24/08/2022
1688

 

CHÚA NHẬT 22 THƯỜNG NIÊN_C

Lời Chúa: Hc 3,19-21.30-31; Dt 12,18-19.22-24a; Lc 14,1.7-14

 

Mục lục

1. Khiêm nhường và kiêu ngạo (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Hãy sống như Thầy Giêsu (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Khiêm hạ để thấy trời cao (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

4. Để ngồi chỗ cuối  (Bông Hồng Nhỏ, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

5. Đức khiêm nhường (Anna Cỏ May, Tập sinh MTG.Thủ Đức)

6. Khiêm tốn. (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

7. Khiêm nhường- (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

8. Ghế dành riêng  (Lm. Vũ Đình Tường)

9. Bài học từ nước  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

10. Người sau hết sẽ nên trước hết  (Lm. Phêrô Lê Văn Chính)

11. Vào ngồi chỗ cuối (PM. Cao Huy Hoàng)

12. Chỗ rốt hết  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

13. Hạ mình xuống  (Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng, OP)

14. Khiêm tốn là nhận ra chính mình  (Lm. An Phong)

15. Khiêm nhường, hiếu khách và luật lệ  (Lm. Đào Quang Chính)

16. Hãy ngồi chỗ cuối (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

17. Khiêm nhường. (Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh)

18. Tôi là người khiêm tốn nhất trần gian  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

19. Đối xử trong tâm tình khiêm hạ với người chung quanh (Lm. Trần Văn Trợ)

20. Hãy khiêm nhường  (Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển)


 

KHIÊM NHƯỜNG VÀ KIÊU NGẠO

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Một tác giả tu đức đã khẳng định: “Khiêm nhường là mẹ của các nhân đức”. Điều đó cho thấy, nếu chúng ta luyện được đức khiêm nhường, thì đương nhiên sẽ có các nhân đức khác. Nói cách khác, trong tiến trình nên hoàn thiện, chỉ cần có được đức khiêm nhường là đủ.

Khiêm nhường là tự hạ. Đó là định nghĩa của tác giả sách Huấn Ca (Bài đọc I). Nói như thế, chúng ta thấy Thiên Chúa là Đấng khiêm nhường theo đúng nghĩa nhất. Ngài tự hạ khi sáng tạo con người và muôn loài muôn vật, như một tác giả đã viết: qua công trình sáng tạo, Thiên Chúa giống như nước thuỷ triều, tự rút lui để nhường chỗ trống cho con người và các loài thụ tạo. Thiên Chúa còn tự hạ mình khi Ngài cúi xuống để tâm sự với con người. Những dòng tâm sự này được ghi lại trong Kinh Thánh. Kinh Thánh là câu chuyện tình giữa Thiên Chúa với con người. Câu chuyện tình ấy bao gồm những “hồi”, những “pha” gay cấn, nhưng cuối cùng thì lòng thương xót của Chúa vẫn như đại dương bao trùm tất cả, kể cả tội lỗi của loài người. Thiên Chúa tự hạ một cách sâu xa nhất qua màu nhiệm nhập thể. Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa đã mặc lấy thân phận loài người. Người giống như chúng ta mọi đàng, chỉ trừ tội lỗi. Người chấp nhận trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, sống nghèo khó, bị khinh miệt và kết án như một kẻ tội đồ.

Nếu Thiên Chúa khiêm nhường tự hạ, thì con người lại có xu hướng tự nâng mình lên. Thật là trớ trêu, tham vọng của ông bà Nguyên tổ! Ông bà đã muốn phủ nhận thân phận thụ tạo của mình để lên ngang hàng với Thiên Chúa. Ước vọng điên rồ của ông bà đã để lại hậu quả nghiêm trọng, đó là sự chết và đau khổ. Sự kiêu ngạo đã làm đổ vỡ mối tương quan giữa con người với Thiên Chúa và mối tương quan giữa con người với nhau. Kiêu ngạo cũng là nguyên nhân gây đổ vỡ biết bao gia đình cũng như gây nên xung đột. Thánh Luca kể lại với chúng ta, trong bối cảnh một bữa tiệc, trong khi những người biệt phái cố dò xét Chúa thì Chúa lại quan sát xem thái độ của họ. Nhân việc có nhiều người chọn chỗ sang cho mình, Chúa nói đến sự khiêm nhường tại bàn tiệc. Đương nhiên ai trong chúng ta cũng hiểu giáo huấn của Chúa không chỉ dừng lại ở chỗ ngồi nơi bàn tiệc, mà còn là cách ứng xử trong cuộc sống hằng ngày. Bởi lẽ theo tâm lý tự nhiên, ai cũng muốn mình trội nổi hơn người khác. Trong cuộc sống chung, ai cũng muốn cho lập trường của mình là nhất và cách sống của mình là mẫu mực. Qua hình ảnh chỗ ngồi tại bàn tiệc, Chúa muốn mỗi chúng ta hãy nghiêm túc suy tư về cách sống của mình trong gia đình, trong cộng đoàn và trong xã hội.

Lòng khiêm nhường đi đôi với bác ái. Vì vậy, trong phần tiếp theo của Bài Tin Mừng hôm nay, Chúa nói đến việc mời khách dự tiệc. Thông thường, người ta đối xử với nhau theo kiểu “hòn bấc quăng đi hòn chì quăng lại”, hoặc “thả con săn sắt bắt con cá rô”, có nghĩa là cho đi chút ít với ước mong nhận lại nhiều hơn. Trong khi đó Chúa lại dạy chúng ta những chuyện “ngược đời”: cho đi mà không mong nhận lại, hoặc có nhận lại, thì đó là phần thưởng ở trên trời mai sau, vào lúc các kẻ lành sống lại.

Khi sống khiêm nhường và chuyên tâm làm việc thiện, chúng ta đã được tham dự vào đời sống vĩnh cửu ngay khi còn đang sống trên trần gian. Tác giả thư gửi tín hữu Do Thái đã diễn tả đời sống của những người công chính. Họ đã tới núi Sion, thành trì của Thiên Chúa. Đây là cách diễn tả hạnh phúc và phần thưởng dành cho những ai yêu mến Chúa trong quan niệm của người Do Thái. Tác giả đã so sánh sự khác biệt giữa núi Sinai của Cựu ước với núi Sion của tương lai. Nếu ở núi Sinai, người Do Thái vừa ra khỏi Ai Cập được chứng kiến sấm chớp, mây mù, giông tố, thì ở núi Sion, họ được chiêm ngưỡng vinh quang Thiên Chúa hằng sống. Họ cũng được chiêm ngưỡng Đức Giêsu, Đấng đã hạ mình sống thân phận con người và được Thiên Chúa đặt làm trung gian duy nhất giữa Thiên Chúa và loài người. Ý thức được như thế, cuộc đời chúng ta sẽ có ý nghĩa hơn, vì dầu còn nhiều khó khăn gian khổ, chúng ta được sống trong tình thương của Chúa và hiệp thông với tất cả những ai yêu mến Ngài.

Một tác giả đã viết: “Có người thường xuyên bực bội than vãn cho rằng đất trước mặt mình chật chội quá. Nếu người ấy lui lại đàng sau một vài bước, sẽ thấy đất đằng trước mình rộng lớn hơn”. Người ta cũng thường nói: “Kiêu ngạo đến mấy cũng chẳng đủ, kiêm nhường bao nhiêu cũng chẳng thừa”. Vâng, nếu chúng ta biết sống khiêm tốn, cuộc sống này sẽ tốt đẹp hơn, tình yêu thương sẽ triển nở và mọi người sẽ sống thân thiện chan hòa.

Về mục lục

.

HÃY SỐNG NHƯ THẦY GIÊSU

Lm. Jos Tạ Duy Tuyền

Hôm qua tôi mới nói chuyện với một chị rất đạo đức. Chị nói rằng cha xứ của chị rất tuyệt vời. Giá mà các cha giống được như cha ấy thì người bên lương theo đạo hết! Chẳng có ai làm được như cha ấy! Tôi nói: Oh rất tốt! Vậy cha xứ chị dạy giáo lý và rửa tội được bao nhiêu người trong một năm? Chị nói: cha xứ con không có thời gian dạy giáo lý, nhưng người bên lương đến đông lắm? Tôi nói rằng: con số đông không quan trọng, quan trọng là họ đã đến để gặp Chúa hay chỉ muốn tìm phép lạ? Ngày xưa tôi ở Nam Cát Tiên mỗi lần phát gạo thì người bên lương vẫn đông gấp đôi bên đạo, nhưng họ đến để lấy lương thực chứ không phải để theo đạo, mà Chúa cũng không muốn người ta theo đạo vì phép lạ hay vì lương thực! Và tôi nói tiếp: thưa chị, các linh mục chúng tôi chỉ cố gắng trở nên giống như Chúa Giê-su thôi, và chúng tôi để Chúa dùng chúng tôi theo ý Chúa miễn sao danh Chúa được vinh hiển. Vì mỗi người Chúa ban một cách sống để mình tôn vinh Chúa trong khả năng của mình. Mỗi cha có một khả năng. Mỗi cha có một cách để truyền giáo. Điểm chung của họ là trở nên giống Thầy Chí Thánh Giê-su yêu thương và phục vụ.
Hôm nay, Chúa mời gọi chúng ta hãytrở nên giống Chúa trong khiêm nhu và bác ái.Khiêm nhu để đến với anh em, để sống hoà hợp và phục vụ anh em. Con đường kiêu ngạo chỉ dẫn đến sự xa rời anh em, và gây nên những đổ vỡ bởi đố kỵ ghen tương. Vượt lên trên sự khiêm nhu là tình yêu đại đồng với tha nhân. Không phân biệt giai cấp hay chủng tộc. Không phân biệt màu da sắc tộc, mỗi người đều được đón nhận trong yêu thương và kính trọng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới an vui thịnh vượng. Có như vậy, thế giới chúng ta đang sống mới đượm thắm tình yêu và rộn ràng niềm vui tiếng cười.
Thế nhưng, ở đời người ta vẫn thích khoe khoang, vẫn thích phô trương công đức của mình nơi đầu đường phố chợ. Con người vẫn thích làm trung tâm điểm của mọi người. Ngay cả các linh mục, vẫn có những người thích được cất nhắc lên chức này chức nọ hay ít ra cũng ở những chỗ phố thị rộn ràng mới cân xứng tài đức của mình. Lòng tự tôn, tính tự kiêu khiến họ luôn xem trọng mình, để cao mình đến mức độ trở thành lố bịch trước anh em.
Chúa Giê-su không bao giờ muốn có những môn đệ như thế! Chúa Giê-su từng thao thức cho các môn đệ mình đừng mắc phải tính giả hình của nhóm biệt phái tự kiêu. Ngài mong muốn các môn sinh luôn khiêm tốn để  dễ dàng cúi mình phục vụ bất cứ nơi đâu, bất cứ hoàn cảnh nào. . . Chúa mong muốn các môn sinh sống nghèo và gần gũi hòa đồng với người nghèo. Hãy sống đối xử tốt với người nghèo dù rằng họ chẳng có gì cho lại ta, nhưng họ vẫn là hình ảnh của Chúa, là anh em của ta, thế nên cần phải thương yêu họ như chính mình.
Nhưng đáng tiếc, vẫn có những người muốn thể hiện đẳng cấp ưu việt của mình bằng việc đi xe sang trọng, đến những nơi sang trọng và kết giao với những người sang trọng. Họ xấu hổ, mặc cảm khi đi chung với người nghèo. Tính tự tôn khiến họ xa lánh người nghèo và gần gũi kẻ quyền thế giầu có. Họ chỉ rao giảng cho người nghèo nhưng lạibỏ rơingười nghèo. Thế nên, người nghèo vẫn cô đơn, vẫn lẻ loi, vẫn sống trong tủi hận lầm than . . .Nhìn lại cách sống đôi khi mình lại chẳng bằng người bên lương. Tôi đã từng đến chữa bệnh thầy Tư Ngoan tại An Giang. Bệnh nhân rất đông, đa số người nghèo. Điều lạ là bếp ăn của thầy luôn có đồ ăn miễn phí cho người nghèo. Hàng trăm người tự lấy đồ ăn theo ý thích của mình. Thật ấm áp tình người. Thầy chữa bệnh cũng chẳng lấy tiền, chủ yếu là sống vì người nghèo và cho người nghèo.
Chúa Giê-su luôn sống nghèo và vì người nghèo. Liệurằng người môn đệ Chúa có dám sống cho người nghèo hay không? Các điểm hành hương của chúng ta đã có phòng ăn nhân ái cho người nghèo chưa? Rất tiếc là chưa, nhưng lại nhan nhản dịch vụ ăn ngủ, buôn bán tranh ảnh để kiếm tiền cho trung tâm. Rấtmong các điểm hành hương nên có những xuất ăn miễn phí không nhiều nhưng ít là vài trăm xuất cho những ngày cao điểm cũng là điều nên làm.
Ước gì đời sống ky-tô hữu chúng ta cũng phác họa lại chân dung tình yêu Chúa cho tha nhân. Xin cho chúng ta luôn khiêm tốn để sống gần gũi hòa nhập với đám đông nghèo khó. Xin đừng vì thói trưởng gia, thích xa hoa mà tự kiêu, xa lánh người nghèo luôn có ở bên. Amen

Về mục lục

.

KHIÊM HẠ ĐỂ THẤY TRỜI CAO

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Chỗ ngồi là một quan tâm đối với nhiều người hôm nay. Chỗ ngồi chưa quan trọng bằng việc đã nhận ra mình là ai và ngồi chỗ đó làm gì? Câu hỏi đó cần được trả lời: Khiêm hạ để thấy trời cao.

Khiêm hạ là một thái độ nhận ra được chính mình. Mình chẳng là gì, nếu Chúa chẳng ban cho. Mình chẳng làm được chi, nếu Chúa không thực hiện cho. Mình có thâu hoạch được gì, công của mình thì ít, được nhiều người góp sức và phần nhiều vẫn thuộc về Thiên Chúa. Như Mẹ Maria nhận ra điều ấy trong cuộc sống: “Chúa đã làm cho tôi những sự trọng đại” (Lc 1, 48)

Khiêm hạ để thấy mình dễ vỡ, chẳng ra sao, nếu Chúa không đưa tay gìn giữ:

“Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công. Thành kia mà Chúa không phòng giữ, uổng công người trấn thủ canh đêm.” (Tv127,1).

Khiêm tốn để nhận ra mình có giỏi cũng chưa phải là giỏi nhất và cũng không phải là giỏi mọi mặt. Con người vốn có nhiều giỏi nhất nên cũng cần có nhiều bàn tay góp sức, nhiều người chung chí hướng. Người khiêm tốn ở chỗ cao bao giờ cũng biết cám ơn những người đã cộng tác. Thánh Phao lô khuyên bảo: “Đừng làm điều gì vì lòng ích kỷ, hoặc vì hư vinh, nhưng hãy khiêm nhường, xem người khác đáng tôn trọng hơn mình. Mỗi người trong anh em đừng chỉ quan tâm đến lợi ích riêng của mình, nhưng phải quan tâm đến lợi ích của người khác nữa”(Pl 2, 3- 4)

Khiêm tốn để thấy trời cao.

Trong tâm tình tạ ơ của Chúa Giêsu với Chúa Cha, Chúa Giê su thưa: “Lạy Cha là Chúa Tể trời đất, con xin ngợi khen Cha, vì Cha đã giấu không cho bậc khôn ngoan thông thái biết những điều này, nhưng lại mặc khải cho những người bé mọn.” (Mt 11, 25). Khi vua Đavit dâng lên lời Thánh Vịnh 8, chắc hẳn vua Đavit đang ngước mắt ngắm tầng trời cao thẳm, với một tâm hồn bình an, dù trải qua nhiều sóng gió. Sự tĩnh lặng của cõi lòng và của thinh không làm say đắm lòng người, vua Đavit cất tiếng ca tụng: “Ngắm tầng trời tay Chúa sáng tạo, muôn trăng sao Chúa đã an bài, thì con người là chi, mà Chúa cần nhớ đến, phàm nhân là gì, mà Chúa phải bận tâm? (Tv 8, 4 – 5).

Trong lúc nhìn mình chẳng là gì, vua Đavit lại thấy con người lại quá quan trọng với Chúa. Có là chi mà muôn vật đựợc Chúa tín nhiệm trao cho quyền coi sóc vũ trụ Chúa dựng nên. Có là chi mà Chúa bận tâm xuống thế làm người. Ngẫm xem bao điều khi con người nhận ra bé nhỏ mà Chúa đã ban cho bao la hồng ân.

Đặc biệt Đức Maria cũng đã chiêm niệm Lời Chúa trong lịch sử của dân tộc và cuộc đời cá nhân để nhận ra: “Phận nữ tỳ hèn mọn, Người đoái thương nhìn tới” trong một chiều kích: “linh hồn tôi ngợi khen Thiên Chúa, thần trí tôi vui mừng trong Đấn cứu độ tôi” Lc 1, 46, 48).

Con người khiêm hạ nhìn ra bao điều hay, nhiều điều tốt đẹp và đặc biệt khám phá ra cả: “Trời xanh tường thuật vinh quang Thiên Chúa, không trung loan báo việc tay Người làm.” (Tv 19, 2)

Về mục lục

.

NGỒI GẦN BÊN CHÚA

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, khi trò chuyện với Chúa, ta thích chọn cho mình một chỗ ngồi thoải mái, dễ cầu nguyện nhất. Ở bên Chúa, ta được trải lòng, được Người dẫn vào những góc khuất trong tâm hồn. Ta nhận ra Lời Chúa đang nói với chính ta: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14, 11).

            Trong cuộc sống, nhiều khi ta băn khoăn chọn cho mình một vị trí trổi vượt, thích được đề cao, thích được coi trọng. Nhìn vào bữa tiệc tại nhà người Pharisêu, ta thấy khuôn mặt của những khách dự tiệc – họ là những người có nhiều băn khoăn. Ai cũng chọn cỗ nhất mà ngồi. Họ quan tâm đến cách mà người ta nhìn mình, vì thế càng ngồi vào cỗ nhất, họ càng thể hiện được mình là người quan trọng. Chúa Giêsu khuyên họ hãy chọn ngồi chỗ cuối. Một người khiêm tốn thật sự sẽ không tự đề cao mình nhưng hạ mình xuống. Nếu thực sự họ là người quan trọng thì chính chủ nhà sẽ mời lên cỗ trên. Khi nhìn xuống, người ta dễ thấy mình hơn người mà ngộ nhận rằng mình quan trọng nhất. Nhìn vào cách ăn diện và vị trí của người khác, ta chỉ thấy được bề ngoài. Vẻ bề ngoài thường dễ đánh lừa người khác. Tận sâu trong lòng mỗi người, sự thật về những góc sáng – tối thì chỉ mình Chúa mới thấu rõ. Người ta cố tình che dấu chính mình bằng cách phô trương vẻ bề ngoài. Ta cũng có thể tự đánh lừa mình cùng một cách như thế. Nhưng Chúa Giêsu muốn ta chọn cách khác. Ta có thể nhìn nhận đúng vai trò và vị trí của mình chỉ khi nào ta biết khiêm tốn và cúi xuống phục vụ những người bất hạnh.

Người Việt có câu “cục đất ném đi hòn chì ném lại” hay “có qua có lại mới toại lòng nhau”, nghĩa là khi cho ai cái gì thì người ta luôn mong được đền đáp tương xứng. Người ta tính toán vụ lợi, chẳng ai cho không ai cái gì. Chúa Giêsu chia sẻ với người đã thiết đãi Chúa bữa tiệc rằng, khi ông đãi tiệc thì đừng mời những người thân, những người quen biết nhưng hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù vì họ không có gì để đáp lễ. Giá trị cho đi không hệ tại những gì ta nhận được ở đời này nhưng là phần thưởng cao trọng trên trời. Đừng nghĩ đến những bữa tiệc linh đình mà ta không thể tổ chức hay không phải lúc nào cũng có dịp tổ chức. Điều mà Chúa Giêsu dạy dỗ ta chính là tinh thần phục vụ vô vị lợi, xuất phát từ lòng bác ái đích thực. Ta không thể thiết đãi ai đó một bữa tiệc nhưng đối với một người nghèo đang đói lả thì một chiếc bánh mì cũng là cả một bữa tiệc lớn. Ta có thể lấy một ly nước mát mời người giao hàng uống trong khi ta nhận hàng, hay đơn giản nở một nụ cười và lời cám ơn với họ. Những chi tiết nhỏ như thế rất dễ bị bỏ qua, quên lãng hay bị xem là không cần thiết. Khi sống cạnh những em khiếm thị, ta nhận ra mình có thể làm biết bao nhiêu việc nho nhỏ cho các em với một trái tim đầy tình yêu thương: dẫn các em đi lễ, ân cần chuẩn bị từng phần cơm cho các em, nói cho các em biết những vật cản, … Ta có thể nâng niu từng chi tiết nhỏ như thế và thực hiện chúng với tất cả tấm lòng. Đối với Chúa, một việc bác ái nhỏ bé được thực hiện với một tâm hồn khiêm tốn thật sự còn đẹp hơn muôn vàn công việc to lớn nhưng thiếu lòng bác ái đích thật.

Lạy Chúa! Cảm tạ Chúa đã cho con được nhìn thấy khuôn mặt của Chúa trong cuộc thương khó. Chúa đã che dấu vinh quang rạng ngời mà nhận lấy một khuôn mặt bầm dập bị người ta khinh dể. Chúa đã cho con thấy đỉnh cao của sự tự hạ vì yêu thương. Xin giúp con đừng quá bận tâm đến vẻ hào nhoáng bên ngoài nhưng quan tâm chăm sóc ngôi nhà nội tâm và khiêm nhường phục vụ theo gương Chúa. Xin cho con từng ngày biết ngồi gần bên Chúa để con cũng biết yêu thương những anh chị em nghèo khổ của Chúa. Amen.

Về mục lục

.

ĐỨC KHIÊM NHƯỜNG

Anna Cỏ May

Có cha xứ nọ đến thăm gia đình thân quen. Ông bà hỏi thăm về con gái mình xem nó đi tu thế nào, vì biết cha là người hay đến dâng lễ trong Dòng đó. Cha xứ nói: “Cứ mỗi lần tôi đến dâng lễ là thấy con gái bà ngồi ở ghế đầu. Có lẽ, nó thánh thiện, học giỏi nên được ngồi ở đó”. Tưởng chừng là như vậy, nhưng thật ra cô gái có chiều cao khiêm tốn.

Ngày nay, không chỉ vì chiều cao khiêm tốn mà một số người được xếp ngồi đầu nhưng có những người luôn ngồi ghế đầu vì bổn phận, họ là những nhà lãnh đạo; cũng có những người thích chơi nổi, muốn cho mọi người biết mình là ai trong các cuộc hội họp hay ở nơi đông người. Cho nên, họ đã chuẩn bị cho mình từ trang phục, đồ dùng, phương tiện đến vị trí ngồi sao cho mọi người biết và để ý đến mình. Đó là một trong những thái độ của tính kiêu ngạo, cho mình là nhất, là người quan trọng. Thái độ ấy dễ dẫn đưa chúng ta đến sự khinh chê người khác. Nếu sống trong thái độ này, chúng ta sẽ trở nên người như thế nào trong xã hội và trước mặt Thiên Chúa? Chúng  ta dễ đạt được và thỏa mãn sự kiêu ngạo ở đời này nhưng trước mặt Thiên Chúa, chúng ta chẳng là gì. Chúa Giêsu nói: “Vì phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống; còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên” (Lc 14,11). Khi mang trong mình sự kiêu ngạo, chúng ta khó gặp được Chúa mỗi khi đến với Ngài. Có những người dường như rất khiêm nhường khi đến với Chúa nhưng khi ra cuộc sống họ lại có cách hành xử khác. Như vậy, đức khiêm nhường chưa đạt đến sự trọn hảo. Chúng ta không chỉ khiêm nhường với Chúa mà còn cả tha nhân xung quanh chúng ta.

Vậy đức khiêm nhường có dành riêng cho ai không?

Trong Tin Mừng, Chúa Giêsu mời gọi những ai đi dự tiệc hãy khiêm tốn ngồi chỗ cuối. Còn ông chủ thì hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù (x Lc 14,12-14). Như vậy, Chúa Giêsu mời gọi tất cả mọi tầng lớp hãy trở nên khiêm nhường mà đến với nhau. Không chỉ khiêm nhường ở bên ngoài mà cả trong lòng mình, để tránh sự khiêm nhường giả dối. Chúa Giêsu là nguồn đức khiêm nhường, Ngài vẫn mời gọi mọi người học sự khiêm nhường (x Mt 11,30), vì khiêm nhường phá tan hàng rào ngăn cách giữa chúng ta với Thiên Chúa và với tha nhân. Nhờ đó, chúng ta không chỉ được lời cả thế gian mà còn được cả phần rỗi linh hồn (x. Mc 8, 36). Thánh Phaolô dạy rằng: “Anh em hãy lấy đức khiêm nhường mà đối xử với nhau. Đức khiêm nhường chính là cửa ngõ dẫn chúng ta đến hiệp thông huynh đệ.

Lạy Chúa Giêsu! Đức khiêm nhường rất cần cho mỗi người chúng con nhưng sao chúng con vẫn chưa thực hiện được? Xin Chúa giúp và biến đổi chúng con để biết sống khiêm nhường mỗi ngày. Nhờ đó, chúng con được trở nên người có phúc. Amen.

Về mục lục

.

KHIÊM TỐN.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Một ông thủ lãnh mời ăn,
Mấy người biệt phái, đứng căn chỗ ngồi.
Vào bàn chỗ nhất phần tôi,
Dụ ngôn Chúa dậy, đừng ngồi chỗ cao.
Nhiều người ân trọng đức cao,
Xứng danh trọng vọng, bước vào ngay bên.
Khi mời dự tiệc trong đền,
Chọn bàn rốt hết, ngồi yên dưới cùng.
Chủ nhà nhận biết bao dung,
Ngỏ lời mời bạn, hãy cùng bước lên,
Xin mời qúi vị lên trên,
Thật là vinh dự, xứng tên phận người.
Ai mà kiêu ngạo ở đời.
Tự mình cất nhắc, danh hời đáng chê.
Khiêm cung hạ xuống chẳng nề,
Người đời khen ngợi, cận kề mến yêu.
Chúa rằng khi dọn cơm chiều,
Đừng mời bạn hữu, rủ nhiều bà con.
Người nghèo tàn tật héo hon,
Đón vào dùng bữa, điểm son phúc lành.

Theo thói thường, người đời coi trọng chỗ ngồi nơi bàn tiệc hơn là mâm cỗ. Chúng ta rất quen thuộc với kiểu cách ở đời là ngồi vào bàn tiệc phải theo vai vế và địa vị trong xã hội. Người ta coi rất trọng hình thức và vị thế trong cộng đoàn xã hội. Bài phúc âm hôm nay, Chúa Giêsu lại có cơ hội dạy chúng ta bài học về sự khiêm nhường. Chúa Giêsu nói với ông chủ nhà rằng: Khi dọn tiệc, hãy mời những người nghèo khó, què quặt đui mù, ông sẽ có phúc. Khó thật! Mấy ai có thể áp dụng.

Quan sát việc chọn chỗ ngồi trong bữa tiệc theo phong tục tập quán, người ta rất quan trọng hóa về địa vị và phẩm giá con người. Chúa Giêsu đi ngược lại với những suy nghĩ của những người đương thời. Chính Chúa đến bằng con đường khiêm nhu. Khiêm nhượng chính là một nhân đức. Khiêm nhượng là chấp nhận đúng sự thật mình có. Nếu chúng ta biết mở mắt nhìn đời, thấy rằng chúng ta còn thua kém biết bao nhiêu người về lòng đạo đức, về khả năng, về sự hiểu biết và về kinh nghiệm cuộc sống. Chúng ta có gì mà không phải là do hồng ân đã lãnh nhận. Trước mặt Chúa, chúng ta còn nghèo túng hơn nhiều. Chúng ta chỉ là tro bụi và chỉ như là hơi thở thoáng qua. Chúa rút hơi thở, chúng ta trở về hư vô.

Chúa Giêsu khi xưa ra rao giảng trong hoàn cảnh của hai nền văn hóa Hy Lạp và Do Thái. Người Hy Lạp coi sự khiêm nhường như là một sự thoái hóa và nhu nhược. Còn người Do Thái coi là một nhân đức. Chúa Giêsu dạy chúng ta về sự khiêm tốn. Kiêu ngạo là thói thường ở đời. Ai cũng muốn mình hơn người khác. Họ muốn nổi nang hơn, giỏi giang hơn, giầu có hơn và có thế lực hơn. Vì thế, họ đã không ngần ngại tìm cách hạ thấp hay chà đạp người khác xuống. Đúng thế, kiêu ngạo chống lại kiêu ngạo. Không ai ưa người kiêu ngạo. Ngay cả những người kiêu ngạo cũng không ưa nhau. Trái lại, người khiêm tốn được mọi người yêu mến.

Truyện kể: Có hai vị bô lão ngồi lại với nhau tâm sự. Một người nói: Khi tôi còn trẻ, tôi hay kiêu ngạo. Sự kiêu ngạo làm tôi lo lắng. Tôi lo về những cái người khác nghĩ hay nói về tôi. Khi tôi trưởng thành và khôn ngoan hơn. Tôi không để ý tới những lời người khác nói về tôi. Nay tôi già rồi, tôi nhận ra rằng chẳng có ai để ý hay nghĩ gì về tôi cả. Thật ra, nhiều người nghĩ mình là quan trọng, để rồi nghĩ rằng người khác lúc nào cũng để ý đến mình và rồi chúng ta trở nên kiêu căng.

Khiêm tốn không phải là sự hèn nhát mà là sự can đảm và dũng mạnh. Chỉ những ai mạnh mẽ mới dám hạ mình phục vụ anh chị em. Khiêm tốn phục vụ là một cử chỉ đầy yêu thương và là một thái độ hoàn toàn tự do. Khiêm tốn mở đường tự do cho chúng ta đi vào Nước Trời.

Về mục lục

.

KHIÊM NHƯỜNG-

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Trong những năm đi giảng đạo cùng với các môn đệ. Chúa Giêsu đã tiếp xúc với mọi lớp người, Ngài đã thông cảm, chạnh lòng thương xót tới đám đông dân chúng bơ vơ như đàn chiên không người chăm sóc. Chúa Giêsu đã đụng chạm tới mọi nỗi khổ đau của con người. Ngài quan sát những sự việc xẩy ra trong xã hội Do Thái lúc đó để đưa ra những dụ ngôn nhằm dạy các môn đệ và mọi người.Hôm nay, nhân được mời dự tiệc cưới do một thủ lãnh Pharisêu mời, Chúa Giêsu thấy một số khách mời chọn cỗ nhất để ngồi.Chọn cỗ nhất để ngồi có nghĩa tự mãn, tự đề cao mình, coi mình là hơn người khác, có địa vị, chỗ đứng cao hơn người.Do đó, Chúa Giêsu đã dạy các môn đệ và những người Pharisêu dụ ngôn về sự khiêm nhường.

Vâng, Chúa Giêsu đã nói :” Khi anh được mời đi ăn cưới,thì đừng ngồi vào cỗ nhất, kẻo lỡ có nhân vật nào quan trọng hơn anh cũng được mời,và rồi người đã mời cả anh lẫn nhân vật kia phải đến nói với anh rằng: xin anh nhường chỗ cho vị này “  ( Lc 14,8-9 ).Khi Chúa Giêsu dạy chúng ta điều này, Ngài cũng muốn nhắc nhở mọi người :’ Đừng tranh giành quyền thế, ham mê địa vị, đến độ phải để cho người khác triệt hạ…Tuy nhiên, Chúa Giêsu cho chúng ta thấy ý nghĩa thâm trầm hơn, ấy là có những người tự đặt chỗ cho mình về mặt thiêng liêng, về mặt đạo đức, tự cho mình là xứng đáng dù mình có lỗi phạm…Đối với Chúa thì khác, Ngài có cái nhìn từ chiều sâu, từ cõi lòng của mỗi người. Ngài đã nói :” Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên “.  Đứvc Giêsu mời gọi con người hãy từ bỏ sự tự mãn, tự kiêu, tự đại để sống khiêm tốn. Khiêm nhường là tự nhận tất cả là do Chúa và chúng ta được lớn lên mỗi ngày nhò tha nhân, nhờ anh chị em xung quanh. Người khiêm tốn không coi địa vị, chức vụ là quan trọng, nhưng tất cả đều được đặt dưới sự quan phòng của Chúa. Người khiêm tốn không tự mình vinh vang, tự tôn coi mình có địa vị cao hơn người khác mà đặt mình dưới bàn tay uy quyền của Chúa như Chúa đã từng nói :” Ta đến để phục vụ, chứ không để được phục vụ “. Người khiêm tốn là người hân hoan phục vụ trong yêu thương, hầu hạ người khác với tâm hồn quảng đại, yêu thương. Con người chúng ta thường đánh giá người khác dựa trên địa vị, chức tước trong xã hội.Tuy nhiên có những người thấp cổ bé họng không có ghế, không có chỗ đứng trong xã hội, nhưng họ có tấm lòng, có lương tâm thì còn hơn những người có chức vị mà sống không tốt vv…Trong bài Tin Mừng của thánh Luca hôm nay, Chúa Giêsu đang nói với những người Biệt phái cùng dự tiệc với Ngài và các môn đệ của Ngài.Chúa Giêsu dùng hình ảnh quen thuộc “ tiệc cưới “ của người Do Thái thời đó, để nói về Nước Thiên Chúa “ các người Do Thái là dân Chúa chọn, họ được mời tham dự Nước Trời nhưng họ từ chối,tuy nhiên, các người nghèo khó, tàn tật, đui mù cũng được Chúa mời, những người này đã nhận lời và được vào Nước Trời. Đây là điều Chúa đã tiên báo : dân ngoại giáo sẽ vào thya chỗ dân Do Thái được mời trước.

Chúa nhắc nhở con người, cảnh giác chúng ta đừng quá bám víu vào thế gian, vào cuộc đời mau qua này, đừng đặt con người chúng ta trên của cải, danh vọng, địa vị vì có người đến sau sẽ trở nên trước hết và có người đến trước sẽ trở nên rốt hết. Chúa đã đồng hóa mình với kẻ khó nghèo, tàn tật, bất hạnh, tù đầy, bị ngược đãi vv…Cho nhưng không, vô vị lợi, không tính toán là điều quan trọng cho mỗi môn đệ của Chúa. Khiêm tốn, tự hạ là điều Chúa quý chuộng. Lucifer vì quá kiêu ngạo nên đã bị Thiên Chúa giáng phạt. Goliath cho mình là to lớn, sức mạnh vô song, tự mãn, tự tôn, nên đã bị cậu bé Đavít quật chết…

Chính vì thế, chọn cỗ nhất, chọn chỗ nhất nơi tiệc cưới, nơi những cuộc  hội họp có đông người là tự mãn với địa vị, với chức danh của mình. Chúa nói hãy khiêm tón ngồi ở dưới để khi gia chủ tới mời lên ngồi trên cao, lúc đó người được mời sẽ được danh dự trước mặt mọi người. Chúa còn nói đừng mong người khác đáp trả khi họ nghèo nàn, túng thiếu. Chúng ta đã đón nhận nhưng không phải cho lại nhưng không vv…Khiêm tốn sẽ được tôn lên.Tự mãn, kiêu ngạo sẽ bị hạ xuống.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con luôn biết khiêm tốn vì tất cả đều từ Chúa. Chúng con đã nhận nhưng không, thì phải cho lại nhưng không. Xin Chúa ban thêm đức tin cho chúng con để chúng con luôn nhận ra sự khiếm khuyết, yếu đuối của chúng con và luôn đặt cuộc sống, sinh mạng của chúng con dưới sự quan phòng của Chúa.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.ChúaGiêsu đã dạy các môn đệ và những người Pharisêu bài học gì nhân tiệc cưới hôm nay?

2.Khiêm nhường là gì ?

3.Thủ lãnh các người Biệt phái là ai ?

4.Tại sao những người Biệt phái lại luôn chống đối Chúa Giêsu ?

5.Tội kiêu ngạo là tội gì ?

Về mục lục

.

GHẾ DÀNH RIÊNG

Lm. Vũ Đình Tường

Quan khách hay khách quan đều nói về người nhưng mang ý nghĩa khác nhau. Từ khách quan mang tính cách thương mại trong kinh doanh. Từ quan khách nói lên tính trang trọng của người khách. Nói đến quan khách là nói đến ghế danh dự dành riêng cho quan khách trong những cử hành lễ hội công cộng. Thực ra vấn đề xếp chỗ cho quan khách không đơn giản như chúng ta thấy nơi các buổi lễ hội công cộng. Khi có người đồng giai cấp, thứ bậc việc sắp xếp chỗ ngồi ngang hàng quả là nhiêu khê. Có nhiều vận động ngầm về chỗ ngồi giữa các viên chức làm việc trong các văn phòng hành chánh cho người lãnh đạo phe nhóm. Người ta nhân danh vị đó đòi hỏi nghi thức đón tiếp làm đau đầu, nhức óc ban tổ chức lễ hội. Tranh cãi đây không phải là ghế ngồi mà chính là danh dự, tiếng tăm, vị thế của người ngồi ghế đó trong ngày lễ hội. Mặc dù các nghi thức cử hành chỉ vỏn vẹn trong thời gian ngắn nhưng danh dự, tiếng tăm đối với những khách danh dự thật là quan trọng.

Khách danh dự trong nước Thiên Chúa hoàn toàn khác. Nước Thiên Chúa không thuộc vào hạng người nắm quyền ngang trời, thế dọc đất. Hành hạ mọi người, già trẻ, lớn bé không trừ ai. Những người vang bóng một thời, hét ra lửa, thở ra quyền. Nói ra kẻ tung, người hứng, lên xuống có người đóng mở cửa. Đứng lên có kẻ bợ, ngồi xuống có kẻ đỡ. Có quyền sinh sát trong tay, có quyền bẻ cong công lí. Trong nước Thiên Chúa không có chỗ riêng cho những người đó. Nước Thiên Chúa dành cho những ai? Thưa là những người có thời mất công lí nay được tuyên công, người nghèo khổ nay vui mừng, kẻ cô đơn nay có bạn thân tình. Người chết vì đức tin nay sống ngàn thu, người tù đầy trong tối tăm nay thấy ánh sáng huy hoàng. Đức Kitô Con Thiên Chúa đứng ra phát thiệp mời họ, đón họ, biến họ là khách danh dự trong nước của Ngài. Theo tinh thần bài Phúc Âm tuần trước họ là những người đi qua cửa hẹp mà vào. Kẻ béo quyền hành, tốt bè phái muốn qua cửa hẹp phải dẹp bỏ tất cả mới qua lọt, bằng không những thế lực kia kéo lại sẽ không thể qua lọt. Bỏ được những quyến rũ bất chánh cần có tinh thần sẵn sàng từ bỏ, cần có tấm lòng khiêm nhu, tự nhận mình sai trái, thiếu sót, giới hạn và khiêm nhường đón nhận Lời Chúa làm hướng đi cho cuộc sống. Thực hiện được điều đó qua hành động cụ thể mến Chúa, yêu tha nhân họ sẽ dễ dàng qua cửa hẹp.

Trong nước Thiên Chúa không có cạnh tranh, vận động ngầm để được ngồi vào ghế danh dự. Những khách vào nước Trời là những người có tấm lòng khiêm cung. Họ đến không phải để được ca tụng nhưng đến chính là vì yêu mến anh em, đến để gặp gỡ, để cùng với mọi người tay bắt, mặt mừng trong ngày hội. Họ đến trong tình thân hữu chân thành, trong tình con một Cha chung là Đức Kitô. Họ đến trong tinh thần sẵn sàng phục vụ người khác như tinh thần lời Đức Kitô phán trong Mat 20,26. Tinh thần đó là con người đến để phục vụ anh em chứ không phải để được phục vụ.

Khiêm nhường và thống hối luôn đi chung với nhau. Người tự nhận khôn ngoan, bằng cấp cao, trí hiểu nhiều rất khó sống khiêm nhường. Người khiêm nhường luôn nhận biết giới hạn, yếu đuối của con người. Họ biết trước mặt Thiên Chúa tài họ không bằng chi, giầu sang của họ là hư không. Vì sao? Vì tất cả những gì họ có đều do Chúa ban. Nhận biết điều này nên họ sống trong khiêm nhường, cưu mang tâm tình tạ ơn Thiên Chúa. Nhận biết điều này nên họ không ghen tị với anh chị em khác khi người đó trội hơn họ về mọi mặt vì họ biết đó là ơn Chúa ban riêng cho người đó. Nhận biết điều này nên họ sống phó thác, tin yêu vì họ biết những gì trong tay là do Chúa trao. Vì là của Chúa ban nên họ có trách nhiệm coi sóc, phát triển và đồng thời chia sẻ những điều đó với anh chị em cần đến chúng. Nói cách khác họ không phải là chủ nhân tài năng mình có mà là người quản gia, gia tài Chúa trao cho họ chăm sóc, bảo vệ, giữ gìn, phát triển và chia sẻ. Làm được những công việc đó họ xứng đáng ngồi trong ghế danh dự nước trời.

Về mục lục

.

BÀI HỌC TỪ NƯỚC

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Nước cần thiết cho sự sống muôn loài. Nước quan trọng cho sự phát triển của cơ thể con người, cho sự tăng trưởng của súc vật và cây cối. Không có nước, không có sự sống. Mọi sinh vật đều gồm phần lớn là nước dù sống ở đâu. Chín phần mười thể tích cơ thể con người là nước.

Khi sử dụng nước trong sinh hoạt hàng ngày, chúng ta cho là điều tự nhiên. Nhưng thật sự, nước là của châu báu Trời ban cho quả địa cầu.

Nước từ trên nguồn cao đổ xuống, nước uốn mình theo ghềnh thác, nước lượn khúc trong những khe suối, nước chảy xuôi dòng sông, nước dồn về biển cả. Không có gì mềm mại hơn nước và cũng không có gì mạnh mẽ bằng sức nước. Nước không có độ cứng dày nên không đo lường được chiều cao, sâu, rộng, dài của nước. Nước rất yếu mềm, không mạnh mẽ, nhưng tính bền bỉ lại khiến nước có thể làm mòn đá bởi dòng chảy của mình. Đá có mạnh đến đâu cũng sẽ bị nước mềm yếu chinh phục. Vì thế Lão Tử nhận định: “Trên thế gian không có thứ gì yếu mềm như nước, nhưng lại không có thứ mạnh mẽ nào có thể thắng được”. Từ đó, ông cũng cho rằng mềm dẻo là phương cách tồn tại nên có của con người: “mềm thắng cứng, yếu thắng mạnh, thiên hạ ai cũng đều biết rõ”. Sự mềm dẻo của Lão Tử chính là nói về quan niệm xử thế rộng rãi lạc quan, xem thường cái mạnh.

Nước chảy tới đâu đem lại sự sống đến đó. Gặp ghềnh thác hay các tảng đá chắn lối, nươc vẫn len lõi chảy không gây xích mích hay hận thù với ai.Nước có thể bị vẩn đục khi chảy qua rừng rậm, ruộng đồng, nương rẫy nhưng nước có khả năng thanh tẩy trở lại thanh sạch ban đầu.

Nước chảy chỗ thấp, an phận, không tranh giành. Vì không tranh giành nên cũng không thất bại. Đồng thời, nước lại thân thiện với vạn vất, giúp vạn vật phồn vinh, cho nên được vạn vật yêu thích. Con người cũng vậy, cần khiêm tốn, nhường nhịn, khéo léo, hết sức giúp đỡ người khác, tránh việc tranh giành, đừng mang tâm lý thắng thua. Đó chính là “thượng thiện nhược thủy”. Lão Tử chủ trương: “Người thiện, thì ta thiện; người không thiện, ta vẫn cứ thiện, đó chính là thiện”. Trong mọi việc con người đều lưu giữ thiện tâm, lấy thiện đãi người, dù có chịu thiệt thòi trước mắt thì cũng không mất đi tín niệm trong lòng, như vậy sẽ được người yêu mến, được trời đất phù trợ, chính là thiên thời, địa lợi, nhân hòa.(Thanh Trúc).

Nước là biểu tượng cho đức khiêm nhường. Nước luôn tìm chỗ thấp mà chảy xuống. Dù hạ mình thấp hèn nhưng nước thật cao cả vì đem lại sự sống cho mọi loài.

Đức Hồng Y Fx Nguyễn Văn Thuận dùng hình ảnh nước để huấn dụ cho các chủng sinh về đức khiêm nhường: “Khi ta ngồi lên ngai cao, nhiều người muốn đạp ta xuống; khi ta nằm xuống sát đất, nhiều người muốn nâng ta lên…Nước mưa rơi xuống trên những đỉnh núi cao sẽ chảy tuôn đi hết chẳng đọng lại giọt nào. Rốt cuộc, mọi dòng nước đều tuôn về chỗ trũng. Chính thế người ta thường nói: biển cả là mẹ của tất cả sông ngòi vì biển hạ mình thấp hơn mọi con sông”.

Khiêm hạ như dòng nước chảy xuống thấm nhuần vào đất đai. Nước bao giờ cũng chảy xuống thấp nên có thể đến mọi nơi. Nước thấm tới đâu làm đất đai ở đó thêm màu mỡ và phì nhiêu.

Bài đọc 1, Sách Huấn Ca dạy rằng: “Càng làm lớn, con càng phải hạ mình trong mọi sự, con sẽ được đẹp lòng Chúa”. Hạ mình là cách thế tốt nhất để gặp gỡ và đến với tha nhân. Con đường khiêm hạ là con đường Thiên Chúa đến với nhân loại. Qua sự khiêm hạ, con người đến với nhau và đến mọi nơi.

Bài Tin Mừng kể chuyện Chúa Giêsu đi dự bữa tiệc tại nhà một thủ lãnh các người biệt phái. Chỉ một bữa ăn cũng đủ là đề tài để Chúa dạy nhiều bài học. Bài học cho những kẻ được mời là hãy khiêm nhường nhìn nhận việc mình được mời là một ân huệ. Và cũng thêm một bài học cho chủ nhà là người mời. Ông biệt phái mở tiệc đãi khách, thực ra không phải vì khách mà vì mình. Ông mời người có chức quyền, mời người giàu sang để khoe rằng mình quen biết lớn, giao thiệp rộng, rằng bè bạn của mình toàn là những người tai to mặt lớn. Ông biệt phái thích khoe khoang nên có lẽ mời Chúa Giêsu chẳng phải vì mến phục, nhưng chỉ để khoe với bè bạn về tài giao thiệp của mình. Chúa nói đến bữa tiệc mà khách quý phải thuộc giới nghèo không có khả năng đáp lễ. Hãy biết nghĩ đến những người nghèo khó bất hạnh.

Bài học Chúa dạy là đức khiêm nhường và đức bác ái. Hai nhân đức này là nền tảng của đạo đức.

1. Bài học khiêm nhường

Hãy chọn chỗ rốt hết để được mời lên chỗ cao hơn.

Chỗ ngồi tượng trưng cho địa vị trong xã hội. Người ta chọn vị trí quan trọng trong bàn tiệc không phải để được ăn ngon nhưng để được vinh dự hơn. Vì thế, người ta luôn thích ngồi ở những vị trí quan trọng ở những nơi đông người để thỏa mãn lòng tự tôn của mình. Còn Chúa dạy nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống và hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.

Khiêm tốn là ít nghĩ về mình, và nhiều lúc không nghĩ gì về bản thân. Đối với Kitô hữu, khiêm tốn là trở nên giống Chúa Giêsu: “Các con hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng”; “Con Người đến không phải để được phục vụ, nhưng đến để phục vu và hiến mạng sống mình làm giá cứu chuộc cho nhiều người”.

Khiêm tốn sống như Chúa Giêsu là không sống cho riêng mình mà sống cho người khác, dùng tài năng của mình để phục vụ tha nhân.

Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nhu nhược hèn nhát, nhưng chỉ những ai dũng mạnh, can đảm mới dám hạ mình phục vụ anh em. Khiêm tốn như Chúa Giêsu không phải là nô lệ, mà là một hành vi yêu thương, một thái độ hoàn toàn tự do, cao quý.

Khiêm nhường còn là khuôn mặt của tình yêu. Vì yêu thương con người, Thiên Chúa đã xuống ngang tầm những kẻ hèn mọn, những trẻ thơ, những kẻ yếu đuối. Chúa không kết thân với người giàu có quyền thế nhưng luôn quan tâm những người nghèo, người bị ruồng bỏ, người ốm yếu tật nguyền, Ngài an ủi và chữa lành cho họ.

Bằng những lời khuyên nhủ khôn ngoan, Sách Huấn Ca cũng chỉ cho thấy con đường khiêm tốn là con đường tuyệt đẹp được mọi người quý chuộng và được Thiên Chúa mến yêu.

2. Bài học bác ái

Con đường khiêm hạ còn là con đường phục vụ vô vị lợi. Chúa dạy rằng, khi mời khách dự tiệc hãy mời những người nghèo khó vì họ không có gì để trả lễ. Đó là tinh thần phục vụ vô vị lợi, không mong đền đáp, làm việc âm thầm.

Chúa Giêsu nói với ông chủ nhà, hãy mời vào bàn tiệc những kẻ bị loại ra ngoài xã hội: người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp trả, và như thế, ông mới thật có phúc vì ông sẽ được Thiên Chúa trả công trong ngày các kẻ lành sống lại.

Người ta thường nghĩ những kẻ đui mù, tàn tật, què quặt và nghèo khó là những người bất hạnh làm gánh nặng cho xã hội. Nhiều khi người ta ngoảnh mặt, giả điếc làm ngơ và từ chối giúp đỡ.Chúa Giêsu dạy các môn đệ, hãy sống gần gũi hòa đồng với người nghèo, người bất hạnh. Sống và cư xử tốt với họ dù rằng họ chẳng có gì đáp lại. Lý do là vì họ là hình ảnh của Thiên Chúa, là anh em con một Cha nên cần phải thương yêu họ như chính mình.

Con đường bác ái yêu thương là lối vào Nước Trời. Chúa Giêsu chính là hiện thân nơi những người bất hạnh, nghèo khó. Ai đón tiếp họ là đón tiếp chính Chúa.

3. Tình yêu như dòng nước.

Bác ái và khiêm nhường là hai nhân đức căn bản. Bác ái là bản chất, khiêm nhu là vóc dáng. Vóc dáng giúp chủ thể thon gọn thuận tiện ở mọi sinh hoạt trong mọi lãnh vực. Bác ái là nền tảng làm nên phẩm giá và tư cách hấp dẫn con người ở mọi nơi mọi thời. Người sống bác ái chính là biết khiêm nhường phục vụ, làm nên vóc dáng xứng hợp với cửa hẹp Nước Trời.

Đặc tính của tình yêu là dịu dàng như dòng nước, êm mát nhún nhường. Tình yêu có vẻ mềm yếu hơn tất cả nhưng lại mạnh hơn tất cả. Bởi vì không phải đá hay lửa thắng được nước mà là nước chảy đá mòn. Không gì có thể thắng nổi tình yêu vì Thiên Chúa là tình yêu. Vì thế mọi dòng sông vẫn tiếp tục chảy ra biển cả. Tình yêu Thiên Chúa vẫn chan hoà muôn người.

Tình yêu dạy cho con người niềm hạnh phúc lớn nhất cao cả nhất và đẹp nhất là biết trao ban, hiến dâng, cho đi, quãng đại, bao dung. Đó là đỉnh cao tình yêu Kitô giáo. Yêu là hy sinh cho người mình yêu. Yêu là tìm hạnh phúc cho người mình yêu. Yêu như Chúa đã yêu và yêu đến cùng.

Nước biểu tượng đức khiêm nhường và đặc tính của nước cũng giống như tình yêu. Nước còn là biểu tượng cho mọi phúc lộc của Thiên Chúa. Trong thuật ngữ Kitô giáo, nước được sử dụng như như biểu hiệu của một diễn trình biến đổi và trở về nội tâm. Qua phép Rửa bằng nước, người Kitô hữu lãnh nhận sự sống của Thiên Chúa Ba Ngôi. Nước của phép Rửa có sức tẩy sạch tội lỗi gây sự chết và đưa vào đời sống mới. Nước của phép Rửa có sức chữa lành, thánh hóa và đem lại sự tươi mát cho tâm hồn. Được làm con cái Thiên Chúa qua phép Rửa là hồng ân với đời sống mới, luôn khiêm tốn và bác ái hướng tới trọn lạnh.

Lạy Chúa Giêsu, xin dạy chúng con biết yêu như Ngài, biết sống cho tha nhân, biết quảng đại cho đi và khiêm nhường nhận lãnh. Amen.

Về mục lục

.

NGƯỜI SAU HẾT SẼ NÊN TRƯỚC HẾT

Lm. Phêrô Lê văn Chính

Một miếng giữa làng bằng một sàng xó bếp. Câu châm ngôn nói lên tâm lý bình thường của người Việt nam, thích được danh giá, khen tặng giữa nơi đông người. Xã hội Việt nam ngày xưa rất cô lập với lũy tre làng khi mà những chuyến du lịch xa hay những tin tức chưa đến được với quần chúng thì cái đình làng bé nhỏ của quê nhà là nơi mọi người thường gặp gỡ và cũng là nơi nhiều người muốn được danh giá và khen tặng.

Trong truyền thống minh triết của những người do thái, những bậc hiền triết đã biết huấn luyện cho mọi người có một tầm nhìn khác hơn và cập nhật hơn. Những đức tính khiêm nhường, hiền lành phục vụ phải là những đức tính mà họ phải khắc cốt ghi tâm, bởi vi đó là những đức tính được Thiên Chúa yêu mến và quí chuộng. Không phải khi làm lớn có địa vị cao là dịp để người ta nên kiêu căng tự phụ hống hách, mà đó là lúc họ càng phải biết khiêm nhường và hiền lành để phục vụ, bởi vì chỉ có Thiên Chúa là Đấng quyền năng cao cả, và Thiên Chúa yêu thương những người biết sống khiêm nhường hiền lành phục vụ: “càng làm lớn thì con càng phải hạ mình trong mọi sự và đó là điều đẹp lòng Chúa, bởi vì chỉ có Thiên Chúa mới thực sự là Đấng quyền năng cao cả”.

Câu chuyện của bài Tin mừng hôm nay liên hệ tới việc Chúa Giêsu nhận xét và đưa ra lời khuyên cho những người đồng bàn nhân việc người dự bữa ăn ở nhà của một thủ lãnh người biệt phái. Vào thời Chúa Giêsu, đối với những người do thái, nơi người ta thường gặp gỡ nhau vào những dịp ăn uống trong những bữa tiệc nơi các gia đình. Trong giới vị vọng lúc bấy giờ là những luật sĩ và những người biệt phái, nhiều người vốn có tâm lý thích chọn chỗ nhất trong đám tiệc  để được mọi người khen tặng và kính trọng. Đây là một tâm lý bình thường và trở nên phổ biến. Nhận xét cách người ta thường lựa chọn chỗ ngồi trong các đám tiệc, Chúa Giêsu đưa ra một lời khuyên thực tế đầy khôn ngoan thận trọng cho họ : khi được mời dự tiệc, đừng vội chọn chỗ nhất trong đám tiệc, lỡ khi có người khác cao trọng hơn bạn cùng đi vào thì chủ nhà sẽ phải nói với bạn nhừơng chỗ cho người danh giá hơn; nhưng ngược lại hãy biết chọn chỗ thấp để chủ nhà sẽ đến mời bạn  vào chỗ cao hơn, khi đó bạn sẽ được danh giá và kính trọng trước mặt mọi người. Mặt khác, Chúa Giêsu còn đưa ra một lời khuyên khác nữa dành cho những người tổ chức tiệc tùng. Họ hãy biết mời những người nghèo khổ túng thiếu là những người không có khả năng mời lại mình.

Nếu chỉ dừng lại ở những lời khuyên này, có lẽ những lời dạy của Chúa Giêsu cũng  giống những lời dạy của một bậc thầy khôn ngoan dạy xử thế khác. Chúa Giêsu không chủ đích dừng lại ở những lời dạy của một bậc thầy dạy cách xử thế khôn ngoan trong trường đời. Vào thời kỳ này, những bậc thầy do thái cũng đưa ra những lời khuyên đầy khôn ngoan như thế trong việc chọn chỗ ngồi trong đám tiệc hay khi tổ chức các bữa ăn mời khách đến dự tiệc tại nhà mình. Viễn tượng của lời dạy của Chúa Giêsu mới mẻ hơn ở chỗ bắt đầu hướng đến sự đảo lộn mọi trật tự  vào cuối thời gian khi mà chính Thiên Chúa sẽ can thiệp một cách quyết định. Lúc bấy giờ những người sau hết sẽ nên trước hết, những người trước hết sẽ nên sau hết và những ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và những ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên. Chúa Giêsu bắt đầu mở rộng tầm nhìn của những người do thái để họ biết hướng đến viễn tượng quyết định cuối cùng của cuộc đời con người thay vì chỉ khư khư hạn hẹp trong góc nhìn thiển cận của mình. Ở trong đời sống xã hội, con người có những tương quan và đã ao ước được kính trọng giữa mọi người thế nào, thì họ hãy biết khôn ngoan để được đón tiếp và kính trọng trong bàn tiệc của Nước Thiên Chúa là vận mệnh quyết định của con người sau này. Trong bàn tiệc này, sự kính trọng sẽ không còn đặt trên địa vị sang hèn như trong xã hội con người nữa, mà sự kính trọng sẽ thuộc quyền quyết định của Thiên Chúa, Thiên Chúa sẽ quyết định dành sự kính trọng này cho những người đã biết tự hạ, sống khiêm nhường trong cuộc đời trần thế, họ sẽ được nâng cao; hay những người đã biết quảng đại mời những người nghèo khổ túng thiếu đến dùng bữa tại nhà mình, khi mà họ không có gì để trả lại, nhưng chính Thiên Chúa sẽ trả lại cho họ trong ngày người công chính sống lại. Những hành vi khiêm nhường phục vụ và quảng đại giúp đỡ những người nghèo khổ sẽ là điều kiện để được Thiên Chúa thưởng công  khi mà Thiên Chúa là Đấng vô cùng giàu có và đại lượng sẽ trả công bội hậu cho họ.

Thời nào cũng thế, chúng ta dễ bị ám ảnh và chi phối bởi những cái nhìn hạn hẹp, người làm lớn quyền cao chức trọng dễ trở nên tự kiêu, người không có địa vị cao thì lại ao ước có địa vị và xem địa vị là lúc mình được ăn trên ngồi trước thiên hạ. Tâm lý hám danh cầu lợi làm cho tầm nhìn của chúng ta trở nên hạn hẹp và gò bó trong cái nhìn thiển cận hẹp hòi. Chúa Giêsu bắt đầu thúc đẩy chúng ta mở rộng tầm nhìn hướng đến những chân trời rộng lớn hơn và quyết định hơn, để rồi có cách hành xử thích hợp trong cuộc đời hiện tại, đừng để mình bị thúc đẩy và chi phối bởi những thói đời chật hẹp. Bởi vì như những lời giải thích trong bài đọc thứ hai của thư Do thái nhắc nhở, chúng ta đang tiếp cận với thực tại mới và quyết định là chúng ta đang tiến tới núi Sion, núi thánh của Thiên Chúa và là Giêrusalem thiên quốc và chung quanh chúng ta là muôn vàn thiên thần  và các thánh là cộng đoàn các trưởng tử đã được ghi sổ trên trời, những linh hồn của những người công chính, và nhất là chúng ta đang đến cùng Thiên Chúa là Đấng phán xét mọi người, và đến cùng Đức Giêsu là trung gian của giao ước mới. Một hành trình và điểm đến quan trọng như thế khích lệ và soi sáng cho bước đi của mỗi người chúng ta là bước đi trong ánh sáng của những lời dạy của Chúa Giêsu để biết sống khiêm nhường và quảng đại với mọi người. Lời dạy của Chúa Giêsu nhắc nhở chúng ta về căn tính chân thật của mình với Thiên Chúa. Chúng ta là những người được Thiên Chúa mời gọi đến chung hưởng hạnh phúc vô tận của Thiên Chúa, và chính Thiên Chúa sẽ dẫn đưa chúng ta vào hạnh phúc chân thực này, nơi bàn tiệc quyết định là Nước Thiên Chúa khi mà Thiên Chúa sẽ thưởng công cho mọi người, khi mà Thiên Chúa sẽ trả lại cho chúng ta cách dư dật cho những gì mà chúng ta đã biết cho người khác cách quảng đại trong cuộc đời trần thế.

Về mục lục

.

VÀO NGỒI CHỖ CUỐI

PM. Cao Huy Hoàng

Bữa tiệc của Nước Thiên Chúa

Thánh Luca mở đầu câu chuyện Tin Mừng hôm nay với chi tiết thời gian và không gian “một ngày Sa-bat nọ”, tại “bữa tiệc” của một thủ lãnh nhóm Pharisiêu. Chúa Giêsu được mời tham dự “bữa tiệc trần gian”, của những “con người trần gian” nầy. Bữa tiệc ấy đã phát họa trọn vẹn cái cung cách trần gian của những con người phàm tục- hoặc chưa hiểu gì về con người mới – con người có văn hóa Thiên Chúa, hoặc không tiếp nhận ánh sáng mới của Tin Mừng để thay đổi. Họ vẫn còn cũ rích trong cách suy nghĩ, cách sống… Tất cả cho cái tôi, cái riêng tiềm ẩn trong chính họ, như là một căn bệnh di truyền do tội lỗi của nguyên tổ để lại. Cái tôi khiến người ta tranh giành tư thế độc tôn, tranh giành cho mình mọi sự nhất: được suy tôn nhất, được đề cao được chú ý nhất…

Đức Giêsu đã dùng chính những diễn biến trong bữa tiệc trần gian ấy để rao giảng bài học quí giá cho con người về bữa tiệc trong Nước Thiên Chúa. Những người văn hóa cũ rích và đáng bị lên án kia, cũng đang là chính mỗi chúng ta, những con người của thế kỷ 21, được mang danh là những con người của thời văn minh hiện đại. Ngài đã lên án điều gì, và Ngài đã dạy gì?

Không dành cho người kiêu ngạo

Ngài lên án thói kiêu ngạo: “Ai tôn mình lên, sẽ bị hạ xuống”.

Quả thật, không phải vô duyên vô cớ mà mối tội đầu Kiêu Ngạo được đưa lên đầu danh sách bảy mối tội, vì theo các nhà tu đức, thì thần dữ kiêu ngạo luôn có những chiêu thức cực kỳ hiểm độc, và có tài điều binh khiển tướng làm cho sáu thần dữ của sáu mối tội kia có sức mạnh đánh đâu thắng đó. Khi đã để cho thần dữ kiêu ngạo hoạt động trong lòng, thì việc hà tiện, dâm dục, hờn giận, mê ăn uống, ghen ghét, làm biếng là điều quá dễ dàng. Một trong những chiêu thức tài tình nhất của thần dữ kiêu ngạo là tặng cho con người ta sự tự ngộ nhận mình là đạo đức, là thánh thiện, là khiêm nhượng, là từ thiện, là bác ái hơn người, và luôn luôn hơn người, một cách chủ quan. Nhưng thật ra, tất cả những điều ấy đều là sự giả dối, sự tự đánh lừa mình từ trong tận gốc rễ. Cách suy nghĩ ấy, cách sống ấy, của những người Pharisiêu xưa, đã bị Đức Giêsu vạch mặt thần dữ kiêu ngạo trong họ và lên án nghiêm trọng.

Cả chúng ta nữa, lời rao giảng của Đức Giêsu đã hơn hai ngàn năm vẫn chưa thẩm thấu và thay đổi được cái căn tính tồi tệ ấy trong mỗi con người hôm nay. Chiêu thức “cám dỗ làm điều tốt” vẫn luôn luôn được rao bán hoặc biếu không, khuyến mãi khắp nơi trên thế giới và trong cõi lòng thâm sâu của ta. Cái vỏ bọc đạo đức bề ngoài cho thấy, không phải chúng ta không biết thế nào là đạo đức, nhưng chúng ta lại chấp nhận theo cách đạo đức được hướng dẫn bởi thần dữ kiêu ngạo, không phải bởi Thần Khí của Thiên Chúa:

-Tự nhận cho mình trách nhiệm xây dựng Giáo hội theo kiểu của mình là phải chỉ trích, lên án, rêu rao, phản đối… mà chưa kịp suy niệm cho ra những ý định tuyệt vời của Thiên Chúa;

-Tự nhận cho mình một công tác mang tầm vóc tổ chức của Giáo Hội để thành lập uỷ ban nầy, tập thể kia mà không được ủy thác;

-Tự tôn phong cho mình một vai trò quan trọng trong giáo hội ngang tầm với ý định riêng tư của cõi lòng mình……. hoặc cụ thể hơn, tôi phải làm cái gì đó, to hơn, lớn hơn người đi trước tôi hoặc hơn những nơi khác; tôi phải làm ông kia bà nọ trong giáo xứ vì mấy người nầy làm chẳng ra chi; phải có tôi, phải có đóng góp của tôi thì việc mới thành công được….

Tất cả, tất cả những suy nghĩ ấy đều có thể bị đánh lừa bởi sự giả dối của thần-dữ-kiêu-ngạo-thật-trong-lòng đang chỉ đạo.

Không hẳn chỉ người có quyền, có tiền, có tài mà sinh ra lòng kiêu ngạo. Thực ra, đôi khi họ chưa kịp kiêu ngạo thì kẻ yếu thế, người nghèo khổ, người kém cỏi đã kiêu ngạo trước họ rồi – kiêu ngạo với lòng bất mãn, ganh tỵ, chống đối, chê bai, chỉ trích. Thần dữ kiêu ngạo không trừ ai, không miễn trừ thành phần nào và cũng không hà tiện một thủ đoạn nào, miễn là nó đạt được mục đích tối hậu là làm cho con người không được tham gia vào bữa tiệc Nước Thiên Chúa.

Chúa Giêsu hôm nay cũng đang cảnh cáo mỗi chúng ta-những con người thích ngồi chỗ nhất, mâm cỗ nhất, thích được đánh bóng, thích được ngụy tạo một chổ đứng một vị trí, thích cho danh mình được cả sáng…

Lời Chúa cho chúng ta cơ hội đặt mình trước mặt Ngài để nhờ ánh sáng Lời Ngài chiếu dọi vào tận cõi lòng mà tìm ra cho được sào huyệt thường trú của thần dữ kiêu ngạo tinh quái.

Nhưng dành cho những ai có lòng khiêm nhượng

“Thứ nhất khiêm nhượng chớ kiêu ngạo” -nhân đức ưu tiên được đề cập đến trong “cải tội bảy mối”, là lời dạy thiết thực của Chúa Giêsu trên trang Tin Mừng hôm nay dành cho những ai muốn bảo đảm một vé mời dự tiệc Nước Thiên Chúa.

“Khi anh được mời, thì hãy vào ngồi chỗ cuối…” Chúng ta đã được “mời vào dự tiệc” Nước Thiên Chúa qua các Bí tích, từ việc tháp nhập vào thân thể Chúa Kitô, được gọi Thiên Chúa là Cha, được nhận lấy Thần Khí sự sống, được sống bằng chính Mình Máu Thánh Chúa Giêsu trong tiệc Thánh Thể…, nhưng còn việc “vào ngồi chỗ cuối” thì chắc hẳn phải xem lại.

Chỗ cuối Chúa dạy chúng ta vào ngồi là chỗ của Đức Giêsu,

– Chỗ cuối, chỗ chấp nhận thân phận làm người, và chấp nhận dưới mức tận cùng của kiếp người với lòng khiêm hạ tối đa vì lòng yêu mến và tuân phục Cha, để mọi người được cứu rỗi. Chỗ cuối, chỗ của yêu thương và phục vụ tận tình.

-Chỗ cuối, chỗ của lòng tin tuyệt đối, lòng cậy vững vàng-tín thác hoàn toàn, và chỗ của lòng mến không vụ lợi.

-Chỗ cuối, chỗ nên giống Chúa Giêsu hoàn toàn trong cách suy nghĩ, cách nói, và cách cư xử: kiên quyết loại trừ thần dữ kiêu căng trong lòng trí con người,và mặc lấy tâm tình đơn sơ nhỏ bé phó thác để hoàn toàn thuộc về Thiên Chúa và cho vinh danh Thiên Chúa.

-Lòng khiêm nhượng của Đức Giêsu là từ bỏ chính mình, chính cái rất riêng của mình, lắng nghe và thấu hiểu ý của Cha. Vì vậy, chỗ của Chúa Giêsu, là chỗ khiêm nhượng chân thành nhưng khôn ngoan nhờ việc luôn kết hợp mật Thiết với Thiên Chúa Cha và làm theo ý của Cha qua sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần.

Lời dạy dành cho người mời tiệc “hãy mời những người nghèo khó…” mặc khải cho chúng ta biết ý định của Thiên Chúa Cha về tiêu chuẩn khách được mời vào trong tiệc Nước Thiên Chúa: khiêm nhượng.

Bữa tiệc của Nước Thiên Chúa không dành cho những người kiêu ngạo, nhưng dành cho những người có lòng khiêm nhượng, người chọn vào ngồi chỗ của Đức Giêsu, chỗ rốt cùng vì quảng đại đến cùng cho công cuộc cứu rỗi.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho con biết chỗ của Chúa và vào ngồi chỗ của Chúa trong cuộc đời, trong Giáo Hội và trong Nước Chúa.

Về mục lục

.

CHỖ RỐT HẾT

                    Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Vào thời Đức Giêsu, dường như người ta chưa có thói quen xếp chỗ ngồi trước trong bữa tiệc. Cho nên, khi Đức Giêsu được một Thủ lãnh Biệt phái mời đến dự tiệc, Ngài trông thấy có những người tìm ngồi chỗ danh dự.

Có những người lại giả vờ ngồi chỗ rốt hết, nhưng cố ý để chủ nhà mời lên trên cho hãnh diện. Đây là thói quen của những người Biệt phái, họ thường ưa thích ngồi chỗ cao trong nơi đám tiệc và Hội đường.

Ngày nay, trong bất cứ bữa tiệc nào, chuyện xếp chỗ ngồi là việc khá quan trọng. Chỗ ngồi thường được xếp theo tuổi tác, địa vị và quan hệ xã hội.

Thế nhưng, trong bàn tiệc Nước trời thì khác hẳn: chỗ danh dự nhất chính là chỗ rốt hết. Người nào càng khiêm tốn bao nhiêu thì sẽ được Chúa cao nâng bấy nhiêu. “Ai tự nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai tự hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.

Đức Giêsu không bao giờ dạy một chân lý nào mà Ngài không làm gương trước. Nếu trần gian này ví như một bàn tiệc, thì khi bước vào bàn tiệc trần gian, Ngài đã chọn cho mình một chỗ rốt hết.

Ai trong chúng ta dù nghèo đến đâu đi nữa, thì cũng sinh ra trong một ngôi nhà êm ấm; còn Đức Giêsu sinh ra trong hang lừa máng cỏ, thiếu thốn mọi tiện nghi.

 Anh chị em cho dẫu có nghèo đi chăng nữa, thì cũng có một mái nhà hay ít ra một túp lều để che nắng che mưa; còn Đức Giêsu nói: “Con cáo có hang, chim trời có tổ, nhưng Con  Người không có nơi gối đầu”.

 Chúng ta dầu thiếu thốn đến đâu đi nữa thì khi chết cũng nằm trên giường, y phục đầy đủ, con cháu họ hàng ấm cúng. Còn Đức Giêsu khi Ngài chết trên cây thánh giá, chỉ mình trần thân trụi không mấy người thân bên cạnh.

Chúng ta dù có cùng cực đến mấy đi nữa khi chết còn có nấm mồ để chôn; còn Đức Giêsu phải chôn nhờ nơi ngôi mộ người khác. Thật đúng là “sinh vô gia cư tử vô địa táng”.

Đức Giêsu chọn chỗ rốt hết không phải là Ngài không có khả năng, Ngài là Thiên Chúa quyền năng làm được mọi sự, Ngài có đầy đủ tất cả, nhưng Ngài tự chọn chỗ rốt hết, để làm gương cho chúng ta sống tinh thần khiêm tốn.

Chẳng những Đức Giêsu dạy chúng ta chọn chỗ rốt hết, nhưng Ngài còn để lại gương khiêm tốn phục vụ bằng việc rửa chân cho các môn đệ. Đang dùng bữa tiệc ly, Ngài đứng dậy, rời bàn ăn, cởi áo choàng, lấy khăn thắt lưng, rồi đổ nước vào chậu, quỳ gối xuống rửa…. Cởi áo choàng là cởi bỏ địa vị Thiên Chúa, lấy khăn thắt lưng và quỳ gối là đóng vai đầy tớ. Ngài dạy chúng ta khi phục vụ người khác, thì đừng nghĩ đến địa vị của mình, nhưng noi gương Chúa hạ mình xuống phục vụ như người tôi tớ.

Đức Giêsu biết trước Phêrô sẽ chối Ngài; Giuđa sẽ phản bội Ngài, nhưng Ngài vẫn rửa hết 12 đôi chân. Ngài rửa đi những yếu đuối tội lỗi của các ông; Ngài lau sạch những bàn chân còn vương lấm bụi trần, tranh giành chỗ thấp chỗ cao, để các ông xứng đáng dự tiệc với Ngài.

Qua đó, Đức Giêsu muốn chúng ta bắt chước Ngài rửa chân cho nhau. Cần rửa đi những gì chưa hài lòng nhau giữa vợ chồng và con cái; cần rửa sạch đi những bất đồng chia rẽ với nhau trong tình làng nghĩa xóm.

Đức Thánh Cha Piô XII nói rằng: “Nếu trong gia đình mà người chồng biết quên mình đi chỉ nghĩ đến vợ và con cái; nếu người vợ biết quên mình chỉ lo cho chồng con; và con cái biết quên mình chỉ nghĩ đến cha mẹ và anh em, thì gia đình đó là thiên đàng trần thế”.

Thật vậy, nếu mỗi gia đình là một bàn tiệc, mà ai cũng tìm chỗ rốt hết, có nghĩa là quên mình để sống cho người khác, thì gia đình đó thật hạnh phúc biết bao.

Anh chị em thân mến,

Cử hành Thánh lễ, là chúng ta tham dự một bữa tiệc. Chúa là chủ tiệc, chúng ta là khách được mời. Chúa đãi chúng ta bằng chính Thịt Máu của Ngài.

Chớ gì mỗi lần tham dự bàn tiệc thánh, không phải chúng ta chọn chỗ rốt là đứng cuối, hay đứng ngoài nhà thờ, nhưng chúng ta hãy học lấy tinh thần khiêm tốn như Chúa đã làm gương cho chúng ta.

Đọc lại những trang Tin mừng, không thấy Đức Giêsu mời chúng ta học nơi Ngài cách làm phép lạ; học nơi Ngài cách chữa bệnh hay đi rao giảng; nhưng chỉ mời gọi chúng ta học nơi Ngài bài học duy nhất đó là “Hiền lành và khiêm nhường”.

Xin cho mỗi người chúng ta là những học sinh giỏi được tốt nghiệp trong mái trường Giêsu, để ngày sau được Thầy Giêsu cao nâng chúng ta vào bàn tiệc nước trời. Amen.

Về mục lục

.

HẠ MÌNH XUỐNG

Lm. Giacôbê Phạm Văn Phượng

Đọc Tin Mừng chúng ta thấy có một hạng người hay bị Chúa Giêsu chiếu cố, có khi khiển trách nặng lời, đó là những người Pha-ri-sêu. Phải công bằng nhìn nhận rằng: những người Pha-ri-sêu có nhiều cái hay, nhưng đồng thời cũng có nhiều cái dở. Một trong những cái dở đó là giả hình và kiêu ngạo. Họ tự cho mình là hơn người, nên hay tìm chỗ nhất và ghế danh dự trong hội đường hoặc nơi phòng tiệc, và thích được bái chào nơi phố xá. Chúa Giêsu thấy đó là một thái độ cần sửa chữa nên Ngài đưa ra một lời khuyên: khi được mời dự tiệc, đừng ngồi vào chỗ nhất, vì hễ ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, và ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên.

Thật ra, trong Cựu Ước cũng đã có những lời khuyên tương tự: “Trước mặt vua, con chớ vênh váo và đừng ngồi chỗ của kẻ quyền cao”, “Hãy ngồi dưới hai hoặc ba chỗ, để thà người ta mời mình lên hơn là bị mời xuống”, và các kinh sư cũng thường dạy: “Tôi nâng mình lên là tôi tự hạ mình xuống, và hạ mình xuống là nâng lên”. Những lời trên đây chúng ta thấy rất gần với lời Chúa dạy hôm nay.

Như vậy, có phải Chúa Giêsu dạy chúng ta một tiểu xảo, một mánh lới không? giả vờ hạ mình xuống để được nâng lên, giả vờ ngồi chỗ cuối, chỗ dưới để được mời lên trên? Chúng ta có thể trả lời ngay: chắc chắn là không. Chúa không dạy chúng ta một tiểu xảo, bởi vì nếu Chúa có ý như vậy thì Ngài đã làm ngược lại chính chủ trương của Ngài. Ngài không dạy chúng ta hạ mình xuống với hậu ý là để được cất nhắc lên, và ai có dụng tâm hay ý đồ như vậy, thì là kẻ háo danh chứ không còn phải là người khiêm nhường nữa.

Hạ mình xuống không phải là một tiểu xảo, một mánh lới mà là chân thành nhìn nhận giá trị thực sự của mình. Nói rõ hơn, hạ mình xuống là khiêm nhường, mà khiêm nhường thực sự là biết mình, biết sự thật về ưu điểm cũng như khuyết điểm của mình. Chúng ta có biết mình thực sự không? Khó lắm, bởi vì tự ái, kiêu căng, ích kỷ dễ làm chúng ta phán đoán, suy nghĩ, nhận định lệch lạc. Chúng ta hay có khuynh hướng phóng đại: phóng đại những cái tốt, cái hay của mình và phóng đại những cái xấu, cái dở của người khác. Vì thế, hạ mình xuống là sửa lại những phóng đại lệch lạc cho đúng sự thật, đúng với chân giá trị của mình.

Cũng thế, chúng ta hay dựa vào một số khả năng, một số uy quyền của mình để cho rằng mình có quyền trên tất cả. Chúng ta thành công trong một phương diện mà cứ cho rằng mình thành công trên mọi mặt, cho rằng mình không thể thua kém ai hay không ai có thể hơn mình. Chúng ta tự đưa mình lên đến trời và tìm cách hạ anh em xuống tận bùn đen. Như thế là tự cao tự mãn, khoe mẽ cầu danh, phô trương, hợm mình, tự hào về những chuyện nhỏ nhen, và nếu có ai hơn mình thì bực tức, khó chịu, rồi tìm cách bôi nhọ, hạ giá người ấy và bao lâu người ấy còn hơn mình thì chúng ta khổ tâm dằn vặt. Đó là chính mình làm khổ mình, đó là kiêu ngạo hạng nặng.

Kinh nghiệm cũng dạy: khước từ một lời khen thì rất dễ, nhưng đón nhận một tiếng chê lại rất khó; phủ nhận một ưu điểm người ta ca tụng thì rất dễ, nhưng nhìn nhận một khuyết điểm người ta phê phán lại rất khó. Giả sử có ai đó khen chúng ta một điều gì, có thể chúng ta hỉnh mũi và im lặng thích thú trong lòng. Nhưng nếu có ai chê chúng ta một điều gì, chúng ta có đủ bình tĩnh để im lặng không hay chúng ta nóng mặt, bực tức và bốp chát lại liền? rõ ràng “cái tôi” của chúng ta còn lớn lắm. Vậy khiêm nhường hạ mình xuống là chấp nhận xóa bỏ “cái tôi” của mình. “Cái tôi” có thể xuất hiện hay bộc lộ dưới nhiều hình thức: trong ước muốn thống trị người khác, trong ý chí muốn trổi vượt và tìm cách gây ấn tượng nơi người khác, cả trong những thái độ nhún nhường, có khi ngầm chứa bên trong lại là ý định tạo ảnh hưởng của mình.

Như vậy, bài học khiêm nhường Chúa Giêsu dạy luôn mang tính thời sự nóng bỏng đối với cá nhân mỗi người chúng ta. Ai dám bảo đảm là mình luôn luôn có sẵn một thái độ từ tốn, khiêm nhường trước mặt Chúa và trước mặt đồng loại? Đó đây trong ngõ ngách tâm tư, một lúc nào đó, cái tư tưởng kiêu căng, tự phụ, tự cao, tự đại có thể xuất đầu lộ diện và chi phối suy nghĩ, hành động của chúng ta. Vì thế, chúng ta phải luôn đề cao cảnh giác và cố gắng tập luyện khiêm nhường luôn mãi.

Tập luyện bằng cách nào và thế nào? Trước hết là phải cầu nguyện, bởi vì trong những giây phút thinh lặng của cầu nguyện, chúng ta sẽ suy nghĩ lại, và nhất là sẽ được ơn Chúa soi sáng để biết rõ chính mình và biết mình làm việc, hành động, đối xử vì tình yêu Chúa hay vì những lý do gì khác như ích kỷ, danh vọng, khoe khoang. Rồi trong thực tế quan hệ với nhau, chúng ta phải tránh đừng bao giờ nói về mình hay so sánh mình với người khác, cũng đừng bao giờ khinh thường, chê bai, nói hành, nói xấu người khác… Tất cả những điều đó đều là “sản phẩm” của khoe khoang và kiêu ngạo. Vì thế, khi cảm thấy bị cám dỗ so sánh mình với người khác hoặc muốn chê bai, nói hành người khác, thì chúng ta hãy làm ngược lại, là chân thành cố gắng tìm hiểu họ, thông cảm với họ, đánh giá cao những tài năng hay những thành quả của họ. Chúng ta hãy tập nói những lời khen và chia vui với những thành công của người khác.

Tóm lại, thái độ kiêu xa, cao ngạo bao giờ cũng khiến cho người khác khó chịu, xa tránh. Trái lại, ai cũng mến yêu những người khiêm nhu, từ tốn. Vậy chúng ta hãy cố gắng loại bỏ tất cả những gì là kiêu xa, cao ngạo và phát triển những gì khiêm nhu, từ tốn.

Về mục lục

.

KHIÊM TỐN LÀ NHẬN RA CHÍNH MÌNH

Lm. An Phong

Tin Mừng Chúa Nhật 22 Thường Niên C xoay quanh đề tài Đức Giêsu phê phán những người Pharisêu về thói đạo đức giả, thích phô trương, thích được người ta trọng vọng. Hôm nay, ngay tại bàn ăn trong nhà của chính họ, Người cũng phê phán sự cao ngạo của họ bằng một dụ ngôn.

Nội dung dụ ngôn đó là: Nếu các thực khách tự chọn chỗ ngồi rốt hết, thì ông chủ sẽ mời họ lên chỗ nhất và ngược lại.

Những người Pharisêu là những người thích chọn chỗ nhất. Họ luôn tự đánh giá mình là hạnh kiểm loại “A”. Trước mặt Thiên Chúa, họ kể lễ dài dòng những “thành tích” đạo đức của mình. Trước mặt người khác, họ coi thường và cho mình “quyền được hơn người khác”.

Nhưng trong vương quốc của Thiên Chúa thì khác: trật tự hiện nay sẽ bị đảo lộn; những chỗ tốt nhất là do Thiên Chúa ban như một quà tặng, chứ không do con người tự chọn cho mình. Như thế, con người có là chi trước mặt Thiên Chúa. Họ cần cúi mình xuống – khiêm tốn.

Khiêm tốn đích thực là nhìn nhận thực tế những gì mình hiện có và mình là. Khiêm tốn đích thực là dám chấp nhận những gì mình có chỉ là hồng ân của Thiên Chúa. Khiêm tốn đích thực sẽ mang lại niềm vui, bình an. “Tất cả là hồng ân” (thánh Têrêsa Hài đồng Giêsu).

Đức Giêsu còn đưa ra một lời khuyên nghịch lý: “Khi nào ông đãi khách ăn trưa hay ăn tối… hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù”. Không thể hiểu câu này theo nghĩa đen, nhưng cần hiểu theo một nghĩa sâu xa hơn, tức là về các mối tương quan xã hội khác nhau của mỗi người chúng ta.

Thực vậy, mỗi người chúng ta thường được người khác đánh giá qua đẳng cấp xã hội, tiền tài, nghề nghiệp… Đó là “môi trường” bao chung quanh một người. Chính những “môi trường” này đã phân chia con người làm nhiều hạng, loại trong cùng một xã hội. Những người cùng một “môi trường” như nhau thường liên kết, giao du với nhau. Từ đó, sự phân cách trở nên ngày càng lớn. Chúng ta thường bị điều kiện hóa bởi “môi trường” của mình. Điều này thường ngăn cản chúng ta không mở rộng vòng tay, tấm lòng tới tất cả mọi người không phân biệt một ai. Đức Giêsu đến để phá đổ những bức tường ngăn cách giữa con người với nhau. “Không còn Do Thái hay Hy Lạp, không còn nô lệ hay tự do” (Gl 3,28), không còn người giàu hay người nghèo, thánh nhân hay người tội lỗi. Tất cả mọi người đều phải có chỗ trong con tim của chúng ta, nhất là những người yếu đuối, bất hạnh, tàn tật… Sự khiêm tốn đích thực là nhìn nhận mình chẳng là gì hết trước mặt Thiên Chúa, cho dù mình có thuộc về một “môi trường sống” cao hay thấp; đồng thời nhìn nhận mọi người là anh chị em cùng một Cha trên trời.

Nơi bàn tiệc Thánh Thể chúng ta tham dự mỗi ngày, không có chỗ nhất hay chỗ bét, chỗ ưu tiên, dành riêng cho tùy loại người. Tất cả đều được Thiên Chúa tiếp đón như những người con và như những người anh em của Đức Giêsu. Đời sống người kitô hữu là một bàn tiệc Thánh Thể, thánh lễ kéo dài. Thánh lễ là cuộc đời và cuộc đời là thánh lễ. Chúng ta được Thiên Chúa mời gọi tham dự bàn tiệc Thánh Thể cùng với anh chị em mình trong Đức Giêsu Kitô. Điều cần thiết là biết nhận ra chính mình trong tương quan với Thiên Chúa và với anh chị em mình.

Phải chăng chúng ta nhận ra chính mình chẳng là gì trước mặt Thiên Chúa? Phải chăng chúng ta nhìn nhận mọi người là anh chị em, cùng một Cha trên trời?

Lạy Chúa,

Chúng con hiểu rằng

tự sức mình chúng con chẳng làm được gì.

Tất cả những gì chúng con có được chỉ là hồng ân.

Xin cho chúng con khiêm tốn đủ

để cho phép người khác giúp đỡ mình,

đồng thời cũng cởi mở đủ

để người khác có thể tìm thấy nơi chúng con

một sự tương trợ khi họ cần đến.

Về mục lục

.

KHIÊM NHƯỜNG, HIẾU KHÁCH VÀ LUẬT LỆ

Lm. Đào Quang Chính

Bài phúc âm chúng ta nghe trong tin mừng theo thánh Luca Chúa nhật tuần 22 này không đơn giản như đôi khi chúng ta nghĩ. Nếu đọc trọn đoạn thánh kinh của Luca (Lc 14 1; 7-14), chúng ta thấy trước khi dậy dỗ về sự khiêm hạ, Chúa đã chữa lành một bệnh nhân bị phù thũng ngay tại nhà đó (Lc 14: 2-6).

Một cách đơn sơ, chúng ta đồng ý với sự can đảm của Chúa khi Người, tuy được mời đến dự bữa ăn nơi nhà của người Pharisêu, can đảm lên tiếng chỉ trích thói quen của các vị “vọng tộc” giầu có -trong đó có người Pharisêu- thường thích ngồi chỗ quan trọng nhất nơi bữa ăn hoặc bàn tiệc. Chúng ta nhấn mạnh đến lời dậy dỗ của Chúa về hai nhân đức: khiêm tốn và hiếu khách.

Tuy nhiên, nơi đây, Chúa không chỉ nhằm đến hai nhân đức trên mà còn thách đố cả lề luật và lối sống Do thái thời đó.

Như nhiều tôn giáo khác, Do thái giáo không hẳn chỉ là một chuỗi những luật lệ về Yahweh – Chúa, nhưng còn là một tổng hợp những tập quán, cách thực hành, liên quan và ảnh hưởng đến mọi khía cạnh trong cuộc sống con người.

Luật điều Torah

Năm cuốn sách đầu trong cựu ước gọi là sách luật hoặc sách Torah. Tổng cộng có 613 điều luật. Sách đề cập đến những gì người Do thái phải tuân theo khi thức dậy buổi sáng, những gì được ăn và không được ăn, những gì phải làm để tuân giữ ngày Sa-bat và lễ trọng, những điều phải theo khi liên hệ với Chúa và với tha nhân..Tiếng Do thái gọi những điều luật này là Halakhah. Mục đích của Halakhah là để tăng thêm chiều kích tinh thần của đời sống, tránh đi các việc làm quá vật chất, nhờ đó, họ dễ giao tiếp với Chúa hơn. Thí dụ như sau khi ăn, hãy nhớ tạ ơn. Tạ ơn sau khi ăn (birkat ha-mazon) là một trong những lời kinh quan trọng nhất của người Do thái. Sách Đê nhị Luật đoạn 8:10 dậy rằng “Khi con đã ăn xong, nhớ tạ ơn Chúa, Chúa của con, vì Ngài đã ban cho con quốc gia đẹp tốt này”. Tạ ơn Chúa sau bữa ăn gồm 4 loại:

  1. Birkat Hazan: tạ ơn Chúa đã ban thức ăn cho thế giới
  2. Birkat Ha-Aretz: tạ ơn Chúa đã mang dân Do thái ra khỏi Ai cập, thiết lập giao ước và ban cho dân Do thái đất làm gia nghiệp.
  3. Birkat Yerushalayim: tạ ơn Chúa đã tái lập Giêrusalem và hứa ban đấng Me-si-a
  4. Birkat Ha-Tov v’Ha-Maytiv: tạ ơn Chúa cho sống đẹp và làm việc thiện.

Trong số 613 luật điều Torah, có những luật điều ghi chép rõ ràng và minh bạch, như chớ giết người. Có luật điều nửa minh bạch nửa không, như giữ ngày Sa-bát, không làm việc xác ngày Sa-bát, mà không nói rõ phải giữ như thế nào.

Luật điều từ các tư tế.

Để giải thích luật, nhất là những luật không minh bạch, các thầy Rabbi đưa ra điều luật gọi là Rabbanan. Luật Rabbanan cũng mang tính cách ràng buộc như luật Torah. Thí dụ luật Rabbi giải thích điều luật chớ làm việc xác ngày Sa-bát bằng cách nói rằng trong ngày Sa-bát, không được nhấc búa, nhấc bút, nhấc tiền, vì những động tác này chứng tỏ rằng người đó đang làm việc. Điều luật Rabbanan giúp người Do thái khỏi vô tình mắc lỗi gọi là gezeirah. (Do đó, khi Chúa thách đố các người Pharisêu có nên chữa bệnh trong ngày Sa-bát hay không, họ đã không thể và không dám trả lời.)

Còn loại điều luật khác nhằm giúp dân sống và nhớ luật thường xuyên, gọi là takkanah. Takkanah buộc người Do thái phải đọc sách luật các ngày thứ hai và thứ năm.

Từ các luật buộc trên phát sinh ra các hệ quả không lường trước. Để đọc sách luật và đọc lời tạ ơn Chúa sau bữa ăn, người ta cần có những người thạo luật và những chỗ dành riêng. Từ đó nhiều người thích được ở chiếu nhất, chỗ quan trọng hầu dễ nghe và dễ đọc sách luật, đồng thời cũng chứng minh cho người khác thấy mình luôn lưu tâm và kính trọng lề luật.

Chúa Giêsu, khi dậy dỗ người nghe khiêm nhường và hiếu khách đã thách đố cả lề luật Rabbanan. Có lẽ nhờ vậy chúng ta hiểu rõ hơn tại sao Chúa nói “ta đến không để phá hủy mà để làm trọn lề luật (Mt 5: 17).”

Nghe luật, đọc luật, đọc kinh tạ ơn trước và sau bữa ăn như luật dậy là điều nên làm và phải làm, nhưng từ đó biến thành những lo lắng quá độ về tôn ti, trật tự trong bữa ăn, chỗ ngồi ở hội đường, cộng đoàn hoặc nhà thờ, thì hành động đó lại trở nên sai trái. Chúa đã dùng cơ hội chỗ ngồi trong bữa ăn dậy dỗ cho mọi người biết đâu là sự khiêm hạ và đâu là sự hiếu khách thực. Khiêm hạ là người biết rõ vị thế của mình -không phải chỉ với người khác- mà nhất là với Chúa. Biết mình chẳng là gì trước mặt Chúa. Đằng khác, cũng đừng nên đi đến thái cực khác. Nhiều người ra vẻ khiêm nhường để chủ nhà phải mời đôi ba lần mới dời lên bàn trên. Tuy nhiên, nếu chủ nhà “quên” mời thì về nhà giận dữ..

Hiếu khách là người “khi con đãi khác ăn trưa hoặc ăn tối, đừng kêu bạn bè, anh em hay bà con hoặc láng giềng giầu có, kẻo họ cũng mời lại con.. Trái lại, hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì đáp lễ. Như vậy con mới thật có phúc (Lc 14: 14).” Hiếu khách như trên đúng như lời cổ nhân ta thường nói “làm phúc tay phải, đừng cho tay trái biết.”

Để xã hội có trật tự, cần có tôn ti, nhưng đừng quá quan trọng “chiếu trên, chiếu dưới.” Hãy thấy Chúa trong những người hèn kém. Hãy nhìn đến tương giao của mình với Chúa. Có như vậy mới là làm trọn lề luật.

Về mục lục

.

HÃY NGỒI CHỖ CUỐI

Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Đức Giêsu được một người Pharisiêu (trong hàng ngũ lãnh đạo) mời đến nhà dùng bữa. Khi đến, Người cảm thấy mình đang bị dò xét. Bởi các đối thủ đang theo dõi Người sát sao, hy vọng tìm ra lý do, để vu cáo chống lại Người. Đức Giêsu cũng thấy khách dự tiệc cứ chọn cỗ nhất mà ngồi, họ tranh giành, tỏ ra kiêu căng tự đắc và ích kỉ. Đức Giêsu đưa ra hai giáo huấn khá ngắn:

Giáo huấn thứ nhất nói với khách được mời.

“Đừng ngồi cỗ nhất”. Điều Đức Giêsu nói đây là một quy luật, một châm ngôn đã có từ lâu đời trong nhân gian. Sách Châm Ngôn viết: “Trước mặt vua, ngươi chớ làm bộ bệ vệ, đừng ngồi vào chỗ các quan lớn, được người ta mời: “Hãy lên đây” tốt hơn là bị hạ xuống trước mặt bá quan” (Cn 25,6-7; St 7,4). Sách Lêvi cũng dạy khách ngồi bàn ăn bằng những lời: “Hãy ngồi tụt xuống hai hay ba cấp, dưới chỗ ngươi đáng ngồi, để người ta mời: Hãy ngồi lên “hơn là” đi xuống dưới ngồi”.(Lv 7,1-5). Bởi thế, những luật sĩ, các biệt phái không tự ái, khi nghe Đức Giêsu nói “Đừng ngồi cỗ nhất”, cho dù họ đang tìm cỗ nhất, bởi họ cho Đức Giêsu chỉ nhắc lại Kinh Thánh.

Tuy nhiên, theo Noel Quesson, lời Đức Giêsu đây, không đơn giản chỉ là những lời dạy về phép lịch sự ở bàn ăn… song còn đưa chúng ta sang bình diện Nước Thiên Chúa. Trong nước Thiên Chúa: “Phàm ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên”. Thực vậy, không phải tội lỗi chống lại ơn cứu độ nhiều nhất, chính là tình cảm về sự công chính bản thân mới là bước cản chúng ta đến gặp Đấng Cứu chuộc. Kiêu ngạo là tội nặng nhất trước mặt Thiên Chúa, mọi tội khác người ta phạm chỉ vì yếu đuối, nhưng tội kiêu ngạo là cố tình loại bỏ Thiên Chúa ra khỏi đời mình, không cần Ngài, không muốn có Ngài. Đức Maria trong kinh Magnificat đã nói: “Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường”. Đó là việc Thiên Chúa ưa thích, đó là việc Thiên Chúa thường làm. Lời Chúa còn đó: “Hãy học cùng Tôi, vì Tôi hiền lành và khiêm nhường thật lòng”.

Giáo huấn thứ hai nói với chủ nhà.

Theo lẽ thường, ta chỉ mời những người có liên hệ với mình: Bà con, họ hàng, thân hữu, những người gần gũi do yếu tố tinh thần, vật chất hay một cách nào đó. Những người đó đến lượt, họ sẽ mời lại, để đáp lễ theo luật có đi có lại: Ông mất chân giò bà thò chai rượu. Còn những người nghèo khổ, tàn tật, đui mù, thường bị ta bỏ qua.

Luật Dothái dạy: Những người điếc lác, thọt chân, cụt tay, mắt hỏng không được tham dự các sinh hoạt tế tự trong đền thờ (2Sm 5,8; Lv 21,18). Những người Étsênien ở Qumrân còn quả quyết: “Những người đui mù, khuyết tật, thọt chân, què tay không được tham dự hội đường các ngày Sabbát, cũng không được ở giữa hội đoàn của những người danh tiếng”.

Giờ đây, Đức Giêsu lại nói với chủ nhà: “Khi ông mở tiệc, đừng mời bạn bè, anh em hay bà con hoặc láng giềng giầu có. Ông hãy mời những người nghèo khó, tàn tật, què quặt, đui mù. Họ không có gì trả lễ và như thế ông mới thật có phúc, vì ông sẽ được trả công trong ngày các kẻ chết sống lại”. Thực ra, đây không phải là những lời mới mẻ.

Sách Khôn Ngoan Aram của người Dothái viết: “Hãy nhận vào nhà bạn kẻ thấp hơn bạn và kẻ nghèo hơn bạn, nếu anh ta ra đi và không trả ơn bạn, Chúa sẽ trả cho bạn”. Sách Đệ Nhị Luật dạy: “Ba năm một lần, anh em hãy đưa ra tất cả thuế thập phân của năm ấy, và đặt ở cửa thành anh em, để Thầy Lêvi, người không được chung phần và hưởng gia nghiệp với anh em, người ngoại kiều và cô nhi quả phụ ở trong thành của anh em sẽ đến, họ sẽ ăn và được no nê, để Đức Chúa, Thiên Chúa của anh em chúc phúc cho mọi công việc tay anh em làm” (Đnl 14, 28).

Điều lề luật dạy làm cứ ba năm một lần. Đức Giêsu bảo: Hãy làm bất cứ lúc nào. Khi luật pháp bảo cứ để sẵn cổng thành cho người ta đến dùng, Đức Giêsu bảo hãy đi mời người ta lại. Cuối cùng luật pháp hứa đền bù ở đời này, Đức Giêsu bảo sẽ được báo đáp ở đời sau. Đức Giêsu đã chẳng lặp lại y nguyên luật pháp, Người đã triển khai, kiện toàn và đưa luật pháp lên bình diện đạo đức, thiêng liêng hơn.

Để kết luận, tưởng cũng nên kể đây một câu chuyện: Một chủ nông giầu có nọ mời các tá điền và những người làm công dùng bữa cơm tối tại nhà ông. Đây phải gọi là một yến tiệc mới đúng, bởi vì tất cả các món ăn đều được dọn trên các đĩa bằng sứ hay mạ bạc quý giá, còn rượu ngon hảo hạng được rót vào những ly thủy tinh đắt tiền. Bàn ăn được trải toàn khăn bằng vải và một bát nước rửa tay. Có một anh nông dân kia, vì trong đời anh chưa bao giờ được dự một bữa tiệc sang trọng và thịnh soạn đến thế, nên sau khi ăn uống no nê, anh đã bưng bát nước dùng để rửa tay uống cạn. Một vài thực khách sành điệu bắt đầu cười thầm, rồi tiếng cười bỗng bật thành tiếng. Thấy vậy, người chủ tiệc lập tức với tay bưng lấy bát nước trước mặt mình uống cạn. Cử chỉ này làm tắt ngay những tiếng cười chế nhạo sự quê mùa của anh nông dân kia.

Ước gì mỗi người chúng ta cũng làm như vậy.

Về mục lục

.

KHIÊM NHƯỜNG.

Lm. Giuse Nguyễn Minh Chánh

1/ Trong nét nhìn của Đức Giêsu để tuyển chọn những người thuộc về Nước Chúa, chắc chắn Chúa sẽ không theo tiêu chuẩn dựa trên bình diện xã hội. Vì Chúa không đánh giá con theo địa vị, giàu có, sang trong, tài năng, nhan sắc… Vậy Chúa dựa theo tiêu chuẩn nào để đón nhận một người thuộc Vương Quốc của Ngài? Trang Tin mừng hôm nay là câu trả lời cho những ai muốn thuộc về Chúa thì phải sống khiêm nhường.

2/ Khiêm nhường là bản chất của Chúa Giêsu. Vì Chúa đã khẳng định: Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhường trong lòng (x,Mt11,29). Về điều này, Thánh Phaolô trong thư gửi tín hữu Philípphê đã cảm nghiệm rất thấu đáo về thái độ khiêm nhường của Đức Giêsu, khi ngài đã thốt lên: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa mà không nghĩ nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa, nhưng đã hoàn toàn trút bỏ vinh quang mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân sống như người trần thế”(Pl 2,6-7).

3/ Chúa là Đấng khiêm nhường, nên những ai sống kiêu căng là đi ngược với bản chất của Chúa. Vì vậy Chúa luôn dạy mọi người trong cuộc sống phải có những tâm tình như Chúa.

Lời dạy của Chúa về đức khiêm nhường đã được Chúa nói đến bằng hình ảnh bữa tiệc cưới trong trang Tin mừng hôm nay. Chúng ta nên nhớ Chúa luôn dõi mắt nhìn từng người chúng ta: Ai khiêm nhường ai kiêu căng Chúa đều biết cả. Vì trong bữa tiệc Chúa nhận thấy khách dự tiệc cứ chọn chỗ nhất mà ngồi, nên Chúa đã dạy khi dự tiệc điều tốt nhất hãy ngồi vào chỗ cuối. Vì ai tôn mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được tôn lên (x,Lc14,7-12).

4/ Theo tự nhiên, khi ngồi chỗ cuối trong bữa tiệc có vẻ mình cảm thấy bị rớt giá, bị hạ thấp. Từ cảm nghĩ tự nhiên này cũng cho chúng ta thấy rằng: Kiêu căng thật dễ để làm nên nó, còn khiêm nhường thật khó để cho riêng mình. Nhưng làm gì thì cuối cùng khiêm nhường vẫn là con đường để chúng ta được an vui, được nâng cao, được mọi người yêu mến cảm phục, được gia nhập vào những người thuộc về Chúa trong bữa tiệc Nước trời.

Nói như thế cũng để chúng ta thấy muốn sống khiêm nhường, đó cũng không phải là chuyện dễ dàng. Thế nhưng mọi sự cũng sẽ trở nên dễ dàng, nếu chúng ta thực hành những điều kiện để thực sự là người sống khiêm nhường như Chúa.

5/ Điều kiên để sống khiêm nhường, trước hết đòi hỏi chúng ta phải cảm nghiệm thật sự về cả cuộc đời của Đức Giêsu là Thiên Chúa làm người, và trong thân phận con người Ngài mang lấy thân nô lệ, trong thân kiếp nô lệ Ngài đã tự hạ để phục vụ, để vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá.

Trong cuộc sống chúng ta hãy lấy Đức Kitô là lẽ sống cho riêng mình, hãy theo con đường Chúa đi và hãy sống theo lời Chúa dạy. Nhờ vậy mỗi ngày chúng ta sẽ được nên hoàn thiện, được diễm phúc mặc lấy tâm tình khiêm nhường như Chúa.

Thứ đến điều kiện để sống khiêm nhường là phải biết từ bỏ cái tôi của mình. Khi quá đề cao cái tôi thì tự nhiên nó sẽ xuất hiên muôn vàn hình thức dối trá như: Tham vọng chức quyền, triệt hạ người khác, đề cao bản thân, sống ích kỷ hẹp hòi, cạnh tranh về mọi phương diện… Từ chỗ thích sống phô trương như thế, cuối cùng sẽ dẫn đến tại hại không ngờ là mối tương quan với Thiên Chúa bị đổ vỡ. Vì Chúa đã nói: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc14,11). Còn mối tương quan giữa con người với nhau cũng sẽ không còn, cùng lắm chỉ còn một chút hình thức là bằng mặt chứ không bằng lòng.

6/ Chúa Giêsu rất quý trọng lòng khiêm nhường. Chúa luôn ưu tiên cho những ai chọn khiêm nhường là lẽ sống, Chúa sẵn sàng trao ban cho họ hạnh phúc viên mãn là được sống trong nhà Chúa suốt cuộc đời.

Đức Maria, trên hết Mẹ là người đã đáp lại trước tiên những điều kiện để được sống hạnh phúc bên Chúa. Cuộc sống của Mẹ đã rập theo khuôn mẫu của Đức Giêsu Con Mẹ là Đấng hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Hơn nữa trước ý định của Thiên Chúa, Mẹ đã tự nguyện xoá mờ đi cái tôi của mình để sẵng sàng vâng phục ý Chúa cách tuyệt đối trong những lúc túng quẫn nhất, cay đắng nhất, đau khổ nhất. Vì Mẹ đã chọn sống khiêm nhường để trở nên giống Chúa, để hoàn toàn được thuộc về Chúa. Vì vậy Mẹ đã hiểu rất rõ cách Thiên Chúa sẽ đối sử với những người quyền thế, những người khiêm tốn như thế nào, khi Mẹ nói: ” Chúa hạ bệ những ai quyền thế, Người nâng cao mọi kẻ khiêm nhường” (Lc1,52).

Chúng ta khiêm tốn xin Mẹ giúp chúng ta luôn can đảm sống như Mẹ. Nhờ đó mỗi ngày hình ảnh của Đức Giêsu là Đấng hiền lành và khiêm nhường sẽ sáng tỏ trong cuộc sống chúng ta. Và đó cũng là tiêu chuẩn để chúng ta được đón nhận vào Vương Quốc của Chúa mai sau. Amen.

Về mục lục

.

TÔI LÀ NGƯỜI KHIÊM TỐN NHẤT TRẦN GIAN

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Xưa lẫn nay và đến muôn đời, người khiêm tốn đều đáng được người đời mến phục, kính yêu. Trái lại, kẻ kiêu ngạo thì đều bị chê trách. Nếu họ là người quyền cao, chức trọng thì người ta có thể sợ, nhưng không hề kính chút nào. Sách Huấn ca cho ta những lời dạy thiết thực: “Con ơi… càng làm lớn, con càng phải tự hạ, như thế, con sẽ được đẹp lòng Đức Chúa. Vì quyền năng Đức Chúa thì lớn lao: Người được tôn vinh nơi các kẻ khiêm nhường. Kẻ kiêu ngạo thì vô phương cứu chữa, vì sự xấu xa đã ăn sâu mọc rễ trong nó”(Hc 3,18.20.28).

Bài tin mừng Chúa Nhật hôm nay tường thuật chuyện Chúa Giêsu nhân thấy nhiều người thích chọn chỗ nhất trong bữa tiệc nên đã lên tiếng dạy về đức khiêm nhường. Chắc hẳn Chúa Giêsu không muốn dạy chúng ta sống khiêm nhượng kiểu “ống điếu”, tức là cố tình hạ mình xuống để được người ta nâng lên. Với kiểu nói ngoa ngữ như ngụ ngôn, Chúa Giêsu đã làm nổi rõ cái hậu quả rất khác biệt giữa người khiêm tốn và kẻ kiêu ngạo. Vậy thế nào là khiêm tốn đích thực đây? Không gì hơn hãy nhìn vào cuộc đời, thái độ sống của Giêsu Kitô, Đấng đã minh nhiên mời gọi hãy học cùng Người vì Người hiền lành và khiêm nhượng (x.Mt 11,28-30). Qua cuộc đời của Đấng Cứu Độ, chúng ta có thể nói rằng khiêm tốn là nhìn nhận sự thật, sống trong sự thật và làm chứng cho sự thật (x.Ga 18,37).

Sự thật thứ nhất: Nhìn nhận những gì chúng ta là, chúng ta có đều là do bởi lãnh nhận. Chúa Giêsu đã nhiều lần khẳng định Người bởi Chúa Cha mà ra và mọi sự Người có đều do Cha ban tặng (x.Ga 7,29; 16,28; 17,1-26). Vì sao có nhiều người ngông cuồng, tự cao tự đại? Xin thưa rằng trên hết, trước hết là vì họ vô tình hay chủ ý quên mất sự thật này: họ được tạo thành chứ không phải tự mình mà có. Nếu giả như họ xác tín rằng ngay chính sự sống và những khả năng, chức phận, những thành quả hay công nghiệp của họ đều do bởi đã lãnh nhận, thì chắc chắn sẽ không có lý do gì để lên mặt, để tự mãn trong cao ngạo hay cuồng ngông.

Sự thật thứ hai: Nhìn nhận rằng chúng ta chỉ thực sự là mình nếu biết sống và hoạt động theo ý Đấng tạo nên chúng ta. Chúa Kitô nhiều lần khẳng định rằng Người đến thế gian này không phải làm theo ý riêng mà để chu toàn thánh ý Chúa Cha (x.Ga 6,38; 7,17). Người nhìn nhận việc thực thi thánh ý Chúa Cha chính là lẽ sống của Người. “Lương thực của Thầy là thi hành ý muốn của Đấng đã sai Thầy, và hoàn tất công trình của Người”(Ga 4,34). Khi đã tin nhận rằng những gì chúng ta đang là, đang đều do bởi đã lãnh nhận từ ai đó thì việc sử dụng sự sống mình, các khả năng của mình theo ý người ban tặng là lẽ tất yếu đương nhiên. Một trong những ý nghĩa của cuộc đời con người đó là sống cho tha nhân, sống vì tha nhân. “Con Người đến thế gian này không phải để được hầu hạ, nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mt 20,28).

Khi truyền bảo những người dọn tiệc đãi khách thì đừng mời những người thân quen, chức cao quyền lớn, mà hãy mời những người tàn tật, đui mù, nghèo hèn.. chắc chắn Chúa Giêsu muốn dạy người đương thời và chúng ta mọi thời rằng những gì chúng ta đang có như của cải, quyền uy đều do đã lãnh nhận và phải sử dụng chúng theo thánh ý Cha trên trời, Đấng muốn chúng ta phải yêu thương nhau một cách vô vị lợi, không chút tính toán thiệt hơn. Thể hiện tình yêu với những người nghèo hèn, bé mọn là một cách thế sống tình yêu vô vị lợi cách rõ nét.

Trong một dịp tỉnh tâm, một linh mục bạn thân dí dỏm: “Thưa các cha, con đây học hành kém cỏi, khả năng thì hạn chế. Tóm lại, tài thì mọn và đức cũng kém, cái gì cũng xin thua các cha, may ra có đức khiêm tốn thì trỗi vượt tất cả. Con thành thật thú nhận mình khiêm tốn nhất trần gian”. Quả thật, dù là giám mục hay linh mục, dù là tu sĩ hay giáo dân trong bậc hôn nhân, đang độc thân hay góa bụa, dù có chút địa vị hay chỉ là hạng “phó thường dân”, thảy chúng ta đều vướng phải cái tội của tổ tiên đó là sự kiêu ngạo. Sự kiêu căng ở đây chủ yếu không phải là thái độ cao ngạo, hống hách cách hịch hỡm đáng ghét, nhưng chính là tình trạng xa rời sự thật. Tên cám dỗ của vườn địa đàng thưở nào đã khiến tiên tổ và cả chúng ta mọi thời quên mất sự thật là chúng ta vốn là loài thụ tạo (x.St 3,1-7). Hữu ý hay vô tình lãng quên sự thật này thì chúng ta dễ lầm tưởng rằng những gì tốt đẹp chúng ta đang là, đang có là do chính bàn tay chúng ta làm nên. Đây chính là căn nguyên của sự kiêu ngạo đáng trách và cũng đáng phạt.

Trong hỏa ngục rất có thể có những người rộng rãi bố thí cho người nghèo. Cũng rất có thể có nhiều người đã từng làm nhiều phép lạ, những người giảng dạy các chân lý cao sâu…nhưng chắc chắn sẽ không hề có bóng dáng một người sống khiêm nhu, biết nhìn nhận và sống trong sự thật. “Chúng ta chịu như thế này là đích đáng, vì xứng với việc đã làm…Ông Giêsu ơi, khi ông vào Nước của ông, xin nhớ đến tôi!”(Lc 23,41-42). Khi biết nhìn nhận sự thật, người gian chịu treo bên phải Chúa Giêsu năm nào đã nhận được thành quả của sự khiêm nhu: “Tôi bảo thật anh, hôm nay, anh sẽ được ở với tôi trên Thiên Đàng” (Lc 23,43).

Về mục lục

.

ĐỐI XỬ TRONG TÂM TÌNH KHIÊM HẠ

VỚI NGƯỜI CHUNG QUANH

Lm. Trần Văn Trợ

Khi ta tự chọn cho mình chỗ tốt nhất, rõ ràng là ta chỉ biết nghĩ đến bản thân mình trước hết mọi người khác, đó chính là động lực âm thầm nhưng rất mạnh mẽ vẫn thúc đẩy nhiều công việc thường ngày của ta! Động lực này phô bày cái bản năng ích kỷ, lo lắng cho cái tôi trước nhất mọi sự! Nó hoàn toàn trái ngược với con đường quên mình trong phục vụ của Chúa Giêsu!

Bài học chọn ngồi chỗ cuối của Chúa Giêsu dành cho chúng ta không những là một bài học hết sức thực tiển trong cuộc sống để tránh bị bẻ mặt trước đám đông; nhưng còn là một thách đố liên lỉ cho mỗi người biết quên mình mà nghĩ đến anh chị em chung quanh trước tiên. Nó nhắc nhở ta suy nghĩ và hành động ngược lại với bản năng thô thiển của người thiếu đắn đo suy nghĩ trong hành động. Nó giúp ta biết để ý mở tâm hồn và cõi lòng mình ra mà chăm lo cho những người xung quanh trước, giống như gương lành của Chúa Giêsu đã sống và trối lại cho các môn đệ của Ngài. Chỉ có con đường duy nhất là hy sinh phục vụ trong tinh thần yêu thương mới giúp ta đi theo đúng con đường yêu thương phục vụ của Chúa Kitô. Vì nếu việc hy sinh phục vụ người khác là một bản năng tự nhiên trong mỗi chúng ta, chắc hẳn Chúa Giêsu đã không phải khổ sở xuống thế làm người, để nêu một tấm gương sống động cho loài người noi theo. Và gương sáng của Ngài vẫn còn đó, nhưng liệu có mấy người tin theo và dám sống như Ngài đã từng sống trọn vẹn một đời cho yêu thương phục vụ? Chúng ta là những người đang sống với danh hiệu Kitô hữu, nếu ta không dám sống như người đã từng sống trong việc yêu thương phục vụ, thì ta chỉ là những kẻ mạo danh, đội lốt làm nhơ ố Danh Thánh của Ngài, khiến người đời càng khinh rẻ Ngài thêm nữa!

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp con tin yêu Ngài tha thiết hơn, để con có thêm can đảm sống như Ngài muốn con sống, suốt một đời yêu thương phục vụ, hầu cho người đời nhận biết rằng chỉ có Chúa là Thiên Chúa thật của tình yêu thương.

Về mục lục

.

HÃY KHIÊM NHƯỜNG

Tu sĩ Jos.Vinc. Ngọc Biển

Bài Tin Mừng hôm nay tiếp nối giáo huấn của Đức Giêsu tuần trước. Nếu tuần trước, Đức Giêsu dạy hãy qua “cửa hẹp” mà vào, tức là phải vứt bỏ lại những thứ không cần thiết, phải chiến đấu, sám hối, và uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin Mừng, thì tuần này, Đức Giêsu dạy cho những người cùng dự tiệc với Ngài một bài học về đức khiêm nhường: “Ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên, ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống”(Lc 14,11).

Theo truyền thống của người Dothái, khi đến dự tiệc, mỗi vị khách thường được mời kể một câu chuyện để phục vụ những người cùng bàn với mục đích giúp cho khách ăn ngon miệng. Vì thế, họ thường kể cho nhau nghe những chuyện vui, bông đùa…, đến lượt Đức Giêsu, Ngài không kể chuyện tiếu lâm hay một vài mẩu chuyện vui như những người đồng bàn đã làm, nhưng Ngài quan sát và thấy người ta đi dự tiệc lại cứ thích ngồi chỗ nhất, chỗ danh dự, nên Đức Giêsu đã tập trú vào đề tài khiêm tốn khi được mời đi dự tiệc (x. Lc 12,7-11). Đây là một đề tài khiến cho những người dự tiệc hôm ấy nhức óc vì họ thường “đánh lận con đen” giả bộ khiêm nhường hoặc đòi được trọng vọng nơi đám đông.

Khởi đi từ sự quan sát, Đức Giêsu cất tiếng nói: “Khi có ai mời ngươi dự tiệc cưới, ngươi đừng ngồi vào chỗ nhất, kẻo có người trọng hơn ngươi cũng được mời dự tiệc với ngươi, và chủ tiệc đã mời ngươi và người ấy, đến nói với ngươi rằng: ‘Xin ông nhường chỗ cho người này’. Bấy giờ ngươi sẽ phải xấu hổ đi ngồi vào chỗ rốt hết”. Câu nói này của Đức Giêsu đã soáy sâu vào tận trái tim của những người dự tiệc hôm ấy, và Ngài đã lật tẩy mặt nạ giả bộ giả hình của họ, khiến họ cảm thấy khó chịu khi nghe Đức Giêsu nói.

Tiếp theo, Đức Giêsu đã đưa ra một tiêu chuẩn cho tất cả mọi người khi được mời đi dự tiệc: “Khi ngươi được mời, hãy đi ngồi vào chỗ rốt hết, để khi người mời ngươi đến, nói với ngươi rằng: ‘Hỡi bạn, xin mời bạn lên trên’. Bấy giờ ngươi sẽ được danh dự trước mặt những người dự tiệc”. Đây là quy luật tất yếu trong cuộc sống: “Ai nâng mình lên sẽ bị hạ xuống, còn ai hạ mình xuống sẽ được nâng lên”.

“Nâng lên” và “hạ xuống” là hai động từ trái ngược nhau. “Nâng lên” chính là muốn khẳng định mình; tự coi mình là nhất. Đây là hành vi của những kẻ kiêu ngạo, mà kiêu ngạo là đầu mối sinh ra những tội khác như: “Hà tiện, ghen tương, giận dữ, dâm ô, mê ăn uống, và lười biếng hay nguội lạnh” (x. GLHTCG. số 1866).

Những người kiêu ngạo thường không biết mình, không biết những giới hạn của mình, họ thường coi mình là “cái rốn vũ trụ”, coi mình là “number one”, là “đệ nhất đế vương…”.

Còn “hạ xuống” là thái độ của người khiêm nhường. Khiêm nhường là khiêm tốn nhìn nhận mình còn thiếu, còn bất toàn để vươn lên, còn yếu đuối để sám hối. Khiêm nhường còn là đón nhận sự thật và lấy sự thật làm căn gốc. Chấp nhận “tôi” là “tôi” với đầy đủ những mặt mạnh và mặt yếu của mình.

Người khiêm nhường thật là người luôn sống trong tinh thần tự hủy, coi mình không là gì cả. Khi bị xúc phạm, họ vẫn cảm thấy thanh thản, khi được khen, họ luôn tạ ơn Chúa và không có thái độ vênh vang tự đắc. Họ coi mọi sự mình có là do Chúa ban cho nên không hề có thái độ khinh khi những người thấp kém hơn mình.

Như vậy, qua bài Tin Mừng hôm nay, Đức Giêsu dạy cho mỗi chúng ta một bài học căn bản trong cuộc sống chính là sự khiêm nhường. Nếu không khiêm nhường, ta không thể gặp được Chúa. Môsê muốn gặp Chúa, ông phải cởi dép ra, phải trở về với sự trần trụi của mình khi đến trước nhan Chúa; Giakêu muốn được Chúa vào nhà thì ông phải tụt xuống khỏi cây sung; Phêrô và Phaolô muốn trở thành bạn hữu của Chúa và trở thành những kẻ “chung phần” với Thầy thì các ông phải khiêm tốn và vứt bỏ những thanh gươm kiêu ngạo, tự phụ và hiếu thắng của mình.

Thật vậy, trong đời sống gia đình, nếu vợ chồng, con cái không có thái độ khiêm nhường, chúng ta không thể đón nhận được sự khác biệt của nhau, không biết lắng nghe nhau, không thông cảm và tôn trọng nhau. Như thế, mỗi người sẽ là một hòn đảo, và một con chim én không thể làm nên một mùa xuân.

Trong cuộc họp, ai cũng thi nhau nói và ai cũng bảo vệ lập trường của mình, cho dù biết đó là điều sai, thì cuộc họp ấy thất bại và gây thêm chia rẽ.

Trên giảng đường, và trong trường đời, nếu ta bảo thủ và cho rằng chúng ta biết hết mọi sự và không cần lắng nghe, học hỏi…ấy là lúc ta đang tụt hậu mà không biết, ta đang trong tình trạng “ếch ngồi đáy giếng” mà chẳng hay!

Thật vậy, nhìn ra xã hội hôm nay, chúng ta thấy nhiều người luôn có khuynh hướng “chơi trội”. Nếu người khác có nhà một tầng, ta phải hai tầng; người khác có xe, ta phải có xe tốt hơn; chức tước và học vị cũng là những điều con người thời nay thường khẳng định…thái độ đó cho thấy ta không chịu thua kém người khác. Nhưng có ít ai thấy rằng một ngày nào đó chúng ta sẽ trở về “sắc sắc, không không” trước mặt Chúa?

Tóm lại, khiêm nhường chính là cái gốc, là nền móng của chúng ta. Có được điều đó, ta sẽ xây dựng được sự chân thành; tình huynh đệ; sự hiệp nhất; lòng bao dung và sự tôn trọng. Hơn nữa, có được đức khiêm nhường là ta đang trở nên giống Chúa, đang được ở trong mối tương quan nghĩa thiết với Ngài.

Mong thay hình ảnh kiêu ngạo của Adong, Eva; những người xây tháp Baben và những khách được mời dự tiệc trong bài Tin Mừng hôm nay là bài học cho chúng ta nếu chúng ta đang là những người tự phụ, kiêu căng và đang đi tìm những danh vọng ảo tưởng ở đời này…

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết học cùng Chúa vì Chúa hiền lành và khiêm nhường trong lòng. Amen.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...