29/08/2021
1061

Các bài suy niệm Chúa Nhật 22 Thường Niên – B

Lời Chúa: Dnl 4,1-2.6-8; Gc1,17-18.21b.22-27; Mc 7,1-8a.14-15.21-23

MỤC LỤC

  1. Giả hình.
  2. Giả hình.
  3. Tình mến.
  4. Cội nguồn của sự ác – Lm. Ignatiô Trần Ngà.
  5. Canh tân tâm hồn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền.
  6. Cái nết đánh chết cái đẹp.
  7. Tập tục và Lời Chúa – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.
  8. Chúa Nhật 22 Thường Niên.
  9. Lề luật và tấm lòng.

1. Giả hình

Bọn biệt phái và luật sĩ đã bắt bẻ Chúa Giêsu về việc các môn đệ của Ngài đã dùng bữa mà không rửa tay. Cách chung đối với mọi người, thì việc rửa tay trước khi ăn là một việc hợp với phép vệ sinh và chúng ta đã được căn dặn, đã được dạy bảo từ bé. Thế nhưng đối với bọn biệt phái thì việc làm này không chỉ còn là phép vệ sinh bình thường, mà đã trở thành một thứ nghi lễ của tôn giáo. Dưới mắt họ, việc dùng bữa mà không rửa tay là một vi phạm, một sai lỗi lớn đối với những quy định của cha ông. Họ không thể nào nhắm mắt làm ngơ cho việc vi phạm và sai lỗi này được.

Câu trả lời của Chúa Giêsu cho chúng ta thấy bọn biệt phái và luật sĩ đã quá chú trọng vào những chi tiết nhỏ mọn mà quên mất điều chính yếu của lề luật đó là mến Chúa và yêu người. Dưới con mắt của Chúa Giêsu, thì bỏ điều chính yếu để chỉ giữ những cái nhỏ mọn bên ngoài, chỉ có thể là hạng giả hình, bôi bác mà thôi. Và đó cũng chính là điều Chúa Giêsu không thể chấp nhận. Ngài đã vạch mặt những kẻ giả hình, phơi bày lòng dạ của họ, dù họ thuộc vào hàng những người lãnh đạo của dân Chúa và cầm cân nẩy mực trong lãnh vực tôn giáo.

Chúa Giêsu đã từng tuyên bố: Ngài đến không phải để phá bỏ lề luật, nhưng để làm cho lề luật nên trọn. Và Ngài đã làm cho lề luật nên trọn không phải bằng cách cổ võ cho người ta tuân giữ đủ mọi thứ tập tục lỉnh kỉnh do tiền nhân để lại, nhưng bằng cách kêu gọi mọi người thực hiện trọn vẹn nội dung và ý nghĩa của lề luật như chính Thiên Chúa đã thiết lập và truyền đạt cho dân Ngài.

Với chúng ta thì sao? Ngay ngày hôm nay, chúng ta không phải là đã không còn bị cám dỗ để quên lãng phần chính yếu của Tin Mừng, của đức tin, của đạo giáo để chỉ chú trọng vào một số việc làm, một số nghi thức. Chúng ta có thể áy náy vì đã không đọc một số kinh, làm một số việc đạo đức vào những ngày giờ nhất định, nhưng lại không hề thắc mắc về thái độ và cách cư xử của chúng ta đối với anh em. Đọc kinh, rước kiệu, làm những việc đạo đức khác là những điều rất tốt nhưng chưa phải là điều chính yếu. Nhưng việc làm ấy chỉ có giá trị khi chúng ta lưu tâm thực hiện điều chính yếu là mến Chúa và yêu người.

 

2. Giả hình

Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng. Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay kể lại cuộc xung đột giữa Chúa Giêsu và bọn biệt phái. Họ là những kẻ bới lông tìm vết, vạch lá tìm sâu, để bắt lỗi Chúa Giêsu. Thế nhưng mưu toan ấy đã bị thấ bại, và chính Chúa Giêsu cũng đã có lần thách thức họ: Các ngươi cứ việc bắt bẻ xem Ta lỗi phạm điều chi. Thất bại với Chúa Giêsu, họ quay sang hạch sách các môn đệ: Tại sao các môn đệ của ông lại không tuân giữ tập tục của cha ông. Dùng bữa mà không rửa tay. Thế nhưng Chúa Giêsu đã lên tiếng quở trách họ: Hỡi bọn giả hình, tiên tri Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi như sau: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì xa Ta.

Đọc lại Phúc Âm chúng ta thấy Chúa Giêsu đã tỏ ra rất nhân từ và khoan dung đối với các tội nhân, nhưng Ngài lại tỏ ra nghiêm khắc với bọn biệt phái và luật sĩ. Nhiều lần Ngài đã lên tiếng trách cứ họ nặng lời. Tại sao thế? Tôi xin thưa vì họ là những kẻ kiêu căng và tự phụ, bôi bác và giả hình. Khắt khe với người khác mà lại rộng rãi với chính mình. Nói tới giả hình là chúng ta nghĩ ngay đến sự gian tham tà ý, khẩu phật tâm xà, miệng nam mô bụng bồ dao găm. Tư tưởng không đi đôi với lời nói và lời nói không đi đôi với việc làm. Ngôn hành không có hợp nhất. Nói một đàng làm một nẻo. Vì thế Chúa đã nghiêm khắc kết án: Khốn cho các ngươi hỡi những luật sĩ và biệt phái giả hình, các ngươi giống như mồ mả, bên ngoài thì quét vôi đẹp đẽ, nhưng bên trong thì đầy giòi bọ cùng mọi thứ xú uế.

Nói tới kẻ giả hình, chúng ta nghĩ ngay tới những kẻ kính Chúa bằng môi bằng miệng nhưng cõi lòng họ thì lại xa lìa Chúa. Họ tuân giữ cặn kẽ những tập tục của cha ông mà quên đi những giới luật của Chúa. Họ chỉ lo giữ gìn tiếng tăm trước mặt người đời, mà không lo giữ gìn tâm hồn khỏi mọi vết nhơ của tội lỗi trước mặt Thiên Chúa. Họ bấu víu vào những hình thức đạo đức bên ngoài như đọc kinh, xưng tội, rước lễ, rước kiệu, dâng hoa… nhưng trong cuộc sống ngoài xã hội, thì lại tỏ ra gian tham độc ác với những người chung quanh. Đúng như Chúa Giêsu đã diễn tả họ kinh kệ dài dòng nhưng lại nuốt trửng gia tài của các bà goá. Họ lo lau chìu chén đĩa bên ngoài, mà không lo gìn giữ tâm hồn mình trong trắng.

Nguyên nhân chính yếu khiến họ trở nên đáng trách, đó là vì họ thiếu vắng lòng mến chân thành, dù họ có làm gì chăng nữa, thì những hành động của họ cũng chẳng có được một chút giá trị và đến một lúc nào đó, chiếc mặt nạ đạo đức rơi xuống, khiến họ chỉ còn là những kẻ giả dối, bôi bác mà thôi.

Có hai thiếu phụ, mỗi người sinh được một mụn con trai. Chẳng may đêm hôm đó bà này nằm ngủ và đè chết con mình, bèn đánh tráo đứa con của bà kia. Sáng dậy bà kia nhận ra đứa con đã chết không phải là đứa con của mình. Thế là hai bà cãi cọ với nhau. Nội vụ được đưa tới vua Salomon. Nhà vua bèn truyền xẻ đứa nhỏ còn sống ra làm đôi, mỗi bà một nửa. Bà này bằng lòng còn bà kia thì xin nhường miễn là người ta đừng giết đứa nhỏ. Và rồi nhà vua đã trao đứa nhỏ còn sống cho bà kia, bởi vì nhờ tình thương mà nhà vua đã nhận ra bà kia chính là người mẹ thực của đứa nhỏ.

Đừng bôi bác giả hình, nhưng hãy sống thật với Thiên Chúa, sống thật với bản thân và sống thật với anh em đồng loại.

 

3. Tình mến.

Dân này thờ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta.

Qua lời xác quyết của Chúa Giêsu chúng ta ghi nhận một sự thật đó là vì yêu thương và muốn cho chúng ta được cứu rỗi, Ngài đã truyền cho chúng ta tuân giữ điều này điều nọ. Và như chúng ta cũng đã biết, tình thương phải được đáp trả lại bằng tình thương. Bởi đó, việc chúng ta tuân giữ những lệnh truyền của Chúa cũng phải được xuất phát từ lòng mến chân thành. Một đi khi đã có lòng mến chân thành rồi, nó sẽ phản chiếu ra những hành động bên ngoài và làm cho những hành động ấy có một giá trị siêu nhiên và vĩnh cửu. Bằng không thì những hành động ấy sẽ chỉ như tiếng não bạt ầm vang, nhọc nhằn mà chẳng nên cơm cháo gì, còn bản thân chúng ta chẳng bao lâu sẽ bị lột mặt nạ, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác và giả hình mà thôi.

Đúng thế, Chúa bảo chúng ta hãy xa tránh men bột biệt phái, vì họ là những kẻ vụ hình thức bên ngoài, họ quá chú trọng đến những chi tiết vụn vặt mà quên đi cái yếu tố căn bản của lề luật, đó là lòng mến bên trong. Người biệt phái quan tâm đến việc tắm gội thân xác, giặt giũ quần áo, lau chùi chén bát, tẩy uế chum vò nhưng lại coi thường lòng mến đối với Thiên Chúa và tình thương đối với anh em, khiến cho Chúa Giêsu đã phải mượn lời tiên tri Isaia mà quở trách họ: Dân này thờ kính Ta bằng môi bằng miệng, nhưng lòng họ thì lại xa Ta. Họ gạt bỏ lề luật của Chúa, để bấu víu vào những tập tục của cha ông. Cái chính thì họ không làm không giữ, nhưng lại đi gữ và làm những cái vô nghĩa. Họ đã đảo lộn bậc thang giá trị.

Đối với Chúa Giêsu thì khác, tâm tình bên trong mới là yếu tố quyết định. Từ cái tâm địa xấu mà phát sinh ra những tội gian dâm, trộm cắp, thù oán, nhưng từ cái tâm địa tốt, chúng ta sẽ có được những hành động yêu thương, giúp đỡ và bố thí đối với anh em. Như thế, tư tưởng của chúng ta sẽ đi đôi với lời nói và lời nói thì đi đôi với việc làm. Chúng ta sẽ trở nên những người đôn hậu và chân thành, chúng ta không phải là những kẻ bôi bác và giả hình.

Có một nhà triệu phú chết đi để lại một gia tài to lớn với một người con đi du học ở ngoại quốc từ nhỏ, nên không ai còn nhớ được khuôn mặt. Sau khi mẩu tin được đăng báo thì người ta thấy có ba chàng thanh niên tự nhận mình là con và xin được lãnh phần sản nghiệp. Viên quan toà suy nghĩ, sau cùng ông nhờ hoạ sĩ vẽ bức chân dung của nhà triệu phú. Ông trao cho ba chàng thanh niên, mỗi người một khẩu súng và bảo: Nếu ai bắn trúng một điểm nhỏ trên khuôn mặt nhà triệu phú thì sẽ được lãnh phần gia nghiệp. Chàng thanh niên thứ nhất đến và giơ súng bắn. Chàng thanh niên thứ hai cũng thế. Cả hai viên đạn chỉ cách chấm nhỏ có chút xíu. Chàng thanh niên thứ ba, vẻ mặt rất buồn, cầm súng, yên lặng suy nghĩ và sau cùng đã nói: Tôi không bắn vì đây là bức chân dung của ba tôi. Viên quan toà chạy đến và nói: Chính anh là người con của nhà triệu phú và anh được lãnh phần gia nghiệp.

Nếu không có tình mến, thì rồi một lúc nào đó chúng ta sẽ bị lật tẩy, vì chúng ta chỉ là những kẻ bôi bác giả hình mà thôi.

 

4. Cội nguồn của sự ác – Lm. Ignatiô Trần Ngà

Trong một cuộc biểu tình chống chiến tranh, có hàng ngàn người xuống đường tuần hành qua các đường phố, hô to các khẩu hiệu chống chiến tranh. Ban đầu người ta hô: “đả đảo bom giết người!”

Sau đó, trong đám đông tham gia biểu tình có cuộc tranh luận nhỏ: “Làm gì có bom giết người! Bom đạn có giết ai đâu? Chỉ có những con người ác tâm tạo ra bom đạn, rồi đem bom bỏ lên đầu người khác mới gây nên tội giết người.”

Thế là sau đó, người ta hô khẩu hiệu khác, hợp tình hợp lý hơn: “Đả đảo những kẻ giết người!”

Nhưng rồi lại có người bàn thêm: “Đâu phải tự dưng mà người lại giết người. Phải có động cơ nào đó thúc đẩy mới có chuyện giết người. Nếu không có lòng tham lam, ghen tị và những dục vọng xấu xa thúc đẩy, nào có ai lại đi giết người?” Nhiều người đáp lại: “Chí lý! Chí lý!”

Thế là cuối cùng, mọi người hô to khẩu hiệu khác: “Đả đảo lòng tham lam! Đả đảo lòng ghen tị! Đả đảo lòng hận thù!” (dựa theo Cha Anthony de Mello)

Thưa quý ông bà anh chị em,

Chính những dục vọng đen tối trong lòng người mới là nguyên nhân chính gây nên mọi xấu xa trong cuộc đời.

Vì chưa hiểu điều nầy, những người biệt phái và luật sĩ thời Chúa Giêsu cứ lo rửa cho sạch bên ngoài mà không lo rửa sạch nội tâm. Họ luôn rửa tay trước khi dùng bữa, hô hào mọi người hãy làm như họ, cho rằng đó là việc quan trọng cần làm và họ trách các môn đệ Chúa Giêsu vì các ông nầy bỏ qua tập tục đó.

Nhân cơ hội đó, Chúa Giêsu dạy cho các ông một bài học: “Xin mọi người nghe tôi nói đây, và hiểu cho rõ: 15 Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. 21 Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, 22 ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. 23 Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế.”

Để hiểu rõ hơn bài học nầy, chúng ta hãy nhìn lại trường hợp Cain và Aben. Cain và Aben là hai anh em ruột thịt hằng ngày vẫn thường yêu mến nhau, vui đùa với nhau, hoà thuận với nhau.

Thế rồi, sau khi thu hoạch hoa màu lợi tức, hai anh em cùng nhau dâng của lễ đầu mùa lên Thiên Chúa. Thiên Chúa nhận lễ vật của Aben mà từ khước lễ vật của Cain.

Thế là từ đó, trong lòng Cain phát sinh một mối ghen tị, hận thù. Lòng ghen tị lớn dần lên lấn át cả tình anh em ruột thịt khiến Cain dụ em ra đồng và xông vào đánh chết người em.

Chính lòng ghen tị trong tâm hồn Cain là nguyên nhân chính xui khiến anh giết chết Aben.

Một trường hợp tương tự khác là vua Sao lê và Đavít.

Thời ấy, Gô-li-át là kiện tướng của quân Philitinh, một con người khổng lồ lại có sức mạnh vô địch khiêu chiến với người Israel. Trong hàng ngũ quân Ít- ra-en không ai có thể đương đầu được với con người khổng lồ ấy.

May thay, Đavít xuất hiện kịp thời. Cậu dùng ná bắn lủng trán Gô-li-át, rồi dùng chính gươm của y mà chặt đầu y. Thừa cơ hội tốt, quân Israel xông lên đánh tan quân địch không còn manh giáp.

Dân chúng Israel tuôn ra đường tung hô ca tụng vị anh hùng trẻ tuổi Đavít. Họ ca lên rằng: “Vua Sao-lê giết được một ngàn, còn Đavít giết được hàng vạn”.

Lời ca tụng đó vẳng đến tai vua Sao-lê. Lòng ghen tị xuất hiện và nung nấu tâm hồn ông. Thế là vua thay lòng đổi dạ: trước đây vua yêu thương Đavít bao nhiêu thì giờ đây vua căm thù Đavít bấy nhiêu. Nhà vua bất thần lấy giáo phóng vào Đavít khi cậu gảy đàn cho vua nghe. Đavít lách mình tránh thoát cái chết trong gang tấc. Sau đó vua đem quân truy lùng tận những hang núi sâu để tiêu diệt vị anh hùng tài năng và dũng cảm nầy.

Đúng là những gì xấu xa bên trong lòng người mới làm cho người ta ra nhơ uế.

Lời Chúa hôm nay mời gọi mỗi người chúng ta hãy nhìn thật sâu tận đáy lòng mình để quan sát những ham muốn xấu xa, những kiêu căng và ghen tị, những tham lam và thù ghét đang âm ỉ trong lòng. Chính những thứ đó mới là nguyên nhân gây nên tội ác, tạo nên mọi điều xấu xa.

Nếu chúng ta không nhận diện được chúng, không nhổ bỏ chúng khỏi tâm hồn mình, thì dần hồi chúng sẽ lớn dần lên và xô đẩy chúng ta vào tội ác, khiến tương quan giữa chúng ta với người khác ngày càng tồi tệ, làm cho đời sống thiêng liêng của chúng ta suy sụp hoàn toàn.

 

5. Canh tân tâm hồn – Lm. Giuse Tạ Duy Tuyền

Có người nhìn đời mà ngao ngán bảo rằng: sao Thiên Chúa không tạo dựng “thế thật” mà lại tạo dựng “thế gian”? Thế gian nên lắm gian tà. Thế gian nên con người hay sống gian dối, lừa lọc với nhau và thiếu hẳn lối sống đơn sơ, chân thành. Thực ra thế gian ở đây không phải là thế giới gian tà mà là trần thế, dương gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sư đều tốt đẹp. Sự xấu do ma qủy gieo vào thế gian qua tâm hồn con người. Trước tiên nó gieo vào trong con người sự ngờ vực Thiên Chúa. “Cứ ăn đi chẳng chết chóc gì đâu! Cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Con người đã để cho hạt giống ước muốn phản bội Thiên Chúa lấn chiếm vị trí số 1 trong tâm hồn. Thay vì bình an vô tư sống trong sự che chở của Thiên Chúa, con người lại nuôi dưỡng sự ngờ vực và ấp ủ những toan tính bất trung, phản bội. Hậu quả là sự xấu đã đi vào trần gian. Sự xấu chìm sâu trong bản tính con người. Sự xấu có thể bộc phát và thống lĩnh con người, nếu con người buông mình theo thói đam mê dục vọng và sống lười biếng ươn hèn. Quyền lực của sự dữ đã thống trị con người đến nỗi con người dễ làm điều xấu hơn điều thiện. Từ ngày nguyên tổ nghi ngờ Thiên Chúa cho đến hôm nay con nguời vẫn luôn nghi ngờ lẫn nhau. Từ nghi ngờ đến lối sống “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, và tệ hại nhất là sống giả hình với nhau.

Một thế giới “vàng thau lẫn lộn” nên khó phân biệt đâu là thiệt đâu là giả. Và càng khó phân biệt ai là người tốt ai là người xấu. Thế giới hôm qua cũng như hôm nay luôn có những ngừơi sống giả dối, sống hai mặt: “Đi với Chùa mặc áo Càsa – Đi với ma mặc áo giấy”. Vẻ bên ngoài thường nguỵ trang cho những ý đồ đen tối đầy bất chính và gian tà bên trong.

Lời Chúa hôm nay cảnh cáo lối sống giả hình của nhóm biệt phái và luật sĩ năm xưa. Họ chú trọng đến việc canh tân hình thức bên ngoài mà quên đi việc canh tân tâm hồn. Họ nhạy cảm với sự dơ bẩn bên ngoài như đồ ăn, thức uống và vật dụng mà quên đi điều quan yếu của lề luật là gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn. Lề luật không nhằm bảo đảm cho con người được sạch sẽ thân thể, được bảo đảm an toàn thực phẩm mà nhằm gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người và bảo vệ con người khỏi những sự ô uế của tâm hồn. Thế nên, gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn quan trọng hơn là sự sạch sẽ bên ngoài. Thanh tẩy tâm hồn khỏi những bợn nhơ tội lỗi cần thiết hơn là những nghi lễ bên ngoài. Philatô đã từng rửa tay nhưng liệu rằng tâm hồn ông có thanh thản bình an khi dối mình “vô can trong cái chết của người công chính?”. Biết bao người đã dùng bàn tay để làm sự ác như giết người, cướp của… và họ cũng đã từng rửa tay cho sạch, nhưng làm sao họ rửa được tội ác mà họ đã gây nên? Bàn tay chỉ là dụng cụ. Bàn tay không làm nên tội. Bàn tay bị sai khiển bởi tâm địa gian ác và lưu manh của con người.

Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng. Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”. Thế nên, điều cần rửa là rửa tâm hồn sạch mọi những toan tính bất chính, cần phải loại bỏ những ý đồ dơ bẩn, và tránh xa những cám dỗ tội lỗi của ma qủy luôn dẫn dụ con người đi ngược lại với giáo huấn của Chúa.

Con người ngày nay dường như cũng chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài. Ngừơi ta trau truốt vẻ đẹp bên ngoài bằng biết bao mỹ phẩm. Chấp nhận tiêu hao tiền của nơi các thẩm mỹ viện để chăm sóc sắc đẹp, nhưng ít ai nghĩ đến phải trau dồi nhân đức cho xứng với phẩm giá con người. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để gìn giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu khổ chế để gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn. Ngày xưa người ta chú trọng đến cái nết, vì “cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng hôm nay “cái đẹp đang đánh dẹp cái nết”.

Con người ngày hôm nay quá chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài mà lãng quên phẩm chất đạo đức nên con người đã đánh mất hướng đi của mình. Hậu quả là cả một trào lưu ăn chơi truỵ lạc, thoái hoá đạo đức đang làm băng hoại xã hội, đánh mất đi biết những thuần phong mỹ tục nơi gia đình và xã hội. Tội lỗi ngày một gia tăng. Sự ác ngày một lan tràn.

Vâng, vẻ đẹp bên ngoài là cần thiết nhưng điều quan yếu mà chúng ta phải phấn đấu là sống sao cho nên người. Thiết tưởng lời dạy của tiền nhân năm xưa: “đói cho sạch, rách cho thơm”. “Làm người phải có lòng nhân” phải là lời dạy cho con người hôm nay. Đẹp thể xác và đẹp cả tâm hồn mới có ích cho xã hội, bằng không chỉ là hoa, là cỏ, là vật vô tri vô giác, có khi còn có hại cho gia đình và xã hội.

Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết thanh luyện tâm hồn của mình khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn, để tâm hồn luôn thanh khiết vẹn toàn. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết trân trọng, yêu qúy phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh Thiên Chúa để biết sống cao thượng, sống đúng với luân thường đạo lý và nhất là biết sống theo lề luật của Chúa để bình an của Chúa luôn cư ngụ mãi trong cuộc đời chúng ta. Amen.

 

6. Cái nết đánh chết cái đẹp

(Suy niệm của Lm. Jos Tạ Duy Tuyền)

Có người nhìn đời mà ngao ngán bảo rằng: sao Thiên Chúa không tạo dựng “thế thật” mà lại tạo dựng “thế gian”? Thế gian nên lắm gian tà. Thế gian nên con người hay sống gian dối, lừa lọc với nhau và thiếu hẳn lối sống đơn sơ, chân thành. Thực ra thế gian ở đây không phải là thế giới gian tà mà là trần thế, dương gian. Thiên Chúa đã tạo dựng mọi sư đều tốt đẹp. Sự xấu do ma qủy gieo vào thế gian qua tâm hồn con người. Trước tiên nó gieo vào trong con người sự ngờ vực Thiên Chúa. “Cứ ăn đi chẳng chết chóc gì đâu! Cứ ăn đi ngươi sẽ bằng Thiên Chúa”. Con người đã để cho hạt giống ước muốn phản bội Thiên Chúa lấn chiếm vị trí số 1 trong tâm hồn. Thay vì bình an vô tư sống trong sự che chở của Thiên Chúa, con người lại nuôi dưỡng sự ngờ vực và ấp ủ những toan tính bất trung, phản bội. Hậu quả là sự xấu đã đi vào trần gian. Sự xấu chìm sâu trong bản tính con người. Sự xấu có thể bộc phát và thống lĩnh con người, nếu con người buông mình theo thói đam mê dục vọng và sống lười biếng ươn hèn. Quyền lực của sự dữ đã thống trị con người đến nỗi con người dễ làm điều xấu hơn điều thiện. Từ ngày nguyên tổ nghi ngờ Thiên Chúa cho đến hôm nay con nguời vẫn luôn nghi ngờ lẫn nhau. Từ nghi ngờ đến lối sống “bằng mặt nhưng không bằng lòng”, và tệ hại nhất là sống giả hình với nhau.

Một thế giới “vàng thau lẫn lộn” nên khó phân biệt đâu là thiệt đâu là giả. Và càng khó phân biệt ai là người tốt ai là người xấu. Thế giới hôm qua cũng như hôm nay luôn có những ngừơi sống giả dối, sống hai mặt: “Đi với Chùa mặc áo Càsa – Đi với ma mặc áo giấy”. Vẻ bên ngoài thường nguỵ trang cho những ý đồ đen tối đầy bất chính và gian tà bên trong.

Lời Chúa hôm nay cảnh cáo lối sống giả hình của nhóm biệt phái và luật sĩ năm xưa. Họ chú trọng đến việc canh tân hình thức bên ngoài mà quên đi việc canh tân tâm hồn. Họ nhạy cảm với sự dơ bẩn bên ngoài như đồ ăn, thức uống và vật dụng mà quên đi điều quan yếu của lề luật là gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn. Lề luật không nhằm bảo đảm cho con người được sạch sẽ thân thể, được bảo đảm an toàn thực phẩm mà nhằm gìn giữ nét đẹp của phẩm giá con người và bảo vệ con người khỏi những sự ô uế của tâm hồn. Thế nên, gìn giữ sự thanh khiết tâm hồn quan trọng hơn là sự sạch sẽ bên ngoài. Thanh tẩy tâm hồn khỏi những bợn nhơ tội lỗi cần thiết hơn là những nghi lễ bên ngoài. Philatô đã từng rửa tay nhưng liệu rằng tâm hồn ông có thanh thản bình an khi dối mình “vô can trong cái chết của người công chính?”. Biết bao người đã dùng bàn tay để làm sự ác như giết người, cướp của… và họ cũng đã từng rửa tay cho sạch, nhưng làm sao họ rửa được tội ác mà họ đã gây nên? Bàn tay chỉ là dụng cụ. Bàn tay không làm nên tội. Bàn tay bị sai khiển bởi tâm địa gian ác và lưu manh của con người.

Chính vì thế, Chúa Giêsu đã nhấn mạnh: “Không có cái gì từ bên ngoài vào trong con người lại có thể làm cho con người ra ô uế được ; nhưng chính cái từ con người xuất ra, là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tỵ, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng… Tất cả những điều xấu xa đó, đều từ bên trong xuất ra, và làm cho con người ra ô uế”. Thế nên, điều cần rửa là rửa tâm hồn sạch mọi những toan tính bất chính, cần phải loại bỏ những ý đồ dơ bẩn, và tránh xa những cám dỗ tội lỗi của ma qủy luôn dẫn dụ con người đi ngược lại với giáo huấn của Chúa.

Con người ngày nay dường như cũng chỉ chú trọng đến hình thức bên ngoài. Ngừơi ta trau truốt vẻ đẹp bên ngoài bằng biết bao mỹ phẩm. Chấp nhận tiêu hao tiền của nơi các thẩm mỹ viện để chăm sóc sắc đẹp, nhưng ít ai nghĩ đến phải trau dồi nhân đức cho xứng với phẩm giá con người. Người ta có thể hy sinh, khổ luyện hàng tháng, hàng năm để gìn giữ vẻ đẹp thân xác, nhưng có mấy ai chịu khổ chế để gìn giữ vẻ đẹp tâm hồn. Ngày xưa người ta chú trọng đến cái nết, vì “cái nết đánh chết cái đẹp”, nhưng hôm nay “cái đẹp đang đánh dẹp cái nết”.

Con người ngày hôm nay quá chú trọng đến vẻ đẹp bên ngoài mà lãng quên phẩm chất đạo đức nên con người đã đánh mất hướng đi của mình. Hậu quả là cả một trào lưu ăn chơi truỵ lạc, thoái hoá đạo đức đang làm băng hoại xã hội, đánh mất đi biết những thuần phong mỹ tục nơi gia đình và xã hội. Tội lỗi ngày một gia tăng. Sự ác ngày một lan tràn.

Vâng, vẻ đẹp bên ngoài là cần thiết nhưng điều quan yếu mà chúng ta phải phấn đấu là sống sao cho nên người. Thiết tưởng lời dạy của tiền nhân năm xưa: “đói cho sạch, rách cho thơm”. “Làm người phải có lòng nhân” phải là lời dạy cho con người hôm nay. Đẹp thể xác và đẹp cả tâm hồn mới có ích cho xã hội, bằng không chỉ là hoa, là cỏ, là vật vô tri vô giác, có khi còn có hại cho gia đình và xã hội.

Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết thanh luyện tâm hồn của mình khỏi những bợn nhơ tội lỗi, những toan tính bất chính và đam mê thấp hèn, để tâm hồn luôn thanh khiết vẹn toàn. Ước gì mỗi người chúng ta luôn biết trân trọng, yêu qúy phẩm giá cao qúy của con người là hình ảnh Thiên Chúa để biết sống cao thượng, sống đúng với luân thường đạo lý và nhất là biết sống theo lề luật của Chúa để bình an của Chúa luôn cư ngụ mãi trong cuộc đời chúng ta. Amen.

 

7. Tập tục và Lời Chúa – Lm. Giuse Phạm Thanh Liêm.

Có những người chẳng để ý đến lề luật, nên không tôn trọng quyền lợi người khác; nhưng cũng có những người quá để ý đến luật, đến trở thành nô lệ lề luật. Đức Yêsu trách một số người thời đó “bỏ qua các giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.

  1. Lời Thiên Chúa và lời con người

Thiên Chúa đã ban mười điều luật cho dân Israel qua Môsê, và ông đã dạy dân Do Thái: “các ngươi chớ thêm bớt điều gì trong các điều ta đã truyền, nhưng hãy tuân giữ các giới răn của Chúa là Thiên Chúa các ngươi mà ta đã truyền cho các ngươi”. Đừng thêm và cũng đừng bớt vào những điều Thiên Chúa dạy. Đừng làm lẫn lộn lời của con người với Lời Thiên Chúa. Chỉ có Lời Thiên Chúa mới phải giữ một cách tuyệt đối, còn lời của con người thì tùy thuộc thời đại và tùy thuộc văn hóa của mỗi dân tộc.

Tuy nhiên, có Lời Chúa nào mà không phải là lời của con người? Để con người nghe được Lời Chúa, thì Lời Chúa cũng phải là lời của con người, phải được truyền qua trung gian con người. Để dân có thể nghe được Lời Chúa, Lời Chúa đã qua trung gian là lời Môsê. Lời của Môsê nhưng không phải là lời của Môsê, nên Môsê cũng phải phục tùng Lời Chúa mà Môsê đã được trao để truyền lại cho dân.

Vấn đề chính yếu là phải nhận định được đâu là Lời Chúa và đâu là lời của con người, xét như phương tiện chuyển tải Lời Chúa. Đâu là Lời Chúa, đâu là lời của Môsê, đâu là văn hóa của thời đại chuyển tải Lời Chúa? Thập giới là Lời Chúa, và thập giới cho con người biết con người phải có tương quan như thế nào đối với Thiên Chúa. Vào thời cánh chung, Lời Thiên Chúa đã làm người. Đức Yêsu là Lời Thiên Chúa nhập thể, nên con người cũng là Lời Thiên Chúa, vì Lời Thiên Chúa đã làm người.

  1. Tập tục con người và giới răn Thiên Chúa

Con người là vật chất và tinh thần. Thân xác vật chất bị giới hạn, nên con người cũng bị giới hạn. Khi Lời Thiên Chúa nhập thể, thân xác giới hạn của con người có thể che khuất làm con người khó nhận ra chân tướng của Lời Thiên Chúa nhập thể; cũng tương tự vậy, lời con người cũng có thể làm lu mờ Lời Chúa khi Lời Chúa được diễn đạt qua trung gian lời con người.

Trong lịch sử, Lời Thiên Chúa đã được con người giải thích, với mong ước con người hiểu biết hơn về Lời Chúa, để có thể sống theo Lời Chúa. Tuy nhiên, vì có quá nhiều những lời giải thích nên người ta không còn nhận ra đâu là điểm chính yếu mà lề luật hay Lời Chúa muốn nói. Rồi tới một mức độ nào đó, người ta lấy những lời dạy của con người và coi đó như là tuyệt đối quan trọng (như thể đó là Lời Chúa). Đó là lý do tại sao Đức Yêsu nói: “Dân này sùng kính Ta cách giả dối, bởi vì nó dạy những giáo lý và những luật lệ loài người. Vì các ngươi bỏ qua giới răn Thiên Chúa, để nắm giữ tập tục loài người”.

Con người phải được thanh tẩy liên tục để có thể nghe được Lời Chúa nói với mỗi người, và giữ mình khỏi bị ràng buộc bởi những lời giải thích Lời Chúa và luật Chúa. Truyền Lời Chúa lại cho con cháu, đó là bổn phận mà mỗi người thực thi. Tuy nhiên, con người phải phân biệt Lời Chúa và những giải thích về Lời Chúa. Cần thiết phải giữ Lời Chúa, chứ không phải giữ tập tục của con người. Thiên Chúa luôn muốn điều tốt lành cho con người, nên Lời Thiên Chúa làm con người được giải phóng khỏi mọi ràng buộc, giúp con người tự do và sống hạnh phúc với Thiên Chúa; ngược lại, tục lệ con người làm người ta trở thành nô lệ. Không được nhân danh Lời Chúa để bắt con người trở nên nô lệ cho những điều thuộc trần thế.

III. Thiên Chúa Đấng ban luật lệ cho con người

Luật Thiên Chúa ban cho con người, không phải để cưỡng ép con người, nhưng để giúp con người được tự do thực sự. Con người có thể bị ràng buộc bởi lòng ham mê tiền bạc, lòng ham mê sắc dục, sợ chết, v.v. Mười Lời (thập giới) được ban cho con người, giúp con người nhận ra mình bị nô lệ khi thấy mình đã vi phạm thập giới. Luật Chúa là dấu chỉ cho con người biết về chính mình.

Đấng ban luật cho con người, là Đấng muốn con người được tự do. Thiên Chúa tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Thiên Chúa là Đấng sáng tạo muốn loài, Ngài là chủ, là vua. Ngài không nô lệ bất cứ điều gì nhưng tự do với tất cả để yêu thương. Thiên Chúa yêu thương, và muốn con người nên giống Thiên Chúa. Thiên Chúa muốn con người làm chủ tất cả, tự do với tất cả. Thiên Chúa muốn con người sống hạnh phúc như Thiên Chúa.

Khi con người còn quy tất cả về chính mình, thì con người chưa thể yêu thương thật sự. Khi con người muốn đặt mình trên tất cả, thì con người chưa thực sự được tự do. Yêu thương và phục vụ, là dấu chỉ của một người đang trở nên giống Thiên Chúa. Hạnh phúc không thể có được chỉ bằng thỏa mãn những nhu cầu vật chất của con người. Hạnh phúc đòi hỏi điều gì thâm sâu hơn, và chính Đức Yêsu đã sống hạnh phúc trong chính cuộc đời dương thế của Ngài. Hạnh phúc của Đức Yêsu, liên hệ đến tất cả con người của Ngài, và là tình trạng mẫu mực con người phải đạt. Khi đó con người sống an bình và hòa hợp với Thiên Chúa.

Câu hỏi gợi ý chia sẻ

  1. Tự do nội tâm là gì? Bạn có bị ràng buộc bởi điều gì “bất chính” không?
  2. Theo bạn, luật lệ đời giúp gì cho con người? Luật Chúa giúp gì cho con người?
  3. Với bạn, bạn cần tự do để yêu thương, hay chính khi bạn yêu thương thì bạn tự do?

 

8. Chúa Nhật 22 Thường Niên

Anh chị em thân mến.

Từ trước đến giờ chắc anh chị em dự nhiều đám tang. Nếu nhớ lại, không chỗ nào giống nhau cả. Có nơi chôn ban ngày, có nơi chôn ban đêm. Tôi cũng nhận thấy có những điều hơi lạ ở một số nơi. Người chết được đưa đi đến nơi an nghĩ cuối cùng vào lúc ban đêm, có đèn đuốc để thấy đường đi, đó là lẽ tự nhiên. Nhưng tôi hơi ngạc nhiên, vì có khi quan tài được mang đi giữa ban ngày mà vẫn có những bó đuốc dẫn đường. Lại còn bở ngở hơn nữa, khi mọi việc lo cho người chết đã xong, cho dù vẫn còn đêm tối, nhưng không một ánh lửa nào được đốt lên, mọi người cứ lần mò trong trong bóng đêm dầy đặt mà trở về nhà. Điều ngạc nhiên đó được giải đáp như thế nầy:

Việc đưa người chết đến nơi an nghĩ cuối cùng, dù ngày hay đêm, đều có bó đuốc dẫn đường, để người chết biết đường đi đến nơi của mình.

Còn việc những người làm xong nhiệm vụ, cho dù ban đêm vẫn không được có một ánh lửa để soi đường về, là vì sợ người chết sẽ theo ánh lửa mà quay trở về phá rối những người còn sống.

Sợ người chết quay trở về, vậy mà có rất nhiều người, sau khi chôn người chết được ba ngày, thì có một việc làm gọi là mở cửa mả. Trong những món đồ đem đến mở cửa mả có một cái thang, để cho người chết dùng leo lên trở về nhà mình. Tôi nhận thấy đó là một việc làm vô lý: sợ trở về, rồi lại tìm phương tiện cho trở về. Vậy mà trải qua biết bao nhiêu thời đại, rất nhiều người đều thực hiện cái phi lý đó.

Chúa Giêsu nhìn thấy những điều phi lý trong xã hội của Ngài thời bấy giờ, Ngài không thể lặng thinh ngồi nhìn những người mà Ngài thương yêu phải nô lệ cho những điều phi lý đó. Ngài muốn những việc làm của con người không chỉ là những cử chỉ vô tri bên ngoài, nhưng nó luôn được thực hiện bằng cả tâm tình thật sự của một con tim nồng cháy. Để việc làm có giá trị, không hệ tại hình thức bên ngoài, nhưng do tâm tình bên trong.

Chúng ta đang sống trong một xã hội gọi là văn minh khoa học, con người luôn chạy đua, tìm kiếm những tiện nghi vật chất cho cuộc sống. Con người luôn tìm những hào nhoáng bên ngoài, để rồi khi nhìn lại, họ không còn thấy được con tim của mình đang ở đâu.

Thử nhìn lại xem, biết bao lần chúng ta khó chịu với những người có hành động và ý tưởng không giống như mình, thế là, chúng ta tìm đủ mọi thứ lý do để kết tội họ: nào là vô lễ, không lịch sự, không có giáo dục, kém văn minh, vô đạo đức. Nếu khi đó, có Chúa Giêsu đang nhìn thấy, Ngài sẽ bảo chúng ta như thế nào? Tôi thiết nghĩ, chắc Ngài không quá khắc khe như chúng ta. Còn những việc chúng ta làm, gọi là những việc đạo đức tốt lành, chúng ta bắt mọi người phải công nhận, noi theo. Nếu có người nào có ý kiến phê bình, chỉ trích, hay có hành động trái ngược lại, chắc là chúng ta không vui, hay tệ hơn nữa, chúng ta tìm mọi cách loại trừ kẻ ấy. Nếu khi đó có Chúa Giêsu đang nhìn thấy, Ngài sẽ bảo chúng ta như thế nào?

Nếu giờ nầy đây, chúng để ra một ít phút suy tư, nhìn lại những việc làm đã qua của mình, chúng ta sẽ dể dàng nhận thấy: đâu là những việc làm phát xuất từ con tim biết yêu thương, còn đâu là những việc làm hào nhoáng chỉ để thỏa mản những tham vọng, như Chúa Giêsu đã nói: “Từ bên trong con người mới phát ra những ý tưởng xấu.”

Biết bao nhiêu điều vô lý chúng ta đã làm trong cuộc sống, nhưng không thấy. Trái lại, chúng ta nhìn thấy những điều người khác làm, có những lúc chúng ta cho là vô lý, là không đúng chỉ theo ý muốn riêng tư của mình, không theo một nguyên tắc chung nào cả.

Chúng ta cùng nhau cầu xin Chúa cho mỗi người biết hành động bằng con tim chân thật, để chúng ta biết tôn thờ Chúa không chỉ bằng môi miệng, nhưng bằng cả con tim biết yêu thương mà Thiên Chúa đã ban cho chúng ta.

 

9. Lề luật và tấm lòng

(Suy niệm của Lm. Carôlô Hồ Bặc Xái)

“Cái gì từ trong con người xuất ra mới là cái làm cho người ta ô uế” (Mc 7,15)

  1. Dẫn vào Thánh lễ

Anh chị em thân mến

Ngày xưa Ðức Giêsu đã dùng lời ngôn sứ Isaia để trách dân Do Thái rằng: “Dân này tôn kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”. Phải chăng chúng ta cũng đáng bị trách như thế? Mỗi ngày Chúa nhật, chúng ta đến đây đọc kinh và rước lễ. Nhưng đó chỉ mới là bằng môi bằng miệng thôi. Tôn kính Chúa bằng một tấm lòng chân thành còn đòi buộc chúng ta phải lắng nghe Lời Chúa, kết hợp với Mình Thánh Chúa và sống theo ý Chúa nữa. Chúng ta hãy dâng Thánh lễ này với cả tấm lòng chân thành yêu kính như vậy.

  1. Gợi ý sám hối

Nhiều lần chúng ta dự thánh lễ nhưng lòng trí không ở với Chúa.

Chúng ta nghe Lời Chúa rất nhiều nhưng chẳng thực hành bao nhiêu.

Chúng ta cố gắng giữ luật vì sợ phạm tội chứ không vì lòng yêu mến Chúa.

III. Lời Chúa

  1. Bài đọc I (Ðnl 4,1-2.6-8)

Dân Do Thái rất hãnh diện vì có Thiên Chúa làm Chúa của họ và vì được Thiên Chúa ban Luật cho họ: “Có dân tộc vĩ đại nào được Thần minh ở gần như Ðức Chúa, Thiên Chúa chúng ta, ở gần chúng ta mỗi khi chúng ta kêu cầu Người? Có dân tộc vĩ đại nào được những thánh chỉ và quyết định công minh như tất cả Lề luật mà hôm nay tôi đưa ra trước mặt anh em?”

Nhưng Ông Môsê lưu ý: (1) Không được thêm cũng không được bớt gì vào những Lề luật của Chúa; (2) Phải đem những lề luật đó ra thực hành.

  1. Ðáp ca (Tv 14)

Thánh vịnh này ca tụng những người luôn cố gắng sống công chính theo chỉ dẫn của lề luật.

  1. Tin Mừng (Mc 7,1-8a.14-15.21-23)

Ðức Giêsu và nhóm biệt phái cùng kinh sư tranh luận với nhau về vấn đề sạch dơ.

Họ bám sát mặt chữ những quy định của luật lệ về sự phân biệt cái gì sạch cái gì dơ và về những đòi buộc phải rửa tay chân chén dĩa…

Ðức Giêsu nói đó chỉ mới là sạch dơ bề ngoài, không quan trọng bằng sạch dơ trong tâm hồn.

Ngài nhận xét đạo đức của họ chỉ là đạo đức giả: “Dân này kính Ta bằng môi miệng, còn lòng chúng thì lại xa Ta”.

Ngài còn kết án họ lấy tập tục của loài người để thay thế lệnh truyền của Thiên Chúa. Ngài lấy tục lệ Corban ra làm thí dụ điển hình: Corban là của dâng cúng cho Thiên Chúa. Mặc dù Xh 20,12 buộc con cái phải phụng dưỡng cha mẹ. Nhưng để khuyến khích người ta đóng góp cho Ðền thờ, biệt phái và kinh sư đã dạy rằng nếu ai khấn hứa đem những gì phải giúp cha mẹ để dâng cho Ðền thờ thì không còn phải giúp cha mẹ nữa. Quả thật đây là một cách bóp méo luật Chúa.

  1. Bài đọc II (Gc 1,17-18.21b-22.27)

Thánh Giacôbê bảo rằng được đón nhận Lời Chúa quả là một ân huệ to lớn. Nhưng Ngài khuyên tín hữu “đừng nghe suông mà phải đem ra thực hành”. Cụ thể là hãy “thăm viếng cô nhi quả phụ lâm cảnh gian truân và giữ mình cho khỏi mọi vết nhơ của thế gian”.

  1. Gợi ý giảng

* 1. Chớ giả hình

Năm 587, trước khi Chúa ra đời, thủ đô Giêrusalem bị thất thủ, nước Do Thái sụp đổ, người Do thái bị bắt đi đày bên nước Babylon. Sống bên xứ lạ quê người, đền thờ không còn, tế tự không còn, niềm tin của người Do thái yếu kém đi. Hơn nữa sống giữa người ngoại, nhiều người Do thái đã dần dà bỏ đạo Chúa và theo các bụt thần. Trước hoàn cảnh đó, các luật sĩ Do thái đã hết sức cứu vãn niềm tin của dân mình bằng cách đặt ra những luật lệ nhằm bảo vệ đức tin cho tinh tuyền. Vì thế, có những khoản luật cấm tiếp xúc với kẻ tội lội, với những gì gọi là ô uế xấu xa.

Thế nhưng sau khi lưu đày trở về, các luật sĩ đã đi quá trớn, đưa ra những khoản luật rất là tỉ mỉ. Thí dụ:

Một người đàn ông bị đi lính thì bị coi là ô uế. Tất cả mùng mền chiếu gối của họ đều bị coi là dơ. Ai đụng tới cũng bị dơ và phải giặt quần áo của mình, và cho dù đã tắm giặt như vậy vẫn còn bị coi là dơ cho đến chiều tối. Xe họ ngồi cũng bị coi là dơ, phải rửa cho sạch.

Ðàn bà tới chu kỳ kinh nguyệt thì bị coi là ô uế suốt 7 ngày. Ai đụng tới họ cũng bị lây ô uế, có tắm giặt cũng còn ô uế tới chiều.

Nếu kẻ bị coi là ô uế hay lây ô uế khi tắm giặt cũng phải theo những luật tỉ mỉ: lấy nước thì lấy bằng bình đồng, bình sành hay bình gỗ chứ không được dùng bằng thứ bình nào khác. Ðụng tới một người ô uế thì phải rửa từ khuỷu tay trở xuống, và phải rửa 2 lần: 1 lần vì tay bẩn, lần thứ hai để tẩy đợt nước thứ nhất đã bị bẩn khi dính vào tay bẩn của mình.

Trước khi ăn thì phải rửa tay cho khỏi những ô uế mà có thể vì vô tình mình đã chạm phải. Người ta kể rằng có 1 luật sĩ tên là Aqiba đã thà chết khát trong tù còn hơn vi phạm luật này: trong tù nước rất ít, nhưng ông cũng dùng để rửa tay trước khi ăn dù rửa xong thì không còn nước để uống.

Ði tới chỗ quá trớn đó thì trở thành thói vụ hình thức. Và nếu chỉ coi trọng hình thức mà quên phần nội tâm thì trở thành chứng giả hình. Vụ hình thức và giả hình, đó là 2 điều mà Ðức Giêsu cực lực công kích trong bài Tin mừng hôm nay.

Nhưng dù sao giữ hình thức cũng dễ hơn giữ nội tâm, cho nên không riêng gì người Do thái thời xưa, mà cả chúng ta ngày nay cũng dễ mắc thói vụ hình thức và giả hình.

Thiếu gì người thích làm đám cưới linh đình, lễ cưới có nhiều cha đồng tế nhưng chẳng lo phần giáo lý cho đôi tân hôn bao nhiêu.

Thiếu gì người cha mẹ già còn sống thì bỏ bê, nói nặng nói nhẹ. Chỉ khi cha mẹ nằm xuống mới lo làm tang lễ um sùm, than khóc bù lu bù loa..

Thiếu gì người không khuyến khích con cái đi học giáo lý, nhưng tới ngày Rước lễ, Thêm Sức thì tới xin xỏ, làm áp lực cho con mình cũng có mặt trong ngày lễ trọng đại ấy.

Và thiếu gì người hết sức sùng kính ảnh thánh này, tượng thánh nọ, mà khi đối xử với người khác thì chẳng thấy có chút gì giống tinh thần bác ái vị tha của các vị thánh đó.

Với những kẻ giả hình thời trước cũng như thời nay, Lời Ðức Giêsu trách sứ vẫn luôn luôn nghiêm nhặt: “Hỡi bọn giả hình, Isaia đã nói thật chí lý về các ngươi rằng: dân này kính ta bằng môi miệng, còn lòng nó thì ở cách xa ta, vì nói sùng kính ta cách giả dối”.

Nhưng thực ra, chúng ta không muốn giả hình mà chỉ vì có bề ngoài thì dễ hơn có bề trong. Bề ngoài và bề trong đều quan trọng, nhưng bề trong quan trọng hơn. Giữ đạo mà không thật lòng mến Chúa yêu người thì vô ích, bởi vì công phúc không phải từ bên ngoài mà tự trong lòng mà ra, không phải do đọc kinh dự lễ mà có nhưng do tâm tình sốt sắng khi đọc kinh dự lễ.

* 2. Bàn về luật lệ

Năm 336 trước Chúa Giáng Sinh, nước Hy Lạp nổi lên một vị anh hùng, đó là Alexandre đại đế. Mới có 20 tuổi, ông đã chứng tỏ tài thao lược của mình khi nổi lên bẻ gãy ách đô hộ của đế quốc Ba Tư lúc đó đang đè nặng trên nước Hy Lạp. Chẳng những thế, ông còn quật ngược lại tình hình, biến Ba Tư trở thành một nước chư hầu và đưa Hy Lạp lên ngôi bá chủ. Ông đánh đâu thắng đó, trăm trận trăm thắng, xâm chiếm nhiều nước khác, đế quốc Hy lạp trải rộng cho tới Ấn Ðộ,. Nước Do thái bé nhỏ cũng rơi vào vòng thống trị của đế quốc Hy Lạp. Loé mắt trước nền văn minh Hy Lạp, nhiều người Do Thái đua nhau học đòi kiểu sống Hy Lạp: nói tiếng Hy Lạp, mặc theo kiểu Hy lạp, ăn uống theo kiểu Hy Lạp và thờ các thần Hy Lạp. Mặt khác các quan thái thú Hy Lạp dùng sức mạnh để buộc người Do thái bỏ đạo Chúa để thờ đạo Hy Lạp, họ bắt đầu ăn thịt heo và đốt nhang trước các tượng thần. Ai không làm theo thì bị xử tử. Văn hóa dân tộc và đức tin vào Chúa có nguy cơ bị huỷ diệt. Vì thế, những nhà lãnh đạo tinh thần của dân đã hết sức cố gắng giữ gìn truyền thống tốt đẹp của dân. Họ đặt ra những khoản luật buộc dân giữ mình khỏi bị lây nhiễm nọc độc của ngoại bang, trong đó có những luật về ăn uống, về cách giữ các lễ nghi. Từ đó dấy lên một phong trào đề cao lề luật.

Nhưng phong trào này càng ngày càng đi tới chỗ quá trớn. Tới thời Chúa Giêsu thì luật lệ đã quá sức tỉ mỉ, nhất là luật về sạch dơ: đi đâu về trước khi vào nhà cũng đều phải rửa tay rửa chân, trước khi ăn uống cũng phải rửa tay chân, và những chén dĩa ly tách dùng để ăn uống cũng phải rửa nhiều lần trong ngày. Ðiều đáng ta chú ý là những luật này không phải để giữ vệ sinh hay bảo vệ sức khoẻ, mà chỉ để giữ nghi thức thôi, cho nên dù không dơ nhưng cũng phải tắm rửa, ai không làm vậy thì bị coi là người tội lỗi, bị người khác chỉ trích và kết án nặng nề.

Như một lần kia, các môn đệ Chúa Giêsu đã ăn mà không rửa tay trước. Lập tức họ bị những luật sĩ và biệt phái chỉ trích. Nhân dịp đó Chúa Giêsu đã lên tiếng vừa để bênh vực môn đệ mình, vừa để nói lên quan điểm của Chúa về vấn đề lề luật cách chung và cách riêng về vấn đề sạch dơ. Ðại khái Chúa Giêsu cho rằng luật lệ chỉ là hình thức để diễn tả tấm lòng. Tấm lòng mới quan trọng, còn hình thức không quan trọng. Bởi vì dơ hay sạch là do tự tấm lòng bên trong. Nếu lòng dạ dơ dấy xấu xa thì cho dù hình thức bên ngoài có đẹp đẽ mấy thì cũng chỉ là vô ích, là giả hình.

Ðức Giêsu đã nói rất đúng. Luật lệ giống như cái khuôn khổ, giống như những bức tường, những hàng rào, như sợi dây cương để lèo lái con ngựa chỉ được chạy một hướng, như chiếc đường rày không cho chiếc xe lửa chạy lệch hướng. Thành ra luật lệ có tính cách gò bó, ép buộc. Còn tấm lòng thì dự do và thoải mái, cũng giống như tình cảm người ta thì không có hàng rào, không có bánh lái. Dĩ nhiên luật lệ cũng cần thiết và hữu ích để gìn giữ không cho tấm lòng đi lệch lạc. Nhưng coi luật trọng hơn tấm lòng, dùng luật lệ để bóp chết tấm lòng, hoặc chỉ chú ý đến luật lệ mà bỏ hẳn tấm lòng thì quả là một sai lầm to lớn.

Sai lầm đó, các luật sĩ và biệt phái thời Chúa Giêsu đã phạm. Và ngày nay nhiều người vẫn phạm. Thí dụ như mới đây thôi tôi gặp một người rất lâu không thấy đi xưng tội, hỏi tại sao thì người ấy đáp: “Có chứ con xưng tội một năm một lần, đúng luật mà”

Khi đã có tấm lòng thì có thể chẳng cần lề luật. Cũng như cha mẹ đối với con cái. Tình thương của cha mẹ lúc nào cũng bao la lai láng, vì thế cha mẹ đã lo cho con ăn, lo cho con mặc, chăm sóc con cái mọi chuyện…. chỉ do sự thúc đẩy của tình thương chứ không do một luật lệ nào bắt buộc. Ðứa con nào biết thương cha mẹ thực lòng thì cũng tận tuỵ phụng dưỡng cha mẹ như vậy. Nhưng có một số gia đình mà con cái không còn tấm lòng với cha mẹ nên khi cha mẹ già yếu phải đề ra những quy luật giao cho đứa này phải lo gạo, đứa kia lo tiền chợ, đứa khác lo tiền điện nước trong nhà. Khi đã không có tình nghĩa thì người ta phải xài tới luật lệ. Nhưng mà luật lệ cũng không bảo đảm làm cho tình nghĩa sống lại, chúng chỉ là một mớ hình thức lỏng lẽo, héo khô. Như gia đình mà tôi đang nói, các đứa con tuy giữ đúng quy định phân chia trách nhiệm như thế, nhưng khi cha mẹ đau yếu, cha mẹ cần tiền để đi dự một đám cưới, cha mẹ có khách tới ở nhà… thì không đứa nào chịu bỏ tiền ra đưa cho cha mẹ, bởi vì những khoản đó không có kể trong quy luật gia đình. Những đứa con ấy giữ luật rất đúng nhưng đâu phải là những đứa con hiếu thảo.

Nếu chúng ta là những tín hữu đã tuân giữ luật Chúa và luật Giáo Hội một cách chu đáo thì chúng ta cũng không được tự mãn cho rằng mình đã làm đầy đủ tất cả. Bởi vì có thể chỉ là đầy đủ về hình thức thôi, chứ chưa hẳn là đầy đủ tình nghĩa yêu mến kính thờ Chúa. Chúng ta cũng nên áp dụng nhận thức trên vào một việc cụ thể là việc đọc kinh và dự lễ.

Luật dạy chúng ta đọc kinh sáng tối mỗi ngày: đọc những kinh gì, và đọc lúc nào, đó là hình thức. Người chỉ để ý tới hình thức thì đọc thật nhanh, đọc cho có cho rồi. Ngày nào có cớ để không đọc thì chộp ngay lấy cớ đó để bỏ. Nhưng ta phải biết tinh thần của luật ấy là gì? Ðó là muốn chúng ta tỏ lòng kính mến Chúa mỗi ngày vào khoảng khắc đầu tiên và cuối cùng trong ngày. Ai có tinh thần đó thì không nhất thiết là phải đọc những kinh gì, đọc bao lâu. Mỗi ngày khi vừa thức dậy và khi sắp đi ngủ họ nâng tâm hồn lên tới Chúa, có thể họ đọc kinh mà có khi cũng không đọc kinh, chỉ nói với Chúa đôi lời, những lời đơn sơ, thực tình nhưng rất hiếu thảo.

Luật buộc đi lễ Ngày Chúa Nhật: Ði lễ cũng chỉ là hình thức. Còn tinh thần chính là dành ra một ngày trong tuần để đặc biệt cho Chúa, lo việc thờ phượng Chúa. Người nào đi lễ mà chỉ đứng ở ngoài nhà thờ, hay đến thì trễ mà về thì sớm thì đúng là người chỉ chú ý đến hình thức. Kẻ coi trọng tinh thần ngày Chúa Nhật nếu vì một cản trở nào đó mà không đến nhà thờ được thì cũng biết cách để thánh hóa ngày Chúa Nhật, như cầu nguyện riêng ở nhà, như làm một vài việc lành dâng lên Chúa trong ngày đó.

Xin Chúa giúp chúng ta kính mến Chúa thực sự trong lòng chứ không phải chỉ bằng những hình thức giữ lề luật bên ngoài, để chúng ta không bị Chúa trách như đã trách các biệt phái và luật sĩ ngày xưa “Dân này kính ta ngoài môi miệng, mà lòng nó ở cách xa ta”.

* 3. Ðức Kitô và KARMELIUK

Có một cuốn phim truyền hình mang tên Karmeliuk,, kể chuyện một vị anh hùng dân tộc Nga: khi ấy nước Nga còn sống trong chế độ nông nô, một số ít phú nông địa chủ chiếm hầu hết đất đai, còn đa số dân chúng không có đất, thì phải đi làm nô lệ cho các phú nông địa chủ trên, đời sống của họ hết sức cơ cực, họ bị bóc lột, đàn áp dã man. Lúc bấy giờ có một chàng thanh niên có tâm huyết tên là Karmeliuk. Chàng cũng là một nông nô, nhưng không chịu nỗi cảnh đàn áp, bất công đó nên đã trốn vào bưng biền để cùng với một số bạn tâm huyết khác nổi loạn. Họ tổ chức đánh cướp nhà các phú nông địa chủ và lấy tài sản của chúng đem chia cho các người nghèo. Danh tiếng Karmeliuk loan truyền khắp nước. Có những bài thơ, những bài hát được lưu truyền trong dân gian để ca ngợi chàng. Chàng Karmeliuk trên những dặm đường gió bụi cũng đã gặp gỡ nhiều thanh niên. Lúc đầu họ không biết chàng. Nhưng khi họ hỏi “Anh là ai?” và Karmeliuk trả lời “Tôi là Karmeliuk”, thì những thanh niên ấy vô cùng sung sướng, bỏ lại sau lưng tất cả để theo chàng. Họ hãnh diện vì đã đi theo một vị anh hùng dân tộc.

Bài Tin mừng hôm nay, nếu được diễn tả bằng ngôn ngữ thời đại, thì cũng tương tự như câu chuyện trên. Thuở bấy giờ dân chúng đang sống khổ sở, không phải họ chỉ mang một ách nô lệ, mà tới hai cái ách nô lệ: Nô lệ đế quốc La mã, và nô lệ đế quốc tội lỗi. Ðức Giêsu xuất hiện, Ngài đi đó đi đây khắp nơi để xoa dịu những cực khổ thể xác, và giải phóng khỏi cách tội lỗi. Có nhiều tiếng đồn, nhiều dư luận về Ngài. Một ngày kia, trên con đường từ Betsaiđa đến thành phố Xêxarê Philip, Ðức Giêsu đột ngột hỏi các môn đệ mình: “Còn anh em, anh em nghĩ Ta là ai?” Các môn đệ bối rối trước câu hỏi đột ngột ấy nên không trả lời được, khi ấy, Phêrô lên tiếng: “Thầy là Ðức Kitô”. Ðức Kitô, đó là một danh xưng theo tiếng Hy Lạp, ý nghĩa của nó, nói theo ngôn ngữ thời nay, chính là “Vị anh hùng giải phóng”. Lời Phêrô nói: “Thầy là Ðức Kitô”, có nghĩa là “Thầy chính là vị Anh Hùng giải phóng mà toàn dân đã từ lâu mong đợi”. Chắc hẳn Phêrô và các bạn ông rất hãnh diện vì được đi theo một Vị Anh Hùng như vậy. Họ dám bỏ lại sau lưng tất cả, nhà cửa, nghề nghiệp, gia đình, vợ con mà không hề tiếc nuối, bởi vì họ đi theo một Vị Anh Hùng, họ vô cùng hãnh diện.

Thế nhưng vấn đề không phải chỉ đơn giản có thế. Ði theo một Vị Anh Hùng không phải chỉ để được hãnh diện, mà còn phải chia xẻ tất cả những gian truân nguy hiểm trên con đường dài mà vị Anh Hùng ấy đã vạch ra. Trong chuyện Karmeliuk, nhiều thanh niên đã hãnh diện khi được đi theo chàng. Thế rồi gian truân nguy hiểm đã phân họ thành hai hạng: có một người đã không chịu nỗi những gian khổ nên cuối cùng đã phản bội, nghe theo âm mưu của địch để đầu độc Karmeliuk, rất may là chàng không chết; hạng thứ hai là những kẻ trung thành với chàng cho đến chết. Thánh Phêrô và các bạn cũng hãnh diện vì đi theo Ðức Kitô. Nhưng Ðức Kitô phải nhắc họ: Ði theo Ngài không phải chỉ để hãnh diện, mà còn phải cùng Ngài dấn thân vào con đường Thập Giá đầy đau khổ. Rõ ràng là các môn đệ chưa được biết điều đó, cho nên nghe vậy thì họ sợ nguy ngay. Và một lần nữa Phêrô lên tiếng thay các bạn “Thưa Thầy, đừng, không được như vậy đâu?” Ðức Giêsu nghiêm khắc rầy Phêrô và xác định lại dứt khoát “Ai muốn theo Ta, phải bỏ mình, vác Thập Giá mà theo”. Từ đó trở đi, các môn đệ dần dần hiểu được con đường của Thầy. Nhưng họ cũng phân ra thành hai hạng: 1 hạng gồm những kẻ trung thành với Thầy cho đến chết, và hạng kia là Giuđa cuối cùng đã phản lại Thầy.

Ðoạn kết của câu chuyện Karmeliuk và câu chuyện Ðức Giêsu cũng giống nhau: cả 2 đều bị giết. Kể như cả 2 đều thất bại. Nhưng thực ra đó không phải là thất bại, mà là thành công: Karmeliuk đã gây được ý thức giải phóng nơi dân chúng, với ý thức đó, về sau họ đã đứng lên và dành lại được quyền sống cho mình. Còn Chúa Giêsu thì đã vạch ra một con đường cứu thoát rõ ràng: phải dám vác Thập giá, phải dám chết đi, rồi sau đó sẽ sống lại và toàn thắng. Con đường ấy ngày nay đang được hàng trăm triệu người đi theo.

Trong số đó có chúng ta.

Nhưng hôm nay, chúng ta hãy đặt lại 2 vấn đề cơ bản:

  1. Chúng ta có hãnh diện vì đã đi theo Ðức Kitô không?

Người ta thường hãnh diện khi đi theo một Vị Anh Hùng đang nổi tiếng, đang thành công, đang đứng giữa vòng hào quang. Nhưng những vị “Anh Hùng Mạt lộ” thì thường bị đệ tử bỏ rơi. Khi Chúa Giêsu bị chống đối, rất nhiều người đã bỏ Ngài. Khi các thủ lãnh dân Do thái âm mưu giết ngài, Giuđa đã trở mặt, nộp Ngài cho chúng giết đi, còn Phêrô thì xấu hổ không dám nhận là môn đệ của Ngài. Có thể coi đó là tâm lý thường tình. Và chắc chúng ta cũng rơi vào thứ tâm lý thường tình đó khi thấy đạo của mình hình như không được vinh dự lắm, khi nghe thấy những lời chỉ trích, chế nhạo, lên án Ðạo mình. Có người đã làm như Giuđa, trở mặt bỏ Ðạo; có người làm như Phêrô không dám để cho người ta biết mình có Ðạo.

Giuđa thì một lần phản bội đã hư mất luôn. Còn Phêrô chỉ chối Thầy 3 lần. Sau đó đã ý thức được điều mà tôi đã trình bày ở phần trước: Chúa Giêsu xem ra đã thất bại vì đã bị Vác Thập Giá và đã bị giết chết; nhưng thực ra đó chính là thành công: Thập giá là đường đưa tới Phục Sinh, đau khổ là đường đưa tới vinh quang. Vì ý thức như vậy nên sau đó Phêrô (và các tông đồ khác) đã kiên trì theo Thầy cho đến cùng, và hãnh diện mà đi theo Thầy: vẫn hãnh diện khi bị bắt bớ, vẫn hãnh diện khi bị giết, luôn luôn hãnh diện. Thánh Phaolô đã nói “Vinh dự của chúng tôi là Thập Giá Ðức Kitô”.

Ðó là điều thứ nhất chúng ta nên nghiền ngẫm suy nghĩ.

  1. Và điều thứ hai cần xác định: chúng ta đi theo Chúa không phải chỉ để được hãnh diện.

Theo ai, chủ yếu là để cùng chia vui, xẻ buồn với người đó, đồng lao cộng khổ để đồng hưởng vinh quang. Như lời Thánh Phaolô “Nếu ta cùng chết với Ngài. Ta sẽ sống lại với Ngài; nếu Ta cùng chịu đau khổ với Ngài, ta sẽ cùng Ngài chia xẻ vinh quang”. Ai có dám cùng bước với Chúa Giêsu trên những đoạn đường gian khổ thì mới có thể cùng đứng với Ngài trên đài Vinh quang.

Nhưng Vinh Quang, chiến thắng chỉ là bước cuối cùng, có thể còn xa xôi vời vợi. Còn trước khi đó là cả một đoạn đường thánh giá dài lê thê. Theo Chúa là phải theo cả con đường thánh giá ấy thì mới có thể đến cuối đường vinh quang kia. Chúa Giêsu đã nói trước “Ai muốn theo Ta, hãy bỏ mình, vác Thập Giá mà theo”.

Liệu chúng ta có kiên trì để theo Chúa như vậy không?

Xin Chúa giúp chúng ta tìm ra câu trả lời,. Và nếu đó là câu trả lời: “Có” thì xin Chúa ban thêm sức cho chúng ta qua Bí tích Thánh Thể này mà chúng ta tiếp tục cử hành.

* 4. Tẩy rửa trái tim (Mc 7,1-8a. 14-15. 21-23)

Văn hào Dostoevski trong tác phẩm “Anh em nhà Karamazov” có kể lại câu chuyện sau đây: “Vào thời đại của tòa phán quan ở Tây ban Nha, người ta đã dựng những hỏa đài để thiêu sống những kẻ tà giáo. Ðức Kitô dịu hiền đột nhiên đến thăm con cái của Người ở Seville, Người về giữa loài người như một dân thường. Ðức Giêsu bước xuống những con đường sôi bỏng của thành phố phương Nam. Nơi đây, mới hôm trước, vị phán quan vĩ đại đã cho thiêu sống trăm tên tà giáo “Ad majorem Gloriam Dei”.

Hỏa đài ngay trước khán đài danh dự có đông đủ vô số triều đình, các hiệp sĩ, các mệnh phụ xinh đẹp và cả Ðức hồng Y giáo chủ. Ðức Giêsu nhẹ nhàng bước trên đường bằng dáng điệu trầm tĩnh, nhưng lạ lùng tất cả đã nhận ra Người. Dân chúng xô đẩy nhau quấn quít bước chân Người. Người lặng lẽ vào giữa đám đông với nụ cười và ánh mắt từ bi. Một cụ già mù van xin: “Lạy Chúa, xin cho con được sáng để con nhìn thấy Người”. Một cái vẩy rơi xuống và cụ nhìn thấy được. Dân chúng vui mừng chảy nước mắt và hôn lên mảnh đất chỗ Người đi qua. Những em bé tung hoa trên lối Người đi.

Ðức Kitô đứng lại trước giáo đường Seville ngay lúc có đám tang một cô bé bảy tuổi. Cạnh cỗ áo quan màu trắng phủ đầy hoa, người mẹ đang nức nở. Trong đám đông có người hô lớn: “Con bà sẽ hồi sinh”. Người mẹ tha thiết: “Nếu đúng là Người xin hãy hồi sinh đứa con của con”. Ðức Giêsu nhắc lại lời thuở trước: “Talitha Kum” và em bé ngồi lên.

Ðúng lúc đó, Hồng Y giáo chủ và phán quan vĩ đại đi ngang qua. Từ xa ông đã thấy hết. Ông thấy chiếc áo quan đặt xuống, đứa bé hồi sinh. Mặt ông xịu xuống, mắt ông chớp tia sáng ghê hồn. Ông lấy ngón tay chỉ vào Ðức Giêsu và ra lệnh cho bọn lính bắt người. Thế lực ông quá lớn nên ông khuất phục cả quần chúng. Phán quan ra lệnh tống giam Giêsu. Ông vào ngục một mình gặp Người. Ông thương cảm nhưng “Luật là luật, trật tự của Giáo hội phải được bảo tồn bằng mọi giá”. Ông tuyên bố “Tôi chẳng rõ Người là ai. Hình như Người là Ðức Giêsu, nhân danh Giáo hội, Ad majorem gloriam Dei, ngày mai Ngài cũng lên giàn hỏa”.

****

Vị phán quan trong câu chuyện trên cũng chỉ đi theo vết xe cũ của các biệt phái và ký lục Do thái. Bài Tin mừng hôm nay chứng minh điều ấy, Ðức Giêsu đang ở Galilê, các Biệt phái và Ký lục từ Giêrusalem tới, nghĩa là họ phải vượt qua 170 Km đường bộ để chỉ hỏi tại sao các môn đệ Người không rửa tay trước khi ăn. Ðiều đó cho thấy người Do thái rất coi trọng việc tuân giữ các tập tục tiền nhân về vấn đề thanh tẩy.

Thực ra, lúc đầu luật rửa tay trước khi vào nơi thánh dành cho các tư tế. Mục đích là tẩy rửa các ô uế về mặt tôn giáo để các tư tế xứng đáng thờ phượng Chúa. Sau này, dân chúng bắt chước các tư tế rửa tay trước khi cầu nguyện. Với suy nghĩ tương tự họ cũng rửa tay trước khi ăn. Ý tưởng này rất cao đẹp vì nó làm cho tôn giáo thâm nhập vào hành vi con người trong cuộc sống.

Khốn thay trong quá trình thực thi luật này, tôn giáo đã thoái hóa đến chỗ chỉ còn giữ nghi thức bên ngoài, nghĩa là ai tuân giữ các nghi thức này thì được xem là đạo đức, là đẹp lòng Thiên Chúa, còn không tuân giữ là phạm tội. Nói như nhà thần học William Barclay: “Người ta có thể căm thù tha nhân tận xương tuỷ mà không một chút áy náy vì họ đã tuân giữ chặt chẽ các nghi thức rửa tay và các nghi thức thanh tẩy khác”. Tôn giáo không phải là một mớ luật lệ. Tôn giáo là một diễn tả tình yêu, một phát minh của Thiên Chúa nhân từ.

Thế nên, Ðức Giêsu mới vạch mặt sự giả hình của họ, vì họ chẳng quan tâm đến chuyện tẩy rửa trái tim. Họ rửa tay để được an tâm. Họ rửa tay để khỏi phải rửa tâm hồn. Rửa tay thì dễ chứ rửa tâm hồn mới thực là khó. Nhưng cái ô uế thực lại không từ bên ngoài vào, nó ở ngay trong trái tim mỗi người. Ðức Giêsu đã kể ra 12 ý định xấu từ trong trái tim. Từ ý định xấu xa sẽ dẫn đến những hành vi tội lỗi (x.Mc.7,21-22). Michael Taeboit nói: “Khi cái dằm tội lỗi ra khỏi mắt ta, tất cả thế giới sẽ tỏa sáng”.

Vậy điều quan trọng là phải đổi mới trái tim. Ðổi mới được trái tim là đổi được tất cả. Ðiều cốt lõi trong đạo không phải là chúng ta làm việc này việc nọ, mà chính là lý do thúc đẩy chúng ta làm những việc ấy. Việc đọc kinh dự lễ, suy niệm Lời Chúa, làm việc bác ái… tự chúng không bảo đảm rằng chúng ta thánh thiện, nếu chúng ta làm vì một lý do không mấy đúng đắn. Nó chỉ trở nên thánh thiện trước mặt Chúa khi những hành động ấy phát xuất từ tình yêu Thiên Chúa và tha nhân. Thánh Phaolô đã quả quyết: “Giả như tôi có đem hết gia tài cơ nghiệp mà bố thí, hay nộp cả thân xác tôi để chịu thiêu đốt, mà tôi không có đức ái, thì cũng chẳng ích gì cho tôi” (1Cr.13,3).

****

Lạy Chúa, xin nhắc cho chúng con nhớ rằng: luật lệ và nghi thức là cần thiết, nhưng đừng quên điều cốt lõi của luật Chúa là yêu thương. Xin dạy chúng con chỉ biết có một điều: là chúng con làm mọi sự chỉ để kính mến Chúa và yêu thương anh em. Amen. (Thiên Phúc, “Như Thầy đã yêu”)

  1. Mảnh suy tư

a/ Ðầu và tim

Trong trường học, người ta để ý huấn luyện cái đầu hơn là trái tim, vì người ta cho rằng cái đầu mới biết suy nghĩ. Bởi đó người ta lo đào tạo nên những đứa trẻ giỏi hơn là những đứa trẻ tốt, vì công việc và nghề nghiệp sau này của đứa trẻ đòi hỏi hiệu năng hơn là tấm lòng. Kết quả của lối giáo dục trên là nền văn minh khoa học kỹ thuật ngày nay, rất hiệu quả nhưng cũng rất lạnh lùng, ích kỷ và tàn nhẫn.

Tuy nhiên trong trường đời thì trái tim lại quan trọng hơn, vì sống ở đời và giao tiếp với người đời, “được việc” mà thôi chưa đủ, còn phải “được người” nữa. Nền văn minh mang lại hạnh phúc cho con người không phải là văn minh của khoa học kỹ thuật mà là văn minh của tình thương.

b/ Chăm sóc bề ngoài

Hàng ngày xem TV, chúng ta thấy quảng cáo rất nhiều sản phẩm: các loại xà bông mới, các loại dầu gội mới, nhiều loại nước hoa v.v. Tất cả đều nhằm chăm sóc cho làm da, mái tóc, cơ thể… nhưng đều là bề ngoài. Ngày nay, người ta cũng để ý nhiều hơn đến chất lượng của những thức ăn và thức uống… Mọi thứ phải đáp ứng đúng tiêu chuẩn thực phẩm an toàn và bổ dưỡng. Tuy nhiên, tất cả chỉ là những thứ từ bên ngoài được đưa vào trong cơ thể con người.

Nhưng xem ra người ta rất ít lo chăm sóc cái bề trong của con người, như lương tâm, lòng nhân ái, ý thức về tội… và cũng rất ít để ý tới những cái từ trong lòng phát ra.

  1. Chuyện minh họa

Một sư phụ hỏi các đệ tử của mình: “Cái gì ta phải lo tránh nhất trong cuộc đời?” Sau đây là những câu trả lời của các đệ tử:

Một con mắt xấu

Một người bạn xấu

Một người láng giềng xấu

Một trái tim xấu.

Sư phụ đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, bởi vì một trái tim xấu chứa đựng tất cả những sự xấu khác.

Sau đó sư phụ lại hỏi: “Và cái gì ta cần bồi dưỡng nhất trong cuộc đời?” Cũng có những câu trả lời tương tự:

Một con mắt tốt.

Một người bạn tốt.

Một người láng giềng tốt

Một trái tim tốt.

Vị sư phụ cũng đánh giá câu trả lời thứ tư là đúng nhất, vì một trái tim tốt chứa đựng tất cả mọi thứ tốt khác.

Nhưng sư phụ lưu ý thêm: Một trái tim tốt không chỉ là một trái tim sạch mà còn phải là một trái tim đầy, bởi vì một trái tim sạch có thể chỉ là một trái tim trống rỗng, còn một trái tim đầy thì chan chứa tình thương.

  1. Lời nguyện cho mọi người

Chủ tế: Anh chị em thân mến, người biệt phái Do thái tranh luận với Ðức Giêsu về sự ô uế và trong sạch Ðức Giêsu đã bảo họ: “Tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong xuất ra và làm cho con người thành ô uế”. Chúng ta hãy khiêm tốn cầu nguyện:

  1. Xin cho các Ðức Giáo Hoàng, Giám mục, Linh mục và cá giáo lý viên / biết hướng dẫn mọi người sống theo tinh thần lề luật của Chúa / và tránh mọi lối sống vụ hình thức cũng như giả hình.
  2. Xin cho các người lãnh đạo các dân tộc / biết ứng xử với nhau và với đồng bào của mình trong tinh thần và sự thật / để đôi bên luôn tín nhiệm và đoàn kết với nhau.
  3. Xin cho những người quen sống lối sống vụ hình thức và giả hình / biết nhận thức rằng chính lối sống đó chỉ làm cho họ trở nên ô uế xấu xa.
  4. Xin cho anh chị em trong giáo xứ chúng ta / biết yêu mến và tuân giữ lề luật của Chúa / hơn là chạy theo những thói quen ngoại giao giả hình.

Chủ tế: Lạy Ðức Giêsu, Chúa đã dạy chúng con rằng: tất cả những điều xấu xa đều từ bên trong mà xuất ra. Xin Chúa giúp chúng con luôn thanh tẩy tâm hồn cho trong sạch, để chúng con biết phục vụ Chúa và mọi người trong thần khí và sự thật. Chúa là Ðấng hằng sống và hiển trị muôn đời.

  1. Trong Thánh lễ

– Trước lúc rước lễ: Chúng ta hãy nhớ lời Ðức Giêsu nói trong bài Tin Mừng: “Chính cái từ trong con người xuất ra là cái làm cho con người ra ô uế. Vì từ bên trong, từ lòng người, phát xuất những ý định xấu: tà dâm, trộm cắp, giết người, ngoại tình, tham lam, độc ác, xảo trá, trác táng, ganh tị, phỉ báng, kiêu ngạo, ngông cuồng”. Xin Chúa thương tẩy xóa mọi thứ ô uế đó khỏi lòng chúng ta để chúng ta xứng đáng rước Chúa vào lòng.

VII. Giải tán

Anh chị em hãy ghi nhớ một lời Tin Mừng hôm nay: “Dân này thớ kính Ta bằng môi miệng, nhưng lòng chúng thì lại xa Ta”. Ước gì tuy Thánh lễ đã kết thúc và chúng ta sắp ra khỏi nhà thờ, nhưng lòng chúng ta luôn gắn bó với Chúa.


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...