18/09/2021
933

Các Bài Suy Niệm Chúa Nhật 24 Thường Niên – B

Lời Chúa: Is 50,5-9a; Gc 2,14-18; Mc 8,27-35

MỤC LỤC

20. Đau khổ.
 

1. Nói và làm

Kể từ khi xuất hiện trong cuộc sống công khai, Chúa Giêsu đã trở nên một vấn đề thời sự nóng bỏng, làm cho người ta phải bàn tán xôn xao.

Dân làng Nadarét đã thầm nghĩ: Ngài chẳng phải là con bác phó mộc, Mẹ Ngài và anh em Ngài chẳng phải là những người đang sống giữa chúng ta đó sao? Bởi đâu mà Ngài lại làm được những việc lạ lùng như vậy? Hêrôđê cũng đã thắc mắc: Gioan thì trẫm đã chém đầu, còn người này là ai mà lại thực hiện được những việc kỳ diệu đến thế? Còn dân chúng, người thì bảo Ngài là tiên tri Elia, hay một tiên tri nào đó. Kẻ thì nói Ngài là Gioan Tiền Hô.

Trước những luồng dư luận khác biệt như vậy, Chúa Giêsu đã muốn các môn đệ phải xác định lập trường của mình, nên đã lên tiếng hỏi: Còn các con, các con bảo Ta là ai? Phêrô thay mặt cho nhóm 12 đã tuyên xưng: Thầy là Đức Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống. Và như thế, Phêrô đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói.

Liền sau đó, Chúa Giêsu tiên báo cho các ông về cuộc tử nạn của Ngài. Và lần này, Phêrô đã lên tiếng can ngăn và đã bị Chúa quở trách nặng lời: Hỡi Satan, hãy xéo đi, vì tư tưởng của ngươi chỉ là tư tưởng của loài người, chứ không phải là của Chúa. Và như vậy, mặc dù ông đã tuyên xưng đức tin bằng lời nói, nhưng rốt cuộc ông đã không tuyên xưng bằng việc làm, bằng chính cuộc sống của mình.

Với chúng ta cũng vậy, hằng ngày chúng ta vốn thường làm dấu thánh giá, đọc kinh Tín Kính và kinh Sáng Danh, chúng ta tuyên xưng những mầu nhiệm chính trong đạo. Tuy nhiên, đó mới chỉ là tuyên xưng bằng lời nói mà thôi. Còn việc làm và cuộc sống của chúng ta thì sao? Rất có thể lúc này chúng ta mới chỉ tuyên xưng đức tin bằng lời nói, bằng miệng lưỡi, chứ chưa hề tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống. Bởi vì bản thân chúng ta còn chìm trong tội lỗi, con người chúng ta còn đang chối từ thập giá để chạy theo ý riêng.

Do đó, cần phải kiểm điểm lại cuộc sống xem chúng ta đã tuyên xưng đức tin của mình như thế nào? Để giúp chúng ta trở nên môn đệ của Chúa cũng như tuyên xưng đức tin bằng việc làm, bằng cuộc sống, Chúa Giêsu đã đưa ra hai điểm chính yếu:

Điểm thứ nhất, đó là hãy từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ tất cả những tư tưởng, lời nói và việc làm đi ngược với thánh ý Chúa, từ bỏ con người cũ với những tội lỗi để mặc lấy con người mới với tinh thần của Chúa.

Điểm thứ hai đó là hãy vác lấy thập giá mình. Nghĩa là hãy chấp nhận những hy sinh gian khổ chúng ta gặp phải, bởi vì chính những hy sinh gian khổ này, tuy âm thầm và nhỏ bé, sẽ kết thành cây thập giá đời thường, Chúa muốn chúng ta vác lấy để bước theo Ngài.

2. Về phần con, con bảo Thầy là ai?

(Suy niệm của Lm. Ignatiô Trần Ngà)

Hôm ấy, “Đức Giêsu và các môn đệ của Người đi tới các làng xã vùng Xê-da-rê Phi-líp-phê. Dọc đường, Người hỏi các môn đệ: “Người ta nói Thầy là ai?” Các ông đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gio-an Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó.” (Mc 8, 27-28)

Như thế, người Do-thái đồng thời với Chúa Giêsu không biết đích xác Người là ai. Họ tưởng Người chính là Gio-an Tẩy Giả bị Hê-rô-đê trảm quyết nay sống lại. Có kẻ thì tưởng lầm Người là ngôn sứ Êlia xưa kia được đưa lên trời nay lại giáng lâm. Kẻ khác thì cho rằng Người là một ngôn sứ nào đó.

Sau khi nghe các môn đệ cho biết dư luận quần chúng về mình, Chúa Giêsu quay sang hỏi các ông: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc 8, 29)

Thế là ngoài Phêrô, dường như chẳng ai biết được chân tướng của Chúa Giêsu. Phêrô quả có phúc lớn vì được biết căn tính của Thầy mình.

Hôm nay, Chúa Giêsu cũng đặt lại câu hỏi nầy với mỗi người chúng ta. Người muốn chúng ta bày tỏ nhận định ta có về Người: “Về phần con, Thầy là ai đối với con?”

Khi câu hỏi nầy được đặt ra với một nhóm thanh niên đang ngồi tận ngoài cổng nhà thờ sáng chúa nhật, vừa hút thuốc vừa dự lễ, thì họ trả lời qua khói thuốc: “Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một vị Thẩm Phán khắt khe, hay bắt bẻ những người phạm luật. Dù chẳng yêu mến gì Chúa Giêsu, nhưng vì sợ bị khép vào tội bỏ lễ chúa nhật, nên chúng tôi miễn cưỡng đến ngồi đây dự lễ.”

Khi câu hỏi nầy được nêu ra với một số doanh nhân tất bật với việc làm ăn buôn bán, thì họ trả lời rằng: “Đối với chúng tôi, Chúa Giêsu là một ông Thần Tài. Dù chẳng yêu mến gì ổng, nhưng chúng tôi biết đối xử sòng phẳng với ổng. Nếu ổng phù hộ chúng tôi ăn nên làm ra, thì chúng tôi còn đặt ổng lên bàn thờ, có nhang đèn hẳn hoi. Nếu ổng không giúp chúng tôi phát đạt, chúng tôi mời ổng đi chỗ khác.”

Khi câu hỏi nầy được nêu lên với một nhóm người khác đang theo đuổi lạc thú, họ đáp: “Chúa Giêsu là ai ư? Thật tình chẳng mấy khi chúng tôi nghĩ đến. Điều đó chẳng đáng quan tâm. Có lẽ khi nào chúng tôi già yếu, lâm bệnh nguy kịch, hoặc gặp gian nan khốn đốn trong cuộc đời, chúng tôi sẽ tìm đến với Người… Vâng, lúc đó, chúng tôi sẽ thành khẩn kêu cầu Người như những người đi biển gặp nạn cần đến tấm phao cứu sinh!”

Thế là đối với nhiều người, Thiên Chúa chỉ là vị Thẩm Phán khắt khe, một Thần Tài xa lạ hay đơn giản chỉ là một tấm phao cứu sinh hay là một nô bộc phục dịch con người. Đúng như lời Chúa Giêsu: “dân nầy tôn kính Ta ngoài môi miệng còn lòng chúng thì quá xa cách Ta.” (Mc 7,6)

Thiên Chúa đau buồn biết bao khi đoàn con yêu dấu của Người nhận định về Người như thế.

Khi thấy dân chúng chẳng hiểu căn tính của mình, ngay cả các môn đệ cũng chẳng biết Đấng Kitô là ai, Chúa Giêsu liền bày tỏ cho họ biết Người chính là Đức Kitô, nhưng không phải là một “Đức Kitô vinh thắng” chinh phục các lân bang và báo thù cho dân riêng của Chúa như người Do-thái mong đợi, nhưng là một “Đức Kitô nhẫn nhục” hiến mạng sống mình chết thay cho muôn dân. Người tỏ cho môn đệ biết: “Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại.” (Mc 8,31)

Thế đó, Đức Kitô là Đấng yêu thương chúng ta hết lòng hết sức trên hết mọi sự, yêu đến nỗi đã hiến mạng vì ta. “Không có tình yêu nào cao cả bằng tình yêu của Người chết vì bạn hữu mình.”

Vậy mà tiếc thay, nhiều người không nhận ra tình yêu vô biên của Chúa nên xem Người như kẻ xa lạ, không dành cho Người một chỗ đứng trong trái tim mình, trong cuộc đời mình. Đối với một số người, có Chúa cũng như không.

Dostoievsky, văn hào vĩ đại nhất của nước Nga vào thế kỷ 19, đã tôn Đức Giêsu làm Thần Tượng của mình và đã tuyên xưng:

“Đối với tôi, không có gì đẹp đẽ, sâu xa, dễ mến, hợp lý và hoàn hảo cho bằng Đức Kitô, và hơn thế nữa, dù có ai chứng minh với tôi rằng Đức Kitô ở ngoài chân lý, thì tôi không ngần ngại chọn ở lại với Đức Kitô hơn là chiều theo chân lý”. (Thư gửi bà Von Vizine)

Lạy Chúa Giêsu,

Nếu hôm nay Chúa đến và hỏi: Về phần con, con bảo Thầy là ai, thì con xin thưa:

Chúa là Đấng đã nộp mình chịu chết để đền tội cho con. Chúa đã hy sinh đời mình cho con được sống. Chúa là Đấng yêu thương con hết lòng hết sức trên hết mọi sự.

Vì thế, con xin chọn Chúa làm Thần Tượng của đời con. Con xin dành chỗ nhất cho Chúa trong trái tim con.

3. Người ta bảo Thầy là ai?

(Suy niệm của Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền)

Có một thời người ta đổ xô nhau đi tìm đọc quyển sách “Cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu”. Nhiều người cho rằng quyển sách này đã viết đúng tâm lý của con người, vì tác giả đã mô tả Chúa Giêsu như một con người thực sự, có khác chăng là người đã vượt thắng được cám dỗ cho tới giờ phút cuối cùng.

Quyển sách “cơn cám dỗ cuối cùng của Chúa Giêsu” mô tả về một chàng trai Giêsu đầy sức sống. Đẹp trai và nhiều tài năng. Có một thiếu nữ rất xinh đẹp đã đem lòng yêu mến chàng, tên là Madalêna. Thế nhưng, tình yêu đã không đem lại cho chàng hạnh phúc. Chàng luôn bị thôi thúc bởi một tiếng gọi cao siêu, vượt trên cuộc sống tầm thường như bao bao người khác. Chàng quyết định từ bỏ người yêu và ra đi rao giảng về một Tin mừng có thể đem lại cho con người hạnh phúc đời này và đời sau. Mađalêna thất tình đã buông trôi cuộc đời trong chốn lầu xanh tội lỗi. Còn Giêsu thì thu thập được một số đồ đệ và hăng say truyền bá lý tưởng cao siêu. Nhưng lý tưởng đó lại không phù hợp với những mục đích chính trị của các tư tế, biệt phái và luật sĩ. Cho nên cuối cùng, Giêsu bị họ bắt và kết án đóng đinh. Trong những giây phút hấp hối trên thập giá, Giêsu bị hôn mê, cơn hôn mê khiến Giêsu nhìn lại cuộc đời của mình. Chàng mơ thấy mình từ bỏ lý tưởng cao siêu, cưới Mađalêna làm vợ, sinh được một bầy con ngoan, đẹp, sống rất hạnh phúc với gia đình, nhưng bị các đồ đệ và các tín đồ nhiếc móc. Giêsu bừng tỉnh dậy lắc đầu xua đuổi cơn cám dỗ ấy. (Giêsu đã chiến thắng cơm cám dỗ cuối cùng). Và sau đó gục đầu tắt thở.

Tác giả đã dựa vào tâm lý chung của con người để viết về nhân tính của Chúa Giêsu. Một con người bình thường, sinh ra, lớn lên, rung cảm với tình yêu đầu đời, nhưng ở chàng thanh niên Giêsu đã từ khước tiếng nói của con tim để theo đuổi một lý tưởng cao siêu. Điều này đáng được con người kính trọng. Nhưng đáng tiếc, lý tưởng đó bị người đời khước từ vì không thực tế, và cho dù cuộc sống của Ngài được nhiều người kính trọng nhưng người ta lại không muốn sống theo lối sống của Ngài.

Thực vậy, con người ngày hôm qua cũng như hôm nay, luôn cần tiền, cần tiện nghi, cần địa vị và cần cuộc sống bất tử để hưởng thụ mãi hạnh phúc ở chốn gian trần. Vì thế, người ta không chấp nhận đường lối của Chúa Giêsu, vì phương thế này không thoả mãn nhu cầu vật chất của con người. Có chăng, họ chỉ kính trọng một Giêsu thánh thiện, một vĩ nhân của nhân loại, nhưng đạo của Ngài thiết lập chẳng giúp ích gì cho cuộc sống thường ngày của họ. Đôi khi còn trở thành gánh nặng khiến họ không thể tuân giữ giới răn của Người. Đôi khi họ còn coi Chúa Giêsu là nguyên nhân gây nên phiền toái cho họ.

Có người nói rằng theo đạo làm chi, phải đi lễ hằng ngày, hằng tuần, ngủ cho sướng.

Có người nói rằng theo đạo làm chi để bị ràng buộc bởi quá nhiều lề luật.

Có người cho rằng theo đạo phải giữ luật công bằng thì làm sao làm ăn có lời, có lãi.

Có những bà mẹ cho rằng nếu giữ đúng luật Chúa thì gia đình sẽ mất hạnh phúc, con cái sinh ra ai sẽ nuôi cho nổi.

Có biết bao cuộc đời là có bấy nhiêu khó khăn. Càng khó khăn người ta lại đổ tội cho Chúa. Vì Chúa mà họ thiệt thòi. Vì Chúa mà họ phải sống nghèo đói. Vì Chúa mà họ phải thua kém bạn bè. Xem ra phần đông nhân loại nhìn Chúa như một quan toà, một cảnh sát chỉ để ngăn cấm và xét đoán. Và rồi, họ nhìn biết bao nhiêu người không có đạo vẫn sống hạnh phúc, đôi khi lại giầu có hơn mình, có địa vị hơn mình…

Phải, phần đông nhân loại đã nhìn Chúa Giêsu như vậy. Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai? Chúa Giêsu vẫn tôn trọng tự do của các môn đệ. Ngài vẫn hằng tôn trọng tự do của chúng ta hôm nay. Ngài vẫn đòi hòi triệt để những kẻ tin theo Ngài phải từ bỏ, phải hy sinh vác thập giá, phải đi qua cửa hẹp và phải sống thanh thoát với của cải trần gian. Nghĩa là Ngài vẫn đòi hỏi chúng ta phải sống vượt lên trên nhu cầu thể xác tầm thường, phải sống làm chủ bản năng của mình bằng hy sinh, khổ chế để sống như những con người tự do đích thực. Không bị những đam mê danh lợi thú ràng buộc. Không bị những cám dỗ tội lỗi làm mất lương tri, mất phẩm giá cao qúy của con người.

Với những đòi hỏi đó, phải có cái nhìn đức tin như Phêrô mới có thể bỏ mọi sự mà theo Thầy, mới có thể tuân giữ lời Thầy và sống gắn gó mật thiết với Thầy. Phêrô và các môn đệ đã nhìn thấy Thầy là Chúa, là Đấng hằng sống và các ông còn hiểu rằng: ai bước đi theo Ngài sẽ không phải chết đời đời. Các ông đã dám đánh đổi cuộc đời này để đổi lấy hạnh phúc bất diệt đời sau. Các ông đã dám khước từ vinh hoa phú qúy đời này để lãnh triều thiên vinh hiển ngày mai.

Vâng cuộc đời này sẽ đi qua. Tiền tài, danh vọng, lạc thú tất cả chỉ là phù vân. Cái chết sẽ làm chúng ta đoạn tuyệt tất cả. Nếu cuộc đời chết là hết thì chẳng có gì đáng nói. Nếu chết là hết thì cuộc đời là một thảm hoạ đối với bản thân và đồng loại. Người ta đâu cần rèn luyện tài đức. Người ta chỉ cần hơn thiên hạ. Người ta chỉ cần vun quén cho bản thân, và mặc xác đồng loại. Cuộc sống sẽ là một bãi chiến trường mà con người là nguyên nhân và cũng là hậu quả của tất cả khổ đau. Nhưng cuộc đời không dừng lại ở cái chết. Cái chết là ngưỡng cửa mở ra sự sống vĩnh cửu. Và ở cõi đời đời con người đau khổ hay hạnh phúc lại tuỳ thuộc ở cuộc đời hôm nay. Vì thế, nếu bạn chọn sự sống đời đời phải từ bỏ tham sân si, từ bỏ mọi đam mê bất chính. Từ bỏ đòi hy sinh, đòi khổ chế để vượt thắng cám dỗ. Các tông đồ đã vượt thắng tất cả vì tin rằng Chúa là Đường là sự thật, là sự sống. Các Ngài đã từ bỏ mọi sự để theo Chúa, còn chúng ta có dám vì sự sống bất diệt ngày mai bên Chúa để can đảm từ khước những đam mê bất chính, những bon chen danh lợi thú để sống theo giáo huấn của Chúa hay không? Hạnh phúc hay đau khổ còn tuỳ thuộc vào chọn lựa của chúng ta hôm nay?

Ước gì chúng ta có cái nhìn đức tin như Phêrô để làm chứng cho thế giới hưởng thụ hôm nay về một cuộc sống hạnh phúc trường sinh mai sau. Amen.

4. Đức Kitô.

Người ta bảo Thầy là ai? Qua câu hỏi này, phải chăng Chúa Giêsu đã khởi sự quan tâm tới dư luận của quần chúng về Ngài? Hay Ngài muốn làm một cuộc thăm dò ý kiến về kết quả công việc Ngài đã làm? Không phải là như vậy. Ở đây, Chúa Giêsu muốn chuẩn bị các môn đệ của Ngài đón nhận những điều Ngài sắp nói với các ông về điểm then chốt của sứ mạng Ngài và cũng là điểm khó nuốt đối với mọi người.

Dư luận, như các môn đệ ghi nhận được, tuy chưa rõ đích xác Ngài là ai nhưng cũng tỏ ra đã thấy được những điểm khác người trong giáo huấn và trong hành động của Ngài. Tuy nhiên điều Chúa Giêsu muốn nhắm tới ở đây chính là việc các môn đệ bày tỏ ý kiến của mình về Ngài. Do dó mà Ngài mới đạt thêm câu hỏi thứ hai: Còn các con, các con bảo Thầy là ai?

Tin không phải là lặp lại ý kiến, lập trường của kẻ khác mà là biểu lộ chính ý kiến, chính lập trường của mình. Phêrô đã trả lời đúng câu hỏi Chúa Giêsu đã đặt ra: Thầy là Đức Kitô. Qua câu trả lời, Phêrô đã tuyên xưng lòng tin của ông nơi Thầy mình. Ông đã nhận ra được Thầy mình là ai.

Nhưng sự việc diễn ra sau đó lại chứng tỏ cho chúng ta thấy rằng lòng tin của Phêrô chưa trọn vẹn. Ông mới chỉ có những hiểu biết đúng về Thầy. Thực ra, như chính Chúa Giêsu đã khẳng định, chẳng phải tự ông đã biết được Ngài là Đức Kitô, mà là do Chúa Cha mà ông biết được điều đó. Lòng tin ấy, sự hiểu biết ấy chỉ trọn vẹn khi ông chấp nhận đi con đường Chúa Giêsu đang chuẩn bị đi tức là con đường cứu độ, con đường thập giá.

Và ở điểm này, Phêrô đã vấp ngã thật nặng nề, bởi vì ông đã đi vào chương trình cứu độ của Thiên Chúa, không phải bằng cái nhìn của Thiên Chúa, hay đúng hơn, theo như Ngài hoạch định, mà là bằng chính cái nhìn của ông, theo cách tính toán của ông. Lời can ngăn của Phêrô đã trở thành việc cản trở chương trình cứu độ của Thiên Chúa được thực hiện. Phêrô không muốn Thầy mình bị bắt, bị giết đi trong khi chính Chúa Giêsu lại thấy rằng đó là con đường Ngài phải đi. Đó là con đường của Ngài và đó cũng là con đường của những ai muốn theo Ngài, muốn trở nên môn đệ của Ngài.

Còn các con, các con bảo Thầy là ai? Câu hỏi này vẫn tiếp tục được đặt ra cho mỗi người chúng ta hôm nay. Và chúng ta có thể như Phêrô, đã trả lời đúng câu hỏi của Ngài với tất cả vốn liếng về Thánh Kinh và thần học, về giáo lý của chúng ta. Thế nhưng trong hành động thì sao? Phải chăng trong hành động chúng ta đã là những người ngăn cản việc thực hiện chương trình cứu chuộc của Thiên Chúa bằng thái độ khước từ đau khổ, khước từ thập giá mà chúng ta gặp phải trong cuộc sống thường ngày.

5. Đau khổ.

Kinh nghiệm cho thấy: Đau khổ là một cái gì gắn liền với thân phận con người. Giáo lý nhà Phật thì cho rằng: Đời là bể khổ mà mỗi người chúng ta là một cánh bèo trôi dạt trên đó.

Tuy nhiên, đau khổ không phải chỉ là một cái gì đáng nguyền rủa và lẩn tránh, trái lại nó còn có một giá trị tích cực, đem lại nhiều lợi ích cho chúng ta như tục ngữ đã bảo: Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Hay như Khổng Tử cũng đã bảo: Ngọc không dũa không sáng, người không bị gian nan thử thách, thì cũng khó mà trở nên hoàn thiện.

Cũng trong chiều hướng ấy mà Chúa Giêsu đã phán qua đoạn Tin mừng sáng hôm nay: Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta.

Sau đây tôi xin đưa ra một vài trường hợp cụ thể để nói lên sự thật ấy.

Trường hợp thứ nhất là của O’Neill. Mãi đến năm 23 tuổi, ông vẫn còn là một kẻ thất bại, sống không mục đích, không định hướng, không kỷ luật. Thế rồi ông bị đau và chính nhờ thời gian nằm điều trị tại bệnh viện, ông mới có được dịp may để suy nghĩ và định hướng cho cuộc đời mình. Ông đã khám phá ra tài năng soạn kịch của ông, để rồi ông đã trở thành một người nổi tiếng.

Trường hợp thứ hai là của bà Golda Meir. Lúc ban đầu bà rất thất vọng vì mình chỉ là một cô gái trời bắt xấu. Thế nhưng về sau, bà mới nhận ra rằng: không được đẹp đối với bà lại là một may mắn, bởi vì điều đó đòi buộc bà phải phát triển những tài năng sâu kín hơn. Cuối cùng bà hiểu ra rằng phụ nữ không được ỷ lại vào sắc đẹp của mình, nhưng trái lại phải làm việc chăm chỉ, nhờ đó mang lại lợi ích cho bản thân. Nói cách khác, bà đã biết chấp nhận thập giá của mình, can đảm vác nó lên vai để rồi cuối cùng bà đã trở thành vị nữ thủ tướng đầu tiên của người Do Thái.

Một tác giả nổi tiếng, Oscar Wilde đã viết: Đau khổ chính là mảnh đất thánh. Đức Kitô không thể đi vào tâm hồn chúng ta bằng nẻo đường nào khác ngoài trái tim đã tan nát.

Từ những kinh nghiệm trên, chúng ta đi tới kết luận: Cuộc đời không phải lúc nào cũng chỉ là một mầu hồng, trái lại rất nhiều khi nó bị nhuộm bởi một màu đen với những đau khổ và cay đắng.

Tuy nhiên, dưới ánh sáng Phúc âm, thì đau khổ không nhất thiết sẽ đem lại chết chóc và hủy diệt, bởi vì nó có thể trở nên một nguồn sống. Thiên Chúa thường dùng khổ đau để biến đổi chúng ta thành người tốt lành hơn, thánh thiện hơn, khiêm nhường hơn, cảm thông hơn. Đau khổ có thể mở mắt cho chúng ta thấy được cuộc đời tốt đẹp hơn là chúng ta đã từng mơ ước.

Ngoài ra, đau khổ sẽ giúp chúng ta nhận ra bàn tay yêu thương của Thiên Chúa bởi vì giữa ánh nắng chói chang của mặt trời, chúng ta không thể nào nhìn thấy những vì sao. Trái lại, vào những đêm khuya tăm tối chúng ta sẽ dễ dàng thấy được những ánh sao trên bầu trời. Cũng vậy, nhiều người trong chúng ta đã tìm thấy Chúa giữa những đêm đen của khổ đau, mà trong những lúc hạnh phúc chói chang họ đã quên lãng Ngài. Hãy biết đón nhận thập giá cuộc đời, bởi vì mọi sự đều là hồng ân.

6. Thần tượng của ta là ai? – Lm. Anmai

Cuộc sống chúng ta, nhất là giới trẻ, ngày hôm nay giới trẻ chạy theo một nền trào lưu, một nền văn hóa đó là văn hóa thần tượng.

Người thích đá banh thì chọn cho mình người nào mà mình thích làm thần tượng cho mình, người thích ca nhạc thì cũng sẽ tìm cho mình một ca sĩ để làm thần tượng, người thích xem phim thì sẽ chọn cho mình một diễn viên điện ảnh nào đó hot để làm thần tượng. Điều này, xem ra thì cũng có lý đó nhưng rồi những ngôi sao ca nhạc, ngôi sao đá banh, ngôi sao điện ảnh đến một lúc nào đó cũng sẽ chìm vào quên lãng để nhường ngôi cho người khác. Thế rồi những thần tượng mà xưa kia người ta tôn lên sẽ chợt tắt, và cứ như thế mãi, thần tượng cứ mãi vần xoay vì lẽ chẳng ai có thể tồn tại mãi trong cõi đời này.

Tất cả những ngôi sao mà người ta chọn đó vẫn chỉ là con người để rồi không thể tồn tại mãi, không bền vững như người ta tưởng.

Thần tượng, vẫn là sự tự do lựa chọn của mỗi người, chẳng ai có quyền ép người khác chọn cho mình thần tượng.

Ngày hôm nay, trong câu chuyện của thầy Giêsu với các môn đệ chúng ta cũng nghe Chúa Giêsu chất vấn các môn đệ của mình về Thầy: “Người ta nói Thầy là ai?”. Các môn đệ đáp: “Họ bảo Thầy là ông Gioan Tẩy Giả, có kẻ thì bảo là ông Êlia, kẻ khác lại cho là một ngôn sứ nào đó”. Và, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ thì Phêrô trả lời ngay: “Thầy là Đấng Kitô”.

Thế đấy! Đi theo Thầy, ở chung với Thầy, sống chung với Thầy nhưng người ta không nhận ra để rồi định nghĩa không đúng hay không dám định nghĩa hay không dám nói về Thầy của mình. Thật là chán! Chỉ có mình Phêrô can đảm nói về Chúa Giêsu.

Sau đó, Chúa bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại.

Nghe những lời đó xong thì ông Phêrô liền kéo riêng Chúa ra và bắt đầu trách Chúa thế nhưng Chúa lại trách ngược lại Phêrô: “Xatan! lui lại đàng sau Thầy! Vì tư tưởng của anh không phải là tư tưởng của Thiên Chúa, mà là của loài người”.

Như thế, thêm một chuyện nữa là xác nhận Chúa Giêsu là một chuyện nhưng Chúa Giêsu đó là ai trong cuộc đời là chuyện khác. Giêsu thật sự được Isaia vẽ lên trong trang sách mà chúng ta vừa nghe:

Đức Chúa là Chúa Thượng đã mở tai tôi,

còn tôi, tôi không cưỡng lại, cũng chẳng tháo lui.

Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn,

giơ má cho người ta giật râu.

Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ.

Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,

vì thế, tôi đã không hổ thẹn, vì thế, tôi trơ mặt ra như đá.

Tôi biết mình sẽ không phải thẹn thùng.

Đấng tuyên bố rằng tôi công chính, Người ở kề bên.

Ai tranh tụng với tôi?

Cùng nhau ta hầu toà!

Ai muốn kiện cáo tôi?

Cứ thử đến đây coi! Này, có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi,

ai còn dám kết tội?

Một hình ảnh Giêsu, một hình ảnh thần tượng như thế nghe xong cũng sẽ phản ứng như Phêrô là kéo Thầy ra để bảo Thầy đừng làm như thế nghĩa là lên Giêrusalem chịu đau khổ. Nếu như phản ứng như thế cũng chỉ là phản ứng, suy nghĩ của thế gian. Phản ứng, suy nghĩ của những người có niềm tin vào Chúa sẽ là người đi theo con đường khổ nạn của Thầy Chí Thánh vì lẽ chỉ có con đường thập giá mới đạt đến vinh quang như Thầy của mình.

Ngày hôm nay, nếu có mặt ở đây, Chúa Giêsu cũng sẽ hỏi chúng ta rằng người ta bảo Chúa là ai và ta, ta sẽ trả lời với Chúa rằng Chúa là ai trong cuộc đời chúng ta. Ngày hôm nay, cũng có nhiều người tuyên tín vào Chúa Giêsu nhưng chỉ tuyên tín ngoài môi ngoài miệng. Niềm tin như Thánh Giacôbê trong trang thư của Ngài mà chúng ta vừa nghe không phải ở môi miệng nhưng ở hành động: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? Giả như có người anh em hay chị em không có áo che thân và không đủ của ăn hằng ngày, mà có ai trong anh em lại nói với họ: “Hãy đi bình an, mặc cho ấm và ăn cho no”, nhưng lại không cho họ những thứ thân xác họ đang cần, thì nào có ích lợi gì? Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin.

Rõ ràng tin là hành động chứ không chỉ dừng lại ở lời tuyên tín.

Với khả năng hạn hẹp cũng như yếu đuối của mình, con người thường dừng lại ở lời tuyên tín hay chỉ ở trên môi miệng. Khoảng cách từ miệng đến bàn tay quả là xa. Nói yêu Chúa, tin Chúa thì dễ nhưng thực hành lời yêu thương không phải là chuyện giản đơn.

Những lời yêu thương, những lời trao nhau niềm tin chúng ta vẫn thường nghe hàng ngày, hàng giờ và thậm chí ngay bản thân chúng ta vẫn nói lời tin yêu đó nhưng lời nói đó thực hiện được như thế nào hay nó chỉ ở bờ môi chót lưỡi mà thôi. Điều nghịch lý là ai trong chúng ta cũng mong những lời nói thành hiện thực nhưng chúng ta lại không thực hiện.

Và với con người bất nhất đó, chúng ta cứ mãi tôn thờ và chạy theo thần tượng nào khác như thần tượng ca sĩ, nhạc sĩ, diễn viên để lấp vào thần tượng căn cốt trong đời chúng ta. Tệ hơn những thần tượng nhạc sĩ, ca sĩ, diễn viên… chúng ta chạy theo thần tượng là tiền, là danh, là vọng. Mà, thật sự chẳng cần phải nói nhiều ai ai trong chúng ta cũng biết những thần tượng đó chỉ là phù vân, bạc bẽo, mau qua chóng tàn…

Cứ nhìn kỹ lại, tất cả những thần tượng vật chất, con người ấy thật mau qua chóng tàn vô cùng. Mỗi người chúng ta, ngày mỗi ngày lại già thêm một tuổi, lại cứ phải gần đất xa trời thêm một tí và thử nhìn lại xem, tất cả chẳng là gì cả. Phù vân và tất cả cũng chỉ là phù vân thôi.

Xin cho chúng ta học nơi tấm gương của Thánh Phêrô là tuyên tín Thầy mình cũng như đã sống niềm tin ấy trọn vẹn. Vẫn mang trong mình phận người yếu đuối, Phêrô không chỉ dừng lại ở chỗ kéo Thầy mình không cho Thầy đi lên Giêrusalem chịu khổ nạn mà còn chối phăng Thầy mình. Thế nhưng đàng sau những vấp ngã của con người ấy Phêrô chợt giật mình tỉnh giấc để sống trọn vẹn niềm tin của mình.

Xin Chúa thêm ơn cho chúng ta, qua lời chuyển cầu của Thánh Phêrô để chúng ta không chỉ tuyên tín nhưng còn sống lời tuyên tín về Thầy Chí Thánh trong cuộc đời của mình.

7. Thầy là ai? – Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nhiều người đã gặp Chúa, nghe Chúa giảng và chứng kiến các phép lạ Chúa đã thực hiện nhưng vẫn chưa biết Chúa là ai. Cho dù nhiều người đã được thánh Gioan Tẩy Giả giới thiệu: “Đây là Chiên Thiên Chúa, đây Đấng xoá bỏ tội trần gian (Ga 1, 29). Ngay cả những người thân tín nhất là các tông đồ, cũng không biết căn tính thật của Chúa. Người ta đi hết ngạc nhiên ngày tới ngạc nhiên khác, tò mò nhìn xem phép lạ, muốn thưởng thức bánh miễn phí và chứng kiến nhiều sự lạ nhưng nhiều người chỉ nghĩ Chúa Giêsu là một tiên tri nào đó. Hôm nay Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Ông Phêrô trả lời: “Thầy là Đấng Kitô.” (Mc 8, 29).

Sau lời tuyên xưng của ông Phêrô: Thầy là Đấng Kitô, Chúa Giêsu đã hé mở về sứ mệnh của Ngài:Rồi Người bắt đầu dạy cho các ông biết Con Người phải chịu đau khổ nhiều, bị các kỳ mục, thượng tế cùng kinh sư loại bỏ, bị giết chết và sau ba ngày, sống lại (Mc 8,31). Chúa Kitô chọn con đường khổ giá để tới vinh quang sống lại. Con đường Chúa đi là con đường hẹp, con đường thánh giá và đỉnh cao là núi Sọ. Lời tiên báo của Chúa Giêsu ứng nghiệm với những lời diễn tả của tiên tri Isaia về Người Tôi Tớ chịu nhạo báng trong đau khổ: Tôi đã đưa lưng cho người ta đánh đòn, giơ má cho người ta giật râu. Tôi đã không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ (Is 5, 6).

Thầy là ai? Chúng ta thử tìm hiểu qua chính lời mạc khải của Chúa Giêsu.Chúa phán: “Chính Thầy là con đường, là sự thật và là sự sống. Không ai đến với Chúa Cha mà không qua Thầy (Ga 14, 6). Ngài nói tiếp: “Tôi là ánh sáng thế gian. Ai theo tôi, sẽ không phải đi trong bóng tối, nhưng sẽ nhận được ánh sáng đem lại sự sống.”(Ga 8, 12). Chúa Giêsu là đường dẫn chúng ta đến sự sống muôn đời. Chúa chính là ánh sáng soi dẫn đưa chúng ta đến sự thật viên mãn. Ngài là nguồn và là trung gian ban phát sự sống. Có có uy quyền tạo dựng, biến đổi và thánh hóa cả hồn lẫn xác.

Thầy là ai? Chúa Giêsu giới thiệu: Tôi chính là Mục Tử nhân lành. Mục Tử nhân lành hy sinh mạng sống mình cho đoàn chiên (Ga 10, 11). Thầy đã hy sinh mạng sống để đền bù và chuộc tội cho nhân loại. Ngài là Đấng trung gian giao hòa giữa trời và đất, giữa Thiên Chúa và con người. Ngài đã mang lại niềm hy vọng cho những ai đang trong cơn lầm than sầu khổ. Ngài phán: Tôi là cửa. Ai qua tôi mà vào thì sẽ được cứu. Người ấy sẽ ra vào và gặp được đồng cỏ (Ga 10. 9). Chúa Giêsu mở lối cho mọi người tìm đến ơn cứu độ. Muốn vào nước trời, chúng ta phải đi qua cửa chính là Chúa Kitô. Chịu Phép Rửa trong Chúa, tuyên xưng niềm tin, sống và thực hành lời Chúa. Chúng ta không chỉ nói: Lạy Chúa, lạy Chúa là được vào nước trời nhưng là thực hành ý Chúa.

Thầy là ai? Chúa Giêsu phán:”Chính tôi là bánh trường sinh. Ai đến với tôi, không hề phải đói; ai tin vào tôi, chẳng khát bao giờ! (Ga 6, 35). Thầy là bánh từ trời ban xuống cho nhân loại: “Tôi là bánh từ trời xuống.” (Ga 6,41). Thầy là bánh có đủ mọi mùi thơm ngon và là bánh trường sinh. Hãy đến và đặt niềm tin vào Chúa Giêsu, chúng ta sẽ được nuôi dưỡng thỏa thuê bằng chính nguồn ân sủng của Ngài. Lãnh nhận bánh hằng sống là nguồn sự sống và là sự sống viên mãn. Chúa Giêsu đã mạc khải cho chúng ta biết: “Chính Thầy là sự sống lại và là sự sống. Ai tin vào Thầy, thì dù đã chết, cũng sẽ được sống (Ga 11, 25). Niềm hy vọng tuyệt hảo của thân phận của con người là sự sống lại ngày sau để hưởng phúc thanh nhàn.

Thầy là ai? Chúa Giêsu mời gọi chúng ta tin vào Ngài: Thầy ở trong Chúa Cha và Chúa Cha ở trong Thầy; bằng không thì hãy tin vì công việc Thầy làm (Ga 14, 11). Khi Chúa Giêsu biến hình trên núi đã có tiếng phán từ trời cao: “Đây là Con Ta yêu dấu, hãy vâng nghe lời Người.”(Mc 9, 7). Chúa Giêsu thuộc về thượng giới đã hạ sinh mang thân phận con nguời như chúng ta ngoại trừ tội lỗi. Chúa Giêsu bảo: “Các ông bởi hạ giới; còn tôi, tôi bởi thượng giới. Các ông thuộc về thế gian này; còn tôi, tôi không thuộc về thế gian này (Ga 8, 23). Chúa Giêsu được Chúa Cha sai xuống thế gian và khi hoàn tất sứ mệnh Ngài trở về cùng với Cha của Ngài.

Đối với các Kitô hữu, chúng ta xưng tụng Chúa Giêsu là Chúa và là Đấng Cứu Độ. Chúng ta cần lắng nghe của lời Ngài chỉ dạy. Vâng nghe theo lời của Chúa Giêsu là bước theo con đường của Ngài đã đi qua.Đường của Chúa là con đường khiêm hạ, con đường sự thật và con đường khổ giá. Khổ giá sẽ tôi luyện niềm tin. Niềm tin vào Chúa Kitô không phải là học hiểu một số kiến thức, tỏ lòng sùng mộ hay việc cử hành một số nghi lễ, mà chính là sống niềm tin của mình trong cuộc lữ hành trần thế. Chúng ta phải sống đức tin trưởng thành mà chúng ta đã được lãnh nhận qua các Bí Tích trong Hội Thánh. Đức tin là ánh sáng soi đường dẫn chúng ta bước theo gót Chúa Kitô. Thánh Giacôbê tông đồ đã phát biểu rằng: Cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết (Giac 2, 17). Lời nói đi đôi với việc làm. Người ta nói: Lời nói mây bay, gương bày lôi kéo. Đời sống đức tin được thể hiện qua cách sống đạo hằng ngày trong ý tưởng, lời nói và việc làm.

Chúa Giêsu mời gọi:Tất cả những ai đang vất vả mang gánh nặng nề, hãy đến cùng tôi, tôi sẽ cho nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 28). Chúa Giêsu đầy lòng thương xót với những ai cậy trông vào Chúa. Chúng ta cũng biết rằng Chúa có quyền năng ban phát ân huệ cho mọi loài nhưng theo chương trình và sự quan phòng của Chúa. Chúa ban cho con người có tri thức, có khả năng, có thời giờ và có phương tiện để chế ngự những khó khăn bất thường. Chúng ta phải có gắng với hết sức mình trong mọi lãnh vực cuộc sống để tìm phương hướng giải quyết các vấn đề. Chúng ta đừng khi nào thất vọng, chán nản và bỏ cuộc. Chúa nói điều quan trọng là: Anh em hãy mang lấy ách của tôi, và hãy học với tôi, vì tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường. Tâm hồn anh em sẽ được nghỉ ngơi bồi dưỡng (Mt 11, 29). Lời của Chúa thật ngọt ngào, nhẹ nhàng và thấu đạt tâm hồn.

Lời tâm huyết nhất của Thầy Chí Thánh gởi gắm cho các môn đệ là: Mọi người sẽ nhận biết anh em là môn đệ của Thầy ở điểm này: là anh em có lòng yêu thương nhau.”(Ga 13, 35). Dấu chỉ để nhận ra sự hiện diện của Chúa giữa anh chị em là chúng ta hãy yêu thương nhau. Yêu thương là cốt lõi của mọi sinh hoạt sống đạo và là giới răn trọng nhất. Thiếu sự yêu thương, cuộc sống trở thành trống rỗng và vô nghĩa. Không có tình yêu, ngôn từ trở thành sáo ngữ. Vắng bóng tình yêu, các công việc bác ái trở thành sự khoe khoang. Không có lòng yêu thương, mọi cách đối xử giao tế nhân sự trở thành hình thức và giả hình. Yêu thương là chất keo gắn kết tinh thần của mọi người chung hợp với nhau. Trong bất cứ hoàn cảnh nào, muốn trở thành môn đệ của Chúa Giêsu, chúng ta phải yêu thương nhau.

Lạy Chúa, chúng con tuyên xưng Chúa là Con Thiên Chúa, là Đức Kitô, là Thầy, là người chỉ đạo, là nguyên khởi và là cùng đích của cuộc đời chúng con. Xin cho chúng con biết đặt niềm tin tưởng nơi Chúa và bước theo con đường Chúa đã đi xưa, để chúng con cùng được chia sẻ đau khổ thập giá và vinh quang sống lại. Lạy Chúa Giêsu, chúng con tín thác vào Chúa.

8. Suy niệm của Lm. Đaminh Trần Đình Nhi

Phụng vụ Lời Chúa trước đây đã tường thuật những việc làm và lời giảng của Chúa. Hôm nay, các bài đọc hướng đến những người nghe Chúa và nói về đức tin của họ. Đức tin của người Tôi trung trong Cựu Ước và của ông Phêrô trong Tân Ước đều là những thí dụ điển hình để ta có những ý niệm phong phú về lòng tin ta. Tuy nhiên đức tin không phải là mớ lý thuyết suông, mà phải được thực hành trong cuộc sống. Đó cũng là điều thánh Giacôbê Tông đồ nhấn mạnh qua bài đọc hai.

  1. Đức tin của người Tôi trung: “Có Đức Chúa là Chúa Thượng phù trợ tôi, ai còn dám kết tội?” (bài đọc Cựu Ước – I-sai-a 50:5-9a)

Vì có lòng tin vững vàng vào Thiên Chúa nên người Tôi trung mới dám thách thức như vậy. Đây là bài thứ ba trong loạt bài ca người Tôi trung trong sách ngôn sứ I-sai-a. Gọi là người Tôi trung, vì người ấy luôn trung thành đặt tất cả niềm tin vào Thiên Chúa. Niềm tin ấy giúp họ biết nhận ra những điều Thiên Chúa làm cho mình và sẵn sàng thi hành những gì Chúa muốn. Niềm tin cũng là sức mạnh để nhờ đó họ có thể đương đầu với tất cả những khó khăn, thậm chí những bách hại cũng không làm họ nao núng chút nào. Vậy Thiên Chúa đã làm gì cho người Tôi trung?

Trước hết, Thiên Chúa “mở tai” cho người Tôi trung. Mở tai là để họ có thể lắng nghe lệnh truyền của Thiên Chúa. Tuy nhiên người Tôi trung vẫn có tự do trước lệnh truyền của Người, hoặc đón nhận, hoặc cưỡng lại hay từ chối. Ở đây niềm tin vững mạnh khiến người Tôi trung đặt lệnh truyền của Chúa lên trên hết và quyết tâm thi hành.

Khi người Tôi trung bị thử thách và bách hại, niềm tin ấy là động lực giúp họ can đảm ứng phó với mọi hoàn cảnh. Cử chỉ “đưa lưng cho người ta đánh đòn”, “giơ má cho người ta giật râu” và “không che mặt khi bị mắng nhiếc phỉ nhổ” diễn tả thái độ bình tĩnh và tự chủ, là những đặc nét của niềm tin lớn lao nơi Thiên Chúa. Để làm vinh danh Chúa, người Tôi trung chấp nhận cả những điều bất công đáng lẽ họ có thể phản kháng. Đối với người Tôi trung, sự phù trợ của Thiên Chúa là một thực tại rõ ràng và tuyệt đối. Không gì có thể làm cho họ mất xác tín vào sự phù trợ ấy. Mối nguy hiểm lớn lao nhất của người Tôi trung là phải làm chứng cho công lý. Nhưng có Thiên Chúa là “Đấng tuyên bố rằng họ công chính và ở kề bên họ” nên họ không sợ bất cứ ai kết tội họ.

Nhưng người Tôi trung đó là ai? Chính là Chúa Giêsu Kitô. Trong suốt cuộc sống trên trần gian từ khi xuống thế làm người, thi hành sứ vụ cứu độ cho tới lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu đã sống trọn vẹn những gì ngôn sứ I-sai-a nói về Người. Người là mẫu gương đức tin vào Thiên Chúa. Người rao giảng và chữa lành trong sự trung thành với sứ mệnh Thiên Chúa đã trao phó. Đức tin của Người biểu lộ hùng hồn nhất vào những giờ phút bi thảm của cuộc Thương khó. Sự trung thành đã đem lại cho Người sự phục sinh và vinh quang vĩnh cửu bên hữu Thiên Chúa Cha.

  1. Đức tin vào Chúa Kitô của người môn đệ (bài Tin Mừng – Mác-cô 8:27-35)

Như Chúa Giêsu đã tin vào Chúa Cha thế nào, ta cũng phải tin vào Chúa Giêsu như vậy. Trong cuộc đào tạo môn đệ, Chúa Giêsu lúc nào cũng ưu tư về đức tin của các môn đệ vào Người. Người muốn mặc khải cho họ biết dần dần về Người. Sách Tin Mừng Mác-cô có lối trình bày rât độc đáo về chân tính của Chúa Giêsu. Người ta quen gọi đó là “bí mật Đấng Mê-si-a. Từ khởi đầu sứ vụ rao giảng Tin Mừng cho đến lúc chết trên thập giá, Chúa Giêsu luôn luôn cấm người được chữa lành không được nói về Người. Ngay cả trong bài Tin Mừng hôm nay, sau khi ông Phêrô tuyên xưng “Thầy là Đấng Kitô”, Chúa Giêsu cũng “cấm ngặt các ông không được nói với ai về Người”. Chân tính của Chúa Kitô chỉ được tiết lộ khi “viên đại đội trưởng đứng đối diện với Chúa Giêsu, thấy Người tắt thở như vậy liền nói: ‘Quả thật, người này là Con Thiên Chúa”.

Theo câu truyện Tin Mừng hôm nay về việc ông Phêrô tuyên xưng đức tin, ta có thể nhận ra một số nét chính về đức tin. Tin nghĩa là nhìn nhận phẩm giá của người mình muốn tin. Tin vào Chúa Giêsu có nghĩa là nhận biết Chúa là Đấng nào và sứ mệnh của Người là gì. Chính vì hai điểm này, đức tin mở đầu với câu hỏi “người ta nói Thầy là ai?” Trả lời cho câu hỏi trên, đức tin đòi hỏi việc nhìn nhận chân tính của Chúa Giêsu phải là nhìn nhận của riêng cá nhân, chứ không thể do những điều nghe người này người kia nói. Do đó, Chúa Giêsu mới hỏi môn đệ: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?” Sự nhìn nhận này nảy sinh từ đáy tâm hồn của từng người. Đức tin không thể là điều vay mượn của người khác, nhưng là khởi đầu cho một mối quan hệ giữa ta với Chúa. Quan hệ này sẽ đưa ta đi khám phá thêm con người, đạo lý và sứ mệnh của Chúa Giêsu. Đây chính là điều ông Phêrô và các bạn chưa biết hoặc không muốn biết. Nói khác đi, đức tin giúp ta tìm hiểu và nhìn nhận sứ mệnh của Chúa Giêsu. Để bổ túc cho thiếu sót rất lớn lao này, Chúa Giêsu “bắt đầu dạy cho các ông biết: Con Người phải chịu đau khổ nhiều…, bị giết chết và sau ba ngày sẽ sống lại”. Vừa nghe vậy, ông Phêrô phản kháng, chẳng muốn nhìn nhận một thứ sứ mệnh không đáp ứng với mong mỏi của ông và các bạn. Đối lại, Chúa Giêsu còn phản kháng mạnh hơn, cốt để khắc phục các ông phải nhìn nhận cả điều đi ngược lại mong muốn của mình. Người mắng ông là thứ kỳ đà cản mũi, không muốn đi theo đường lối Thiên Chúa và bắt chước Người làm Tôi trung của Thiên Chúa. Như vậy, điều cốt yếu về đức tin là phải tùy thuộc vào phẩm giá của Chúa chứ không phải tùy thuộc vào điều ta mong mỏi, hoặc đức tin là ta tùy thuộc vào Chúa chứ không phải Chúa tùy thuộc vào ta.

Một điều nữa vô cùng quan trọng về đức tin, là đức tin không là điều nằm trong trí óc, nhưng được thể hiện bằng đời sống và việc làm. Nhận biết chân tính và sứ mệnh của Chúa chưa đủ, ta còn phải đi theo Chúa. Điều này Chúa Giêsu thẳng thắn cho biết cái giá đắt khi ta theo Người. “Ai muốn theo tôi, phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình mà theo” (Mc 8:34). Đức tin trở nên nguyên lý sự sống đời đời. Sự sống đời này và sự sống đời đời là hai thực tại khác nhau, nhưng lại liên hệ chặt chẽ với nhau. Đức tin trong sự sống đời này là điều kiện phải có để được sự sống đời đời. Mà trong cuộc sống đời này, đức tin sẽ gặp nhiều thử thách như vàng thử lửa, luôn đòi hỏi ta sẵn sàng “liều mất mạng sống mình vì Chúa và vì Tin Mừng”. Chúa Giêsu không ngại gọi việc liều mất mạng sống đời này như phương thức duy nhất để “cứu được mạng sống đời sau”. Ta mới chỉ liều mất mạng sống vì đức tin, còn Chúa Giêsu thì đã thực sự mất mạng sống vì lòng tin vào Thiên Chúa và nhân loại. Người đã trả giá đắt cho lòng tin vào tình yêu Chúa Cha và nhân loại. Vì mất mạng sống do tin yêu nên Người đã được phục sinh và đem lại sự sống đời đời cho nhân loại.

  1. Đức tin không có hành động là đức tin chết (bài đọc Tân Ước – Giacôbê 2:14-18)

Thánh Giacôbê đi vào thực tế khi ngài quả quyết: Đức tin không có hành động, thì quả là đức tin chết. Đức tin chết đâu có gây được tác động gì, khác chi cái xe hỏng máy nằm ụ một chỗ và không thể chuyên chở ta đi nơi này nơi kia. Ngài lập lại ý tưởng của Chúa Giêsu về chức năng của đức tin là “cứu mạng”. Thực tế hơn nữa, ngài dùng hình ảnh người anh chị em của ta sống trong hoàn cảnh thiếu thốn và cần đến sự giúp đỡ của ta để áp dụng vào việc sống đức tin. Hành động vì đức tin của ta trong hoàn cảnh này là quảng đại giúp đỡ người anh chị em ấy. Hành động là dấu chỉ nói lên đức tin sống động. Ta giúp đỡ anh chị em là vì ta tin lời Chúa dạy ta sống bác ái và thương yêu anh chị em như chính mình. Ta cho anh chị em túng đói cơm ăn áo mặc là vì ta thực hành điều Chúa dạy: “Ta bảo thật các ngươi: mỗi lần các ngươi làm như thế cho một trong những anh em bé nhỏ nhất của Ta đây là các ngươi đã làm cho chính Ta vậy” (Mt 26:40). Thánh Giacôbê quả quyết không thể chứng minh đức tin khi không được biểu lộ bằng hành động. Trái lại khi ta hành động thì hành động đó sẽ cho người khác thấy động lực khiến ta hành động là vì có đức tin. Một thí dụ cụ thể: hành động ta cho anh chị em túng thiếu ăn khi họ đói, áo mặc khi họ lạnh nói lên rằng ta tin có Chúa nơi anh chị em và họ cùng với ta đều là con cái Thiên Chúa.

Có lẽ việc tách rời đức tin với hành động là điều rất thường thấy nơi nhiều Kitô hữu. Chính vì họ tách rời như vậy nên đời sống của họ có hai phạm trù riêng biệt. Họ tưởng hành động của đức tin là đọc kinh cho to, xem lễ cho nhiều, rước sách cho linh đình… Nhưng ra khỏi nhà thờ, hết kinh hết lễ thì đời sống họ vẫn giậm chân tại chỗ, không thêm được một chút tình thương nào đối với những người đói khổ túng thiếu, trái tim họ không hề rung động trước cảnh khốn khó của anh chị em. Cây đức tin của họ khô cằn, thiếu sự sống, nên không sinh được hoa trái nào. Thánh Giacôbê mô tả đức tin hết sức đơn sơ, một đức tin sống hay là chết, nhưng lại là hình ảnh thực tế đòi hỏi mỗi người phải xét lại đức tin của họ.

  1. Sống đức tin

Đề tài đức tin của Lời Chúa hôm nay không phải là một bài thần học hoặc giáo lý cao siêu, nhưng nằm ngay trong kinh nghiệm cuộc sống của người Tôi trung, của thánh Phêrô và thánh Giacôbê cũng như của mọi người muốn làm môn đệ Chúa Kitô. Đức tin hệ tại tâm hồn quyết tâm gắn bó với Chúa và sống theo điều Người dạy. Tin vào Thiên Chúa Cha, Chúa Giêsu đã suốt đời sống theo “tư tưởng” hoặc đường lối của Chúa Cha. Cũng vậy, nếu ta tin vào Chúa Giêsu, ta cũng phải uốn nắn đời sống ta theo khuôn mẫu đời sống của Người, sống vì Người và vì Tin Mừng.

Suy nghĩ: Thánh Giacôbê viết: “Tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”. Vậy để chứng tỏ cho những người chung quanh thấy tôi là người có đức tin, tôi phải có những hành động nào? Đối với những người trong gia đình? Trong sở làm? Trong cộng đoàn? Những hành động ấy nói lên điều gì nơi tôi?

Cầu nguyện: Lạy Thiên Chúa hằng hữu là Cha chúng con, xin cho lòng chúng con luôn hướng về với Chúa Kitô, để khi quyết tâm làm môn đệ Người như việc quan hệ nhất trong đời, và lấy tình bác ái phục vụ anh chị em, chúng con hoàn toàn hiến thân phụng thờ Chúa. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Kitô, Chúa chúng con. Amen.

9. Từ bỏ chính mình – Thiên Phúc

Wiliam Oscar Wilde kể một huyền thoại sâu sắc: “Họa Mi và Bông Hồng Đỏ”. Một sớm mùa hè, họa mi làm tổ trên cành dương đã nghe trọn lời than thở của một chàng trai bên cửa sổ: “Nếu anh không kiếm nổi bông hồng đỏ để em cài ngực áo trong buổi dạ hội đêm nay, em sẽ xa anh mãi mãi”. Họa mi dư hiểu chàng trai đã lang thang khắp các nương đồng. Nhưng tìm đâu ra một bông hồng đỏ dưới nắng cháy mùa hạ này? Trời ơi, người tình sẽ chắp cánh bay xa. Họa mi không chịu nỗi dằn vật bi thương của chàng. Họa mi phải ra tay thôi. Nàng khép cánh trước cây hoa hồng bên giếng nước nài xin:

– Chị hồng ơi, chị có vui lòng tặng em một bông hồng đỏ thắm không?

– Họa mi ơi! em vô tâm như những chiếc gai trên thân chị. Mùa hạ nắng cháy sao em lại xin hoa hồng đỏ?

Chị hồng rung rung cành lá giận dỗi. Họa mi tiếp tục tìm kiếm. Nàng nép mình đậu trên một cành hồng ngoài xa hàng giậu.

– Chị hồng ơi có phép mầu nào nở cho em một bông hồng đỏ?

– Họa mi ơi! đời cần hoa chi cho thương đau?

– Sao cũng được, miễn em kết chặt một mối tình.

– Được, nhưng phép màu cần phải có màu đỏ.

– Bằng mọi giá chị ạ.

– Bằng giá sinh mạng?

– Kể cả sinh mạng em.

– Họa mi ơi! Hãy đặt cổ em trên gai nhọn của chị, hãy hót cho chị, cho cây cỏ, cho đất trời khúc tình ca thắm thiết nhất đời em. Hãy đổ máu cho bông hồng nở. Hãy nhuộm máu cho bông bồng đỏ. Mình sẽ có một bông hồng đỏ như máu đẹp nhất trần gian.

Họa mi đã hót đến giây phút cuối cuộc đời, đã đổ đến giọt máu cuối cùng, đã chết rũ trên cành hồng cạnh đoá hồng bí nhiệm đỏ thắm.

Chàng trai mừng vui tiếng cười mở hội. Bông hồng được hái về trau chuốt trước khi có mặt trong đêm dạ hội. Điều lạ lùng nhất mà cũng phi lý nhất, phi lý như chính cuộc đời phi lý, là người tình đã khước từ đoá hồng bí nhiệm, vì trên ngực áo một bông hồng giả đang ngự trị… Sáng hôm sau, dân làng bắt gặp một đoá hồng bị nghiền nát, nằm tả tơi dưới vết bánh xe bò.

Câu chuyện trên đây là một huyền thoại, nhưng huyền thoại chuyên chở một nội dung rất thực: Đó là nét thực của tình yêu, của tự do, của hy sinh. Tình yêu phải được nuôi dưỡng bằng hy sinh, bằng máu, bằng cả sinh mạng. “Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình” (Mc.8,34). Đây là một lời mời gọi hoàn toàn tự do. Con người có toàn quyền lựa chọn. Chúa không bắt buộc nhưng mời gọi. Người mời gọi chúng ta từ bỏ mình, nghĩa là từ bỏ mọi sự, kể cả mạng sống.

Nói đến từ bỏ là đụng đến hy sinh, nói đến hy sinh là phải thiệt thòi mất mát. Cũng như nói đến tình yêu là đụng đến tự do, và đụng đến tự do là phải dấn thân mạo hiểm. Có thể được chấp nhận hay bị từ khước. Có thể “được cả” mà cũng có thể “ngã về không”. Chính cái bắp bênh trong tình yêu, trong chọn lựa, mới làm bừng sáng nét cao đẹp của hy sinh, từ bỏ.

Hy sinh bao giờ cũng có hương thơm của hạnh phúc. Từ bỏ bao giờ cũng cho tâm hồn nét thanh cao. Hy sinh và từ bỏ là chuẩn bị luống cày cho hạt giống mọc lên.

Nhưng “Từ bỏ chính mình” không phải là quyết định một lần để thay cho suốt cả đời mà là thái độ luôn sẵn sàng từ bỏ trong mọi giây phút của cuộc sống.

“Ai liều mạng sống vì Ta sẽ được sống” (Mc.8,35). Quả thật, bỏ mình vì Chúa, chúng ta chẳng lỗ lã chút nào. Chúng ta chối từ cái tương đối để được Đấng Tuyệt đối, khước từ cái mau qua để đón nhận cái vĩnh hằng, từ bỏ cuộc sống hay chết để được sự sống đời đời, vì “Ai biết chết thì sẽ biết sống”.

Lạy Chúa, ai trong chúng con cũng mang mầm ích kỷ; thích hưởng thụ hơn là hy sinh, thích thu tích hơn là cho đi, thích cai trị hơn là phục vụ.

Xin dạy chúng con biết chiến đấu mà không sợ thương tích, làm việc cực nhọc mà không tìm nghỉ ngơi, biết hy sinh mà không đòi phần thưởng, nhưng chỉ biết rằng: chúng con đang thực thi thánh ý Chúa. Amen. (Ignatiô Loyola).

10. Mầu nhiệm cứu độ

(Suy niệm của Phêrô Trần Đình Phan Tiến – ‘Bước Theo’)

“Hành động của Thiên Chúa”, chủ đề CN 24 TN (B) (Mc 8, 27-35), thoạt nhìn ta thấy có hai chủ đề là “tuyên xưng niềm tin” (c 29) và “Mầu nhiệm Tử nạn” (c31), hay là Hành Động của Thiên Chúa.

Vâng! thật hợp lý với lời giảng giải của thánh Giacôbê ở đoạn( Gc 2, 14-18): “Đức tin và Hành Động”. Qủa thật, Đức tin không thôi chưa đủ, vì Chúa Giêsu kêu gọi phàm nhân “tin vào Người” (Ga 3,15) để đón nhận ơn cứu độ. Nhưng ơn Cứu Độ không phải là lời nói suông, mà là một hành động cụ thể, thật vậy, Thiên Chúa đã hành động.

Hành động của Thiên Chúa thì không phải hành động như phàm nhân. Hành động của Thiên Chúa là hành động yêu thương, hành động quên mình để hy sinh cho kẻ khác. Thiên Chúa không tiêu diệt kẻ đáng bị tiêu diệt, Thiên Chúa không trừng phạt kẻ đáng bị trừng phạt. Vì Ngài là Thiên Chúa yêu thương, yêu thương là gánh lấy về mình tất cả. Như vậy, thoạt đầu đọc đoạn Tin Mừng (Mc 8,27-35) hôm nay, ta nghĩ rằng có sự mâu thuẫn, vì tại sao con người tuyên xưng niềm tin vào Chúa như Phêrô lại bị quở trách nặng nề.Nhưng suy niệm sâu xa ta thấy ý nghĩa của Lời Chúa hôm nay, không phải là lúc con người tuyên xưng đức tin, hay nói cách khác tuyên xưng niềm tin, nhưng chưa hiểu mầu nhiệm mà ta tuyên xưng. Như vậy vấn đề cho thấy, tin vào Chúa và tín thác vào Ngài, cần phải có hành động cụ thể là thực thi Ý Định của Thiên Chúa, tin vào Thiên Chúa đồng thời phải lắng nghe Lời của Thiên Chúa để thực thi Ý Ngài. Vì tin mà không hành động thì niềm tin ấy không sinh kết quả, như vậy niềm tin ấy không có lợi ích gì. Vì “…tin trong lòng thì được công chính, còn tuyên xưng ngoài miệng thì được ơn cứu độ”(Rm 10,10). Như vậy, muốn đón nhận ơn cứu độ của Thiên Chúa cần phải có hai điều kiện là “Tin” và “thực thi” niềm tin vào Thiên Chúa. Vd: Thiên Chúa là tình yêu, khi ta tin vào Thiên Chúa, thì ta cũng phải hành động như Thiên Chúa là ta phải yêu tha nhân như Chúa đã yêu ta. Đó là nguyên lý của niềm tin, nhưng thực tế ta không thể yêu tha nhân như Thiên Chúa đã yêu ta, vì ta chưa trở nên như Thiên Chúa được.Nhưng ít ra ta cũng phải hành động theo ý định của Thiên Chúa, điều nầy phù hợp với chúng ta hơn, vì trong giới hạn của nhân trần. nhưng ta có thể chứng minh lòng tin của ta vào Thiên Chúa bằng nhiều cách, như vậy là niềm tin của ta được hành động. Thánh Giacôbê đã so sánh rất tuyệt vời về “Đức Tin và Hành động” như sau: “Thưa anh em, ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng?… cũng vậy, đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết”. (Gc 2,14.17).

Như vậy Chúa Giêsu không phải quở trách Phêrô vì ông tuyên xưng niềm tin vào Người, mà quở trách Phêrô vì ông đã can thiệp vào mầu nhiệm cứu độ của Thiên Chúa. Vì Thiên Chúa cần phải hành động để minh chứng “Lời” của Thiên Chúa từ ngàn xưa. Khi Chúa Giêsu nói: “Ai tin vào tôi thì có sự sống muôn đời” (Ga 3,15), nhưng Người không phải là vị Vua của trần thế. Nếu chi ngồi đó mà nói như vậy, thì quả thật không đáng tin. Nhưng Đấng cứu thế là vị Vua đích thực của Nước Trời, vì vậy Người đã hành động như một vị cứu thế đúng nghĩa. Người đã trở nên con chiên hiền lành bị đem đi giết.

Vâng! Đấng Cứu Thế đã hành đông đúng như lời Isaia đã nói: “Ta đã trao thân cho kẻ đánh Ta, giơ má cho người ta vả; Ta đã chường mặt mình cho họ mắng, họ nhổ” (Is 50,6). Một Đấng cứu thế như vậy, đã được loan báo trong Cựu Ước, nhưng phàm nhân không đón nhận. Vì phàm nhân không thích Thập giá. Nhưng Thiên Chúa lại dùng chính sự từ chối của trần thế để cứu chuộc thế trần. Vì vậy, Phêrô đã bị Chúa Giêsu quở trách nặng nề: “Hỡi satan! hãy lui ra đằng sau, vì tư tưởng của ngươi không phải là tư tưởng của Thiên Chúa”. (Mc 8, 33b).

Niềm tin là biết có ánh sáng, nhưng hành động là phải tiếp nhận ánh sáng và chuyển giao ánh sáng cho người khác. Nếu hành động không có niềm tin thì hành động mù quáng, nếu chỉ có niềm tin mà không hành động thì niềm tin ấy không tỏa sáng, bị lu mờ và tắt đi vì thiếu thực tế.

Lời Chúa là ánh sáng, khi tin theo trong cuộc sống hằng ngày phải được chiếu soi cho hành động của con người. Niềm tin cần cho hành động và hành động cần cho niềm tin. Niềm tin có hành động là niềm tin sống. Hành động có niềm tin là hành động tuyệt vời.

Lạy Chúa Giêsu, Chúa đã quở trách Thánh Phêrô vì niềm tin của ông chỉ suy nghĩ đơn thuần nông nổi. Niềm tin ấy chưa đủ yếu tố để mang ơn cứu độ đến cho người khác. Niềm tin xác đáng là niềm tin phải hành động, như Chúa đã hành động là chu toàn thánh Ý Chúa Cha một cách tron vẹn. Xin ban cho chúng con là những kẻ mỏng giòn ,yếu đuối cũng có được sức mạnh của lòng tin vào Chúa và những hành động của lòng tin vào Chúa, là những hành động cụ thể của chúng con, để trần gian nhìn thấy hành động của chúng con mà ngợi khen Cha trên trời. Amen.

11. Tưởng lầm – ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt.

Trong đời sống có rất nhiều điều hiểu lầm. Chẳng hạn xưa kia khi thấy mặt trời cứ sáng mọc tối lặn, người ta tưởng rằng trái đất đứng yên và mặt trời di chuyển chung quanh trái đất. Nhưng khoa học tiến bộ đã minh chứng mặt trời đứng yên, chính trái đất mới xoay chung quanh mình và chung quanh mặt trời. Trong đời sống đạo cũng đã có những hiểu lầm như thế. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế sẽ uy nghi từ trên mây trời hiện đến. Không ngờ Người lại do một thôn nữ dưới đất sinh. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải ngự trong lâu đài sang trọng của vua chúa. Nhưng không ngờ Người lại sinh ra trong chuồng bò lừa. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải uy quyền lẫm liệt. Nhưng không ngờ Người lại quá hiền lành khiêm nhường. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế phải đánh đông dẹp bắc, đập tan quân thù, đưa nước Do Thái lên địa vị bá chủ. Nhưng không ngờ Người chịu thua hết mọi người, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, chịu chết như một kẻ tội lỗi. Người ta cứ tưởng Đấng cứu thế là một ông vua có kẻ hầu người hạ. Nhưng không ngờ chính Người lại quỳ xuống hầu hạ, rửa chân cho các môn đệ.

Có quan niệm sai lầm về Thiên Chúa, người ta cũng sai lầm về người môn đệ. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì sẽ được chức cao quyền trọng trong Nước Chúa. Nên bà Giêbêđê mới xin Chúa cho hai người con là Gioan và Giacôbê được ngồi bên tả và bên hữu Chúa trong Nước Chúa. Nhưng không ngờ Chúa không hứa cho chức quyền mà chỉ hứa cho uống chén Người sẽ uống, nghĩa là phải chết. Người ta cứ tưởng người làm lớn trong Nước Chúa sẽ được trọng vọng, được phục dịch. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai trong anh em muốn làm lớn thì phải phục vụ anh em”. Người ta cứ tưởng theo Chúa thì Chúa sẽ cho mọi sự may mắn ở đời, được thành công. Được giàu sang. Nhưng không ngờ Chúa lại bảo: “Ai muốn theo Ta, phải từ bỏ mình đi, vác thập giá mình mà theo”.

Hôm nay, sau khi nghe các môn đệ báo cáo về dư luận quần chúng, Đức Giêsu thấy họ quá sai lầm về Người, về vai trò Cứu thế của Người, về con đường cứu chuộc. Nên Người đã dậy rõ ràng cho các môn đệ biết Đấng Cứu thế thực là Con Thiên Chúa. Nhưng con đường Người đi là con đường thập giá. Người phải chịu đau khổ, chịu hành hạ, chịu sỉ nhục, và phải chịu chết.

Người cũng cho các môn đệ biết ai muốn theo Người cũng sẽ phải đi vào con đường của Người. Phải từ bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Người.

Phải chăng Thiên Chúa muốn hành hạ con người, muốn con người tàn lụi chứ không muốn con người phát triển, muốn con người phải chịu đau khổ chứ không muốn con người được hạnh phúc? Tại sao trên trần gian, người ta thường hứa hẹn cho những người theo mình hạnh phúc sung sướng mà Chúa thì làm ngược lại, chỉ hứa cho những người theo mình thánh giá và đau khổ? Thưa, chắc chắn Chúa muốn cho con người được hạnh phúc. Chính vì muốn con người được hạnh phúc mà Chúa đã phải xuống trần gian để cứu chuộc con người. Nhưng thứ hạnh phúc mà Chúa muốn ban tặng cho con người không phải là thứ hạnh phúc giả tạo dễ dàng và mau qua. Chúa muốn cho con người được hạnh phúc vĩnh cửu, hạnh phúc đích thật, hạnh phúc không bao giờ tàn úa. Muốn được hạnh phúc đó, con người phải kinh qua những vất vả, đau đớn. Đau đớn nhất là phải từ bỏ chính mình, vác thập giá mình. Những vất vả đau đớn không phải là vì Chúa độc ác muốn hành hạ con người. Những đau đớn từ bỏ mình không phải là vì Chúa muốn con người đi vào tàn lụi diệt vong. Nhưng đó là qui luật, là điều kiện để được sự sống, được hạnh phúc đích thật.

Chính Đức Giêsu cũng phải đi qua con đường thập giá khổ nhục mới đến hạnh phúc. Chính Người phải kinh qua cái chết đau đớn mới tới ngày phục sinh vinh quang. Nên Chúa đã nói với các môn đệ: “Ai muốn cứu mạng sống mình, thì sẽ mất; còn ai liều mất mạng sống mình vì Tôi và vì Tin Mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Thành ra, đau khổ Chúa hứa không phải để hành hạ con người, nhưng là con đường dẫn con người đến hạnh phúc đích thực. Thập giá và cái chết không phải để đưa con người vào tàn lụi, nhưng chính là điều kiện để con người được tái sinh và triển nở trong đời sống mới, đời sống vĩnh cửu với hạnh phúc không bao giờ tàn.

Những lời Chúa nói hôm nay, tuy khó nghe và khó chấp nhận. Nhưng đó là sự thật và là con đường đưa ta đến hạnh phúc và sự sống vĩnh cửu. Chúa đã không lừa mị ta, không hứa hẹn cho ta những gì dễ dãi, chóng qua. Chúa chỉ cho ta đường ngay nẻo chính. Chúa mời gọi ta phải dũng mạnh, can đảm và quyết liệt trong cuộc chạy đua dành lấy hạnh phúc nước trời.

Lạy Chúa, xin cho con biết từ bỏ mình, vác thập giá mình mà bước theo Chúa. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Đâu là những hiểu sai lầm về Chúa?

2) Đâu là những hiểu sai lầm về người môn đệ của Chúa?

3) Có phải Chúa muốn ta khổ sở khi bảo ta phải từ bỏ mình không?

4) Tại sao Chúa phải chịu đau khổ?

12. Chúa Giêsu là ai trong cuộc đời tôi?

Nhìn thấy Chúa Giêsu làm nhiều phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:

– Liệu Ngài có phải là Đấng Cứu Thế hay không?

Nhất là trong hoàn cảnh họ đang phải sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, họ trông chờ một Đấng Cứu Thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.

Theo mong ước của nhiều người Do thái thì Đấng Cứu Thế là một vị anh hùng dân tộc, đến đánh đuổi quân ngoại xâm. Ngài sẽ là người dùng quyền lực thống trị các dân, trừng phạt những người tội lỗi và quân ngoại xâm. Đàng này, Đấng Cứu Thế Giêsu đến lại tỏ ra nhân từ với hết mọi người, kể cả người tội lỗi và dân ngoại. Tuy Ngài giảng dạy như Đấng có uy quyền và làm những dấu lạ chưa ai từng có. Tuy nhiên, Ngài lại không chấp nhận làm vua, làm Messia theo quan niệm của họ. Và họ bất đồng quan điểm khi nhận xét về sứ mạng của Chúa Giêsu. Người thì nói Chúa Giêsu là Gioan Tẩy Giả sống lại, kẻ thì bảo là Elia, số khác cho là một trong số các tiên tri. Họ không nhận ra Đức Giêsu là Messia, Con Thiên Chúa làm người!

Bấy giờ, Đức Giêsu hỏi các môn đệ xem họ đã hiểu lời dạy, hiểu thân thế của Ngài đúng chưa. Thật không bỏ công khó nhọc của Đức Giêsu, Phêrô đã trả lời chính xác: Thầy là Đức Kitô Con Thiên Chúa hằng sống. Các Tông đồ khác cũng đồng ý với câu trả lời của Phêrô như vậy. Tuy nhiên, các Tông đồ cũng chưa thật sự hiểu rõ bản tính và sứ mạng của Đức Giêsu. Có lẽ họ cũng chịu ảnh hưởng của quan niệm dân chúng bấy giờ: Messia là vị cứu tinh Dân tộc Do thái, họ nghĩ đơn giản như vậy, họ chưa nhận ra vai trò cứu chuộc nhân loại của Đức Giêsu và những đau khổ người phải chịu để đền thay vì tội lỗi nhân gian. Bằng chứng là sau đó, khi Đức Giêsu công bố về cuộc khổ nạn thì Phêrô liền can gián: Thầy không phải như vậy đâu! Nhưng Đức Giêsu quay lại quở trách Phêrô và các môn đệ: các con không biệt việc Thiên Chúa làm mà chỉ biết việc loài người. Đã theo Đức Giêsu thì không tìm lợi danh đời này. Ai theo ta thì hãy từ bỏ mình, vác thánh giá mình mà theo Ta. Ai lo cho mạng sống đời này thì sẽ mất nó, nhưng ai biết hy sinh mạng sống vì Chúa thì Người sẽ ban cho hạnh phúc vĩnh cửu bên Ngài. Ai gắn mình với vật chất chóng qua thì sẽ tàn tạ như nó. Còn ai gắn bó với Đấng Vĩnh Cửu thì được Thiên Đường làm nơi cư ngụ.

Mỗi người chúng ta hôm nay hãy thử trả lời câu hỏi của Đức Giêsu: còn con, con bảo Thầy là ai? Đối với tôi, Đức Giêsu là ai? Hiện giờ tôi theo Chúa vì lý do nào? Tôi theo Chúa vì nhận ra Chúa là Thiên Chúa duy nhất, là Đấng hứa ban cho tôi sự sống đời đời hay tôi theo Chúa đề Ngài ban cho của cải, giàu sang, địa vị đời này? Tôi theo Chúa mà tôi có sống theo Tám Mối Phúc thật: phúc cho ai có tinh thần nghèo khó, hiền lành, khóc lóc, khao khát nhân đức trọn lành, biết xót thương kẻ khác… tôi có coi Chúa trên của cải vật chất, coi Chúa hơn ý riêng của mình, hay có khi nào tôi coi trọng tiền bạc, của cải hơn Chúa không?

Nhiều khi chúng ta theo Chúa, nhận ra Chúa là Đấng Cứu Thế, nhưng cũng như Phêrô và các tông đồ trong Tin Mừng hôm nay: muốn can ngăn Chúa, không muốn Ngài vác thánh giá, không muốn Ngài đau khổ. Như vậy, khi đi theo Chúa, bắt chước Chúa, chúng ta cũng không phải vác thánh giá, không phải chịu đau khổ với Ngài. Chúng ta hãy xem Đức Giêsu có đồng ý với các Tông đồ như vậy không? Ngài chẳng những không đồng ý mà còn khiển trách Phêrô nữa: Satan, con hãy lui lại đàng sau Thầy. Đức Giêsu không đồng ý với các Tông đồ vốn muốn ngài làm một Messia an nhàn. Ngài cho biết đó là cám dỗ của Satan. Ngài cũng như những người đi theo ngài phải chọn con đường thập giá. Chính thánh giá mới đem lại bình an hạnh phúc. Ai không nép mình sống theo 10 Điều Răn mà tự mình sống buông thả theo ý riêng thì sẽ gặt hậu quả rất tệ: mất hạnh phúc đời đời, vì đã không đi trên con đường Đức Giêsu đã đi.

Vậy, để hưởng ơn cứu chuộc của Đức Giêsu, chúng ta hãy tuyên xưng rõ trong lòng mình như thánh Phêrô hôm nay: Thầy Đấng Kitô, Đấng Cứu Độ đời con, con xin đi theo Ngài trên mọi nẻo đường dù là đường êm ả hay đường chông gai, để mai sau, Đức Giêsu ở đâu con cũng được ở nơi đó, Chúa được hạnh phúc nào thì con cũng được tham dự vào hạnh phúc đó với Chúa.

13. Thách đố của niềm tin.

(Trích trong ‘Niềm Vui Chia Sẻ’)

Một giai thoại kể lại rằng: Có một thanh niên thích chơi những trò mạo hiểm để tìm cảm giác mạnh. Anh đem theo một chiếc dù đến bên bờ vực thẳm, định chơi cho thoả chí mạo hiểm. Không biết loay hoay thế nào, anh trượt chân. Đang trên đá lăn dài xuống vực sâu, may mắn được một cành cây mọc chìa ra. Thế là anh lơ lửng trên cành. Thật hú vía, tuy chưa qua hết nguy hiểm, nhưng thế này còn có hy vọng thoát được.

Ngước mắt lên bờ vực, anh không thấy bóng dáng một ai. Nhìn xuống, anh choáng váng vì vực quá sâu. Anh cũng biết không thể nào đu lơ lững mãi trên cành được, vì thế, cách cuối cùng là anh cầu nguyện. Thế là anh cầu nguyện: lậy Chúa, xin cứu con, con xin hứa làm bất cứ điều gì Chúa muốn.

Bỗng anh nghe như có tiếng Chúa nói: Được, Ta sẽ cứu con. Nhưng trước khi cứu, Ta muốn biết là con có thực sự tin rằng Ta làm được việc này không?

– Lạy Chúa, con tin chứ! Con tin chắc là Chúa cứu được con mà! Cứu ngay đi Chúa ơi, con mỏi tay lắm rồi!

– Được, nếu con tin Ta thì hãy buông tay ra.

Chàng thanh niên vẫn bám chặt vào cành cây chứ không chịu buông. Rồi anh ngẩng lên bờ vực và la lớn: “Có ai trên đó không, cứu tôi với’.

Thưa anh chị em, giả sử chúng ta là chàng thanh niên đó, liệu chúng ta có dám buông tay ra không? Đức tin của chúng ta có đủ mạnh để tin vào quyền năng của Chúa qua những nghịch cảnh đang xẩy ra trong đời, hay chúng ta sẽ tìm cách bám víu vào những thực tại khác?

Muốn đi theo ai, muốn ở với ai, thì phải biết rõ người ấy, biết người ấy xuất thân từ đâu và có đáng tin không. Muốn “đi theo Chúa Giêsu và ở với Chúa Giêsu” thì người Kitô hữu phải biết Chúa Giêsu là ai, đường lối của Ngài như thế nào? Bài Tin Mừng hôm nay giúp chúng ta hiểu về con người Giêsu ấy.

Chúa Giêsu đặt cho các môn đệ câu hỏi: “Người ta bảo Thầy là ai?” trước khi đòi hỏi chính các môn đệ của mình phải bày tỏ ý kiến riêng, Chúa Giêsu đã thực hiện một cuộc thăm dò ngay trong nội bộ mình xem người khác nói về Ngài như thế nào? Có nhiều ý kiến, nhưng rõ ràng dân chúng đã thấy được một số nét căn bản nơi con người Giêsu. Nơi giáo huấn của Ngài, người ta thấy được sức sống và sự siêu thoát khỏi những ràng buộc vô lý của lề luật. Thế nhưng, điều quan trọng không phải chỉ biết đúng về Chúa Giêsu mà con phải biết đủ về Ngài nữa: Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa làm người, Ngài là Thiên Chúa thật và là người thật.

Nhờ các phương tiện truyền thống và nhờ học hành, kiến thức của ta ngày càng gia tăng. Nhưng ta có một sự hiểu biết sâu xa về Chúa chưa? Cần phải xác tín như Thánh Phaolô: “Cái lợi tuyệt vời là được biết Chúa Giêsu kitô, Chúa của tôi” (Pl 3,8).

Các môn đệ là những người “ở với Chúa Giêsu”, cũng ăn cùng uống, gắn bó, gần gũi với Ngài và được Ngài dạy dỗ đặc biệt cùng chứng kiến nhiều phép lạ, giờ đây, các ông phải bày tỏ lập trường. Chắc hẳn giây phút thinh lặng nặng nề khi bị hỏi: “Còn anh em, anh em bảo Thầy là ai?”. Phêrô thay mặt anh em tuyên xưng đức tin “Thầy là Đấng Kitô”. Phêrô đã cứu nguy cho anh em! Thế nhưng sau đó ông lại can ngăn Thấy Giêsu. Ông đã cản Chúa Giêsu làm theo ý Chúa Cha. Và như vậy là đi theo đường lối của Satan. Rõ ràng ông chưa hiểu bao nhiêu về đường lối của Chúa. Thực ra, ông và các bạn đã hiểu Đấng Kitô theo nghĩa trần thế, một Đấng Cứu thế hiển hách, oai phong… thành ra ông không sao hiểu được việc “Con Người sẽ phải chịu nhiều đau khổ và phải chết…”.

Thưa anh chị em,

Để biết Chúa Giêsu Kitô là ai và đâu là đường lối của Ngài, ta cần phải giũ bỏ những hình ảnh trần tục ta vẫn có về Chúa Kitô, những hình ảnh do con người tạo ra: một Đức Kitô của quyền lực, của thống trị… Nên nhớ bài học cùng Ngài: “Anh em hãy học cùng Tôi, vì Tôi có lòng hiền hậu và khiêm nhường”.

Vậy thì, đối với tôi, Đức Giêsu Kitô là ai? Sau khi đã tin vào Chúa một thời gian, ta vẫn có thể đặt lại câu hỏi này: Bấy lâu nay, Đức Giêsu là ai đối với tôi? Đức Giêsu không thay đổi, “hôm qua cũng như hôm nay và mãi mãi” Ngài là Đấng Cứu Độ duy nhất. Nhưng mỗi ngày, sau mỗi biến cố, có khi ta lại khám phá ra những nét mới mẻ nơi sự phong phú của Ngài. Đời ta luôn là một chuỗi những câu trả lời cho câu hỏi của Chúa Giêsu: “Còn con, con bảo Thầy là ai?”. Và cuộc đời của ta sẽ chuyển biến tuỳ theo câu trả lời này của mình.

Trong đêm canh thức với hai triệu bạn trẻ từ các nước trên thế giới về Rôma tham dự Đại Hội Giới Trẻ Thế Giới lần thứ 15 (15-20/8/2000) Đức Giáo Hoàng Gioan – Phaolô II đã hỏi lại các bạn trẻ câu hỏi của Chúa Giêsu: “Các con nói Đức Giêsu là ai?” – Có khó tin trong thế giới hôm nay không? Có khó tin trong Ngàn Năm Thứ Ba này không? Vâng, khó đấy. Không cần phải dấu diếm điều này. Khó khăn, nhưng với sự trợ giúp của ơn thánh, điều đó vẫn có thể làm được, như Chúa Giêsu đã giả thích cho Phêrô: “Chẳng phải bởi xác thịt hay máu huyết đã mạc khải cho anh điều đó, nhưng là Cha Thầy, Đấng ngự trên trời”(Mt 16,17).

“Ngày nay, để tin vào Chúa Giêsu, để theo Chúa như Phêrô, Tôma, các Tông Đồ tiền khởi và các chứng nhân, như trong quá khứ, đòi hỏi chúng ta phải lựa chọn một lập trường, sự lựa chọn này nhiều khi gian nan đến độ là một cuộc tử đạo mới: cuộc tử đạo của những người, hiện tại cũng như quá khứ, được mời gọi lội ngược giòng chảy để đi theo Thầy Chí Thánh”… Hôm nay các bạn tụ họp nơi đây để tuyên xưng rằng trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành trong thế kỷ này, chúng ta sẽ không để mình trở thành dụng cụ của bạo lực và tàn phá. Chúng ta sẽ đấu tranh gìn giữ hoà bình dù có phải hy sinh tính mạng. Chúng ta sẽ không thối lui trước một thế giới mà người ta còn chết vì đói, thất học và không có việc làm. Chúng ta sẽ bảo vệ sự sống ở mỗi thời kỳ của nó. Chúng ta sẽ chiến đấu tới cùng để làm trái đất này dễ sống hơn cho mọi người”.

Các bạn trẻ thân mến của thế kỷ đang bắt đầu, khi nói “vâng” với Chúa Giêsu, các bạn có thể nói “vâng” với tất cả các lý tưởng cao đẹp của các bạn. Tôi cầu xin Chúa Giêsu thống trị trong lòng các bạn và trong tất cả nhân loại trong thế kỷ mới này cũng như trong ngàn năm mới này. Đừng sợ phó thác cho Ngài. Ngài sẽ dẫn dắt các bạn, sẽ ban cho các bạn sức mạnh để theo Ngài trong mọi ngày và trong mọi tình huống.

Cầu xin Đức Mẹ Rất Thánh, người Trinh Nữ nói “Xin vâng” với Thiên Chúa trong suốt cuộc đời Người, xin Thánh Phêrô và Phaolô và các Thánh đã thắp sáng cuộc hành trình của Giáo Hội qua mọi thế hệ, gìn giữ các bạn luôn trung tín với quyết tâm thánh thiện này (ĐGH Gioan Phaolô II 19/8/200).

14. Vấn nạn đau khổ – Lm. Phêrô Bùi Quang Tuấn

“Con Người phải chịu nhiều đau khổ, và bị hàng niên trưởng và các thượng tế cùng ký lục phế thải, bị giết đi, và sau ba ngày sẽ sống lại”

Từ xưa đến nay một vấn đề gai góc, nan giải và làm cho nhiều người thất vọng nhất là vấn đề đau khổ. Con người sinh ra bắt đầu bằng tiếng khóc, rồi trải qua cuộc đời với đầy vơi đắng cay và nước mắt, để cuối cùng, nằm xuống và được đưa đi giữa những tiếng khóc, có khi chân thật, có lúc giả dối của kẻ khác. Cho nên không lạ gì khi có người than thở: “Đời là bể khổ.”

Nhưng tại sao đời lại là bể khổ? Có lẽ câu hỏi này đã được các nhà hiền triết từ bao đời nay bóp óc tìm câu giải đáp, nhưng rồi đâu vẫn hoàn đó, đau khổ vẫn là khổ đau. Đau khổ vẫn là một thực trạng trong kiếp sống con người.

Thế rồi vì không hiểu được lý do cũng như không tìm được câu trả lời thích đáng cho vấn đề đau khổ, nên người ta không chấp nhận và tìm mọi cách để hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt nó. Thậm chí, lắm khi người ta cũng đã hủy diệt luôn kẻ đang gánh chịu đau khổ. Đã có lần chính phủ Nhật ra lệnh tập trung tất cả mọi người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo ngoài khơi Thái bình Dương, rồi tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo cùng những người mắc bệnh phong cùi trên đó. Đã có lần Hitler đã ra lệnh cho bác sĩ giám đốc bệnh viện Bethel thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh thần kinh, không muốn sự hoạn nạn khốn cùng của họ đè nặng trên “dân tộc và quốc gia.” Đã có vô số lần, chính vì không chịu đựng được đau khổ, hay sâu xa hơn, bởi vì không tìm thấy chân lý trong những khổ đau nên đã có không biết bao bạn trẻ cũng như bạn già tự chấm dứt cuộc đời, đi tìm cái chết để mong đạt được một điều duy nhất: chấm dứt khổ đau.

Chắc chắn không ai có thể đem lại cho con người một câu trả lời thoả đáng ngoài Thiên Chúa. Không ai minh chứng một cách sâu xa và hùng hồn ý nghĩa của sự khổ đau ngoài Thượng đế, được tỏ hiện nơi con người của Chúa Giêsu, Đấng mà Tiên tri Isaia đã gọi là “Tôi tớ Đau khổ của Giavê”.

Nhìn vào con người của Đức Giêsu, người ta phải tự hỏi tại sao một Thiên Chúa toàn năng toàn phép lại chọn lựa con đường khổ đau để cứu nhân loại? Tại sao Ngài cũng đã sinh ra với tiếng khóc, trải qua kiếp sống với những thăng trầm, và cuối cùng chịu chết nhục nhằn tận cùng trên khổ giá, giữa bao nước mắt thảm thiết của những người thân quen?

Càng suy gẫm câu hỏi trên người ta càng c&oacoacute; thể khám phá thâm sâu chân lý và ý nghĩa của cuộc đời. Nhưng đây không phải là cuộc đời của bể khổ, song là của bể tình, một biển tình vời vợi. Càng nhìn vào những gì Đức Kitô đã chịu, và qua ánh sáng Phúc Âm, con người càng hiểu ra nguyên do của khổ đau.

Thế thì nguyên do của đau khổ là gì? Xin thưa chính là TỘI. Thưở tạo thiên lập địa con người đã hạnh phúc biết mấy. Mọi sự tốt đẹp biết bao. Kinh Thánh đã xác nhận: tất cả mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp-đẹp từ trăng sao trên trời đến muôn loài cây cỏ dưới đất, đẹp từ con người cho đến muông chim cầm thú, đẹp từ cuộc sống loài người cho đến cuộc sống loài vật.

Ấy thế mà điều tươi đẹp đó đã bị tan nát. Tan nát vì tội. Thánh Phaolô đã viết, “Cũng như vì một người, mà sự tội đã nhập vào trần gian, và vị tội thì sự chết nữa; và như vậy sự chết lan tràn qua hết mọi người” (Rm 5:12). Nói cách khác tội đã kéo theo khổ đau và đau khổ tận cùng chính là sự chết.

Vì tội mà đời mất đẹp, hồn mất vui. Vì tội mà đời mới là bể khổ đấy thôi!

Thế nhưng, vì “là Đấng trung tín và giàu lòng xót thương,” Thiên Chúa không thể không cứu con người. Từ trong Xót-Thương mà Đức Giêsu đã ra đời. Ngài đến bằng con đường đau khổ, và rồi đã chết trong đau khổ để cứu con người. Một linh mục từng suy niệm rằng: “Đời sống Chúa Giêsu là một đời sống đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận, Ngài mong chờ, bởi vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.”

“Không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.” Đúng lắm! Thế nhưng nếu chỉ nhìn vào những đớn đau thể xác cùng trí lòng của Đức Giêsu và nghĩ rằng đau khổ của một người đã làm nên ơn cứu độ cho muôn người thì cũng còn thiếu sót lắm. Bởi vì đọc kỹ Thánh kinh sẽ thấy trên đồi Golgotha có tới ba người chịu đau khổ chứ đâu phải một người. Cả hai tên trộm cướp nữa chứ đâu phải một mình Đức Giêsu. Thế nhưng cả ba người cùng chịu đau khổ, cả ba người cùng chịu cái chết trần truồng nhục nhã, nhưng chỉ một người mang ơn cứu độ đến cho toàn nhân loại. Lý do là vì sự khổ đau của người đó đã được kết tinh trong tình yêu. Nói cách khác vì quá yêu thương nhân loại nên Thiên Chúa đã mang lên mình mọi tội lỗi con người, mọi căn nguyên đau khổ, để đóng đinh chúng vào thập giá; trước là giải thoát nhân loại khỏi sự thống trị của tội, sau là thánh hoá sự đau khổ, để rồi từ nay đau khổ có một chỗ đứng-một giá trị mới trong đời sống con người; giá trị đó chính là nếu đau khổ được ướp đượm trong tình yêu, thì nó sẽ trở thành ân phúc cứu độ.

Đã có không biết bao nhiêu các nhà hiền triết, văn hào thông thái bó tay trước vấn nạn đau khổ, và cũng đã có không biết bao nhiêu nhân vật lừng danh lẫn thấp hèn đã thất vọng, đầu hàng trước khổ đau. Nhưng chính nhờ Đức Giêsu và qua ánh sáng của Lời Ngài mà ta không còn thất vọng. Ta thấy được rằng trong sự chết có mầm sự sống, trong gian lao có tia sáng của chiến thắng vinh quang, trong đau khổ có chồi non của hạnh phúc, nếu như sự chết, nỗi gian lao và đau khổ mà ta đang mang đó có nền tảng của yêu thương: yêu thương Đức Kitô và yêu thương các linh hồn.

Thế nên, mỗi khi gặp đau khổ, ta đừng thất vọng, buông trôi, cũng đừng chửi trời rủa đất, cũng đừng trách móc người khác hoặc chính mình, cũng đừng như Phêrô đã can trách Chúa khi nghe nói đến khổ đau (Mc 8:32), song hãy đưa vào khổ đau một chút hương vị thương yêu, bằng việc than thưa với Ngài: “Lạy Chúa, con xin kết hiệp đau khổ của con với khổ đau của Chúa, để làm sáng danh Chúa và cứu các linh hồn.” Chắc chắn nỗi khổ đau sẽ không còn là một thực tại vô giá trị hoặc đáng nguyền rủa, song nó đã trở thành phần ơn cứu độ mà Chúa Giêsu muốn ban xuống cho nhân trần.

Từ ngày Đức Giêsu dùng thân xác mình để thánh hiến sự khổ đau của con người cho đến nay, đã có hàng triệu tâm hồn được nung đốt bởi lửa yêu thương đến độ dám đón nhận mọi hy sinh, gian lao và khó nhọc, vì muốn mang ơn cứu độ đến cho mình và tha nhân. Trong số đó, gương mặt đáng kể nhất phải là gương mặt của Thánh Phaolô tông đồ. Thánh nhân đã làm mọi sự trong yêu thương, chấp nhận mọi gian nan trái ý trong tình mến. Ngài viết: “Chúng tôi bị ép dồn mọi mặt, nhưng không bị đè bẹp; hoang mang, nhưng không bị bỏ rơi; bị quật ngã, nhưng không bị tiêu diệt. Chúng tôi luôn mang nơi thân mình cuộc thương khó của Đức Giêsu, để sự sống của Đức Giêsu cũng được biểu lộ nơi thân xác phẳi chết của chúng tôi. Như thế, sự chết hoạt động nơi chúng tôi, còn sự sống thì lại hoạt động nơi anh em” (2 Cr 4:8-12).

Đồng hành với Thánh Phaolô là hàng vạn tâm hồn nhiệt thành rao giảng để mở mang Nước Trời, trong đó có bạn và tôi. Cũng như Thánh Nhân, chúng ta chỉ tham vọng một điều là “làm đẹp lòng Chúa” (2 Cr 5;8b).

15. Thiên hạ nói Thầy là ai? – Noel Quesson.

Năm 1904, Hàn lâm viện Hoàng gia Anh đã tổ chức một cuộc triển lãm, và họa sĩ Cô-xê (Smith Kosse) đã trưng bày một bức ảnh tựa đề: “Người bị khinh chê chối bỏ”. Họa sĩ vẽ Chúa Giêsu đứng trước nhà thờ chính tóa Thánh Phaolô, trong một khu phố đông đúc ở trung tâm Luân đôn, nhưng không một ai để ý tới Chúa. Một người đàn ông vừa đi vừa đọc báo, suýt đâm thẳng vào Chúa. Một khoa học gia bận bịu với những ống nghiệm, không nhìn lên Chúa. Một chức sắc trong hàng giáo phẩm hiên ngang ngẩng đầu tiến bước, nhưng không thấy Đức Kitô. Có một nhà thần học đang hăng say thuyết minh về Đức Kitô mà không nhìn về Người. Duy chỉ có một nữ tu nhìn về Chúa, nhưng vẫn tiếp tục đi con đường của mình.

Ông Barclay (William Barclay), một học giả Kinh Thánh nổi tiếng đã bình luận về bức họa: “Những hoàn cảnh này thường xảy ra trong cuộc sống hôm nay. Nếu Đức Kitô tái xuất hiện, có lẽ cũng chả ai chú ý tới. Người ta còn bận tâm về đủ thứ chuyện cao sâu hơn là việc lưu tâm tới Chúa hoặc theo dõi Lời Chúa. Chuyện đó lạ đời, nhưng lại thực sự xảy ra ngay lần Chúa xuống trần gian hai ngàn năm trước. Sau một thời gian Chúa xuất hiện rao giảng Tin Mừng Cứu độ. Người đã làm bao phép lạ sôi nổi, gây chấn động trong dân chúng, rồi Chúa hỏi các môn đệ xem người ta bảo Chúa là ai, thì mỗi người lại nói mỗi khác. Người thì bảo là Gioan Tẩy Giả Phục Sinh, người nói là Êli, người khác bảo là một ngôn sứ… Tất cả nói đúng nhưng chưa đủ. Chỉ có Phêrô mới có thể nói đúng và đầy đủ về Chúa: “Thầy là Đấng Cứu Thế”.

Lời tuyên bố của Phêrô là câu trả lời Chúa Giêsu muốn có. Nhưng Chúa cũng nói ngay đó là do Cha trên trời tỏ bày cho, chứ không phải nhờ học hỏi hay nghiên cứu. Phêrô và các Tông đồ được ơn soi sáng, được dạy dỗ và hướng dẫn để hiểu biết sự thật về Đức Kitô, vì các ông là môn đệ Chúa, sẽ tiếp tục sự nghiệp Chúa nơi trần thế. Lời tuyên bố này rõ ràng là một ơn mạc khải, vì chính Phêrô nói ra mà cũng không hiểu tường tận về lời mình nói. Ngay lúc đó Chúa Giêsu đã nói cho các môn đệ về số phận của Người. Chúa nói sẽ chịu đau khổ nhiều, bị bắt, bị hành hạ, bị giết chết, nhưng sau ba ngày sẽ sống lại. Nghe vậy, các môn đệ khó chịu, các ông đã không để ý tới việc Chúa sẽ sống lại, và cho là Chúa thất bại, thua kẻ thù. Vì thế, Phêrô kéo Chúa ra một chỗ và can ngăn Chúa đừng nói vậy, đừng để chuyện đó xảy ra. Vì thế, Chúa Giêsu nổi giận mắng ông: “Satan, hãy lui đi!”.

Chúa Cứu Thế sẽ cứu chuộc trần gian bằng thập giá. Đó là điều quan trọng vì Chúa đòi buộc các môn đệ của Người cũng đi con đường này: “Ai muốn theo Thầy hãy bỏ mình đi, vác thập giá mà theo. Vì ai muốn cứu mạng mình thì sẽ mất. Còn ai sẵn sàng bỏ mạng sống vì Thầy và vì Tin Mừng thì sẽ cứu được sự sống mình”.

Lạy Chúa, xin giúp chúng con hiểu biết Chúa hơn để chúng con biết vác thập giá đi theo Chúa và được vào hưởng vinh quang với Chúa.

16. Kitô-hữu là ai?

Như chúng ta đã biết: qua lời giảng dạy, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình, Chúa Giêsu đã trở thành một vấn đề, một câu hỏi cho những kẻ còn nghi ngờ về Ngài. Vậy Ngài là ai? Kẻ thì bảo Ngài là Êlia, là Gioan Tẩy giả, là một tiên tri. Mỗi người một câu trả lời. Nhưng điều quan trọng chính là niềm xác tín vào Chúa của mỗi người chúng ta, bởi vì chính Chúa đã hỏi các môn đệ:

– Còn các con, các con bảo Thầy là ai?

Câu hỏi ấy Chúa cũng không ngừng đặt ra cho chúng ta ngày hôm nay và qua chúng ta, mọi người cũng sẽ tiếp tục tự hỏi:

– Kitô hữu, bạn là ai?

Đúng thế, người Kitô hữu qua lời nói, qua việc làm và nhất là qua cuộc sống của mình phải là một câu hỏi cho những người chung quanh. Dù âm thầm nhỏ bé đến đâu chăng nữa, thì đời sống của người Kitô hữu phải làm cho những người chung quanh thắc mắc.

Dĩ nhiên câu hỏi càng trở nên khẩn thiết hơn khi cuộc sống của người Kitô hữu mang tính cách chứng nhân giữa một xã hội đầy giành giật và bon chen, đầy bạo lực và bất công.

Đời sống của họ sẽ là một câu hỏi nếu như họ thực thi tinh thần nghèo khó, chấp nhận thua thiệt mất mát hơn là bán đứng lương tâm của mình để chạy theo những lợi lộc bất chính.

Có những kẻ đã lấy hận thù làm luật sống, thì người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi, nếu như họ vẫn yêu thương mọi người, kể cả kẻ thù địch và bước theo Chúa cho đến cùng.

Giữa một xã hội mà nhiều người đang buông xuôi thất vọng, người Kitô hữu mãi mãi là một câu hỏi nếu họ biết sống lạc quan, tin tưởng vào một Đấng có tình yêu thương trải dài trong suốt lịch sử con người.

Giữa một xã hội mà sự thành thật đã trở nên như một đồ dùng xa xỉ, người Kitô hữu sẽ mãi mãi là một câu hỏi nếu họ vẫn tiếp tục sống tử tế, cư xử tốt đẹp với mọi người.

Sống như thế quả là một đòi hỏi cam go, nhưng đó không chỉ là một cố gắng suông, mà còn là kết quả của việc chúng ta gắn bó mật thiết với Chúa. Bởi vì không có ơn Ngài trợ giúp, chúng ta sẽ không bao giờ thực hiện được như vậy.

Kết thúc thông điệp “Hòa Bình Trên Thế Giới”, Đức Thánh Cha Gioan 23, đã viết như sau: Mỗi người Kitô hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, một tụ điểm của tình yêu, một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Người Kitô hữu sẽ đóng trọn vai trò ấy hơn khi họ còn sống kết hiệp mật thiết với Thiên Chúa. Sống trọn vẹn những cam kết trên, thì quả thật người Kitô hữu là một thách thức, một câu hỏi đối với người khác…

Đúng thế, người Kitô hữu không sống cho mình, nhưng sống cho người khác.

Một mảnh sao băng chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó.

Một hạt men nhỏ bé vô danh mất hút trong đống bột, nhưng cũng đủ làm dạy cả khối bột.

Sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo nên những ấn tượng tốt nơi người khác, nếu như chúng ta biết sống gắn bó mật thiết với Chúa.

Lý tưởng là như vậy, còn trong thực tế thì sao? Liệu cuộc sống của chúng ta đã trở thành một câu hỏi, một vấn đề cho những người chung quanh phải băn khoăn và suy nghĩ hay chưa?

17. Chọn lựa một con đường

Trong quyển sách “Niềm vui sống đạo”, Đức Cố Hồng Y Phanxicô Xaviê Nguyễn Văn Thuận đã kể ra được 10 “khuyết điểm” của Chúa Giêsu. Và ngài nói là ngài yêu lắm 10 “khuyết điểm” ấy. Một trong 10 “khuyết điểm” mà Chúa Giêsu mắc phải Ngài “không biết làm kinh tế”. Chúa Giêsu đã coi 1=99. Khi Ngài thấy mất một con chiên trong đàn thì lại bỏ 99 con kia lại để đi tìm cho bằng được con chiên bị mất. Hơn nữa, Chúa Giêsu cũng không biết cách tiếp thị và quảng cáo. Quảng cáo mời gọi người ta đến với mình thì phải tìm cái gì đó hấp dẫn và lôi cuốn bằng cách “tô son” lên những điều mình nói một chút. Đằng này Chúa Giêsu lại nói: “Ai muốn theo tôi, thì hãy từ bỏ mình, vác thập mình mà theo” (Mc 8,34). Quảng cáo và chiêu mộ lính kiểu này thì “thua” là cái chắc! Bởi lẽ, nghe nói đến thập giá thì ai mà chẳng sợ. Chẳng ai háo hức ôm lấy thập giá vào mình bao giờ! Hơn nữa, theo Thầy tưởng đâu được cái gì hấp dẫn một chút như lãnh vài triệu đồng một tháng, được người ta kính trọng, hoặc có địa vị cao trong xã hội hay cái gì đại loại như thế. Chứ theo Thầy mà chỉ có vác thập giá thôi thì dại gì mà liều mạng như thế! Như vậy, xem ra Chúa Giêsu dở hơn con người ngày nay trong chuyện làm ăn và quảng cáo nhiều lắm!

Nhưng Chúa Giêsu không đến trần gian để làm kinh tế! Ngài cũng không biết dùng ngôn ngữ của quảng cáo của con người thường làm để tô son cho mình và sứ vụ của mình. Ngài đến trần gian với một sứ mạng duy nhất là “nói lên Sự thật, sống cho Sự thật và làm chứng cho Sự thật” (x. Ga 18,37). Ngài đã nói như thế trước mặt tổng trấn Philatô. Và đặc biệt, trong những năm tháng ra đi rao giảng Tin mừng Nước Thiên Chúa, Ngài đã từng lớn tiếng nói rằng: “Sự thật sẽ giải phóng các ngươi” (Ga 8,32). Philatô đã hỏi Chúa Giêsu: “Sự thật là cái gì?”. Nhưng Chúa đã không trả lời ông ta câu hỏi đó. Bởi lẽ, Sự thật chính là bản thân của Ngài. Ngài là hiện thân của Sự thật. Từng lời nói, từng hành động và trọn cuộc sống của Ngài đều là Sự thật trọn hảo!

Tin mừng hôm nay chỉ cho chúng ta thấy có rất nhiều nội dung, nhiều vấn đề nói lên Sự thật nơi Thiên Chúa. Nhưng tôi xin chọn câu nói mà Chúa Giêsu xem ra rất thao thức, rất tha thiết mời gọi chúng ta thực hiện nó trong cuộc sống của chúng ta. Ngài nói rất rõ rằng: “Quả thật, ai muốn cứu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy” (Mc 8,35). Đó là sự thật, một Sự thật trọn hảo dành cho những ai dám dấn thân vào con đường của sự hy sinh và từ bỏ- Con đường Thập giá.

Có lẽ việc chọn lựa cho mình một con đường sống là cần kíp và chính đáng nhất trong cuộc đời của mỗi con người. Theo thói thường thì ai cũng muốn có một cuộc sống dễ dàng, một cuộc sống tiện nghi, sung túc và vui vẻ…Nhưng có điều là một cuộc sống dù đáng ước mơ như thế cũng không có gì đảm bảo cho con người ta được sống hạnh phúc. Vì hạnh phúc đích thực không thể tìm thấy được nơi cuộc sống ở trần gian. Thế nhưng, nhiều người lại say mê và đi ra sức tìm kiếm để sở hữu nó! Biết bao nhiêu cố gắng và khó nhọc của con người nhằm tìm kiếm và giữ lại hạnh phúc trần gian đều tan biến. Bởi vì, “con người từ đất mà ra thì cũng phải trở về với đất bụi” (x. St 3, 19). Và con người đã không mang gì vào trần gian thì cũng đừng mong đem gì ra khỏi chốn gian trần. Điều chắc chắn duy nhất là: “ba tấc đất mới thật là nhà, nơi nó ở muôn đời muôn kiếp” (Tv 49, 12).

Con đường đưa con người tới hạnh phúc thật chính là con đường “liều mất mạng sống mình vì Chúa Giêsu và vì Tin mừng”. Nói cách khác, đó là con đường của Thập giá. “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất”. Kẻ yêu mạng sống mình thì chỉ biết sống cho mình, muốn được mọi người nhìn nhận và phục vụ cho mình. Đó là con đường sống được lót bằng những chiếc thảm hoa êm ái và rực rỡ nhưng sẽ dẫn con người ích kỷ đi tới hố diệt vong. Thật bất hạnh cho những người chỉ biết yêu mình, qui hướng về mình và sống cho riêng mình!

Trong Thần thoại Hy Lạp có kể câu chuyện về một anh chàng có tên là Narcise. Narcise là một chàng trai trẻ đẹp không còn chỗ nào chê được, và cũng không có dung mạo của ai có thể so sánh với anh ta được. Anh ta cũng nhận ra điều đó nên rất tự hào về chính mình. Dần dần anh ta khám phá ra là không ai xứng đáng để anh ta kết bạn cả. Cuối cùng, anh ta chỉ còn cách là quay trở lại để yêu chính mình. Anh ta đã yêu mình cách tha thiết và say mê mình ngây ngất đến độ quên hết mọi sự. Ngày đêm lo tìm cách để nhìn ngắm mình cho đã thèm! Bất cứ nơi đâu có thể soi mình được là anh ta không tiếc thời gian để nhìn ngắm mình cho thoả lòng khao khát. Một hôm, anh ta đi ngang qua một cái giếng sâu, có nước rất trong xanh. Anh chàng Narcise liền soi mình dưới lòng giếng sâu. Tiếc thay, vì không kìm chế được lòng say mê vẻ đẹp của mình, nên anh ta đã lao mình xuống lòng giếng để ôm lấy mình. Nhưng khốn khổ thay, anh ta đã chết chìm một mình trong lòng giếng ấy.

Câu chuyện trên muốn đem đến cho chúng ta một thông điệp này là: kẻ nào quá yêu mình và say mê mình thì khó có thể tránh được cái chết trong cô đơn và tủi nhục. Đó cũng chính là sứ điệp mà Tin mừng hôm nay gửi đến chúng ta: “Ai yêu mạng sống mình thì sẽ mất. Còn ai liều mất mạng sống mình vì tôi và vì Tin mừng, thì sẽ cứu được mạng sống ấy”.

Chúng ta cầu xin Chúa ban cho chúng ta biết can đảm chọn lấy con đường “thập giá” và vui vẻ vác lấy thập giá đời mình để theo Chúa đến cùng. “Vác thập giá” theo Chúa là chu toàn việc bổn phận của mình hằng ngày, là trung tín sống niềm tin tưởng phó thác vào Chúa qua mọi biến cố buồn vui trong cuộc sống của mình.

Ước gì Lời của Chúa hôm nay luôn vang vọng mãi trong từng ngày sống của chúng ta để chúng ta để chúng ta được sáng suốt nhìn thấy con đường mà Chúa Giêsu đang mời gọi và chờ đợi ta bước theo Ngài, ngõ hầu mai sau được Chúa cho đứng vào hàng ngũ những người Chúa chọn và tìm được sự sống đời đời làm gia nghiệp. Amen.

18. Đức Kitô.

Nhóm Mười Hai, tức là các tông đồ, sau một thời gian dài được ở bên Chúa, được nghe những lời Chúa giảng dạy, và được chứng kiến những việc Chúa làm, nay đến Chúa muốn các ông phải dứt khoát lập trường, phải bày tỏ lòng tin của các ông. Nhưng đây cũng là khúc quanh quan trọng: Chúa bắt đầu tỏ ra cho các môn đệ biết con đường đau khổ Ngài phải đi để hoàn thành sứ mạng. Bởi vậy việc ông Phêrô tuyên xưng lòng tin và việc Chúa Giêsu báo trước con đường đau khổ của Ngài là một biến cố bản lề trong quá trình thi hành sứ mạng của Chúa cũng như trong quá trình huấn luyện các môn đệ, vì khi nói về con đường đau khổ của Ngài thì Chúa cũng nói về con đường mà những ai tin Ngài phải đi. Đó là nội dung bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta có thể dễ dàng nhận ra ba điều rõ ràng: Thứ nhất, Chúa Giêsu hỏi các môn đệ: dân chúng nói Ngài là ai và chính các ông nói Ngài là ai? Thứ hai, Chúa Giêsu báo trước cho các môn đệ biết về con đường đau khổ của Ngài. Thứ ba, Chúa Giêsu cho biết đây cũng là con đường của các môn đệ và của mọi người khi đi theo Ngài. Sau đây chúng ta chỉ tìm hiểu điều thứ nhất mà thôi.

Dân chúng nói Chúa Giêsu là ai và các môn đệ nói Chúa Giêsu là ai? Từ hai câu hỏi của Chúa chúng ta có thể đặt ra hai câu hỏi cho chúng ta: chúng ta tự hỏi và tự trả lời: đối với tôi, Đức Kitô là ai? và đối với mọi người, tôi là ai? Trước hết, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Đây là một câu hỏi quan trọng, câu hỏi này dẫn chúng ta vào việc kiểm điểm niềm tin và cách sống của mình: có thật chúng ta tin Chúa Giêsu là Đấng Kitô của Thiên Chúa, nghĩa là Đấng được Thiên Chúa sai đến để cứu chuộc chúng ta và chỉ cho chúng ta con đường sống không? Nếu tin như thế thì cuộc sống của chúng ta sẽ tốt đẹp, hay chúng ta vẫn tin một đàng, sống một nẻo, xem ra niềm tin và cuộc sống là hai thực thể tách rời nhau, không ăn nhập gì với nhau.

Có thể nói, đối với một số không nhỏ người Công giáo, thì Đức Kitô vẫn chỉ là một khái niệm mông lung, mờ nhạt thuộc niềm tin. Vì thế, trả lời được câu hỏi: đối với tôi, Đức Kitô là ai? Không phải chỉ là chuyện kiến thức, sách vở, lặp lại những gì đã đọc được trong sách báo hay nghe được qua các bài giảng, nhưng trả lời được câu hỏi ấy chính là chuyện của cuộc sống, của chọn lựa cá nhân thâm tín và dấn thân.

Chúng ta hãy nhìn vào ông Nây Am-troong, ông là một phi hành gia đầu tiên của Mỹ đã đặt chân lên mặt trăng ngày 20.7.1969. Khi còn là một sinh viên, ông đã ghi trong cuốn sổ tay câu hỏi của Chúa Giêsu: “Anh em bảo Thầy là ai?” và ông đã trả lời: “Ngài là người không hề phạm tội, là người vị tha, là người biết quan tâm săn sóc kẻ khác, là người gần gũi Thiên Chúa”. Như vậy, ông Am-troong đã không trả lời theo thần học hay giáo lý cho câu hỏi “Anh em bảo Thầy là ai?”, nhưng ông đã đưa ra câu trả lời của riêng mình, ông đã nhìn sâu vào tâm hồn mình và nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong cuộc sống riêng tư của ông.

Mỗi người chúng ta cũng phải làm giống như ông Am-troong, chúng ta cũng phải nhìn sâu trong tâm hồn mình để nói ra cảm nghiệm về Chúa Giêsu trong chính cuộc sống của mình, và cảm nghiệm này mang tính riêng tư không ai giống ai. Vậy, đối với tôi, Đức Kitô là ai? Nói chính xác hơn, mỗi người chúng ta hãy hỏi: “Hôm nay, đối với tôi, Đức Kitô là ai rồi?”. Phải thêm hai chữ “hôm nay” và chữ “rồi” vào câu hỏi, bởi vì “hôm nay” chứ không phải hôm qua hay hôm nào khác, và chữ “rồi” cũng thật quan trọng, bởi vì có thể trong quá khứ, chúng ta đã gặp Ngài, đã yêu Ngài hết mình, nhưng rồi hôm nay, Ngài thì không thay đổi, nhưng tình chúng ta yêu Ngài có đổi thay chăng? Thế nên, mỗi ngày chúng ta phải tự hỏi để đừng bao giờ Đức Kitô trở thành kỷ niệm, chỉ còn là một niềm tin trong quá khứ, để đừng bao giờ bỏ Ngài lủi thủi bước bên cạnh đời chúng ta.

Câu hỏi thứ hai, đối với mọi người, tôi là ai? trong những dòng cuối của sứ điệp “Hòa bình dưới thế”, Đức cố Giáo Hoàng Gioan XXIII, được mệnh danh là vị Giáo Hoàng nhân từ, dễ thương, đã đưa ra cho chúng ta một định nghĩa: thế nào là một người Kitô hữu chân chính như sau: “Mỗi người tín hữu trong thế giới là một mảnh sao băng, là một tụ điểm của tình yêu, là một thứ men sống động giữa những người anh em của mình. Nếu người tín hữu đóng trọn vai trò ấy, họ sẽ là người Kitô hữu chân chính”.

Sống trọn những cam kết trên quả thật người Kitô hữu luôn là một thách thức, một câu hỏi, một sự hiện diện quấy rầy đối với mọi người. Thực vậy, một mảnh sao băng khi chợt sáng lên rồi tắt lịm, nhưng cũng đủ thu hút cái nhìn của con người về một góc trời nào đó. Một hạt men bé nhỏ, mất hút trong khối bột, nhưng cũng đủ sức làm dậy nên cả khối bột. Một thể hiện yêu thương, dù nhẹ nhàng đơn giản cũng đủ sưởi ấm cõi lòng, đủ sức chinh phục hay cảm hóa bất cứ người nào. Như thế đó, sự hiện diện của người Kitô hữu luôn có sức thu hút, tạo được ảnh hưởng tốt cho người khác, với điều kiện họ phải sống đúng danh nghĩa người Kitô. Và như thế, qua cuộc sống của mình, sự hiện diện của chúng ta cũng luôn là một câu hỏi cho những người chung quanh, nghĩa là nhìn vào đời sống chúng ta, họ bảo chúng ta là ai?

Tóm lại, người ta có nhận ra tôi là người Kitô không? Nghĩa là sự hiện diện của chúng ta ở bất cứ nơi nào, gặp gỡ bất cứ ai, người ta có nhận ra chúng ta là người Kitô không? Không phải chúng ta tự xưng, tự giới thiệu mà cách sống của chúng ta khiến người khác phải đặt câu hỏi hoặc phải cảm phục đời sống tốt đẹp của chúng ta. Và như thế chúng ta đã trả lời được câu hỏi: đối với mọi người, tôi là ai? Tôi là một người Kitô hữu, đơn giản thế thôi.

19. Đau khổ.

Nhìn thấy Chúa Giêsu làm những phép lạ, nhiều người Do thái đã băn khoăn tự hỏi:

– Liệu Ngài có phải là Đấng cứu thế hay không?

Đã từ lâu họ sống dưới ách thống trị của đế quốc La mã, cho nên cũng đã từ lâu họ, trông chờ một đấng cứu thế đến giải phóng họ và đem lại cho quê hương họ sự phồn thịnh.

Sống trong một hoàn cảnh như vậy, các môn đệ phần nào cũng đã chia sẻ quan niệm ấy, thế nhưng Chúa Giêsu thì khác, Ngài đã không suy nghĩ và hành động như họ.

Sau phép lạ bánh hóa nhiều, nuôi sống năm ngàn người giữa chốn hoang vu. Dân chúng đã nồng nhiệt tung hô Chúa và họ muốn tôn Ngài lên làm vua. Trước ý đồ ấy, Chúa Giêsu đã trốn lên núi một mình.

Các môn đệ cũng không hơn gì những người Do thái. Trước khi Chúa Giêsu về trời, các ông đã hỏi Ngài:

– Phải chăng đã đến lúc Thày lập nước Israel?

Mặc dù nhiều lần Chúa Giêsu đã nói cho các ông biết Ngài không đến nhằm mục đích chính trị, nhưng đến để giải thoát con người khỏi tội lỗi và dẫn đưa họ về cùng Thiên Chúa, Đấng đã yêu thương họ.

Mặc dù các ông cũng đã tin, nhưng giấc mơ về nền độc lập của dân tộc vẫn âm ỉ cháy trong cõi lòng các ông.

Thái độ của Chúa Giêsu trước vấn đề quyền bính đã là một sự khó hiểu đối với các ông, huống nữa là vấn đề đau khổ, thập giá và cái chết của Ngài. Làm sao các ông có thể dễ dàng chấp nhận?

Thực vậy, bài Phúc Am hôm nay đã cho chúng ta thấy, sau khi Phêrô tuyên xưng đức tin, Chúa Giêsu đã nói trước cho các ông biết:

– Con Người sẽ đi lên Giêrusalem, ở đó Ngài sẽ phải đau khổ và sẽ phải chết, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.

Phản ứng của Phêrô thật là bộc trực và thẳng thắn, ông kéo Chúa Giêsu ra một chỗ và nói:

– Ước chi Thiên Chúa sẽ gìn giữ Thày để Thày khỏi phải như thế.

Có lẽ phản ứng của các tông đồ khác cũng như vậy. Một khi đã yêu mến Chúa, thì làm sao các ông có thể chấp nhận Ngài phải khổ đau. Hơn thế nữa, như mọi người Do thái khác, các ông quan niệm đau khổ là như một sự chúc dữ của Thiên Chúa.

Trước một người mù từ khi mới sinh, các ông đã chẳng hỏi Chúa Giêsu:

– Nó bị mù là do tội của nó hay là do tội của cha mẹ nó?

Chúa Giêsu hiểu điều ấy, nhưng Ngài cũng không thể chấp nhận để các ông làm cản trở chương trình tình thương của Thiên Chúa. Cuộc thương khó của Ngài phải được nhìn trong toàn bộ chương trình cứu độ mà Thiên Chúa đã ươm mơ từ muôn ngàn thuở trước.

Bởi đó Chúa Giêsu đã quở trách Phêrô:

– Hỡi satan hãy xéo đi, ngươi làm cản trở cho Ta vì ngươi chỉ nhìn thấy những việc của loài người mà chẳng nhìn thấy những việc của Thiên Chúa.

Ít lần sau Chúa Giêsu lại tiên báo một lần nữa cho các ông:

– Chẳng bao lâu nữa Con Người sẽ bị nộp vào tay người ta, họ sẽ giết chết Ngài, nhưng ngày thứ ba Ngài sẽ sống lại.

Lần này thì các ông không dám lên tiếng, nhưng Phúc âm đã ghi lại rằng:

– Các ông đã tỏ ra buồn bã.

Rồi cùng với thời gian, những sự việc đã xảy ra đúng như lời Chúa đã tiên báo: Ngài đã bị treo trên thập giá. Dưới mắt các ông thì đây là một thất bại ê chề.

Chính vì thế, hai môn đệ trên đường đi Emmaus đã nói với Chúa Giêsu:

– Chúng tôi hy vọng Ngài sẽ cứu thoát Israel, nhưng những sự kiện đau buồn ấy đã xảy ra ba ngày rồi.

Chỉ dưới sự soi dẫn của Chúa, các ông mới hiểu được rằng: Ngài sẽ phải đau khổ để được bước vào chốn vinh quang, và để đem lại cho chúng ta ơn cứu độ.

Còn chúng ta thì sao? Chúng ta có tìm thấy ý nghĩa đích thực của những đau khổ gặp phải, hay là chúng ta cũng đã phản ứng như Phêrô và các tông đồ ngày xưa?

20. Đau khổ.

Thời Chúa Giêsu, vác thập giá là một cực hình khổ nhất, nhưng thông dụng nhất mà người Rôma đế quốc đã đem áp dụng ở Do thái. Vậy nói tới thập giá, đối với thời Chúa Giêsu, là một khổ hình và chắc chắn chết nhục nhã. Người nào vác thập giá là người bị đưa tới pháp trường để chịu đóng đinh mình vào cây thập giá đó. Vác thập giá lên vai có nghĩa là bắt đầu đi đến chỗ chết. Vác thập giá cũng có nghĩa là bắt đầu đau khổ thực sự. Vì thế, những đau khổ trong cuộc đời chính là thập giá Chúa bảo chúng ta phải vác mà đi theo Ngài. Đây chính là vấn đề chúng ta muốn hiểu biết: vấn đề đau khổ trong cuộc đời.

Từ xưa đến nay, có một vấn đề gai góc, một vấn đề nan giải, một vấn đề làm cho nhiều người thắc mắc và thất vọng. Đó là vấn đề đau khổ. Người ta sinh ra trong tiếng khóc, trải qua cuộc đời đầy nước mắt, rồi âm thầm nằm xuống trong tiếng khóc chân thật hay giả dối của người khác. Cho nên, Kinh Thánh nói: “Đời là thung lũng nước mắt”. Đã là thung lũng nước mắt thì cũng là bể khổ, vì sao vậy? Xưa nay các nhà hiền triết đã nát óc đi tìm một câu trả lời thỏa đáng. Đức Phật Thích Ca đi tu cũng vì muốn tìm một câu trả lời cho câu hỏi gai góc ấy.

Không hiểu lý do sự đau khổ, người ta tìm cách hủy diệt người đau khổ mà họ cho là những chiếc gai phản tiến hóa. Đã có một thời chính phủ Nhật Bản ra lệnh tập trung tất cả những người mắc bệnh phong cùi trên một hòn đảo nằm ở giữa biển Thái Bình Dương và tưới xăng thiêu rụi cả hòn đảo chứa đầy bệnh nhân ấy. Họ mắc bệnh nan y, họ không có quyền sống. Trong thế chiến thứ hai, nhà độc tài Hitler đã ra lệnh cho giám đốc bệnh viện Bê-then thủ tiêu tất cả mọi bệnh nhân mắc bệnh tâm thần, vì họ là thành phần vô dụng, ăn hại xã hội và quốc gia. Không tin ở Thiên Chúa thì người ta không làm sao hiểu nổi vấn đề đau khổ. Và người ta có thể tuyệt vọng khi không làm sao tránh được đau khổ và bệnh tật. Văn hào vô thần Hen-ri đờ Mông-thơ-lan, thuộc hàn lâm viện Pháp, lúc về già, bị mù. Vì không chịu được sự đau khổ ấy, ông đã dùng súng lục bắn vào họng tự sát.

Vấn đề đau khổ, ai sẽ đem lại cho chúng ta một câu trả lời thỏa đáng? Chỉ có một Đấng là Chúa Giêsu mới có thể trả lời cho chúng ta. Và nhờ ánh sáng Tin Mừng của Chúa chúng ta mới hiểu được nguyên do của đau khổ, đó chính là tội lỗi. Đau khổ đã xuất hiện từ khi loài người bắt đầu phạm tội và sẽ còn mãi cho đến tận thế. Mở trang đầu của Kinh thánh, chúng ta thấy Chúa dựng nên vạn vật, chim trời, cá biển, cầm thú và con người, rồi Kinh Thánh kết luận: “Mọi sự Chúa dựng nên đều tốt đẹp, rất tốt đẹp”. Nhưng rồi chương trình tốt đẹp ấy đã bị đổ vỡ. Tội lỗi đã len vào thế gian. Và vì tội thì có sự chết nữa. Nghĩa là từ ngày nguyên tổ phạm tội thì đau khổ báo trước sự chết và sự chết đã ngự trị trên trần gian. Mỗi ngày có biết bao nhiêu tiếng khóc, có biết bao nhiêu dòng nước mắt. Mỗi ngày có hàng vạn người chết. Bản án còn vang lên: “Vì ngươi đã phạm tội thì trái đất sẽ sinh gai góc, ngươi phải làm ăn vất vả, đổ mồ hôi trán mới có ăn và ngươi là tro bụi thì sẽ hoàn về tro bụi”. Từ đó, đời là bể khổ, đời là thung lũng nước mắt. Đau khổ là do tội lỗi phát sinh. Chúa Giêsu đến trần gian, Ngài gánh lấy tội lỗi nhân loại. Nhờ sự chết và sống lại, Ngài đã cứu chúng ta khỏi tội lỗi. Nhưng Ngài không cất đi hình phạt của tội lỗi là gian nan đau khổ. Hơn nữa, Ngài dùng đau khổ làm giá cứu chuộc chúng ta. Vì thế, đời sống Chúa Giêsu là một đời đầy gian lao đau khổ. Cuộc sống ấy đi dần đến một cái chết ghê sợ nhất trên đời, nhưng Ngài chấp nhận. Ngài mong chờ nữa, vì không có máu đổ ra thì không có ơn cứu chuộc.

Chúa đã chịu đau khổ để đền tội chúng ta, thì Ngài cũng thánh hóa sự đau khổ để nêu gương sáng cho chúng ta. Hơn nữa, Ngài lấy sự nhẫn nại chịu đau khổ như là một điều kiện để theo Ngài, để làm môn đệ của Ngài: “Ai muốn theo tôi, hãy vác thập giá mình mà theo”. Từ đây không ai có thể tự hào là môn đệ Chúa mà không tham gia vào cuộc thương khó của Chúa, không vui lòng lãnh nhận phần đau khổ riêng tư của mình. Vì thế, khi gặp đau khổ, Chúa dạy chúng ta đừng buông xuôi, đừng thất vọng, đừng lồng lộn rủa trời, chửi đất mà hãy đến cầu xin với Chúa: Hãy đến với tôi, hỡi những ai khó nhọc và gánh nặng, tôi sẽ nâng đỡ bổ sức cho”.


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...