08/09/2022
1741

CHÚA NHẬT 24 THƯỜNG NIÊN_C

Xh 32,7-11.13-14; 1Tm 1,12-17; Lc 15,1-32
 

Mục lục

1. Thương xót và niềm vui  (TGM. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Tình đẹp nhất  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

3. Lạm dụng Lòng Thương Xót (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Thiên Chúa tìm kiếm con người (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

5. Chung chia niềm vui của Chúa  (Bông Hồng Nhỏ, MTG.Thủ Đức)

6. Chia sẻ niềm vui  (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

7. Hối cải.  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

8. Thà yêu lầm còn hơn bỏ sót (Lm. Giuse Nguyễn văn Nghĩa)

9. Màu tím buồn với người con thứ (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Người Cha Nhân Hậu (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

11. Mất mát  (Lm. Vũ Đình Tường)

12. Tìm về  (Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng)

13. Xin chung vui với tôi (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

14. Mất – Tìm – Mừng (Lm. Vũ Xuân Hạnh)

15. Chiêm ngắm tình yêu Chúa Cha: Trái tim ta mở ra (Lm. Đaminh Hương Quất)

16. Niềm nở tiếp đón người tội lỗi (Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

17. Thiên Chúa đi tìm (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

18. Nghịch lý của tình yêu Thiên Chúa (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

19. Hãy chia vui với Chúa(PM. Cao Huy Hoàng)

20. Niềm vui khi tìm gặp lại (Lm. Nguyễn Ngọc Long)

 

THƯƠNG XÓT VÀ NIỀM VUI

TGM Giuse Vũ Văn Thiên

Đề tài lòng thương xót của Thiên Chúa rất phong phú, dễ đánh động con tim và tâm tình đạo đức của người tín hữu. Vì thế mà từ khi Thánh Gioan Phaolô II khởi xướng và cổ võ hình thức cầu nguyện kính Lòng Chúa thương xót, trong Giáo Hội đã có biết bao người tham gia cầu nguyện và thực tế họ đã nhận được rất nhiều ơn lành.

Tuy vậy, trong quan niệm của nhiều người, cầu nguyện tôn vinh lòng lòng thương xót Chúa đi liền với xin ơn chữa lành, cho nên người ta đến cầu nguyện chỉ với mục đích được chữa khỏi bệnh tật, nhất là những bệnh nan y. Có người đã mất đức tin và bỏ cầu nguyện vì họ xin ơn chữa lành mà không được nhận lời. Thực ra, việc tôn kính lòng thương xót của Thiên Chúa không dùng lại ở những lời kinh, mà phải giúp cho con người thương xót tha nhân, tức là thực thi lòng thương xót trong cuộc sống hằng ngày. Nhận ra lòng thương xót của Chúa, mỗi chúng ta cũng phải có trái tim nhân hậu đối với đồng loại, để lòng thương xót như một dòng chảy yêu thương, đem an vui cho mọi người.

Thánh Luca đã tổng hợp ba dụ ngôn về lòng thương xót của Thiên Chúa ở chương 15. Mỗi dụ ngôn mang một sắc thái khác nhau, nhưng cả ba đều mang nội dung nói về tình thương bao la của Chúa. Trong ba dụ ngôn này, dưới ngòi bút của tác giả, Thiên Chúa rộng rãi bao dung đến mức “phung phí” lòng thương xót. Quả vậy, một con chiên lạc so với 99 con còn lại, một đồng bạc bị mất so với 9 đồng bạc vẫn còn thật chẳng đáng là bao, nhưng Chúa vẫn để ý tới và tìm cho bằng được. Khác với lối suy nghĩ của chúng ta. Nhiều khi chúng ta sẵn sàng bỏ đi những điều nhỏ mọn, nhưng Chúa lại quan tâm đến từng chi tiết.

Việc tìm thấy một con chiên hoặc một đồng bạc, xem ra đơn giản, mà lại là niềm vui lớn lao của người sở hữu chúng. Đó không chỉ là niềm vui của cá nhân, nhưng là niềm vui của cả một tập thể. Đó không chỉ là niềm vui dưới đất, nhưng là niềm vui trên trời. Chúa Giêsu đã nói rõ, một người trở về không chỉ là niềm vui của con người, nhưng là niềm vui của Thiên Chúa và triều thần thánh trên trời. Niềm vui ấy thật lớn lao, làm cho người mục tử quên hết mọi mệt nhọc trong việc tìm kiếm. Cả ba trường hợp, người mục tử, người phụ nữ và người cha, đều mời hàng xóm láng giềng đến để chia vui. Người cha trong dụ ngôn còn thết đãi cả làng với thịt con bê mà ông đã chăm sóc vỗ béo. Ông tin chắc có ngày cậu con trai hoang đàng sẽ trở về. Vì vậy, ông chuẩn bị sẵn nhẫn, giày, quần áo và những gì cần thiết cho một bữa tiệc. Những đồ trang sức này thường được dùng cho một tiệc cưới. Ngày cậu con trai trở về, cũng là một tiệc cưới, là niềm vui không chỉ cho người cha mà cho cả xóm làng. Niềm vui được nhân lên khi được chia sẻ với người khác.

Tuy vậy, niềm vui ấy xem ra không được trọn vẹn, vì theo thói đời, vẫn luôn có những ghen tỵ thù ghét. Đó là tâm trạng của người anh cả. Anh nổi giận vì sự trở về của người em. Có thể anh sợ người em sẽ chiếm gia tài. Lòng thù hận và tư lợi ngăn cản không cho người khác phục thiện. Con đường trở về, vừa phải gạt bỏ những mặc cảm thành kiến, vừa phải đối diện với những thù hận của chính những người thân. Lộ trình phục thiện xem ra đơn giản mà cũng lắm gian truân. Có những người vì lỡ lầm mà sa vào cảnh tù tội, sau khi mãn hạn tù, trở về quê hương muốn sống như một người bình thường cũng không được yên, vì con mắt dò xét và thành kiến của những người xung quanh. Những ngôn từ của người anh cả trong Tin Mừng cho thấy anh đã nung nấu mối hận thù. Anh không còn coi em mình là huyết nhục, mà như người dưng, thậm chí như kẻ thù. Vì thế, việc người em trở về làm cho anh thấy khó chịu.

Thiên Chúa là Cha của người tốt cũng như của người xấu. Ngài xót thương và không giáng phạt dân Do Thái phản nghịch (Bài đọc I). Vòng tay của Ngài vừa giang rộng đón người con thứ, vừa choàng lên vai của người con cả để anh cảm nhận được lòng xót thương. Ngài không muốn loại trừ ai, bất kể người đó như thế nào. Nước mắt của người cha nhỏ xuống khi người con thứ ra đi. Dòng lệ ấy cũng tuôn chảy khi người con cả bất bao dung với em mình. Trước khi trở lại, Phaolô là người hăng say tìm giết các Kitô hữu. Cuộc gặp gỡ Chúa Giêsu trên đường đi Damas đã biến đổi cuộc đời của ông Phaolô là chứng nhân của lòng Chúa thương xót (Bài đọc II). Ước chi mỗi chúng ta cũng hãy trở nên chứng nhân của lòng Chúa thương xót, để rồi, “nơi đâu có cộng đoàn tín hữu, là ở nơi đó có thành trì của lòng xót thương” (Đức Thánh Cha Phanxicô).

Về mục lục

.

TÌNH ĐẸP NHẤT

Lm. Jos. DĐH.

Tình yêu đẹp và nóng bỏng, mọi người đều cho rằng đó là cặp đôi: trai tài gái sắc, đại loại như, Sơn Tinh lấy được Mỵ Nương, Mỵ Châu lấy được Trọng Thuỷ. Tính bền vững và hạnh phúc không phai mờ trong tình yêu, nhiều người vẫn quan niệm là tuỳ vào sự thuỷ chung giữa đôi bên. Tình yêu đẹp và giá trị là tình yêu chân thật, là tình yêu không tính toán hơn thiệt, mà chỉ muốn tốt cho người mình yêu, đặc tính cao đẹp ấy, người ngoài cuộc lại cho rằng đó là sự mù quáng của tình yêu. Tiền nhân của chúng ta thật dồi dào kinh nghiệm khi nói về tình yêu: trăng khuyết rồi trăng lại tròn ; đá có mòn, nhưng tình không mòn đâu. Dù tình đôi lứa, hay tình máu mủ ruột thịt, đều để lại một cảm xúc thiêng liêng vô cùng to lớn, sống động trong tâm tư mỗi người.

Thời nào cũng thế, lời dễ nghe nhất bao giờ cũng là những lời ngọt ngào yêu thương, nghĩa cử đánh động lòng người hơn cả vẫn là những việc làm âm thầm, không phô trương. Năm xưa, có đủ mọi thành phần: người tốt lành, kẻ tội lỗi, cùng các luật sĩ, biệt phái, họ tìm gặp Đức Giêsu để được nghe, được xem tận mắt, bậc hiền tài mà thiên hạ gọi là Ngôn sứ, là Con Thiên Chúa. Rất có thể người nghèo đi tìm của ăn, người bệnh tìm thầy thuốc, kẻ thất nghiệp lang thang kiếm việc làm, và chắc chắn người giầu, người đạo đức, đi tìm bình an, tìm tình yêu. Suy nghĩ đơn giản nhất về đám đông hôm đó, không biết có phải do “thiếu tình”, chưa đủ hạnh phúc, hoặc vì tài đức của Thầy Giêsu quả là song toàn trước mọi đối tượng lúc bấy giờ ?

Nếu như ở ngoài xã hội người ta nói tình chỉ đẹp khi còn dang dở, nghe hơi “uỷ mị”, và có nguy cơ nhầm lẫn không còn biết thế nào là tình chuẩn mực ! Trong khi Đức Giêsu lại khẳng định với toàn thể nhân loại: tình đẹp là tình đơn sơ chân thành đến mức dại khờ, không phải vì không biết tính toán, nhưng vì yêu, người mục tử dám bỏ 99 con chiên trên núi đi tìm con chiên lạc. Cũng không phải bà già “lẩm cẩm” hay nhàn dỗi quá, đến độ hao tốn nhiều công sức tìm kiếm cho đến khi thấy được đồng bạc bị mất, khi mà Đức Giêsu muốn diễn tả tính thuỷ chung giữa vạn vật mà Thiên Chúa tạo thành. Tiếp đến, Đức Giêsu dẫn mọi người đi sâu vào gia đình nhân loại, đưa mọi phần tử xã hội xích lại gần hơn với “tình cha” yêu thương con trưởng, con thứ, dù chúng bất xứng hư hỏng.

Tình đẹp nhất nơi người mục tử tìm chiên lạc, là gặp được chiên, thuyết phục được chiên bướng bỉnh, và đưa chúng về đoàn tụ trong đồng cỏ Nước trời. Tình đẹp nhất nơi người phụ nữ tìm đồng bạc bị rơi rớt, là sự cao quý mà bà ta hiểu tiền nhỏ hay tiền to vẫn là tiền, đừng nghĩ đến giá trị lớn bé. Tình đẹp nhất, đáng ghi tâm nhất, đó là người cha già đã thức tỉnh được hai đứa con, và hạnh phúc đến độ: “hãy vui mừng vì con ta đây đã mất nay tìm thấy, đã chết nay sống lại”. Tình đẹp nhất nơi hai bạn trẻ đang yêu, không gì khác hơn là mơ ước được ở bên nhau, giữ mãi được mùi hương yêu thương. Tình đẹp nhất mà Đức Giêsu muốn nói với: người thu thuế, các luật sĩ, biệt phái, và đám đông chúng ta, chính là mau mau nhận biết Thiên Chúa giầu lòng thương xót, qua đó hãy sám hối tội lỗi bất xứng của mình để được thứ tha, yêu thương.

Truyện kể rằng: có một vị thí chủ tìm gặp lão Phật gia, ông hỏi: thưa lão Phật gia trước khi đắc đạo ngài làm gì ? Oh, bần đạo đốn củi, gánh nước, nấu cơm. Vậy sau khi đắc đạo, ngài làm gì ? Cũng đốn củi, gánh nước, nấu cơm. Vậy có gì khác nhau đâu ? Có khác đó thưa thí chủ: lúc trước đốn củi, bần đạo lo nghĩ tới việc gánh nước, rồi lúc gánh nước lại mải mê nghĩ tới việc nấu cơm ; còn bây giờ đốn củi cứ đốn củi, gánh nước thì cứ gánh nước, và nấu cơm cứ lo nấu cơm. Chính tình yêu biến đổi tâm tính của bần đạo đó. Tình yêu của con người từ xa xưa tới nay vẫn là tình yêu có chủ đích: muốn được, muốn nhiều hơn, muốn thụ hưởng một mình, cũng do sự giới hạn, mà con cái quên cả thân phụ mẫu, nét đẹp phu thê bị tàn phài. Trong khi tình yêu của Thiên Chúa là muốn cho đi, muốn ban phát rộng rãi, không phân biệt, không kỳ thị…, con người lại thiếu nhạy bén, dửng dưng, bất cần !

Tình yêu đẹp nhất là gì ? Có phải là muốn gì được đó không ? Hay là khi ta được sức khoẻ vô biên, tài trí sung mãn ? Câu trả lời cũng gần giống như khi ta muốn quên đi một mối tình giả dối, thì lý tưởng nhất phải là thời gian và người mới. Có thời gian, ta sẽ thấm nhuần, sẽ hiểu tại sao tình yêu lại cao đẹp và trân trọng hơn cả vàng bạc châu báu ? Con người có mới thật, tâm tính ổn định thật, ta sẽ đủ cảm nhận con người phát xuất từ cội nguồn yêu thương. Nếu thời gian và người mới vẫn chưa làm ta quên đi được tình cũ, con người cũ, thì phải xét lại, chắc chắn là thời gian chưa đủ dài và người mới của ta chưa thật là mới, là tốt. Tình đẹp nhất và linh thiêng nhất, chính là lúc mọi người biết sám hối ăn năn, hầu nhận ra Thiên Chúa là Cha quyền năng và đầy tràn yêu thương. Amen.

Về mục lục

.

LẠM DỤNG LÒNG THƯƠNG XÓT

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Chị Thảo, người đang nổi như cồn trên mạng xã hội khi khoe trên facebook mỗi năm chị đốt hết 20 tỉ của Bố, tức ông Nguyễn Mạnh Thắng – Bí thư Đảng ủy, chủ tịch HĐQT Sông Đà 7, đã 5 lần chị báo bố làm gỏi nhẹ nhàng 100 tỉ, ngọt như mía đường.

Tuy nhiên, ông Thắng không hề trách mắng mà chỉ nói: “Của con cả thôi. Lấy bao nhiêu thì lấy. Mở gì thì mở”. Cũng trên trang cá nhân, Thảo thường xuyên khoe cuộc sống xa hoa, tiêu tiền như nước, mới đây nhất còn sắm sửa xe Lexus đắt tiền. Mặc dù rất thích kinh doanh nhưng đa số Thảo đều thất bại. Dẫy vậy, ông Thắng vẫn không tiếc tiền đầu tư cho con chỉ vì “mong con gái trưởng thành hơn”.

Đúng đây là người con hoang. Nó chỉ biết xài và phung phí của cha nó. Nó biết cha nó thương nên càng tiêu xài phung phí. Nó cũng biết đây là đồng tiền tham nhũng rồi cũng “của thiên trả địa”, nên tha hồ hoang phí. Điều đáng buồn là người cha đã tham ô lại còn nuông chiều làm con hư. Nó đi lạc đường mà không dắt nó quay về. Đây là người mù dẫn mù thì cả hai sẽ có ngày xuống hố.

Lời Chúa hôm nay với ví dụ con chiên và đồng tiền đánh mất cũngtựa như cuộc đời của mỗi người chúng ta. Vì chạy theo danh vọng. Vì chạy theo những đam mê trần gian đã làm cho nhiều người lầm đường, lạc lối và đánh mất phẩm giá cao qúy của mình là hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa không bỏ rơi con người. Thiên Chúa dùng muôn nghìn cách để tìm lại chúng ta. Ngài sẽ làm tất cả để chuộc lại con người chúng ta. Đó cũng là cách mà Thiên Chúa đã thực hiện trong suốt dọc dài của lịch sử ơn cứu độ. Loài người luôn bất trung, bội tín, bội thề. Thiên Chúa thì luôn tín trung. Tình yêu của Ngài dành cho con người mãi mãi vẫn là một. Ngài không bao giờ thay đổi. Ngài có giận, giận trong giây lát nhưng yêu thương, yêu thương ngàn đời.

Tình yêu của Ngài hôm nay vẫn thế. Ngài vẫn đeo đuổi cuộc đời mỗi người chúng ta. Ngài sẽ đau khổ nếu chúng ta lạc xa tình Chúa. Ngài sẽ buồn nhiều nếu chỉ vì tiền tài và lạc thú mà chúng ta đánh mất phẩm giá làm người của mình. Phẩm giá con người lớn hơn những giá trị vật chất. Ngài không đang tâm đứng nhìn con người tự hạ thấp phẩm giá của mình để đổi lấy đồng tiền và lạc thú. Ngài càng không làm ngơ và bỏ mặc con người cho ma qủy lôi kéo vào hố diệt vong. Ngài sẽ làm muôn ngàn cách để đưa con người trở về nẻo chính đường ngay. Điều đó, Ngài đã thể hiện nơi cuộc đời của vua Đavít. Đavít là một con người được Chúa yêu thương nhưng lại vì đam mê lạc thú đã lỗi luật Chúa. Ông đã phạm tội ngoại tình với Batseva, là vợ của tướng Uria. Ông còn đang tâm đẩy Uria vào chỗ chết để chiếm lấy nàng Batseva. Thế nhưng, tình yêu Chúa còn lớn hơn tội của Đavít, Ngài đã  không giáng phạt theo như tội Đavít đã làm. Ngài đã cho Đavít cơ hội làm lại cuộc đời. Qua tiên tri Nathan, Thiên Chúa đã thức tỉnh Đavít nhận ra lỗi lầm mà ăn năn trở về. Đavít đã sám hối ăn năn. Đavít đã cảm nhận tình thương Chúa dành cho ông quá to lớn đến nỗi mà ông phải thốt lên: “Nếu Chúa chấp tội nào ai rỗi được”. Chúa đã không chấp tội Đavít mà “lòng nhân từ của Chúa còn theo đuổi Đavít suốt cuộc đời”.

Tiếc thay, loài người lại cứ lợi dụng lòng thương xót Chúa để bỏ ngoài tai lời giáo huấn của Chúa. Họ biết Chúa nhân từ nên vẫn nhân danh Chúa để tìm tư lợi cho bản thân. Họ coi Chúa như ngân hàng để bòn rút ân lộc của Chúa. Có lẽ Chúa cũng buồn vì thế gian luôn có các tiên tri của Chúa nhắc nhở họ sám hối, thế nhưng, đồng tiền làm họ lu mờ lý trí để rồi vẫn cố tình đi sai đường lối Chúa.

Ước gì mỗi người chúng ta cũng nhận ra lòng Chúa xót thương để ăn năn sám hối trở về với Chúa, và cũng biết sống tình yêu đó cho anh em.Xin đừng u mê bỏ ngoài tai lời giáo huấn của Hội Thánh là những sứ giả đích thực Chúa gởi đến dậy dỗ chúng ta.Amen

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA TÌM KIẾM CON NGƯỜI

Lm. Giuse Hoàng Kim Toan

Không phải con người đã đi tìm kiếm Thiên Chúa trước mà chính Thiên Chúa đã cất bước đầu tiên tìm kiếm con người. Thi sĩ Khalil Gibran viết: “Khi yêu, bạn đừng nói Thiên Chúa ở trong trái tim tôi, nhưng đúng hơn phải nói: Tôi ở trong trái tim Thiên Chúa”. Điều này diễn tả đúng câu trả lời tại sao Chúa lại đi tìm con chiên lạc.

Con người đi hoang.

Có thể đi ngược lại câu truyên ban đầu trong sách Sáng Thế khi Thiên Chúa tạo dựng nên con người. Tuy con người được tạo dựng trong mọi điều đều tốt đẹp, nhưng Thiên Chúa vẫn để cho có một tự do chọn lựa, hoặc vâng theo hoặc bất tuân phục. Tự do như thế vừa là một giới hạn, vừa đặt ra một ước mơ vô hạn. Con người muốn mở rộng ra vô biên, nhưng lại thiếu thốn thẳm sâu trong cõi lòng, dễ bị ma quỷ đánh lừa và dụ dỗ vào bất tuân Thiên Chúa.

Con người đi hoang bắt đầu từ chỗ đi tìm chính mình là ai đó ở giữa thế giới này. Câu hỏi về ý nghĩa luôn khoét sâu vào từng ngày sống. Một câu rất xưa trong Phạn ngữ đã từ tâm con người thốt ra: “Hỡi Người tự biểu lộ chính Mình. Xin Người hãy biểu lộ trong con” (Thực nghiệm tâm linh, R. Tagore). Như xưa Môi sê được tuyển chọn để dẫn dân Israel ra khỏi Ai Cập, điều Môi sê xin cho được biết Danh Người là ai? (Xem Xh 3, 13 – 14). Khát khao tìm vế chân lý và những bước chân đi thường lạc lối.

Giữa chân lý và sai lầm, giữa ánh sáng và bóng tối. Ở lại như 99 con chiên hay như một con chiên đi lạc, con chiên nào quan trọng hơn? Đối với Chúa, con chiên lạc quan trong hơn vì: “Con Người đến để đi tìm những gì hư mất” (Lc 19, 10). Sự kiện con chiên lạc, là con chiên đau khổ, khắc khoải, tìm những gì vượt xa hơn mình, hoặc vì những dục vọng đen tối làm lạc lối hơn cả, cho đến khi nhận ra mình như người con quá hoang đàng. Người con trong dụ ngôn “người cha nhân hậu”, từ sâu thẳm kêu lên: “Cha hỡi, trong lạc lối, tội lỗi, con đã xúc phạm đến cha!, con đã đứng về phe hữu hạn chống lại cha là Đấng vô hạn!”. Gục ngã trong sâu thẳm của tâm hồn của một con người cần được cứu vớt.

Nỗi nhọc nhằn của tình yêu cũng là niềm vui.

Tình yêu là khỏi chính mình để đi tìm người mình yêu. Như Gabriel Marcel viết: “yêu ai là muốn người ấy sống luôn mãi”. Thánh Gioan định nghĩa “Thiên Chúa là Tình Yêu” (1 Ga 4, 16). Thiên Chúa chấp nhận đau khổ và mầu nhiệm đau khổ của Người là biểu lộ tình yêu vô hạn. Thiên Chúa đi tìm kiếm bởi vì người con đã mất, đi gặp gỡ vì người con lẩn trốn, chết thay vì người con đã chết.

Tìm kiếm con người để Thiên Chúa nói chuyện tâm tình như Hô sê diễn tả: “Này Ta sẽ quyến rũ dân Ta, đưa nó vào sa mạc, để cùng nó thổ lộ tâm tình. Ở đó, nó sẽ đáp lại như buổi thanh xuân” (Hs 2, 16 – 17b). Đối thoại trong tình yêu để thổ lộ tâm tư, Thiên Chúa mở lòng mình ra trước để con người gặp gỡ lòng khoan dung, gặp gỡ trong lời sám hối muộn màng: “Cha ơi, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha!” (Lc 15, 21)

Niềm vui của tình yêu khi vác chiên trở về như là ngày đón người mình yêu thương bệnh nặng trở về từ cõi chết, mạnh khoẻ. Niềm vui của người con trở về để thưa với cha: Xin cha hãy quét sạch trong con những mê lầm, lạc lối. Xin hãy cho con tràn đầy sự thiện, như là mặc áo mới cho con, như là thết đãi con bằng bữa tiệc lành thánh của cha.

Niềm vui chính là tình yêu, gặp gỡ được tình yêu như thể: “Hồn tôi hân hoan vui sướng hát khen Danh Ngài” (Magnificat). Đó là ngày trở về để sống lại ân tình của người con.

Về mục lục

.

CHUNG CHIA NIỀM VUI CỦA CHÚA

Bông hồng nhỏ

Tin Mừng hôm nay kể về một dụ ngôn mang tên: “Người Cha nhân hậu”. Câu chuyện kết thúc bằng lời khẳng định pha lẫn tiếng reo vui của người cha: “Chúng ta phải ăn mừng và hoan hỷ, vì em con đây đã chết, nay lại sống, đã mất, nay lại tìm thấy” (Lc 15, 32). Người cha có lý do để vui mừng bởi vì ông đã được thỏa lòng khi gặp lại đứa con mà mình hết lòng thương yêu. Người con có thể từng lìa bỏ cha, từ chối quyền làm con của mình nhưng người cha không bao giờ từ chối quyền làm cha, từ chối yêu thương con. Từ ngày đứa con rời đi, cũng từ ngày đó trái tim ông thổn thức và luôn hướng về con. Đó là hình ảnh thật đẹp để diễn tả lòng thương xót vô bờ bến của Thiên Chúa dành cho con người.

Khi thấy Thầy Giêsu ăn uống với người thu thuế và người tội lỗi, những người Pharisêu lấy làm chướng mắt và không thể hiểu được. Thầy Giêsu đã kể cho họ nghe về ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng tiền bị mất và dụ ngôn người cha nhân hậu. Người mục tử sẵn sàng để chín mươi chín con chiên lại để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất. Vì đối với ông, mỗi một con chiên đều có một vị trí rất đặc biệt, đều được ông yêu quý. Người đàn bà kia có mười đồng bạc nhưng lại đánh mất một đồng. Bà cất công tìm cho kỳ được đồng bạc ấy.  Một con chiên so với chín mươi chín con thì chẳng là bao, hay một đồng bạc so với chín đồng còn lại thì nó chỉ là một phần mười, nhưng giá trị của cái rất nhỏ ấy lại không thể thay thế. Cũng thế, trong một gia đình, người ta không thể bỏ quên bất cứ một thành viên nào nhưng phải dành sự quan tâm và yêu thương cho từng người. Học cách quan tâm người khác sẽ bắt đầu bằng việc ta nâng niu, trân quý những hành động nhỏ bé mà ta làm cho người khác trong từng ngày. Nên thánh là khi ta có một trái tim biết yêu thương như Chúa vậy.

Ta không cần phải làm một việc thật phi thường thì mới có thể nên thánh, nhưng ta có thể làm từng việc nhỏ bé hằng ngày cho người khác bằng tình yêu chân thành. Việc nhỏ thường dễ làm nhưng cũng cần có một ý chí mạnh mẽ để kiên trì thực hiện. Có lúc vì thực hiện những việc nho nhỏ ấy mà ta phải để lại “chín mươi chín con chiên” khác ngoài đồng, phải vượt qua bao gian khó để thực hiện. Khi tìm một đồng bị mất thì cũng phải rất vất vả và mất thời gian. Khi ta làm một việc bác ái nho nhỏ nào đấy, ta cũng sẽ dễ cảm thấy mất thời gian quá. Thế nhưng, điều quan trọng là ta phải biết mình làm tất cả những việc nhỏ bé ấy vì điều gì. Nếu để diễn tả lòng yêu mến Chúa thì những việc nhỏ bé ấy khi đem cộng lại sẽ không nhỏ đâu. Khi trái tim hoàn toàn hướng về Chúa, ta sẽ có đủ sức mạnh để thực hiện từng hành động nhỏ.

Bức tranh thứ ba toát lên một vẻ đẹp tuyệt vời được phác họa bằng những gam màu sáng tối. Đó là ánh sáng từ hình ảnh người cha dang rộng đôi tay ôm lấy người con, đặt lên trán nó nụ hôn tha thứ; đối lập với ánh sáng ấy, ở nơi góc tối, người con cả đang giận dữ. Hãy nhìn xem bóng dáng cha hiền đang thấp thỏm lo âu. Ông thường ra ngõ ngóng con, người con đã bỏ ông mà đi, đã mang tất cả của cải, tình thương và nỗi nhớ mong của người cha về một miền đất lạ. Ở đó, anh đã phung phí tài sản của mình. Ở đó, anh mới nhận ra cha hết mực yêu thương anh. Anh đã trở về khi chỉ còn hai bàn tay trắng, anh trở về khi cuộc đời đã kéo anh rời xa vòng tay của cha để đẩy anh xuống cạnh cái máng heo. Bên máng heo, cơn đói cồn cào khiến anh nhớ đến gia đình. Kỷ niệm về cha cho anh thêm hy vọng. Anh nhận ra cha chính là niềm hy vọng cuối cùng có thể cưu mang anh như một người làm công. Nhưng vượt lên trên tất cả những gì anh mong đợi, những gì anh có thể mơ ước hay nghĩ tới, anh được cha ông trọn trong vòng tay yêu thương. Trước khi anh thấy bóng cha thì cha đã thấy anh. Trước khi anh chạy đến bên cha thì trái tim cha đã chạnh lòng, đôi chân cha đã chạy những bước khập khiễng để đến bên anh. Chắc hẳn, sau bao nhớ nhung mỏi mòn, thân xác cha cũng yếu hơn vì mất ăn mất ngủ. Lòng người cha hiểu rằng ở một phương trời nào đó, đứa con của mình đang đau khổ.

Cha đã tìm lại được đứa con của mình nhưng có một nỗi buồn khác làm cho ông phải khổ tâm: người con cả không chịu vào nhà vì ông đã mở tiệc đón mừng một đứa chẳng ra gì Anh cảm thấy bất công khi cha anh lại dành cho người em tất cả những gì là tốt đẹp. Anh không thấy vui mừng khi em trở về, càng không vui khi cha mở tiệc đón em. Người cha đã ra năn nỉ anh, mời gọi anh chia sẻ niềm vui hiện tại, mời gọi anh mở lòng đón nhận người em “đã chết mà nay sống lại, đã mất mà nay lại tìm thấy”.

Lạy Chúa! Chúa mời gọi con hãy mở rộng trái tim để yêu thương như Chúa đã yêu. Tình yêu đòi hỏi con phải dám chết đi cho chính mình, hy sinh thực hiện những việc bác ái dù nhỏ mọn vì lòng yêu mến Chúa. Chúa vẫn mời gọi con nhận ra niềm vui của Chúa khi một người trở lại, đón nhận niềm vui ấy như của chính mình – niềm vui mà chính Chúa đang muốn chia sẻ với con. Amen.

Về mục lục

.

CHIA SẺ NIỀM VUI

Anna Cỏ May

Những người Pharisêu và các kinh sư xầm xì với nhau về việc Chúa Giêsu đón tiếp người tội lỗi và ăn uống với họ. Đối với những người Pharisêu và các kinh sư, những người thu thuế và người tội lỗi là tầng lớp bị xa lánh, khinh chê và bỏ đi. Thế nhưng, Chúa Giêsu -một người được dân chúng tôn trọng- lại đón tiếp những người như vậy. Trước thái độ của họ, Chúa Giêsu đã kể cho họ hai dụ ngôn nói về người chủ đi tìm cái đã mất và một dụ ngôn nói về niềm vui của người cha khi người con trở về. Sau khi đã tìm thấy, người chủ và người cha hết sức vui mừng mời bạn bè hàng xóm lại cùng chung vui (x. Lc15,1-32). Phần chúng ta, chúng ta có hân hoan mời gọi mọi người đến chung vui khi tìm thấy những gì đã mất không? Khi thấy người anh em lầm lạc trở về, chúng ta có vui mừng chào đón hay chúng ta mang tâm trạng của người con cả là tức giận, trách móc với cha cùng khinh chê người em mình?

 Thật sự, chúng ta khó đón nhận một người tội lỗi trở về. Chúng ta dễ có sự phân biệt hay kỳ thị về họ qua cách nhìn, lời nói hay hành động. Từ những thái độ ấy, tạo cho họ cảm giác bị xa lánh, và bị bỏ rơi, không được đón nhận. Họ dễ trở lại con đường lẫm lỡ mà họ biết hậu quả là thế nào. Còn trên trời, các triều thần Thiên Chúa, ai nấy vui mừng khi một người tội lỗi ăn năn sám hối và được tha, cùng mở tiệc ăn mừng và khôi phục lại địa vị làm con (x.Lc 15, 7.10). Đó là tình thương tuyệt vời và lạ lùng của Thiên Chúa. Ngày nay, Chúa Giêsu vẫn đang mời gọi mỗi người chúng ta hãy vui mừng vì người anh em được tha, được trở về. Vì tất cả mọi người là con Thiên Chúa là anh em của nhau trong gia đình đức tin. Mỗi người chúng ta điều có lỗi lầm, không ai hoàn hảo. Chúng ta được hoàn hảo khi hiệp nhất yêu thương và đón nhận nhau trong tình yêu của Chúa Giêsu. Vì Chúa Giêsu là tình yêu (x. 1Ga 4,16).

 Hỡi tội nhân! Đừng vì ánh mắt hay một lời nói, cử chỉ của người khác mà nản lòng, nhưng hãy vượt lên chính mình và tin tưởng vào Đấng mà mình đã tin. Vì Ngài vẫn, đã và đang khôi phục vị trí là con Thiên Chúa cho ai trở về như người cha trong dụ ngôn. Đừng ngần ngại và chần chừ nữa, chúng ta hãy đón nhận nhau để giúp nhau sống hạnh phúc, hạnh phúc trên Nước Trời. Vì tất cả lề luật được nên trọn trong điều răn duy nhất này là: “Ngươi phải yêu người thân cận như chính mình” (Gl 5,14). Amen.

Về mục lục

.

HỐI CẢI.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Cùng ngồi ăn uống đồng bàn,
Với người tội lỗi, dối gian ở đời.
Nhóm người biệt phái được mời,
Muộn phiền lẩm bẩm, đôi lời trách than.
Dụ ngôn Chúa dậy đừng van,
Một con chiên lạc, miên man trong rừng.
Chủ chiên tìm được vui mừng,
Trên vai vác nó, tưng bừng hát ca.
Quét nhà tìm bạc văng ra,
Tới khi tìm thấy, cả nhà chung vui.
Một người tội lỗi chôn vùi,
Tìm đường hối cải, ngậm ngùi ăn năn.
Thứ tha xóa hết tội căn,
Thiên thần đón tiếp, ghi danh Nước Trời.
Đứa con phung phá một thời,
Ăn chơi xa xỉ, một đời bê tha.
Cô đơn đói khát nhớ nhà,
Trở về sám hối, thứ tha tội đời.
Cha già rộng lượng cao vời,
Yêu thương con cái, rạng ngời tình cha.

Sự hối cải trở về luôn là mẫu gương đẹp. Trở về mang niềm vui đến cho nhiều người. Trở lại là dứt bỏ con đường cũ và bỏ lại sau lưng quá khứ lỗi lầm. Câu truyện người con phung phá trở về là câu truyện rất dễ thương. Hình ảnh người cha nhân hiền chạy ra ôm con làm ai cũng cảm động. Cha sẵn sàng tha thứ lỗi lầm, không phải bảy lần mà tha tất cả. Lời lẽ sám hối của người con: Lạy cha, con đã lỗi phạm đến trời và đến cha, con không đáng được gọi là con cha nữa. Như thế là đủ, con không cần nói thêm, cha đã hiểu và đã thứ tha cho con.

Người cha đối xử cách rất nhân từ và yêu thương đối với người em trở về. Trong khi người anh lớn lại hơi khó chịu vì sự so sánh và ghen tương. Anh cả ở nhà chu toàn bổn phận và không hề trái lệnh cha. Anh giống như những người Biệt phái giữ trọn lề luật, nhưng thiếu sự yêu thương tha thứ. Lề luật và bổn phận làm anh ra khô cằn, tính toán, rồi sinh ra khó chịu và ghen tức với em mình.

Mỗi người chúng ta chia xẻ tâm sự với người anh cả. Chúng ta vẫn tự hào, chúng ta chu toàn mọi bổn phận người con Chúa như thường tham dự thánh lễ Chúa Nhật, lãnh nhận các Bí tích hằng năm, giữ các giới răn và giữ đạo cả đời. Chúng ta đã thực hành tất cả các giới luật, nhưng lại thiếu đi cốt cõi là sự yêu thương tha thứ. Đôi khi chúng ta so đo và ghen tị với những ân huệ của người khác. Người cha yêu thương cả hai anh em, mặc dầu thái độ không đẹp của con cả. Người cha đã ra năn nỉ người con cả và xin anh vào nhà. Cha sợ con bị mất lòng.

Chúa đến để kêu gọi người tội lỗi, chứ không phải người công chính. Chúng ta là những người tội lỗi. Chúng ta cần trở về với tình yêu của Chúa. Truyện kể: Một bà mẹ có đứa con trai đi theo bạn bè xấu và bỏ bê việc thờ lễ. Bà mẹ lo lắng nhiều cho con. Bà tìm mọi cách để cảm hóa cậu nhưng vô hiệu. Vào một Chúa Nhật, thay vì dục con đi lễ, bà nhờ con chuyển gói quà cho một gia đình ở phố bên cạnh. Bà hứa sẽ không rầy rà con nữa. Để khỏi phải nghe mẹ giảng dạy, cậu nhận lời mẹ. Cậu đến nhà theo địa chỉ và bước vào nhà, cậu bỡ ngỡ nhìn một bà già đau ốm còn da bọc xương, cùng với ba cháu nhỏ rách rưới đang khóc lóc vì đói. Cậu vội đưa quà và bước ra. Bà cụ thều thào nói: Cậu ơi, cậu chưa thể đi ngay được. Cậu là ơn Chúa quan phòng và là tình thương của Chúa gởi đến gia đình tôi. Xin Chúa trả ơn cho cậu. Người thanh niên bị cảm xúc mạnh. Ngày hôm sau, không ai nhắc, cậu đã trở lại với gói quà giúp đỡ do chính tiền của mình. Sau đó, anh đã thay đổi cuộc đời. Lòng nhân hậu của hai bà mẹ đã cảm hóa anh.

Lạy Chúa, Chúa luôn giang rộng cánh tay đón chờ chúng con trở về. Về với lòng nhân hậu của Chúa, chúng con sẽ tìm thấy nguồn an vui đích thực.

Về mục lục

.

THÀ YÊU LẦM CÒN HƠN BỎ SÓT

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Các bài đọc của Chúa Nhật Thứ 24 Mùa Thường Niên, Năm C, cách riêng bài Tin Mừng có vẻ khá quen thuộc với Kitô hữu, nhất là với những người chuyên chăm tham dự Thánh Lễ và xem trọng phần Phụng Vụ Lời Chúa. Thánh Kinh trình bày về tình yêu của Thiên Chúa thật phong phú và đa dạng. Tuy nhiên cũng có thể khẳng định rằng những dòng tin mừng theo thánh sử Luca ở chương XV mà Giáo Hội cho trích đọc một phần trong Thánh Lễ Chúa Nhật này quả là một mạc khải gây “chưng hửng” cho không chỉ nhiều người biệt phái năm xưa mà còn cho cả chúng ta hôm nay, dĩ nhiên là nếu chúng ta biết “suy đi nghĩ lại” như Mẹ Maria và biết đặt mình vào chính ngữ cảnh khiến Chúa Giêsu phán dạy những Lời ấy.

Ngữ cảnh: Giêsu thành Nagiarét, một vị tôn sư đầy quyền năng trong lời giảng dạy cũng như trong hành động (x.Mt 7,29; Mc 6,2), một người được dân chúng mến mộ tôn xưng vào hàng ngôn sứ (x.Mt 16,13-15)…, Người không chỉ chuyên chăm chữa lành bệnh tật cho dân chúng và xua trừ ma quỷ ra khỏi những người chúng ám, Người còn giảng dạy các chân lý về Nước Trời và mời gọi người ta hoán cải ăn năn. Thế mà Người lại thường xuyên lui tới và cùng ngồi ăn uống với những hại dân hại nước là “bọn thu thuế” và “phường bán thân nuôi miệng”. Bá nhân bá tánh, mười người trăm ý, chuyện miệng tiếng người đời thì làm sao lường cho xuễ. Cũng thế, việc một số người biệt phái và luật sĩ lảm bẩm, xầm xì và bình phẩm chuyện Chúa Giêsu thường xuyên lui tới và cùng ngồi ăn uống với người thu thuế và phường “tội lỗi” thì cũng không là vô cớ. Ngài Giêsu đã không từng giảng dạy rằng chớ có làm cho người ta vấp phạm đấy ư. Ngài còn mạnh miệng cho rằng nếu ai làm cớ vấp phạm cho một trong những kẻ bé mọn thì thà cột cối đá vào cổ người ấy mà liệng xuống biển còn hơn. Tuy nhiên chúng ta đừng quên cớ vấp phạm ở đây là cái nguyên nhân xấu. Còn những dữ kiện gây thắc mắc, gây tranh luận, gợi thao thức là việc khác hoàn toàn. Chính Chúa Giêsu đã từng ví Người là viên đá vấp cho nhiều người, đúng như lời tiên tri Simêon loan báo dịp cha mẹ Người đem Người lên Giêruslem để làm lễ tiến dâng theo Lề Luật (x.Lc 2,33-35).

Nguyên cớ gây thao thức: Tình yêu đón nhận mọi sự hạn chế, mọi sự bất toàn. Khi nghe đọc bài tin mừng về dụ ngôn người con hoang đàng hay đã được sửa lại là dụ ngôn người cha nhân hậu hoặc đã từng được đề nghị là dụ ngôn người con ganh tị. Đã từng một thời Kitô hữu được gợi ý là tập trung vào hình ảnh người con phung phá hoang đàng để nhận biết thân phận tội lỗi của mình để rồi sám hối, ăn năn. Cũng đã từng có lúc người ta tập trung vào hình ảnh người con cả của câu chuyện để mời gọi Kitô hữu cảnh giác với sự ganh tương đố kỵ như trường hợp một số người biệt phái ngày xưa, hoặc biết phản tỉnh với lối sống “người thì bên trong mà lòng thì bên ngoài”. Vì lắm khi chúng ta tuy mang danh con cái Chúa, nhưng chỉ là “hữu danh vô thực”. Thời gian gần đây ngưởi ta tập trung vào tình yêu bao la của người cha nhân hậu và có thể nói rằng đây chính là trọng tâm của lời mạc khải qua câu chuyện dụ ngôn mà Chúa Giêsu kể hôm ấy.

Nói đến sự bao la của tình yêu Thiên Chúa, một số đấng bậc có vẻ như ngại ngần vì cho rằng sẽ làm cớ cho đoàn tín hữu sống ỉ lại. Và rồi số vị ấy thích đề cao sự công thằng của Thiên Chúa hơn. Một số vị khác thì phân vân như đứng giữa ngã ba đường khi vừa nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa vừa nói đến sự công thẳng của Người. Thiên Chúa là Đấng tốt lành vô cùng và cũng là Đấng công bình vô cùng. Khởi đầu triều đại giáo hoàng của mình Đức Bênêđictô XVI qua Thông Điệp Thiên Chúa là Tình Yêu đã nhấn mạnh hiện thực này: Thiên Chúa bày tỏ tình yêu của Người cho nhân loại chúng ta một cách như chống lại sự công minh của Người (x.số 10).

Người cha trong câu chuyện dụ ngôn Chúa Giêsu kể đã rộng tay chia gia tài cho các con. Ông chia gia tài cho đứa con mở miệng kêu xin và chia cho cả đứa con không xin. Ông ta quả là liều lĩnh và bất chấp các tình huống có thể xảy ra. Ông chẳng thể lường đứa con thứ kêu xin sẽ sử dụng gia tài ra sao. Ông cũng chẳng biết đứa con còn lại không xin vì không dám xin hay vì không muốn xin. Không lưỡng lự, ông đã chia cho cả hai.

Chắc chắn người cha nhân hậu biết rõ tình cảnh bi đát đến độ thua cả loài heo của đứa con đi hoang, vì chính người con cả đã khẳng định sự thật này (x.Lc30). Thế mà ông cứ ngày ngày ngóng trông đứa con “bất hiếu và hỏng hư” quay gót trở về. Lòng của ông vẫn ắp đầy niềm hy vọng sẽ có ngày thấy con mình “đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Và kìa, nó đây rồi, nó đã trở về. Nó về vì thương cha già này hay là chỉ xót cái bụng rỗng của nó? Không sao cả, tình yêu không cần đặt điều kiện. Đứa con lớn đang ở trong nhà mà lòng như kẻ ăn người ở, ông cũng đón nhận hết tình. Không sao cả, rồi sẽ đến lúc nó hiểu rằng mọi sự của ông là dành cho nó, đã thuộc về nó, vì mọi sự của cha đều là của con (x.Lc 15,31).

Đã yêu thì không ngồi chờ người mình yêu hoàn thiện rồi mới đón nhận. Đón nhận người mình yêu cả trong sự hạn chế lẫn bất toàn của người mình yêu thì mới là tình yêu đích thực vô cầu, vô vị lợi, nghĩa là chỉ vì người mình yêu. Thánh tông đồ dân ngoại khẳng định chân lý này khi nói rằng Chúa Kitô đã chết vì chúng ta, ban ơn tha thứ cho chúng ta, đưa chúng ta về làm con cái Thiên Chúa ngay khi chúng ta còn là kẻ phản nghịch, nghĩa là ngay khi chúng ta đang còn trong cảnh tình tội lỗi.

Xin đừng sợ bị lợi dụng, chẳng thà yêu lầm còn hơn bỏ sót. Xin đừng ngồi chờ tha nhân hoàn thiện rồi chúng ta sẽ yêu thương. Chính tình yêu của chúng ta, một tình yêu vô điều kiện mới là động lực giúp tha nhân nên hoàn thiện. Đồng thời cũng chính tình yêu ấy sẽ giúp chúng ta hoàn thiện vì chúng ta đang ngày càng nên giống Cha, Đấng hoàn thiện ở trên trời, Đấng cho mưa rơi đều trên người lành lẫn kẻ bất lương, cho mặt trời mọc lên soi người công chính lẫn tội nhân (x.Mt 5,48).

Về mục lục

.

MÀU TÍM BUỒN VỚI NGƯỜI CON THỨ

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Ðọc bài Tin Mừng hôm nay, tôi thấy man mác một màu tím buồn với người con thứ.

Người con thứ đòi Cha chia gia tài rồi bỏ đi vô tình, rời khỏi ngôi nhà, nơi nó sinh ra, được nuôi dưỡng và lớn lên. Trong phong tục dân Do thái thì gia tài chỉ được chia sau khi cha chết; vì thế mới có chuyện một người đến xin Chúa Giêsu bảo người anh chia phần gia tài (x. Lc 12,13). Đòi lấy phần gia tài lúc cha còn sống tức là anh ta coi như cha đã chết. Thật buồn cho đứa con ngỗ nghịch! Trẩy đi miền xa, người thanh niên có một nỗi khát khao là ra khỏi luỹ tre làng, muốn nhìn xem thế giới mới lạ bên ngoài, thích miền xa hơn là ở quê nhà.

Người con thứ bỏ nhà ra đi với tiền bạc, không phải để làm ăn xây dựng tương lai, nhưng để “sống phóng đãng, phung phí tài sản của mình”. Khi trở về nó chẳng còn gì cả: tiền bạc, sức khoẻ, phẩm giá, lòng tự trọng, sự hối hận! mọi thứ đã bị nó tiêu xài hoang phí. Nó đã mất hết, may mà còn lại một điều duy nhất là “đứa con nhỏ của cha nó”.

Ở đời, người ta thường vinh quy bái tổ khi công thành danh toại, còn người con thứ khi trở về thì thân tàn ma dại, hai bàn tay trắng.

Ðộng lực nào đã khiến nó trở về ? Thánh Luca viết rõ: “Hồi tâm lại, nó nói: biết bao người làm công cho Cha tôi có dư thừa bánh ăn, còn tôi thì phải chết đói ở đây! Thôi dậy, tôi sẽ về cùng Cha tôi“. Như vậy động lực nó trở về là đói, cái đói cào cấu trong dạ dày làm cho nó hồi tâm. Trước khi bị đói chắc chắn nó không bao giờ nhớ đến Cha, không bao giờ sám hối vì bỏ Cha ra đi, không thấy băn khoăn hồi tâm về mái ấm gia đình, nơi còn có Cha già chẳng biết đau yếu ra sao, không thấy tiếc nuối vì phá tan cả sự nghiệp của Cha. Khi bị cơn đói hành hạ, phải đi chăn heo, nó mới băn khoăn tìm đường về. Cái hồi tâm, cái băn khoăn của nó là làm sao để được ăn.Nó dự tính nói với Cha là nó trót phạm lỗi nghịch với trời, nó không còn đáng gọi là con, nó chỉ xin được đối xử như người làm công. Ðó là một cuộc trở về trọn vẹn hay sao? Ðó là cuộc lên đường được thúc đẩy bởi lòng sám hối hay sao? Sự thống hối của nó chỉ là vị kỷ nhằm khả năng có thể sống sót mà thôi.

Nếu người con thứ thành công xây dựng cơ nghiệp, có lẽ sẽ không hiểu được tình Cha. Vì nếm mùi thất bại chua chát của cuộc đời nên nó lên đường trở về. Nó không đủ can đảm đi làm người ăn xin,không đủ liều mạng để đi trộm cướp, không dám đánh đổi cả cuộc đời để gây tiếng xấu. Nó sống bằng nghề lương thiện là đi chăn heo, dù sao cũng sống bằng sức lao động của mình. Từ kinh nghiệm của vực thẳm này nó mới hiểu được mặt trái cuộc đời. Đó không là chốn nương thân cho kẻ nghèo khổ, không là chỗ hạnh phúc cho kẻ khố rách áo ôm, không là chỗ cho kẻ cô thân cô thế. Vì vậy chỉ còn một con đường duy nhất là trở về xin tha thứ và làm công cho Cha để có cơm ăn áo mặc.

Tất cả ý nghĩa của cuộc trở về được diễn tả cách cô đọng trong những lời “Cha ơi… con không đáng gọi là con Cha nữa“.

Giuđa đã phản bội Chúa Giêsu. Phêrô đã chối Chúa. Cả hai đều đánh mất tình con thảo. Giuđa không còn tiếp tục tin tưởng mình vẫn là con Chúa, không tin vào lòng tha thứ của Chúa nên đã đi thắt cổ tự vẫn.Còn Phêrô khi ở giữ sự tuyệt vọng đã muốn nối lại tình Cha con với những giòng nước mắt thống hối. Giuđa chọn cái chết. Phêrô chọn sự sống.

Ðọc câu chuyện, tôi thấy động lực của sự trở về nơi người con thứ là cái đói hành hạ. Sự trở về lý tưởng phải là sự trở về của lòng sám hối với tình yêu chân thành. Những khi ngồi Toà Giải Tội, tôi gặp những hối nhân sau 5 năm, 10 năm thậm chí đến 20 năm, 30 năm mới trở về cùng Chúa. Mỗi người mỗi hoàn cảnh khác nhau. Những bầm dập của của cuộc đời, những gian truân vất vả, những thất bại chua chát đã cho họ rút kinh nghiệm là cần trở về với Chúa, nguồn mạch của bình an nội tâm, của niềm vui và hạnh phúc. Chính Chúa đã yêu thương, đã tác động và một khi nào đó như Chúa muốn họ trở về cùng Ngài. Như thế họ đã chọn lấy sự sống. Gặp gỡ những hối nhận đó tôi càng thấm thía hơn dụ ngôn “Ðứa Con Hoang Ðàng”.

Chúa Giêsu Ðã Trở Nên “Người Con Hoang Ðàng” Vì Chúng Ta

Anh Piere Marie người sáng lập Huynh Ðoàn Giêrusalem, một cộng đoàn các tu sĩ sống trong thành phố, đã suy niệm về Chúa Giêsu như người con hoang đàng theo Phúc Âm một cách thú vị. Xin trích dẫn tác phẩm “Người Cha Nhân Hậu” của Henri J. M. Nouwen, trong đó có một đoạn anh Pierre Marie đã viết:

“Ðức Giêsu được sinh ra không bởi dòng dõi, ước muốn hay ý chí của con người, nhưng bởi chính Thiên Chúa. Một ngày kia, Ngài đã để mọi sự dưới chân Người và ra đi với gia sản của Ngài, là tước hiệu làm Con Thiên Chúa của Ngài?

Với giá chuộc tất cả, Ngài đã ra đi tới miền xa… miền đất rất xa… nơi mà Ngài đã trở thành như con người và đã làm trống rỗng chính mình. Chính dân của Ngài cũng không nhận biết Ngài và cái giường đầu tiên của Ngài là một nệm rơm. Giống như một cây đâm rễ nơi đất khô cằn, Ngài trưởng thành trước chúng ta, đã bị khinh bỉ là hạng thấp nhất trong con người. Chẳng bao lâu Ngài đã nếm sự lưu đày, sự chống đối, sự cô độc… sau khi đã cho đi mọi thứ trong đời sống cách rộng rãi, của cải, bình an, ánh sáng, sự thật, chính đời sống của Ngài… mọi kho tàng hiểu biết, khôn ngoan và mầu nhiệm đã được giữ kín từ muôn đời.

Sau khi đã hạ mình xuống ở giữa những con cái hư mất của nhà Ítraen, Ngài đã phung phí thời giờ của Ngài với những người đau ốm tật nguyền, với những người tội lỗi, ngay cả với những gái điếm, Ngài cũng hứa cho họ vào Nước của Cha Ngài; sau khi đã bị đối xử như một tên tham ăn, như một bợm nhậu, như một người bạn của bọn thu thuế và tội lỗi, như một người Samaria, một người bị quỷ ám, một kẻ phạm thượng; sau khi đã hiến dâng tất cả mọi sự, ngay cả thân xác và máu Ngài; và khi linh hồn Ngài cảm thấy một nỗi buồn sâu xa, hấp hối, phiền sầu; sau khi đã đi tới đáy của sự tuyệt vọng, Ngài muốn mặc lấy nơi mình sự bị bỏ rơi bởi Cha, lìa xa ngưồn Nước Hằng Sống, Ngài đã kêu lên từ Thánh Giá nơi Ngài bị đóng đinh: “Ta khát”. Ngài đã yên nghỉ trong bụi đất và bóng đêm sự chết. Ba ngày sau Ngài Phục Sinh, chỗi dậy từ chiều sâu ngục tối nơi Ngài đã xuống, Ngài đã mang lấy tội lỗi của chúng ta, Ngài đã gánh hết những đau thương của chúng ta. Ðứng thẳng, Ngài kêu lên: “Phải, Ta lên Trời với Cha Ta cũng là Cha của con, là Thiên Chúa Ta cũng là Thiên Chúa các con”. Và Ngài đã trở lại Thiên Ðàng…

Trong sự thinh lặng chiêm ngắm tất cả con cái trong Người Con từ khi Người Con trở thành tất cả cho mọi người, Người Cha nói với các tôi tớ: “Nhanh lên, hãy mang áo đẹp nhất mặc cho cậu, hãy xỏ nhẫn vào tay cậu, giày vào chân cậu. Chúng ta hãy mở tiệc ăn mừng, vì con Ta đã chết nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy… Người Con Hoang Ðàng của Ta đã mang tất cả mọi ngươì trở về…”

Và tất cả bọn họ bắt đầu dự tiệc, mang trên mình chiếc áo trắng dài đã được giặt sạch trong máu của Con Chiên…”.

Về mục lục

.

NGƯỜI CHA NHÂN HẬU

Lm Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Hình ảnh người Cha nhân hậu là khuôn mặt của một Thiên Chúa, khiêm nhường, yêu thương, giầu lòng thương xót. Đọc Tin mừng của Đức Giêsu, chúng ta khám phá ra gương mặt của một Thiên Chúa nhân từ, khiêm tốn, một Thiên Chúa quyền năng tuyệt đối nhưng lại luôn tôn trọng sự tự do của con người.

Nếu suy nghĩ về khía cạnh nhân loại, chúng ta không thể nào hiểu thấu : “ Tại sao Thiên Chúa quyền năng lại tỏ lòng nhân từ và tôn trọng tự do tuyệt đối của con người ?”. Người Do Thái xưa cứ tưởng rằng mình là dân được tuyển chọn, ơn cứu độ Thiên Chúa chỉ dành riêng cho họ…Họ đã lầm lớn, họ là dân được chọn nhưng họ lại từ chối ơn Chúa ban.Do đó, ơn cứu độ Thiên Chúa ban cho mọi người miễn là con người biết mở rộng lòng để đón nhận ơn cứu độ Chúa tặng ban. Thiên Chúa quyền năng vô cùng lớn lao vì Người là Thiên Chúa, nhưng Người vẫn chờ đợi mỗi người tự do đáp trả lại lời mời gọi đón nhận hay không đón nhận ơn cứu độ Chúa ban.

Hình ảnh của người Cha trong Tin Mừng đã chấp nhận chia gia tài cho người con thứ, mặc dầu người Cha biết rằng đứa con thứ sẽ phung phí và đi vào chỗ trụy lạc. Tuy nhiên lòng thương của người Cha dạt dào bao la rộng lớn đã làm cho người con hoang đàng nhận ra tình thương và sự tha thứ của người Cha.

Hình ảnh của người Cha trong đoạn Tin Mừng hôm nay là gương mặt yêu thương nhân từ, giầu lòng thương xót của Thiên Chúa khiêm tốn, nhân hậu. Loài người, con người chúng ta dù có tội lỗi yếu hèn, dù có phản nghịch, vô ơn bội nghĩa, Thiên Chúa vẫn chờ đợi.Thiên Chúa yêu thương hết lòng, yêu thương tha thiết, nên Ngài sẵn sàng tha thứ tội lỗi cho con người…Tình yêu của Ngài là tình yêu cứu độ. Sự tha thứ của Người trở nên dẫn chúng ta đến tình yêu dâng hiến trọn vẹn.

Thiên Chúa yêu thương tha thứ là Thiên Chúa đi ra để đón đứa con thứ trở về.Thiên Chúa cứu độ là Thiên Chúa đi ra để năn nỉ người con cả đi vô nhà để vui mừng với đứa em đi hoang trở về và nhân từ nói với người anh cả :” Tất cả những gì của Cha là của Con “. Thiên Chúa cứu độ, giầu lòng thương xót là một Thiên Chúa không sợ mất đi sự oai phong, lẫm liệt của một Thiên Chúa uy quyền để ra đón nhận người con đi hoang và người con cả đang ích kỷ, xeo nại vì người Cha đã quá yêu thương, nuông chiều người con.

Vâng, là Kitô hữu, chúng ta thuộc về Chúa. Chúng ta đừng sợ quay trở lại với Chúa mỗi khi chúng ta xa Chúa, mỗi khi chúng ta phản nghịch bội phản, vô ơn với Chúa. Bởi vì Thiên Chúa giầu lòng tha thứ, hết mực khoan nhân chờ đợi con người quay trở về với Ngài…Chúng ta hãy tuyệt đối tin tưởng vào Lòng Nhân Từ Thương Xót của Ngài.

Dụ ngôn hôm nay là hình ảnh sống động, một bức tranh tuyệt đẹp mà Thiên Chúa để lại cho con người. Hình ảnh này là hình ảnh của Một Thiên Chúa khiêm nhượng, nhân từ, luôn yêu thương thứ tha cho con người, đặc biệt cho các tội nhân biết ăn năn sám hối, quay trở về với Thiên Chúa.

Cho nên, là môn đệ của Chúa, chúng ta phải noi gương bắt chước lòng nhân hậu của Thiên Chúa. Chúng ta cũng không được phép thất vọng về sự yếu hèn của ta và của những người chung quanh mà luôn tin tưởng vào lòng nhân từ yêu thương tha thứ của Chúa.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con luôn biết hoán cải để tin vào Chúa nhân từ và sửa đổi để nên giống Thiên Chúa nhân từ. Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Hình ảnh người Cha nhân từ trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 15,1-32 là hình ảnh của ai ?
2.Người con thứ thế nào ?
3.Người con cả thế nào ?
4.Thái độ của chúng ta phải ra sao trước Lòng Nhân Từ của Thiên Chúa ?

Về mục lục

.

MẤT MÁT

Lm. Vũ Đình Tường

Ai trong chúng ta cũng có kinh nghiệm bị mất. Không phải chỉ con người bị mất mà ngay cả loài thú hoang cũng có kinh nghiệm bị mất. Nói một cách chung thì có hai loại mất cho con người đó là mất về mặt thể chất và mất về mặt tinh thần.

Về thể chất lại được chia làm hai loại. Mất những gì trong con người và mất những gì liên quan đến con người. Có những thứ mất trong ta thể hiện bản tính của ta. Thí dụ như mất tự chủ, hay nóng giận thể hiện bản tính con người. Mất trí nhớ, mắt kém, mất ăn, mất ngủ đều thể hiện trạng thái trong con người. Mất liên quan đến con người như vật kỉ niệm, quà tặng, giấy tùy thân, mất hướng đi, mất học. Tất cả đều ảnh hưởng đến cuộc sống.

Mất về mặt tinh thần được chia thành tinh thần và tâm linh. Mất về mặt tinh thần nguy hiểm hơn mất vật chất. Thí dụ như mất bạn hữu, mất nhận biết mình là ai. Mất tự tin, mất hy vọng vào cuộc sống, mất lòng tin vào anh em. Mất nguy hiểm nhất là mất đức tin bởi mất đức tin là mất tất cả, kéo theo cả sự sống trường sinh.

Mất ảnh hưởng đến cả cuộc đời là mất người thân và đây chính là kinh nghiệm của người cha trong Kinh Thánh nhắc đến. Nghe thoáng qua thì người ta thấy người cha này mất con. Khi suy nghĩ kĩ sẽ thấy người cha mất nhiều hơn là mất con. Truớc hết người cha không còn chọn lựa nào khác ngoại trừ chia nửa gia tài cho người con. Như thế ông ta mất rất nhiều của, nửa gia tài. Có của trong tay người con bỏ nhà ra đi như thế ông ta biết rõ con ông mất hướng đi tốt. Cách sống tốt lành ông dậy con, mong con thành người tốt, nhân đức bị con cho vào sọt rác. Ông là người thành công trên thương trường, có gia sản đồ sộ, có con ăn, đầy tớ, người làm nhưng ông thất bại trong gia đình, thất bại việc bày tỏ tình yêu cho con hiểu. Hai điều mất tiếp theo làm ông đau khổ hơn nhiều. Thứ nhất là việc người con bỏ nhà ra đi đánh mạnh vào cái tâm lí thất bại của người cha. Con bỏ nhà đi vì không chịu nổi cha. Ở đây không phán đoán đúng sai nhưng nói về cảm xúc người này cảm nhận về người kia. Người con cảm nhận cha anh không yêu anh. Tình cha con sứt mẻ không thể hàn gắn ngoài cách thoát li. Điều làm người cha đau khổ hơn nữa là vấn đề tâm linh của người con. Anh ta đi theo con đuờng ăn chơi, bê tha đời sống đức tin và ảnh hưởng đến sự sống trường sinh.

Người cha có quá nhiều kinh nghiệm đau thương, mất mát nhưng người cha không bao giờ mất hy vọng, không tuyệt vọng. Không biết điều gì khiến ông tin tưởng mãnh liệt ngày nào đó con ông sẽ trở về. Điều chắc chắn là tình yêu ông dành cho con lớn hơn lỗi lầm con mắc phạm- bỏ nhà ra đi, chê trách cha. Tình yêu ông dành cho con quan trọng hơn vật chất- nửa gia tài của ông. Niềm hy vọng của người cha luôn vững chắc và tin tưởng ngày nào đó con ông sẽ nhận ra sai lầm của mình và quay về. Người cha không chỉ hy vọng trong thầm lặng, hy vọng, ông chuẩn bị đón chờ ngày đó đến. Ông âm thầm cho vỗ béo bò chuẩn bị cho tiệc mừng con ông trở về. Bên cạnh đó ông còn sắm giầy cho cậu, mua áo mới cho cậu. Khi việc chuẩn bị tạm ổn, chiều chiều ông ngồi trước cổng nhìn về phía chân trời hy vọng trông thấy con thất thểu trở về. Niềm hy vọng của ông không tắt và ông được toại nguyện. Người con nhận ra mình sai lầm, nhận biết tình yêu của cha và anh đã từ giã bóng tối trở về ánh sáng tình thương. Người con trở về nhận lại tình yêu cha dành cho, ông ôm con trong lòng, tha thứ mọi lầm lỗi và mở tiệc mừng đón con.

Tình yêu và lòng xót thương Chúa dành cho ta khoan dung, đại lương hơn tất cả tội ta đã phạm. Xin ơn này để can đảm trở về.

Về mục lục

.

TÌM VỀ

Lm. Antôn Nguyễn Văn Tiếng

TÌM VỀ CHÍNH MÌNH

Khi con người sai lầm, con người phạm tội, con người “chạy trốn” chính mình! Khi ấy, con người không muốn nghe tiếng nói lương tâm, tiếng nói từ sâu thẳm lòng mình.

Nhiều kẻ lún sâu vào sai lầm, vào tội ác, nhưng vẫn sống an nhiên như người thánh thiện. Họ đã rời xa con người thật của họ. họ sống trong lớp vỏ bình an giả tạo. Với loại người này, họ không còn con đường về nẻo thiện lương. Họ đánh mất chính mình. Họ đánh mất nhân tính. Có những vụ án giết người, mà kẻ tội phạm kể lại tội ác mình làm khi đứng trước vành móng ngựa thật bình thản đến lạ lùng!

“Sai lầm là thường tình của con người”. Để “nhận ra mình sai lầm”, cần phải khiêm nhường.

Không khiêm nhường không thể thấy mình sai. Không thấy mình sai thì cứ cho mình đúng. Cứ cho mình đúng là kiêu ngạo. Mà kiêu ngạo thì đối nghịch lại khiêm nhường… cái vòng lẫn quẫn ấy cản trở con người bước vào con đường nội tâm. Không đi vào nội tâm, không thể tìm về chính mình được.

Đi vào nội tâm là lúc con người hồi tâm lại, và nhìn đoạn đường mình đã đi qua. Để xem mình đang đi về đâu. Có hồi tâm mới có hối hận. Không giọt nước mắt ăn năn sám hối nào rơi xuống mà con người không nhìn sâu vào tận đáy lòng mình. Đó chính là lúc tìm về chính mình thật sự.

TÌM VỀ GIA ĐÌNH

“Không ai là một hòn đảo”. Ngay cả những người đã “phủi bụi trần” để khép mình vào “bốn bức tường” tu viện, vẫn cần có tình người. Tìm về gia đình – hay đại gia đình – là mở rộng tấm lòng để sống có trách nhiệm với cha mẹ, anh em, người thân, tha nhân, đoàn thể, cộng đồng…

Trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay, đứa con hoang đàng đã tìm về không phải vì nhớ thương cha mẹ hay anh em trong nhà, mà vì cái bụng đói, vì cuộc sống quá gian nan, nhục nhã. Lý do tìm về chỉ nhắm tới lợi ích riêng mình, còn rất ích kỷ. Khi ra đi với lý do ích kỷ, tìm về cũng với lý do ích kỷ. Động lực sám hối chưa sâu xa. Chính vì lý do đó mà người anh trong câu chuyện đã không thể chấp nhận được. “Còn thằng con của cha đó, sau khi đã nuốt hết của cải của cha với bọn điếm, nay tìm về, thì cha lại giết bê béo ăn mừng!” (Lc 15,30)

Nhưng, cũng chính vì lý do non nớt, trẻ con đó, mà tình cha càng nổi bật, càng lớn lao. Bất kể là vì lý do gì, miễn là đứa con biết ăn năn sám hối, biết tìm về gia đình. Người cha không nói rằng đứa con trai lớn đã nghĩ sai, nhưng chỉ nói lên lý do đứa con lầm lỗi cần được thương xót. Nó đang cần tình thương. Và dù cho thế nào, nó vẫn là đứa con mà ông hết mực thương yêu. Và tình yêu đó không có sức mạnh nào lay chuyển. Và người cha muốn đứa con trai lớn mình phải hiểu và chấp nhận em mình với tấm lòng bao dung cao cả như vậy. “Yêu thương em mình như tình cha”. Điều này, chúng ta gặp thấy nơi giới luật yêu thương của Chúa Giêsu: “Các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương chúng con”.

Và đó, chính là ý nghĩa của việc tìm về gia đình. Không có nơi nào con người nương tựa vững chắc như mái ấm gia đình. Trong sự bảo vệ, đùm bọc của tình cha nghĩa mẹ. Đó còn là hình ảnh của “gia đình Chúa Giêsu”, của “đại gia đình nhân loại”. Tình thương anh em phải được nâng cao lên, hơn tầm nhìn của người anh trong câu chuyện Tin Mừng này. Vì đó là Đại Gia Đình Thiên Chúa. “Một Đức Tin, một Phép Rửa, một Thiên Chúa là Cha”.

TÌM VỀ BÊN CHÚA

Trong cuộc đời, có những cuộc tìm về bị chối từ, nhưng với Thiên Chúa thì không, vòng tay của Ngài luôn rộng mở.

Điều Ngài muốn duy nhất, là con người biết ăn năn, sám hối. Sự sám hối có khi còn rất nông cạn, còn rất đời thường, còn rất vật chất, còn vì cái lợi trước mắt. Nhưng căn bản là nhận ra rằng Chúa chính là nơi con người nương tựa thật sự. Không tìm về nơi đâu khác, mà tìm về chính Thiên Chúa. Và tin tưởng rằng Chúa vẫn hằng yêu thương tha thứ.

Sự tìm về của Giuđa Ít-ca-ri-ốt là sự tìm về dang dở.

Giuđa biết “tìm về chính mình”. Anh ta đã “nhìn lại mình” và đau khổ. Anh có sám hối. Đó là một khởi đầu rất tốt. Giuđa thật can đảm. Sự tìm về với chính mình của Giuđa thật tuyệt vời. Nhưng thật đáng tiếc, những bước tiếp theo lại thất bại. Thật tội nghiệp cho Giuđa, anh đã không đến được với Chúa vì anh không hình dung được tình yêu Chúa bao la đến mức có thể tha thứ tội tày trời của anh!

Có người bảo rằng thật tiếc là kết thúc cuộc đời của Giuđa “không có hậu”. Nếu Giuđa tin vững vào Tình Yêu của Chúa, không ngã lòng trông cậy, phần kết luận sẽ khác! Thí dụ như Giuđa không tự tử, Giuđa khóc lóc hối hận một đời như thánh Phêrô. Rồi Giuđa sau này rao giảng về Chúa phục sinh, lời lẽ của Giuđa sẽ mạnh mẽ: “Tôi đã từng bán Chúa! Tôi đã chen vào đám đông và đứng chứng kiến người ta đóng đinh Chúa trên Thập Giá. Trong khoảnh khắc tình cờ từ trên Thập Giá Chúa đã nhìn thấy tôi. Đôi mắt Ngài nhân từ, đượm buồn nhưng rất âu yếm…”. Và cuối cùng, Giuđa đã bị treo cổ vì đã rao giảng về Giêsu đã chết và đã Phục Sinh, chứ không phải tự treo cổ vì tuyệt vọng! Kết thúc được như vậy cuộc đời Giuđa thật đẹp biết bao!

Có thể sự hối hận của Giuđa quá muộn màng. Cách sống của Giuđa quá biệt lập trong “gia đình các môn đệ”. Khi Giuđa biết “tìm về chính mình” và sám hối ăn năn, Giuđa lại cảm thấy lẻ loi, mang nặng mặc cảm tội lỗi với Chúa và với anh em. “Một trong các môn đệ của Chúa Giêsu là Giuđa Ít-ca-ri-ốt, kẻ sẽ nộp Người, liền nói: ‘Sao lại không bán dầu thơm đó lấy ba trăm đồng bạc mà cho người nghèo?’ Y nói thế, không phải vì lo cho người nghèo, nhưng vì y là một tên ăn cắp: y giữ túi tiền và thường lấy cho mình những gì người ta bỏ vào quỹ chung” (Ga.12.4-6). Bước tiếp theo “tìm về gia đình”, hòa nhập vào “cộng đoàn môn đệ” là không thể được. Giuđa không thể nào chịu nổi sự lạc lỏng, cô đơn, có khi là “búa rìu” của “dư luận” ngay trong “gia đình môn đệ”, không còn con đường tìm về bên Chúa được nữa, Giuđa đã chọn con đường tự tử. Giuđa không đủ niềm tin để chỗi dậy.

Hãy thử tưởng tượng đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay đã “không dám” về gặp thẳng cha mình, mà về gặp anh mình để “thăm dò” xem cha mình có thể “nhận” mình không, thì người anh sẽ phản ứng ra sao? Dựa vào phần kết câu chuyện, chắc chúng ta cũng có thể suy ra những câu nói của người anh đối với em mình thế nào! Những câu nói có thể đại loại như: – “mầy còn vác mặt mày về đây hả?” – “Mày định về đây chia cái gì nữa đây?” – “ Mày làm tán gia bại sản chưa hài lòng chắc?” – “Ông già thất vọng về mày”… Và đứa con trai hoang đàng sẽ rút lui. Sự tìm về của nó thất bại. Nó sẽ lại bước vào dòng đời gió bụi. Nó sẽ chết ở xó kẹt nào đó, mang theo nỗi lòng đau khổ sám hối ăn năn mà không còn cơ hội nhận ra được người cha đang yêu thương chờ đợi nó.

Có rất nhiều vật cản trên “bước đường tìm về”. Có rất nhiều sương mù làm nhạt nhòa hình ảnh Thiên Chúa là Người Cha Nhân Hậu. Không phải chỉ ngày xưa, thời Pharisêu, Biệt Phái, mà trong cả thời nay, có khi ngay cả trong lòng Giáo Hội.

Chuyến tìm về của đứa con trai hoang đàng trong câu chuyện Tin Mừng hôm nay thành công, vì anh đã can đảm đến với cha mình. Anh trực tiếp thấy được dung nhan hiền từ của cha mình ngoài sức tưởng tượng của anh. Không có cánh tay trừng phạt giáng xuống anh, chỉ có vòng tay êm ái ôm chằm lấy anh. Không có những lời hạch tội quát mắng, chỉ có những lời ra lệnh mở tiệc ăn mừng. Không có những lời lên án, chỉ có những lời bênh vực. Không có bờ môi đay nghiến, chỉ có những nụ hôn. Không có chỗ ở để nhận thêm một đầy tớ, chỉ có chỗ ở dành cho đứa con bao năm chờ đợi trở về. Anh trực tiếp cảm nghiệm được lòng yêu thương của cha anh trổi vượt hơn vạn lần anh suy đoán. Anh nhận được ân huệ của cha anh lớn lao vạn lần hơn những gì anh van xin.

Sự vui mừng của cha anh cho anh lòng tự trọng. Cho anh vững bước tiến lên để xứng đáng với tình cha. Cha anh tin tưởng anh làm lại cuộc đời mới. “Nhưng chúng ta phải ăn mừng, phải vui vẻ, vì em con đây đã chết mà nay lại sống, đã mất mà nay lại tìm thấy.” (Lc.15,32).

Chỉ có Chúa Giêsu mới trả lời được vì sao “các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Người”, và vì sao Người lại “đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với họ”. Các người thu thuế và các người tội lỗi đều lui tới với Đức Giêsu để nghe Người giảng. Những người Pharisêu và các kinh sư bèn xầm xì với nhau: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng.” (Lc.15,1-32).

Chỉ có Chúa Giêsu mới diễn tả đúng mức thế nào là Thiên Chúa là Cha Nhân Từ. và thế nào là Tình Yêu Thiên Chúa dành cho nhân loại khi vòng tay của Người dang rộng trên Thập Giá. “Ông Philípphê nói: ‘Thưa Thầy, xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha, như thế là chúng con mãn nguyện’. Đức Giêsu trả lời: ‘Thấy ở với anh em bấy lâu, thế mà anh Philíphê, anh chưa biết Thầy ư? Ai thấy Thầy là thấy Chúa Cha. Sao anh lại nói: ‘Xin tỏ cho chúng con thấy Chúa Cha’?” (Ga.14,8-9).

Lạy Chúa, Xin đừng làm rạng rỡ chúng con, vâng, lạy Chúa, xin đừng! nhưng xin cho danh Ngài rạng rỡ, bởi vì Ngài thành tín yêu thương. (Tv.115,1). Amen.

Về mục lục

.

XIN CHUNG VUI VỚI TÔI

Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Hai dụ ngôn: con chiên lạc và đồng bạc bị mất giống nhau về hình thức, lời văn cũng như nội dung tư tưởng và giáo huấn, đến nỗi có thể gọi chúng là hai dụ ngôn sinh đôi. Thực vậy, hai dụ ngôn đó, Đức Giêsu lần lượt đưa ra một người đàn ông và một người đàn bà, một mục tử mất chiên và một nội trợ mất tiền. Có khác về con số nhưng cùng một giáo huấn:

Dụ ngôn chiên lạc

Một người chăn chiên có một trăm con, lạc mất một, người đó để chín mươi chín con nơi hoang vắng để đi tìm con lạc, việc đi tìm không phải dễ, giữa cảnh bao la rừng núi. Vả lại, một sánh với chín mươi chín có là gì. Thế mà với đôi chân trần đạp trên đá sỏ, ông đã chạy lang thang khắp nơi để tìm.

Tại sao? Vì yêu thương. Đối với tình yêu, số học không còn như cũ. Lúc đó có thể đặt dấu bằng ở giữa số một và số chín mươi chín (1=99). Như thế, bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con được ông coi giá trị như chín mươi chín. Giống như đại tướng yêu binh lính, bất cứ giá nào cũng không để chết đi một người, dù là lính quèn. Một người lính được coi như cả một đoàn quân, chết một có thể chết cả đoàn.

Bởi thế, khi tìm thấy con chiên lạc, ông đã vui mừng chạy lại ôm lấy, vác trên đôi vai, cho dù con chiên có nặng, ông rất mệt, đã chạy nhiều giờ trên những ngọn đồi sỏi đá, dưới ánh nắng chói chang của mặt trời. Nhưng theo ông, một con chiên xa đàn, lang thang nhiều giờ, nó kiệt sức, cần ông vác. Khi về đến nhà, niềm vui như vỡ bờ, ông đã kêu bạn bè hàng xóm đến chia vui, niềm vui của ông tỏa rộng và lây sang người khác.

Đồng bạc bị đánh mất.

Đây là cảnh xảy ra bên trong nhà người dân xứ Palestin: Một căn phòng bằng đất nện, với vài chiếc chiếu, hay ít đồ đạc lỉnh kỉnh, ánh sáng không bao nhiêu và chỉ lọt qua cửa chính, giữa ban ngày cũng cần một ngọn đèn nhỏ để soi các góc xó. Một phụ nữ có mười đồng bạc, bị mất một, bà đã gia công tìm kiếm, soi đèn quét nhà, moi móc khắp nơi, tìm cho kỳ được, tìm được, lòng tràn ngập vui mừng, đồng tiền thế nào cũng được cất vào một nơi chắc chắn, bà cũng mời bạn bè hàng xóm đến chia vui.

Tại sao? Đối với bà một đồng trị giá bằng một ngày công, nhưng nó quá lớn. Mất đi một đồng, bà mất đi một ngày sống. Dụ ngôn con chiên lạc, một so với chín mươi chín là quá nhỏ. Ở đây một so với chín quá quan trọng. Vì thế người đàn bà này có lý vui mừng.

Giáo huấn của hai dụ ngôn

Qua hai dụ ngôn, Đức Giêsu dạy: Tội nhân muốn trở lại cần có sự hối cải, nhưng sự hối cải của họ không phải là điều kiện tiên quyết để được Thiên Chúa ân cần đón tiếp, như những người Pharisiêu và các Kinh sư chủ trương. Trái lại, sự hoán cải này trước tiên được Thiên Chúa thực hiện.

Các triết gia đã biến Thiên Chúa thành một hữu thể bất động, không thay đổi. Đức Giêsu cho chúng ta thấy một Thiên Chúa chuyển động, đang mở chiến dịch tìm kiếm cái Người đã mất. Đức Giêsu đặt trước mặt chúng ta: Người mục tử vùng đồi núi Galilê, chân trần trên đá sỏi đang chạy hết tốc độ, để tìm con chiên lạc; người đàn bà đang soi đèn quét tước tìm đồng bạc đã mất. Đức Giêsu bảo: Thiên Chúa là như thế. Không có người nào bị Thiên Chúa bỏ rơi, không có người nào bị mất hẳn, bởi vì có Đấng yêu thương không ngừng đi tìm người ấy. Thiên Chúa không chịu ngồi chờ kẻ tội lỗi trở về, Người ra đi tìm họ.

Đối với người chăn chiên, một con bằng chín mươi chín, với người đàn bà, một đồng bằng chín. Đối với Thiên Chúa, mỗi người đàn ông, mỗi người đàn bà, có một giá trị độc nhất vô giá. Một con chiên lạc mất đã chiếm hết ý nghĩ của người mục tử, một đồng bạc bị mất đã chiếm hết ý nghĩ của người đàn bà. Xem ra chỉ con chiên lạc, đồng bạc mất mới là đáng kể. Chúng ta có một Thiên Chúa như thế. Một Thiên Chúa tiếp tục nghĩ đến những ai đã bỏ rơi Ngài, một Thiên Chúa đau khổ vì một linh hồn hư mất, bởi mỗi người đều quý giá, đều chiếm chỗ quan trọng trong con tim Ngài.

Tuy giáo lý dạy, con người không thêm gì cho vinh quang và hạnh phúc nội tại của Thiên Chúa. Nhưng theo những dụ ngôn này, mỗi người chiếm địa vị thiết yếu trong tình yêu Ngài đến chừng nào. Nếu không có bệnh nhân, đâu có thầy thuốc. Nếu không có tội nhân, đâu có tình thương cứu độ. Nói thế, không có nghĩa đề cao tội lỗi. Đức Giêsu không bao giờ nói, tội lỗi không quan trọng. Trái lại, sự lên án của Người đối với tội lỗi thì mãnh liệt và không chút mơ hồ: “Nếu tay ngươi hoặc chân ngươi làm dịp tội cho ngươi, hãy chặt nó đi…” Như mọi ngôn sứ, Đức Giêsu đòi hỏi sự hoán cải và sám hối (Mc 1,15). Nếu các dụ ngôn này là một lời rao giảng về tình yêu Thiên Chúa, chúng cũng là một lời rao giảng về sự hoán cải cần thiết của kẻ tội lỗi.

Câu chuyện minh họa

Ngày 13-5-1981, giữa lúc hàng chục ngàn ngời chen chúc nhau tại quảng trường thánh Phêrô để đón đức giáo hoàng Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát vang lên làm mọi ngời đứng tim. đức thánh cha đã ngã gục trên chiếc xe mui trần, máu vọt lên tung tóe. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại, một vị giáo hoàng bị mu sát. Ali Agaca, hung thủ tội ác, bị bắt ngay tại chỗ. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này bị giam tại nhà tù Rebiblia ở Rôma, cả thế giới kinh hoàng về tội ác tày trời này. Năm 1984, thế giới còn kinh ngạc hơn nữa. Đấng bị thảm sát đã đến nói chuyện với kẻ sát hại mình. Không ai biết hai bên nói gì. Nhưng người ta rất cảm động, thấy đức thánh cha bắt tay Ali Agaca, với nụ cười rất trìu mến. Phải chăng đây là hình ảnh sống động nhất về tình yêu Đức Giêsu niềm nở đón tiếp các tội nhân. Đức thánh cha, vị đại diện Đức Giêsu, bị bắn gục, vẫn tỏ lòng rất nhân từ đối với kẻ tội ác. Ali Agaca đã nhập vào đoàn hành hương của đoàn chiên lành đang vui mừng chào đón chủ chiên đến thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng tinh thần bằng lời hằng sống. Ali Agaca như con chiên ghẻ, như đứa con phung phá xô đến giết chủ chăn, giết cha mình. Nhưng người cha hiền, người mục tử nhân hậu đã sẵn sàng liều chết đến cứu đứa con hư, sẵn sàng tha thứ hòa giải và vui mừng ôm lấy đứa con trở về.

Về mục lục

.

MẤT – TÌM – MỪNG

Lm. Vũ Xuân Hạnh

Trong cuộc đời truyền giáo, Chúa Giêsu có nhiều dịp tiếp xúc nhiều hạn người, nhiều tầng lớp xã hội. Theo Tin Mừng, Chúa đặc biệt ưu ái người nghèo, nghèo vật chất và nhất là nghèo phẩm giá. Chúa lui tới, gặp gỡ, ăn uống với họ. Chúa bày tỏ tình yêu đối với họ là tình yêu thương xót, thông cảm, bao dung, tha thứ và đón nhận. Chúa đi ngược hẳn lối suy nghĩ của những người lãnh đạo trong đạo, ngoài đời của xã hội Dothái đương thời. Họ khinh miệt những người nghèo. Họ xa tránh và gọi những người nghèo ấy là “phường tội lỗi”.

Hôm nay, bằng ba dụ ngôn, Chúa dạy những “nhà lãnh đạo Dothái” bài học của lòng yêu thương thông cảm.

I. MẤT – TÌM – MỪNG

Bài Tin Mừng hôm nay, với ba dụ ngôn, để diễn tả nỗi lòng yêu thương cao cả của Thiên Chúa, có nhiều động từ được Chúa Giêsu lặp đi lặp lại, đó là những động từ: “mất” (6 lần), “tìm” (8 lần), “mừng” (8 lần).

  Người ta bị mất, người ta đi tìm. Tìm thầy, người ta vui mừng.

  Cái bị mất càng quý giá, càng phải tìm. Tìm thấy, nỗi vui mừng càng lớn.

Con người lưu lạc khỏi vòng tay Thiên Chúa, Thiên Chúa lạc mất con người. Cả dòng lịch sử cứu độ trải dài hàng thế kỷ là hành động của Thiên Chúa tình yêu đi tìm con người. Bởi thế, dòng lịch sử cứu độ đã ghi một dấu ấn tích cực, đó là dấu ấn của cả Hội Thánh Chúa và biết bao nhiêu anh chị em đã đáp lại sự tìm kiếm của Chúa.

Con người, đối với Thiên Chúa, đó là quà tặng quý giá dành cho chính bản thân Người. Bởi con người đáng quý, cho nên sự bội nghĩa vong ân của họ gây nên nỗi đau lớn nơi lòng Thiên Chúa. Một khi Thiên Chúa đã tìm thấy con người qua sự đáp trả của họ, đó là một niềm mừng vui không xiết. Chúa Giêsu diễn tả niềm vui này bằng nhiều hình ảnh:

– Người chủ chiên, sau khi tìm thấy con chiên tự ý bỏ đàn ra đi, đã “vui mừng vác chiên lên vai, trở về nhà, kêu bạn hữu và những người lân cận mà nói rằng: ‘Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc”.

– Người phụ nữ cất mọi công sức đi tìm đồng bạc bị lạc mất: “Đốt đèn, quét nhà, tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm thấy”. Khi tìm thấy, “bà mời các chị em bạn và những người láng giềng đến mà rằng: ‘Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm thấy đồng bạc tôi bị mất”.

– Nhất là người cha nhân hậu, sau bao năm mỏi mòn trông đợi đứa con phụ nghĩa bạc tình, ông vui mừng hết sức khi tìm thấy con ông trở về. Niềm vui của ông vỡ òa trong ngày chính ông được chạm đến cuộc đời đứa con hư hỏng: “Mau mang áo đẹp nhất ra đây và mặc cho cậu, hãy đeo nhẫn vào ngón tay cậu, và xỏ giày vào chân cậu. Hãy bắt con be béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.

Ba động từ MẤT – TÌM – MỪNG xuyên suốt ba dụ ngôn, trở thành một tình ca hay, ca ngợi lòng yêu thương vừa kỳ diệu, trường kỳ, sâu thẳm trong hành động tìm kiếm con người của Thiên Chúa, vừa cho thấy: Tội lỗi đáng ghét, đáng loại trừ, nhưng người có tội, dù tội của họ nặng đến mức độ nào, vẫn đáng thương, đáng được tha thứ một khi họ biết ăn năn.

Một con chiên lạc, một đồng bạc bị mất, một đứa con hư hỏng. Thực ra đó là hình ảnh của loài người tội lỗi, là linh hồn con người cần được tình yêu tha thứ của Chúa đón nhận. Linh hồn còn quý giá hơn bội lần đối với con chiên, quý giá hơn đồng bạc, quý giá hơn đứa con hoang đàng. Bởi vậy, một khi tìm lại được linh hồn con người, thì không phải chỉ cả nhà vui, người chủ vui, hàng xóm vui, nhưng cả thiên đàng đều vui: “Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải”.

II. THÁI ĐỘ NÀO CHO CHÚNG TA?

Thứ nhất: Biết mình có tội.

Cả vô tình lẫn cố ý, nhiều lần ta trở thành “người anh cả” trong dụ ngôn thứ ba, đã không thể thông cảm, không thể đón nhận anh em mình đứng lên sau khi đã vấp ngã, lại còn ganh ghét, lên án, kết tội. Đó là thái độ của những biệt phái và luật sĩ mà bài Tin Mừng nhắc đến nói riêng, các nhà lãnh đạo trong đạo ngoài đời của xã hội Dothái nói chung. Chính thái độ loại trừ một cách độc ác này đã “bị” Chúa dạy liên tiếp bằng ba dụ ngôn đáng giá, để nhắc nhở họ về tình trạng tội lỗi của chính họ. Họ cũng cần được tha thứ, cũng cần được Thiên Chúa yêu thương đón nhận như mọi người. Họ phải khôn ngoan nhìn mình để khám phá con người thực của mình hơn là nhìn người anh em để đổ vạ, để lên án.

Hơn bao giờ hết, chính lúc này đây, lúc mà ta đang lắng nghe và suy niệm Lời Chúa, hãy biết rằng, Chúa dạy ta đừng xét đoán, đừng lên án anh em, bởi không phải anh em có tội, nhưng là chính bản thân ta có tội. Chúa đang dạy ta hãy cúi đầu nhìn nhận mình tội lỗi mà ăn năn tội và cầu xin ơn tha thứ như lời thú nhận của người con thứ trong dụ ngôn thứ ba: “Thưa Cha, con thật đắc tội với Cha”.

Thứ hai: Đừng đánh mất hy vọng.

Dù ta xấu thế nào, tội nặng đến đâu, ta vẫn không có quyền thất vọng. Hãy tin mãnh liệt rằng, trước khi ta trở về, Chúa đã đi tìm ta. Chẳng những Chúa không bỏ rơi người có tội, ngược lại Chúa chủ động đi tìm. Chúa tìm đến lúc tìm được mới thôi. Ngày nào ta còn xa Chúa, ngày ấy Chúa còn mòn mỏi trông ngóng, chờ đợi, đau khổ. Chúa tìm ta, Chúa cần ta, Chúa thương ta, Chúa nâng niu ta. Một khi đã tìm lại được ta, Chúa không chỉ đón nhận như đón nhận người con ân hận trở về. Nhưng lòng Chúa mở hội, lòng Chúa vui mừng khôn tả.

Ta không có quyền thất vọng trước tình yêu hãi hà của Chúa. Tại sao ta lại thất vọng trong khi Chúa đang tha thiết chờ đợi ta trở về cùng Chúa? Tại sao ta không xác tín rằng, với ơn Chúa, ta sẽ có đủ nghị lực đứng lên trở về với Chúa? Người con hoang đàng trong dụ ngôn thứ ba toàn làm điều xấu, chỉ duy nhất có một hành động đẹp mà thôi: Đứng lên trở về cùng cha. Dẫu chỉ một, nhưng hành động ấy quá đủ để anh lại được ngự giữa tình yêu của cha. Dù ta phạm tội đến mức độ nào đi nữa, thì cũng hãy dứt khoát thực hiện một hành động rất đẹp mà người con hoang đàng đã thực hiện: Ra đi, trở về cùng Cha và thưa với Cha rằng: Lạy Cha, con đã lỗi phạm đến Cha. Hãy nhớ một điều rất quan trọng: Thất vọng là động lực nguy hiểm lôi kéo ta càng ngày càng xa Chúa. Do đó, thất vọng càng nhấn chìm ta. Càng đẩy ta lún sâu vào vũng bùn dơ bẩn của tội lỗi. Thất vọng là giết chết cuộc đời mình, giết chết tương lai vĩnh cửu của mình, giết chết cơ hội trở về với tình yêu của Chúa.

Thứ ba: Tin vào khả năng mình sống thánh thiện.

Ai trong chúng ta cũng có khả năng làm việc thiện. Đó là thực tế. Ngay cả một người dù bậm trợn nhất, xấu xa nhất, thì nội tâm anh ta vẫn khao khát hướng về sự thiện.

Tin vào khả làm việc thiện, sẽ đưa ta tới một niềm tin quan trọng khác: Ta có thể đứng lên thay đổi đời sống và hoán cải lòng mình. Hình tượng người con hoang đàng quyết trở về với cha của anh là bằng chứng mà Chúa đã dùng để nhắc ta hãy tin vào khả năng mình nên thánh thiện. Lịch sử Hội Thánh đã ghi nhận nhiều tấm gương sống đúng như Lời Chúa dạy qua hình ảnh người con hoang đàng. Chẳng hạn: thánh Phêrô, thánh Âugustinô, Thánh Phanxicô Asisi, á thánh Charles de Foucauld… Tất cả những con người thánh ấy, đều đã có một thời gian sai phạm, nhưng đã tự tin đứng lên về cùng Chúa. Họ đã thành công. Họ đã nên thánh. Chính tình yêu của Chúa đã trao cho họ động lực hoán đổi đời mình. Cũng vậy, Chúa vẫn bao bọc đời ta bằng tình yêu triều mến của Chúa. Tin tưởng Chúa không bỏ ta, ta sẽ đủ nghị lực, đủ mạnh mẽ mà dứt khoát giả từ tội lỗi, trở về cùng Chúa.

Về mục lục

.

CHIÊM NGẮM TÌNH YÊU CHÚA CHA: TRÁI TIM RA MỞ RA

Lm. Đaminh Hương Quất

Ngôi Lời Nhập Thể, đặc biệt trong sứ vụ công khai, Chúa Giêsu nổi bật dung mạo Thiên Chúa đầy yêu thương nhân từ. Tình yêu của Người quá kỳ lạ, quá lớn lao, thật khác thường.

Chúa Giêsu chính là Hiện thân của Thiên Chúa Vô hình, Thiên Chúa tình yêu (Cl 1,15). Trái tim Chúa Giêsu dành yêu thương hết mọi người, đặc biệt người nghèo khổ, bệnh tật,  bọn thu thuế, đĩ điếm… nói chung họ thuộc thành phần tội lỗi, thuộc đối tượng cảnh giác, bị tôn giáo gạt lề.  Do đó họ bị xã hội Do Thái ghét ra mặt, khinh khi ra mặt, tẩy chay ra mặt; tệ hơn còn ra luật vạ tuyệt thông: cấm tiếp xúc, ai tiếp xúc đều lây tội.

Một người Do Thái giáo đạo đức thời Chúa Giêsu không bao giờ nói chuyện, tiếp xúc chứ đừng nói chuyện ăn chung bàn với người mà họ cho là quân tội lỗi.

Khi còn tại thế, nhiều người Do Thái công nhận Chúa Giêsu là bậc thầy, là sư phụ không chỉ uyên thâm Lời Chúa, giảng dạy như Đấng có uy quyền mà còn là nhà đạo đức số một.

Chúa Giêsu nhà đạo đức số một, ấy thế mà!…

Người ta bắt đầu nghi ngờ về đạo đức của Chúa Giêsu, nhất là nhóm Biệt phái- luật sĩ là những bậc thầy đạo đức của người Do Thái, khi thấy Chúa Giêsu đối xử tử tế, nhân hậu với người tội lỗi như người bình thường, xem ra còn ưu ái hơn người bình thường. Khó chịu nhất cảnh Người trò chuyện thân tình, đồng bàn ăn với họ.

Tin Mừng hôm nay, thánh sử Luca  cho thấy phản ứng khó chịu, thái độ nghi ngờ đạo đức Chúa Giêsu của  nhóm Biệt phái luật sĩ. Họ xầm xì: nếu Thầy Giêsu đạo đức tại sao ngài  đón tiếp những kẻ tội lỗi và cùng ăn uống với chúng?.

(Ở đây ta lại đụng phải thành kiến vững chắc, cố chấp của họ. Nhất định cho mình đúng, cái gì không như mình nghĩ là sai. Xét cho cùng đấy là thái độ kiêu ngạo. Chính trong thái độ không chịu sám hối- thay đổi lối nhìn ấy mà người Do Thái chưa nhận ra Chúa Giêsu là Đấng Messia)

Để trả lời nghi vấn của họ, Chúa Giêsu kể ba dụ ngôn: con chiên lạc, đồng tiền mất và đứa con hoang đàng.

Tất cả những dụ ngôn này đều đề cao hình ảnh một Thiên Chúa giàu lòng thương xót. Ngài xót xa khi một người lầm đường rơi vào tội lỗi, tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu được một người tội lỗi, Ngài rất vui mừng.

Mặt khác, Chúa Giêsu cho thấy rõ giá trị Tin Mừng của một người tội lỗi biết ăn năn sám hối trở về với Chúa.

Như người Mục tử tìm được chiên lạc, như người đàn bà tìm được đồng tiền mất, như người cha tìm được đứa con hoang- họ đã không vui một mình, niềm vui quá lớn không thể vui một mình, đòi hỏi cần phải có người chia sẻ, phải mở tiệc ăn mừng- Họ đã rủ người khác đến chia sẻ niềm vui:

Người Mục tử tìm được chiên lạc: “Anh em hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc…

Người Đàn bà tìm được đồng tiền: “Chị em hãy vui mừng với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc tôi đã mất…

Người Cha khi thấy con trở về nhà: Hãy bắt con bê béo làm thịt để chúng ta ăn mừng, vì con ta đây đã chết, nay sống lại, đã mất nay lại tìm thấy. Và người ta bắt đầu ăn uống linh đình”

Cha chúng ta trên trời của cũng thể, một người tội lỗi có nguy có mất ơn cứu độ sám hối trở về Nhà Cha không chỉ có mình Thiên Chúa vui mà cả triều thần thiên quốc mừng vui. “Các thiên thần của Thiên Chúa sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải…Trên trời sẽ vui mừng vì một người tội lỗi hối cải hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần hối cải.”

Tất cả là hình ảnh để diễn tả Tình yêu của Thiên Chúa, một Tình yêu quá tuyệt vời, mà bất cứ ai trong chúng ta một khi đã chạm đến Tình yêu ấy, một lần gặp gỡ có kinh nghiệm về Tình yêu ấy không thể thờ ơ, không thể không trở về với Cha.

Nói rõ hơn, Chúa không chỉ xót xa khi thấy những người con yêu dấu của Ngài phạm tội, mà còn tha thiết tìm cứu người tội lỗi. Khi cứu một con chiên lạc, một người tội lỗi Chúa không nản chí vì bất kỳ lý do nào, không mệt nhọc hoặc hiểm nguy. Ngài dùng mọi cách để đánh động, để báo động tình trạng tội lỗi của mình, Ngài luôn nói với ta qua tiếng lương tâm (bởi thế khi phạm tội, nhất là tội trọng lương tâm ta bất an), nếu ai đó lương tâm khô khan hơn, Ngài đánh động chúng ta mạnh hơn, chẳng hạn qua một biến cố tai nạn, qua biến cố đau thương nào đó….

Đặc biệt trong Giáo hội và qua Giáo hội Tông truyền, Thiên Chúa luôn đồng hành, hằng ngày nói với chúng ta qua Lời Chúa; gia tăng ân sủng qua các Bí tích để ta có thêm, có dư đủ sức mạnh chiến thắng những cám dỗ của ma quỷ- thế gian và xác thịt.

Đến hết cách mà chúng ta nhân danh tự do từ chối lòng Thương xót của Chúa thì Chúa cũng đành… bó tay. Bởi Ngài không thể và không bao giờ xâm phạm tự do mà Ngài đã đặc ban cho con người- thụ tạo được dựng nên giống Hình Ảnh Chúa. Đấy là lúc ta chạm ngưỡng tội phạm Chúa Thánh Thần, điều mà Chúa cảnh báo: “mọi tội, kể cả tội phạm thượng cũng sẽ được tha cho con người, chứ tội phạm đến Cha Thánh Thần sẽ chẳng được tha” (Mt 12,31). Tội phạm Thánh Thần là gạt bỏ ơn tha thứ của Thiên Chúa, cố tình chai lì sống tội lỗi, không chịu sám hối trở.

Nói cách khác, trực diện trước Tình yêu của Chúa Cha trong Chúa Con nhờ sức mạnh của Chúa Thánh Thần, trái tim của mỗi chúng ta không thể không mở ra, không thể không sinh ra hoa trái hiệp thông và bác ái.

Ở đây ta không nói về chiên lạc, đồng tiền mất, hay đứa con hoang trở về mà nói về Người Mục tử mất chiến- người đàn bà mất đồng tiền- người cha mất con.

Nghĩa là ta nói về Cha trên trời của chúng ta, chiêm ngắm về Tình yêu giàu lòng Thương xót của Cha chúng ta dành cho mỗi ta, cho cả nhân loại, đặc biệt dành cho những người tội lỗi biết sám hối trở về. Điều mà chúng ta đáng học- đáng noi theo hơn cả nơi các dụ ngôn này là Tình yêu thương của Người Cha của chúng ta.

Đấy là điều Chúa Giêsu muốn khi Ngài kêu mời: “Các con hãy ở nhân từ như Cha các con là Đấng nhân từ”;

Đấy là điều Chúa Giêsu muốn khi Người công khai đòi hỏi môn đệ học theo Ngài: “hãy học nơi Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường”.

Đấy là điều Chúa Giêsu dạy chúng ta khi khẩn nguyện: “Lạy Cha chúng con ở trên trời… Xin Cha tha tội chúng con như chúng con cũng tha kẻ có nợ chúng con”

Đấy là điều Chúa Giêsu muốn, trước khi ra đi chịu chết đã trăn trối giơi răn mới yêu thương làm nền tảng, thuộc bản chất cho Kitô giáo: “các con hãy yêu thương nhau như Thầy yêu thương các con”.

Nghĩa là con của Thiên Chúa được gọi là Tình yêu; mang danh Kitô hữu- có Chúa Giêsu hiện diện nơi mình chúng ta phải là những Sứ giả của Tình yêu Thiên Chúa; là hiện thân của Tin Mừng cứu độ là Chúa Giêsu.

Đánh mất Tình yêu, chúng ta đánh mất quyền làm con Chúa, không còn Kitô hữu đích thực nữa. Thực tế biến chất, mất chất ‘Kitô hữu’ mà vẫn mang danh Kitô hữu, nguy hiểm cho ta và cho xã hội. Sự hiện diện của ta chẳng khác gì cáo đội lốt chiên; chẳng khác gì, miệng nam mô mà bụng một bồ dao găm…

 Năm Thánh Lòng Chúa Thương Xót đã bước vào trong những tháng cuối cùng. Vậy ta đã sống và Loan báo Lòng Chúa Thương xót chưa? Đôi khi đơn giản là nụ cười cảm thông, lời nói trân trọng dễ nghe, lời cầu nguyện cho những người mình….dễ ghét….

Bài Tin mừng hôm nay có thể coi là một trong những bài Tin Mừng làm nổi bật Lòng Thương Xót của Cha trời. Chiêm ngắm Lòng Xót Thương của Thiên Chúa là Cha, liệu trái tim ta có mở ra, có Thương xót như Cha không?

Là Sứ giả Tình yêu, vậy chúng ta phải yêu thế nào?

Thánh Phaolô về Tình yêu Kitô giáo: “Đức mến thì nhẫn nhục, hiền hậu, không ghen tương, không vênh vang, không tự đắc; không làm điều bất chính, không tìm tư lợi, không nóng giận, không nuôi hận thù; không mùng khi thấy sự gian ác,nhưng vui khi thấy điều chân thật. Đức mến tha thứ tất cả , tin tưởng tất cả; hy vọng tất cả, chịu đựng tất cả” (1Cr 13, 4-7)

Lời thánh Phaolô trên, có thể nói  như bản ‘xét mình’ về Giới răn yêu thương.

Lạy Chúa xin cho chúng con luôn biết tin tưởng vào lòng nhân từ của Chúa, biết sam hối ăn năn, đổi mới cuộc sống để chúng con trở thành Sứ giả Tình yêu của Chúa giữa trần thế. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM NỞ TIẾP ĐÓN NGƯỜI TỘI LỖI

Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm

Ngày 13/05/1981 giữa lúc hàng chục ngàn người chen chúc nhau tại công trường Thánh Phêrô để đón Đức Giáo Hoàng Gioan Phaolô II, thì một tiếng nổ chát chúa vang lên làm mọi người đứng tim, Đức Thánh Cha đã ngã gục trên chiếc xe mui trần, máu vọt lên tung tóe. Lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại: một vị Giáo hoàng bị mưu sát. Ali Agca, hung thủ tội ác, bị bắt ngay tại chỗ. Người thanh niên Thổ Nhĩ Kỳ này bị giam tại nhà tù Rebibbia ở Rôma, cả thế giới kinh hoàng về tội ác tầy trời này. Năm 1984, thế giới còn kinh ngạc hơn nữa: Đấng bị thảm sát đã đến nói chuyện với kẻ sát hại mình. Không ai biết hai bên nói gì. Nhưng người ta rất cảm động thấy Đức Thánh Cha bắt tay Ali Agca với nụ cười rất trìu mến.

Đây là hình ảnh sống động nhất về tình yêu Đức Giêsu niềm nở đón tiếp các tội nhân. Đức Thánh Cha, vị đại diện Đức Giêsu, bị bắn gục, vẫn tỏ lòng rất nhân từ đối với kẻ tội ác. Ali đã nhập vào đoàn hành hương của đoàn chiên hiền lành đang vui mừng chào đón chủ chiên đến thương yêu, chăm sóc, nuôi dưỡng tinh thần đoàn chiên bằng lời hằng sống. Ali như con chiên ghẻ, như đứa con phung phá, xô đến giết chủ chiên, giết cha mình, nhưng người cha hiền, người mục tử nhân hậu đã sẵn sàng liều chết đến cứu đứa con hư, sẵn sàng tha thứ, hòa giải và vui mừng ôm lấy đứa con trở về.

Bài Tin Mừng nói lên tình yêu của Đức Giêsu đối với những người tội lỗi qua ba dụ ngôn: Chiên lạc, đồng tiền mất và đứa con đi hoang. Mỗi dụ ngôn diễn tả một sắc thái đậm tình sâu thẵm.

1- Dụ ngôn chiên lạc: Ông chủ có 100 con chiên, chỉ lạc một con giữa cảnh bao la rừng núi, biết đâu mà tìm, thế mà với đôi chân trần đạp trên sỏi đá, gai gốc, ông đã chạy lang thang khắp nơi để tìm con chiên lạc. Một con sánh với 99 con còn lại thì chỉ như số không, không đáng gì, đâu có làm ông nghèo đi chút nào! Việc làm của ông chứng tỏ hùng hồn rằng: Bất cứ giá nào, ông cũng không để mất, dù một con. Một con được ông cho giá trị như 99 con. Nó giống như Đại tướng bất cứ giá nào cũng không để chết đi một người lính quèn, một người lính được coi như cả một đoàn quân. Chết một tên lính gác, có thể chết cả đoàn quân.

Đức Giêsu như chủ chiên, mỗi người dù chẳng đáng gì, nhưng đều được Người thương yêu đặc biệt nhưng không. Người cứu độ từng người với bất cứ giá nào. Người thương một người tội lỗi như yêu tất cả các thánh. Người đánh giá mạng sống mỗi người hơn tất cả lời lãi thế gian. Vì thế, “cả triều thần thiên quốc, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. Đức Giêsu còn đặc biệt tôn trọng từng người tội lỗi: Người ăn uống với họ, tọa đàm với họ và còn vui mừng vác họ lên vai.

Thực ra, tình yêu Thiên Chúa đối với con người không thể so sánh với bất cứ dụ ngôn nào được. Chủ với chiên cũng chỉ là loại thụ tạo, còn Thiên Chúa với con người cách xa nhau vô cùng. Thiên Chúa là Đấng tạo hóa, con người là thụ tạo. Thiên Chúa thánh thiện cao sang vô cùng, con người tội lỗi và thấp hèn như bùn đất. Thế mà, Thiên Chúa đã bỏ trời vinh quang xuống thế chịu chết, cứu vớt con người. “Tình yêu của Thiên Chúa đối với tội nhân không ai hiểu thấu”.

2- Dụ ngôn “Người phụ nữ có mười đồng bạc, chẳng may đánh mất một đồng”. Chúng ta tiếp tục chiêm ngưỡng một khía cạnh khác của tình yêu Thiên Chúa đối với tội nhân. Ở dụ ngôn chiên lạc, con số 1 cực kỳ nhỏ mọn so với số 99 cực kỳ lớn lao. Còn ở đây 1 so với 10 khá quan trọng. Nếu gói gọn cuộc đời của bà vào 10 đồng: Mất 1 đồng là mất sống một ngày, chỉ còn sống chín ngày. Vậy mất một đồng là một thiệt hại lớn đến chừng nào! Thiên Chúa mất đi một linh hồn là Thiên Chúa mất đi một ngày sống, chỉ còn chín ngày nữa thôi. Dụ ngôn nói lên sự khẩn thiết của con người được sống trong tình yêu thương Thiên Chúa. Thiên Chúa coi con người thiết yếu cho sự hiện diện tình thương của Thiên Chúa, giáo lý dạy: Con người không thêm gì cho vinh quang và hạnh phúc nội tại của Thiên Chúa. Nhưng theo dụ ngôn này, mỗi người chiếm một địa vị thiết yếu trong tình yêu của Thiên Chúa đến chừng nào! Nếu không có bệnh nhân, thì đâu có thầy thuốc. Nếu không có tội nhân, thì đâu có tình thương cứu độ nữa. Một kẻ tội lỗi như Phaolô trở lại, quan trọng đến chừng nào cho Thiên Chúa. Thánh Phaolô đã tâm sự với môn đệ Timôthêu rằng: “Trước kia, cha đã từng nói phạm thượng, ngược đãi và lăng nhục Người. Thế mà Đức Giêsu Kitô đã đến thế gian để cứu những người tội lỗi, mà người thứ nhất là cha. Sở dĩ cha được thương xót là vì Đức Giêsu Kitô muốn tỏ bày tất cả lòng khoan dung của Người, trước hết nơi cha, mà đặt cha làm gương cho những ai sẽ tin vào Người, để được sống muôn đời”. “Ôi tội Adam cần thiết thay để Thiên Chúa ban Đấng Cứu độ trần gian”

3- Dụ ngôn: Một người kia có hai con trai, nói lên tình yêu Thiên Chúa càng tuyệt diệu hơn nữa đối với người tội lỗi. Người cha có hai con trai: một đứa đi hoang, một đứa ở nhà chẳng coi cha ra gì, lại ghen ghét giận dữ cha và muốn đứa em chết đi. Thế là người cha kể như mất cả hai con. Ông sẽ bị rêu rao là kẻ bạc phước, neo đơn, cô độc, tuyệt tự. Ông không còn được ai gọi là cha nữa.

Nếu xếp cả nhân loại vào hai hạng đứa con đó, thì Thiên Chúa không còn ai để ca tụng Thiên Chúa là Cha nữa, vì “nơi cõi chết, ai nhớ đến Người; chốn âm ty, ai sẽ chúc tụng Người (Tv. 6,6). Hơn nữa, quỷ sẽ rêu rao xỉ nhục Người như Môsê đã nói với Chúa rằng: “Chúa đã đưa dân này ra khỏi Ai Cập … mà lại tiêu diệt chúng … thì Ai Cập sẽ rêu rao rằng: Chúa đã manh tâm đưa chúng ra đi để giết chúng nơi sơn cước và tận diệt chúng khỏi mặt đất” (Xh. 7, 12 Bài đọc II).

Không, không bao giờ, tình yêu của Thiên Chúa không cho phép xẩy ra như vậy, vì “Thiên Chúa không phải là Thiên Chúa của kẻ chết, nhưng là Thiên Chúa của kẻ sống” (Lc. 20, 38). Thiên Chúa đã dựng nên và cứu độ con người để họ được sống vinh quang hạnh phúc muôn đời, để tình yêu Thiên Chúa được cả sáng.

Lạy Chúa, Chúa đã ban phúc cho chúng con nhưng không. Xin cho chúng con biết trao lại cho nhau nhưng không. Mạng sống của chúng con thiết yếu nhờ vào sự cứu độ của người khác, xin cho mọi người chúng con cứu độ nhau để chúng con được cứu độ và tôn vinh lòng thương xót của Chúa đến muôn đời.

Về mục lục

.

THIÊN CHÚA ĐI TÌM

Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Tin mừng hôm nay là một trong những trang Tin mừng đẹp nhất. Đẹp vì tác giả Tin mừng trình bày cho chúng ta thấy được tấm lòng Thiên Chúa là Đấng giàu lòng xót thương. Đẹp vì ba dụ ngôn nói đến lòng thương xót của Thiên Chúa đi tìm con người, để tha thứ và chữa lành.

Đức Giêsu là hiện thân khuôn mặt vô hình của Thiên Chúa Cha Đấng giàu lòng thương xót, Ngài chủ động đến trần gian để đi tìm con người như lời Ngài nói: “Ta đến để tìm kiếm và cứu chữa những gì đã hư mất” (Lc 19,10).

Ngài đi tìm một Giakêu thấp bé, để hoán cải ông và gia đình ông được ơn cứu độ.

Ngài đi tìm một Lêvi đang khi ông ngồi nơi bàn thu thuế, để đưa ông trở về viết sách Tin mừng.

Ngài đi tìm một Mađalêna tội lỗi, để rồi biến đổi bà sau này trở thành chứng nhân Tin mừng phục sinh.

Ngài đi tìm một Phaolô trên đường lầm lạc bắt đạo, biến đổi ông trở thành tông đồ dân ngoại.

Chúa là người mục tử nhân lành đi tìm con chiên lạc.

Là người phụ nữ quét nhà tìm đồng bạc đánh rơi.

Là người cha nhân hậu ngày ngày ra đầu ngõ trông tìm đứa con hư hỏng trở về.  Và cuộc đi tìm không mấy dễ dàng.

 Để đi tìm con chiên lạc, người chăn chiên phải vượt núi băng rừng, bất kể ngày đêm, thời tiết nắng mưa, bất chấp nguy hiểm tìm cho bằng được.

 Để tìm lại đồng bạc bị mất, người phụ nữ phải thắp đèn soi mọi ngỏ ngách trong nhà tìm cho bằng được.

  Để mong người con hoang đàng trở về, người cha nhân hậu phải vượt lễ giáo gia phong, chấp nhận tính ghen bì của người con cả.

Cũng vậy, để đi tìm con người, Đức Giêsu phải từ bỏ trời cao đi xuống đất thấp; phải từ bỏ địa vị Thiên Chúa để đến với con người. Phải từ bỏ mạng sống để cho con người được sống.

Quả thật, Thiên Chúa không ngồi chờ chúng ta trở về để rồi mới tha thứ, nhưng Ngài tha thứ trước khi chúng ta xin lỗi Ngài. Ngài đi tìm trước khi chúng ta trở về với Ngài.

Mỗi người chúng ta cho dù bé nhỏ tầm thường đến đâu đi nữa, đều là đối tượng của lòng Chúa thương xót. Tại sao vậy? Thưa, vì chúng ta là hình ảnh của Chúa; là giá máu cứu chuộc của Chúa; là chi thể của Chúa và là đền thờ của Chúa Thánh Thần.

Một con chiên lạc có đáng gì đâu so với 99 con chiên còn lại.

Mất một đồng tiền có đáng kể gì so với 9 đồng.

Người con bỏ nhà đi hoang, phung phí hết tiền của, làm sao sánh được đứa con luôn ở nhà với Cha.

Tình thương Chúa cao hơn ngàn tội lỗi, như  lời Chúa nói qua miệng ngôn sứ Ezêkiel: “Ta không muốn kẻ gian ác phải chết, nhưng muốn nó ăn sám hối và được sống” (Ez 18, 23).

Tình thương Thiên Chúa không dừng lại nơi đây, nhưng còn vượt xa hơn nữa. Là sau tìm kiếm để tha thứ, để chữa lành thì Ngài còn vui mừng biết bao.

  Hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm thấy con chiên lạc. Hãy chia vui với tôi, vì tôi đã tìm được đồng bạc đã mất. Hãy mở tiệc ăn mừng, vì em con đã chết nay sống lại; đã mất nay lại tìm thấy. Cũng vậy, cả triều thần thánh vui mừng, vì một người tội lỗi hối cải hơn là 99 người công chính không cần hối cải.

Thực là mầu nhiệm tình thương ngàn đời ai hiểu thấu. Thiên Chúa không biết mệt mỏi tha thứ cho con người, trừ khi con người ngại ngùng không muốn đến kín múc lòng thương xót của Thiên Chúa mà thôi.

Anh chị em thân mến,

Cánh cửa tấm lòng nhân hậu của Thiên Chúa luôn rộng mở không bao giờ đóng. Vậy tất cả chúng ta hãy mau mắn trở về với Chúa. Trở về để được yêu thương; trở về để được tha thứ. Trở về để được chữa lành.

Không tội lỗi nào mà Ngài không tha thứ; không vết thương nào mà Ngài không chữa lành. Không nỗi buồn nào mà Ngài không an ủi. Bởi vì muôn ngàn đời Chúa vẫn trọn tình thương. Amen.

Về mục lục

.

NGHỊCH LÝ CỦA TÌNH YÊU THIÊN CHÚA

Lm. Phêrô Lê văn Chính

 Có một nét đẹp đầy cảm động của Thiên Chúa mà con người cần học khám phá và trải nghiệm đó là lòng thương xót tha thứ. Đặc trưng của tình yêu là rất đòi hỏi, nhưng vẻ đẹp của tình yêu là lòng thương xót tha thứ. Thiên Chúa vừa rất đòi hỏi trong tình yêu, người cũng lại rất bao dung tha thứ. Khi con người tội lỗi muốn quay trở về với Thiên Chúa, người mở rộng vòng tay yêu thương bao dung chờ đón con người. Trong tương quan với Thiên Chúa, tình yêu về phía con người không hoàn toàn trơn tru bằng phẳng, vì con người yếu hèn, hay thay đổi, nên đã phản bội, bất xứng trong tình yêu. Tội là khuôn mặt của tính kiêu căng của con người với sự mẫu thuẫn trong chọn lựa làm con người thay vì chọn Thiên Chúa lại chọn lựa thụ tạo. Lịch sử của dân Israel đã cho thấy nhiều lần họ phản bội Thiên Chúa. Trong bài đọc sách Xuất hành đã cho thấy Thiên Chúa nổi giận vì Israel phản bội khi họ thờ bò vàng. Dân tộc Israel khi sống giữa các dân tộc khác trong vùng Canaan đã dễ dàng bị ảnh hưởng bởi tôn giáo của các dân tộc chung quanh. Lúc bấy giờ các dân tộc chung quanh Israel thực hành hình thức tôn giáo phồn thực với những lễ hội ăn uống và giao hoan cách công khai. Hình thức lễ hội này tôn thờ tình dục vì họ cho rằng đó là một chúc lành của trời đất dành cho con người để sinh sôi nảy nở và tồn tại, đồng thời cũng là vì họ chưa có một quan niệm rõ nét về sự thánh thiện của Thiên Chúa. Israel đã thờ con bò vàng và đi theo những hình thức tôn giáo này. Thiên Chúa đã nổi giận đối với dân người và có ý định tiêu diệt dân Israel, nhưng Môisen đã đứng ra can thiệp cho dân với lời cầu nguyện tha thiết và sau cùng được Chúa nhậm lời. Điều đáng ghi nhận là lời cầu nguyện của Môisen làm Thiên Chúa nguôi giận và không còn nghiêm khắc muốn tiêu diệt Israel nữa, và Thiên Chúa lại yêu thương chăm sóc cho dân. Thánh vịnh 50 là lời cầu nguyện chân thành của người tội lỗi, cho chúng ta trải nghiệm tâm tình của người tội lỗi được tràn ngập niềm vui hạnh phúc được tha thứ và trở về với Thiên Chúa : “Ôi lạy Chúa, xin tạo cho con quả tim trong sạch và canh tân tinh thần cương nghị trong người con. Xin đừng loại con khỏi thiên nhan Chúa và chớ thu hồi Thánh Thần Chúa ra khỏi con”.

Bài Tin mừng theo thánh Luca chương 15 cho chúng ta thấy tình yêu thương tha thứ lạ lùng của Thiên Chúa. Những người biệt phái là những người rất chú tâm thực hành lề luật, nhưng lại có một quan niệm rất là khe khắt với người tội lỗi. Họ cho rằng cần phải xa tránh người tội lỗi để bảo vệ sự thánh thiện của mình, bởi vì tiếp xúc với người tội lỗi sẽ bị lây nhiễm sự ô uế của họ. Khi thấy Chúa Giêsu tiếp xúc gần gũi với những người thu thuế họ phê bình người. Chúa Giêsu liền kể cho họ hai dụ ngôn người chăn chiên và người đàn bà lạc mất đồng bạc. Người chăn chiên có một trăm con chiên, lạc mất một con, đã bỏ lại 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc cho đến khi tìm gặp, ông vui mừng vác chiên trên vai trở về nhà và mời bạn bè chia vui với mình. Người đàn bà nghèo có 10 đồng bạc, lỡ mất một đồng, đã thắp đèn tìm kỹ lưỡng cho đến khi tìm gặp lại đồng bạc, bà vui mừng và mời láng giềng chia vui với mình. Đây quả thực là những tình cảm rất chân thật của con người. Đối với người chăn chiên hay đối với người đàn bà, con chiên và đồng bạc rất là thân thiết với họ và họ đã bỏ công sức để tìm kiếm lại để bảo vệ nguyên vẹn đoàn chiên cũng như đồng bạc. Đối với Thiên Chúa, con người thuộc về Thiên Chúa, thực là thân thiết và quí giá đối với Thiên Chúa là Đấng hằng sống và chân thật, luôn có những tình cảm yêu thương chân thành và trung tín ngàn trùng.

Chúa Giêsu còn mở rộng chủ đề này bằng câu chuyện dụ ngôn về người Cha có hai người con. Nói cho đúng, tình yêu của Thiên Chúa dành cho con người là tình phụ tử thâm sâu và không có điều gì có thể cản trở tình yêu tha thiết chờ đợi của tình phụ tử này. Người con thứ là hình ảnh của con người tội lỗi thiếu kinh nghiệm, dại dột phiêu lưu theo những đam mê cám dỗ ngọt ngào của trần thế. Anh nghĩ thế gian có nhiều tình bạn đẹp và khi dấn thân vào trần gian, anh sẽ tràn ngập hạnh phúc với biết bao nhiêu bạn bè tốt thay vì tù túng ở trong nhà cha. Nhưng sau những trải nghiệm vội vã thụ hưởng với bạn bè, anh đã lâm cảnh túng thiếu và bị bỏ rơi đến mức đi chăn heo với bao nhục nhã đói rách. Với nhiều suy nghĩ đắn đo, anh đã hồi tâm và cương quyết trở về nhà cha để xin lỗi cha già. Người con trưởng là một hình ảnh thứ hai nói lên những khía cạnh tương phản của tương quan con người với Thiên Chúa. Nếu như người con thứ là hình ảnh con người tội lỗi, ngông cuồng dại dột, thì người con trưởng lại là hình ảnh của người đạo đức mẫu mực. Anh luôn ở trong nhà cha, cần mẫn làm việc và không hề trái lệnh cha điều gì. Nhưng điều thiếu sót của anh là anh rất khác với cha. Anh không chia sẻ niềm vui của cha khi đón nhận người em thứ trở về. Anh trở nên khó chịu với cha vì lòng thương xót tha thứ của cha đối với người em phung phá trở về để rồi trở nên nóng nảy, tức giận và phê phán cha vội vàng. Cha anh phải giải thích cặn kẽ cho anh lý do cần phải vui mừng đón tiếp người em thứ trở về: “chúng ta phải ăn tiệc mừng vì em con đã chết nay đã sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”.

Chúa Giêsu đã vận dụng nhiều dụ ngôn để giải thích cho những người biệt phái hiểu được lòng thương xót tha thứ kỳ diệu của Thiên Chúa. Tội lỗi thực là nặng nề và xấu xa, nhưng lòng thương xót tha thứ chữa lành của Thiên Chúa còn lớn hơn gấp bội. Người chăn chiên dám bỏ 99 con chiên để đi tìm con chiên lạc, người đàn bà cẩn thận thắp đèn quét nhà để tìm đồng bạc mất, người cha già kiên nhẫn chờ đợi con trở về. Biết bao nhiêu hình ảnh thực là gần gủi để nói lên điều kỳ diệu của tình yêu thương xót tha thứ của Thiên Chúa. Có một động lực nội tâm kỳ diệu mà chúng ta không lý giải bằng những suy nghĩ hẹp hòi được. Động lực nội tâm này là tình yêu dạt dào vô bờ bến của Thiên Chúa đối với con người được diễn tả quả lời giải thích ngắn gọn của Cha: “chúng ta phải ăn tiệc mừng vì em con đã chết nay đã sống lại, đã mất nay lại tìm thấy”. Quả thực, người cha có lý để chờ đợi và hy vọng vì sau những tháng ngày nông nổi yếu đuối, người con đã trở về hạnh phúc trong nhà cha, anh trở nên cương nghị và trách nhiệm hơn, anh đã trở nên hiểu biết nhiều hơn. Anh đã tìm được sự sống. Hoá ra, người anh lớn mới là kẻ lạc loài, xa lạ với tình yêu thương xót của Cha vì anh còn để mình đóng kín trong những suy nghĩ hẹp hòi nóng nảy giận hờn,  anh chưa thực sự trải nghiệm được niềm vui của sự sống của Thiên Chúa. Nghịch lý của tình yêu là như thế, vừa rất đòi hỏi nhưng cũng rất chân thành cho dù phải trải nghiệm những sóng gió vùi dập. Thánh Phaolô là người đã cảm nghiệm thực sự điều này trong đời mình và đã chia sẻ trong bức thư gửi cho Timôthêô: “Đức Giêsu Kitô đã đến trong thế gian này để cứu độ những người tội lỗi, trong số ấy, cha là người thứ nhất”. Cảm nghiệm này làm cho thánh nhân trở nên con người rất hiểu biết và trách nhiệm, chia sẻ niềm vui được tha thứ này cho mọi người để mọi người đón nhận được sự sống của Thiên Chúa nơi người con một là Đức Giêsu Kitô.

Về mục lục

.

HÃY CHIA VUI VỚI CHÚA

PM. Cao Huy Hoàng

Khi nói đến “Con chiên lạc”, có thể bạn, tôi, chúng ta nghĩ ngay đến một số thành phần không mấy tốt đẹp, không mấy đàng hoàng trong Hội Thánh. Có người nghĩ ngay đến những người rối vợ, rối chồng công khai, hoặc nghĩ đến ả giang hồ ở cuối xóm, tên du thử du thực lang thang chè chén tối ngày ở đầu phố. Người khác lại nghĩ đến cụ già đôi ba vợ kia đã đến lúc sắp hết hơi rồi mà chưa chịu xưng tội rước lễ, hoặc nghĩ đến bao người nay ăn nên làm ra rồi, khá giả rồi, ở nhà thoải mái, bỗng trở nên cao ngạo, ươn lười, nguội lạnh với Nhà Thờ Nhà Thánh…

Nghĩ như thế là do bởi lòng kiêu ngạo xúi giục tự nhận mình là thánh thiện hơn bao nhiêu người khác và gắn cho mình con mắt, cõi lòng đầy thành kiến xấu xa về tha nhân.

Nghĩ như thế, thì thiết tưởng chính mình là… con chiên lạc trước tiên. Lạc mà không biết mình lạc. Còn lầm lạc hơn nữa, khi tỏ ra bất bình với một số người nhiệt thành trong Hội Thánh Chúa, mặc lấy tấm lòng nhân hậu của Chúa, luôn nghiêng về phía những người đau khổ, tội lỗi, thấp kém.

Nghĩ như thế thì có khác gì người Pharisêu đã từng suy nghĩ và lẩm bẩm về việc Chúa Giêsu làm trong Tin Mừng hôm nay: “Ông này đón tiếp phường tội lỗi và ăn uống với chúng”.

Cả hai dụ ngôn “Con chiên lạc” và “Đồng bạc bị đánh mất” được Chúa nói cho cả hai đối tượng: người Pharisêu và người thu thuế, kẻ tội lỗi.

Đối với người Pharisêu, hai dụ ngôn ấy là một lời cảnh tỉnh trực diện để họ phải nhận ra rằng chính họ mới là “con chiên lạc”, là “đồng bạc bị đánh mất”. Lạc vì họ đang sống kiêu căng, sống thiếu tình khoan dung, yêu thương; lạc vì họ không muốn hiểu đường lối của Chúa, vì không muốn mặc lấy tình thương của Chúa trong con tim mình… Bài học dành cho người Pharisêu là đừng lầm tưởng mình đạo đức, nếu không mặc lấy đức khiêm cung và lòng nhân hậu mà đối xử với tha nhân. Họ cần có cái nhìn mới mẻ hơn đối với người tội lỗi, cái nhìn của Thiên Chúa, cái nhìn của lòng thương xót xoáy vào sâu thẳm hơn, để cảm thông hơn vì bao nỗi bất hạnh, không phải cái nhìn nông cạn bề ngoài để rồi sinh ra ganh tỵ, xét đoán…

Còn đối với người tội lỗi, cả hai dụ ngôn là Lời rất vui mừng cho họ, vì:

– Lời mặc khải cho họ biết một Thiên Chúa vô cùng khiêm cung, và yêu thương. Lòng thương xót, khoan dung, nhân hậu của Ngài luôn luôn lớn hơn tội lỗi, thân phận của họ.

– Lời xóa tan nỗi ám ảnh bị khinh bỉ, phân biệt, có khi còn bị trừng phạt dã man cho đến chết vì luật xua đuổi khỏi cộng đồng, luật ném đá…

– Lời khơi dậy cho họ một niềm hy vọng, mở ra cho họ một con đường sống và nhất là tái lập cho họ một tương quan quí giá đối với Thiên Chúa, tái lập cho họ một nhân vị xứng đáng là con cái Thiên Chúa.

– Và cũng qua hai dụ ngôn, cả người Pharisêu và người tội lỗi có thể nhận ra một điều kỳ diệu là Thiên Chúa luôn đi bước trước đối với những tội nhân.

Đề cập đến bước trước, tôi nhớ câu chuyện về Đức Tin đơn sơ của cụ Biên ở phía sau nhà tôi. Cụ luôn là người khôi hài vui vẻ. Đến lúc gần chết cũng còn vui vẻ. Năm 1979, trong cơn hấp hối, khi nghe một anh Legio giữ kẻ liệt cầm sách mục lục đọc kinh cho cụ, đọc sai chỗ nào, cụ đập nhẹ bàn tay, bảo: “Đọc lại, đọc lại, đọc sai làm sao Chúa hiểu”. Đêm cuối cùng, cụ chỉ cho mọi người biết là cụ đang chết từ dưới chân lên đến giữa lưng rồi. Rồi cụ nói: “Còn nói được mấy câu nữa thôi, cho tôi nói với Chúa. Chúa đã lỡ bước xuống đời rồi, thì còn ngại ngần gì mà không bước tới đây đưa con về với Chúa. Chúa ơi, con tin”. Rạng sáng hôm ấy, cụ đã về với Chúa.

“Chúa đã lỡ bước xuống, thì còn ngại ngần gì mà không bước tới”. Câu nói đơn sơ mà cho thấy cả một xác tín. Hôm nay, nghe lại dụ ngôn “Con chiên lạc”, mới ngộ ra là không chỉ Chúa chẳng ngần ngại gì mà không bước tới, mà còn dám bước trước, và bước kiên trì nữa: “Người nào trong các ông có một trăm con chiên mà bị mất một con, lại không để chín mươi chín con kia ngoài đồng hoang, để đi tìm cho kỳ được con chiên bị mất ?”

Vâng đó là một bước trước, và kiên trì: “Đi tìm cho kỳ được” Quả là kỳ diệu ! Nếu trước đây chưa ai dám tiếp xúc với những người thu thuế tội lỗi, vì sợ nhơ bẩn con người, thanh danh của mình, thì Chúa Giêsu đã bước một bước trước đến với họ.

Hai dụ ngôn hôm nay còn vén màn một chi tiết độc đáo của tình thương Thiên Chúa, đó chính Người đích thân đi tìm con chiên lạc, gọi đích danh, tha thứ vô điều kiện, âu yếm ẵm trong vòng tay, vui mừng vác chiên lên vai, mở tiệc tưng bừng. Thiên Chúa mời mọi người đến chia vui vì “trên trời cũng thế, ai nấy sẽ vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối, hơn là vì chín mươi chín người công chính không cần phải sám hối ăn năn”.

Người ta mở tiệc ăn mừng những dịp cưới hỏi, tân gia, sinh nhật, thi đỗ, thoát nạn… Trong đời tôi, lại được tham dự một bữa tiệc lạ thường. Chuyện là thế này: Giáo Xứ tôi có một người tên là T. được rửa tội năm 1972 tại Thủ Đức khi anh lập gia đình với chị N. Anh kể với các anh chị Legio, anh đã giữ đạo sốt sắng hơn 7 năm. Đến năm 1979, anh sa đà đủ món ăn chơi trên trần gian này. Chị N. bỏ anh đi. Anh càng lún sâu vào con đường tội lỗi. Bỏ lễ, bỏ các Bí Tích. Năm 1996, anh em Legio thăm và khuyên bảo anh xưng tội, anh nói: “Nhiều quá, làm sao xưng cho hết ! Chúa không thể tha một lúc nhiều như vậy đâu !” Sau hơn 3 năm, cha sở và các anh chị Legio kiên trì cầu nguyện cho anh, năm 1999, anh quyết định đi xưng tội. Cha sở FX. Lê Quang Diễn đã yêu thương lắng nghe anh nói chuyện tòa ngoài với ngài hết một buổi sáng và thêm nửa buổi chiều. Chiều hôm đó, anh xưng tội. Ngày hôm sau, anh mở tiệc mừng. Có khoảng 3 bàn tiệc. Anh nói mấy câu trước khi vào tiệc: “Con cảm ơn cha, cảm ơn mọi người, xin CHIA VUI VỚI CON, và xin CHIA VUI VỚI CHÚA”. Từ đó, anh đổi mới hoàn toàn, thật sốt sắng với Chúa và dễ thương với mọi người. Anh đã qua đời năm 2008. Linh hồn Phaolô.

Mọi người bất ngờ về câu nói của anh: “xin CHIA VUI VỚI CON, và xin CHIA VUI VỚI CHÚA”. Thiết tưởng, anh không chỉ cảm nghiệm được niềm vui của mình là được trở về, mà với Đức Tin, anh còn dám cảm nghiệm được “niềm vui của Chúa’, của Chúa Chiên, người đã bỏ chín mươi chín con chiên tốt lành kia trong ràn, mà đi tìm anh, con chiên lạc.

Cảm nghiệm được niềm vui của Chúa phải là người đang sống thông hiệp mật thiết với Chúa lắm, như hai người tình đang kết hợp toàn tâm toàn ý với nhau, và dĩ nhiên, niềm vui không của riêng chỉ một người. Suy tư ấy có thể là suy tư cách rất con người, rất chủ quan thôi. Nhưng rõ ràng, thử hỏi ai trong chúng ta, những người vỗ ngực xưng tên mình là đạo đức, đã có bao giờ có được cái cảm nghiệm “chia vui với Chúa” cách trọn vẹn, nếu không đặt trọn niềm tin vào lòng thương xót của Chúa, nếu không mặc lấy tình thương xót ấy mà xót thương bao kẻ tội lỗi, khốn cùng.

Lạy Chúa Giêsu, xin ban cho chúng con Đức Tin vào lòng thương xót của Chúa để biết mình là con chiên lạc được Chúa tìm về, và mặc lấy tình thương ấy mà cộng tác với Chúa, chia vui với Chúa khi có người anh em tìm được hạnh phúc được Chúa thứ tha. Amen.

Về mục lục

.

NIỀM VUI KHI TÌM GẶP LẠI

Lm Nguyễn Ngọc Long

Niềm vui khi tìm gặp lại, thiết tưởng ai cũng đã sống trải qua trong đời. Cha mẹ gặp lại con cái sau lâu ngày đi làm hay đi học xa nhà. Vợ chồng gặp lai nhau, vì hoàn xa cách do chiến tranh gây ra, do tỵ nạn di cư mỗi người lạc một nơi. Bạn bè tìm thấy nhau sau thời gian cùng chung học mỗi người lưu lạc mỗi phương trời…

Còn nỗi vui mừng nào lớn lao hơn nữa, khi gia đình, bạn bè, đồng hương được xum hợp, đất nước được thống nhất không còn chia cắt hai miền Nam Bắc năm xưa ở bên quê nhà Việt Nam, năm 1989 khi bức tường Bá Linh sụp đổ không còn chia cắt hai miền đất nước Đông Tây nữa, khi người Đại Hàn ở miền Nam được sang tìm gặp lại thân nhân của mình ở miền Bắc nước Triều Tiên…

Đức Mẹ Maria và bà thánh Elisabét vui mừng hân hoan gặp lại nhau. Họ mừng rỡ chúc tụng nhau và cảm tạ Thiên Chúa (Lc 1:39-45)

Đức Mẹ Maria và Ông thánh Giuse lo lắng âu sầu đi tìm trẻ Giêsu đi lạc. Khi tìm gặp lại con mình, niềm vui mừng của Ông Bà biểu lộ qua sự ngạc nhiên, vì thấy con mình chững chạc ngồi nói chuyện với những người thông thái. Hai Ông Bà thở ra nhẹ nhàng và thốt lên lời biểu lộ niềm vui mừng âu yếm thương con: “Con ơi, sao con lại xử với Cha Mẹ như vậy? Con thấy không, cha con và mẹ đây đã phải cực lòng tìm con!” (Lc 2:41-48)

Khi tìm gặp lại người thân yêu hay đồ vật quí báu đã lâu ngày thất lạc, tưởng như đã mất, lúc đó niềm vui mừng hân hoan không chỉ dào dạt trong trái tim trí não, nhưng hiện lộ ra trên gương mặt, nơi khoé mắt.

Niềm vui mừng đó có thể biến thành giòng nước mắt sung sướng hạnh phúc vì quá cảm động không nói nên lời và chỉ còn biết giang tay đón nhận. Như người cha con nhân lành mừng mừng tủi tủi giang đôi tay ôm hôn cậu ấm trở về bình an. (Lc 15:11-32).

Niềm hạnh phúc đó biến đổi gương mặt thành sáng rực đỏ chói, không phải vì xấu hổ, nhưng là dấu hiệu của sung sướng hạnh phúc đang sôi sục dâng tràn trong tâm hồn.

Niềm hân hoan sung sướng có thể là tiếng cười dòn đã vang tiếng, là lời khoe báo tin mừng cho mọi người. Như người mục đồng tìm thấy lại con chiên, con trâu, con bò, con dê của mình đi lạc đàn. Như một bà lão sống cảnh đạm bạc nghèo khó chiu chắt tiết kiệm từng đồng xu cắc bạc, lo âu quét nhà soi đèn mò mẫm tìm thấy lại đồng bạc đã mất. Vì đồng bạc này có thể giúp bà mua được gạo, được thức ăn cho ngày sống (Lc 15:1-10).

Vui mừng sung sướng hạnh phúc vì của châu báu hay người mình quý mến thương yêu đã thất lạc xa vắng, nay lại tìm gặp thấy.

Đó cũng là nỗi vui mừng hân hoan của Thiên Chúa, Đấng sinh thành nuôi dưỡng đời con người, khi chúng ta từ bỏ điều xấu xa tội lỗi sống theo điều thiện, theo giới răn Tình Yêu như Chúa muốn: “Triều Thần Thiên Chúa, ai nấy vui mừng vì một người tội lỗi ăn năn sám hối”. (Lc 15:10).

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...