải thi hành sứ vụ Người tại Galilê.

Các câu 15- 16 trích dẫn Is 8, 23- 9, 1 là đoạn trực tiếp liên hệ đến hay bộ lạc cổ Israel dã chiếm giữ phần lớn miền Galilê và đã bị quân Assyri sáp nhập năm 734. Dưới ách Hy-lạp vào thời các vua nhà Séleucos, họ bị dân ngoại bao vây tứ bề. Công cuộc giải phóng mà ngôn sứ loan báo cho họ, Mt thấy được thực hiện trong sứ vụ Chúa Giêsu; Thật vậy, trong Is 8 và 9, không chỉ có vấn đề giải phóng quân sự và chính trị, nhưng còn giải phóng khỏi “tối tăm” và “sầu khổ” do việc các bộ lạc cổ ấy hoàn toàn bị lương dân xâm nhập. “Galilê các dân ngoại” là tên biểu thị đám dân hỗn tạp của vùng Galilê này, đối nghịch với chủng tộc tinh tuyền của miền Giuđê. Ở đây “Galilê các dân ngoại” xuất hiện như biểu tượng của việc triệu tập phổ quát: đó là đất hứa được phô bày cho Chúa Giêsu, Israel đích thực, sau thời gian Người cư trú ở hoang địa và vượt qua sông Giođanô. Ta gặp nơi đây một trong các chủ đề ưa thích của Mt: sứ vụ của Chúa Giêsu trước tiên được dành cho “các chiên lạc nhà Israel” (10, 6; 15, 24) nhưng vẫn liên hệ sâu xa với dân ngoại. Câu “Dân ngồi trong tối tăm” tóm tắt một cách tượng trưng tình trạng ngoại giáo hóa ấy của vùng Galilê, tức tình trạng thiêng liêng của những người Do thái trong vùng. Một ánh sáng lớn lao”:”ánh sáng” xuất hiện ở đây tại Galilê và tỏ lộ cho các môn đồ trong cuộc Biến hình (17, 2) là ánh sáng tiên báo cuộc Phục sinh của Chúa Kitô.

“Từ bấy giờ, Chúa Giêsu bắt đầu …”: câu này đánh dấu khởi điểm chính thức của sứ vụ Chúa Giêsu và sự viên mãn của thời gian. Thành ngữ sẽ chỉ trở lại nơi 16, 21 để loan báo cuộc khởi hành của Chúa Giêsu tiến về Giêrusalem để chịu tử nạn. Do đó, đối với Mt, việc loan báo Nước Trời đã nằm vào trong lộ trình đau khổ. “Hãy hối cải vì Nước Trời đã gần bên”: Kiểu nói tổng hợp này của Mt giống y kiểu nói ở 3,2 (Gioan Tẩy giả) và ở 10, 7 (huấn thị cho môn đồ sắp đi truyền giáo). Nó khẳng định tính cách liên tục giữa việc rao giảng của Gioan, là bước chuẩn bị cho việc Chúa Giêsu rao giảng, với việc rao giảng của các môn đồ, là sự tiếp nối sứ điệp của Thầy họ.

Thành ngữ lạ lùng “Nước Trời” (hầu hết như vậy trong Mt) phản ảnh não trạng Do thái đương thời, cái não trạng tránh đọc tên Thiên Chúa vì tôn kính Ngài. Như thế có lẽ nó sao lại thành ngữ Chúa Giêsu đã dùng. Còn “Nước Thiên Chúa” (Mc và Lc) hình như phát xuất từ việc sửa đổi thành ngữ nguyên thủy để thích ứng với thế giới Hy lạp. Chủ đề này có nét nổi bật là quyền cai trị của Thiên Chúa và do đấy đương nhiên bao hàm ý tưởng một cộng đoàn được Thiên Chúa điều khiển. Chúa Giêsu đã công bố Nước Thiên Chúa ấy sẽ đến (Mc 14, 25; Lc 11, 2 ..) nhưng cũng đã tới rồi trong sứ vụ và trong bản thân của Người (Lc 7, 18- 23 ; 10, 23tt …). Hai lý thuyết cực đoan hiện thời, cánh chung luận tương lai (hậu kết) vây cánh chung luận hiện tại, đều đưa vào loạt bản văn đầu hay loạt bản văn sau (về ý niệm nước Trời ” này, xin xem chú thích dài của BJ).

Eggiken, thì quá khứ của động từ eggizô, là một trong những tiếng của Tân ước được tranh luận nhiều nhất hiện nay. Phải dịch nó là “đã gần bên” hay “đã tới rồi”? Eggizô (do egguạ, “gần “) tự nó có nghĩa là “đến sau, tới gần “, nghĩa tán trợ cho lối dịch thứ nhất. Song C.H. Dodd lại quả quyết eggiken là tiếng phiên dịch. từ một động từ Aram có nghĩa “đến, đạt thấu”. Lối giải thích của Dodd, “Nước trời đã tới.”, cũng có thể đúng, nhưng phần lớn các nhà chú giải thích ‘kiểu dịch “Nước Trời đã gần ” hơn.

“Hãy hối cải”: Việc Chúa Giêsu khai mạc Nước Trời tạo thành giây phút tột đỉnh của lịch sử cứu rỗi. Trước lời mời gọi ấy của Thiên chúa, mỗi người đều bị bó buộc phải dứt khoát chọn lựa. Việc đáp lại lời Ngài phải biểu lộ ra bằng lòng thống hối và đức tin.

Việc kêu gọi các môn đồ đầu tiên (cc.18- 22) được tường thuật lại với thể văn “kêu gọi ngôn sứ” của Cựu ước, chẳng hạn việc Elia kêu gọi Elidê (IV 19, 19): Trình thuật này hoàn toàn loại trừ khía cạnh tâm lý (như cảm xúc của những kẻ được gọi, việc nhấn mạnh đến tính cách nghiêm trọng của giờ v.v…) để làm nổi bật lời kêu gọi của vị Tôn sư và câu đáp trả đầy gắn bó tin tưởng của các môn đồ. Do đấy có thể bảo bản phác họa này vẽ ra mối tương quan kiểu mẫu giữa Chúa Giêsu và người môn đồ lý tưởng, kẻ từ bỏ mọi sự không chút do dự hay biện bạch để theo người ngay từ lời mời gọi đầu tiên. Chúa Giêsu chỉ đòi hỏi các môn đồ tương lai trước hết hãy sống với Người và theo Người. Công việc tông đồ của họ sẽ bắt đầu sau này, lúc họ đã chứng kiến cuộc Tử nạn-phục sinh của Người (trái lại Mc 6, 12- 13 và Lc 9, 6 thì có tường thuật một chuyến truyền giáo của các môn đồ trước Tử nạn-phục sinh; Mt im lặng có lẽ vì muốn nhấn mạnh tính cách độc nhất của con người vị Tôn sư) Các sứ đồ sẽ thành “ngư phủ bắt người”, nghĩa là thành kẻ rao giảng và chứng nhân Nước Trời. Thành ngữ này có lẽ ám chỉ tới một sấm ngôn của Edêkien (Ed 47, 10). Dầu sao, có thể bảo rằng, theo một ý nghĩa nào đó, nước Trời đã như được thiết lập qua việc gọi các môn đồ đầu tiên ấy, vì Nước trời tự bản chất là một cộng đoàn gồm những người quy tụ quanh Chúa Giêsu trong mối thông hiệp với Chúa Cha.

“Khắp xứ Galilê “: Việc du hành thuyết giáo này của Chúa Giêsu tương ứng với một khía cạnh quan trọng trong sứ vụ của Người; Người không nhắm mục đích xây dựng một nguyện đường khép kín với một nhóm môn đồ như các giáo sĩ, cũng chẳng phải là quy tụ các kẻ tinh tuyền vào sa mạc như ông Thầy phái Essêni, song là rao giảng cho toàn dân trong khắp xứ.

“Giảng dạy … chữa lành”: Lối tiếp liên này, được dùng lại với cùng những hạn từ trong 9, 35, cho thấy phải hiểu cơ cấu toàn bộ của Tin Mừng Mt ra sao. Trái với quan niệm của nhiều nhà chú giải thừa nhận kiểu tiếp liên trình thuật-diễn từ vì muốn lấy các chương 5 – 7 soi sáng 3 – 4, và chương 10 soi sáng 8- 9), hình như ta có thể bảo: qua thành ngữ “giảng dạy … chữa lành”. Mt muốn gợi ý rằng lối tiếp liên diễn từ-trình thuật là cơ cấu của Tin Mừng ông, nên phải lấy các chương 8- 8, thay vì 3- 4, để -soi sáng 5- 7, và lấy 11- 12 soi sáng choang 10 v.v. Thật vây việc giải thích toàn bộ Mt theo cách thứ hai này xem ra thỏa đáng hơn nhờ ánh sáng của các cuộc nghiên cứu gần đây theo chiều hướng đó (Krentz, Rolland, Radennakers v.v…).

“Chữa lành mọi tật nguyền bệnh hoạn “: ý tưởng “Thiên Chúa bảo vệ kẻ công chính và cho họ khỏi bệnh tật rủi ro” đầy dẫy trong văn chương khải huyền thời Chúa Giêsu (x. Thánh vịnh Salomon). Thành thử hoạt động chữa bệnh của Người đáp lại một nỗi mong chờ nào đó của dân chúng, và đặc biệt thực hiện lời tiên báo của Isaia mà Mt áp dụng cho Chúa Giêsu (8, 17) về Người Tôi tớ mang lấy bệnh tật dân mình (53, 4): Chính vì sấm ngôn ấy, mà quyền lực chữa bệnh của Chúa Giêsu làm cho địch thù Người khó chịu: bị bắt buộc phải thừa nhận sự kiện, họ không còn cách gì hơn là gán việc đó cho Bêelzêbul (12, 24). Đừng tổng quát hóa lời minh xác Chúa Giêsu chữa lành mọi bệnh nhân; toàn bộ trình thuật Tin Mừng cho thấy Người không nhắm mục đích chữa lành mọi bệnh hoạn tật nguyền, như thể muốn cho thiên hạ hưởng nhờ quyền năng làm phép lạ của mình nhiều ngần nào có thể; đúng ra Người chỉ chữa trị một vài bệnh nhân để mặc khải ý nghĩa Nước Trời và uy quyền riêng của Người.

KẾT LUẬN

Trái với Gioan Tẩy giả chuyên đứng bên bờ sông Giođanô để làm phép rửa cho những kẻ đến với ông, Chúa Giêsu, ngay từ đầu sứ vụ, đã tỏ ra là một diễn giả lưu động, rảo khắp miền Galilê và đâu đâu cũng tuyên bố Nước Trời đến gần. Người muốn mình tức khắc là Mục tử tốt nao nức đi tìm “chiên lạc nhà Israel”. Và vì ưu tư đảm bảo hiệu lực lâu bền cho công việc mình, Người đã quy tụ ngay các “ngư phủ bắt người”. Đầu tiên để họ tiếp tục việc loan báo Nước Trời khắp nơi, cho mọi người thuộc mọi thời đại.

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

1. Ngày nay Chúa vẫn còn loan báo Nước Người cho ta qua việc công bố Lời Người giữa lòng cộng đoàn phụng vụ. Ta biết rằng cách thức nghe lời đó là “hối cải”, là tiêu trừ những gì đê tiện, của lòng mình, là mở rộng con tim theo những viễn tượng, phổ quát của Người. Bấy giờ, việc loan báo ấy sẽ chữa lành tâm hồn ta và đổ vào đó một niềm hân hoan vĩ đại. Ta sẽ vượt lên khỏi chính mình và khám phá được ánh sáng rạng ngời của Thiên Chúa.

2. Chẳng phải các môn đồ đã chọn Chúa Giêsu, song chính Người đã chọn gọi họ, đã bắt lấy họ nơi họ đang làm lụng, nơi họ bận rộn với công việc trần thế. Ngày nay cũng vậy Chúa Kitô đến tìm ta giữa công việc, niềm vui, nỗi nhọc của ta. Người muốn lôi ta theo Người không phải bằng cách đòi ta bỏ mọi sự để rao giảng Nước Trời (điều ấy, Người chỉ xin một vài kẻ thôi) nhưng một cách thiêng liêng bằng cách yêu cầu ta từ bỏ chính mình, bỏ lòng ích kỷ và chai đá, để sống với Người cuộc sống hằng ngày của ta trong siêu thoát và tình yêu.

3. Việc hối cải Chúa Giêsu yêu cầu không phải là một cái gì có thể hoàn thành trong giây lát, trong một ngày và một lần thay cho tất cả. Chắc chắn ngay lúc đầu nó đòi hỏi một sự kiên định lập trường và đôi lúc một sự cắt đứt đau đớn. Nhưng nhất là nổ đòi hỏi một cuộc lấy lại không ngừng chính mình để kiên nhẫn và khiêm tốn đi theo Chúa Giêsu, cho dù yếu đuối đến đâu Vì tiếng nói của Chúa Giêsu vẫn luôn vang vọng trong cuộc đời chúng ta: “Hãy theo Thầy”.

Về mục lục

.

SUY NIỆM CHÚ GIẢI LỜI CHÚA-CHÚA NHẬT 3 TN_A

Lm. Inhaxio Hồ Thông

Vào ngày lễ kính thánh Giê-rô-ni-mô vừa qua (30/09/2019), Đức Thánh Cha Phan-xi-cô đã ban Tông Sắc Aperuit Illis (“Ngài đã mở trí cho họ”) để thiết lập Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa. Đáp lại lời mời gọi của Đức Thánh Cha, Đức Cha Vinh Sơn chủ tịch Ủy Ban Kinh Thánh ấn định Chúa Nhật III Thường Niên dành riêng để cử hành, để suy tư và để công bố Lời Chúa.

Thật ra, mỗi lần tham dự Thánh Lễ là mỗi lần chúng ta tôn kính Lời Chúa là nguồn sống của các tín hữu rồi. Hiến Chế Mặc Khải viết: “Giáo Hội vẫn luôn tôn kính Thánh Kinh giống như tôn kính chính Thánh Thể Chúa, đặc biệt trong Phụng Vụ Thánh, Giáo Hội không ngừng lấy bánh ban sự sống từ bàn tiệc Lời Chúa và bàn tiệc Mình Chúa Ki-tô để trao ban cho các tín hữu” (Hiến Chế Mặc Khải, số 22).

Vì thế, khi thiết lập Chúa Nhật III Thường Niên là Chúa Nhật Lời Chúa, Đức Thánh Cha mời gọi các tín hữu ý thức nhiều hơn về tầm quan trọng của Lời Chúa trong cuộc sống của mình khi đề nghị “các linh mục ở giáo xứ có thể tìm ra hình thức tương xứng nhất để đặt cuốn Kinh Thánh, hay một trong các sách của bộ Kinh Thánh, cho toàn thể cộng đoàn, để làm nổi bật tầm quan trọng của việc tiếp tục đọc bản văn trong đời sống hàng ngày, để đào sâu bản văn và để cầu nguyện với Kinh Thánh, trong khi tham chiếu bằng cách thế đặc biệt theo cách đọc Lectio Divina” ( “Tông Sắc Aperuit Illis, số 3”)

Trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thường Niên năm A, Bài Đọc I và Tin Mừng nêu bật sứ vụ khởi đầu của Đức Giê-su: chính ở Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại, Đức Giê-su chọn để công bố Lời Ngài, trong khi Bài Đọc I ghi lại lời kêu gọi khẩn thiết của thánh Phao-lô về sự hiệp nhất của các Ki-tô hữu.

Is 8: 23; 9:3

Ngôn sứ I-sai-a tiên báo với dân Ga-li-lê bất hạnh, nạn nhân của chính sách cai trị hà khắc của đế quốc Át-sua vào thế kỷ thứ tám trước Công Nguyên, rằng sẽ đến ngày một ánh sáng huy hoàng rực rỡ sẽ chiếu sáng trên họ.

1Cr 1: 10-13, 17

Trước nạn bè phái, thánh Phao-lô khẩn khoản kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hiệp nhất với nhau. Đó cũng là nỗi bận lòng lớn lao của Giáo Hội là kêu mời mọi tín hữu cầu nguyện cho các Ki-tô hữu trên thế giới được nên một với nhau. Thánh Phao-lô công bố tính bất khả phân của Đức Ki-tô.

Mt 4: 12-23

Trong Tin Mừng hôm nay, thánh Mát-thêu trích dẫn bản văn của ngôn sứ I-sai-a (Bài Đọc I) để chứng tỏ rằng chính nơi Đức Giê-su mà Kinh Thánh được ứng nghiệm: Đức Giê-su đã chọn Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê làm cứ điểm truyền giáo của Ngài. Ở đó, Ngài đã kêu gọi các môn đệ đầu tiên của Ngài, họ là những ngư phủ.

BÀI ĐỌC I (Is 9: 1-4)

Bài Đọc I trích từ một trong ba sấm ngôn vĩ đại của ngôn sứ I-sai-a đệ nhất về sự sinh hạ của một Hài Nhi, tên biểu tượng của con trẻ là “Em-ma-nu-en, Thiên Chúa ở cùng chúng ta”. Ba sấm ngôn này được gặp thấy trong các chương 7 đến chương 12 của sách I-sai-a, các chương này hình thành nên một tuyển tập được gọi là “sách về Đấng Em-ma-nu-en”. Sấm ngôn thứ nhất (7: 10-14) loan báo sự sinh hạ của một Hài Nhi, sấm ngôn thứ hai (8: 23b-9: 6) mô tả vài nét đặc trưng của triều đại Hài Nhi này, và sấm ngôn thứ ba (11: 1-9) bày tỏ triều đại của Hài Nhi là triều đại của những ân ban siêu nhiên, và là kỷ nguyên của hòa bình và cứu độ.

Đoạn văn hôm nay là phần thứ nhất của sấm ngôn thứ hai, nói về sự tương phản giữa cảnh đời gian truân tăm tối trong hiện tại với những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai.

  1. Cảnh đời tăm tối trong hiện tại

Về phương diện lịch sử, tự ngồn gốc vùng Ga-li-lê được phân chia cho hai chi tộc Dơ-vu-lun và Nép-ta-li, khi dân It-ra-en vào Đất Hứa. Nhưng hai chi tộc này không bao giờ thành công trong việc đánh đuổi dân bản địa Ca-na-an nên ngay từ đầu dân cư Ga-li-lê đã là dân tạp chủng. Về phương diện địa lý, vùng đất Ga-li-lê tiếp giáp với các quốc gia ngoại bang, vì thế không thể tránh khỏi ảnh hưởng văn hóa và tư tưởng của dân ngoại chung quanh. Hơn nữa, những con đường lớn của thế giới đều đi ngang qua miền Ga-li-lê, trong khi xa tít về phía Nam, miền Giu-đê thu mình vào một góc, cô lập, khép kín như câu thành ngữ: “Giu-đê không có đường đi đâu hết, còn Ga-li-lê đi khắp nơi”. Vì thế không lạ gì miền Ga-li-lê đã trở thành miếng mồi xâm lăng của các dân ngoại chung quanh và các đế quốc hùng mạnh thay nhau cai trị vùng này.

Sấm ngôn I-sai-a ám mô tả số phận bi thảm giáng xuống trên dân cư của vương quốc miền Bắc (cũng được gọi là “vương quốc Ít-ra-en”) dưới cuộc xâm lăng của đế quốc Át-sua vào những năm 734-732 trước Công Nguyên. Cuối cùng vương quốc miền Bắc hoàn toàn bị diệt vong, thủ đô là Sa-ma-ri bị chiếm, một số lượng lớn dân cư bị lưu đày, những dân ngoại bang thế chỗ. Sự đàn áp tàn bạo đến mức vị ngôn sứ mô tả rằng chỉ có sự can thiệp của Thiên Chúa vào triều đại của Vua Mê-si-a, vùng đất này mới có thể được giải thoát.

Quyền lực của đế quốc Át-sua sẽ ngự trị trên vùng đất này cho đến năm 612 trước Công Nguyên cho đến khi bị đế quốc Ba-by-lon xâm chiếm. Như vậy, sau thời kỳ phục dịch đế quốc Át-sua, dân Ít-ra-en sẽ làm tôi đế quốc Ba-by-lon. Họ chỉ gặp lại cuộc sống thanh bình nhờ sự giải thoát của đế quốc Ba-tư. Dưới thời đô hộ của đế quốc Ba-tư, dân Ít-ra-en được hưởng một chính sách cai trị mềm dẻo, nhưng sự giải thoát nửa vời này không là điều vị ngôn sứ nghĩ đến: cái nhìn của ông còn đi xa hơn thế nhiều. Quả thật, khi đề cập đến những biến cố đương thời của mình, vị ngôn sứ nói: “Trong thời gian đầu”, diễn ngữ thời gian này ám chỉ đến hoàn cảnh hiện nay và mở ra một tương lai xa mà ông thoáng thấy. Vì thế, niềm phấn khởi của ông trước ánh sáng rạng ngời trên miền Ga-li-lê được xem như lời sấm mang chiều kích thiên sai: sấm ngôn này, một trong những sấm ngôn giàu hình ảnh, loan báo Tin Mừng cứu độ và sứ mạng của dân Ga-li-lê, dân thụ hưởng vinh quang của Đức Chúa.

  1. Những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai

Chính trong cảnh đời tăm tối không lối thoát trong hiện tại mà vị ngôn sứ loan báo những viễn cảnh huy hoàng tươi sáng trong tương lai. Cặp đối lập “ánh sáng / bóng tối” là chủ đề Kinh Thánh nổi tiếng chạy xuyên suốt toàn bộ lịch sử cứu độ, kể từ ngày Thiên Chúa tách ánh sáng ra khỏi bóng tối (St 1: 3-4) cho đến ngày chung cuộc, khi những ác nhân bị ném ra ngoài vào trong bóng tối hãi hùng. Qua toàn bộ lịch sử này, ơn cứu độ, niềm vui, niềm tin, chung chung được diễn tả bằng hình ảnh ánh sáng. Ở đỉnh điểm của tiến trình này, Đức Giê-su tự giới thiệu mình: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống” (Ga 8: 12).

Trong thị kiến của vị ngôn sứ, ánh sáng biểu tượng niềm vui cứu độ. Niềm vui này sẽ rạng ngời trên khắp miền Ga-li-lê và được mô tả bằng những hình ảnh như niềm vui của nhà nông vào ngày thu hoạch mùa màng sau công việc đồng án gian lao vất vả và như niềm vui của những lính chiến chia nhau những chiến lợi phẩm sau cuộc chiến gian khổ.

Nguyên do của niềm vui này chính là thời phục dịch sắp chấm dứt, kẻ hà hiếp sắp bị đánh bại. Khúc ca khải hoàn này được sánh ví như ngày chiến thắng quân Ma-đi-an (Tl 7: 1-25), một cuộc chiến thắng quá vẹn toàn, đạt được nhờ quân số quá nhỏ bé (300 chiến binh) đến nỗi chiến công này không hề phai nhạt trong ký ức của dân chúng như tiêu biểu cho hành động của Thiên Chúa.

Như vậy, Ga-li-lê, miền đất dân ngoại, có sứ mạng chiếu giãi ánh sáng của Thiên Chúa đến các dân ngoại. Sấm ngôn của vị ngôn sứ đã được ứng nghiệm bảy thế kỷ sau đó, khi Đức Giê-su công bố sứ điệp của Ngài ở miền Ga-li-lê dân ngoại này. Đó chính là điều mà trong số các tác giả Tin Mừng, thánh Mát-thêu quan tâm bậc nhất trong việc minh chứng con người và sứ mạng của Đức Giê-su đã được các ngôn sứ loan báo, chúng ta không thể nào bỏ qua.

BÀI ĐỌC II (1 Cr 1: 10-13, 17)

Bài Đọc II được trích từ “Thư thứ nhất của thánh Phao-lô gửi tín hữu Cô-rin-tô” giúp chúng ta nắm bắt những nguyên do sâu xa của cuộc khủng hoảng mà Giáo Đoàn non trẻ này gặp phải.

  1. Nạn bè phái (1 Cr 1: 11-12)

Bốn phe phái đối đầu với nhau ở lòng Giáo Đoàn Cô-rin-tô:

– Phe theo thánh Phao-lô: Thánh Phao-lô cũng có nhiều ủng hộ viên trong cộng đoàn này.

– Phe theo ông A-pô-lô: Nhờ vào sách Công Vụ 18: 24-28, chúng ta biết rằng ông A-pô-lô là một người Do thái quê ở A-lê-xan-ri-a, thủ đô của kiều bào Do thái giáo và một trong những thủ đô trí thức của thế giới vào thời đó. Nhờ có tài hùng biện và thông thạo Kinh Thánh, ông rao giảng rất thành công ở Ê-phê-xô. Từ đó, ông đã sang miền A-khai-a dùng tài hùng biện của mình mà phục vụ Giáo Hội. Thánh Phao-lô, khi từ biệt Cô-rin-tô, đã giao phó cho ông A-pô-lô Giáo Đoàn non trẻ này. Tuy nhiên, ông A-pô-lô đã không lưu lại lâu ở Cô-rin-tô, nhưng cũng để lại ở đây một ảnh hưởng mạnh mẻ. Chắc hẳn, tài hùng biện chói sáng của ông làm lu mờ đi cách rao giảng đơn sơ và bộc trực của thánh Phao-lô (x. 1Cr 2: 1, 3, 5). Kết quả là một sự chia rẽ giữa những người theo phe ông A-pô-lô và những người vẫn trung thành với thánh Phao-lô.

Việc nhắc đến ông A-pô-lô ở cuối thư gửi tín hữu Cô-rin-tô này cho phép chúng ta khẳng định rằng ông A-pô-lô không để cho sự thành công lôi cuốn mình và cương quyết tự xóa mình trước thánh Phao-lô cho đến khi hoàn cảnh được tái lập: “Còn về anh A-pô-lô, tôi đã tha thiết xin anh ấy đến thăm anh em cùng với các anh em khác. Nhưng lúc này anh ấy nhất định không chịu đi, anh ấy sẽ đi khi có dịp thuận tiện” (1 Cr 16: 12).

– Phe theo thánh Phê-rô: Có thể chính thánh Phê-rô, hay một trong những cộng sự viên thân cận của thánh nhân, đã đến Cô-rin-tô. Nhưng chúng ta cũng có thể nghĩ rằng những Ki-tô hữu gốc Do thái tìm kiếm nơi thánh Phê-rô một điểm tựa để bênh vực những lập trường duy Do thái của họ chống lại lập trường bao dung của thánh Phao lô đối với dân ngoại (x. Gl 2: 1-14).

– Phe theo Đức Ki-tô: Có thể đó là những Ki-tô hữu vẫn ở trong chính lộ (x. 1Cr 1: 13) hay những người tự phụ là mình gắn bó với Đức Ki-tô mà không nhận uy quyền của bất kỳ vị Tông Đồ nào.

  1. Câu trả lời của thánh Phao-lô (1 Cr 1: 10, 13, 17)

Đối diện với nạn bè phái, thánh Phao-lô kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất và trình bày giáo huấn về tính bất khả phân của Đức Giê-su: tính duy nhất của Hy Tế Thập Giá, Phép Rửa, và Tin Mừng.

– Kêu mời khẩn thiết đến sự hiệp nhất

Thánh Phao-lô kêu mời các tín hữu Cô-rin-tô hiệp nhất với nhau. Lời mời gọi dứt khoát, nồng nàn và khẩn thiết này được đặt ngay ở đầu, thậm chí trước khi viện dẫn hoàn cảnh của những chia rẽ. Thư gửi tín hữu Phi-líp-phê (Pl 2: 1-11) cho chúng ta lời giải thích lý do tại sao phải “một lòng một ý” với nhau.

Chính “nhân danh Đức Giê-su Ki-tô” mà các tín hữu Cô-rin-tô được mời gọi hiệp nhất với nhau, bởi vì những gì đụng chạm đến cộng đoàn là đụng chạm đến chính con người của Đức Ki-tô (Cv 9: 5). Như vậy, chia rẽ là phân chia chính Thân Thể Đức Ki-tô (x. 1Cr 12: 12t; Gl 3: 28).

– Tính bất khả phân của Đức Ki-tô

Sự sai lầm của các tín hữu Cô-rin-tô chính là đặt Tin Mừng trên cùng một bình diện với tất cả những khôn ngoan mà họ thường nghe các môn đệ của các triết gia nổi tiếng như Platon, Aristote, Zénon… truyền bá. Đối diện với những trào lưu triết học này, người ta có thể tranh luận không dứt và quyết định theo phe này hay phe kia (x. 1Cr 3: 3-4). Tin Mừng thì hoàn toàn khác. Tiên vàn, đây là công bố một sự kiện: cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô. Đức tin không là một sự gắn bó với một giáo thuyết, nhưng tận hiến bản thân mình cho Đức Ki-tô. Người môn đệ loan báo Tin Mừng không gì khác hơn là người loan báo Đức Ki-tô, vì thế người môn đệ là môn đệ của Đức Ki-tô, chứ không là môn đệ của bất kỳ Tông Đồ nào. Người môn đệ ấy sống cuộc sống của Đức Ki-tô, chứ không cuộc sống của bất kỳ Tông Đồ nào. Người ấy được cứu độ nhờ cái chết và sự sống lại của Đức Ki-tô chứ không nhờ cái chết của bất cứ Tông Đồ nào. Người ấy đã được rửa tội nhân danh Đức Ki-tô, chứ không nhân danh một ai khác (Cv 2: 38; 8: 16; 10: 48; vân vân).

Để tránh triệt để sự ngộ nhận, lời dạy của thánh Phao-lô được trình bày ngay tức khắc hoàn toàn khác với lời dạy của các triết gia hay các nhà hùng biện. Không cốt trình bày những lập luận có sức thuyết phục đối với tư tưởng này hay tư tưởng kia, nhưng chỉ cốt công bố mầu nhiệm của Đức Ki-tô chết trên Thập giá và sống lại. Vì thế, Tin Mừng không là đối tượng của sự chứng minh, nhưng ngỏ lời với đức tin.

Ngôn từ của thánh Phao-lô trong thư không cốt nhấn mạnh sự nối tiếp giữa những quan niệm ngoại giáo Hy lạp như ở A-thê-na (Cv 17: 16-33), nhưng đúng hơn trình bày thẳng thắn sự điên rồ của Thập Giá là sự khôn ngoan cao vời khôn sánh của Thiên Chúa tương phản với tất cả sự khôn ngoan của phàm nhân.

TIN MỪNG (Mt 4: 12-23)

Tin Mừng Mát-thêu được trích trong Phụng Vụ Lời Chúa Chúa Nhật III Thường Niên năm A gồm bốn phần: Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 12-16), lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17), thu nạp các môn đệ đầu tiên (4: 18-22), và sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (4: 23).

  1. Hoàn cảnh khởi đầu sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 12-16)

Dấu ấn của thánh Mát-thêu in đậm đặc biệt trong đoạn văn này, nếu chúng ta so sánh với những đoạn văn liên hệ của các tác giả Nhất Lãm khác.

Sau khi chịu phép rửa của Gioan Tẩy giả (Mt 3: 13-17), đoạn trải qua những chước cám dỗ trong sa-mạc (Mt 4: 1-11), và cuối cùng nghe tin “ông Gioan Tẩy giả đã bị nộp” (4: 12), Chúa Giê-su biết đã đến lúc Ngài bắt tay vào sứ vụ: nhiệm vụ dọn đường của Gio-an Tẩy Giả đã hoàn tất, vai phụ rút lui vào hậu trường để nhường chỗ cho vai chính là Đức Giê-su. Thánh Mát-thêu cũng như thánh Mác-cô sẽ dùng cùng một diễn ngữ “bị nộp” để nói về việc Đức Giê-su bị bắt. Như vậy, Gioan Tẩy Giả loan báo về Đức Giê-su không chỉ bằng lời rao giảng, nhưng còn bằng cuộc sống nữa. Qua động từ: “bị nộp”, thánh Mát-thêu muốn nói rằng số phận của ông Gioan Tẩy Giả báo trước số phận tương tự đang chờ đợi Đức Giê-su.

Sự kiện Đức Giê-su lánh sang miền Ga-li-lê khi nghe tin ông Gioan Tẩy Giả bị nộp khiến chúng ta nghĩ rằng Đức Giê-su không còn cảm thấy an toàn ở miền Giu-đê. Tuy nhiên, vị vua đã tống giam Gioan Tẩy Giả là tiểu vương Hê-rô-đê An-ti-pa lúc đó cai trị xứ Ga-li-lê. Dường như lý do sâu xa của việc Đức Giê-su chuyển dời miền đất hoạt động của mình sang miền Ga-li-lê được gặp thấy trong Tin Mừng Gioan: “Nhóm Pha-ri-sêu nghe tin Đức Giê-su thâu nạp và làm phép rửa cho nhiều môn đệ hơn ông Gio-an. Biết thế, Đức Giê-su bỏ miền Giu-đê mà trở lại miền Ga-li-lê” (Ga 4: 1-3). Thánh Lu-ca nói một cách đơn giản: “Được quyền năng Thần Khí thúc đẩy, Đức Giê-su trở về miền Ga-li-lê” (Lc 4: 14).

Còn thánh Mát-thêu thì trình bày quyết định của Đức Giê-su bằng những từ ngữ như quyết định của thánh Giu-se khi quay trở về từ Ai-cập đến cư ngụ ở Na-da-rét: “Khi nghe tin Ác-khê-lao đã kế vị vua cha là Hê-rô-đê, cai trị miền Giu-đê, nên ông sợ không dám về đó… ông lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời đã phán qua miệng các ngôn sứ” (Mt 2: 19-23). Cũng một cách thức như vậy trong bài trình thuật này: “Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê… để ứng nghiệm lời ngôn sứ I-sai-a”. Việc kể tên hai địa danh xa xưa “Dơ-vu-lun và Nép-ta-li” rõ ràng dọn đường cho lời trích dẫn sấm ngôn I-sai-a. Hai địa hạt này chiếm phần lớn miền Ga-li-lê, bị đế quốc Át-sua sát nhập, bị Hy lạp hóa vào thời cai trị của đế quốc Hy lạp, vì thế phần lớn là người ngoại bang đến định cư. Lời loan báo của ngôn sứ I-sai-a về cuộc giải thoát được thánh Mát-thêu thấy ứng nghiệm nơi sứ vụ của Đức Giê-su.

Đức Giê-su đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê. Thành Ca-phác-na-um được hưởng một hoàn cảnh ưu đãi, thành phố giáp ranh giới với ba nước: Pa-lét-tin, Phê-ni-xi và Xy-ri-a: thành phố này là một phần của miền Ga-li-lê được gọi là “miền đất của dân ngoại”. Đức Giê-su chọn thành phố này làm địa bàn hoạt động của Ngài. Dân bản địa chủ yếu là những ngư phủ, thợ thủ công và tiểu điền chủ.

Quả thật, kiểu nói: “Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại” hình thành nên trọng tâm của lời trích dẫn Is 8: 23-9: 1 và cũng của sứ mạng Đức Giê-su. Khi nói: “Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm” (Mt 4: 16), thánh ký ám chỉ đến tình trạng tinh thần của dân Do thái vào thời ông, trong những miền dân cư tạp chủng. Như vậy, thánh ký nêu bật Đức Giê-su muốn chia sẻ cùng một cảnh ngộ với dân Ngài, như Ngài đã làm trong suốt thời gian ẩn dật cũng như khi chịu phép rửa. Chính vì dân Ngài, Đức Giê-su được sai đi trước tiên đến “những chiên lạc nhà Ít-ra-en” (Mt 10: 6; 15: 24), nhưng cũng gặp gỡ dân ngoại, vì hoàn cảnh cụ thể của dân cư miền này đặt Ngài vào mối liên hệ với họ. Chính “những kẻ đang ngồi trong bóng tối tử thần” này mà Đức Giê-su là “ánh sáng bừng lên chiếu rọi”.

  1. Lời rao giảng của Đức Giê-su (4: 17)

Lời rao giảng đầu tiên của Đức Giê-su (4: 17) lặp lại y nguyên lời rao giảng của Gioan Tẩy Giả (3: 2). Tuy nhiên, cũng một lời kêu gọi sám hối nhưng do bởi hai nhân vật với hai vai trò khác nhau: Gioan Tẩy Giả, người có sứ mạng làm phép rửa trong nước để dọn lòng cho con người đón tiếp Đức Giê-su, Đấng làm phép rửa trong Thánh Thần (Mt 3: 11). Vì thế, lời kêu gọi sám hối của Đức Giê-su trở nên khẩn thiết hơn, vì Triều Đại Thiên Chúa đã khởi sự ở nơi sự hiện diện của Ngài. Cõi vĩnh hằng đã đột nhập vào thời gian, Triều Đại Thiên Chúa đã xâm nhập vào cõi thế. Vì thế, điều quan trọng hơn cả là con người phải quay tầm nhìn của mình khỏi hạ giới mà hướng về thượng giới, đổi hướng đi để tiến gần đến Đức Giê-su. Muốn thế thì phải nghe và theo Đức Giê-su.

  1. Thu nạp các môn đệ đầu tiên (Mt 4: 18-22)

Lời rao giảng của Đức Giê-su ở miền Ga-li-lê được ghi nhận là đã gặp thấy lời đáp trả tích cực ở nơi bốn môn đệ đầu tiên. Bài trình thuật của thánh Mát-thêu về ơn gọi của các môn đệ đầu tiên rất gần với bài trình thuật của thánh Mác-cô (bài trình thuật Lu-ca thì hơi khác). Câu chuyện thật đột ngột: hai anh em ông Si-mon và ông An-rê đang thả lưới bắt cá, liền bỏ nghề nghiệp của mình mà cất bước theo Đức Giê-su. Còn hai anh em ông Gia-cô-bê và ông Gioan, sự đoạn tuyệt càng mãnh liệt hơn, họ không chỉ bỏ lại nghề nghiệp của mình, nhưng còn cả người cha mà họ có bổn phận phụng dưỡng nữa. Trước đây, chỉ vọn vẹn có ba từ: “Người bỏ Na-da-rét” gợi lên việc Đức Giê-su thoát ly gia đình, bạn bè, nghề nghiệp và làng quê thân yêu Ngài, giờ đây Ngài cũng sẽ đòi hỏi các môn đệ của Ngài một đoạn tuyệt như vậy.

Hai anh em Si-mon và An-rê cũng như hai anh em Gia-cô-bê và Gioan ở đây chưa được gọi là môn đệ. Đức Giê-su chỉ đòi hỏi họ đi theo Ngài, như ngôn sứ Ê-li-a đã làm như thế đối với Ê-li-sa (x. 1V 19: 20-21). Tuy nhiên, chúng ta có thể đọc thấy ở đây mối liên hệ của thầy với trò rồi, nhất là khi thêm vào “Tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”, Đức Giê-su ngay tức khắc liên kết họ vào sứ mạng của Ngài. Bài diễn từ sai đi (ch, 10) và dụ ngôn chiếc lưới thả xuống biển (13: 47-50) sẽ đem lại nền tảng vững chắc cho lời công bố bí nhiệm này. Khi gọi những cộng tác viên đầu tiên của mình và mời gọi họ thoát ly khỏi môi trường gia đình và nghề nghiệp của họ, Ngài muốn nói với họ tầm mức biểu tượng sứ mạng của họ: tiếp nối sứ mạng của Ngài, đồng thời biến đổi hoàn cảnh phàm nhân của họ. Thánh Mát-thêu nhấn mạnh vừa sự nối tiếp lẫn sự đoạn tuyệt trong lời mời gọi theo Ngài.

  1. Sứ vụ của Đức Giê-su ở Ga-li-lê (Mt 4: 23)

Sau khi đã mô tả ơn gọi của các môn đệ đầu tiên, thánh Mát-thêu lại tiếp tục trình bày sứ vụ của Đức Giê-su: “Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, loan báo Tin Mừng Nước Trời, và chữa dân chúng hết bệnh hoạn tật nguyền” (4: 23). Ở đây, chúng ta thấy ba khía cạnh sứ vụ của Đức Giê-su: giảng dạy – loan báo Tin Mừng Nước Trời – chữa lành. Chúng ta sẽ gặp lại đúng y nguyên trình tự này ở 9: 35: “Đức Giê-su đi khắp các thành thị, làng mạc, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước trời và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền”.

Phạm vi hoạt động của Đức Giê-su được ghi nhận “khắp miền Ga-li-lê”. Ngài không tự giới hạn vào việc quy tụ một nhóm nhỏ môn đệ, một trường đào tạo, theo cách thức của các kinh sư, nhưng với tư cách một nhà giảng thuyết lưu động, Đức Giê-su muốn rằng sứ điệp của Ngài phải đến với tất cả mọi người và được lan truyền ra khắp nơi.

Về mục lục

.

DÂN CHÀI

Trầm Thiên Thu

Ngày xưa, nhiều tông đồ là ngư dân, cách gọi bình dân là dân chài. Các tông đồ đầu tiên là ngư dân nhà nòi – cụ thể là bốn dân chài đầu tiên. Chúa Giêsu đã gọi họ khi họ đang đánh cá trên Biển Hồ Galilê. Đặc biệt là họ đi theo Ngài ngay lập tức, không so đo, không tính toán chi cả. Từ đó, họ không còn lưới cá nữa, mà họ lưới người – cứu các linh hồn về cho Chúa. Họ chỉ là những con người bình thường nhưng không tầm thường, và rồi những con người bình thường đó trở nên khác thường.

Quá khứ là khoảng thời gian đã qua, không thể làm gì được nữa, tương lai không ai biết ra sao, cũng không thể kiểm soát, chỉ có Chúa biết. Còn hiện tại thì mọi người có thể tự quyết định, tất nhiên quyết định này có sức ảnh hưởng tới tương lai – thời gian chưa đến. Khoảng thời gian đó có thể là tương lai xa hoặc tương lai gần – sẽ xảy ra hoặc sắp xảy ra, “khoảng” xa hay gần cũng khác nhau, nhưng chắc chắn không ai biết được điều gì xảy ra, có phỏng đoán hoặc ước chừng thì cũng chỉ là “đoán mò” mà thôi, không thể chắc chắn.

Tuy nhiên, có một dạng tương lai chắc chắn, chắc nịch luôn, đó là ngày của Chúa, thời của Chúa, triều đại của Chúa, Vương quốc của Chúa – và “khoảng thời gian” đó đã thực sự đến gần rồi. (Mt 4:17; Mt 26:18; Lc 9:27; Lc 10:9; Pl 4:5; Dt 10:25; Gc 5:8; Kh 1:3) Đề cập chuyện tương lai là việc của thế gian, theo khái niệm trần tục, còn đối với Thiên Chúa thì không có quá khứ hoặc tương lai – nghĩa là chỉ có hiện tại mà thôi.

Cuộc sống luôn có những điều phức tạp, thậm chí là bất ngờ, và liên quan với nhau – cả điều tốt lẫn điều xấu. Kinh Thánh cho biết: “Thời đầu, Người đã hạ nhục đất Dơ-vu-lun và đất Náp-ta-li, nhưng thời sau, Người sẽ làm vẻ vang cho con đường ra biển, miền bên kia sông Giođan, vùng đất của dân ngoại.” (Is 8:23) Chỉ là chuyện địa lý bình thường, nhưng vẫn liên quan chuyện tâm linh. Vì Đức Chúa là Đấng cầm quyền sinh tử, Ngài đẩy xuống âm phủ rồi lại kéo lên, bắt nghèo và cho giàu, hạ thấp rồi nâng cao. (1 Sm 2:6-7) Thánh Ý Thiên Chúa luôn mầu nhiệm, không ai có thể hiểu được.

Thiên Chúa nhân lành, Ngài chỉ muốn điều tốt, không muốn điều ác cho bất cứ ai – kể cả ác nhân. Ngôn sứ Isaia cho biết: “Dân đang lần bước giữa tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng; đám người sống trong vùng bóng tối, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi. Chúa đã ban chứa chan niềm hoan hỷ, đã tăng thêm nỗi vui mừng. Họ mừng vui trước nhan Ngài như thiên hạ mừng vui trong mùa gặt, như người ta hỷ hoan khi chia nhau chiến lợi phẩm.” (Is 9:1-2) Không thể không vui mừng, bởi vì đang ở trong bóng tối mà thấy có ánh sáng chiếu soi. Tại sao lại như thế?

Ngôn sứ Isaia cho biết rõ nguyên nhân: “Vì cái ách đè lên cổ dân, cây gậy đập xuống vai họ, và ngọn roi của kẻ hà hiếp, Ngài đều bẻ gãy như trong ngày chiến thắng quân Mađian. Vì mọi giầy lính nện xuống rần rần và mọi áo choàng đẫm máu sẽ bị đem thiêu, làm mồi cho lửa.” (Is 9:3-4) Nếu được giải thoát khỏi cảnh tù đày, được giải cứu khỏi cảnh nô lệ, chắc chắn niềm vui sướng đó lớn lao và khó tả, ví như Lưu Nguyễn lạc vào cõi thiên thai thì lạ lùng lắm. Phàm ngôn không đủ từ ngữ để có thể diễn tả niềm hạnh phúc kỳ diệu như vậy.

Người ta cảm thấy niềm vui sướng đó dâng cao tột đỉnh, và đặc biệt là cảm thấy can đảm hơn, như Thánh Vịnh gia bộc bạch: “Chúa là nguồn ánh sáng và ơn cứu độ của tôi, tôi còn sợ người nào? Chúa là thành luỹ bảo vệ đời tôi, tôi khiếp gì ai nữa?” (Tv 27:1) Có Chúa rồi, người ta không câu nệ hoặc e ngại bất kỳ cái gì nữa, bởi vì ngoài Chúa ra thì tất cả chỉ là rơm rác, phân tro, coi như không. Cảm nghiệm được “vị ngọt ngào” của Thiên Chúa, Thánh Vịnh gia mau mắn xác định: “Một điều tôi kiếm tôi xin, là luôn được ở trong đền Chúa tôi, mọi ngày trong suốt cuộc đời, để chiêm ngưỡng Chúa tuyệt vời cao sang, ngắm xem thánh điện huy hoàng.” (Tv 27:4) Đó mới là hạnh phúc và bình an đích thực.

Thánh Vịnh gia cho biết lý do đơn giản: “Tôi vững vàng tin tưởng sẽ được thấy ân lộc Chúa ban trong cõi đất dành cho kẻ sống.” (Tv 27:13) Sau khi cảm nghiệm được Chúa và được vui mừng khôn tả, Thánh Vịnh gia không thể giữ kín trong lòng mà phải lên tiếng mời gọi người khác cùng cảm nghiệm Chúa, muốn chia sẻ để người khác cũng được tận hưởng Ngài: “Hãy cậy trông vào Chúa, mạnh bạo lên, can đảm lên nào! Hãy cậy trông vào Chúa.” (Tv 27:14) Niềm hy vọng đó sẽ được mãn nguyện, và chẳng có ai phải ngậm ngùi thất vọng bao giờ.

Thế nhưng vẫn cần phải lưu ý, bởi vì Thánh Phaolô đã cảnh báo: “Thưa anh em, nhân danh Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, tôi khuyên tất cả anh em hãy nhất trí với nhau trong lời ăn tiếng nói, và đừng để có sự chia rẽ giữa anh em, nhưng hãy sống hoà thuận, một lòng một ý với nhau. Thật vậy, thưa anh em, người nhà của bà Khơ-lô-e cho tôi hay tin có chuyện bè phái giữa anh em.” (1 Cr 1:10-11) Tình trạng này vẫn thường xảy ra trong thời đại hôm nay, ngay trong các cộng đoàn hoặc hội đoàn. Con người dễ ảo tưởng và cho rằng mình sống đạo đức vì không phạm tội gì ghê gớm. Cái tôi dễ theo lời đường mật của ma quỷ nên ít khi chịu “lép vế” trước người khác, vì thế rất đáng quan ngại!

Người ta luôn có nhiều mưu lắm kế, với nhiều dạng “bình phong” che đậy, càng ngày càng tinh vi và càng khó phát hiện. Thánh Phaolô phân tích tỉ mỉ và nghiêm túc nói thẳng: “Tôi muốn nói là trong anh em có những luận điệu như: ‘Tôi thuộc về ông Phaolô, tôi thuộc về ông Apôlô, tôi thuộc về ông Kê-pha, tôi thuộc về Đức Kitô.’ Thế ra Đức Kitô đã bị chia năm xẻ bảy rồi ư? Có phải Phaolô đã chịu đóng đinh vào khổ giá vì anh em chăng? Hay anh em đã chịu phép rửa nhân danh Phaolô sao?” (1 Cr 1:12-13) Quả thật, đôi khi chúng ta lợi dụng Chúa hoặc nhân danh Chúa mà hành động không đúng, thế nhưng lại cứ tưởng là tốt lành. Nguy hiểm quá chừng! Người Pháp có cách nhận định khá thú vị và tuyệt vời: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác.” Nghe chừng mâu thuẫn nhưng lại hợp lý và chính xác. Thật vậy, người Việt vẫn thường nói: “Sự thật mất lòng.” Nhưng rồi liệu có tác dụng gì hay không, đó mới là điều đáng quan ngại.

Thay đổi không hề đơn giản, dù chỉ là một tật nhỏ. Quá trình thay đổi cần có thời gian, nhưng ơn Chúa có thể biến đổi ngay lập tức. Thiên Chúa có cách kêu gọi riêng cho từng người, không ai giống ai. Thánh Phaolô cho biết: “Đức Kitô đã chẳng sai tôi đi làm phép rửa, nhưng sai tôi đi rao giảng Tin Mừng, và rao giảng không phải bằng lời lẽ khôn khéo, để thập giá Đức Kitô khỏi trở nên vô hiệu.” (1 Cr 1:17) Có lẽ vẫn có người nghĩ rằng phải “khéo nói” thì người ta mới bùi tai và nghe theo, thực ra như thế có thể chỉ là “lẻo mép” và theo kiểu “dụ dỗ” mà thôi.

Nói về Tin Mừng thì phải rõ ràng, chính xác, nghiêm túc, thẳng thắn, không vòng vo, không lải nhải kiểu lắm chuyện. Người nào không yêu sự thật thì không dám lên tiếng bảo vệ công lý, không thể hoặc không dám “chạm” vào những điều nhạy cảm, và tìm cách tránh né để khỏi “phiền” đến mình. Người đau mắt thì sợ ánh sáng, dù ánh sáng đó bình thường mà thôi.

Thiên Chúa bất biến vĩnh hằng. Kinh Thánh xác định: “Đức Giêsu Kitô vẫn là MỘT, hôm qua cũng như hôm nay, và như vậy mãi đến muôn đời.” (Dt 13:8) Vì thế, Ngài cũng tha thiết muốn tất cả mọi người NÊN MỘT. (x. Ga 17:20-23) Nên một là duy nhất – một trong bốn đặc tính của Giáo Hội Công giáo. Sự hiệp nhất luôn rất cần thiết. Thế nhưng đôi khi chúng ta lại chia năm xẻ bảy Nhiệm Thể của Ngài bằng nhiều cách. Ai cũng cho lý lẽ của mình đúng, thế nên không chấp nhận lý lẽ của người khác. Không chấp nhận nhau nên vẫn không thể hiệp nhất, không thể “nên một” theo ý muốn của Chúa Giêsu.

Chúa Giêsu đã một lần chịu chết, Nhiệm Thể Đức Kitô vẫn tiếp tục chịu đau khổ. Có nhiều cuộc ly giáo, nhưng đáng lưu ý là hai cuộc ly giáo lớn: [1] Ngày 16-7-1054, Giáo Hội Tây phương và Giáo Hội Đông phương ra vạ tuyệt thông lẫn nhau, chia thành Công giáo và Chính thống giáo. [2] Ngày 31-10-1517, Martin Luther (linh mục dòng Augustinô, người Đức, giáo sư phân khoa thần học) khởi xướng phong trào cải cách, Luther đưa ra một luận văn với 95 điều chống lại Công giáo, rồi ly khai. Từ đó còn phát sinh hàng ngàn giáo phái khác ngày nay.

Qua trình thuật Mt 4:12-23, Thánh Mátthêu cho biết: Khi Đức Giêsu nghe tin ông Gioan đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, để ứng nghiệm lời ngôn sứ Isaia nói: “Này đất Dơ-vu-un, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan, hỡi Ga-li-lê, miền đất của dân ngoại!” Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm đã thấy một ánh sáng huy hoàng, những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi.

Sách Isaia nói tới bóng tối và ánh sáng đời thường, Tin Mừng nói tới bóng tối và ánh sáng khác thường: bóng tối tử thần và Ánh Sáng Đức Kitô. Bóng tối và ánh sáng luôn đối nghịch, cả nghĩa đen và nghĩa bóng. Bóng tối tử thần là bóng tối tội lỗi, bóng tối ma quỷ; còn Ánh Sáng Đức Kitô là ánh sáng cứu độ, ánh sáng sự sống, ánh sáng sự thật, ánh sáng công lý. Nơi nào có ánh sáng thì bóng tối bị đẩy lùi, không thể xuất hiện.

Thánh Mát-thêu cho biết: Từ lúc đó, Đức Giêsu bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” Chúng ta ở trong bóng tối tử thần nhưng được Chúa kéo ra và cho vào ánh sáng sự sống. Thế rồi chúng ta lại chui vào bóng tối tội lỗi. Uốn thẳng khó hơn bẻ cong, lên dốc mệt hơn xuống dốc. Do đó, Chúa Giêsu kêu gọi phải mau sám hối vì Nước Trời đến gần rồi. Ngài muốn nói đến tương lai gần chứ không phải là tương lai xa – nghĩa là cấp bách, không thể lần lữa, chần chừ, lừng khừng,…

Một lúc sau, khi đang đi dọc theo biển hồ Galilê, Chúa Giêsu thấy hai anh em Anrê và Simôn, cũng gọi là Phêrô, đang quăng chài xuống biển, vì họ là ngư phủ. Ngài bảo họ: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá.” Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Ngài. Rất độc đáo, vì dân chài bình thường nay trở thành dân chài khác thường – chài người chứ không chài cá nữa.

Chúa Giêsu tiếp tục đi thêm một quãng nữa, Ngài thấy hai anh em nhà Dêbêđê – anh là Giacôbê và em là Gioan. Họ đang cùng với cha là ông Dêbêđê vá lưới ở trong thuyền. Ngài gọi hai anh em họ. Lập tức, họ bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Ngài. Anh em nhà này từ nay cũng chỉ chuyên nghề lưới người mà thôi.

Thật lạ lùng nhưng rất tuyệt vời: cả hai cặp anh em đều có điểm chung là lập tức bỏ mọi sự và mau mắn đi theo tiếng gọi của Chúa. Đó là động thái dứt khoát cần thiết, mà muốn dứt khoát thì phải mạnh mẽ và can đảm. Đời sống thường nhật cũng luôn cần các động thái đó, lại càng cần hơn nữa đối với đời sống tâm linh. Đó là điều tất nhiên, nhưng không phải dễ hành động.

Cuối cùng, Thánh Mátthêu cho biết: “Đức Giêsu đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết mọi kẻ bệnh hoạn tật nguyền trong dân.” Đó là dấu hiệu cho biết Nước Trời sắp đến, nghĩa là ở thì tương lai gần. Điều gì sắp sửa xảy ra thì người ta không thể chậm trễ, phải gấp rút, càng mau càng tốt, chuẩn bị càng kỹ lưỡng càng hiệu quả.

Thật đáng quan ngại với ý tưởng của Chân phước Henry Suso: “Người ta thường mua hỏa ngục bằng một cái giá quá đắt, vì họ chịu hy sinh bản thân để làm đẹp lòng thế gian.” Ước gì tất cả chúng ta luôn biết say mê Lời Chúa, vì nhờ ánh sáng đó mới có thể biết đường về Cõi Sống.

Lạy Thiên Chúa, xin ban Thần Khí để biến đổi chúng con nên mới, đủ sức mạnh để vượt qua chính mình, đủ can đảm để buôn bỏ những gì không cần thiết, nhìn thẳng hướng chứ không ngoái lại nhìn lại phía sau, cắt đứt quá khứ để nối dài hiện tại tới tương lai, sẵn sàng và mau mắn vâng ý Ngài dù có lúc chúng con cảm thấy không thoải mái. Xin Ngài tăng lực cho chúng con và ban cho chúng con trí thông minh tâm linh. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC GIÊSU – ÁNH SÁNG CHIẾU SOI TRẦN GIAN

Lm. Đan Vinh

I. HỌC LỜI CHÚA

  1. TIN MỪNG: Mt 4,12-23

(12) Khi Đức Giê-su nghe tin ông Gio-an đã bị nộp, Người lánh qua miền Ga-li-lê. (13) Rồi Người bỏ Na-da-rét, đến ở Ca-phác-na-um, một thành ven biển hồ Ga-li-lê, thuộc địa hạt Dơ-vu-lun và Náp-ta-li. (14) Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a nói: (15) “Này đất Dơ-vu-lun, và đất Náp-ta-li, hỡi con đường ven biển, và vùng tả ngạn sông Gio-đan. Hỡi Ga-li-lê miền đất của dân ngoại ! (15) Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm, đã thấy một ánh sáng huy hoàng. Những kẻ đang ngồi trong vùng bóng tối của tử thần, nay được ánh sáng bừng lên chiếu rọi !” (17) Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần”. (18) Người đang đi dọc theo biển hồ Ga-li-lê, thì thấy hai anh em kia, là ông Si-mon cũng gọi là Phê-rô, và người anh là ông An-rê, đang quăng chài xuống biển, vì các ông làm nghề đánh cá. (19) Người bảo các ông: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. (20) Lập tức hai ông bỏ chài lưới mà đi theo Người. (21) Đi một quãng nữa, Người thấy hai anh em khác con ông Dê-bê-đê, là ông Gia-cô-bê và người em là ông Gio-an. Hai ông này đang cùng với cha là ông Dê-bê-đê vá lưới ở trong thuyền. Người gọi các ông. 22) Lập tức, các ông bỏ thuyền, bỏ cha lại mà theo Người. (23) Thế rồi Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê, giảng dạy trong các hội đường của họ, rao giảng Tin Mừng Nước Trời, và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân.

  1. Ý CHÍNH:

Nghe tin Gio-an Tẩy Giả bị nộp, Đức Giê-su từ Giê-ru-sa-lem lui về Ga-li-lê để tránh bị theo dõi, và hoạt động trong môi trường có nhiều dân ngoại như Ngôn sứ I-sai-a đã tiên báo. Ngươi chọn thành Ca-phác-na-um làm trung tâm truyền giáo và từ đây Người đi các nơi rao gảng Tin Mừng Nước Trời. Nội dung các bài giảng được tóm lại như sau: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến”. Đức Giê-su cũng chọn 4 môn đệ đầu tiên gồm 2 đôi anh em. Một là Si-mon Phê-rô và An-rê đang thả lưới trên biển hồ. Hai là Gia-cô-bê và Gio-an đang vá lưới trong thuyền cùng với cha và các người làm công. Nghe Đức Giê-su kêu gọi, các ông lập tức từ bỏ tất cả mà theo làm môn đệ của Người.

  1. CHÚ THÍCH:

– C 12-13: + Nghe tin ông Gio-an đã bị nộp: Thánh Mát-thêu dùng từ “bị nộp” thay vì “bị bắt” khi nói về Gio-an, giống như khi nói về Đức Giê-su (x. Mt 10,4; 17,22; 26,2). Qua đó cho thấy số phận của Gio-an giống như Đức Giê-su. Dùng từ “bị nộp” ở thể thụ động là có ý nói biến cố xảy ra là do ý của Thiên Chúa. Đức Giê-su bắt đầu rao giảng khi Gio-an chấm dứt sứ mệnh tiền hô dọn đường. + Người lánh qua miền Ga-li-lê: Khác với Gio-an Tẩy Giả, Đức Giê-su lui về Ga-li-lê là vùng đất có nhiều dân ngoại sinh sống, để khởi sự rao giảng Tin Mừng. Cũng tại Ga-li-lê, Người sẽ quy tụ các môn đệ lần cuối cùng để sai đi khắp thế gian, tiếp tục sứ mệnh mà Người khởi sự hôm nay. + Người bỏ Na-da-rét đến ở Ca-phác-na-um: Đức Giê-su đã không chọn quê hương Na-da-rét, nhưng chọn Ca-phác-na-um để bắt đầu sứ mệnh rao giảng. + Một thành ven biển hồ Ga-li-lê: Thành Ca-phác-na-um nằm trong vùng đất định cư của hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li (x. Gs 19,10.32-39).

– C 14-16: + Để ứng nghiệm lời Ngôn sứ I-sai-a nói: I-sai-a tiên báo vùng Ga-li-lê thuộc hai chi tộc Dơ-vu-lun và Náp-ta-li, không những được thoát ách thống trị của quân Át-sy-ri về chính trị quân sự, mà còn được giải phóng khỏi cảnh “tối tăm sầu khổ” do bị dân ngoại chiếm cứ. + Hỡi Ga-li-lê miền đất của dân ngoại: Ga-li-lê là nơi bị khinh dể vì là vùng đất có nhiều dân ngoại sống chung với dân Do thái, và chưa có vị Ngôn sứ nào xuất thân ở đó (x. Ga 1,46). Điều này nằm trong chương trình hành động của Đấng Thiên Sai đã được Ngôn sứ I-sai-a báo trước. + Đoàn dân đang ngồi trong cảnh tối tăm: Mát-thêu ứng dụng việc Đức Giê-su đến làm cho miền đất này khỏi bóng tối sự chết bằng việc rao giảng Tin Mừng Nước Trời. “Ánh sáng huy hoàng” là chính Đức Giê-su biểu lộ khi Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,2), và tiếp tục chiếu rọi khi Chúa Phục Sinh hẹn gặp các môn đệ để sai họ đi truyền giáo (x Mt 28,16-20).

– C 17-18: + Từ lúc đó, Đức Giê-su bắt đầu rao giảng và nói: Đối với Mát-thêu thì đây là thời điểm Đức Giê-su bắt đầu thi hành sứ mệnh cứu thế tại Ga-li-lê. Lời giảng được Mát-thêu tóm gọn trong câu: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”. Đây cũng là nội dung mà Đức Giê-su truyền cho các môn đệ khi sai các ông đi truyền giáo (x. Mt 10,7). + “Anh em hãy sám hối”: Câu này giống như lời rao giảng của Gio-an Tẩy Giả trước đó (x. Mt 3,2). + Vì Nước Trời đã đến gần: Nước Trời, hay cũng gọi là Nước Thiên Chúa. Vì Mát-thêu viết Tin Mừng cho người Do thái, nên tránh gọi tên Thiên Chúa để biểu lộ lòng kính trọng Thánh Danh của Người trong điều răn thứ hai: “Chớ kêu tên Đức Chúa Trời vô cớ”. Nước Thiên Chúa là một cộng đoàn do Thiên Chúa cai quản. Nước này đã tới gần trong con người và sứ vụ của Đức Giê-su. + Biển hồ Ga-li-lê: Là một biển hồ hồ hình quả trám dài 21 cây số, rộng 12 cây số, cũng có tên là hồ Giê-nê-sa-rét hay Ti-bê-ri-a. + Si-mon cũng gọi là Phê-rô: Si-mon là tên của Phê-rô trước khi theo Đức Giê-su. Đức Giê-su đã đổi tên Si-mon thành Phê-rô nghĩa là “Tảng Đá” (x. Mt 16,18).

– C 19-20: + Kẻ lưới người như lưới cá: Đức Giê-su sẽ trao sứ mệnh đánh lưới các linh hồn người ta, giống như đi chài lưới bắt cá. + Lập tức bỏ chài lưới: Đây là thái độ dứt khoát và mau mắn đáp lại lời mời gọi của Đức Giê-su: bỏ nghề cũ để theo nghề mới.

– C 21-23: + Gia-cô-bê: Đây là Gia-cô-bê Tiền nghĩa là theo Chúa trước, phân biệt với Gia-cô-bê Hậu theo Chúa sau. Gia-cô-bê với em là Gio-an cùng Si-mon Phê-rô làm thành nhóm ba người thân tín của Đức Giê-su. Nhóm này được đi theo Đức Giê-su và được chứng kiến Người hiển dung trên núi cao (x. Mt 17,1). Trong cuộc khổ nạn, ba người này cũng được theo Người vào vườn Ghết-sê-ma-ni chứng kiến Người cầu nguyện trước khi bị bắt (x. Mt 26,37-46). + Lập tức các ông bỏ thuyền bỏ cha…: Cũng như Si-mon và An-rê lập tức bỏ nghề, Gia-cô-bê và Gio-an cũng dứt khoát từ bỏ tài sản là thuyền, và từ giã người thân là cha già mà theo làm môn đệ Đức Giê-su. + Đức Giê-su đi khắp miền Ga-li-lê: Việc truyền giáo cần phải năng động. Đức Giê-su và các môn đệ đi đây đi đó khắp miền Ga-li-lê rao giảng Tin Mừng Nước Trời. + Chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân: Viêc chữa bệnh là dấu chỉ thời đại Thiên Sai đã bắt đầu (x. Mt 10,8; 11,4-5).

  1. CÂU HỎI:

1) Tại sao Mát-thêu dùng kiểu nói “Sau khi Gio-an bị nộp” thay vì “bị bắt”? 2) Gio-an Tẩy Giả rao giảng phép rửa sám hối tại miền nào, và Đức Giê-su khởi sự rao giảng Tin Mừng Nước Trời tại miền nào? 3) Đức Giê-su đã làm gì để chiếu soi ánh sáng huy hoàng của Người vào miền Ga-li-lê đang ở trong bóng tối sự chết? 4) Lời giảng của Đức Giê-su được tóm lại trong câu nào? 5) Tại sao Mát-thêu dùng từ “Nước Trời đã đến gần” thay vì “Nước Thiên Chúa đã đến gần” như Lu-ca? 6) Bạn biết gì về biển hồ Ga-li-lê? 7) Phê-rô là ai? Tên Phê-rô nghĩa là gì và ông được Đức Giê-su đổi tên khi nào? 8) Trong Nhóm 12 có mấy ông tên Gia-cô-bê ? Tại sao lại gọi là Gia-cô-bê Tiền hay Gia-cô-bê Hậu? 9) Noi gương bốn môn đệ đầu tiên, ngày nay chúng ta nên làm gì khi được Chúa mời gọi đi theo Chúa? 10) Đức Giê-su nêu gương nhiệt tình đi loan báo Tin Mừng như thế nào? Người thi hành sứ mệnh bằng những việc gì?

II. SỐNG LỜI CHÚA:

  1. LỜI CHÚA: “Ánh sáng của anh em phải chiếu giãi trước mặt thiên hạ, để họ thấy việc tốt đẹp anh em làm, mà tôn vinh Cha anh em, Đấng ngự trên trời” (Mt 5,16).
  2. CÂU CHUYỆN:

1) ÁNH SÁNG HY VỌNG ĐÃ XUẤT HIỆN GIỮA ĐÊM TỐI:

Chiều hôm ấy, hai cậu bé rủ nhau vào rừng chơi. Thế rồi một trận mưa bất thần đổ xuống. Mưa dai dẳng suốt hai tiếng đồng hồ. Đến lúc tạnh thì trời đã tối. Hai cậu bé vừa lạnh lại vừa sợ. Nỗi sợ hãi càng gia tăng khi hai cậu bé không còn tìm thấy con đường dẫn về nhà. Nhưng rồi một ánh sáng bỗng xuất hiện từ xa. Hai cậu bé khấp khởi mừng thầm. Cả hai đều cố gắng vừa kêu vừa gọi. Thì ra người anh đang cầm chiếc đèn đi tìm hai cậu bé. Và cuối cùng đã đưa hai cậu bé trở về tới nhà an toàn.

2) MAU MẮN ĐÁP LẠI TIẾNG CHÚA KÊU GỌI:

Ơn gọi của Mẹ Têrêsa Calcutta là một thí dụ. Mẹ sinh năm 1910 tại Nam Tư. Năm 18 tuổi Mẹ nhập dòng Đức Bà Lorettô ở Ái Nhĩ Lan. Sau đó được cử sang Ấn Độ để vào tập viện. Mẹ đã cống hiến gần 20 năm trời cho việc dạy môn địa lý tại một trường của nhà dòng dành cho các thiếu nữ thuộc những gia đình khá giả. Nếu Chúa không lên tiếng gọi, thì chắc cuộc đời Mẹ sẽ trôi đi êm đềm bên đám học trò giàu có. Thế rồi vào một ngày nọ, nhân đi qua một đường phố ở Calcutta, Mẹ bắt gặp một người đàn bà đang hấp hối trên vỉa hè. Chuột và kiến đã kéo đến gặm nhấm con người bất hạnh đó. Mẹ liền vực người thiếu phụ tới nhà thương. Mẹ nhất định cứ đứng ở trước cổng cho đến khi người ta mở cửa đón nhận bệnh nhân sắp chết. Từ biến cố này, Mẹ cảm nhận được lời mời gọi của Chúa, muốn Mẹ hãy dấn thân cho những kẻ bị bỏ rơi. Và thế là Mẹ đã xin ra khỏi dòng, đến sống ở một khu vực tăm tối của thành phố. Chắc hẳn lúc đó, Mẹ không ngờ mình sẽ là người sáng lập nên một hội dòng mới chuyên lo việc bác ái, giúp đỡ những người nghèo khổ trên khắp thế giới.

3) THÓI THAM LAM ÍCH KỶ LÀ NGUỒN GỐC PHÁT SINH MỌI TỘI ÁC:

Chuyện kể một nhà buôn nọ rất sùng đạo. Mặc dầu vất vả làm ăn nhưng anh ta không bao giờ bỏ việc khấn vái với các thánh. Gặp thời kỳ phải cạnh tranh gay gắt trong công việc làm ăn, anh ta lại càng đi cầu khấn gấp bội.

Động lòng trắc ẩn, một hôm một sứ thần đã hiện ra với anh và nói: “Thấy con thành tâm cầu xin nên Chúa không nỡ chối từ và sai ta đến với con. Vậy bây giờ con hãy cho ta biết con ước muốn điều gì, để ta sẽ thay quyền Chúa ban cho… Đồng thời để chứng tỏ cho loài người biết lòng quảng đại của Thiên Chúa, thì hễ con nhận được một điều gì, thì Chúa nhân từ cũng sẽ ban cho các đồng nghiệp hay hàng xóm của con được gấp đôi như thế”.

Nghe sứ thần phán, lòng anh thương gia từ chỗ vui mừng hân hoan biến thành sầu buồn tức giận. Anh tự nhủ: “Nếu bây giờ mình xin một chiếc Lexus thì mấy thằng bạn… sẽ được hai chiếc. Ái dà, thế thì không được! Nhưng nếu mình xin cho được trúng số 5 triệu thì mấy nhà hàng xóm… sẽ được tới 10 triệu. Thế lại càng không được! Còn nếu mình xin được vợ đẹp con khôn thì đồng nghiệp của mình lại sẽ có vợ đẹp gấp đôi vợ mình, con khôn gấp đôi con mình. Đó là chưa nói tới chuyện chúng nó có tới hai vợ, còn mình chỉ có một… Trong thời buổi cạnh tranh thế này thì mình phải làm sao hơn bọn chúng chứ! “.

Anh nhà buôn nhíu mày suy nghĩ đắn đo. Một lát sau, chợt anh ta reo lên như vừa tìm ra điều gì thú vị. Anh đến quì xuống và thưa với sứ thần: “Lạy Sứ thần, xin cầu cùng Chúa cho con bị đui một con mắt”.

Quả là một lời khẩn cầu quái lạ! Anh ta không xin cho mình được may mắn vì sợ người khác được may lành gấp đôi. Cuối cùng anh đã xin cho mình bị rủi ro để kẻ khác bị hại gấp đôi mình,  là xin cho anh bị đui một con mắt để những kẻ kia bị mù cả hai mắt luôn. Đây thật là một con người tiểu nhân và quá nhẫn tâm !!!

4) VIỆC BÁC ÁI LÚC CÒN SỐNG ĐÁNG QUÝ HƠN SAU KHI CHẾT

Một người kia rất giàu tiền bạc của cải. Ông có lòng tốt dự định sẽ di chúc lại toàn bộ tài sản của mình sau khi chết để các tổ chức từ thiện lo phục vụ cho người nghèo. Nhưng đi đến đâu ông cũng chỉ nhận được những cái nhìn khinh thường của mọi người. Ông ta liền tìm đến một ẩn sĩ nổi tiếng khôn ngoan và hỏi: “Thưa thầy, tại sao dù tôi đã làm chúc thư để lại toàn bộ gia sản lớn lao của tôi cho các công việc từ thiện bác ái, thế mà nhiều người vẫn nghĩ tôi là loại người keo kiệt và khinh thường tôi. Vậy tôi phải làm gì để họ biết về lòng quảng đại của tôi và kính trọng tôi hơn ?”

Thay vì trả lời trực tiếp câu hỏi của người giàu có kia, vị ẩn sĩ đã kể cho ông ta nghe một câu chuyện như sau: “Có một chú heo nọ một hôm gặp chị bò sữa liền mở miệng than thở như thế này: Này chị bò, tôi và chị đều cống hiến thịt mình làm thức ăn cho loài người. Thế mà thật đáng buồn ! Tôi thấy họ tỏ ra thân thiện và âu yếm vuốt ve chị. Còn tôi thì lại bị khinh dể xa lánh ?” Ngẫm nghĩ một lát rồi chị bò cái mới ôn tồn trả lời chú heo rằng: “Quả thật cả hai chúng ta đều cung cấp cho loài người thịt để ăn sau khi chúng ta chết. Nhưng sở dĩ họ quí mến tôi hơn chú, theo tôi nghĩ có lẽ là vì ngay từ bây giờ lúc còn sống, mỗi ngày tôi đều cống hiến cho họ sữa tươi để uống chăng ?”

Câu trả lời của chị bò sữa dạy chúng ta: “Của cho không bằng cách cho” và “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”. Cho người khác những cái họ đang cần thì tốt hơn để lại chúc thư cho họ của cải sau khi mình chết, khi mình không thể sử dụng được nữa. Điều người khác cần nơi chúng ta không những là tiền bạc của chúng ta, mà còn là tình thương, sự quan tâm của chúng ta. Muốn được người khác quý mến kính trọng thì chúng ta phải quan tâm đến kẻ khác trước, cởi mở tâm hồn với họ, mở rộng trái tim để yêu thương và sẵn sàng đáp ứng nhu cầu của họ.

5) QUẢNG ĐẠI DẤN THÂN PHỤC VỤ NGƯỜI NGHÈO:

Năm 1950, một hội nghị đại diện 17 quốc gia đã bầu ALBERT SCHWEITZER làm “người hùng của thế kỷ”. Hai năm sau (1952). Albert Schweitzer được giải thưởng Nobel hoà bình. Schweitzer được toàn thế giới tuyên dương là một thiên tài đa dạng: Ông vừa là một triết gia lừng danh, một nhà thần học nổi tiếng, một sử gia đáng kính, một nhạc công sôlô trong dàn nhạc và còn là một bác sĩ thừa sai nữa.

Nhưng điểm nổi bật nhất nơi ông là niềm tin Ki-tô giáo sâu sắc. Chính niềm tin này đã khiến ông thành “người hùng của thế kỷ”: Năm 21 tuổi, Schweitzer tự hứa với mình là sẽ nghiên cứu nghệ thuật và khoa học cho đến năm 30 tuổi, rồi sẽ cống hiến cuộc đời còn lại cho những người thiếu thốn bằng một hình thức phục vụ trực tiếp nào đó. Và thế rồi, vào sinh nhật thứ 30 của ông, nhằm ngày 13/10/1905, ông đến một hộp thư ở Paris gởi một số thư về cho bố mẹ và bè bạn thân thiết nhất, báo cho họ biết ông sắp sửa ghi tên vào đại học để lấy bằng y khoa, sau đó ông sẽ đi Phi Châu sống như một bác sĩ thừa sai để phục vụ đám dân nghèo.

Những lá thư của ông lập tức bị phản đối ngay. Bà con và bè bạn ông đồng loạt phản đối dự tính mà họ cho là điên rồ của ông. Họ bảo ông là một người đem chôn dấu tài năng đã được uỷ thác cho ông… Tuy nhiên, Schweitzer vẫn khăng khăng thực hiện những ý định của mình. Năm 38 tuổi, ông trở thành một bác sĩ y khoa thực thụ. Năm 43 tuổi, ông đến Phi Châu mở một bệnh viện cạnh bờ rừng của khu vực gọi là Phi Châu xích đạo. Tại đây, ròng rã suốt hơn bốn mươi năm trời, ông đã dùng hết tài năng và sức lực để đêm ngày tận tuỵ săn sóc những người dân bản xứ nghèo nàn bệnh tật, với tất cả tình yêu thương và lòng nhân ái. Sau cùng ông đã chết ở đó vào năm 1965, hưởng thọ 90 tuổi.

Thưa anh chị em, động lực nào đã khiến ông Schweitzer quay lưng lại với danh vọng và của cải trần gian để dấn thân làm việc cho đám dân cùng khổ nhất trong đám dân nghèo ở Phi Châu?

Theo lời ông, thì một trong những động cơ thôi thúc ông làm điều đó chính là do ông suy gẫm Tin Mừng của Chúa Giê-su. Ông đã lắng nghe tiếng gọi của Chúa và quyết tâm đáp lại bằng cách dấn thân phục vụ dân nghèo ở Phi Châu như có lần ông đã phát biểu: “Tôi không thể hiểu được tại sao tôi lại được phép sống một cuộc đời hạnh phúc như thế, đang khi chung quanh tôi còn biết bao người đang quằn quại trong đau khổ”.

  1. SUY NIỆM:

1) ĐỨC GIÊ-SU VỀ MIỀN GA-LI-LÊ:

Khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng, Đức Giê-su đã không chọn thủ đô Giêrusalem, tuy hầu hết theo đạo Mô-sê, nhưng vua chúa thì độc ác, đã từng tìm bách hại Người ngay từ khi mới sinh và gần đây còn ra lệnh chém đầu Gio-an là vị Tiền Hô dọn đường cho Người. Còn các đầu mục Do thái là các thượng tế, kinh sư, và biệt phái thì lòng chai dạ đá, không chấp nhận một Đấng Thiên Sai không theo ý mà họ đang mong chờ.

Đức Giê-su đã chọn Galilêa là vùng dân ngoại sống lẫn lộn với dân Do thái, nhưng lại sẵn sàng đón nhận Tin Mừng Nước Trời của Người. Galilêa còn là miền đất bị người Do thái khinh miệt, coi là của ngoại bang. Ngay từ ban đầu Đức Giê-su đã không đóng khung Tin Mừng Nước Trời trong Đền thờ, vì Người muốn Giáo Hội Người thiết lập phải không ngừng ra đi, đến với mọi dân tộc, ngôn ngữ, nhất là đến với những người nghèo khó, bệnh tật, tội lỗi và bị bỏ rơi.

2) ĐỨC GIÊ-SU KÊU GỌI 4 MÔN ĐỆ ĐẦU TIÊN:

Đức Giê-su không làm việc một mình, nhưng Người muôn cho có nhiều người cùng hợp tác trong sứ vụ loan báo Tin Mừng. Người mời gọi hai anh em Si-mon Phê-rôvà An-rê: “Các anh hãy theo tôi, tôi sẽ làm cho các anh thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Người cũng gọi hai anh em con ông Giê-bê-đê là Gia-cô-bê và Gio-an đi theo làm môn đệ của Người (x. Mt 4,19-21). Sau đó Người vào giảng dạy trong các hội đường Do thái, rao giảng Tin Mừng và chữa hết các bệnh hoạn tật nguyền của dân (x. Mt 4,23). Người không đóng khung ở một nơi, nhưng luôn đi từ làng này sang làng khác, để thi hành sứ vụ như Người đã nói: “Chúng ta hãy đi nơi khác, đến các làng xã chung quanh, để Thầy còn rao giảng ở đó nữa. Vì Thầy ra đi cốt để làm việc đó” (Mc 1,38).

3) TIÊU CHUẨN CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ THỜI CHÚA GIÊ-SU:

Đức Giê-su không lựa chọn môn đệ ở trong Đền thờ, nơi có nhiều nhà thông hiểu Kinh thánh và Lề luật, nhưng chọn môn đệ là những người thuyền chài ít học, sẵn sàng từ bỏ mọi sự mà đi theo Người.

– PHẢI CÓ TINH THẦN TỪ BỎ: Bài Tin Mừng hôm nay cho thấy, đang lúc đi dọc theo bờ biển, Ngài đã gọi hai ông Si-mon và An-rê: “Các anh hãy theo tôi. Tôi sẽ làm cho các anh trở thành những kẻ lưới người như lưới cá”. Liền sau đó, Ngài cũng đã gọi Giacôbê và Gio-an  . Thái độ của họ là lập tức bỏ chài lưới, bỏ ghe thuyền, bỏ cha già và những người làm công mà đi theo làm môn đệ Người (x. Mt 4,20.22);.

– CÁC ĐỨC TÍNH CỦA NGƯỜI TÔNG ĐỒ: Ngoài việc từ bỏ mọi sự, các ông còn cần tin Đức Giê-su chính là Đấng Thiên Sai (x. Mt 16,16) và trung thành theo Người đến cùng (x. Ga 6,67-69); Các ông phải có lòng khoan dung tha thứ lỗi lầm của kẻ khác và biết tế nhị khi sửa lỗi cho nhau (x. Mt 18,15-17); Phải có tinh thần khiêm hạ để phục vụ tha nhân noi gương Đức Giê-su (x. Mt 20,24-28); Phải có lòng mến Thầy hơn những người khác (x. Ga 21,15-17), vì lòng mến là điều kiện cần phải có để được Chúa tha tội (x. Lc 7,47) và để có thể hăng say rao giảng Tin Mừng (x. 2 Cr 5,14); Cần biết xin ơn Chúa trợ giúp: “Vì không có Thầy anh em chẳng làm gì được” (Ga 15,5); Phải khôn ngoan phòng tránh các cạm bẫy và luôn công minh chân thật để gây được thiện cảm với mọi người (x. Mt 10,16); Phải can đảm để làm chứng cho Chúa (x. Mt 10,23) và không chùn bước trước các đe dọa cấm cách (x. Mt 10,26-31); Phải sống yêu thương hiệp nhất với nhau, vì là dấu chỉ của người môn đệ đích thực của Đức Giê-su (x. Ga 13,34).

4) HÀNH TRÌNH LOAN BÁO TIN MỪNG HÔM NAY:

Đức Giê-su đã kêu gọi các môn đệ và các ông đã mau mắn đáp trả bằng việc từ bỏ mọi sự mà đi theo, để được sống thân tình với Người, được Người sai đi thực tập truyền giáo và cuối cùng phải “Nhân danh Người mà rao giảng cho muôn dân, bắt đầu từ Giê-ru-sa-lem, kêu gọi họ sám hối để được ơn tha tội” (Lc 24,46-47).

Loan báo Tin Mừng trong thế giới và trong xã hội Việt Nam hôm nay, không phải chỉ lo về số lượng là nhiều người lương chịu phép rửa tội, nhưng trước hết phải có chất lượng là thấm nhuần tinh thần Phúc Âm trong tư tưởng lời nói, cách ứng xử của mỗi tín hữu. Rồi phải lo đưa tinh thần lối sống hiệp nhất yêu thương vào trong gia đình, khu xóm và nơi làm việc của mình.

  1. THẢO LUẬN:

1) Kèm theo lời giảng, Đức Giê-su đã chữa bệnh và trừ quỷ. Theo bạn, người rao giảng Lời Chúa hôm nay cần làm gì kèm theo việc rao giảng, để dễ được người nghe đón nhận ? 2) Hôm nay, bạn sẽ đáp trả tiếng Chúa thế nào khi được mời tham gia các sinh hoạt hội họp cầu nguyện và làm công tác trong các hội đoàn tông đồ?

  1. NGUYỆN CẦU:

LẠY CHÚA GIÊ-SU. Hôm nay xin Chúa dạy chúng con biết chiếu ánh sáng của Chúa qua thái độ luôn tươi cười, ngay cả những lúc xem ra cuộc đời không mỉm cười với chúng con. Xin cho chúng con biết yêu mến cuộc sống, dù không phải lúc nào cuộc sống cũng là màu hồng đáng yêu. Thực ra, chúng con luôn có nhiều lý do để lo âu chán nản và muốn bỏ cuộc. Nhưng xin Chúa đừng để nụ cười bị tắt trên môi chúng con. Xin cho chúng con ý thức rằng: “Một vị thánh buồn là một vị thánh đáng buồn !”. Ước gì chúng con luôn thấy mình thật hạnh phúc vì được Chúa yêu thương. Xin cho chúng con luôn mang niềm vui của Chúa, để làm cho gia đình, khu xóm, xí nghiệp trường học con đang sống được tràn đầy niềm vui và ơn cứu độ của Chúa.

X) HIỆP CÙNG MẸ MA-RI-A.- Đ) XIN CHÚA NHẬM LỜI CHÚNG CON.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...