20/08/2022
1558

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN_C

Lời Chúa: Is. 66,18-21; Dt. 12,5-7.11-13; Lc 13,22-30

 

Mục lục

1. Cửa hẹp  (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên)

2. Đường hẹp mới dẫn ta về trời  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

3. Đi qua cửa hẹp (Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi, DCCT)

4. Lối vào Nước Trời (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)

5. Lẽ sống (Anna Cỏ May, MTG.Thủ Đức)

6. Cửa hẹp.  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

7. Vào cửa hẹp  (Lm. Gioan Nguyễn Thiên Khải, CRM)

8. Không nên thánh thì uổng lắm!  (PM. Cao Huy Hoàng)

9. Nỗ lực  (Trầm Thiên Thu)

10. Hãy vào qua cửa hẹp (Lm. Giuse Đinh Lập Liễm)

11. Chúa Nhật XXI Thường niên_C  (Lm. Giuse Đinh Tất Quý)

12. Vào cửa hẹp. (Lm. Anphong Trần Đức Phương)

13. Chiến đấu để qua được cửa hẹp  (JM. Lam Thy, ĐVD)

14. Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

15Bỏ các người DoThái bất trung và kêu gọi lương dân (Học việnGiáo Hoàng Piô X ĐàLạt)

16. Sống thật với ước mơ  (Lm. Jos. DĐH. Gp. Xuân Lộc)

17. Chúa cứu độ tất cả mọi người  (Lm. Giuse Lê Danh Tường)

18. Phải chăng “Độ Ta Không Độ Nàng”?  (Lm. Giuse Nguyễn)

19. Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào Nước Trời  (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

20. Thu mình để qua cửa hẹp Giêsu (Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ)

21. Phải chăng ngoài Giáohội không có ơn cứuđộ?(Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương)

22. -Cửa hẹp  (Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa)

23. Chúa Nhật 21 Thường niên, năm C  (Lm. Antôn)



 

CỬA HẸP

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

Người Việt chúng ta thường nói: “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”. Tác giả thư Do Thái lại khẳng định: “Chúa thương ai thì mới sửa dạy người ấy và có nhận ai làm con thì mới cho roi cho vọt”. Như thế, điểm gặp gỡ giữa văn hóa Việt Nam và truyền thống Thánh Kinh ở quan niệm rằng, việc sửa dạy khiển trách là cần thiết để giúp con người trưởng thành. Lửa thử vàng, gian nan thử đức. Những khó khăn thất bại chúng ta gặp trên đường đời cũng giống như những bài học quý giá, nếu biết chân thành đón nhận sẽ giúp ta thành công trong tương lai. Như cây nho cần được cắt tỉa để có nhiều trái hơn, con người cũng cần được sửa dạy để nên hoàn thiện. Một văn sĩ người Pháp đã viết: “Con người không được giáo dục, như thú hoang được thả vào đô thị, gặp ai nó cắn người đó”.

“Hãy vào qua cửa hẹp!”. Đó là lời mời gọi của Chúa Giêsu. Ai trong chúng ta cũng hiểu Chúa Giêsu muốn ám chỉ một cuộc sống có kỷ luật và tuân theo giáo huấn của Người. Thông thường, người ta học điều xấu thì rất nhanh và rất dễ, nhưng học điều tốt thì rất chậm và rất khó. “Cửa hẹp” mà Chúa Giêsu muốn nói ở đây chính là sự kiên nhẫn và chuyên tâm thực hiện Lời Chúa. Để thực thi Lời Chúa, chúng ta phải trải qua những cố gắng hy sinh. Như những vận động viên muốn đạt giải quán quân phải khổ chế tập luyện, những ai muốn nên thánh phải chấp nhận tuân giữ những kỷ luật khắt khe. Một lối sống giả tạo bề ngoài sẽ bị kết án là “đồ bất chính”. Giáo huấn Tin Mừng cần được thấm nhuần và trở nên nguồn động lực cho cuộc sống chúng ta, chứ không chỉ hời hợt bề ngoài. Chúa lên án những ai chỉ giữ Đạo bằng môi miệng, còn thực tế thì đủ mọi mưu mô tính toán và gian lận.

Lời Chúa không chỉ bao gồm sự ngọt ngào, mà còn sự cay đắng; không chỉ có những lời khen ngợi mà còn những lời trách móc. Người có đức tin trưởng thành biết đón nhận cả sự ngọt ngào và cay đắng của Lời Chúa để tự ngẫm và sửa mình, nhờ đó nên hoàn thiện.

“Cửa hẹp”, theo tác giả thư Do Thái, đó là sự kiên nhẫn trong thử thách. “Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?” Những gian khó mà chúng ta gặp phải trên đường đời, nếu được đón nhận bằng cái nhìn đức tin, sẽ được coi như sự sửa dạy của Chúa để chúng ta nên con người hoàn thiện. Mà nếu Chúa sửa dạy ai, là vì Ngài yêu thương người đó và muốn kéo người đó lên kẻo chìm sâu trong bùn lầy.

Giáo huấn của Chúa cũng nhằm phê phán lối suy nghĩ mang tính “tự tôn” của khá nhiều người Do Thái đương thời, nhất là giới Pharisiêu và Luật sĩ. Họ coi trọng những chức danh, những tước hiệu cùng với trang phục bề ngoài và coi đó là những lý do để tự hào và coi thường người khác. Họ nghĩ mình thuộc về dân Chúa chọn, được ưu tuyển và có nhiều lợi thế, chắc chắn họ được Chúa yêu thương hơn. Những người đợi ở cửa phòng tiệc sau khi cửa đã đóng lại cố tìm cách trưng dẫn những bằng chứng cho thấy mối thân thiện của họ với ông chủ, nhưng ông  đã tuyên bố dứt khoát: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khỏi mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính”. Trong bối cảnh này, việc gợi lại những bữa ăn uống với ông chủ hay những kỷ niệm đẹp với ông chỉ là sự che đậy một lối sống bất nhân.

Cuộc sống có một định hướng và một mục đích trong tương lai. Trong khi hưởng thụ cuộc sống hiện tại, chúng ta không quên mục đích và định hướng ấy, dù cuộc đời đau khổ hay hạnh phúc, dù cuộc sống ngắn hay dài. Ngôn sứ Isaia nói đến ngày mà muôn dân sẽ quy tụ để tôn vinh Thiên Chúa. Lúc đó, những người công chính sẽ được hưởng vinh quang và phần thưởng Chúa hứa ban cho người trung thành. Đó cũng là lúc mà Chúa Giêsu gọi là “từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”. Tiếc thay, những người vẫn tự hào cho mình là “con dòng cháu giống” lại bị đuổi ra ngoài, nơi chỉ có khóc lóc nghiến răng, tức là chỉ có đau khổ và thù hận.

Hãy sống thật trước mặt Chúa và trước mặt anh em. Điều ưu tiên đối với người tín hữu là làm sao để sống tốt giữa một cuộc đời đầy biến động, “tâm bất biến giữa cuộc đời vạn biến”. Như đóa sen vươn lên giữa bùn lầy mà vẫn thanh tao và tỏa hương thơm ngát, chúng ta được mời gọi kiên trì và vững tin. Đó là mối ưu tư hàng đầu chi phối mọi suy nghĩ và hành động của chúng ta. Ai chấp nhận đi qua cửa hẹp sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính, như Thánh Phaolô khẳng định với chúng ta.

Về mục lục

.

ĐƯỜNG HẸP MỚI DẪN TA VỀ TRỜI

Lm. Jos Tạ duy Tuyền

Đa số chúng ta nghĩ rằng lòng bác ái là phải quảng đại giúp đỡ tha nhân. Gặp ăn xin thì phải cho tiền, gặp kẻ bệnh tật thì giúp trị bệnh, gặp kẻ khốn khó thì phải bảo trợ, càng làm nhiều việcthiện thì các có đức về sau.

Tôi đã từng làm thế, bởi đơn giản tôi muốn tạo công phúc cho đời sau. Nhưng giờ ngồi nghĩ lại, những người tôi giúp, họ vẫn thế, vẫn ăn xin, vẫn nghèo đói, vẫn ốm yếu. Thậm chí, sau này tôi mới biết, đứng sau lưng họ là cả đường dây bảo kê, cưỡng ép họ phải đi ăn xin, bán vé số. Họ trở thành con rối, để những kẻ bặm trợn, giang hồ giật dây, điều khiển. Tôi ân hận khi nhận ra, suy nghĩ ngây thơ, hành vi tưởng chừng là tốt đẹp kia của tôi lại tiếp tay và dung dưỡng cho cái ác hiện hữu.

Có một lần gặp một bé gái ăn xin. Tôi hỏi con quê quán ở đâu? Cha mẹ thế nào? Sao lại đi xin? Con bé khá kiên nhẫn trả lời, cuối cùng tôi nói: chú mua cốc nước cho con uống, chú nghĩ rằng con nên quay về nhà và tiếp tục đi học, không học được thì làm việc, cháu sẽ vất vả hơn, nhưng sẽ thấy vui hơn vì không phải sống dựa vào tình thương của người khác. Nhưng nó lắc đầu và bỏ đi, vì đàng xa bên kia đường có người phụ nữ đang theo dõi nó . . .!

Ở đời rất nhiều loại người thích giầu có nhưng lại lười đầu tư. Điều này nhà tỷ phú giàu nhất thế giới Bill Gates từng nói rằng: “Sinh ra trong nghèo đói không phải là tội của bạn; nhưng nếu chết trong nghèo đói thì đó hoàn toàn là lỗi của bạn”.

Vì thế, không có lý do gì để chúng ta cứ mãi sống trong sự nghèo đói. Tiền bạc và sự giàu có vẫn đang chờ đợi mỗi người ở phía trước chỉ cần chúng ta có đủ quyết tâm và thực hiện vẫn có thể thay đổi cuộc đời chúng ta.

Trong đời sống thiêng liêng cũng vậy, nên thánh không thể đi theo con đường dễ dãi cho bản thân mà là con đường hẹp, con đường hy sinh, con đường phấn đấu từng ngày mới có thể vượt qua cám dỗ cưng chiều thân xác để sống hưởng thụ và sa đoạ.

Nhưng tiếc thay, nhân loại hôm nay vẫn tìm kiếm khoái lạc và hưởng thụ. Thích tìm sự dễ dãi hơn là những hy sinh từ bỏ. Có những bạn trẻ thích hưởng thụ nhưng không muốn làm, chỉ lêu lổng dẫn đến trở thành một gánh nặng cho gia đình và xã hội. Có những bạn trẻ tìm sự dễ dãi trong quan hệ nam nữ mà đánh mất lòng tự trọng, sự trong sạch tâm hồn. Có những người luôn tìm sự dễ dãi cho bản thân, nuông chiều theo tính xác thịt dẫn đến ngoại tình, dâm ô, trộm cắp  . . .; Có những người đang mang trong mình những căn bệnh thời đại là hậu quả của lối sống dễ dãi, thiếu tự chủ bản năng. 

Người ta vẫn nói: “Hãy dừng lại trước khi qúa muộn”. Sự khôn ngoan mời gọi chúng ta đừng tìm sự dễ dãi đến mức độ nuông chiều theo bản năng. Hãy tự chủ. Hãy tỉnh thức. Hãy canh tân sửa đổi để trau dồi nhân đức cho bản thân hầu diệt trừ những tính hư nết xấu. Hãy sống cho cao thượng đúng với phẩm giá con người là “nhân chi sơ tính bản thiện”. Hãy sống công bình bác ái và yêu thương để khỏi bị luận phạt ở đời sau. Hãy sống đời này cho nghiêm túc để đời sau chúng ta được hạnh phúc muôn đời. Hãy vì sự sống vĩnh cửu mà can đảm từ bỏ những lối đường tội lỗi hôm nay.

Nguyện xin Chúa là Đường là Sự Thật và là Sự Sống dẫn dắt chúng ta đi trong chân lý vẹn toàn. Amen

Về mục lục

.

ĐI QUA CỬA HẸP

Lm. Giuse Nguyễn Hưng Lợi

Sống trên đời là một cuộc chiến đấu không ngừng. Con người từ lúc sinh ra cho đến khi nhắm mắt xuôi tay là một cuộc phiêu lưu, một cuộc vượt thắng liên lỉ để sinh tồn.Do đó, chiến đấu không ngừng có nghĩa là chiến đấu liên lỉ, mãi mãi không nghỉ ngơi. Nói một cách siêu nhiên như Chúa dạy hôm nay trong đoạn Tin Mừng của thánh Luca 13,22-30 :” Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào “ ( Lc 13,24 ). Cửa hẹp là cửa khó lách, khó vào. Người ta đã có nhiều lần ví von khi vẽ hình tượng của một anh khổng lồ định chui qua cửa hẹp nhỏ xíu, giống như hình ảnh con lạc đà và lỗ kim. Cửa hẹp đòi hỏi con người phải phấn đấu, phải cố gắng, vượt thắng nhiều, liên lỉ và mãi mãi. Cửa càng hẹp mà vào được mới quý. Chúa Giêsu đã nói :” Phấn đấu bước qua cửa hẹp mà vào “. Chữ  “vào” ở đây là vào Nước Thiên Chúa. Cửa hẹp dẫn đến sự sống (Mt 7,14 ).

Chữ phấn đấu mà Chúa dùng ở đây là chiến đấu với cái tôi to lớn của mình, cái tôi cồng kềnh, ích kỷ, cái tôi tham vọng, cái tôi tự hào, tự mãn của bản thân con người. Chính vì thế, càng làm cho cái tôi nhỏ bé đi như trẻ thơ, Nước Trời mới thuộc về mình được. Cái tôi càng trở nên khiêm hạ trước mặt Thiên Chúa, trước mặt anh em.Thật ra, con người luôn có khuynh hướng làm cho cái tôi của mình phình ra, to lên. Đó là sự kiêu ngạo, tự mãn về tiền bạc, của cải, danh vọng, địa vị, danh dự vv…Cái tôi của con người càng to thì càng xa rời Thiên Chúa.

Ơn cứu độ không dành riêng cho bất cứ một ai dẫu là dân Do Thái được Thiên Chúa truyển chọn. Người Do Thái xưa cứ tưởng rằng Chúa đã chọn họ, họ đương nhiên được cứu độ. Mặc dầu Thiên Chúa tuyển chọn lựa Dân Do Thái, nhưng nhiều người đã phản nghịch, đi theo tà thần, thờ bò vàng, do đó, họ mất phần phúc Nước Trời…Đức Giêsu đã nêu gương cho nhân loại, cho con người, cho chúng ta bằng việc “ tự hủy “. Ngài tự hủy mình ra không để sống kiếp loài người ngoại trừ tội lỗi ( Philip 2, 6-11 ). Chúa Giêsu tự hủy không đòi ngang với Thiên Chúa, Cha của Người. Đây là sự tự hạ thẩm sâu làm cho Người được tôn vinh. Chính cái chết trên thập giá theo ý định của Thiên Chúa Cha là lời nói yêu thương cao vời nhất vì “  Ơn cứu độ chứa chan nơi thập giá”.

Con đường dẫn vào sự sống, vào Thiên Đàng là do mỗi người định đoạt vì Chúa ban sự tự do chọn lựa đi qua cửa rộng hay đi qua cửa hẹp. Con đường rộng thênh thanh là con đường dẫn tới sự chết.Con đường hẹp là dẫn con người tới sự sống đời đời. Chúa không nới rộng cửa ra cho chúng ta mà chính mỗi ngườu phải nỗ lực nới cửa rộng ra. Trở nên trẻ thơ như Chúa nói vì Nước Trời thuộc về chúng. Trở nên trẻ thơ là luôn biết phó thác, cậy dựa vào Thiên Chúa.

Vâng, Nước Trời không phải là một phần thưởng đương nhiên chúng ta có được. Phần thưởng chỉ được trao ban co những ai trung thành, tin tưởng, tín thác vào Chúa, đồng thời thực thi luật bác ái yêu thương “ mến Chúa yêu người “ trong suốt cuộc đời của mình va nói như Đức Thánh Cha Phanxicô :” …Sống tình yêu của Chúa và chấp nhận nói lời “ xin vâng “ như Đức Mẹ là chúng ta đang bước vào con đường hẹp, bước vào cửa Nước Trời “.

Lạy Chúa Giêsu, xin giúp chúng con biết mau mắn cởi bỏ con người cũ, mặc lấy Đức Kitô, sẵn sàng nỗ lực phấn đấu, vượt thắng bản thân, để đi vào cxon đường hẹp, tiến tới sự sống đời đời.Amen.

GỢI Ý ĐỂ CHIA SẺ :

1.Tại sao Chúa lại nói :” Hãy phấn đấu bước qua cửa hẹp ? “.

2.Cửa hẹp theo ý Chúa nghĩa là gì ?

3.Cái tôi cồng kềnh là gì ?

4.Làm sao có thể làm nhỏ cái tôi lại được ?

5.Nước Thiên Chúa là gì ?

Về mục lục

.

LỐI VÀO NƯỚC TRỜI

Bông hồng nhỏ

Hình ảnh Thầy Giêsu lên đường trở nên rất quen thuộc với những ai miệt mài bước theo Người. Trên đường lên Giêrusalem, Người đi qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Người còn có một đích điểm cuối cùng khác, và Người rất muốn chỉ đường cho những ai đang theo Người đạt đến: được ở trong Nước Thiên Chúa.

Có kẻ hỏi Người rằng: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (Lc 13,23). Đó là bận tâm của riêng anh hay của những ai đang bước theo Thầy Giêsu? Anh muốn biết rõ con số cụ thể, còn Thầy, Thầy sẽ chỉ cho anh cách thế để được ở trong Nước Thiên Chúa. “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13, 24).

Con đường dẫn đến sự sống là con đường hẹp, đường thênh thang thì đưa đến sự diệt vong (x. Mt 7, 13-14). Có nhiều người muốn vào nhưng không vào được, vì phải chiến đấu rất quyết liệt mà nhiều người đã không chiến đấu đến cùng. Thầy Giêsu cho ta biết rõ rằng, ta không được chậm trễ, vì một khi chủ nhà đã đóng cửa thì dù ta có gõ cửa thì cũng chẳng làm được gì nữa. Ngay hôm nay, nếu ta được Chúa sửa dạy, ta hãy đón nhận, vì có thương ai Chúa mới sửa dạy kẻ ấy. Quả thật, “ngay lúc bị sửa dạy, thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính” (Dt 12,11). Lòng sám hối là điều kiện cần thiết để ta có thể bền bỉ theo Chúa. Vì biết những giới hạn, yếu đuối của bản thân mà ta cần có lòng sám hối. Mỗi một chặng đường đã qua, khi nhìn lại ta sẽ nhận ra mình đang ở đâu, có đi lạc không để tìm đường trở về. Lòng khiêm tốn thẳm sâu và một khao khát cháy bỏng được đi trên đường lối Chúa sẽ giúp ta có thể tiến xa hơn nữa. Đi trên con đường hẹp, chẳng ai có thể mang vác nhiều thứ, vì cồng kềnh khó đi; nhưng ngược lại, càng nhẹ nhàng, càng từ bỏ thì càng dễ đi. Ta vẫn thường bị cản trở bởi biết bao nỗi lo toan. Yêu Chúa là đi trên con đường Chúa đã đi, là sống như Người đã sống; như thế, những cản trở sẽ làm cho nỗ lực nhiều hơn nữa, chiến đấu can trường hơn nữa để vượt qua chúng.

“Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13, 30). Muốn vào được Nước Trời, người ta phải qua của hẹp mà vào. Phải chăng cửa hẹp ở đây là trở thành một Kitô hữu qua bí tích Rửa tội? Là một Kitô hữu mà không sống điều Chúa dạy thì khó vào Nước Trời hơn. Ta là một Kitô hữu thực thụ khi ta sống theo giáo huấn của Chúa. Ta tha thiết cầu nguyện, xin Chúa thay đổi bản thân mình nhưng nếu ta không nỗ lực cộng tác bằng những hành động cụ thể thì ta sẽ chẳng thể thay đổi được gì. Thiên Chúa quyền năng và giàu tình thương nhưng Người đòi ta phải nỗ lực cộng tác để được lớn lên. Điều ấy đòi ta phải chiến đấu không ngừng, kẻ thù nguy hiểm nhất lại là chính cái tôi của mình. Bởi nếu chỉ sống cho ý riêng thì làm sao ta sống theo ý Chúa được; nếu chẳng bỏ mình, vác thập giá mình mà theo Chúa, ta đâu có thể đi theo Chúa được.

Lạy Chúa! Chúa mời gọi con hãy qua cửa hẹp mà đến với Chúa. Cảm tạ Chúa đã cho con được ở lại trong tình thương của Chúa. Xin giúp con can đảm chiến đấu và bước theo Chúa trên con đường Chúa đã đi. Chúa đã chiến đấu, đã đổ cả máu mình ra để dẫn con vào cõi sống. Trong cuộc chiến đấu với tội lỗi, con thấy mình vẫn chưa chiến đấu đến mức phải đổ máu. Xin cho con biết yêu mến Đấng đã cam chịu để cho những người tội lỗi chống đối mình như thế, để con khỏi sờn lòng nản chí trong cuộc chiến đấu của bản thân. Amen.

Về mục lục

.

LẼ SỐNG

Anna Cỏ may 

 Hạnh phúc và đau khổ luôn đi cùng nhau. Nếu chúng ta không vượt qua những đau khổ và thử thách, chúng ta sẽ không có hạnh phúc. Nếu chúng ta không ra sức bảo vệ hạnh phúc, nó sẽ vụt mất đi. Có những người sống trong hạnh phúc, nhưng theo thời gian, họ đã lạc mất hạnh phúc mà không hay biết. Hạnh phúc không tự nó mà có cũng không bền vững nếu chúng ta không ra sức đi tìm và chiến đấu bảo vệ. Nước Trời cũng vậy, ai muốn được cứu thoát, được vào Nước Trời cần có sự chiến đấu để qua được cửa hẹp mới vào được (x. Lc 13,24).

Trong cuộc sống, chúng ta luôn có những lựa chọn quyết định cho gia đình, trong công việc và cho bản thân. Vậy, chúng ta nghĩ sao trong trường hợp này: cùng một công việc là đi lễ Chúa Nhật, có người chọn đi lễ sớm để được ngồi trong nhà nguyện, để gần Chúa; người kia đi lễ muộn để ngồi ngoài, về cho nhanh? Trong hai hành động, chúng ta sẽ chọn hành động nào?

Tin Mừng Luca cho ta nhìn thấy rõ về cửa Nước Trời. Khi chủ nhà đứng dậy và khóa cửa lại, nhiều người còn đứng ở ngoài bắt đầu gõ cửa xin vào. Họ nhớ lại và nói với chủ nhà: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi” (Lc 13,27). Họ ‘đã từng’ được ăn uống, đã được nghe giảng nhưng tình thần sống của họ ra sao? Cuộc sống hiện tại của họ thế nào để rồi chủ nhà đã phải nói: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13,27). Nếu lúc đó, họ có một thái độ sám hối và lời van xin chân thành thì có lẽ họ sẽ được chủ nhà mở cửa. Người tội lỗi bị treo trên thập giá, trong giờ phút cuối cùng đã sám hối và kêu xin Chúa Giêsu rằng: “Ông Giêsu ơi, khi nào vào nước của ông, xin nhớ đến tôi” (Lc 23,42). Chỉ một lời thành tâm mà ông được ở với Chúa trên thiên đàng.

 Thật sự, chúng ta không biết mình chết lúc nào, chết vào tuổi nào nên chúng ta còn một cách duy nhất là mỗi ngày chọn cho mình một lối sống đem lại hạnh phúc trong Nước Trời ngay từ bây giờ. Hạnh phúc đích thực là khi chúng ta từ bỏ được các đam mê sai lạc, danh vọng và tiền tài. Tất cả thứ đó làm ngăn cản chân chúng ta bước đi và bước vào cửa Nước Trời. Cửa Nước Trời đón chào những ai xứng đáng và sẵn sàng bước vào. Nước Trời, Nước vĩnh hằng.

 Lạy Chúa, phần chúng con có được cứu thoát không? Xin cho mọi người chúng con ý thức chọn Chúa là lẽ sống để mau mắn thực thi ý Chúa và cùng với Ngài dự tiệc trên Nước Trời. Amen.

Về mục lục

.

CỬA HẸP.

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Nước Trời cửa hẹp bước vào,
Lãnh ơn cứu độ, thiên cao rạng ngời.
Bao người mong ước lên trời,
Thực hành sống đạo, vâng lời dậy khôn.
Thênh thang thỏa chí dập dồn,
Ngang qua cửa rộng, dủ hồn về đâu.
Cửa trời đóng lại đêm thâu,
Đứng ngoài mà gõ, biết đâu thăm dò.
Thưa rằng ăn uống đầy no,
Trước thềm nhảy múa, hát hò có hay.
Công trường giảng dạy hằng ngày,
Nào Ta có biết, dân này là ai?
Hỡi người gian ác ngoại lai,
Lui ra tránh mặt, họa tai tới gần.
Sầu đau khóc lóc cơ bần,
Nghiến răng nghiến lợi, tinh thần xót xa.
Những người khách lạ phương xa,
Đông Tây Nam Bắc, thật là thần dân.
Được mời dự tiệc ân cần,
Cửa Trời rộng mở, dự phần phúc ân.

Chúa Giêsu nói cùng dân chúng rằng: Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp. Muốn vào bất cứ nơi nào, chúng ta phải đi qua cửa. Cửa dẫn lối chúng ta vào nơi chúng ta ưa thích. Có cửa dẫn đến sự sống và có cửa dẫn vào sự chết. Chúa Giêsu dạy chúng ta hãy vào cửa hẹp, có nghĩa là chúng ta phải chấp nhận đi vào cửa với nhiều cố gắng hy sinh. Vì qua cửa hẹp, nên chúng ta phải vứt bỏ lại những lỉnh kỉnh và rườm rà của cuộc sống.

Nơi đâu cũng có cửa để đi qua và bước vào. Muốn vào một quốc gia hay một nước nào, chúng ta phải đi qua cửa khẩu. Vào trong một tòa nhà chúng ta cũng phải qua cổng và rồi qua cửa. Nhà của chúng ta cũng có cửa ra vào. Muốn gia nhập vào một tôn giáo nào, chúng ta cũng phải qua nghi thức nhập đạo, gọi là qua cửa. Vào cửa chúng ta phải chấp nhận những thủ tục, luật lệ và đường lối của nơi đó. Người ta nói nhập gia tùy tục là thế.

Gia nhập vào đoàn chiên của Chúa, chúng ta phải qua cổng chuồng chiên. Chúa Giêsu chính là cửa. Qua Bí Tích Rửa Tội, chúng ta được gia nhập vào đoàn chiên của Chúa. Chúng ta được dìm xuống nước, chết đi cho tội và được sống lại cùng với Chúa Kitô. Theo Chúa Kitô, chúng ta đang đi vào cửa hẹp. Vào cửa hẹp là chấp nhận đau khổ và thập giá. Cửa hẹp khó đi và có giới hạn, nhưng sẽ dẫn chúng ta tới nguồn ban sự sống.

Cửa rộng thênh thang sẽ đưa dẫn chúng ta dần xa Chúa. Cửa rộng mở cho chúng ta tới mọi thứ hưởng lạc và thú vui trần thế. Cửa rộng sẽ đưa chúng ta đi quanh quẩn không có cùng đích. Đó là nơi của sự dữ và bóng đêm của ma qủy. Cửa rộng rãi là nơi làm việc và hưởng lạc của qủy dữ.

Truyện kể: Có ba anh qủy thực tập xuống trần gian để cám dỗ con người. Qủy cả hỏi: Có kỹ thuật nào các anh dùng để đưa con người vào đường tội lỗi. Anh thứ nhất nói: Tôi dùng phương pháp cổ điển. Tôi sẽ nói với họ: Không có Thiên Chúa và cứ việc phạm tội như họ muốn. Anh qủy thứ hai nói: Tôi muốn dùng sự ảnh hưởng của trí khôn suy nghĩ. Tôi sẽ nói với người ta: Không có hỏa ngục đâu. Cứ phạm tội đi, không sao cả. Anh qủy thứ ba nói: Tôi muốn dùng cách đơn giản hơn và tế nhị. Tôi sẽ nói rằng: Đừng vội chi cả, cứ phạm tội đi. Bạn có thể sám hối và trở nên tốt sau này, bạn còn nhiều thời gian mà.

Theo Chúa là bước vào cửa hẹp. Chúng ta có Chúa dẫn đường, chúng ta không sợ bị lầm lạc. Chúa nói rằng: Hãy gõ thì sẽ mở cho. Gõ cửa nhà Chúa, Chúa sẽ mở cho chúng ta, nơi đó chúng ta sẽ tìm thấy niềm vui hoan lạc muôn đời.

Về mục lục

.

VÀO CỬA HẸP

                 Lm. Gioan M. Nguyễn Thiên Khải

Thưa anh chị em,

Lời Chúa hôm nay mời gọi những ai muốn vào Nước trời thì “Hãy cố gắng vào qua cửa hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều người đi lối ấy. Còn cửa và đường đưa tới sự sống đời đời thì hẹp, nên chỉ có một số ít người được vào” (Lc, 13, 24).

Khi giảng dạy, Đức Giêsu thường dùng những hình ảnh rất quen thuộc trong đời sống, để minh họa cho dân chúng dễ hiểu. Chẳng hạn như: Nước Trời ví như một ngôi nhà, ai muốn đi vào ngôi nhà đó, thì phải đi qua một cánh cửa duy nhất là chính Đức Kitô.

 Cửa Nước Trời là cửa hẹp: cho nên những ai muốn đi vào, phải sống thật nhỏ bé. Dĩ nhiên ở đây là nhỏ theo nghĩa tinh thần. Như Đức Giêsu là Đấng cao cả vô cùng, vĩ đại dường bao, nhưng Ngài đã đi con đường bé nhỏ, để làm gương cho chúng ta.

 Thánh Phaolô tóm gọn con đường Chúa đi như sau: “Đức Giêsu Kitô vốn dĩ là Thiên Chúa, mà không nghĩ phải nhất quyết duy trì địa vị ngang hàng với Thiên Chúa. Trái lại, Người đã trút bỏ vinh quang, mặc lấy thân nô lệ, trở nên giống phàm nhân, sống như người trần thế. Người lại còn hạ mình vâng lời cho đến nỗi bằng lòng chịu chết, và chết trên cây thập tự”(Pl 2,6-8).

Cửa Nước Trời là cửa hẹp: để dễ dàng đi vào, thì hành trang phải gọn nhẹ, muốn gọn nhẹ thì phải bỏ đi những thứ cồng kềnh trong con người, đó là lòng ích kỷ, hẹp hòi, những đam mê bất chính, dục vọng thấp hèn và đừng dín bén với của cải. Nói tóm lại, là can đảm bỏ đi những gì làm cản trở ta đến với Chúa và liên đới với tha nhân.

Cửa Nước Trời là cửa hẹp: ai muốn vào phải có sức mạnh. Sức mạnh của cá thân chưa đủ, nhưng cần nhất là sức mạnh của ơn thánh Chúa. Vì Đức Giêsu khẳng định: “Nếu không có Thầy các con không thể làm gì được”. Vậy để có ơn Chúa, chúng ta phải sống gắn bó với Chúa qua đời sống cầu nguyện, và siêng năng lãnh nhận các Bí tích, để có đủ sức đi vào nước trời.

Cửa Nước Trời là cửa hẹp: Tuy hẹp, nhưng Chúa mời gọi mọi người từ Đông chí Tây, từ Nam đến Bắc, đến tham dự bàn tiệc Nước Trời, nhưng với một điều kiện duy nhất, là tin vào Đức Giêsu Kitô, Con Thiên Chúa hằng sống.

Để được như thế, chúng ta còn phải nhiều nổ lực, hy sinh và chiến đấu. Chiến đấu với chính mình, với cái tôi cồng kềnh, ích kỷ, chỉ lo vun đắp cho mình. Cái tôi phình to tự hào về khả năng. Thật ra, cửa Nước trời không hẹp, nhưng hẹp vì cái tôi của mình quá to nên khó vào là như thế.

Vì thế, Chúa mời gọi chúng ta mỗi ngày hãy sống tinh thần bé nhỏ. Sống khiêm nhường với Chúa và khiêm tốn với nhau trong cung cách ứng xử, vì tất cả những gì chúng ta có là do hồng ân Chúa cho mà thôi.

Thánh Phaolô nói trong bài đọc II, như khuyên bảo những người con: “Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Ngài khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và nhận ai làm con thì Ngài mới cho roi cho vọt”.

Anh chị em thân mến,

Thánh Augustinô nói rằng: “Khi Thiên Chúa tạo dựng con người, Ngài không cần hỏi ý kiến, nhưng để cứu chuộc, Ngài cần chúng ta cộng tác”, vì Chúa ban cho chúng ta tự do. Nếu chúng ta muốn vào nước trời, thì hãy bước theo con đường Chúa đi, đó là con đường bé nhỏ; con đường khiêm tốn phục vụ; con đường vác thánh giá theo Chúa mỗi ngày.  Đồng thời siêng năng đến nhà thờ đọc kinh dâng lễ. Còn nếu chúng ta đi những xa lộ thênh thang, sống hưởng thụ tối đa, chìu chuộng thân xác quá mức, thì sẽ đi đến diệt vong.

Chúng ta, đừng quá an tâm vì mình đã được rửa tội, đi lễ ngày Chúa nhật, tham gia các việc đạo đức, làm những việc bác ái … và coi đó là đủ vé để vào Nước Trời, nhưng thật ra, còn phải cố gắng nhiều hơn nữa bước theo Chúa mỗi ngày trên con đường hẹp, như thế ngày mai đây, khi chúng ta nhắm mắt lìa đời, hi vọng được Chúa dẫn đưa vào Nước trời vinh phúc. Amen.

Về mục lục

.

KHÔNG NÊN THÁNH THÌ UỔNG LẮM!

PM. Cao Huy Hoàng

Năm 1980, anh em tôi gặp lại cha Phaolô Huỳnh Ngọc Cảnh ( Chánh xứ Trung Tín, Quảng Ngãi, Giáo Phận Quy Nhơn ),  tại Căn Cứ 2, ngài đang làm chánh xứ Trung Ngãi, Giáo Phận Xuân Lộc.

“Chúng con chào cha”. Mừng quá, ngài nói: “Hoàng, Viện đó hả ! đang ở đâu ?” – “Thưa cha, tụi con ở Bình Tuy” –  “Ông bà già thế nào ?” – “Dạ, cũng đang ở Bình Tuy, làm rẫy” – “Vậy mà cha tưởng các con đi vượt biên cả rồi” – “Làm sao mà đi được cha. Cũng phải có ơn gọi xuất ngoại mới được đó !” – “Ồ, thế thì ở lại Việt Nam mà không nên thánh là uổng lắm đấy nhé !”

Cha bảo hai anh em ở lại ăn trưa với cha. Bữa cơm đẫm lệ: một chén cơm trắng, bốn cái củ khoai, hai con cá trích mặn, ba cha con chia nhau. “Có người chỉ ăn toàn củ nần thôi đó con. Mùa năm rồi mất trắng”.

“Ồ ! Thế thì ở lại Việt Nam mà không nên thánh là uổng lắm đấy nhé !” Tôi nghĩ câu nói của cha vừa là lời cảm thông, an ủi, vừa là khuyến khích chúng tôi chấp nhận và tận dụng cơ hội Chúa ban để sống và giữ vững Đức Tin trong tình thế thực khó khăn, trong hoàn cảnh thật bi đát. Bữa ăn của cha nói quá nhiều điều. Câu nói và cuộc sống ấy hẳn đã thực hiện đúng Lời Chúa hôm nay: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”.

Trở về, chúng tôi chia sẻ câu nói của cha cho mọi người trong nhà, trong xóm và Giáo Xứ. Mọi người thấy ấm lên một niềm vui sống vì lý tưởng công chính, lý tưởng nên thánh hơn là buồn phiền chán nản trước cái đói, cái khổ, cái cùng cực chưa từng có. Người người sốt sắng kinh nguyện ngay trên rẫy trên nương. Nhà nhà đọc kinh chung tối sáng. Nhà Thờ xa, không có Linh Mục, lại không có phương tiện nào khác hơn đi bộ và xe đạp, mà Chúa Nhật nào cũng đông tràn ra ngoài. Mọi người chia sẻ cho nhau từng chút mắm muối, cái củ nần, củ khoai, nửa con cá khô, hạt gạo cỏ le qua bữa…

Ủy Ban Nhân Dân xã nằm cạnh Nhà Thờ, vì xây dựng trên đất của Nhà Thờ, nên mọi sinh hoạt ở Nhà Thờ trước mắt họ. Tội nghiệp, chú em tôi tập hát cho ca đoàn tại Nhà Thờ, rồi tại nhà, không xong, anh em ca đoàn hẹn nhau làm vần công tập hát ngay trên ruộng, đông, đủ. Thế mà chú và vài người vẫn bị mời lên mời xuống vì tội hội họp không có phép.

Hoàn cảnh có làm cho con người ta nên thánh không ? Tôi cảm ơn Cha đã nhắc nhở để cách nào đó chúng tôi biết Chúa không nói gì, nhưng ngài biết cả. Ngài đang dùng những biến cố, những hoàn cảnh mà thanh luyện Đức Tin của con cái người. Chúa luôn ban cho con cái mình điều tốt nhất. Đừng lầm tưởng hoàn cảnh xấu ấy là một tai họa.

Thiết tưởng hoàn cảnh không thuận tiện, cách nào đó, cũng là “lối hẹp” mà Chúa ban cho để con cái Ngài tiến vào Nước của Người. Gọi là “cách nào đó” vì  thực ra, tự nó, hoàn cảnh, biến cố không giúp gì, nếu chúng ta không trân quý nó như ân lộc Chúa ban, không lắng nghe suy gẫm điều Chúa muốn nói qua đó, không tận dụng tối đa để thực thi Lời Chúa dạy.

Tìm đến Chúa trong hoàn cảnh bi đát ấy có phải đã là công chính không ? Hay đó là loại đạo đức cảm tính, loại đạo đức cầu lợi, cầu an ? Con người ta chỉ nhớ đến Chúa, kêu cầu Chúa lúc lâm cảnh khốn cùng, lúc bế tắc, lúc bí lối trong cái túi của số phận nghiệt ngã ? Con người ta chỉ tìm đến Chúa lúc sa cơ tàn mạt, thất bại trăm bề, lúc cùng cực bi đát, nợ nần chồng chất, sỉ nhục tràn trề ? Như thế là giữ đạo cho mình hay giữ đạo cho vinh danh Chúa ? Thiết tưởng, cách sống đạo đức ấy vẫn chưa hẳn là công chính theo ý Chúa muốn. Câu trả lời rất cụ thể khi hoàn cảnh đã thay đổi.

Năm 2000, Cha Gioan NVH cho biết Giáo Dân Việt Nam mà cụ thể là Giáo Xứ cha ít đi Lễ hơn rồi, từ khi có cơm trắng cá tươi, và nhất là khi có điện, có tivi, có xe máy… Ấy là năm 2000, kinh tế có phần khá khá hơn tí, mà đã quên Chúa rồi, huống là năm 2013 thì sao ? Tôi bỗng nhớ lại cha Phaolô và câu nói của ngài: “Ở lại Việt Nam mà không nên thánh là uổng lắm đấy nhé !”

Hóa ra chúng tôi đã hiểu lầm ý cha chăng ? Ý cha bảo là chấp nhận hoàn cảnh để “nên thánh” kia mà ! Nên thánh đâu chỉ là chấp nhận hoàn cảnh ấy để chỉ nhớ tới Chúa mà kêu cầu ngài ban ơn này, ơn nọ, rồi hết cái hoàn cảnh bi đát đó, lại quên !

Như vậy, con đường hẹp mà Chúa muốn chúng ta đi, không phải là con đường hẹp do hoàn cảnh xã hội tạo nên, mà là con đường hẹp Chúa Giêsu đã đi và chính mình chọn lựa để bước theo.

Chiến đấu để đi con đường hẹp phải là tự mình buông khỏi những lệ thuộc quá đáng vào những thực tại trần gian hấp dẫn, để hoàn toàn thuộc về Chúa Giêsu.

Chiến đấu để đi con đường hẹp là xóa khỏi lòng trí những vấn vương mùi đời, xóa khỏi tâm hồn những đam mê bất chính, xóa cho trắng tay những nắm níu phù du mà tưởng là vĩnh cửu.

Chiến đấu để đi còn đường hẹp còn là gọt bỏ cái tôi, cái tài, bỏ bớt hành lý phù vân cồng kềnh, bỏ bớt lòng tham bận bịu, bỏ đi những khao khát bất chính, bỏ cả trí hiểu tưởng siêu phàm để chỉ còn là một lòng tín thác vào Chúa Giêsu.

Trong bài thơ “Buông 2”  ( Thi Ca Cầu Nguyện số 129 ), tác giả Ả Giang Hồ viết:

“Em gọt cái tôi nên nhỏ lại

Cho vừa lối hẹp đến trời cao

Em dũa cái tài thành bé tí

May ra mới lọt cửa mà vào

Em bớt hành trang ngày một xíu

Cho đỡ cồng kềnh bước thấp cao

Em bỏ phù vân luôn bận bịu

Mới hay nhẹ bước đến chừng nào

Em bại cánh tay thèm nắm níu

Ngộ mình dại dột khát hư không

Em đốt tiêu tan muôn trí hiểu

Chỉ còn một phó thác trinh trong…”

Vâng, đường hẹp là con đường của Chúa Giêsu, là con đường nên thánh. Chính Chúa Giêsu đã mở ra cho chúng ta con đường khiêm cung tự hạ, con đường phục vụ hy sinh, con đường Thánh Giá để làm cho chúng ta nên công chính, nên thánh.

Nhưng, xin đừng lầm tưởng những người làm các việc đạo đức như dâng lễ, rước lễ, đọc kinh, từ thiện, giảng dạy… là các thánh nhân, là những người vào trước trong Nước Thiên Chúa, như bao người lầm tưởng: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Bởi vì, không phải các việc đạo đức ấy làm cho ta nên thánh, nhưng chỉ có lòng yêu mến Chúa Giêsu và khát khao nên một với Ngài mới làm cho chúng ta nên thánh, nên công chính. Ý hướng ấy, sách tu đức gọi là “ý ngay lành”.

Hèn chi, Chúa Giêsu đã cảnh cáo những người đồng bàn với Chúa, đã nghe Lời Chúa giảng dạy rằng: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính !”

Bạn và tôi, những người sớm được Chúa kêu gọi vào Hội Thánh Chúa, chúng ta cần xem xét lại các việc đạo đức của mình có ý ngay lành là “yêu mến Chúa và khát khao nên một với Người không” mới hy vọng vào được Nước Người.

Lạy Chúa Giêsu, cả cuộc đời chúng con, nếu không nên thánh thì uổng lắm. Nếu không được vào Nước Chúa thì uổng lắm. Xin cho chúng con biết yêu mến Chúa, yêu mến con đường thập giá Chúa đã đi, con đường hẹp dẫn chúng con vào Nước Thiên Chúa. Amen.

Về mục lục

.

NỖ LỰC

Trầm Thiên Thu

Nỗ lực là rán sức, cố gắng tối đa khi thực hiện điều gì đó. Văn sĩ Triết gia Elbert Green Hubbard (1856-1915, Hoa Kỳ) nói: “Không biết đã bao nhiêu lần con người buông tay từ bỏ khi mà chỉ một chút nỗ lực, một chút kiên trì nữa thôi thì người ta sẽ đạt được thành công”. Người ta luôn phải tự khó với chính mình, nhưng phải thoải mái với người khác. Đó là dạng nỗ lực cơ bản nhất.

Nói đến nỗ lực là nói đến những việc khó, càng khó càng phải nỗ lực nhiều. Ví dụ như lách mình cho lọt vào khe hở để vào bên trong khi cửa bị đóng, hoặc đi vào những ngõ ngách nào đó. Ai đã tới Hà Nội thì biết thế nào là “ngách”, đúng là phải “lách” thật. Và còn rất nhiều thứ khác phải sử dụng đến nỗ lực.

Người Việt có câu: “Ở rộng người cười, ở hẹp người chê”. Thật là khó, kiểu nào cũng khổ, bởi vì “ở bầu thì tròn, ở ống thì dài”, chẳng làm sao có thể sống vừa lòng hết mọi người, dù là người tốt lành nhất. Thật vậy, không ai tốt lành như Chúa Giêsu, thế mà Ngài vẫn bị người ta ghen ghét. Thế nhưng, nhân chi sơ tính bổn thiện, vì lương thiện là căn tính của con người được Thiên Chúa tạo dựng. Do đó, bổn phận của chúng ta luôn phải sống tốt lành theo lương-tâm-chính-đáng, theo công lý của Chúa, chứ không thể lấy cớ và tự biện hộ: “Chỉ đâu mà buộc ngang trời, tay đâu mà bụm miệng người thế gian”. Văn hào Victor Hugo (Pháp) xác định: “Lương tâm là Thiên Chúa trong mỗi con người”. Thật là tuyệt vời!

Theo bản năng nhân loại, không ai thích “tù túng”, nghĩa là ai cũng thích có khoảng rộng cho thoải mái: Phòng ốc khang trang, nhà to, cổng lớn, lối rộng,… chứ không ai muốn “ép mình” ở trong khoảng chật hẹp, gò bó. Về lĩnh vực tinh thần cũng tương tự. Thế nhưng sự dễ dàng dẫn tới dễ dãi, dễ dãi quá hóa hư thân, mất nết. Sự thiếu thốn có thể khiến người ta phải hy sinh và chịu đựng nhiều thứ, nhưng chính sự nghèo khó lại có thể giúp người ta thành nhân – thực sự và đúng nghĩa.

Sự thật vẫn là sự thật, vừa mặc nhiên vừa minh nhiên, và thường có sự đối lập. Chính Chúa Giêsu đã thẳng thắn giải thích: “Cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà NHIỀU NGƯỜI lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ÍT NGƯỜI tìm được lối ấy” (Mt 7:13-14). Theo lẽ tự nhiên, cái gì nhiều thì bình thường, còn cái gì hiếm thì quý giá. Nhưng sự bình thường vẫn có thể khác thường. Là một tín nhân, đại văn hào Victor Hugo cũng đã cảm nghiệm sâu sắc: “Đau khổ là hoa quả, Chúa không khiến nó sinh ra trên những cành quá yếu ớt mà không chịu nổi”. Thánh Phaolô xác định: “Không một thử thách nào đã xảy ra cho anh em mà lại vượt quá sức loài người. Thiên Chúa là Đấng trung tín: Người sẽ không để anh em bị thử thách quá sức; nhưng khi để anh em bị thử thách, Người sẽ cho kết thúc tốt đẹp, để anh em có sức chịu đựng” (1 Cr 10:13).

Chữ Khôn và chữ Khốn chỉ khác nhau cái “dấu sắc”. Với người này thì có thể là “cái khó BÓ cái khôn”, nhưng với người kia thì có thể là “cái khó LÓ cái khôn”. Cùng một tình huống, một hoàn cảnh, một vấn đề,… nhưng kết quả khác nhau – xấu hoặc tốt, hại hoặc lợi.

Ngày xưa, Thiên Chúa đã dùng miệng lưỡi của ngôn sứ Isaia để tuyên phán: “Còn Ta, Ta BIẾT RÕ việc làm và ý định của chúng, Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta. Ta sẽ đặt giữa họ một dấu hiệu và sai những kẻ sống sót của họ đến các dân tộc: Tác-sít, Pút, Lút, là những dân thạo nghề cung nỏ, đến dân Tuvan, Giavan, đến những hải đảo xa xăm chưa hề được nghe nói đến Ta và chưa hề thấy vinh quang của Ta. Họ sẽ loan báo vinh quang của Ta giữa các dân tộc” (Is 66:18-19). Cách nói của Cựu Ước có vẻ “xa lạ” với chúng ta ngày nay, nhưng không phải vậy. Có phải vì cách nói ngày xưa đơn giản và bình dị, còn chúng ta ngày nay phức tạp quá nên hóa “xa lạ” và cảm thấy nhiêu khê chăng? Rất có thể là như thế.

Và rồi Đức Chúa tiếp tục tuyên ngôn: “Giống như con cái Ít-ra-en mang lễ phẩm trên chén dĩa thanh sạch đến Nhà Đức Chúa, người ta cũng sẽ đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa – đưa bằng ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà – về trên núi thánh của Ta là Giêrusalem. Và cả trong bọn họ, Ta sẽ chọn lấy một số làm tư tế, làm thầy Lêvi” (Is 66:20-21). Thiên Chúa luôn dùng những hình ảnh gần gũi với đời sống con người để họ có thể hiểu được ý Ngài.

Với trí óc phàm phu tục tử, con người không thể hiểu hết ý Thiên Chúa vì Ngài là Đấng toàn năng, chí minh và chí thánh. Nhưng cảm tạ và chúc tụng Ngài là bổn phận tuyệt đối của chúng ta. Nhận biết được điều tối quan trọng như vậy, Thánh Vịnh gia tha thiết mời gọi: “Muôn nước hỡi, nào ca ngợi Chúa, ngàn dân ơi, hãy chúc tụng Người!” (Tv 117:1). Lý do? Thật đơn giản nhưng vô cùng chính đáng: “Vì tình Chúa thương ta thật là mãnh liệt, lòng thành tín của Người bền vững muôn năm” (Tv 117:2). Vả lại, “Thiên Chúa đã yêu thương chúng ta trước” (1 Ga 4:19).

Quả thật, đó là khối tình mầu nhiệm của Thiên Chúa, sâu thẳm và khôn dò, cũng chính là Lòng Thương Xót bao la vô tận của Ngài. Từ ngàn xưa, chính Đức Mẹ cũng đã đề cập Lòng Chúa Thương Xót khi Mẹ dâng lời tán tụng Thiên Chúa qua thánh ca Magnificat: “Đời nọ tới đời kia, Chúa hằng THƯƠNG XÓT những ai kính sợ Người. Chúa độ trì Ít-ra-en, tôi tớ của Người, như đã hứa cùng cha ông chúng ta, vì Người nhớ lại LÒNG THƯƠNG XÓT dành cho tổ phụ Áp-ra-ham và cho con cháu đến muôn đời” (Lc 1:50, 54-55).

Đối với con người trong cuộc sống đời thường, đứa con nào có cuộc sống khó khăn, khổ sở, chắc chắn vẫn được cha mẹ quan tâm hơn – thế mới là “nước mắt chảy xuôi”. Cha mẹ vì thương con, muốn con nên người nên cũng sửa dạy đứa con nào ngỗ nghịch, như tục ngữ Việt Nam nói: “Thương con cho roi cho vọt, ghét con cho ngọt cho bùi”. Thiên Chúa dựng nên chúng ta nên Ngài vẫn luôn tôn trọng quy luật Ngài đã tạo nên, vì Ngài không muốn “lập dị”. Ngài cho chúng ta được quyền tự do nhưng Ngài cũng sửa trị vì yêu thương chúng ta. Nước mắt không bao giờ chảy ngược!

Cũng với tinh thần đó, Thánh Phaolô đã khuyến cáo: “Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt” (Dt 12:5-6). Và rồi ông còn nhấn mạnh: “Anh em hãy KIÊN TRÌ để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con. Thật vậy, có đứa con nào mà người cha không sửa dạy?” (Dt 12:7). Ai không bị nói tới là coi như “đồ bỏ” rồi. Vì thế, đừng tự ái mà để cho “cái tôi” vùng lên và nổi loạn.

Thánh Phaolô đề cập một sự thật rất hiển nhiên theo bản tính nhân loại: “Ngay lúc bị sửa dạy thì chẳng ai lấy làm vui thú mà chỉ thấy buồn phiền. Nhưng sau đó, những người chịu rèn luyện như thế sẽ gặt được hoa trái là bình an và công chính. Bởi vậy, hãy làm cho những bàn tay bủn rủn, những đầu gối rã rời, nên mạnh mẽ. Hãy sửa đường cho thẳng mà đi, để người què khỏi trật bước và hơn nữa, còn được chữa lành” (Dt 12:11-13). Rất rõ ràng, rất thực tế, và cũng rất đời thường.

Có Khó mới nên Khôn, nhờ Khôn mà bớt Khổ và khỏi Khốn – “ca hát” hay “khờ” còn tùy người (cả nghĩa đen và nghĩa bóng đối với KH). Chí sĩ Phan Bội Châu (1867-1940) đã có cách so sánh thú vị: “Ví phỏng đường đời bằng phẳng cả, anh hùng hào kiệt có hơn ai”. Và chí sĩ Nguyễn Thái Học (1902-1930) cũng đã dõng dạc minh định: “Đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi, mà khó vì lòng người ngại núi e sông”. Chứng tỏ rằng sự gian khó là thứ “xa xỉ phẩm” cần thiết để người ta khả dĩ thành nhân và sống có ý nghĩa hơn. Theo cách nói của Chúa Giêsu, đó là cách ĐI QUA CỬA HẸP để có thể vào được Nước Trời.

Quả thật, lịch sử đã cho thấy rằng chính gian khổ đã tạo nên những vĩ nhân lừng danh thế giới, khiến chúng ta phải tâm phục khẩu phục, trong Công giáo cũng rất nhiều vị thánh lớn là nhờ “đi đường hẹp” dẹp “đường rộng”. Vấn đề của chúng ta là có DÁM hay KHÔNG DÁM hành động như vậy mà thôi! Đừng bao giờ viện cớ với mấy liên từ “khó chịu” này: Vì, tại, bởi, nếu, giá mà, ước gì, phải chi,… Chỉ có nguy thôi!

Ngày xửa ngày xưa, trên đường lên Giêrusalem, Chúa Giêsu đã đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Rồi có kẻ thắc mắc nên phải hỏi: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” (Lc 13:23). Ngài ôn tồn bảo họ: “Hãy CHIẾN ĐẤU để qua được CỬA HẸP mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được” (Lc 13:24). Có lẽ người hỏi không thỏa mãn chút nào với câu trả lời của Chúa như vậy. Thế nhưng, dù họ không phản ngôn thì chắc hẳn họ cũng cảm thấy có gì đó “khác lạ” và “ngược đời” lắm. Họ im lặng. Có thể họ chưa đồng ý nhưng cũng đã cân nhắc, mà cân nhắc thì phải suy nghĩ. Đêm đó, họ về nhà và phải suy tư nhiều về những “lời lạ” của Chúa Giêsu, rất có thể họ phải trằn trọc và khó ngủ. Biết đắn đó là có tín hiệu tốt rồi.

Dĩ nhiên Chúa Giêsu biết thừa là họ đang “đâu cái điền” lắm. Kệ, Ngài vẫn tỉnh queo và nói tiếp: Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khoá cửa lại, mà anh em còn đứng ở ngoài, bắt đầu gõ cửa và nói: “Thưa ngài, xin mở cho chúng tôi vào”, thì ông sẽ bảo anh em: “Các anh đấy ư? Ta không biết các anh từ đâu đến!”. Bấy giờ anh em mới nói: “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”. Nhưng ông sẽ đáp lại: “Ta không biết các anh từ đâu đến. Cút đi cho khuất mắt ta, hỡi tất cả những quân làm điều bất chính!” (Lc 13:22-27). Chúa Giêsu luôn thích giản dị, thẳng thắn, nghiêm túc, nên những điều Ngài nói cũng luôn bình dị, thiết thực và gần gũi với đời sống dân chúng. Hầu như ai cũng có thể hiểu, trừ những người câu nệ hoặc cố chấp. Có tai mà không muốn nghe, có nghe cũng không muốn hiểu, lời vào tai này liền luồn sang tai kia mà bay theo gió…

Không ngập ngừng, không úp mở, không bóng gió, Chúa Giêsu nói rõ ràng: “Bấy giờ anh em sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy các ông Ápraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các ngôn sứ được ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13:28-29). Người Việt cũng có câu: “Khi vui chẳng nhớ đến ai, đến khi nóng cứ trái tai mà sờ”. Cái “trái tai” bị chúng ta lợi dụng nhiều quá!

Tương tự, khi chúng ta thấy ai đó được hãnh diện về điều gì đó (ví dụ: người đạt giải trong một cuộc thi nào đó), có người bắt khao, có người ganh tỵ, có người làm ngơ, có người bĩu môi,… Thậm chí mua chiếc xe cũng bị đòi “rửa xe”, làm được cái nhà cũng phải “mừng tân gia”. Đủ dạng, đủ kiểu, đủ mức. Nhưng chúng ta đâu biết rằng người đó đã nỗ lực và khổ luyện như thế nào mới được vậy, và cũng chẳng thiếu sự mất mát nào đó. Gian khổ càng dày, hạnh phúc càng cao. Thiên Chúa tuyệt đối chí công. Vả lại, Chúa Giêsu đã xác định: “Không có Thầy, anh em chẳng làm gì được” (Ga 15:5). Thánh Vịnh cũng nói rõ ràng: “Ví như Chúa chẳng xây nhà, thợ nề vất vả cũng là uổng công” (Tv 127:1). Bao nhiêu nỗ lực cũng vô ích mà thôi!

Quá trình vào Nước Trời cũng vậy. Nếu cứ thảnh thơi, sống khơi khơi, chơi tà tà trong lúc hành trình thì chẳng có gì đáng nói, đáng công, đáng thưởng. Những người chịu thiệt thòi ở cuộc đời này, nếu biết kết hợp với cuộc khổ nạn và tử nạn của Đức Kitô thì sẽ lợi ích lắm. Chắc chắn Thiên Chúa có kế hoạch độc đáo của Ngài. Những người đó không chỉ chịu thiệt thòi mọi thứ ở cuộc đời tạm này, mà thậm chí họ còn bị chúng ta khinh khi, miệt thị, ruồng rẫy. Nếu họ chịu khổ đủ thứ mà “tương lai” không xán lạn thì hóa ra Thiên Chúa bất công. Thế nhưng không phải vậy! Và Ngài tuyên bố thẳng thắn: “Những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13:30). Một dạng hoán vị vô cùng thú vị – khốn đốn cho người nọ và ngạc nhiên cho người kia. Giờ G đã điểm. Không thể thay đổi được gì nữa!

Câu kết luận của Chúa Giêsu là lời “nhắc khéo” với những ai đang an nhàn hưởng thụ cuộc sống, đang ung dung tự tại, đang vinh thân phì da ở đời này. Thánh Phaolô cũng đã có lần cảnh báo: “Ai tưởng mình đang đứng vững thì hãy coi chừng kẻo ngã” (1 Cr 10:12).

Lạy Thiên Chúa, xin giúp chúng con tỉnh thức, can đảm và khôn ngoan “lách mình” vào những lối hẹp của cuộc sống đời này để tôi luyện chính mình có thể nên hoàn thiện và nên giống Con Một Yêu Dấu của Ngài. Xin Ngài ban ơn cho mọi người sống đúng trách nhiệm và bổn phận của mình, xin nâng đỡ những người đau khổ để họ biết dùng chính đau khổ làm bậc thang lên Nước Trời. Chúng con cầu xin nhân danh Thánh Tử Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

HÃY VÀO QUA CỬA HẸP

Lm Giuse Đinh lập Liễm

A. DẪN NHẬP. 

          Đức Giêsu đến trần gian mang theo sứ mạng đặc biệt là cứu rỗi mọi người không trừ ai. Sứ mạng này không phù hợp với quan niệm của người Do thái vì họ cho rằng họ là con cháu Abraham thì đương nhiên là sẽ được cứu rỗi, còn những người khác thì không. Vì thế mới có một người không biết là thành phần nào trong xã hội đã đến xin Đức Giêsu giải đáp cho mình một thắc mắc :”Thưa Thầy, những người được cứu thóat thì ít, phải không Thầy”? 

         Đức Giêsu không muốn trực tiếp trả lời cho câu hỏi này vì sẽ gây nên sự hiểu lầm. Nếu  Ngài trả lời là “Đúng”, nghĩa là chỉ có ít người được cứu rỗi, thì làm cho người Do thái nghĩ rằng họ đương nhiên được ơn cứu thoát, rồi thì ỷ lại, không cần cố gắng nữa. Còn đối với những người khác thì nản lòng, vì họ có cố gắng thì cũng vô ích vì ơn cứu rỗi không được ban cho họ. Còn ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp là “không”  nghĩa là “Ơn cứu rỗi sẽ được ban cho số đông” thì cũng làm cho họ ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắên được rỗi mà !

         Vì lý do trên, Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, tức là đặc quyền của người Do thái mà chỉ vạch ra cho họ phương thế để được vào Nước Trời :”Hãy chiến đấu qua cửa hẹp mà vào” (Lc 13,24).  Theo Đức Giêsu, “Qua cửa hẹp” là phải sám hối, phải uốn nắn đời sống theo những giáo huấn của Tin mừng :”Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác thập giá mình hằng ngày mà theo Ta”.

         Dựa theo tư tưởng của thánh Phaolô, chúng ta có thể hiểu “Qua cửa hẹp” là phải chiến đấu, cuộc chiến đấu cho đến cùng đường, phải đi vào con đường hẹp của Thập giá, phải can đảm chống lại sự lôi cuốn của ba thù, không thỏa hiệp, không nhân nhượng với chúng :”Không phải cứ kêu lạy Chúa, lạy Chúa mà được vào Nước Trời, nhưng chỉ những ai làm theo ý cha Ta ở trên trời mới được vào”. Ước gì chúng ta đừng đến lầm cửa, đó là cửa rộng thênh thang, cửa tiền tài , sắc dục, hư danh, cửa dẫn vào cái chết muôn đời. Cũng đừng đến mà cửa đã đóng kín để không phải nghe Chúa nói :”Ta không biết các ngươi từ đâu đến”(Lc 13,27). 

B. TÌM HIỂU LỜI CHÚA. 

          +  Bài đọc 1 : Is 66.18-21.

          Cộng đồng Giêrusalem sau cuộc lưu đầy còn gặp nhiều khó khăn. Qua vị tiên tri vô danh, mà đôi khi chúng ta gọi là Đệ tam Isaia, Thiên Chúa loan báo một cuộc qui tụ toàn thể nhân lọai về với Ngài. Giêrusalem sẽ trở nên trung tâm thế giới, các dân sẽ tựu về và dâng lễ tại đó, một điều cấm kỵ cho đến bấy giờ.

          Nhưng Israel sẽ không chịu phá bỏ rào chắn đối với dân ngọai, và Đức Giêsu đã phải trả bằng giá mạng sống mình  cho nỗ lực cho việc phụng thờ Thiên Chúa hằng sống trở thành việc phụng thờ cho mọi dân nước.

        Lời sấm này tiên báo về thời Đấng Thiên Sai sẽ đến, qui tụ muôn dân, tiêu chuẩn phân biệt duy nhất là sự thánh thiện.

          +  Bài đọc 2 : Dt 12,5-7.11-13.

         Thời đó, các Kitô hữu gốc Do thái gặp muôn vàn khó khăn từ đế quốc Rôma cũng như Do thái giáo. Thánh Phaolô khuyên nhủ họ hãy bình tĩnh và tin tưởng, vì lòng yêu thương con cái mình, Thiên Chúa dùng gian nan thử thách  để giáo dục và chữa trị họ.

          Thử thách, dù thế nào đi chăng nữa, cũng không cho phép ta  nghi ngờ tấm lòng của Thiên Chúa yêu thương chúng ta như một người cha, chẳng khác nào cha dạy con hoặc thầy nghiêm khắc sửa trị trò. Thiên Chúa đối xử với chúng ta  như con của Ngài. Ngài không phải là người cha cay nghiệt. Thiên Chúa có thương ai thì mới thử thách và sửa dạy người ấy. Vì thế họ đừng ngã lòng, trái lại hãy vui mừng vì biết mình được Chúa thương, và kiên trì chịu đựng.

          +  Bài Tin mừng : Lc 13,22-30.

          Người Do thái thắc mắc muốn hỏi Đức Giêsu số lượng những người được vào Nước Trời. Thực ra, số lượng và lý lịch của những người được vào Nước Trời thì không quan trọng, mà vấn đề quan trọng là phải cố gắng đi qua cửa hẹp mà vào.

          Bài Tin mừng hôm nay có 3 ý tưởng chính :

a) Khung cửa thì hẹp, người muốn vào thì đông, vấn đề là phải nỗ lực.

b) Có lúc cửa sẽ khép lại mãi mãi, vì giờ cứu độ đã hết, vấn đề là đừng trễ nải.

c) Việc ăn Tiệc trên Nước Trời chỉ dành cho những ai thành tâm theo Chúa, không ai có thể dựa vào lý lịch, địa vị… mà nghĩ rằng mình có quyền đương nhiên được nhập tiệc.

C. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

I. NHỮNG AI ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI ?

  1. Trên đường đi Giêrusalem.

          Bài Tin mừng hôm nay nằm trong giai đọan cuộc hành trình của Đức Giêsu tiến về Giêrusalem nhân ngày lễ Cung hiến Đền thờ. Ngài rảo qua các đô thị, làng mạc giảng dạy cho dân chúng. Ở những nơi này, Đức Giêsu giảng dạy hơn là làm phép lạ. Các đề tài được đưa ra rao giảng là : sám hối, việc cầu nguyện, sự từ bỏ, việc dân Do thái từ bỏ ơn Chúa.

  1. Một câu hỏi.

         Có kẻ đến hỏi Đức Giêsu rằng :”Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít được cứu rỗi”?(Lc 13, 23). Tại sao người ta lại hỏi như vậy ? Chúng ta cần phải biết  người Do thái có quan niệm thế nào về ơn cứu độ và đặc quyền của họ về vấn đề này.

          Giáo trưởng Meir của người Do thái có viết :”Để được cứu rỗi, người ta phải cư ngụ trên đất nước Israel, nói tiếng Do thái là ngôn ngữ thánh, và sáng chiều đọc kinh Shema”. Có lẽ ý tưởng này phát xuất từ quan niệm “tự tôn chủng tộc” của một số trường phái vốn từng hiện diện trong thời Đức Giêsu. Theo họ, ai có gốc Do thái đều được cứu độ hết.

          Nhưng dù với quan niệm nào đi nữa, người Do thái vẫn không thể hình dung hay chấp nhận được việc dân ngọai buớc vào Nước Thiên Chúa. Thế nên mới có một người Do thái, không rõ thành phần nào, đã đến xin Ngài giải đáp thắc mắc :”Phải chăng chỉ có một số ít đượcứu độ” ? Thắc mắc này cũng là thắc mắc của mọi người Do thái và cần phải được giải đáp.

  1. Một câu trả lời.

a) Không trả lời thẳng. 

          Đức Giêsu không muốn giải đáp thắc mắc cho họ vì Ngài đâu có quan niệm hẹp hòi như họ, và vì vậy Ngài không muốn trả lời thẳng câu hỏi của họ.

          Nếu Ngài đáp là “Phải” chỉ có một số ít người được cứu rỗi thì sẽ sinh hậu quả là những ngừoi Do thái thành ra kiêu căng tự mãn vì nắm chắc phần rỗi : vì tự mãn như thế họ không cần cố gắng gì thêm nữa. Và những người khác không phải là Do thái thì sẽ nản lòng, tự nhủ : “Ơn cứu rỗi không thuộc về mình, thôi thì cố gắng làm chi cũng vô ích”. Ngược lại, nếu Đức Giêsu đáp “Ơn cứu rỗi được ban cho số đông” thì cũng làm cho mọi người ỷ lại, không cố gắng, bởi vì cố gắng làm chi vì mình chắc chắn sẽ được cứu rỗi rồi mà !

          Tuy nhiên, như thánh Phaolô xác quyết :”Thiên Chúa, Đấng cứu độ chúng ta muốn cho mọi người được cứu độ”(1Tim 2,4). Và Đức Giêsu thì nói :”Cha các con Đấng ngự trên trời, không hề có ý để hư đi một người nào trong những kẻ bé mọn này”(Mt 18,14). Như thế, ơn Chúa không hề giới hạn theo khu vực, số lượng, song là tuôn trào đến khắp mọi nơi và cho hết mọi người. Nhưng như thế không có nghĩa là người ta “bị” cứu độ. Trái lại, họ luôn có tự do để đón nhận hay khước từ. Một chiếc ly không thể chứa được những gịot nước tươi  mát của trời cao nếu chẳng bao giờ ngửa miệng ly lên để hứng. Cũng thế, để được hưởng thành quả của ơn thiêng, người ta phải mở rộng tấm lòng và hướng về cùng Thiên Chúa.

          Chính vì lý do nêu trên mà Đức Giêsu không trả lời thẳng câu hỏi dựa trên số lượng, Chúa chỉ nhắm tới phẩm chất : ơn cứu rỗi không phải là đặc quyền của một số người nào, của một phe nhóm nào cả mà thuộc về bất cứ ai biết sống theo Lời Chúa dạy.

b) Phải hành động để được cứu độ.

          Đức Giêsu không trả lời cho biết số lượng người được ơn cứu độ nhưng nhắc cho họ cách sống để được cứu độ, nghĩa là phải hành động.

 Truyện : Đừng ảo tưởng.

          Có một ông khách bộ hành phải đi qua một cái làng để đến một nơi mà ông ta không biết đích xác còn bao xa nữa thì mới tới được. Dọc đường ông ta gặp một bác tiều phu, liền dừng lại hỏi xem thử khoảng bao lâu nữa thì tới nơi mình muốn tới. Bác tiều phu nhìn ông khách rồi đáp ngay :”Tôi không biết”. Nghe thế, ông khách vội bước đi và nghĩ rằng người nhà quê đó không biết thật, chứ không phải khó tính khó nết. Nhưng khi vừa mới đi được vài bước thì bác tiều phu gọi với theo :”Này ông ơi, ông đi độ 15 phút nữa thì tới nơi đó”. Ngạc nhiên, ông khách quay trở lại hỏi bác tiều phu :”Tại sao khi nãy hỏi bác, bác trả lời không biết” ? Bác tiều phu thông cảm đáp:”Lúc ông hỏi tôi, ông chưa hành động nên chưa thấy bước đi của ông dài hay ngắn, mau hay chậm thì làm sao tôi có thể trả lời cho ông rõ ràng được” ?

          Như vậy, ta đi tới đích được hay không, sớm hay muộn là do nơi hành động của ta. Cũng thế, thành công hay thất bại trong cuộc đời là hệ tại nơi việc làm của ta như thế nào. Do đó, có một điều hết sức tai hại  mà ta phải luôn cảnh giác đề phòng là đừng quá tin tưởng vào những suy đoán chủ quan, những ảo tưởng siêu thực để rồi thiếu cố gắng tích cực, không chịu khó hành động cụ thể, sẽ rước lấy nhiều hậu quả khôn lường.

          Đó chính là tư tưởng chủ đạo mà qua bài Tin mừng hôm nay Chúa muốn cảnh tỉnh chúng ta trên con đường đi theo Ngài, nghĩa là trong cuộc sống đạo để có thể đi tới đích là ơn cứu độ, điều quan trọng không phải cứ ngồi một chỗ mà suy đoán  số phận tương lai, cũng không thể cậy dựa vào một vài ưu thế này nọ để rồi lên mặt  đòi biệt đãi hơn kẻ khác, nhưng là phải chuyên chăm đưa ra thực hành những gì Chúa chỉ dạy. Muốn thế, phải biết lọai trừ những suy đóan sai lầm mà chúng ta thường mắc phải trong đời sống đạo…

c) Đừng dựa vào gì khác.

        Để được vào Nước Trời đừng ỷ lại vào gốc gác. Chính thánh Gioan Tẩy giả đã nói thẳng vào mặt những người biệt phái và bè Sađucêu :”Đừng ỷ mình là con cháu tổ phụAbraham…”(Mt 3,7t). Đối với Đức Giêsu, những đặc quyền về chủng tộc này không đáng kể. Lời cảnh cáo nghiêm khắc của Đức Kitô trước tiên áp dụng cho những người đã từng ăn uống  trước mặt Ngài, và những người đã từng nghe Ngài giảng dạy. Có những người nghĩ rằng họ đã ở trong đạo Chúa thế là đã đủ rồi. Họ có ý phân biệt họ với đám dân ngọai. Nhưng con người sống trong Giáo hội của Chúa chưa chắc chắn đã là Kitô hữu, những người đó đang hưởng thụ các lợi ích, các tiện nghi  mà những người đi trước đã xây dựng nên. Nhưng đó không phải là lý do  để ngồi chơi, thỏa lòng và yên trí rằng mọi sự đều tốt đẹp cả. Ngược lại, chúng ta phải tự vấn :”Ta đã góp phần được gì vào di sản của người trước”. Chúng ta không thể sống bằng cái tất vay mượn của tiền nhân.

II. ĐIỀU KIỆN ĐỂ ĐƯỢC VÀO NƯỚC TRỜI. 

  1. Phải qua cửa hẹp mà vào.

          Đức Giêsu không trả lời thẳng vào câu hỏi :”Phải chăng số người được cứu độ thì ít” mà Ngài chỉ nói :”Hãy phấn đấu đi qua cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24). 

a) Cửa hẹp là gì ?

          Hình ảnh về cửa hẹp được Đức Giêsu sử dụng rất quen thuộc với dân chúng vào thời đại của Ngài. Dân chúng thời đó sống ở bên trong thành phố được bao bọc bằng vách tường. Vì không có đèn đường, các cửa và các cổng dẫn vào thành phố phải được đóng chặt chẽ vào ban đêm để tránh trộm cướp, hay kẻ thù cưỡi ngựa xâm nhập, tấn công thành phố. Nếu dân chúng đi ra khỏi thành phố và trở về trễ  sau khi các cổng đã đóng chặt rồi thì sao ?  Có ai mở cổng cho họ vào ? Không ! Khi cổng đã đóng rồi không ai được mở ra vì sợ bọn cướp hay quân địch ẩn núp trong bóng tối sẽ có thể tấn công bất ngờ.

          Những người trở về trễ phải khép mình chui qua một cái cửa hẹp. Những cái cửa hẹp này còn được gọi là “mắt của cái kim” –“the eye of the needle”. Cửa chỉ vừa vặn cho một người đi qua thôi, và không thể mang theo hành lý.

          Trong Luca chương 18, câu 25 :”Quả vậy, con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giầu vào Nước Thiên Chúa”. “Lỗ kim” ở đây chính là “cửa hẹp”. Người đi buôn với hàng hóa cồng kềnh chất đầy trên lưng lạc đà không thể đi qua cửa này được. Phải vứt bỏ tất cả hàng hóa và hành lý xuống. Con lạc đà phải cúi đầu, khòm lưng  và quì gối xuống may ra mới lọt.

           (Nguyễn văn Thái, Sống lời Chúa…, năm C, tr 290-291).

b) Cửa rộng là gì ? 

          Là con đướng rộng thênh thang dễ đi. Đa số quần chúng chọn đi con đường này vì đó là những giây phút khóai lạc mau qua của trần thế mang lại. Con đường nay tuy thoải mái dễ chịu nhưng lại là con đường của những người dại khờ, nó không phải là con đường của Thiên Chúa. Bề lâu bề dài nó không dẫn tới đâu cả. Và cuối cùng chỉ là sự trống rỗng.

Truyện : Khoái lạc trong một đêm.

          Một cặp vợ chồng trẻ nọ chia sẻ cho nhau nghe ước muốn có một ngôi nhà khang trang. Một nhà tỉ phú tình cờ theo dõi câu chuyện. Với tất cả nghiêm chỉnh, ông đề nghị với họ :”Nếu cô vợ chịu ngủ với ông một đêm, ông sẽ tặng họ một triệu mỹ kim. Hai vợ chồng đồng ý. Nhưng khi người vợ lên đường  đến với nhà tỉ phú thì người chồng cũng bắt đầu hối hận. Nhưng đã quá muộn. Sau một đêm để có một triệu mỹ kim, hai vợ chồng đã tan vỡ (,,,)Con đường dễ dãi là con đường dẫn tới hư mất. Sự thành đạt thường không đến cách ngẫu nhiên, mà là kết quả của những cố gắng và kiên nhẫn lâu dài.

c) Bước qua cửa hẹp là gì ?

          Khi Đức Giêsu nói về cửa hẹp, Ngài muốn ám chỉ việc từ bo,û “từ bỏ” hết mọi của cải trần gian. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật. Và đi qua cửa hẹp thì phải đi qua một mình, cô đơn. Nhưng Thiên Chúa luôn cùng đi với ta. Đó là “con đường hy sinh và vất vả”. Nhưng lại là con đường của những người khôn ngoan và thận trọng dẫn đến nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.

          Bước qua cửa hẹp còn có nghĩa là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Bước vào cửa hẹp còn là nhìn vào chính con người chúng ta như thể Thiên Chúa nhìn chúng ta  và bước đi dưới con mắt của Ngài, vì biết rằng Chúa hoàn toàn làm chủ cuộc sống của chúng ta.

d) Phải vào đúng lúc là gì ? 

         “Một khi chủ nhà đã đứng dậy và khóa cửa lại”(Lc 13,25). Cánh cửa đã hẹp nay lại đóng kín. Thời gian hết sức cấp bách, phải bước vào ngay, ngày mai sẽ quá trễ. Ngay hôm nay phải bước vào Nước Trời.

          Đây là giờ của ơn thánh. Ơn Chúa không bao giờ thiếu, nhưng phải biết đáp ứng. Vì thế,  mỗi giây phút hiện tại, mỗi biến cố xẩy đến trong cuộc đời ta đều mang một ý nghĩa vì nó sẽ đem ta vào Nước Trời  hay chặn ta lại trước cánh cửa Nước Trời đang đóng lại. Tuy nhiên về ơn Chúa ta không thể biết đâu là đầu, là chót, là quyết định hay không. Nhưng chính sự mập mờ bấp bênh này càng làm cho ta phải dứt khóat lựa chọn và theo Chúa trong mỗi giây phút hiện tại.

  1. Qua cửa hẹp là phải chiến đấu

          Đức Giêsu không trả lời trực tiếp về số lượng người được rỗi và chỉ nói đến cách thức để được cứu rỗi. Ngài nói :”Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”(Lc 13,24). Ngài không muốn trấn an, Ngài muốn người ta sống có trách nhiệm. Từ đây, Ngài dùng hình ảnh quen thuộc trong toàn bộ Thánh Kinh : Nước Chúa như một phòng tiệc. Nhưng Ngài thêm : người ta xô đẩy nhau trước cửa vì cửa phòng “hẹp”.

          Từ Hy lạp mà chúng ta dịch là “chiến đấu” là một động từ mạnh bạo “agonizesté” nghĩa đen là “đánh nhau để được vào”. Từ “agonie” (hấp hối) trong tiếng Pháp có ngữ căn lấy từ động tự Hy lạp : Cuộc chiến đấu cuối cùng của sự sống. Để đem lại ơn cứu độ cho mọi người, Đức Giêsu là người đầu tiên đã chiến đấu, ở vườn Giếtsimani và đồi Golgotha. Trong một đọan văn khác, Ngài đã nói rằng “Chỉ những ai mạnh sức mới chiếm được Nước Trời”(Mt 11,12; Lc 16,16).

(Quesson).

         Con đường chiến đấu khác nào một cuộc leo núi mà đỉnh chót không bao giờ đạt được ở trần gian này. Người ta nói về hai người leo núi nổi tiếng đã chết trên ngọn Everest rằng: “Khi người ta thấy họ lần cuối cùng thì họ vẫn hăng hái tiếân lên đỉnh núi”. Người ta ghi khắc vào bia mộ  một hướng dẫn viên leo núi Alpes chết ở sườn núi rằng :”Chàng chết lúc đang lên”. Con đường Kitô hữu phải đi là con đường đi lên,tiến lên, tiến mãi. 

         Tổng thống Washington có khuyên một câu thật chí lý :”Không nên chỉ đánh giá thành công qua địa vị mà con người đạt được trong cuộc sống, nên đánh giá sự thành công  qua những trở ngại mà người đó khắc phục được”.

         Cuộc đời có biết bao lôi cuốn cam go, nhưng chỉ khi can đảm, không thỏa hiện hay nhân nhượng với kẻ thù, người ta mới có thể nói được như thánh Phaolô :”Tôi đã chiến đấu trong cuộc sống chính nghĩa; đã chạy đến cùng đường; kiên vững trong lòng tin. Giờ đây, triều thiên công chính được dành sẵn cho tôi, và Thiên Chúa, Đấng phán xét chí công, sẽ hoàn lại cho tôi trong ngày ấy, không chỉ cho tôi mà thôi, nhưng còn cho hết mọi người đã đầy lòng mến yêu trông đợi Ngài xuất hiện”(2Tm 4,6-8). 

          Nhiều khi huấn luyện để  ta trở nên người chiến binh dũng mạnh hầu chiến đấu đến cùng đường, Thiên Chúa cũng phải “quở trách… sửa dạy… và đánh đòn”(Dt 12,5-6). Aâu cũng vì thương con mà “cho roi cho vọt” và “có gian nan mới tạo anh hùng”.

Truyện : Muốn vào hàng trai tráng.

          Trong nhiều bộ lạc Da đỏ Mỹ châu  họ hay có nghi thức huấn luyện và thu nhận thiếu niên vào hàng ngũ trai tráng trong làng, người ta tổ chức như sau : Khi mặt trời sắp lặn, người bố sẽ dắt đứa con của mình vào sâu trong một cánh rừng. Đứa bé được trao cho một cây lao với lời nhắn nhủ :”Con sẽ ở một mình trong rừng đêm nay”. Sau đó người bố rút lui.

          Màn đêm buông xuống rất nhanh. Không gian chập chờn với bao tiếng gầm rú rùng rợn. Người ta dễ có cảm tưởng đang bị thú dữ rình chờ tấn công. Thỉnh thoảng, vài tiếng vỗ cánh của chim ăn đêm cũng có thể làm cho người yếu vía giật mình. Thời gian chậm chạp trôi qua. Mỗi giây phút là cả một khoảng dài vô định.

          Nhưng cuối cùng, màn đêm cũng rút lui. Bầu trời từ từ hừng sáng. Nỗi sợ hãi trong đứa bé cũng phai mờ theo. Từ trong một lùm cây, một bóng người xuất hiện : cha của đứa bé. Đứa bé nhận ra và vui mừng chạy đến ôm chầm lấy bố, reo lên :”Bố đã trở lại”. Người cha hãnh diện khi thấy con mình trải qua đêm đen như một người trưởng thành. Đứa bé không hề biết rằng suốt đêm qua cha nó không ngừng trông chừng nó.

          Để trở thành chiến binh anh dũng trên mặt trận đức tin, lắm khi chúng ta cũng phải chấp nhận biết bao thách đố trong bóng đêm cuộc đời. Những đe dọa của sự dữ, gầm rú của đau khổ, rình chờ của xác thịt như những phương thế giúp tinh luyện lòng ta thêm can trường dũng mãnh. Và trong suốt chiều dài của bóng đêm đó, dù ta có ý thức hay không, Thiên Chúa vẫn luôn ở bên cạnh dõi mắt trông nhìn chúng ta.

  1. Qua cửa hẹp còn là sám hối, hoán cải.

        Đối với những người Do thái họ tưởng rằng mình đương nhiên có thể vào Nước Thiên Chúa, nhưng Đức Giêsu nói:”Các ông hãy sinh trái cây thống hối,  nếu không, địa vị ưu đãi của các ông sẽ chẳng có ích gì”.

          Đức Giêsu cho biết hoán cải là một phương thế cần thiết để được vào Vương quốc. Và Ngài tiếp tục đem sự hoán cải đến với phần lớn những người  không có gì hứa hẹn. Nhiều người tội lỗi đã chú ý đến lời kêu gọi hoán cải của Ngài và họ đã lên đường tiến tới Vương quốc. Trong khi nhiều người có đạo đã ngoan cố chống lại lời kêu gọi hoán cải của Ngài và do đó, tự loại mình ra khỏi Vương quốc.

        Khi nghe Đức Giêsu nói:”Ở đó các ngươi sẽ khóc lóc nghiến răng, khi thấy ông Abraham, Isaac và Giacóp cùng tất cả các tiên tri ở trong Nước Thiên Chúa, còn mình thì lại bị đuổi ra ngoài. Thiên hạ sẽ từ đông tây nam bắc đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa”(Lc 13,28-29), cách nói này có thể cho chúng ta cảm tưởng rằng những người có thiện chí, thật sự tìm cách vào Nước Trời sẽ bị lọai trừ một cách độc đóan bởi sự độc tài của một ông chủ không có lòng thương xót. Hẳn đó là bức biếm họa về Thiên Chúa ! Thiên Chúa không tàn nhẫn và bất công. Thật vậy, ai không vào được bữa tiệc chỉ có thể trách cứ chính mình. Thiên Chúa đã làm tất cả để cánh cửa nổi tiếng là “hẹp” ấy trở thành một cánh cửa rộng mở cho mọi người không phân biệt.

          Chúng ta phải khẳng định hai điều :

          * Về phía Thiên Chúa, tất cả đã sẵn sàng để cứu chuộc mọi người không trừ ai.

          * Về phía con người, chỉ cần có sự nghiêm túc của tự do, tự do này có thể từ chối ơn Thiên Chúa ban cho và tự do này là một cuộc chiến đấu.

  1. Những kẻ chót sẽ lên hàng đầu.

          Đức Giêsu nói:”Và kìa những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, còn những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót” (Lc 13,30). Đây là thành ngữ của người Do thái nhằm diễn tả sự đảo ngược thứ tự. Thành ngữ này được dùng nhiều trong Tin mừng (Mt 19,30; 20,16; Mc 10,31). Theo mạch văn bài Tin mừng trên thì qua thành ngữ này, Đức Giêsu có ý bác bỏ “quyền ưu tiên truyệt đối” (Theo quan niệm của một số người Do thái) rằng dân Do thái là dân riêng của Chúa thì đương nhiên sẽ được vào Nước Trời dù sống thế nào đi nữa (Mt 3,9-10; Ga 8,33t).

          Ở đây không có ý áp dụng cho mọi cá nhân, nhưng Đức Giêsu có ý so sánh toàn thể dân Do thái, từ khi Ngài xuất hiện, với toàn thể lương dân. Khi đề cập đến hai nhóm đó, Ngài công bố có nhiều người lương sẽ được cứu rỗi trước người Do thái, và ngay cả cộng đoàn toàn thể lương dân sẽ vào Nước Trời trước cộng đoàn Do thái. Giáo huấn này được thánh Phaolô nhắc lại trong thư gửi tín hữu Rôma (Rm 11,25-26). Giáo huấn này được ứng nghiệm trong Giáo hội sơ khai (Cv 13,46-48; 28,25-28).

          Sẽ có những bất ngờ trong Nước Thiên Chúa. Những người nổi danh ở thế gian này sẽ có thể rất thấp kém trong đời sau. Những người chẳng ai biết đến trong đời này có thể sẽ là những vương tử ở đời sau.

Truyện : Có sự đảo ngược.

          Một người đàn bà giầu sang được thế gian này rất mực tôn trọng. Bà ta chết và khi tới thiên đàng  thì có một thiên sứ đưa bà đến nhà bà sẽ ở. Bà ta thấy nhiều ngôi nhà xinh đẹp và mỗi lần đi qua bà cứ tưởng nhà đó dành cho bà. Khi đi qua các dẫy phố chính ở trên trời, tới khu ngọai ô, tại đó các nhà nhỏ hơn nhiều, và đến cuối phố, gặp một cái nhà chỉ hơn cái lều một chút. Thiên sứ bảo :”Đây là nhà của bà”. Bà nói :”Cái gì vậy ? Tôi không thể nào sống trong đó”. Thiên sứ đáp :”Tôi rất tiếc, nhưng đó là tất cả những gì chúng tôi có thể kiến thiết với những vật liệu mà bà đã gửi lên đây”! Các tiêu chuẩn trên trời không giống các tiêu chuẩn dưới đất. Hạng nhất của thế gian thường sẽ là hạng bét và hạng bét của thế gian là hạng nhất ở trên trời…

          Qua bài Tin mừng hôm nay, chúng ta phải quyết tâm đi vào con đường hẹp, phải phấn đấu hết mình để vào qua cửa hẹp, đây là điều kiện mà tiếng La tinh gọi là ‘conditio sine qua non”, điều kiện bắt buộc, không có không được.  Chúng ta đã có nhiều bài học do tiền nhân để lại như :

          – Nước chảy đá mòn.

          – Kiến tha lâu đầy tổ,

          – Có công mài sắt có ngày nên kim.

          Thì trên phương diện siêu nhiên thì cũng thế, vì Chúa đã phán :”Ai muốn theo Ta, hãy vác thập giá mình hằng ngày mà theo” hoặc :”Ai bên đỗ đến cùng mới được cứu rỗi”.

          Cung thế, nếu ở đời :”Có khó mới có miếng ăn” hoặc “Không có hạnh phúc nào có thể đạt được một cách dễ dàng”, thì hạnh phúc Nước Trời cũng đòi hỏi chúng ta phải chịu khó gấp bội mới chiếm được. Tương lai đang chờ đón ta !

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT XXI THƯỜNG NIÊN_C

Lm Giuse Đinh tất Quý

“Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số người được cứu độ?” Một câu hỏi do một người hỏi Chúa và có lẽ đây cũng là thắc mắc của nhiều người trong chúng ta.

I. Tại sao họ hỏi Chúa như vậy?

Thưa là bởi vì lúc đó người ta không thể có được một sự nhất trí khi nhìn về tương lai cuộc sống của mình. Quan niệm về tương lai nơi người Do thái lúc đó rất khác nhau.

+ Những người Biệt phái thời Chúa Giêsu thì cho rằng tất cả những người Israel sẽ được dự phần vào thế giới mai hậu.

+ Sách Esdra (IV Esdra 5,47) bi quan hơn: chỉ có một số ít được an ủi trong thế giới mai hậu. Còn đa phần thì sẽ phải đau khổ cùng cực.

+ Nhóm Essenien, một trong những cộng đoàn đạo đức nổi tiếng thời đó lại cho rằng chỉ có các thành viên của họ mới được cứu rỗi.

Đứng trước những chủ trương khác nhau như thế, quả nhiên là có nhiều người cảm thấy bối rối. Ai sẽ là người được cứu rỗi? Chính vì thế mà họ mới đưa vấn đề ra để hỏi Chúa: “Thưa Thầy, phải chăng chỉ có một số người được cứu độ?”

II. Chúa sẽ trả lời thế nào?

+ Trước hết qua cách trả lời của Chúa chúng ta thấy rõ rệt Chúa không muốn xác định con số những người được chọn hay xác định ai sẽ là người được cứu rỗi.

Vì xác định như thế sẽ thật là nguy hiểm. Đạo của Chúa không phải là một thứ tất định hiểu theo nghĩa hẹp.

+ Đàng khác ở đây khi phải giải đáp những thắc mắc do người ta đặt ra, chúng ta thấy Chúa đã không muốn trả lời theo kiểu một đáp án có sẵn nhưng Ngài đã dùng cách trả lời mà các nhà chú giải gọi là trả lời “bản lề” Đây là kiểu trả lời theo cách  “râu ông nọ cắm cằm bà kia”. Trả lời như thế không phải Chúa là lẩn trốn hay tránh né vấn đề nhưng bắt người đặt vấn đề phải trở về với chính mình để tự mình tìm ra câu trả lời cho mình dưới sự gợi ý, góp ý, giúp đỡ của Chúa.

Chúa không xác định số người được tuyển chọn hay ai là người được cứu rỗi, nhưng Ngài mời gọi tất cả hãy phấn đấu để được vào số những người được cứu rỗi này.

“Hãy cố gắng đi vào cửa hẹp vì ta bảo các ngươi có nhiều kẻ tìm cách vào mà không vào được” Đó là cách thức Chúa chỉ để mỗi người để có thể tìm lấy sự cứu rỗi cho mình dưới sự nâng đỡ và hướng đẫn của Chúa.

Mathêo quảng diễn một cách rõ rệt hơn: “Các ngươi hãy vào qua cửa hẹp vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến sự hư mất và có nhiều người qua lối ấy – Còn cửa và đường đưa tới sự sống thì hẹp và ít kẻ tìm thấy” (Mt 7,13-14).

Như vậy thì chúng ta thấy lời hứa đã rõ ràng và phương thế cũng đã được vạch ra- Còn việc được cứu rỗi hay không là tùy ở mỗi người. Thiên Chúa không ép buộc một ai. Người mời gọi và chỉ lối. Thành hay bại là tùy ở ta chứ không phải ở Người.

Ơn cứu độ không dành riêng cho một dân tộc nào, không đương nhiên ưu đãi cho một ai nhưng theo Công đồng VaticanôII: thì đó là những người “trung thành thực hiện những giáo huấn của Chúa Giêsu – Giáo huấn mà họ biết được một cách rõ ràng hay qua trung gian của Giáo Hội hoặc thậm chí chỉ biết được một cách mù mờ và phiếm diện qua một hình thức tôn giáo nào đó hay qua lương tâm ngay thẳng của họ”.

Như vậy việc quyết định số phận cuộc đời của mỗi người là do nỗ lực của họ có biết đáp trả lại lời mời gọi của Chúa hay không chứ không phải là một thứ tất định máy móc mù quáng như nhiều người vẫn tưởng. Đó là ý của bài Tin Mừng hôm nay.

III. Bài học

“Hãy vào qua cửa hẹp”

Vì con đường đưa tới nước trời là con đường hẹp.

Sẽ không có phần thưởng cho những kẻ ươn lười. Sẽ không có sự cứu độ cho những ai không cố gắng đi theo đường lối của Chúa.

Người ta kể lại rằng: Một ngày kia Chúa Giêsu và thánh Phê-rô đi dạo trong một khu xóm lao động nghèo khó. Đi được một lúc thì Ngài thấy ở phái trước có một người đàn ông đang hì hục đẩy chiếc xe gỗ chất đầy hàng hóa của ông ta. Chiếc xe đang tiến về phía trước thì bỗng nhiên vấp phải một hòn đá ở giữa đường làm cho chiếc xe bị lật nằm chênh vênh giơ cả các bánh xe lên trời. Hàng hóa đổ ra tung tóe. Thấy vậy Ngài bảo Phê-rô cùng lánh qua một bên.

Ngài để ý quan sát xem trước sự việc đó, người đàn ông kia sẽ xử trí như thế nào. Qua cử chỉ của ông ta Chúa thấy ông như đang muốn tìm người giúp đỡ. Ông đưa mắt nhìn chung quanh nhưng chẳng gặp được một người nào. Kẹt quá, ông đành quì xuống đưa hai tay lên trời và tha thiết cầu nguyện:

– Lạy Chúa, Chúa luôn cứu giúp những người hoạn nạn. Xe của con bị lật ngửa giữa đường mà chẳng thấy có một ma nào đi qua để giúp đỡ con một tay. Chúa chỉ cần đụng một ngón tay thì phép lạ sẽ xẩy ra. Xin Chúa giúp con.

Phê-rô nghe thấy thế thì cảm thấy rất xúc động vì lời lẽ của ông chân thành quá. Thế nhưng Phê-rô lại vô cùng ngạc nhiên vì xem ra Chúa chẳng để ý gì đến những lời cầu khẩn của ông ta. Ngài tỏ ra rất lạnh lùng, không một chút xúc cảm đối với những lời cầu nguyện đó và sau đó thì Ngài rẽ qua một bên và cứ thẳng đường mà tiến bước về phía trước, trước sự ngỡ ngàng của người đàn ông kia.

Một lát sau cả hai đến gần một cái chợ. Một cảnh tương tự lại xảy ra. Một chiếc xe chất đầy hàng hóa cũng bị lật ngửa giữa đường. Người lài xe thay vì quì gối cầu nguyện thì lại hì hục cố gắng để lật chiếc xe lên. Mồ hôi mồ kê nhễ nhãi ướt đẫm cả người mà chiếc xe vẫn không nhúc nhích. Mặc dầu vậy, người đàn ông ấy vẫn  kiên trì dùng hết sức của mình để kéo chiếc xe lên….vừa đẩy, vừa kéo, và nhiều lúc còn văng ra những câu chửi thề.

Thấy thế Chúa Giêsu quay lại nói với Phê-rô:

– Nào chúng ta hãy đến giúp ông ta một tay.

Phê-rô không thể hiểu nổi thái độ của Chúa. Ông liền bạo miệng hỏi Chúa:

– Thưa Thầy, lúc nãy người nông dân đã quì xuống cầu nguyện với tất cả lòng chân thành của mình…tại sao Thầy không đếm xỉa gì đến lời van xin của ông ta. Còn tên này chửi bới rủa xả đủ điều mà Thầy lại muốn giúp đỡ hắn?”

Chúa giải thích:

– Con không thấy hai trường hợp khác nhau rất xa sao? Lúc nãy người kia chỉ biết quì gối cầu nguyện và chờ đợi sự giúp đỡ của Thầy, còn tự người đó, người đó không hề làm một cái gì để tự cứu lấy mình, dù một ngón tay cũng không đụng tới. Ngược lại người lái buôn đang ở trước mắt chúng ta, dù có nó nói những lời thô tục nhưng con có thấy không, nó vẫn cố gắng xoay sở hết sức để tự cứu lấy mình. Hắn cần phải được chúng ta giúp đỡ”.

Người Pháp có một câu châm ngôn này: “Bạn hãy tự cứu lấy mình trước và trời sẽ giúp bạn sau ” (Aide toi, le ciel t’ aidera)

Thánh Augustinô cũng nói một câu tương tự như thế: “Lạy Chúa, Chúa dựng nên con không cần có con nhưng để cứu chuộc con Chúa không thể không có con” (Creasti me sine me – Non salvasti me sine me).

Vâng hãy cố mà vào qua cửa hẹp.

Bao nhiêu tấm gương trên đời để lại đã cho chúng ta thấy rằng: Muốn có vinh quang thì phải trả giá. Vinh quang càng cao thì cái gía phải trả càng lớn.

Để hoàn thành tác phẩm nổi tiếng Éneade Virgile đã phải để ra gần 30 năm trời.

Để hoàn thành tác phẩm “Những kể khốn cùng” (Les miserables) Victor Hugo cũng đã phải mất gần 40 năm.

Để có được một người con là Augustinô trở lại bà mẹ Monica đã phải ròng rã cầu nguyện suốt 30 năm trời.

Nước trời phải dùng sức mạnh mà chiếm lấy.

Hãy cố mà vào qua cửa hẹp.

Làm thế nào để vào được cửa hẹp thì tuần sau chúng ta sẽ suy niệm tiếp.

Hôm nay chúng ta phải ghi khắc trong lòng điều này: Đường vào Nước Trời là con đường hẹp. Phải can đảm và cố gắng mà đi vào.

Một nhà văn Pháp đã nói một câu rất hay: Đồi Calvario ở đầu đường và vinh quang cũng xuất hiện tại đó. Hãy can đảm lên. Chúa luôn chờ đợi chúng ta. Amen.

Về mục lục

.

VÀO CỬA HẸP.

Lm. Anphong Trần Đức Phương

Chúa Nhật hôm nay chỉ dẫn cho chúng ta con đường sống đạo là con đường khó khăn, phải leo dốc, phải qua “Cửa Hẹp.” Nhưng chúng ta cứ cố gắng và cầu nguyện rồi Chúa sẽ giúp chúng ta vượt qua tất cả để tới đích điểm là quê hương thật Nước Trời.

Bài đọc I (Tiên tri Isaia 66:18-21): Qua tiên tri Isaia, Thiên Chúa hứa sẽ hướng dẫn Dân Chúa đi theo đường lối Chúa và quy tụ thành một Dân của Chúa được sống trong một “Trời Mới và Đất Mới.” (Hình ảnh cuộc sống mới, cuộc sống hạnh phúc trên Nước Chúa). Bài Đọc II (Thơ Do Thái 12: 5-7,11-13): Chúa sửa dậy chúng ta qua những đau khổ chúng ta gặp trong suốt cuộc đời; chúng ta hãy vui vẽ chấp nhận mọi khổ đau hằng ngày để được đi theo Chúa; đồng thời cũng nâng đỡ lẫn nhau, cùng vác đỡ gánh nặng cho nhau để cùng bước đi trong cuộc Hành Trình Đức Tin hướng về quê hương thật Nước Trời. Bài Phúc Âm (Luca 13:22-30): Mọi người chúng ta “từ Đông sang Tây” đều được mời dự tiệc “Nước Chúa” nhưng chúng ta phải đi qua “Cửa Hẹp,” đó là sự cố gắng sống đức tin hằng ngày và chấp nhận những Thánh Giá trong cuộc sống.

Ai trong chúng ta cũng thích đi qua cửa rộng thênh thang; ai trong chúng ta cũng thích đi con đường bằng phẳng, chứ không ai thích đi con đường lên dốc. Nhưng Chúa bảo chúng ta muốn vào Nước Chúa ” Hãy qua Cửa Hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn Cửa Hẹp và đường chật thì đưa đến Sự Sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Matthêu 7:13-14).

“Cửa hẹp” để chỉ những khó khăn mà chúng ta phải trải qua, nếu chúng ta muốn theo Chúa đi về cuộc Sống Mới, cuộc sống vĩnh cữu. Có rất nhiều khó khăn mà chúng ta phải chấp nhận để theo Chúa là Đường, là Sự Thật, và là Sự Sống; vì thế Chúa bảo chúng ta “Nước Trời dành cho những ai biết nổ lực!” (Matthêu 11:12) và “Ai muốn theo tôi, hãy bỏ mình đi, vác thánh giá hằng ngày mà theo tôi.” (Matthêu 16:24).

Thánh giá đầu tiên chúng ta phải vác là chính thân xác yếu hèn của chúng ta. Thân xác chúng ta luôn đòi hỏi những thỏa mãn nghịch với giới răn Chúa do tính ham danh, ham lợi, ham thú gây ra. Lòng ham hư danh đưa đến những tranh chấp địa vị và gây ra tị hiềm, thù hận. Tính ham mê tiền của sinh ra tham lam, gian lận. Ham mê thỏa mãn các dục vọng thể xác sinh ra những sa ngã đắm đuối. Muốn theo Chúa, chúng ta luôn phải vượt thắng những đòi hỏi đó của xác thịt để chu toàn các giới răn Chúa và sống xứng đáng các tín hữu, những người con tốt lành, thánh thiện của Chúa, như Chúa bảo “Hãy nên Thánh vì Ta là Đấng Thánh.”

Ngày nay trong “thời buổi văn hóa sự chết,” người ta coi thường lề luật sống của Chúa; nhưng chúng ta, các tín hữu của Chúa, chúng ta phải can đảm đi ngược lại: nhất định không phá thai, không chủ trương tự do luyến ái, không chủ trương ly dị, không chấp nhận đồng tình luyến ái, không chấp nhận “nam lấy nam, nữ lấy nữ mà thành vợ chồng.”

Hơn nữa, nhiều khi vì quyết tâm sống theo lề luật Chúa qua sự giảng dạy của Giáo Hội mà chúng ta phải chấp nhận hy sinh: phải mất việc, mất địa vị trong xã hội. Mới đây (Trong tháng 7/2010), Giáo Sư Kenneth Howell tại Đại Học Illinois đã bị đe dọa sa thải vì giảng dạy theo đúng đường lối của Giáo Hội. Đã có những bác sĩ, y tá mất việc vì nhất định không chịu cộng tác vào việc phá thai tại bệnh viện. Nhiều chính trị gia thất cử vì chủ trương bảo vệ giáo huấn của Giáo Hội. Đó là những hy sinh thật lớn lao, những “Cửa Hẹp” mà chúng ta phải đi qua, nếu chúng ta muốn là những tín hữu thật của Chúa.

Chấp nhận những hy sinh đó là chúng ta chấp nhận đi theo “Cửa Hẹp,” là chúng ta muốn sống như những tín hữu của Chúa, những con người luôn tôn trọng sự sống, tôn trọng hạnh phúc gia đình, tôn trọng bản thân và giá trị thật của con người biết sống theo lý trí, chứ không chạy theo những trào lưu hỗn loạn của thời đại (2 Phêrô 3:3-10).

Cả cuộc đời, Mẹ Maria và các Thánh đều đã đi qua “Cửa Hẹp,” đã luôn sống theo thánh ý Chúa, chứ không sống theo thế gian, xác thịt, và ngày nay Mẹ và các Thánh đã được vinh hiễn trên Nước Trời.

Xin Chúa, nhờ lời Mẹ Maria, Thánh Giuse và các Thánh chuyển cầu, giúp chúng ta luôn can đảm sống Đức Tin trong cuộc sống hằng ngày của chúng ta, dù vì thế mà phải hy sinh, nhiều khi phải hy sinh cả mạng sống của mình, như các Thánh tử đạo xưa nay. Xin cùng hiệp lời cầu nguyện chung cho nhau.

Về mục lục

.

CHIẾN ĐẤU ĐỂ QUA ĐƯỢC CỬA HẸP

JM. Lam Thy

Bài đọc 1 hôm nay (CN.XXI/TN-C – Is 66, 18-21) trình thuật Lời Đức Chúa hứa ban ơn cứu độ xuống cho Dân Người (“Ta sẽ đến tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và được thấy vinh quang của Ta. Ðức Chúa phán: giống như con cái Ít-ra-en mang lễ phẩm trên chén dĩa thanh sạch đến Nhà Ðức Chúa, người ta cũng sẽ đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Ðức Chúa – đưa bằng ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà – về trên núi thánh của Ta là Giê-ru-sa-lem. Và cả trong bọn họ, Ta sẽ chọn lấy một số làm tư tế, làm thầy Lê-vi – Ðức Chúa phán như vậy.”). Suy niệm bài đọc 1 sẽ thấy con đường cứu độ tưởng chừng như rộng thênh thang; số đông người được đón tiếp và đưa bằng “ngựa, xe, võng cáng, lừa và lạc đà”.

Đến bài Tin Mừng (Lc 13, 22-30) thì sự thể khác hẳn. Mở đầu bài Tin Mừng, Thánh sử Lu-ca viết: “Trên đường lên Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đi ngang qua các thành thị và làng mạc mà giảng dạy. Có kẻ hỏi Người: “Thưa Ngài, những người được cứu thoát thì ít, có phải không?” Người bảo họ: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc 13, 22-24). Tâm trạng chung của con người khi đi theo một nhân vật quan trọng – thứ nhất đây lại là nhân vật tầm cỡ Đấng Cứu Độ – có thể cứu giúp mình thoát khỏi cảnh khổ cực; thường hay thắc mắc không hiểu có đông người được Đấng ấy cứu thoát hay không? Nếu là số đông được cứu thoát, thì người thắc mắc sẽ vui mừng vì cho là mình đã làm đúng, còn nếu là số ít thì người ấy sẽ thất vọng và có thể quay ngược 180 độ, bỏ đi một nước.

Thay vì trả lời thẳng vào thắc mắc của kẻ đặt câu hỏi, Đức Giê-su lại trả lời: “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết: có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được.” (Lc 13, 24). Như vậy thì Đức Giê-su đã gián tiếp cho biết số người được cứu thì ít mà số đông lại là những kẻ không được cứu (vì không qua được cửa hẹp). Chủ ý của Lời dạy là muốn cho mọi người hiểu rằng: Được cứu hay không là do chính bản thân người xin cứu, chớ không phải ở nơi Đấng Cứu Độ. Đúng vậy, “Để dựng nên ta, Thiên Chúa không cần đến ta, nhưng để cứu rỗi ta, Thiên Chúa không thể làm được nếu ta không cộng tác với Ngài.” (Thánh Au-gus-ti-nô). Biết bao nhiêu lần Đức Giê-su Thiên Chúa đã chữa lành cho những kẻ đui mù, câm điếc, phong hủi, què quặt, nhưng lần nào Người cũng nói: “Đức tin của anh em đã chữa lành anh em”.

Còn một điểm nữa là: Muốn được cứu thì phải chiến đấu. Một cách cụ thể, nếu biết toàn tâm toàn ý dốc hết sức mình để chiến thắng cái tôi vị kỷ, tội lỗi với những dục vọng thấp hèn bất chính, thì sẽ được cứu. Còn nếu cứ tìm cách dùng những âm mưu bất chính với tấm lòng bất trung thì chắc chắn sẽ bị “đuổi ra ngoài”. Cũng bởi vì con đường cứu chuộc là con đường gian nan khó nhọc, phải chấp nhận mọi thử thách nghiệt ngã, mọi hy sinh mất mát kể cả mạng sống mình – như chính Đấng Cứu Độ đã kinh qua – thì mới mong gặt hái chiến thắng. Vì thế, cánh cửa hạnh phúc đích thực luôn luôn là “cửa hẹp và đường chật”, còn “cửa rộng và đường xá thênh thang” chỉ đưa đến diệt vong mà thôi. Cái hình ảnh cửa hẹp khiến người nghe khó hình dung được, vì nói về Nước Thiên Chúa ai cũng nghĩ rằng đó là một Nước, một Vương Quốc mênh mông không biên giới, vô hạn định. Đã không có giới hạn rõ rệt thì tại sao lại có cửa hẹp?

Một lần nữa, Đức Giê-su lại dùng dụ ngôn với những Lời dạy “ý tại ngôn ngoại” (ý ở ngoài lời) trái ngược nhau nhằm gây ấn tượng sâu sắc trong lòng người nghe. Trong Tin Mừng theo Thánh Mat-thêu, Lời dạy trên được diễn tả rõ hơn: “Hãy qua cửa hẹp mà vào, vì cửa rộng và đường thênh thang thì đưa đến diệt vong, mà nhiều người lại đi qua đó. Còn cửa hẹp và đường chật thì đưa đến sự sống, nhưng ít người tìm được lối ấy.” (Mt 7, 13-14). Cùng một ý như vậy, có lần Đức Giê-su còn dạy các môn đệ: “Thầy bảo thật anh em, người giàu có khó vào Nước Trời. Thầy còn nói cho anh em biết: con lạc đà chui qua lỗ kim còn dễ hơn người giàu vào Nước Thiên Chúa.” (Mt 19, 23-26). Con lạc đà chui qua lỗ kim là một chuyện không tưởng, vậy mà còn dễ hơn người giàu có vào được Nước Thiên Chúa. Phải chăng cái lỗ kim ấy chính là cửa hẹp?

Cửa hẹp là cửa khó vào. Muốn vượt qua được cửa hẹp phải biết thu nhỏ mình lại, mà thu nhỏ mình lại thì tức là phải ăn kiêng để giảm béo, bớt cân, còn phải trui rèn ý chí, tập luyện thể lực. Nói cách cụ thể là phải hãm mình ép xác, khiêm tốn, hy sinh. Thu nhỏ mình là khiêm nhường chịu lụy, là “ai muốn đoạt áo trong của mình thì hãy cho họ luôn cả áo ngoài”, là “ai vả má bên trái thì hãy đưa cả má phải cho họ vả tiếp” (Mt 5, 38-44); nhưng đồng thời còn phải biết xoay cái nhìn ra khỏi cái tôi hẹp hòi, ích kỷ, phải biết mở rộng trái tim, thực hành bác ái. Chính vì thế, nên cửa hẹp chẳng ai muốn vào dù đã được mách bảo qua được cửa hẹp là vào được cõi phúc. Người ta chỉ thích đi tìm những cửa rộng, bởi đó là lối đi có những mời gọi ngọt ngào, những cuốn hút mê đắm.

Quả thật số người vào được cửa hẹp chỉ là thiểu số, còn đa số vẫn là những kẻ không vào được. Họ là ai? Đó là những người ở trước mặt Chúa và đã thấy Người đi lại giảng dạy nơi phố xá của họ, nhưng vẫn làm điều phi nhân bạc nghĩa. Ðó là những người Na-da-ret đồng hương, những người Do Thái đồng thời với Ðức Giê-su – nhất là những kinh sư, luật sĩ, tư tế chỉ thích “ngồi trên toà ông Mô-sê” mà giảng dạy – đã không tin thì chớ, mà còn âm mưu giết hại cả Đấng Cứu Độ. Họ sẽ bị xua đuổi ra khỏi nơi đang có các tổ phụ và các tiên tri vui hưởng hạnh phúc với Thiên Chúa. Họ sẽ bị tống vào nơi sẽ có khóc lóc và nghiến răng; trong khi có nhiều người từ khắp nơi Ðông, Tây, Nam, Bắc (tức là dân ngoại) lại được vào dự tiệc Nước Trời. Tiêu đề bài Tin Mừng hôm nay đã nói lên tất cả: “Cửa hẹp. Thiên Chúa ruồng bỏ người Do Thái bất trung và kêu mời dân ngoại” (Lc 13, 22-30).

Dân chính hiệu (được tuyển chọn) là những người đứng hàng đầu thì bị tống ra ngoài, để dân ngoại là những kẻ tới sau đứng ở hàng cuối lại được vào dự tiệc Nước Trời. Chuyện khó tin nhưng có thật 100% (“Và kìa có những kẻ đứng chót sẽ lên hàng đầu, và có những kẻ đứng đầu sẽ xuống hàng chót.” – Lc 13, 30). Vậy đó! Cũng cần nói rõ Đức Giê-su chỉ nói “Có những kẻ…”, chớ không phải tất cả. Vậy thì không phải tất cả những kẻ “đứng hàng đầu” đều xuống cuối và tất cả những kẻ “đứng hàng cuối” sẽ được lên hàng đầu. Chung quy thì chỉ có những ai tin nghe và sốt sắng hành động theo Lời dạy của Đấng Cứu Thế, thì dù có tới sau, đứng cuối, cũng sẽ được lên hàng đầu. Và chỉ những kẻ bất lương mới bị tống ra ngoài mà thôi.

Như vậy là đã rõ: Để qua được cửa hẹp, vào được Nước Thiên Chúa, để chiếm hữu được Nước Trời, không phải chuyện dễ dàng. Nó đòi hỏi quyết tâm đã đành, nhưng còn phải có được đức khiêm nhường, đức nhẫn nại, vượt khó, dám hy sinh, chấp nhận gian khổ thử thách, và nhất là phải bền lòng với Đức ÁI, kiên trung với Đức TIN, dốc lòng trông CẬY vảo Thần Khí của Đấng Cứu Độ đến sửa dạy cho nên người môn đệ đích thực. Tục ngữ Việt Nam có câu “Yêu cho roi cho vọt, ghét cho ngọt cho bùi”, người Ki-tô hữu hôm nay hãy coi lời khuyên gửi tín hữu Do Thái như một liều thuốc chữa căn bệnh bất trị của mình: “Anh em đã quên lời khuyên nhủ được nói với anh em như với những người con: Con ơi, đừng coi nhẹ lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Người khiển trách. Vì Chúa thương ai thì mới sửa dạy kẻ ấy, và có nhận ai làm con thì Người mới cho roi cho vọt. Anh em hãy kiên trì để cho Thiên Chúa sửa dạy. Người đối xử với anh em như với những người con.” (Dt 12, 5-7). Ước được như vậy.

Ôi! “Lạy Chúa, chỉ có Chúa mới làm cho chúng con nên một lòng một ý; xin cho tất cả chúng con biết yêu luật Chúa truyền và mong điều Chúa hứa, để dầu sống giữa cảnh thế sự thăng trầm, chúng con vẫn một lòng thiết tha với cõi phúc chân thật. Chúng con cầu xin, nhờ Đức Ki-tô Chúa chúng con. Amen.” (Lời nguyện nhập lễ CN XXI.TN-C).

Về mục lục

.

HÃY CHIẾN ĐẤU ĐỂ QUA ĐƯỢC CỬA HẸP MÀ VÀO

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Tin Mừng hôm nay nói đến hình ảnh cửa hẹp. Cửa hẹp là cửa khó đi qua, chỉ dành cho ít người. Kinh Thánh dùng hình ảnh cửa hẹp để chỉ những đòi hỏi của Nước Trời.

Hẹp ở đây không có nghĩa là hẹp hòi hay kém giá trị. Tính từ hẹp chỉ sự thách đố, chông gai, đòi hỏi nỗ lực để kiên vững bước đi. Hẹp chỉ sự khó khăn, vất vả, từ bỏ, cần phải “chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”.

Các bài đọc Thánh Kinh hôm nay nói về cửa vào Nước Trời tuy hẹp nhưng không chật mà vẫn rộng thênh thang.

  1. Cửa hẹp mà không chật

Trong bài đọc 1, Tiên tri Isaia trình bày ý định của Thiên Chúa là muốn qui tụ mọi dân tộc, mọi quốc gia thành một dân duy nhất tin vào Ngài, đến với Ngài và hưởng hạnh phúc muôn đời với Ngài. Điều kiện phải có là lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa.

Tác giả thư Do thái trong bài đọc 2 viết rằng: vì những ai được Chúa thương thì Ngài sẽ nhận làm con. Chúa thương ai thì mới sửa dạy người ấy và có nhận ai làm con mới cho roi cho vọt. Điều kiện là vâng nghe Lời Chúa sửa dạy, chớ nản lòng khi Ngài khiển trách.

Bài Tin Mừng nói đến sự nỗ lực suốt hành trình đức tin. Vì tất cả mọi người đều được mời gọi vào nhà Chúa Cha và được tham dự Bàn tiệc Thiên quốc. Không phải ai muốn vào cũng được. Cửa hẹp, muốn vào cần phải nỗ lực. Nỗ lực sống thực thi ý Chúa, nỗ lực trung thành với niềm tin của mình, nỗ lực sống tình bác ái yêu thương.

Bất luận là ai cũng có thể được vào Nước Trời, miễn là phải cố gắng. Người ta sẽ từ Đông sang Tây, từ Bắc chí Nam vào dự tiệc Nước Trời. Tất cả là do nỗ lực và thành tâm thiện chí của mỗi cá nhân; không do định mệnh, không do đặc quyền đặc lợi, cũng không có chế độ ưu tiên nào, chỉ có sự tự do và quyết tâm đi vào của mỗi người trong đức tin mà thôi.

  1. Nước Trời rộng, muốn vào phải có điều kiện

 “Hãy chiến đấu để vào qua cửa hẹp” (Lc 13,24), vì “cửa hẹp dẫn đến sự sống đời đời” (Mt 7,14). Chiến đấu ở đây là chiến đấu với chính mình, với cái tôi cồng kềnh của mình, cái tôi nặng nề vì những thu tích cá nhân, cái tôi phình to vì tự hào và kiêu căng đầy tham vọng.

Thật ra cửa vào Nước Trời rộng thênh thang, không phải là cửa hẹp, nhưng hẹp vì “cái tôi” của ta quá to lớn cồng kềnh. Cửa hẹp không phải vì Nước Trời chật hẹp. Nước Trời rộng mênh mông, có thể đón tiếp tất cả mọi người. Nhưng không phải tất cả mọi người có thể vào được, vì vào Nước Trời cần phải có những điều kiện cần thiết. Cửa hẹp chính là để tuyển lựa những người có phẩm chất thích hợp với Nước Trời. Ai muốn vào Nước Trời phải phấn đấu. Cần nỗ lực liên tục để cắt xén “cái tôi” của mình, để giữ cho “cái tôi” của mình trở nên bé nhỏ, khiêm hạ trước Thiên Chúa và cởi mở trước anh em.

Cái tôi của ta luôn có khuynh hướng phình to vì những thu tích cho chính mình: tri thức, tiền bạc, khả năng… Cả những kinh nghiệm, tuổi tác, đạo đức, chức vụ… cũng có thể làm cho “cái tôi” của ta trở nên xơ cứng và phình to.

Phải trở nên nhỏ bé như trẻ thơ thì mới được vào Nước Trời (Mt 18,3). Cần phải biến đổi và tự hạ để có thể vào được Nước Thiên Chúa (Mt 18,3-4). Quả thật, đời sống người Kitô là một cuộc chiến đấu không ngưng nghỉ, một cuộc chiến đấu liên lỉ với chính mình. Khi ta cắt xén “cái tôi” của mình, khi ta tự hủy thân phận của mình, ta sẽ dễ dàng đi qua cửa hẹp, để bước vào cuộc sống hạnh phúc đời đời trong Nước Thiên Chúa.

 Đức Giêsu cũng chính là “Cửa” để ta bước vào Nước Trời.

Cửa vào Nước Trời hẹp vì được làm theo kích thước của Chúa Giêsu:

Cửa này thấp vì Chúa Giêsu đã hạ mình sâu thẳm: Là Thiên Chúa, Người đã tự nguyện trở nên người phàm. Từ trời cao, Người đã tự nguyện xuống nơi đất thấp. Là Thầy, nhưng Người đã tự nguyện trở nên người phục vụ. Vô cùng thánh thiện nhưng Người đã tự nguyện để bị đối xử như một tội nhân.

Cửa này bé vì Chúa Giêsu đã trở nên bé nhỏ: Người đã sinh ra nghèo, sống nghèo và chết nghèo. Trong cuộc tử nạn, Người đã bị bóc lột hết, không phải chỉ quần áo mà cả uy tín và danh dự.

Chúa Giêsu đã khai mở con đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Chúa Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Chúa Giêsu đã bước qua. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Người, phải phấn đấu để khiêm tốn hạ mình, phải từ bỏ cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa (theo Radio Veritas).

  1. Cửa hẹp dẫn vào Nước Trời mênh mông

 Thiên Chúa đến với con người qua khung cửa hẹp. Thiên Chúa sai Con Một xuống thế làm người hiến thân chịu chết khổ đau trên thập giá vì loài người và để cứu rỗi muôn người. Thiên Chúa chọn con đường hẹp để mở lối vào khung trời bao la của tình thương. Tình thương cao cả cúi xuống với thân phận thấp hèn của con người. Sau cửa hẹp là tình thương rộng lớn của Thiên Chúa.

Đức Giêsu đã mở đường về Nước Trời. Muốn vào Nước Trời chẳng có con đường nào khác ngoài con đường Đức Giêsu đã đi. Chẳng có cửa nào khác ngoài khung cửa hẹp mà Đức Giêsu đã qua. Con người đến với Thiên Chúa cũng phải qua khung cửa hẹp. Ai muốn qua đó cũng phải noi gương Đức Giêsu hạ mình xuống và bé nhỏ đi. Chỉ những ai hạ mình khiêm tốn và từ bỏ hết cái tôi cồng kềnh ích kỷ mới qua được khung cửa hẹp mà vào Nước Thiên Chúa.

Vấn đề không phải là khung cửa hẹp mà chính là bản thân mình quá cồng kềnh với những thứ danh vọng chức quyền tiền bạc. Chấp nhận thanh tẩy cần thiết, trút bỏ vướng víu để nhẹ nhàng qua khung cửa hẹp mà đến với sự sống đời đời. Sau khung cửa hẹp là tình thương đẹp ngời Thiên Chúa mở ra cho vận mệnh con người.

Cửa Nước Trời không làm bằng vật chất, nhưng là Lề Luật và các phương tiện nên thánh. Nước Trời vừa mang tính hữu hình, vừa mang tính thần thiêng. Sự khó khăn chật hẹp khi đi qua cửa là đời sống kỷ luật.Vào cửa hẹp phải đi qua một mình, từng người một. Bước qua cửa hẹp là giữ và sống lời Đức Giêsu và giáo huấn của Giáo hội một cách nghiêm chỉnh suốt cuộc hành trình trần gian. Cửa hẹp để qua phải hy sinh, vất vả. Đứng trước cửa hẹp, ai lại không ngần ngại, ai dám khẳng định con đường cứu độ thật dễ dàng, ai dám tự hào về thành công bản thân?

Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào”. Lối vào dẫn tới nguồn vui vẻ và hạnh phúc đời đời.

“Cửa” dẫn đến hạnh phúc thì “hẹp” vì để đi tới đó chỉ có một Con Đường là Chúa Giêsu, Đấng Cứu Độ duy nhất (x. Cv 4,12) và vì con đường Chúa đã đi qua để cứu độ nhân loại chính là con đường thập giá. Đi con đường thập giá với Chúa Kitô chắc chắn không phải là một cuộc dạo chơi, mà là một cuộc chiến đấu, cuộc chiến đến giọt máu cuối cùng.

Đường vào Nước Trời không rộng thênh thang để người ta tha hồ thoả mãn những đam mê tội lỗi. Trái lại đó là cả một cuộc chiến đấu thiêng liêng chống lại cái tôi kiêu ngạo, ích kỷ, tham lam. Để đạt chiến thắng cuối cùng trong ngày cánh chung, phải chiến đấu từ bây giờ trong cuộc sống hiện sinh này.

Hãy lấy Lời Chúa làm vũ khí để chiến đấu chống lại ma quỷ: “…binh giáp vũ khí của Thiên Chúa,… lưng thắt đai là chân lý,… mang áo giáp là sự công chính,.. chân đi giày là lòng hăng say loan báo Tin Mừng,… cầm khiên mộc là đức tin,… đội mũ chiến là ơn cứu độ,… tay cầm gươm của Thần Khi, tức là Lời Thiên Chúa” (x. Ep 6,10 17). 

Lạy Chúa, xin cho con biết nỗ lực chiến đấu không ngừng để quyết đi qua cửa hẹp là hy sinh, thương xót, phục vụ và sẻ chia hầu đem lại cho con hạnh phúc, bình an và Nước Chúa ngay đời này và đời sau. Amen. 

Về mục lục

.

BỎ CÁC NGƯỜI DO THÁI BẤT TRUNG

VÀ KÊU GỌI LƯƠNG DÂN

Học viện Giáo Hoàng Pi-ô X Đà Lạt

1. So sánh với các phúc âm nhất lãm, đoạn văn Lc hôm nay cũng có trong Mt, nhưng bị tách thành nhiều đoạn rời rạc, trong nhiều bối cảnh khác nhau. Cửa hẹp (Lc 13,24) song song với Mt 7,13-14. Cửa đóng (Lc 13,25) chấm dứt dụ ngôn về các trinh nữ khôn ngoan và khờ dại trong Mt 25,10-12. Câu trả lời của những người bị loại ra ngoài (Lc 13,26-27) tương ứng với Mt 7,22-23. Về bữa tiệc hội tụ các người được chọn từ bốn phương (Lc 13,28-29), Mt để ở cuối trình thuật chữa lành tên đày tớ của viên sĩ quan (Mt 8,11-12), là người ngoại giáo có lòng tin sâu xa mà dân Israel không có.

Từ đó ta thấy: đoạn văn hôm nay thật hỗn hợp và gồm tóm nhiều mảnh vụn rời rạc. Tuy nhiên đây không chỉ là một gom góp đơn giản, nhưng là một toàn thể, một “nhóm” mà thực thể không thể không định nghĩa được bằng việc tổng hợp các phần tử của nó. Đây là một dụ ngôn mới, dụ ngôn cửa đóng, mà ý nghĩa tổng quát đồng nghĩa với các lời nói (logia) được gom góp lại. Ta có thể gọi việc gom góp này là chủ đề về các yêu sách cần hoàn tất để được cứu rỗi.

2. Thực vậy, dụ ngôn bắt đầu từ việc một thính giả hỏi về con số các người được chọn. Trước tiên Lc nhắc lại cuộc hành trình lên Giêrusalem. “Trên đường tiến lên Giêrusalem, Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa đi vừa giảng dạy”. Thỉnh thoảng ta lại thấy câu chỉ dẫn đó (9,51; 17,11; 19,18). Đây chính là cái mốc để Lc thu góp và tổng hợp cách giả tạo một loạt chỉ dẫn không có khung cảnh và văn mạch rõ rệt.

Có người đến hỏi: “Lạy thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ?”. Vấn nạn này cơ hội cụ thể để Chúa Giêsu giảng dạy (trực tiếp đối với câu 24, gián tiếp đối với các câu sau), vấn nạn cũng là nỗi thắc mắc thường xuyên của các người đồng thời với Chúa Giêsu. Phúc âm đã hơn một lần ghi lại các vấn nạn về ơn cứu rỗi và phương thế để được cứu độ: “Tôi phải làm gì để được sống đời đời?” (Mt 19,16 và song song), “Khi nào Nước Thiên Chúa đến” (Lc 17,20. Đây là học thuyết thịnh hành của các người biệt phái thời Chúa Giêsu: “Toàn dân Israel sẽ được dự phần trong thế giới mai hậu” (Sanh.10,1). Có người bi quan hơn: “thế giới mai hậu chỉ an ủi một số ít còn đa số phải đau khổ cùng cực” (1V Esdr.5,47). Các người Esséniens thuộc cộng đoàn Qumrân cho rằng chỉ các thành viên của họ mới được cứu rỗi. Ai có lý?. Chúa Giêsu không muốn giải quyết vấn nạn. Tại sao con người lại thắc mắc về số người được cứu rỗi? Phải chăng vì muốn được an tâm nhờ biết con số đó? Nếu toàn thể Israel được cứu rỗi, họ mới có thể sống bình thản. Nếu chỉ số ít được chọn, thôi thì cần gì cố gắng? Chúa Giêsu lợi dụng mối bận tâm này và lối sư phạm đặc biệt. Ngài nhân cách hóa vấn nạn, để có cái nhìn khách quan hơn. Các nhà thần học có thể lý luận suốt đời về con số người được chọn: còn Chúa Giêsu không muốn thế, Ngài mời gọi mọi người chất vấn, cũng như mời gọi tất cả chúng ta, sôi nổi phấn đấu để được đăng ký vào số người được cứu rỗi.

Thật hữu ích khi có thể nghiên cứu cách thức Đức Kitô đương đầu với các vấn nạn thính giả, cũng như chúng ta đặt ra. Hình như Chúa Giêsu rất ít trả lời câu người ta thường hỏi; Ngài thường trả lời “bên lề”. Lối trả lời “bắt râu ông nọ cắm cằm bà kia” là lối Chúa Giêsu thường dùng, nhất là trong phúc âm thứ tư. Nhưng không phải Đức Kitô đổi câu trả lời cho bằng đổi câu hỏi và đưa chúng ta đến vấn nạn đích thực ẩn dấu dưới một câu trả hỏi nào đó đã được đặt ra. Đức Kitô phá vỡ chân lý mà chúng ta muốn giới hạn (số người được chọn…), muốn cầm chắc trong tay, muốn chiếm hữu như một đối tượng, bên ngoài con người chúng ta. Ngài biến vấn nạn của chúng ta thành sống động; và khi phân tích vấn nạn, Ngài bật mí cái ẩn dấu và đưa chúng ta về lại cuộc sống hiện sinh của chúng ta.

3. “Hãy cố gắng đi vào bằng cửa hẹp, vì Ta bảo các ngươi, nhiều kẻ tìm cách vào, nhưng không thể vào được”.Như thế Chúa Giêsu khuyên bảo thính giả Ngài cố gắng phấn đấu để đi vào bằng cửa hẹp, là hình ảnh Ngài thường dùng cùng lúc với hình ảnh lỗ kim (Mt 19,24; Mc 10,25; Lc 18,25). Cách tổng quát Lc nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc làm, chúng ta sẽ bàn lại sau này. Dù sao, ở đây câu nói có nghĩa cánh chung, còn ở Mt câu nói có nghĩa luân lý nhiều hơn, do các yêu cầu hiện thực của đời Kitô hữu đòi hỏi. “Các ngươi hãy vào qua của hẹp, vì cửa rộng và đường thênh thang là lối đưa đến hư mất, và có nhiều kẻ đi lối ấy. Cửa và đường đưa đến sự sống thì hẹp và ít kẻ tìm thấy” (Mt 7,13-14). Phải cố gắng vào qua cửa hẹp đúng lúc, vì cửa sắp đóng. Giọng nói có vẻ đe dọa, tiên báo câu chủ nhà nghiêm khắc trả lời: “Ta không biết các ngươi từ đâu đến”.

4. Khi người đồng minh không muốn tiếp xúc thân mật hay đòi hỏi nhiều yêu sách, người ta thường nại đến mối bang giao tốt đẹp đã có từ trước đến nay. Ở đây người đồng minh là Thiên Chúa. Những người đối thoại có Thiên Chúa, trong Đức Kitô, như là người đồng bàn, đòng tâm; họ là thính giả trực tiếp nghe Ngài giảng dạy. “Chúng tôi đã ăn uống với Ngài, và Ngài đã giảng dạy giữa quảng trường chúng tôi”. Chúng tôi thuộc nhóm người ưu đãi, được Ngài tâm sự như bạn chí tình. Đó không phải là điều sai lỗi. Điều sai lỗi không phải là rước Thiên Chúa vào nhà mình, đã ân cần tiếp đón phục dịch Ngài, đã chuyên cần nghe Ngài giảng dạy. Điều sai lỗi ở chỗ là muốn biến sự kiện mình là người đồng thời với Chúa Giêsu trong tình trạng đắc thủ, thành quyền quyền đòi hỏi được thụ hưởng, thi ân. Nhưng vấn đề là phải qua cửa hẹp, được đăng ký trong số người được chọn, còn việc theo Đức Kitô trên vạn nẻo ưởng Palestine không quan trọng: chỉ có hành động mới đáng kể. Các mối liên hệ của tôi, kể cả mối liên hệ đối với Thiên Chúa, kể cả việc tôi chăm chú nghe Ngài giảng dạy, không thể mở cửa cho tôi vào. Nếu tôi sống bất công, tôi không thể thấy ứng nghiệm câu này: “ai nghe và thi hành lời Thiên Chúa thì có phúc hơn” (Lc 11,28).

Chỉ mới xét trên bình diện biên soạn của Lc, chúng ta đã thấy ông muốn nhấn mạnh đến việc thực hiện hóa (actualisation). Trong lúc ở Mt, Chúa Giêsu chỉ nói đến các người bị luận phạt ở ngôi thứ ba, ở Lc, Chúa Giêsu trực tiếp nói với họ: “Bấy giờ các ngươi mới nói rằng…”; ở Mt, những lời phản kháng là do các người có địa vị quan trọng trong cộng đoàn Kitô hữu nói: “chúng tôi đã nhân danh Ngài mà nói tiên tri…”, ở Lc trái lại bài giáo huấn trực tiếp nhắm đến đám thính giả của Đức Kitô. Lối trình bày của Lc về sứ vụ Chúa Giêsu do đó sát lịch sử hơn và hiện thực hơn: như thế các lời đó đang nhắm đến chúng ta. Khi giảng, nên lưu ý điểm này.

5. Lời tuyên bố gạt bỏ được lặp lại hai lần. Lc còn tả thêm số phận của các kẻ bị gạt bỏ: họ sẽ bị các thực khách từ bốn phương đến thay thế. Nhưng trước tiên kẻ bị luận phạt mục kích tận mắt mối phúc thật của người công chính và chính việc chứng kiến cảnh tượng đó đã là hình phạt đối với họ. “Khi đến ngày thấy kẻ xưa kia họ coi thường được nâng lên và được vinh hiển…, họ sẽ vô cùng mất mặt; họ sẽ chứng kiến cảnh tượng đó trước, rồi mới chịu hành xử !” (Apocalypse syriaque de Baruch, bản dịch của P.Bogaert, Sources chrétiennes 144,1969,p.498).

Phúc âm không đưa ra cảnh tượng vinh quang của các người được chọn và nhục hình của kẻ bị luận phạt. Có lẽ đây là điểm giúp chúng ta thanh luyện quan niệm chúng ta về hỏa ngục và các huyền thoại của nó. Hình như Newman đã có trực giác khi viết: “chúng ta tưởng trời sẽ là nơi hạnh phúc cho chúng ta khi chúng ta được lên đó; nhưng nếu chúng ta biết xét đoán gì xảy ra ở địa cầu này – một người tàn bạo dù được đưa lên trời, cũng không biết y đang ở trên trời. Trái lại tối thiết nghĩ, chính sự kiện ở trên trời với gánh nặng tội lỗi của y, đối với y đã là một nhục hình và đã đốt lên trong y ngọn lửa thiêu đốt nóng bừng của hỏa ngục” (J.H.Newman, douze sermons sur le Christ, bản dịch P.Leyris, 1943; trang 184-185).

6. So sánh với Mt, bản văn Lc với hai chi tiết được thêm vào (c. 28: “Các tiên tri”; c.29: “từ bắc chí nam”) khuếch đại lời mô tả các người được phép tham dự bữa tiệc Nước Trời. Rõ ràng ở đây Lc muốn xác định cộng đoàn các người được chọn. Một dư âm của sách Didachè: “Hãy hội nhập giáo hội của ngươi từ khắp năm châu bốn bể, vào trong nước Trời”.

Nhưng điều chúng ta ghi nhận trên bình diện thể văn, lại là dấu chỉ việc khuếch đại các viễn ảnh đặc biệt hơn, trong Lc, phép đối ngẫu giữa người được chọn và các kẻ bị gạt bỏ không còn nói lên việc đối nghịch giữa số đông lương dân được nhận vào bữa tiệc cánh chung cùng các tổ phụ, với “các con cái nước trời”, công dân nước Israel: đó là phép đối ngẫu Mt 8,11-12 khai triển. Theo Lc, người bị loại ra khỏi nước trời không phải là vì họ Do thái, con cái nước trời, nhưng vì họ là người bất lương, sống bất chính (Lc 13,27). Khi nhấn mạnh đến sự cần thiết của việc làm, Lc đã không xét đến việc từ bỏ trên bình diện quốc tịch, quốc tính nhưng đã mở rộng cửa cho tất cả người Do thái hay lương dân biết phấn đấu để vào cửa hẹp. Mối bận tâm luân lý của Lc khi soạn thảo bản văn này là đáng đổ việc đối ngẫu chủng tộc đối nghịch Israel với lương dân “Thiên Chúa không tây vị ai, nhưng ở bất cứ dân tộc nào, hễ ai kính sợ Ngài và thực thi công bình đều được Ngài vui lòng chiếu cố” (Cvsđ 10,34-35).

7. “Có người sau hết sẽ nên trước hết và người trước hết sẽ nên sau hết”. Lời này không được áp dụng cho tất cả mọi cá nhân, như thể ai được Thiên Chúa gọi trước, đều phải ngồi chỗ rốt hết trong nước trời hay phải ngồi ngoài cửa phòng tiệc. Các tổ phụ và tiên tri đã đi ngược lại lối chú giải đó: được Thiên Chúa tuyển chọn trước, các Ngài sẽ được tưởng thưởng và ngồi ghế danh dự. Chúa Giêsu so sánh toàn thể dân Do thái, từ khi Ngài xuất hiện, với toàn thể lương dân. Khi đề cập đến 2 nhóm đó, Ngài công bố có nhiều lương dân sẽ được cứu rỗi trước người Do thái và ngay cả cộng đoàn toàn thể lương dân sẽ được vào Nước Thiên Chúa trước cộng đoàn Israel, như thánh Phaolô sau này sẽ nói (Rm 11,25-26). Qua các lời tiên tri đó (sách Cvsđ sẽ cho thấy các sự ứng nghiệm lời tiên tri đó trong giáo hội sơ khai: Cvsđ 13,46-48; 28,25-28), Chúa Giêsu nghiêm nghị tiên báo cho kẻ chất vấn Ngài: các ngươi tưởng mình chắc chắn sẽ được dự tiệc thiên quốc, vì mình là người Do thái; hãy đề phòng để khỏi nghe chủ nhà, sau này sẽ trở nên quan tòa xét xử các ngươi, nói với các ngươi rằng “Ta không biết các ngươi”.

Với ý niệm “từ đông sang tây, từ bắc chí nam”, Lc theo tư tưởng của Is khi nói đến hình ảnh các dân tuôn về Gierusalem để quan chiêm vinh quang của Giave, ngang hàng với con cái Israel được các dân ngoại dẫn về thành thánh. Đây là toàn bộ chủ đề của Isaia-đệ-nhị mà đoạn văn hôm nay chỉ trích dẫn các câu cuối cùng.

KẾT LUẬN

Điều quan trọng, chính là niềm ao ước sống thao tiếng gọi và giáo huấn của Chúa Giêsu, là chấp nhận lời đề nghị Thiên Chúa gởi qua trung gian của Ngài. Nếu không dùng hành động mình để thể hiện điều sứ điệp Ngài công bố, thì việc làm môn đệ Ngài hay cùng chung dân tộc với Ngài chẳng ăn thua gì. Không phải ai nói: “Lạy Chúa, lạy Chúa” mà sẽ vào được nước trời, nhưng là người thực hiện ý Cha Ta trên trời (Mt 7,21).

Ý HƯỚNG BÀI GIẢNG

  1. Chúa Giêsu không đến thỏa mãn tính tò mò của chúng ta. Ngài đến dạy cho chúng ta đường hạnh phúc, hạnh phúc trần thế nhất là hạnh phúc trên trời. Vì thế Ngài từ chối trả lời các câu hỏi phụ thuộc, ví dụ như hỏi về số người được chọn, ngày giờ thế mạt, địa vị mỗi người trên trời (x. lời van xin của Giacobe và Gioan trong Mc 10,35-45). Những câu hỏi như thế thật nguy hiểm cho chúng ta. Ví dụ về số người được chọn: nếu Chúa Giêsu cho biết rất nhiều người sẽ được cứu rỗi, chúng ta dễ bị cám dỗ sống buông xuôi vì hầu như chắc mình đã được cứu rỗi. Trái lại, nếu Chúa Giêsu cho biết rất ít người sẽ được cứu rỗi, chúng ta sẽ thất vọng và đâm ra chán nản không muốn sống tốt đời Kitô hữu. Vì thế, nếu từ chối trả lời là vì mưu ích cho chúng ta hơn. Vì không chắc chắn được cứu rỗi, nên chúng ta sẽ cố gắng xử dụng tốt tự do chúng ta và cố gắng làm mọi sự hết sức mình để một ngày kia có thể qua cửa hẹp mà vào Nước Trời.
  2. Thời Chúa Giêsu, người ta tưởng rằng chỉ cần làm người Do thái là đủ để được cứu rỗi. Một số tiến sị luật còn dạy: “Mọi người Do thái sẽ được cứu thoát”. Chúa Giêsu loại bỏ quan niệm đó: không phải mọi người Do thái đều được cứu rỗi, cũng không phải mọi thính giả Chúa Giêsu, mọi người đồng thời với Chúa Giêsu được biệt đãi xem thấy sờ chạm đến Ngôi lời Thiên Chúa, ăn uống với Ngài nghe Ngài giảng dạy, sẽ được cứu rỗi. Không có dân tộc, quốc tịch hay tôn giáo nào tự quyền hưởng ơn cứu rỗi. Việc duy nhất quyết định số phận đời của một cá nhân là lòng trung thành thực hiện giáo huấn của Đức Kitô (giáo huấn mà họ biết được cách rõ ràng và hoàn toàn do giáo hội dạy hay biết cách mù mờ và phiến diện nhờ tôn giáo hay lương tâm của họ). Điều này cũng áp dụng cho chúng ta là người Kitô hữu: nếu chúng ta đã được rửa tội, đã từng nghe phúc âm trong phụng vụ, đã từng ăn Mình Đức Kitô chúng ta thánh lễ – tất cả điều đó không đủ sức cứu rỗi chúng ta, nếu chúng ta không vâng lời Ngài, không thực hiện thánh ý Thiên Chúa mà Ngài đã loan báo, nếu chúng ta không dứt khoát quyết định chọn lựa và sống theo Ngài.
  3. Chúa Giêsu so sánh Nước Trời với bữa tiệc sang trọng trong đó hội tụ tất cả mọi người thiện chí từ bốn phương trời. Lúc đó sẽ là ngày hội lớn, ngày vui mừng vì được suốt đời sống với Chúa Cha, Đấng đáng yêu đáng mến nhất, sống với Chúa Giêsu và Thánh Thần, với Mẹ Maria và các thánh. Chúng ta hãy làm mọi sự hết sức mình để khỏi bị loại ra ngoài bữa tiệc, đứng trước cánh cửa đã đóng kín. Nếu trung thành sống thật tốt đời Kitô hữu, cánh cửa nhỏ hẹp của Nước Trời sẽ rộng mở đón nhận chúng ta vào chung hưởng sự vui mừng của Chúa Cha.

Về mục lục

.

SỐNG THẬT VỚI ƯỚC MƠ

Lm. Jos. DĐH.

Được sinh ra làm người, tất cả đều có cơ hội gieo trồng và gặt hái hạnh phúc, dù khả năng, sức khoẻ, hoàn cảnh không giống nhau: đội cũng vào chợ, gánh cũng vào chợ. Điểm hẹn của đời người dù muốn hay không, sang giầu hay bần cùng, ai ai chẳng hai bàn tay trắng đi vào “giấc ngủ triền miên”. Bạn đang làm gì khi nguồn năng lực dồi dào ? Có bao giờ bạn cân nhắc về khối thời gian hiện đang có không ? Bạn đang tự tin hay chán nản trước những mơ ước hạnh phúc mà ngay từ khi có trí khôn bạn đã suy nghĩ tới ? Quan trọng hơn, bạn có ý thức sống thật với lòng mình không, hay chỉ vu vơ để ngày tháng trôi qua cách phí phạm ? Sống thật với con người thật, sống đúng với ước mơ đẹp, nếu thiếu thực hành, bao nhiêu khôn ngoan tài đức, hẳn mới chỉ nằm trên “bàn giấy” lý thuyết mà thôi !

Năm xưa Đức Giêsu không trả lời có nhiều hay có ít số người được vào Nước Thiên Chúa, Ngài đã gợi lên một ước mơ thật cho mọi người, mọi thời về hạnh phúc Nước trời: “các ngươi hay chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”.  Gia đình huyết tộc, hay gia đình nhân loại nói chung, thời nào cũng có những phức tạp: sức khoẻ, sự hiểu biết, địa vị, công bằng, sẽ mang lại thành quả tốt đẹp, “nếu như” người ta sử dụng khối tài sản ấy một cách nghiêm túc, đúng mực. Có những người con thương yêu cha mẹ mình vì nghĩ rằng, số của cải to lớn kia sẽ thuộc về tôi, kẻ biết vâng dạ, chiều ý các ngài nhằm đạt mục đích, lại được gọi là đứa con ngoan. Cũng không thiếu những người con thương yêu bậc sinh thành, chỉ vì sợ người đời cười chê, ít nhiều họ cũng bị tiếng xấu là giả dối, không thật lòng.

Đi qua cửa hẹp, hãy vào qua cửa hẹp, chỉ dẫn đó, Đức Giêu đã nói hết sức chân thành, như một lời mời gọi rất tự do, nhưng không kém phần nghiêm túc, dứt khoát. Kinh nghiệm cho thấy: cửa hẹp, đường chật, nhà nhỏ, địa danh bé, chúng được tạo nên, được hình thành, đều mang một ý nghĩa, một giá trị riêng. Khi lấy hình ảnh cửa hẹp, và mời gọi đám đông hãy đi qua để vào Nước trời, hẳn Đức Giêsu có ý nói đường đến Nước trời không rộng rãi thênh thang, đường đến Nước trời không ai tự sức mình đạt tới mơ ước đó. Không sống thật, sao thấy được mình được yêu thương, nâng đỡ để trưởng thành trong đức tin và đức ái. Không mơ ước “quê hương” thật, sao đủ mạnh mẽ chọn lựa đi con đường “thánh nhân” đã đi, đã tới bến bờ hạnh phúc.

Các thánh hiền bằng nhiều nỗ lực, đã đánh thức con cháu bằng nhiều tâm tư đáng nể phục: con đường hạnh phúc dài lâu, đi tìm lối tắt dễ đâu mà thành. Dẫu biết rằng, cửa rộng, đường thông thoáng, bao giờ cũng dễ đi, nhiều người thích và chọn lựa, tiền nhân chúng ta có ý nói không thể có lối rẽ đường tắt để đạt tới hạnh phúc. Đức Giêsu lại quả quyết: đường nhỏ, cửa hẹp, mới dẫn đưa tới Nước trời ; tại sao Ngài muốn các môn đệ và chúng ta đi con đường chật hẹp đó ? Một khi sống thật với ước mơ thật, người ta đủ khôn ngoan để hiểu, để biết, hạnh phúc Nước trời chỉ tìm gặp được nơi Đức Giêsu. Đường chật hẹp là đường Chúa đã đi, ai theo Chúa thật, người ấy sẽ hiểu tại sao có kẻ trước người sau vào Nước trời, thưa vì họ nắm bắt được cơ hội, họ tin và sống niềm tin Đức Giêsu là đường dẫn tới hạnh phúc.

Đường chật, cửa hẹp, do đó người ta không thể mang vác những thứ cồng kềnh vướng víu, càng nhỏ bé gọn gàng, khiêm tốn, càng dễ qua. Đằng sau cánh cửa hẹp là “phần thưởng”, đằng sau con đường nhỏ hẹp là hạnh phúc Nước trời, phần thưởng và hạnh phúc thật đó chỉ dành cho những ai tin tưởng, cậy trông, tín thác vào Đức Giêsu là tình yêu Thiên Chúa mới đang lãnh nhận. Sống trên đời, ai cũng có quyền ước mơ điều tốt đẹp, ai chẳng có cơ hội đầu tư, làm giầu tình nghĩa, phát triển tài năng đức độ, dù thời gian là 80 năm, hay vài chục “xuân xanh”, tất cả chỉ thành đạt khi có Đức Giêsu. Cửa rộng đường thênh thang của trần gian vẫn mở đón chào những người giầu sang phú quý, người đói nghèo dốt nát quê mùa có thể bị từ chối. Đường chật cửa hẹp mà Đức Giêsu mời gọi, sẽ không phân biệt kỳ thị ai, miễn sao người ta sống thật, tin thật, và quyết tâm theo Chúa, sống thánh ý Chúa thật lòng.

Người thời nào cũng khao khát một sự thật công minh: ơn đền oán trả, có thưởng, có phạt, có việc làm tốt, nên khen, có hành vi xấu, nên quở trách. Con người giới hạn, hay tìm cách để chữa mình, đổ lỗi vì hoàn cảnh: đời tôi đúng là khổ nhất, đáng thương nhất, thực ra, chỉ vì mình không cảm nhận đủ đến câu chuyện của người khác. Không phải tất cả mọi cánh cửa đều mở ra hạnh phúc cho ta, không phải tất cả con đường chật hẹp đều dẫn đến bế tắc, sầu khổ ! Chính đời sống kết hiệp, cầu nguyện, chính việc sống thật, tin thật, là cơ hội để giúp mỗi người phát hiện ra niềm vui hạnh phúc: Chúa Giêsu ở cửa hẹp đường chật, Ngài sẽ giúp chúng ta tiến vào quê hương thật, là Nước trời thật. Amen.

Về mục lục

.

CHÚA CỨU ĐỘ TẤT CẢ MỌI NGƯỜI

Lm. Giuse Lê Danh Tường

 Tháng 7 theo truyền thống người ta gọi là tháng cô hồn. Các linh hồn bơ vơ không có bến đậu. Các linh hồn còn chưa được giải thoát, chưa được cứu độ. Làm sao mà sinh ra nông nỗi như vậy? Các cô hồn, họ là ai?

Các bài đọc Lời Chúa hôm nay đưa ta đến một nhận thức: Tất cả mọi người trên thế gian này đều có thể được cứu thoát, được lãnh nhận ơn cứu độ của Chúa. Nhưng kèm theo đó, Chúa Giê-su nói đến điều kiện mà người ta phải có để có thể bước vào nơi vĩnh hằng trong an vui, để không phải bơ vơ, khổ cực.

Cuộc đời Đức Giê-su trên dương thế được thánh sử Luca trình bày là một con đường tiến về Giê-ru-sa-lem. Trên đường đi tiến về Giê-ru-sa-lem, Đức Giê-su đã giảng dạy, chỉ dẫn cho dân chúng về Nước Trời, về ơn cứu độ. Trong bài Tin Mừng theo thánh Luca (Lc 13, 22-30) kể “Chúa Giêsu rảo qua các đô thị và làng mạc, vừa giảng dạy vừa đi về Giêrusalem” (22). Dọc đường đi, có người hỏi  “Lạy Thầy, phải chăng chỉ có một số ít sẽ được cứu độ” (23). Câu hỏi có ý nói đến số lượng những người được cứu độ. Nhưng Chúa Giê-su đã kéo người đối thoại ra khỏi não trạng về số lượng để đưa họ đến cái chất lượng cần phải có để được cứu độ. Tất cả mọi người đều có thể được vào Nước Trời.

Não trạng “nhóm của mình mới xứng đáng” chẳng phải là chuyện ngày xưa mà nó hiện diện đầy dẫy trong xã hội ngày nay. Dường như thời này người ta chán với những cộng đoàn số đông và thích hoạt động trong một nhóm nhỏ. Con người muốn thoát khỏi những định giá bởi số đông và muốn tạo lập cái tôi của mình trong những nhóm nhỏ ít bị chi phối. Cơn cám dỗ coi “nhóm của mình mới xứng đáng” càng trở nên hấp dẫn.

Trong bài đọc 1 (Is 66, 18-21), tiên tri Isaia đã nói các đây hơn 2500 năm với dân chúng về một viễn ảnh phổ quát trên mọi dân tộc. Không phải chỉ có những người còn sót lại sau cuộc lưu đày trở về mà thôi, nhưng rồi đây mọi dân tộc từ đông tây nam bắc trên khắp hoàn cầu sẽ tiến về Giê-ru-sa-lem để thờ phượng Thiên Chúa. Một nhóm nhỏ còn sót lại sau khi cả dân tộc đã trải qua cuộc lưu đày đầy gian nan khổ cực. Họ buồn chán và bi quan. Tiên tri Isaia đã cho họ thấy, chính sự hiện diện của họ nơi đất khách quê người đã làm cho các dân tộc nhận biết Thiên Chúa và rồi mọi người sẽ tìm đến thành đô muôn thủa, nơi Thiên Chúa ngự trị.

Chiều kích phổ quát ấy được diễn tả rõ nét và sống động hơn trong lời nói của Chúa Giê-su hôm nay: “Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong Nước Thiên Chúa” (Lc 13,29). Thiên Chúa không loại trừ bất cứ ai trên thế gian này, cho dù tôi là ai, là người có đạo hay không có đạo, người quyền quý hay nghèo hèn, người lớn hay trẻ nhỏ, Thiên Chúa luôn mời gọi tha thiết hãy vào dự tiệc cưới trong Nước Trời.

Nhưng có điều, con đường dẫn tới Nước Trời là con đường hẹp, cánh cửa để vào dự tiệc cưới trong Nước Trời là cánh cửa hẹp. “Các ngươi hãy cố gắng vào qua cửa hẹp” (13,23).

Vì cánh cửa hẹp nên ai muốn qua thì phải chấp nhận từ bỏ. Người ta không thể vác tất cả mọi sự để đi qua cánh cửa ấy. Chỉ những ai đã khiêm nhường hạ mình xuống, chỉ những ai từ bỏ mọi quyến rũ, chỉ những ai chấp nhận bị gọt tỉa trở nên thanh thoát nhẹ nhàng mới có thể đi qua cửa hẹp.

Ở thế gian này thì những người quyền quý cao sang thường được ưu tiên đứng hàng đầu. Nhưng đứng trước cánh cửa Nước Trời, chỉ những ai chấp nhận từ bỏ quyền lực, giũ bỏ những dan díu, từ bỏ những bám víu tội lỗi mới có thể bước qua. Chính những người nhỏ bé sẽ đi qua trước mà vào dự tiệc trong Nước Trời: “Phải, có những người sau hết sẽ trở nên trước hết và những người trước hết sẽ nên sau hết” (Lc 13,30).

Cánh cửa vào Nước Trời chỉ vừa đủ cho con người đi qua. Một con người hoàn toàn chỉ có người mà thôi. Mọi thứ bên ngoài sẽ chỉ làm cho nó bị vướng mắc. Đức Giê-su trên thập giá là hình ảnh rõ nét của một con người hoàn toàn trần trụi, buông bỏ tất cả, đến cả chân cũng không còn bám vào đất. Chính Thiên Chúa làm người đã băng qua cửa hẹp trong tư thế trần trụi ấy để tiến vào vinh quang.

Lạy Chúa, vì yêu thương mà Chúa đã tìm mọi cách để kéo con về Trời. Xin Chúa luôn thức tỉnh con mỗi khi con mải mê với những giá trị mau qua của trần thế. Xin Người ban ơn giúp sức để con can đảm chấp nhận mình bị gọt rũa hầu có thể tiến bước qua con đường hẹp mà vào chốn vinh quang.

Về mục lục

.

PHẢI CHĂNG “ĐỘ TA KHÔNG ĐỘ NÀNG”?

Lm. Giuse Nguyễn

Những ngày qua, Độ ta không độ nàng nhận được sự quan tâm của giới trẻ và trở thành một hiện tượng trên thị trường nhạc Việt. Giai điệu bắt tai, câu chuyện ngôn tình khác lạ kèm theo những ồn ào liên quan đến tôn giáo là những yếu tố giúp cho Độ ta không độ nàng trở thành một hiện tượng trên thị trường âm nhạc hiện nay.

“Phật ở trên kia cao quá, mãi mãi không độ tới nàng, vạn dặm tương tư vì ai, tiếng mõ vang lên phũ phàng… Vài độ xuân thu vừa qua, có lẽ không còn thấy nàng, hỏi Phật trong kiếp này, ngày ngày gõ mõ tụng kinh, vì sao độ ta không độ nàng?”

Hình như tác giả có một cái nhìn trách móc tại sao ta được hạnh phúc, còn nàng thì không? Phải chăng ơn trên chỉ ban cho ta mà không ban cho nàng? Phải chăng Phật chỉ “độ ta mà không độ nàng” ?

Độ ta không độ nàng chỉ là tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy nó không nói lên sự thật về bất cứ tôn giáo nào. Riêng đối với Kitô giáo, câu hỏi ai sẽ được cứu độ cũng là câu hỏi của nhiều người tự ngàn xưa cho đến hôm nay. Phụng vụ lời Chúa hôm nay sẽ trả lời cho chúng ta câu hỏi đó.

Trong bài đọc thứ nhất (Is 66, 18 – 21), Đức Chúa phán: “Ta sẽ tập họp mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ; họ sẽ đến và sẽ được thấy vinh quang của Ta.” Đây là đoạn cuối cùng trong sách tiên tri Isaia về diễn từ cánh chung. Ngày cánh chung, Thiên Chúa sẽ tập họp mọi người, mọi dân tộc, mọi ngôn ngữ chứ không riêng một nhóm nào, một dân tộc nào. Điều đó cho chúng ta thấy trong chương trình của Thiên Chúa tự ngàn đời, ơn cứu độ đã được dành cho mọi người. Đó là sự thật về một Thiên Chúa yêu thương, muốn cứu độ tất cả. Tuy nhiên, điều Thiên Chúa muốn là như vậy, nhưng để được cứu độ lại là chuyện khác, chứ không phải “độ ta không độ nàng”. Do ta không đón nhận ơn cứu độ, chứ ơn cứu độ vẫn dành cho ta.

Bài Tin mừng (Lc 13, 22 – 30) hôm nay kể câu chuyện bữa nọ Chúa Giêsu đang giảng, có nhiều người nghe lắm, trong số đó có những người Do Thái đạo gốc, có những người Do Thái ở miền Trung Samaria, đa số là dân ngoại. Người Do Thái đạo gốc tự hào vì nghĩ rằng dân tộc mình được Thiên Chúa yêu thương một cách đặc biệt, nên chỉ có họ mới được cứu độ, và chỉ cần họ có đạo là họ được cứu độ chứ không cần gì nữa. Họ quay qua, thấy những người dân ngoại cũng đi nghe giảng nên xầm xì với nhau: “Dân ngoại cũng bày đặt đi nghe giảng, uổng công, xuống hỏa ngục hết rồi, nghe giảng chi cho mệt!”

Những người dân ngoại mặc cảm vì định kiến này nên họ nói nhỏ xíu: “Hỏng dám đâu, Thầy Giêsu mới nói kìa, ai tin thì được cứu hết chứ đâu phải chỉ mấy chú mới được, còn tụi tui thì không!”.

Những người đạo gốc cười ha hả: “Để tụi tui hỏi Thầy, rồi Thầy nói cho mà nghe”: “Thưa Thầy, có phải chỉ có một số người được cứu độ phải không Thầy?” Ý họ muốn nói là chỉ có tụi con mới được cứu, còn mấy đứa dân ngoại chết xuống hỏa ngục ráo hết phải không?

Thầy Giêsu không trả lời trực tiếp câu hỏi của họ, nhưng chỉ cho họ cách làm sao để được cứu độ, đó là: “Hãy vào qua cửa hẹp”. Như vậy trong cách nói của Đức Giêsu, ai cũng được cứu độ, miễn làm sao họ chấp nhận vào qua cửa hẹp.

Khi đọc bài Tin mừng hôm nay, tôi viết vội vài câu thơ: “Cửa thênh thang nhưng lòng người chật hẹp. Chật hẹp vì những ích kỷ kiêu căng, những so đo tính toán kiểu người trần, và như thế cửa trời đã khép lại”. Cửa trời luôn rộng mở như vòng tay yêu thương của Thiên Chúa, chỉ có điều lòng người quá chật hẹp nên không thể vào. Vì thế Đức Giêsu nói với những người đang nghe Ngài: “Hãy vào qua cửa hẹp”, nghĩa là hãy thoát khỏi sự chật hẹp.

Muốn vào thiên đàng trước hết phải thoát khỏi sự chật hẹp của cõi lòng mình.

Cha Anthony De Mello kể câu chuyện về một ni cô sùng Phật nên quyết tâm đi tìm giác ngộ. Ni cô đặt làm cho mình một pho tượng gỗ dát vàng rất đẹp, đi đâu cũng mang theo mình. Sau thời gian vân du khắp nơi, ni cô đến trụ trì trong một ngôi chùa. Ngôi chùa này có rất nhiều tượng Phật cổ. Ni cô làm một bệ thật đẹp đặt tượng Phật dát vàng của mình ở giữa những tượng Phật còn lại và hằng ngày thành kính thắp nhang niệm Phật. Nhưng có điều ni cô không được hài lòng là khói hương thắp cho tượng Phật của ni cô cũng lan tỏa sang cả những tượng Phật khác. Thế là ni cô thiết kế cho mình một chiếc phễu bằng giấy đặt ngay trước làn khói, để khói hương chỉ bay đến trước tượng Phật của ni cô, mấy ông Phật khác không được hưởng. Đó là lý do tại sao tượng Phật dát vàng của ni cô tuy quý, nhưng mặt mũi đen sì.

Cuối cùng cha Anthony kết luận: “Tưởng rằng theo Phật hóa theo mình, từ bỏ sân si lại vướng tình. Những muốn vân du tìm giác ngộ, vẫn còn trôi nổi khiếp phù sinh.”

Vì thế khi cõi lòng ta còn ích kỷ chỉ nghĩ đến bản thân mình thì ta chưa thể vào Nước Trời. Khi ta còn những tính toán thiệt hơn cho bản thân thì ta chưa thể đến nơi gọi là hạnh phúc. Làm sao ta có thể hạnh phúc khi muốn làm công tác chung, mà lại so đo với nhà bên cạnh rằng nó không chịu đi. Làm sao ta có thể vào thiên đàng khi kể công mình góp phần nhiều hơn những người khác. Làm sao ta có thể trở thành hình ảnh của Thiên Chúa khi làm việc gì cũng nghĩ đến việc người khác sẽ trả công cho mình ra sao. Làm sao ta có thể trở thành môn đệ Đức Kitô khi giúp đỡ mà muốn người khác phải lệ thuộc mình…  Làm sao và làm sao??? Lòng ta còn chập hẹp thì đường vào thiên đàng còn quá xa xôi.

Chỉ một điểm duy nhất để thực hành trong tuần XXI từ phụng vụ lời Chúa hôm nay, đó là có một cái nhìn rộng mở giống cung cách của Đức Giêsu, vì Thiên Chúa muốn cứu độ mọi người. Cái nhìn rộng mở để biết Chúa yêu ta. Cái nhìn rộng mở để ta cũng biết yêu người: thông cảm, tha thứ cho những lỗi lầm của người khác. Cái nhìn rộng mở để ta mở lòng ra đón nhận tất cả những ai chân thành. Cái nhìn rộng mở để ta tìm đến với hết thảy mọi người. Cái nhìn rộng mở để ta biết làm “mọi sự vì đức ái” chứ không nghĩ đến lợi ích bản thân. Cái nhìn rộng mở để ta “đến phục vụ” chứ không phải để tìm được phục vụ.

Xin Chúa qua lời bầu cử của Mẹ Maria, Thánh Cả Giuse cho mỗi người chúng con có được con tim nồng nàn để biết học hỏi cung cách phục vụ đến quên mình của Đức Giêsu.

Về mục lục

.

HÃY CHIẾN ĐẤU ĐỂ QUA ĐƯỢC CỬA HẸP

MÀ VÀO NƯỚC TRỜI

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 66:18-21;  Dt 12:5-7, 11-13;  Lc 13:22-30)

          Kế hoạch cứu độ của Thiên Chúa được khai mở dần dần, bắt đầu từ lời hứa trong vườn địa đàng tới việc kêu gọi Áp-ra-ham và thiết lập một dân tộc đặc biệt để Người thực hiện lời hứa.  Đó là dân tộc Ít-ra-en.  Rồi “khi thời gian tới hồi viên mãn”, Thiên Chúa đã sai Con Một đến cư ngụ giữa nhân loại để dạy dỗ họ và dẫn họ về với Người.  Chúa Giê-su đã khởi sự một triều đại mới, Triều Đại Thiên Chúa, để mọi người bước vào và cùng với Người cũng như nhờ Chúa Thánh Thần mà hành trình về quê hương trên trời.  Tất cả những điều này đã xảy ra đều là do lòng thương xót và tình yêu bao la của Thiên Chúa.  Phụng vụ Lời Chúa hôm nay nói với chúng ta về lòng quảng đại ấy, để chúng ta ý thức đáp lại lời kêu gọi cứu độ của Thiên Chúa.

          Trước hết chúng ta xem Thiên Chúa đã quảng đại đối với dân Ít-ra-en của Người như thế nào.  Sau khi vương quốc Ít-ra-en phía bắc bị tiêu diệt, đến lượt vương quốc Giu-đa miền Nam bị chiếm đóng và dân chúng bị lưu đày tại Ba-by-lon.  Qua ngôn sứ I-sai-a, Thiên Chúa hứa không những khôi phục Ít-ra-en, mà Người còn “đưa tất cả những anh em các ngươi thuộc mọi dân tộc về làm lễ phẩm tiến dâng Đức Chúa, về trên núi thánh của Ta là Giê-ru-sa-lem”.  Ở đây, lời hứa của Thiên Chúa không chỉ dành cho dân riêng Người mà thôi, nhưng cho toàn thể nhân loại nữa.  Đó chính là lời hứa áp dụng cho việc thiết lập Nước Trời mà Chúa Giê-su sẽ khởi sự khi Người được sai đến thi hành sứ mệnh rao giảng Tin Mừng.  Tại sao Thiên Chúa thiết lập Nước Trời?  Bởi vì Người “biết rõ việc làm và ý định” của con người, những việc làm và ý định xấu xa khiến cho họ phải xa cách Chúa và mất đi tương lai là được cứu độ.  Trước tình trạng tội lỗi với những việc làm và ý định ấy của nhân loại, Chúa không quay mặt đi, để mặc họ chết trong tội lỗi, nhưng Người có sẵn kế hoạch để chiến thắng tội lỗi và đưa họ về lại trong mối tương quan với Người.  Nói khác đi, Thiên Chúa đã thiết lập “Nước Trời” đặt nền móng trên lời giảng dạy và lối sống của Chúa Giê-su, để giúp mọi người thay đổi và sống đúng chức phận làm con cái Thiên Chúa.  Chính vì lòng quảng đại đầy thương xót và yêu thương, Thiên Chúa đã dang rộng cánh tay đón nhận chúng ta trở về từ đàng tội lỗi, như Người đã cứu Ít-ra-en trở về từ chốn lưu đày.

          Khi giảng dạy về Nước Trời hoặc Triều Đại Thiên Chúa, Chúa Giê-su sử dụng nhiều câu chuyện dụ ngôn, nhất là tiệc cưới.  Nhưng hôm nay, nhân dịp có người hỏi Chúa rằng có phải chỉ một ít người được cứu thoát hay không, Chúa đã khẳng định về việc vào Nước Trời như sau:  “Hãy chiến đấu để qua được cửa hẹp mà vào, vì tôi nói cho anh em biết:  có nhiều người sẽ tìm cách vào mà không thể được”.  Liệu những lời này của Chúa có làm chúng ta nản lòng hay không?  Mặc dù Thiên Chúa Cha giàu lòng thương xót đã mở rộng cửa Nước Trời đón nhận mọi người, nhưng với điều kiện là họ phải tin vào Con Một Người, nghĩa là tin vào tình yêu cứu độ của Thiên Chúa.  Chính điều kiện này trở thành “cửa hẹp” khiến cho nhiều người tìm cách vào mà không vào được.  Để qua cửa hẹp, người ta phải có một thân hình gọn ghẽ chứ không phì nộn, hoặc người ta phải bỏ lại bên ngoài những hành trang cồng kềnh.  Quả thực Chúa Giê-su đã dùng một hình ảnh thật giản dị là cửa hẹp để mô tả lối sống của một Ki-tô hữu chân chính.  Ai đã có dịp đến thánh đường Bê-lem sẽ hiểu được tại sao cửa nhà thờ lại quá thấp như vậy.  Lý do là người ta cố tình xây thật thấp để ngăn lính Hồi giáo ngày xưa cưỡi ngựa nghênh ngang tiến vào.  Cũng vậy, nếu người ta không biến đổi đời sống thiêng liêng của mình theo kích thước cuộc đời Đức Ki-tô, thì họ không thể tìm cách nào khác để qua cửa hẹp được.  Danh nghĩa Ki-tô hữu không phải là giấy thông hành để qua được cửa hẹp, nhưng lối sống của Ki-tô hữu rập theo khuôn mẫu Đức Ki-tô mới là chìa khóa để ta có thể qua được cửa hẹp mà vào.  Do đó, những ai vỗ ngực xưng mình là Ki-tô hữu mà không sống như một Ki-tô hữu chân chính, thì họ cũng giống như những kẻ đứng trước cửa đã đóng lại mà kêu gào:  “Chúng tôi đã từng được ăn uống trước mặt ngài, và ngài cũng đã từng giảng dạy trên các đường phố của chúng tôi”.  Chúng ta không thể vào Nước Trời chỉ vì đã từng được dự bàn tiệc Thánh Thể (nhiều khi dự cho có lệ hoặc để giữ luật ngày Chúa Nhật!), hoặc được nghe giảng dạy trong Thánh lễ hoặc lớp giáo lý (nhiều khi nghe tai này qua tai kia hoặc nghe mà chẳng thực hành!).  Nhưng hơn tất cả những việc bề ngoài ấy, chúng ta còn phải sống mối tương quan sống động với Chúa qua việc cầu nguyện và thực hành đức bác ái yêu thương.

Sống sứ điệp Lời Chúa

Qua cửa hẹp mà vào không hẳn là một hành động, mà là một lối sống.  Đoạn thư Do-thái hôm nay đã cho chúng ta một phương thức tốt nhất để giúp ta được thon gọn mà vào cửa hẹp, đó là hãy để cho tình thương của Chúa “sửa dạy” chúng ta.

a) Được Chúa sửa dạy, đó là một hồng phúc, một ân huệ của tình yêu Thiên Chúa.  Chúa có thương ta thì Người mới “cho roi cho vọt”.  Khuôn vàng thước ngọc là:  Chúa sửa dạy vì yêu thương, chứ không phải vì bất cứ lý do nào khác.

b) Hãy kiên trì để cho Chúa sửa dạy.  Chúa còn kiên trì hơn cả chúng ta khi chờ đợi ta thay đổi.

c) Dó đó, được Chúa sửa dạy, ta phải vui cho mình và giúp người khác vui khi Chúa sửa dạy họ.  Qua cửa hẹp là Chúa Giê-su, ta sẽ đến với Cha trên trời!

Về mục lục

.

THU MÌNH ĐỂ QUA CỬA HẸP GIÊSU

Lm. Antôn Nguyễn Văn Độ

Phụng vụ Lời Chúa tuần này gợi lên trong chúng ta câu hỏi về tương quan giữa ta với Chúa. Tương quan về niềm tin, sự vâng nghe và thực hành lời Chúa.

Khi dân Do thái bị lưu đầy, Đền thờ bị phá hủy, ngôi vua bị truất phế, đất đai người ngoài chiếm đóng, số người còn lại phải sống trà trộn với dân ngoại, nên họ hỏi nhau : Thiên Chúa mà cha ông chúng ta tin thờ có còn không ? Trong bối cảnh ấy, Isaia khuyến khích người lưu đầy phải trở về không trễ nải, hồi hương là điều cần thiết. Dân ở nhà thì Isaia cho biết Thiên Chúa vẫn trung thành với lời hứa : “Ta đến quy tụ mọi dân tộc” ; “sẽ dẫn tất cả anh em các ngươi từ mọi dân tộc đến như của lễ dâng cho Chúa, họ cưỡi ngựa, đi xe, đi võng, cưỡi la, cưỡi lạc đà, đến núi thánh của Ta là Giêrusalem” (Is 66, 18-21). Bởi Thiên Chúa là Đấng trung thành, giữ trọn điều Ngài đã hứa. “Vì tình thương Chúa dành cho chúng tôi thực là mãnh liệt, và lòng trung thành của Chúa tồn tại muôn đời” (Tv 116,2).

Quả thật, Thiên Chúa là Đấng trung thành và rất mực khoan dung, tội thì Chúa phạt, hoán cải thì Chúa cứu. Thư gửi tín hữu Do thái chứng minh : “Khi Thiên Chúa yêu ai, thì Ngài sửa dạy người ấy, vì Chúa sửa dạy ai là kẻ Người yêu mến, và đánh đòn kẻ mà Người chọn làm con. Trong khi được sửa dạy, anh em hãy bền chí. Thiên Chúa xử sự với anh em như con cái: vì có người con nào mà cha không sửa phạt” (Dt 12, 5-7.11-13). Thiên Chúa không muốn cứu chúng ta mà không cần chúng ta ! Đó là lý do Chúa Giêsu mời gọi chúng ta đi vào cửa hẹp.

Có người đặt câu hỏi : Cửa hẹp là cửa nào, cửa ấy có mấy cánh và ai là cửa? Cứ dựa vào lời Chúa Giêsu mà xác định : Chúa Giêsu chính là cửa, vì Người tuyên bố : ‘Ta là cửa.’ (Ga 10, 9). Nhưng có người thắc mắc : Thiên Chúa là Đấng rộng lượng vô biên, tại sao lại ví mình chẳng những là cửa, mà còn là cửa hẹp?

Xin thưa, cửa hẹp không phải vì cửa ấy nặng nề, khó khăn nhưng là vì Thiên Chúa muốn chúng ta hãy ở khiêm nhường, tin tưởng phó thác vào Thiên Chúa; nhìn nhận mình là người tội lỗi, cần đến ơn tha thứ của Thiên Chúa, nên khi Chúa Giêsu nói : “Vào qua cửa hẹp”, là Người muốn chúng ta phải thu hẹp mình lại, loại bỏ tính kiêu căng và ngạo mạn là thứ khiến chúng ta phình to ra, lấp cả Thiên Chúa. Chúa Giêsu là “Cửa” cửa ấy có tên là ‘tình thương’, Chúa yêu thích kẻ khiêm nhường, ai sống khiêm nhường thì vào trường Giêsu, cửa tuy hẹp nhưng luôn rộng mở cho hết mọi người. Cửa hẹp nhưng lại có hai cánh, một cánh cửa hẹp, dành cho những loại bỏ sự kiêu căng để đi qua vừa; một cánh cửa rộng mở để Thiên Chúa chào đón tất cả mọi người.

Lời Chúa qua miệng tiên tri Isai : “Ta đến quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ : chúng sẽ đến và nhìn thấy vinh quang của Ta” (Is 66,18). Những lời trên vang lên trong phụng vụ, làm nổi bật chủ đề về ơn cứu độ phổ quát. Quả thật, Thiên Chúa mời gọi chúng ta can đảm đi vào cửa hẹp là cửa dẫn tới ơn cứu độ đời đời, như Tin Mừng Luca loan báo : “Và người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa” ( Lc 13, 30). Ơn cứu độ mà Thiên Chúa ban cho chúng ta là một dòng chảy của tình yêu chan chứa. Dòng chảy ấy phá tan mọi ngăn cách, mở ra những viễn tượng ánh sáng và bình an.

Chúng ta cam kết với nhau hoán cái, không ngừng đào sâu tương quan của chúng ta với Thiên Chúa, đổi mới cách nghĩ của chúng ta, khước từ những thứ không cần thiết nơi tạm thế này, ngoảnh mặt trước cái tôi vụ lợi, lôi kéo chúng ta xa rời Thiên Chúa. Chúa là cửa hẹp (x. Ga 10). Chỉ trong Thiên Chúa, chúng ta mới có thể được cứu độ.

Lạy Mẹ Maria, Cánh Cửa Thiên Quốc, chúng con nài xin Mẹ dẫn chúng con bước qua cánh cửa của đức tin mà tiến vào một con đường rộng rãi thênh thang, con đường của ơn cứu rỗi. Amen.

Về mục lục

.

PHẢI CHĂNG NGOÀI GIÁO HỘI KHÔNG CÓ ƠN CỨU ĐỘ?

Lm. Phêrô Nguyễn Văn Hương

Ai sẽ được cứu độ và bao nhiêu người được cứu? Đó là câu hỏi rất được nhiều người quan tâm, thường được đặt ra vào thời Chúa Giêsu và ngay cả ngày hôm nay.

1- Extra ecclesiam nulla salus?

Đối với những người Do Thái, họ quan niệm rằng: Để được cứu độ, phải thuộc về dân Do Thái, theo đạo Do Thái, nói tiếng Do Thái và sống trên đất Do Thái.

Ngày xưa, Giáo Hội Công Giáo chúng ta cũng có quan niệm rằng: “Extra ecclesiam nulla salus: ngoài Giáo Hội thì không có ơn cứu độ” (thánh Ciprianô). Một thời, quan niệm này đã bị hiểu một cách méo mó và nó cũng đã tồn tại trong Giáo Hội rất lâu dài hàng thế kỷ. Phải chờ đến Công Đồng Vaticanô II mới cho chúng ta một cái nhìn quân bình và mới mẻ về ơn cứu độ của những người ngoài Giáo Hội.

Theo đó, trong hiến chế Lumen Gentium, Ánh Sáng Muôn Dân, số 16 nói đến những người sau đây dù không thuộc về Giáo Hội một cách hữu hình nhưng vẫn hy vọng được cứu độ: trước hết phải kể đến những người tin nhận Thượng Đế và tôn thờ Người là Đấng Tạo Hóa của đời mình, họ là những người Do Thái và Hồi Giáo. Kế đến là những người vô tình không biết Tin Mừng Đức Kitô và Giáo Hội, nhưng thành tâm tìm kiếm Thiên Chúa và sống theo tiếng lương tâm ngay thẳng, thì có thể được cứu độ. Một cách vô hình họ cũng thuộc về Giáo Hội. Có thể gọi họ là “những Kitô hữu vô danh” (theo ngôn ngữ của nhà thần học Karl Rahner).

Cái nhìn này có nền tảng Kinh Thánh và thần học rất vững chắc: Thiên Chúa muốn tất cả mọi người nhận biết chân lý và được cứu độ (x. 1 Tm 2,4). Thiên Chúa có những cách thế riêng để cứu độ họ. Ơn cứu độ của Đức Kitô mang đến không giới hạn bởi khu vực, chủng tộc, quốc gia, nhưng mang tính phổ quát, cho hết mọi người. Đức Kitô chết cho hết mọi người không loại trừ ai.

Một cách thú vị, Lời Chúa hôm nay đề cập đến chương trình cứu độ của Thiên Chúa. Ở bài đọc I, tiên tri Isaia loan báo về viễn tượng cánh chung trời mới đất mới của nhân loại, trong ngày đó Thiên Chúa quy tụ mọi dân tộc và mọi ngôn ngữ về với Người (x. Is 66,18-21). Theo đó, ơn cứu độ của Thiên Chúa là phổ quát, dành cho hết mọi người. Cũng theo hướng này, bài Tin Mừng loan báo: “Người ta sẽ từ đông chí tây, từ bắc chí nam đến dự tiệc trong nước Thiên Chúa.” Vâng, ý định của Thiên Chúa là cứu độ hết mọi người, đó là niềm hy vọng lớn lao nhất cho tất cả chúng ta và cho những ai không thuộc về Giáo Hội.

2- Nhưng làm sao để được cứu độ?

Nói như thế không có nghĩa là ơn cứu độ chỉ tùy thuộc vào Thiên Chúa thôi, nhưng để được cứu độ, con người cần sự cộng tác với Thiên Chúa. Thánh Augustinô có một câu nói rất nổi tiếng: “Để dựng nên con, thì Thiên Chúa không cần đến con, nhưng để cứu độ con, thì Thiên Chúa cần đến con.”

Đức Kitô trong bài Tin Mừng hôm nay không trực tiếp trả lời có bao nhiêu người được cứu, nhưng Người chỉ cho chúng ta làm sao để được cứu độ khi nói: “Các ngươi hãy cố gắng vào cửa hẹp.” Người đang nói tới sự cộng tác của con người. Đó là nét đẹp của Thiên Chúa của Kitô giáo. Người không tự làm hết mọi sự, không “bao sân” nhưng Người mời gọi chúng ta cộng tác với Người để cứu độ mình. Nếu Người làm hết thì không còn công trạng của chúng ta nữa.

Giống như muốn thi đậu thì phải ôn luyện kỹ càng. Muốn chơi bóng giỏi thì phải tập luyện mỗi ngày. Muốn tránh cao mỡ và cao máu thì phải kiêng dầu mỡ và muối. Muốn có thân hình đẹp, phải luyện tập và ăn kiêng. Cũng vậy, muốn vào thiên đàng thì phải làm gì? Phải “khổ chế,” phải bước “vào cửa hẹp” để đạt tới ơn cứu độ và hạnh phúc.

3- Vào cửa hẹp

Vậy, vào cửa hẹp có nghĩa là gì? Xin thưa là bước vào con đường của hy sinh, khổ luyện, hay nói cách khác, đó là bước theo con đường thập giá mà Chúa Kitô đã đi. “Vào cửa hẹp” là nói không với những cám dỗ của những phim ảnh đồi trụy, những cuộc tình trộm vụng; nói không với những cách kiếm tiền phi đạo đức và phi nhân bản; nói không với những thái độ tự cao tự đại, gây chia rẽ hận thù…

“Vào cửa hẹp” là sống các giá trị của Tin Mừng, sống thật thà và trong sạch, sống bác ái và giúp đỡ tha nhân, nhất là đối với những người nghèo khổ. Mẹ Têrêxa Calcuta nói rằng: “Chúng ta sẽ bị xét xử dựa trên lòng bác ái. Bác ái là thẻ căn cước đích thực cho phép chúng ta bước qua cửa hẹp vào Thiên Đàng.”

“Vào cửa hẹp” là để cho Chúa “quở trách… sửa dạy… và đánh đòn” (Dt 12,5-6) khi chúng ta sai lỗi. Bởi vì, Chúa thương mới “cho roi cho vọt,” nghĩa là để Người sửa dạy chúng ta.

Khi nói có như thế với Chúa, chúng ta đang đi vào cửa hẹp, cửa dẫn chúng ta tới hạnh phúc, tới ơn cứu độ, tới Thiên Chúa là hạnh phúc vĩnh cửu của chúng ta. Hạnh phúc đó, ơn cứu độ đó đã bắt đầu từ ngày hôm nay rồi. Amen!

Về mục lục

.

-CỬA HẸP

Lm. Giuse Nguyễn Văn Nghĩa

Thoạt nghe đến từ cửa hẹp người ta nghĩ ngay đến những gian truân, khó khăn, vất vả. Sự liên tưởng này không sai, nhưng nguời ta có thể lầm khi chỉ dán mắt vào độ hẹp của cánh cửa mà quên nhìn thực tại đằng sau nó. Đó là Nước Trời, là vương quốc của tình yêu, là hạnh phúc vĩnh cửu. Chúng ta cần phải tự hỏi rằng Thiên Chúa ban hạnh phúc vĩnh cửu, vương quốc Nước Trời cho những ai? Thật dễ dàng trả lời đó là cho tất cả những tạo vật mà Người dựng nên, các loài hữu hình và vô hình mà trong đó có loài người chúng ta, loài thụ tạo cao cả nhất trong các loài hữu hình được tạo dựng.

“You get what you pay” (tiền nào của nấy). Để có được những thiện hảo đời này hẳn nhiên không thể thiếu sự gắng công nỗ lực. Và chắc chắn để có hạnh phúc vĩnh cửu thì sự nỗ lực gắng công càng nhiều hơn gấp bội. Có nhiều cách thế cũng như lãnh vực phải gắng công để đạt hạnh phúc vĩnh cửu, nhưng trong tất cả những sự gắng công ấy thì việc nỗ lực trở nên “con người” là một nỗ lực nền tảng, không thể thiếu. Thiên Chúa ban hạnh phúc Nước Trời cho con người thì có thể nói cách không thể sai lầm rằng những ai đích thực là con người thì sẽ được hưởng nhận hạnh phúc ấy.

Theo nhãn quan này thì việc bước qua cửa hẹp chính là những cố gắng để trở nên con người như thuở ban đầu được tạo dựng. Trước khi Ngôi Lời nhập thể, dù được ánh sáng Thiên Chúa soi dẫn qua vũ trụ thiên nhiên và đặc biệt qua tiếng lương tâm, nhưng con người khi tìm cách trở nên chính mình, trở nên con người, thì vẫn một cách nào đó còn mò mẫm như đi trong đêm tối. Các hiền triết cổ đại thường mời gọi đồng loại ưu tiên cho việc “biết mình”. Biết mình là cái biết nền tảng để thành nhân. Đến thời viên mãn với mầu nhiệm nhập thể của Con Thiên Chúa thì chân dung và căn tính “con người” đã được mạc khải cách toàn hảo nơi chính Đức Giêsu Kitô. “Người chính là hình ảnh của Thiên Chúa vô hình” là “Trưởng tử giữa các loài thọ tạo”(x.Cl 1,1). Lần giở các trang Tin Mừng, chúng ta cùng xem Chúa Kitô đã trình bày chân dung “con người” như thế nào.

Con người được tạo dựng có nam có nữ (x.Mc 10,6): Con người là loài được dựng nên chứ không phải tự mình mà có hay hiện hữu cách ngẫu nhiên. Dữ kiện phái tính một cách nào đó khẳng định tính hữu hạn và tính hướng tha của con người. “Người đi một nửa hồn tôi mất. Một nửa hồn tôi bỗng dại khờ”. Nhiều thi nhân ví von cuộc đời như là quá trình tìm kiếm cái phần nửa của bản thân mình. Hội Thánh dạy rằng con người là hữu thể hướng đến tha nhân và hướng về Tuyệt Đối. Như thế bước qua cửa hẹp là nỗ lực làm chủ khuynh hướng tìm mình cách vị kỷ cũng như làm chủ sự tự mãn, tự cao cho mình hoàn hảo hay toàn năng.

Con người là loài có thể xác nên có các nhu cầu ăn uống nghỉ ngơi… (x.Mt 11,19). Tuy nhiên con người còn có linh hồn thiêng liêng làm linh động thân xác. Mặc dù có sự góp phần không thể thiếu của thân xác, nhưng chính linh hồn qua các cơ năng luận suy, phán đoán, chọn lựa mới làm nên giá trị tốt, xấu, đúng sai của các hành vi. Vì không phải những gì bên ngoài vào trong con người làm cho con người ra ô uế mà chính những gì bên trong phát xuất ra… (x.Mt 15,11). Bước qua cửa hẹp là nỗ lực thanh luyện linh hồn đồng thời dùng linh hồn để hướng dẫn và làm chủ thân xác.

Lề luật hay ngày Sabbat được lập ra vì con người chứ không phải con người có ra vì ngày Sabbat hay vì lề luật (Mt 12,8; Mc 2,28). Khi sống thành bầy đoàn, loài vật giành giật và duy trì địa vị thống trị của chúng chủ yếu bằng sức mạnh của cơ bắp. Dĩ nhiên khi đã già yếu thì vị trí thống trị của chúng bị đe dọa và đến lúc nào đó bị tước đoạt bởi cá thể khác mạnh hơn. Con người thì nhờ có lý trí đã biết vận dụng lề luật để duy trì quyền uy và sự thống trị của mình. Là sản phẩm do tay con người lập nên, lề luật đã được khách quan hóa thành ý chỉ của thần minh, thành mệnh lệnh của trời, để rồi một cách có chủ ý, phục vụ quyền lợi cho những người làm nên lề luật ấy. Như thế, một cách nào đó con người đã tự phong thần phong thánh cho bản thân. Khi bắt người khác tuyệt đối quy phục lề luật mình làm ra thì mình đã nô lệ hóa tha nhân bằng chính ý chí chủ quan của mình. Bước qua cửa hẹp chính là nỗ lực cởi bỏ những ràng buộc khiến ta và tha nhân trở thành nô lệ cho sản phẩm của con người, để đưa chính mình và tha nhân trở thành những chủ nhân thực sự đối với các thực tại trần thế theo thánh ý Thiên Chúa truyền ngay tự buổi đầu thuở tạo dựng (x.St 1,26; 2,20).

Con Người đến thế gian không phải để được người ta hầu hạ nhưng để hầu hạ người ta và hiến dâng mạng sống làm giá chuộc muôn người (x.Mc 10,45). Đến thế gian này, một trong những sứ mạng của Ngôi Hai Thiên Chúa đó là mạc khải cách đủ đầy và hoàn hảo căn tính của con người, vốn là loài được dựng nên, là hình ảnh của Thiên Chúa. Nét khác biệt và sự trỗi vượt của loài người trên các loài thọ tạo hữu hình không chỉ được thể hiện bằng trí khôn, một khả năng giúp con người ngày càng phát triển mọi mặt, mà còn được thể hiện qua ý chí tự do. Các loài vật bậc thấp khi yêu thích sự gì thì bị thôi thúc chiếm hữu nó bằng mọi giá. Trái lại tình yêu nơi con người lên đến đỉnh cao nơi động thái dâng hiến. Không có tình yêu nào cao cả cho bằng tình yêu tự hiến thân vì người mình yêu (x.Ga 15,13). Bước qua cửa hẹp là gột bỏ những rào cản khiến chúng ta không thể yêu thương tha nhân bằng sự tự hạ và dâng hiến, bằng sự quên mình để phục vụ như Chúa Kitô đã yêu thương (x.Ga 13,34).

Chúng ta đã nhân danh Chúa mà giảng dạy, mà cử hành hay tham dự các bí tích, mà làm phép lạ… nhưng nhiều khi có thể sẽ bị Chúa nói là đã làm những điều gian ác, nên Chúa không biết chúng ta. Tuy nhiên nếu chúng ta thực sự đã làm người thì Chúa Kitô phải biết và sẽ đón nhận chúng ta vì chính Người vào trần gian này là để làm người. Vào qua cửa hẹp chính là sự nỗ lực gắng công từng ngày gột bỏ những gì khiến chúng ta không còn là con người hoặc làm chân dung con người nơi chúng ta bị biến dạng. Một vài điều cần gột bỏ đó là sự tự cao, tự đại cho mình toàn năng, toàn hảo hay toàn tri; đó là sự vụ lợi ích kỷ; đó cũng là những ý đồ thống trị tha nhân bằng sức mạnh của quyền lực, thế quyền và lẫn thần quyền, bằng các thể chế luật lệ phi nhân, bất hợp lý do chính mình dựng nên để phục vụ cho quyền lợi của bản thân mình, tập thể của mình…

Về mục lục

.

CHÚA NHẬT 21 THƯỜNG NIÊN, NĂM C

Về mục lục

.

GIÁ TRỊ NHẤT THỜI VÀ NIỀM VUI VĨNH CỬU

Gm. Giuse Vũ Văn Thiên

Từ ngày 6-8-2016, trò chơi điện tử có tên là Pokémon Go đã xuất hiện tại Việt Nam sau khi đã được thu hút rất nhiều “game thủ” tại các nước trên thế giới. Rất nhanh chóng, trò chơi này đã gây sốt nơi các bạn trẻ người Việt. Đây là một trò chơi mà người chơi phải đi ra khỏi nhà theo hướng dẫn của chương trình để tìm kiếm những hình ảnh ảo trên mạng. Trò chơi này cho phép người chơi bắt, huấn luyện và trao đổi các Pokémon ảo dựa trên thế giới thực. Cách chơi của game Pokémon Go cũng tương tự như nội dung trong phim truyện cùng tên miêu tả: Người chơi sẽ đi khắp nơi, dùng quả cầu Poké Ball để tìm và thu phục những chú Pokémon trên đường đi. Pokémon Go có sức hấp dẫn lạ kỳ: nhiều người bỏ công việc, bỏ học hành để đi “bắt” pokémon. Họ ra đường phố, vào công viên, đến những nơi công cộng. Mắt họ dán vào màn hình của điện thoại, hầu như quên hết những gì xung quanh, bất kể đêm hay ngày. Đã có nhiều cảnh báo về nguy hiểm do trò chơi này, nhất là tai nạn giao thông xảy đến bất ngờ. Rất nhiều quốc gia trên thế giới đã thực hiện chiến dịch kêu gọi người dân nâng cao nhận thức về những mối nguy hiểm mà Pokemon Go có thể gây ra, đồng thời, áp dụng những luật cấm nghiêm ngặt để hạn chế tối đa các vụ tai nạn đáng tiếc liên quan đến trò chơi này.

Sức hấp dẫn của Pokémon Go cho thấy người thời nay ham thích tìm kiếm những giá trị ảo, trong khi những giá trị tinh thần hoặc những giá trị đạo đức bị lãng quên hoặc coi thường. Những thông tin trên các trang mạng cho chúng ta thấy tình trạng tham nhũng càng ngày càng nghiêm trọng. Đây là phát biểu của Trung tướng Trần Văn Độ, nguyên phó chánh án TAN tối cao, được đăng trên mạng Dân Trí ngày 16-8-2016: “10 năm qua, tham nhũng ngày càng “phát triển”, hầu như lĩnh vực nào cũng có, quy mô rất lớn khi có những vụ lên tới cả nghìn tỷ, chục nghìn tỷ, còn tính chất cực kỳ nghiêm trọng”. Rồi những thông tin về chạy chức, về gian lận trong việc thi cử, kể các các cuộc thi hoa hậu… cho thấy người ta coi nhẹ lương tâm và đạo đức con người”.

Cuộc sống con người là một hành trình hoàn thiện bản thân và tìm kiếm cho mình những giá trị vĩnh cửu. Chúa Giêsu đã khẳng định như thế. Trả lời một vấn nạn được đặt ra về số người được cứu thoát sẽ nhiều hay ít, Chúa khẳng định: “Hãy chiến đấu để qua cửa hẹp mà vào”. “Cửa hẹp” mà Chúa nói tới chính là sự tôi luyện bản thân, chấp nhận mọi thử thách và thiệt thòi để giữ cái tâm trong sáng trước những cám dỗ của những khuynh hướng xấu. Cuộc sống đời này chỉ là hữu hạn tạm thời, sẽ có lúc chấm dứt. Đạo đức hay tội lỗi của con người sẽ có lúc phải chịu xét xử để phân biệt vàng với thau, thánh thiện với tội lỗi, ánh sáng với tối tăm, chân thành với gian giảo. Những người chỉ tìm kiếm cho mình những giá trị ảo, một ngày nào đó sẽ tỉnh ngộ và thấy rằng những gì mình đã gắn bó điều vô bổ chóng qua. Tin Mừng hôm nay cũng nói đến những người suốt đời làm điều bất chính, cuối cùng rồi cũng đến thời đến buổi phải trình diện trước nhan Thiên Chúa. Thay vì được đón tiếp, họ sẽ bị loại trừ, bởi suốt đời họ, đã tự chọn cho mình những ảo ảnh của trần gian.

Người tín hữu luôn ý thức mình sống trước nhan Chúa. Mọi tư tưởng và hành động của họ, Chúa luôn thấu hiểu. Ngài luôn mời gọi và tập họp mọi dân để làm thành một dân thánh, tức là dân của những người mến yêu và thực thi ý Chúa. Khi chuyên tâm cầu nguyện và cố gắng sống cuộc đời thanh sạch thánh thiện, chúng ta thuộc về dân thánh của Chúa, vì Chúa là Vua của mọi dân tộc trên trần gian. Ngài luôn yêu thương, nâng đỡ, quy tụ và chúc lành cho những ai thành tâm lầm điều thiện (Bài đọc I). Tin cậy vào tình thương của Chúa, mỗi chúng ta hãy kiên trì, đừng nản lòng khi Chúa sửa dạy. Khi chấp nhận để cho Chúa sửa dạy, chúng ta dù có hy sinh thiệt thòi chút ít, nhưng chắc chắc sự sửa dạy của Chúa sẽ giúp chúng ta nên hoàn thiện, như cây nho cần được cắt tỉa để sinh hoa kết trái (Bài đọc II).

Đức tin và lòng trông cậy nơi Chúa sẽ giúp chúng ta vượt lên những thử thách của cuộc đời để chọn lựa cho mình những giá trị đích thực của cuộc sống hôm nay, là bảo đảm cho nước trời mai sau. Nhờ nỗ lực cố gắng của bản thân, với ơn phù trợ và quyền năng của Chúa, chắc chắn chúng ta sẽ được Chúa đón tiếp trong ngay sau hết với những lời lẽ ngọt ngào yêu thương: “Hỡi đầy tớ tốt lành và trung tín, vì ngươi đã trung tín trong việc nhỏ, ta sẽ đặt ngươi làm những việc lớn, ngươi hãy vào hưởng sự vui mừng của chủ ngươi” (Mt 25,21).

Về mục lục

.


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...