02/12/2022
2365


LỜI CHÚA CHÚA NHẬT 2 MÙA VỌNG_A

Lời Chúa: Is 11, 1-10; Rm 15, 4-9; Mt 3, 1-12

----------------------------------------------------


 

Mục lục

1. Tìm một con đường (Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên) 

2. Vị tiên tri từ hoang mạc (Lm. Giuse Hoàng Kim Toan)

3. Noi gương Gioan sống khiêm tốn  (Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

4. Hoán cải  (Lm. Giuse Trần Việt Hùng)

5. Sống Lời Chúa  (Bông Hồng Nhỏ,  MTG.Thủ Đức)

6. Tiếng gọi  (Anna Cỏ May,  MTG.Thủ Đức)

7. Sứ vụ dọn đường  (Lm. Giuse Nguyễn Hữu An)

8. Sám hối là con đường dẫn tới ơn cứu độ (Lm. Đaminh Trần Đình Nhi)

9. Sống Mùa Vọng bằng niềm vui trong Chúa (Lm. JB. Nguyễn Minh Hùng)

10. Nguyên nhân bất công(Trầm Thiên Thu)

11. Anh em hãy hối cải (Lm. JB. Hoàng Văn Khanh)

12. Nước Thiên Chúa đã đến gần(Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện)

13. Hãy sám hối ăn năn (Lm. Phêrô Trần Minh Đức)

14. Lời công bố của Gioan Tẩy Giả  (Lm. Giuse Nguyễn An Khang)

15. Thế giới luôn cần những con đường đầy hoa (Lm.Giuse Trương Đình Hiền)

16. Nước Trời đã gần bên (Lm. Louis Đặng Quang Tiến)

17. Chuẩn bị đón nhận Nước Trời  (Lm. Bùi Mạnh Tín)

18. Xin cho con biết lắng nghe(Lm. Bùi Quang Tuấn)

19. Thống hối  (Lm. Cao Vũ Nghi)

20. Lời khuyên duy nhất (Lm. Phạm Quốc Hưng)

 

TÌM MỘT CON ĐƯỜNG

Tgm. Giuse Vũ Văn Thiên

“Tìm một con đường, tìm một lối đi
ngày qua ngày, đời nhiều vấn nghi
lạc loài niềm tin, sống không ngày mai
sống quen không ai cần ai”.

Đó là lời mở đầu bài hát “Và con tim đã vui trở lại” của Đức Huy. Bài hát mở ra một cái nhìn lạc quan giữa cuộc sống còn đầy nghi ngờ, chia rẽ và hận thù. Vâng, giữa bối cảnh hỗn độn và đầy vấn nghi đó, cần phải tìm một con đường để đem lại niềm vui cho con người, giúp họ sống tích cực yêu thương, bất kể trong hoàn cảnh nào.

Mỗi khi Mùa Vọng về, lại thấy xuất hiện hình ảnh Gioan Tẩy giả trong Phụng vụ. Vị ẩn sĩ này khiêm tốn chỉ nhận mình là một tiếng kêu trong sa mạc. Sa mạc là nơi hoang vu bát ngát, chỉ có nắng, gió và cát. Một tiếng kêu trong sa mạc nhiều khi như vô vọng và vô ích. Tuy vậy, tiếng kêu ấy vẫn vang lên, và đã lôi kéo nhiều người trở lại với Chúa. Ông được gọi là vị “Tiền hô”, nghĩa là người đi trước mở đường. Gioan Tẩy giả kêu gọi: “Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối thẳng để Người đi”. Con đường mà vị ẩn sĩ này nói đến, chính là con đường tâm hồn. Ông đã đưa ra những chỉ dẫn cụ thể với dân chúng và với từng hạng người đang xếp hàng xin ông thanh tẩy. Tựu trung những lời khuyên nhắm tới tâm tình sám hối, sửa lại những sai lầm, thay đổi cuộc sống và thân thiện với tha nhân. Lời phê phán của ông rất nghiêm khắc: “Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: chúng ta đã có tổ phụ Abraham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây. Bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Qua những lời này, ông cảnh báo: một thứ đạo đức bề ngoài không có khả năng cứu rỗi con người, nhưng cần có tâm tình đạo đức và đời sống nội tâm, thiện chí quay về với Chúa và phục thiện.

Mùa Vọng là mùa tìm một con đường để đến với Chúa, nhưng cũng là dọn một con đường để Chúa đến với mình. Thiên Chúa là Cha, luôn bao dung chờ đợi và giang rộng vòng tay ôm lấy các tội nhân để họ trở về và được tha thứ. Tuy vậy, nhưng tâm hồn ngổn ngang bề bộn những đam mê dục vọng hoặc đầy ắp những hận thù thì không thể đón Chúa. Khi thiện chí canh tân đời sống và thanh tẩy tâm hồn, chúng ta sẽ được đón Chúa đến. Con đường Chúa đến tâm hồn ta sẽ thênh thang rộng mở.

Và con tim đã vui trở lại
tình yêu đến cho tôi ngày mai
tình yêu chiếu ánh sáng vào đời
tôi hy vọng được ơn cứu rỗi
và con tim đã vui trở lại
và niềm tin đã dâng về người
trọn tâm hồn, nguyện yêu mãi riêng người mà thôi…

Nhạc sĩ Đức Huy không trực tiếp nhắc đến Chúa trong ca từ của ông, nhưng chúng ta thấy hiện rõ hình ảnh của một Đấng là đối tượng của tình yêu và niềm tin tuyệt đối. Đấng ấy, người Kitô hữu gọi là Cha. Hình ảnh “dẫu như tôi phải đi qua vực sâu tối, tôi vẫn không sợ hãi gì vì người gần bên tôi mãi” chính là ý tưởng của Thánh vịnh 23, câu 4 mà chúng ta vẫn thường xuyên hát trong Đáp ca của Thánh lễ cầu hồn.

Một khi có Chúa đến trong tâm hồn, con tim chúng ta sẽ được phục hồi và vui trở lại. Tình yêu đến thức tỉnh chúng ta và chúng ta sẽ nhận ra Chúa đang hiện diện trong cuộc đời. Đó là kết quả của thiện chí sám hối phục thiện.

Xã hội hôm nay đang có nguy cơ bị hoang mạc hóa. Mỗi người tín hữu được mời gọi trở nên một tiếng kêu giữa sa mạc để giới thiệu Chúa và chuẩn bị con đường cho Ngài đến giữa con người. Ta hãy xem ngôn sứ Isaia diễn tả một xã hội mơ ước trong tương lai, khi Chúa đến: « Sói sống chung với chiên con; beo nằm chung với dê; bò con, sư tử và chiên sẽ ở chung với nhau; con trẻ sẽ dẫn dắt các thú ấy. Bò (cái) và gấu (cái) sẽ ăn chung một nơi, các con của chúng nằm nghỉ chung với nhau; sư tử cũng như bò đều ăn cỏ khô. Trẻ con còn măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, và trẻ con vừa thôi bú sẽ thọc tay vào hang rắn độc. Các thú dữ ấy không làm hại ai, không giết chết người nào khắp núi thánh của Ta. Bởi vì thế gian sẽ đầy dẫy sự hiểu biết Chúa, như nước tràn đầy đại dương » (Is 11,6-9). Vâng, chính chúng ta hãy cộng tác với Chúa để làm cho hình ảnh ấy trở thành hiện thực. Giáo Hội của Chúa Giêsu, xuyên suốt lịch sử, vẫn đang cố gắng để làm giảm thiểu bạo lực và chiến tranh. Giáo Hội cổ võ hòa bình và phát triển, giúp con người xích lại gần nhau hơn để sống trong sự thân thiện hài hòa. Nhờ lời cầu nguyện và cộng tác của Giáo Hội, các cường quốc trên thế giới đã có thể bàn bạc với nhau tìm ra những giải pháp xây dựng hòa bình và góp phần thăng tiến phẩm giá con người.

Hãy cùng tìm một con đường để dẫn đưa cuộc sống này tới niềm vui. Con đường ấy chính là Chúa Giêsu. Chính Người đã tuyên bố là Đường, là Sự thật và là Sự sống. Nhờ con đường Giêsu mà chúng ta gặp Chúa Cha là suối nguồn hạnh phúc và là nguồn mạch của sự thánh thiện. Đến với Chúa Giêsu, chắc chắn tâm hồn chúng ta sẽ được bình an, và con tim chúng ta sẽ vui trở lại sau những tháng năm u buồn. Hạnh phúc sẽ tràn trề như đại dương và tình yêu sẽ nối kết muôn người.

Về mục lục

.

VỊ TIÊN TRI TỪ HOANG MẠC

Lm Giuse Hoàng Kim Toan

Thư Do Thái viết rằng: “ Ðã lắm phen cùng nhiều kiểu, xưa kia Thiên Chúa đã nói với cha ông nơi các tiên tri. Vào thời sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con.” (Dt 1, 1 -2). Vị tiên tri cuối cùng Cựu Ước cũng như khởi đầu Tân Ước không ai khác là Gioan Tẩy Giả. Một vị tiên tri đi ra từ hoang mạc với lời mời gọi hùng hồn “Dọn con đường Chúa đến!”

Tính cách của Gioan Tẩy Giả có lẽ ảnh hưởng từ lối sống của nhóm Ê xen, giữ thanh khiết tâm hồn bằng lối sống nhiệm nhặt trong hoang địa. Tâm tình tôn giáo sâu đậm, một lòng thiết tha sửa soạn “con đường của Thiên Chúa”. Thường nhóm Ê xen tổ chức như một tu viện ẩn, không tiếp xúc với dân chúng. Vào thời của Chúa Giê su, những người Ê xen đã thu nhận thêm khoảng bốn ngàn người. Họ vẫn giữ những nhiệm nhặt, tránh những xa hoa, những tham muốn thấp kém, họ bước vào thế gian như một tu sỹ thực thụ, một số có thể kết hôn, sống đời sống gia đình đạo nghĩa.

Gioan tẩy giả có lẽ là con người đặc biệt trong nhóm Ê Xen. Vẫn giữ đời sống thanh khiết, ẩn tu, ăn châu chấu, mật ong rừng, mặc áo lông lạc đà, đi ra từ hoang địa. Sứ điệp của ông mang tính khẩn thiết và nghiêm khắc: “Lưỡi rìu đã sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa.” (Mt 3, 10).

Tại sông Gio đan, Goian tẩy giả làm phép rửa tỏ lòng sám hối cho nhiều người đã nghe sứ điệp rao giảng của ông. Thời đó, những người rao giảng như Gioan tẩy giả không hiếm; nhưng thần thái của Gioan tẩy giả có gì đó rất đặc biệt làm cho người ta kéo đến với ông nhiều hơn. Đủ các thành phần trong xã hội được lời rao giảng của ông thuyết phục, họ tuôn đến chịu phép rửa và hỏi ông: “tôi phải làm gì? (Lc 3, 10).

Gioan tẩy giả có sức hút mãnh liệt với quần chúng, nhiều người tự hỏi: “Không biết ông có phải là Đấng Messia phải đến?” (Lc 3, 16). Ông thẳng thắn trả lời: “Phần ta, ta thanh tẩy các ngươi bằng nước để lo hối cải; còn Ðấng sẽ đến sau ta, quyền thế hơn ta và ta không đáng xách dép cho Ngài; Ngài sẽ thanh tẩy các ngươi trong Thánh Thần và lửa” (Mt 3, 11).

Bài giảng của Gioan tẩy giả cũng liên hệ với chúng ta ngày nay. Không chỉ là những người bình dân, ngay cả những người biệt phái, sa đốc, binh lính, quan quyền… Tất cả đều cần sám hối để dọn mình đón nhận hồng ân cao cả nhất là chính Chúa sinh hạ trong tâm hồn.

Trong bài diễn văn tại bữa ăn sáng cầu nguyện quốc gia lần thứ 66, tại khách sạn Hilton, Washington city. Tổng thống Trump giảng về Chúa như một linh mục giảng đạo hùng hồn, ông nói “Đức tin là trung tâm của cuộc sống và niềm tự do của Hoa Kỳ” và trong giấy bạc của Hoa kỳ: “Chúng tôi tin tưởng nơi Thiên Chúa”.

Cần trở về với Thiên Chúa để có thể xây dựng trên nền tảng công chính, hoà bình, bác ái, yêu thương. Những giá trị cơ bản của con người vươn tới cũng là những giá trị của Tin Mừng. “Hãy sinh quả phúc đức, xứng với lòng hối cải !” (Mt 3, 8). Lời kêu gọi này chẳng bao giờ lỗi thời, vì con người cần được sống trong hoà bình và yêu thương, xoá tan mọi hận thù, tham lam, ích kỷ, gian dối..

Sám hối để Chúa sinh hạ trong tâm hồn! Không có Thiên Chúa, cuộc sống con người trở nên vô nghĩa và chẳng thể xây dựng công bình, bác ái. Đón nhận Chúa sinh hạ, “Người ta sẽ lấy gươm mà rèn nên lưỡi cày, lấy giáo rèn nên lưỡi liềm. Nước này không còn tuốt gươm ra đánh nước kia nữa”. (Is 2, 4).

Về mục lục

.

NOI GƯƠNG GIOAN SỐNG KHIÊM TỐN

Lm.Jos Tạ Duy Tuyền

Đọc bài tin mừng hôm nay chúng ta thấy cảm phục con người của Gioan. Ngài thật thánh thiện và đầy khiêm tốn. Ngài không lợi dụng để đánh bóng tên tuổi mình. Ngài luôn biết mình là ai để sống đúng với vai trò của mình.

Phúc âm tường thuật rằng với lối sống chay tịnh khắc khổ và lời giảng dạy cứng rắn, thuyết phục đã khiến hàng ngàn người tuôn đến với Gioan. Gioan có thể lợi dụng sự tin tưởng của dân chúng để xưng mình là Đấng Cứu Thế có thể ban phát ơn lành, nhưng ông đã không làm vậy. Ông biết đó là hư danh, là hão huyền. Ông chỉ nhận mình là tiếng kêu trong hoang địa. Ông còn nói rằng: “Có Đấng quyền thế hơn tôi đang đến sau tôi, tôi không đáng cúi xuống cởi quai dép cho người”.

Gioan đã biết mình là ai? Nhờ đó mà Gioan đã sống đúng với phận mình. Còn chúng ta, có bao giờ chúng ta đã dừng lại để nghĩ: TA LÀ AI CHƯA?

Có ai đó từng hỏi với mình như vậy:

“Thử hỏi một lần ta là ai?

Mà sao mộng mãi giữa đêm dài

Đêm dài quên ngủ trong sinh tử

Thử hỏi một lần ta là ai?”

Ta là ai vậy nhỉ, ta có phải là cái tên này không? Không rồi, cái tên là do cha mẹ đặt cho, nên nó không thuộc về mình. Ta là ai phải chăng là thân xác này, nhưng thân xác này rồi cũng không ra khỏi vòng sinh lão bệnh tử, sẽ có ngày trở về cát bụi. Ta là ai mà giữa trốn hồng trần này, cứ mải miết, mải miết trong những vòng xoáy cuộc đời, và rồi cứ luẩn quẩn trong kiếp sinh tử cát bụi.

Và như thế , ta chẳng là gì, chỉ là cát bụi hư vô. Và một khi ta trở về hư vô thi chẳng ai biết ta và ta cũng chẳng còn quan trọng với ai?

Nhưng có một Đấng biết ta, và Ta biết Đấng ấy. Đó chính là Đấng tạo thành ta. Một mai ta sẽ trở về hư không, chẳng ai biết ta, cần đến ta, nhưng lại là thời gian ta ở trọn vẹn bên Đấng đã sinh ra ta. Đấng đã nuôi dưỡng ta và mãi mãi yêu ta, thế nên, ở đời này ta chẳng là gì nhưng với Đấng đã sinh ra ta thì ta mãi mãi là hình ảnh của Ngài, là con cái thần linh của Ngài.

Mùa vọng luôn nhắc nhở chúng ta về Đấng tạo thành đã đến trần gian và đang đi tìm chúng ta.  Ngài là Đấng đã sai Gioan và hôm nay đang sai chúng ta đi trước để dọn lối cho Người. Người dọn đường phải biết khiêm tốn để cho Chúa được lớn lên còn mình thì nhỏ lại. Đừng ngộ nhận mình là Đấng cứu thế có thể ban phát ơn lành. Hãy biết khiêm tốn nhìn nhận mình chỉ là hư vô như tiếng kêu vô nghĩa trong sa mạc mà thôi.

Nhưng thật đắng lòng khi nhìn vào những ngôn sứ trong thời đại hôm nay. Dường như họ đang tìm vinh quang và bổng lộc cho bản thân. Có những người tự hào là ai đến với họ thì sẽ được ơn lành của Chúa. Có những người tự hào về khả năng xây dựng những công trình nguy nga đồ sộ cho Chúa. Có những người tự hào nhờ họ mà biết bao lương dân trở về với Chúa. Hoá ra Chúa phải nhờ họ mới có thể ban phát ơn lành cho dân, nhờ họ mà Chúa mới có những nhà thờ hay đền đài nguy nga , nhờ họ mà Chúa mới có thêm những tín hữu cho  Ngài . . .

Lịch sử Giáo hội đã nhiều lần chứng minh khi con người đề cao mình là họ đang gieo vãi sự chia rẽ và phản loạn. và lịch sử Giáo hội cũng từng chứng minh rằng Thiên Chúa chỉ tuyển chọn những ai khiêm tốn để làm việc cho chương trình của Ngài như Gioan, hay như Mẹ Maria.

Ước gì mỗi người chúng ta hãy bắt chước Gioan luôn biết khiêm tốn trước mặt Chúa dầu mình có làm được việc gì cũng chỉ là nhỏ bé tầm thường. Xin cho chúng ta luôn biết nhận ra mình là thụ tạo nên phải  tôn thờ Đấng tạo hoá hết linh hồn mình và biết sống để cho Chúa lớn lên còn tôi thì nhỏ bé đi. Amen

Về mục lục

.

HOÁN CẢI

Lm. Giuse Trần Việt Hùng

Một cha bề trên đang đi dạo với các đệ tử, một em trong nhóm hỏi: Thưa cha, khi nào con người nên hối cải? Cha bề trên trả lời cách nhẹ nhàng: “Con hãy bảo đảm rằng con sẽ hối cải vào ngày sau cùng của cuộc đời”. Nhưng rồi có vài em khác phản kháng lại, chúng ta không bao giờ biết được ngày giờ nào là ngày sau cùng của cuộc đời. Cha bề trên cười và nói: “Cách đơn giản nhất là hãy hối cải ngay bây giờ”.

Thánh Gioan được sai đến để dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Ngài kêu gọi rằng hãy dọn đường Chúa và hãy sửa đường Chúa cho ngay thẳng. Dọn đường bằng cách hoán cải cuộc sống. Sự hoán cải sẽ giúp cải đổi và chuyển biến trong cách sống. Đã bao lần chúng ta có những thái độ quanh co, dối trá, dối mình và dối người. Hoán cải sẽ dẫn chúng ta tới hành động cụ thể. Hoán cải đưa ta ra khỏi sự tự mãn trong sự công chính.

Sự hoán cải sẽ sinh hoa quả tốt. Hối cải phải là nỗ lực thường xuyên để điều chỉnh hướng đi của mình. Giống như người hoa tiêu luôn điều khiển con tàu đi đúng hướng. Hối cải tự bản chất là một ơn huệ Chúa ban. Một lời mời gọi thân thương trở về. Trở về với lòng mình và trở về với Thiên Chúa, Đấng yêu thương và chờ đợi chúng ta. Chúa Giêsu đến không phải để tiêu diệt nhưng là để cứu độ.

Mỗi người chúng ta, ai cũng là tội nhân. Chúng ta sa ngã phạm tội nhiều lần. Chúa mời gọi chúng ta đừng ngụp lặn trong vũng tội. Những giây phút hoan lạc, những con đường rộng rãi thênh thang và những ánh sáng chập chờn dễ đưa chúng ta vào con đường trụy lạc xa Chúa.

Lắng nghe lời thánh Gioan kêu gọi, chúng ta hãy bắt đầu hối cải từ chính mình. Thật ra từ bỏ con đường cũ không dễ, xa tránh dịp vui sẽ không thoải mái và chừa tội như cảm thấy mất mát thiệt thòi. Biết rằng tất cả những thú vui trong tội chỉ mau qua chóng hết. Hãy bắt đầu trở về ngay bây giờ. Không khi nào trễ nếu chúng ta biết bắt đầu.

Rìu đã để sẵn gốc cây. Cây nào không sinh trái tốt, sẽ phải chặt đi và bỏ vào lửa. Mùa Vọng là cơ hội tốt giúp mỗi người tự sửa mình và dọn đường đón Chúa. Chúa sẽ đến đem sự bình an và an vui đích thực. Chúa chính là niềm hoan lạc của tuổi xuân.

Về mục lục

.

SỐNG LỜI CHÚA

Bông hồng nhỏ

Hôm nay, Lời Chúa cho ta lắng nghe một tiếng gọi rất tha thiết, tiếng gọi trong sa mạc. Đó là lời mời gọi của ông Gioan Tẩy Giả: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”(Mt 3,2).

Có rất nhiều người đã đến xin ông làm phép rửa tỏ lòng sám hối, trong đó có cả những người Pharisêu và những người thuộc nhóm Xađốc. Ông Gioan nói với họ rằng: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3,9-10). Ngày hôm nay, ta cũng được mời gọi như vậy. Thánh Giacôbê đã dạy: “Anh chị em hãy thuộc về số những người thực thi Lời Chúa chứ không phải chỉ nghe suông mà thôi” (Gc 1, 22). Để sống Lời Chúa không phải là điều dễ dàng, bởi nhiều lúc ta thích nghe Lời Chúa nhưng chưa quyết tâm sống Lời Chúa. Lời Chúa không chỉ đánh động tâm hồn ta nhưng còn có sức uốn nắn ta thành một con người mới, con người thuộc về Chúa Kitô. Nếu chỉ dừng lại ở những cảm xúc, ơn an ủi khi lắng nghe Lời Chúa mà không tiến xa hơn, nghĩa là để Lời Chúa trở nên cuộc sống của ta thì ta vẫn chưa sám hối thật sự. Lời Chúa được cưu mang tâm hồn ta sẽ trổ sinh hoa trái trong cuộc sống. Hoa trái của Lời Chúa chính là tình bác ái huynh đệ. Thật khó chấp nhận một người Kitô hữu đạo đức, siêng năng tham dự Thánh lễ, tham gia các đoàn hội nhưng lại thiếu lòng cảm thông với những người sống bên cạnh mình. Thực tế vẫn có những trường hợp đáng buồn như thế. Một người vừa ra khỏi nhà thờ lại tức tối la mắng người vừa vô ý giẫm lên chân mình: “Con này mày bị mù à!”. Nhìn người khác để nhìn lại chính mình, đã lắm lúc ta cũng thiếu lòng bác ái với người chị em. Vì sao ta dễ tự ái trước một lời nói thiếu thông cảm? Cũng có khi chính ta lại là người mang lại nỗi buồn phiền cho người khác. Điều gì khiến ta chưa quảng đại để đón nhận người khác, chưa khiêm tốn nhìn nhận con người đầy giới hạn của ta?

Vẫn còn đó một lời mời gọi tha thiết, rất tha thiết vang lên trong lòng ta. Lời Chúa vẫn không ngừng chất vấn ta. Những khi Lời Chúa ban tràn đầy an ủi, đỡ nâng và bổ sức cho ta cũng chính là lúc Lời Chúa mời gọi ta tiến xa hơn, đó là sống Lời Chúa. Lời Chúa ở rất gần ta, ngay nơi miệng, ngay trong lòng cốt để ta đem ra thực hành (x. Đnl 30, 14). Để có thể sống Lời Chúa đòi hỏi ta phải luôn luôn biết trở về với sa mạc lòng mình, để lắng nghe, để nhìn lại và nhận định. Điều gì khiến ta làm như vậy? Nếu Chúa Giêsu ở trong hoàn cảnh của ta, Ngài có làm như ta đã làm không? Điều ta làm có phải là điều Chúa muốn? Chúa Giêsu có hài lòng với cách ta đã làm không? Đó là những câu hỏi giúp ta lắng nghe được thánh ý của Chúa. Khi nhìn tất cả dưới ánh sáng Lời Chúa, mọi sự đều được sáng tỏ. Nếu quá vội vã và cuốn theo nhịp sống hối hả này, ta sẽ không nghe được Lời Chúa nói dù ta vẫn nghe đọc Tin Mừng mỗi ngày. Chỉ những ai để tâm lắng nghe thật sự, muốn nghe thật sự và biết mở lòng thì mới đi đến việc sám hối để thay đổi đời sống. Tự sức ta thì sẽ chẳng bao giờ làm được vì con người tự nhiên trong ta vẫn nghiêng chiều về tội lỗi. Quả đúng như kinh nghiệm của Thánh Phaolô: “Vẫn biết rằng Lề Luật là bởi Thần Khí nhưng tôi lại mang tính xác thịt. Điều tôi muốn thì tôi không làm nhưng điều tôi ghét thì tôi cứ làm” (Rm 7,14-15).

Lạy Chúa Giêsu! Chúa biết con yếu đuối và hay thay đổi. Xin ban ơn cho con biết hăng say yêu mến Lời Chúa và không ngừng để Lời Chúa trở thành cuộc sống của con. Nếu mỗi ngày con biết nỗ lực sống Lời Chúa dạy thì con tin, chính Chúa sẽ làm trổ sinh hoa trái thiêng liêng trong đời sống của con, để khi sám hối cũng chính là khi con trổ sinh hoa trái của tình yêu. Amen.

Về mục lục

.

TIẾNG GỌI

Anna Cỏ may 

Hằng ngày, chúng ta nghe và đọc rất nhiều thông tin của cuộc sống qua truyền hình, qua các trang mạng và báo chí. Lời Chúa hôm nay nói về một thông tin được loan báo bằng lời của vị ngôn sứ được Thiên Chúa tuyển chọn. Ông kêu gọi và báo cho mọi người biết về Đấng sẽ đến: “Anh em hãy sám hối vì Nước Trời đã đến gần”(Mt 3,2).

Ông Gioan Tẩy Giả là người được Thiên Chúa thánh hiến và tuyển chọn. Ông thi hành sứ mạng dọn đường cho Chúa và mời gọi dân chúng chuẩn bị tâm hồn đón nhận Chúa đến. Khi đó, người Do thái cũng đang mang trong mình sự chờ mong Đấng Mesia đến để giải phóng dân tộc, mong đợi một kỷ nguyên mới và hòa bình. Từ sứ mạng được trao cùng sự thao thức của dân, lời rao giảng của ông đã thu hút rất nhiều người đến thú tội và chịu phép rửa (x.Mt 3,6). Trong số những người đó, có những người thuộc nhóm Pharisêu và phái Xađốc cũng đến. Ông Gioan đã nhìn thấy hành động sám hối của họ chỉ là để tránh cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống (x.Mt 3,7). Ông cho họ biết, Thiên Chúa là Đấng thấu suốt tâm can của con người, chính Ngài mới là Đấng thật sự thanh tẩy mỗi người bằng Thánh Thần và lửa quyền năng. Chỉ những ai thật sự sám hối mới được hưởng hạnh phúc của Thiên Chúa. Ông Gioan khuyên nhủ: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối” (Mt 3,9-10).

 Nhìn lại chính mình, mỗi người chúng ta là một Gioan Tẩy Giả mới của Thiên Chúa trong cuộc sống này. Nhờ bí tích Rửa tội, mỗi người được lãnh sứ mạng rao giảng Tin Mừng. Liệu chúng ta có dùng thời gian và khả năng để ra đi dọn đường cho Chúa đến, hay chúng ta chỉ biết nghe người khác nói thôi? Trong cuộc sống, bí quyết để thành công trong việc rao giảng Tin Mừng là làm rồi hãy nói, không để việc làm mâu thuẫn với lời nói. Biết bao nhiêu người nói về Chúa rất hay, đi nhà thờ rất chăm nhưng lại thất bại trong đời sống, chỉ vì thái độ và nếp sống của họ không thể hiện bác ái với người khác. Nói cách khác, chúng ta không rao giảng Tin Mừng bằng lời hô hào hùng mạnh nhưng bằng chính cuộc sống bác ái yêu thương của mình.

 Dù bất cứ ai hay thuộc địa vị nào đi chăng nữa, thì mỗi người trong chúng ta cũng là kẻ có tội và cần sự thống hối, cần thật lòng quay về cùng Thiên Chúa. Mỗi người cần kiểm điểm lại cuộc sống của mình, xem còn có trở ngại nào khiến chúng ta không thể sống cho Chúa. Bởi vì, Thiên Chúa vẫn đang đứng gõ cửa lòng chúng ta trong cuộc sống hiện tại mỗi người.

Lạy Chúa, chúng con cảm tạ Chúa đã không ngừng gọi tên chúng con mỗi ngày. Xin Chúa tiếp tục gọi chúng con và ban cho chúng con lòng khao khát lắng nghe Lời Chúa, mau mắn quay trở về để chuẩn bị tâm hồn ngay thẳng đón Chúa đến. Amen.

Về mục lục

.

SỨ VỤ DỌN ĐƯỜNG

Lm Giuse Nguyễn Hữu An

Bước vào Mùa Vọng, chúng ta gặp lại Gioan Tiền Hô, vị ngôn sứ đi trước dọn đường và dọn lòng người để đón Đấng Cứu Thế. Thực thi sứ vụ dọn đường, Ngôn Sứ Gioan luôn gắn bó với Thiên Chúa và sống gần gũi với con người. Lời Chúa Gioan chiêm niệm trong hoang địa qua nhiều năm tháng đã giúp ngài tiếp xúc, gặp gỡ với nhiều hạng người qua những vùng ven sông Giođan. Lời Chúa Gioan nghe đã trở thành lời Chúa ngài công bố. Tiếng Chúa gọi Gioan đã trở thành tiếng ngài mời gọi mọi người.Gioan trở nên trung gian làm người dọn con đường tâm hồn cho anh chị em mình đến với Chúa Cứu Thế.

Gioan là vị ngôn sứ cuối cùng của Cựu ước. Sau 5 thế kỷ vắng bóng ngôn sứ, nay Gioan xuất hiện với sứ mạng Tiền hô. Ngài  đáp lại tiếng Chúa gọi, ra đi rao giảng về Nước Trời, dọn đường cho Chúa Giêsu, Đấng Cứu Tinh nhân loại đến trần gian. Ngài đã chu toàn ơn gọi cách nhiệt thành và đã chết anh hùng cho sứ vụ. (x. Mt 14,3012; Mc 6,17-19). Cuộc đời Gioan là một thiên anh hùng ca, bất khuất trước cường quyền, bao dung với tội nhân.

Gioan có một cuộc sinh ra kỳ lạ, một lối sống khác thường. Gioan chọn con đường tu khổ chế : ăn châu chấu và mật ong rừng, uống nước lã và mặc áo da thú. Sống trong hoang địa trơ trụi, vắng người, thiếu sự sống. Nhưng chính ở đó mà Gioan đã lớn lên và trưởng thành trong sự gặp gỡ thâm trầm với thiên Chúa.

Gioan nhắc lại lời tiên tri Isaia: “Mọi thung lũng phải lấp cho đầy, khúc quanh co phải uốn cho ngay, đường lồi lõm phải san cho phẳng” (Lc 3,5). Gioan mời dân chúng sám hối. Không thể tiếp tục sống như xưa nữa. Đã đến lúc phải đổi đời, đổi lối nhìn, đổi lối nghĩ. Như thế, Gioan kêu gọi hãy dọn đường cho Đấng Cứu Thế đến. Phải lấp cho đầy những hố sâu tham lam ích kỷ hẹp hòi. Phải uốn cho ngay những lối nghĩ quanh co, những tính toán lệch lạc. Phải san cho phẳng những đồi núi kiêu căng tự mãn. Phải bạt cho thấp những gồ ghề của bất công bất chính.

Đạo là con đường dẫn đến Thiên Chúa. Đạo là ngón tay chỉ mặt trăng. Nếu không có đường thì không đi đến đâu cả. Một đất nước có văn minh hay không là do hệ thống đường sá.

Đạo từ nguyên thuỷ luôn mang ý nghĩa trong sáng, ngay thẳng, công minh. Đạo dẫn đưa con người đến chân thiện mỹ.

Đạo là đường nên có thể nói sống đạo là sống ngoài đường, sống với người khác, sống với cuộc đời. Abraham khởi đầu cuộc sống thật bằng việc lên đường từ giã thành Ur để sang đất hứa. Và lịch sử Do thái là những chuyến xuất hành di cư, lang thang trong sa mạc, lưu đày và mất quê hương trong một thời gian dài. Gioan rao giảng và làm phép rửa khắp mọi nẻo đường. Chúa Giêsu sống ở thế gian bằng những cuộc lên đường, sang Ai cập, về Nazareth, vào sa mạc, lên đền thánh và trở lại Galilêa. Cuộc sống công khai của Chúa, ít là có ba cuộc hành trình lên Giêrusalem. Và sau cùng Người lên đường về nhà Cha.

Vì là đường nên nên đạo luôn mở ra nối kết và đón nhận cuộc sống, đón nhận mọi người, không phân biệt ai với tinh thần yêu thương của Thiên Chúa. Đức Thánh Cha Phanxicô thường cổ võ nền văn hóa đối thoại và gặp gỡ : “Môn đệ của Chúa Giêsu là người luôn cố gắng đi gặp gỡ tha nhân, trao tặng sự đón tiếp, đối thoại với bất kỳ ai, làm chứng về kinh nghiệm sống của mình được thay đổi nhờ gặp gỡ với Chúa Kitô, Đấng là lòng Thương Xót, vì một cuộc sống được biến đổi, chắc chắn sẽ lây sang người khác (x.vaticannews.va).

Cuộc đời mỗi người là một con đường: con đường hai chiều đưa ta đến với Chúa và Chúa đến với ta, hay đưa ta đến với tha nhân và tha nhân đến với ta. Tin Mừng chính là đạo, là con đường mà Chúa Giêsu vạch ra cho chúng ta đi theo Người.Đường quan trọng nhất là đường vào cõi lòng. Gioan đã chỉ cho thấy rằng, mỗi con người đều có ít nhiều đồi núi kiêu ngạo, thung lũng ích kỷ, ghồ ghề khúc khuỷu trong các mối quan hệ. Có bao lối nghĩ quanh co, có bao tính toán lệch lạc, có những lũng sâu tăm tối thiếu vằng ánh sáng tình yêu. Sửa đường theo Gioan là sám hối. Nhìn lại con đường mình đã đi qua, sửa lại những sai lệch nếu có. Những gì cong queo san cho thẳng. Những gì cao cao cần bạt xuống. Lúc đó mới nhìn thấy ơn cứu độ của Chúa. Sửa cho thẳng, lấp cho đầy, uốn cho ngay, san cho phẳng, bạt cho thấp. Đó là sứ điệp Gioan gởi tới chúng ta trong Mùa Vọng này, để chúng ta dọn lòng mình thành đại lộ thênh thang mở ra với Chúa Cứu Thế.

Con đường mà Gioan nói tới đây chính là đường vào cõi lòng. Con đường nội tâm của mọi người. Sửa con đường nội tâm là thay đổi cõi lòng, thay đổi cuộc sống để xứng đáng đón tiếp Chúa Cứu Thế. Sửa đường cho Chúa đến là cần thiết và hợp lý. Khi đón tiếp một vị khách quý, người ta thường sửa sang đường sá, làm sạch đẹp nơi vị khách sẽ đến. Như thế là biểu lộ lòng kính trọng đối với vị khách. Thiên Chúa là vị khách cao trọng nhất. Người hạ mình đến thăm và ở lại cùng sống với thần dân của Người. Đó là hạnh phúc tuyệt vời nên cần phải dọn tâm hồn xứng đáng. Như con đường cho Chúa đi qua. Như căn nhà cho Chúa ngự tới. Chúa đứng ngoài cửa lòng và gõ cửa, ai mở thì Người đi vào. Con đường có thể có chông gai tội lỗi, có nổi đam mê tiền lợi danh, có những tính hư nết xấu. Cho nên trong cõi lòng đó phải có im lặng như cõi lòng Mẹ Maria ghi nhớ, suy niệm và không nói gì. Chỉ nói những lời để giúp đỡ người khác. Và tâm hồn ấy bình an nên nghe rõ tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi. Như thế dọn đường chính là tạo im lặng cho tâm hồn để nghe được tiếng Chúa và chỉ nghe được tiếng Chúa mà thôi.

Dọn đường còn là tỉnh thức đợi chờ Chúa đi xa trở về. Như năm cô khôn ngoan có sẵn dầu đèn. Như những đầy tớ làm lợi những nén vàng cho chủ. Như người lính canh thành luôn chú ý những biến chuyển chung quanh. Mỗi cá nhân, ai cũng có những tật xấu, những khuyết điểm, những vị kỷ kiêu căng tham lam đố kỵ ghen ghét lười biếng hèn nhát… Xã hội nào cũng có bất công, những lạm dụng quyền bính, những hủ tục, những tệ đoan, những điều ấy làm cho con người đau khổ, trì trệ, không phát triển.

Dọn đường căn bản là ở trong nội tâm, sám hối để canh tân, sửa đổi để trở nên tốt lành thánh thiện hơn. Những con đường thường được làm bằng đất đá nhựa bê tông. Những con đường trên mặt đất, trên sông trên biển trên bầu trời là những con đường vật lý. Những con đường tâm lý, con đường tinh thần, con đuờng lòng người mới quan trọng hơn. Nguyễn Bá Học đã nói: đường đi khó không khó vì ngăn sông cách núi mà chỉ vì lòng người ngại núi e sông.

Sống đạo luôn là một thách đố đầy quyết liệt và phong phú. Hiểu đạo, tin đạo, giữ đạo xem ra khá dễ dàng vì thuộc lãnh vực cá nhân. Còn sống đạo thường khó khăn hơn vì liên quan đến tha nhân, đòi hỏi một sự quên mình, vượt thắng bản thân. Cũng như thực hiện việc dọn đường qua nghi thức sám hối bên ngoài như rửa tội, xưng tội khá dễ dàng, nhưng nếu mà trong lòng không thật tâm sám hối đưa đến canh tân bản thân thì hành vi sám hối chỉ là việc làm lấy lệ hình thức mà thôi.

Sống đạo bao giờ cũng đòi hỏi nhiều cố gắng và tỉnh thức. Mùa Vọng, Giáo hội cho chúng ta chiêm ngắm mẫu gương của Gioan. Sống gắn bó với Thiên Chúa và gần gũi với con người. Như thế mỗi người sẽ sống đạo hôm nay với tất cả niềm vui hạnh phúc cho bản thân và cho tha nhân.

Về mục lục

.

SÁM HỐI LÀ CON ĐƯỜNG DẪN TỚI ƠN CỨU ĐỘ

Lm. Đa-minh Trần đình Nhi  

Lắng nghe sứ điệp Lời Chúa  (Is 11:1-10;  Rm 15:4-9;  Mt 3:1-12)

          Nhờ Phụng vụ Lời Chúa tuần I mùa Vọng, chúng ta đã hiểu được ý nghĩa và mục đích của việc Con Thiên Chúa giáng trần:  Người đến thiết lập triều đại cứu độ.  Hôm nay, Lời Chúa mời gọi chúng ta đi trên con đường dẫn vào triều đại ấy:  con đường sám hối.  Trước khi bước vào con đường sám hối mà thánh Gio-an Tẩy Giả đã rao giảng và mời gọi, chúng ta dừng một chút với bài đọc 1 để chiêm ngưỡng hình ảnh triều đại cứu độ được ngôn sứ I-sai-a mô tả.  Tiếp đến là bài đọc 2 với lời thánh Phao-lô kêu gọi chúng ta hướng về nhân vật chính đã thiết lập và điều hành triều đại ấy là Chúa Ki-tô, Đấng cứu độ mọi người, để ta “được đồng tâm nhất trí với nhau” mà tôn vinh Thiên Chúa.  Cuối cùng, chúng ta lắng nghe những đề nghị thực tế thánh Gio-an Tẩy Giả nói với những ai muốn thực hành việc sám hối và đó cũng có thể là những lời khuyên cho ta nữa.

          Vậy ngôn sứ I-sai-a đã nhìn thấy trước triều đại cứu độ sẽ xuất hiện như thế nào?  Đấng thiết lập triều đại ấy giống như “một mầm non” đâm ra “từ gốc tổ Gie-sê”.  Mà Gie-sê là cha của vua Đa-vít, cho nên Đấng cứu độ xuất thân từ dòng dõi vua Đa-vít.  Người sẽ được đầy tràn Thánh Thần của Thiên Chúa là “thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mạnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa”.  Những đức tính này chúng ta đều gặp thấy nơi con người Chúa Giê-su, vì sách Tin Mừng đã mô tả Chúa Giê-su “được Thánh Thần xức dầu tấn phong” để thi hành sứ vụ và Người luôn hành động dưới sự hướng dẫn của Thánh Thần (Lc 4:14, 18-19).  Đặc biệt cách hành xử của Đấng thiết lập triều đại là cách hành xử của lòng Chúa thương xót:  Người không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài hoặc theo sự phê phán của kẻ khác, luôn bênh vực người thấp cổ bé miệng và kẻ nghèo hèn.  Nhưng Người lại thẳng tay trừng trị kẻ gian tà.  Nhờ việc cai trị của Người, triều đại cứu độ sẽ là triều đại đầy ắp bình an của Thiên Chúa.  Bình an ấy được nói lên qua những hình ảnh thật dễ thương:  Nào là cảnh sống chung hòa bình, như sói ở với chiên con, beo với dê nhỏ, bò tơ với sư tử, thêm vào là khung cảnh thực sự gây ấn tượng: “một cậu bé sẽ chăn dắt chúng”!  Rồi lại một hình ảnh không thể tin được, là “bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang”.  Ở đây sự đối nghịch giữa thiện và ác, độc dữ và hiền hòa không phải chỉ nói lên thực tại “sống chung hòa bình”, mà còn quả quyết rằng Đấng cứu độ sẽ thiết lập một triều đại để hoán cải.  Sám hối có sức mạnh thay đổi ác tính của sói, beo và sư tử.  Cũng vậy, bản chất độc hại của rắn rết không còn tác dụng giết hại đối với trẻ thơ nữa.  Tất cả chỉ còn là sự bình an giữa người với người và giữa con người với Thiên Chúa!

          Làm sao chúng ta được thu nhận vào triều đại cứu độ ấy?  Phải đi qua con đường sám hối.  Song song với việc sai Chúa Giê-su đến trần gian, Thiên Chúa còn sai một người đến trước để giúp chúng ta chuẩn bị tiếp nhận Con Một Người, đó là thánh Gio-an Tẩy Giả.  Ngài xuất hiện trước Chúa Giê-su và lời giảng của ngài quy tụ vào chủ đề duy nhất:  “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến”.  Lời kêu gọi đã được hưởng ứng nhiệt tình.  Rất nhiều người đến với ngài, họ thú tội và nhận phép rửa của ngài như một dấu chỉ chứng nhận họ quyết tâm thi hành sứ điệp “Anh em hãy sám hối”.  Mọi người đều phải sám hối, nhưng các sách Tin Mừng chỉ ghi lại vài ba thành phần tiêu biểu trong xã hội đã được thánh Gio-an chỉ dạy phải sám hối cách nào.  Đặc biệt thánh Mát-thêu, ngài “quan tâm” đến nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc!  Tại sao?  Vì độc giả của ngài là người Do-thái, mà nhóm Pha-ri-sêu và Xa-đốc có ảnh hưởng lớn đối với dân tộc họ.  Thật ra nhóm này đến không phải để thực tâm sám hối.  Họ chỉ muốn nhận phép rửa Gio-an như dấu hiệu bề ngoài để “trình diễn” với thiên hạ rằng họ sám hối, nhưng tâm hồn họ thì “vũ như cẫn” (vẫn như cũ).  Thánh Gio-an đã lột mặt nạ giả hình của họ bằng những lời nghiêm khắc, kèm theo lời cảnh báo:  Này, cái rìu đã đặt sát gốc cây rồi đấy!  Liệu sám hối cho mau!  Đấng đến sau tôi và phép rửa của Ngài mới quan trọng.  Phép rửa tôi làm là để kêu gọi các anh sám hối thôi, chứ không tha thứ tội lỗi cho các anh được.  Chỉ có phép rửa của Ngài, phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, mới xóa bỏ tội lỗi cho các anh và mọi người.  Ôi, chỉ Chúa biết có bao nhiêu người Pha-ri-sêu và Xa-đốc sám hối!

Sống sứ điệp Lời Chúa

          Vậy chúng ta, nếu muốn có được một lời khuyên thực tế để sống tinh thần sám hối, ta hãy lắng nghe thánh tông đồ Phao-lô nhắn nhủ.  Trước hết ngài dạy chúng ta cứ tin vào Đấng Cứu Độ là Chúa Giê-su đã được  Kinh Thánh nói đến, để ta được “kiên nhẫn”, được “an ủi” và “vững lòng trông cậy”.  Theo ngài, những ơn vừa kể sẽ giúp chúng ta “đồng tâm nhất trí” mà tôn vinh Thiên Chúa.  Rồi khi chúng ta đã đồng lòng phụng sự Thiên Chúa, thì hệ quả tất nhiên là sẽ yêu thương đón nhận nhau để làm rạng danh Thiên Chúa.  Thực hiện được lý tưởng này có nghĩa là chúng ta đã quay một trăm tám mươi độ, từ bỏ con người tội lỗi, ích kỷ, thù địch với Chúa và anh chị em để trở thành công dân chân chính của Nước Trời.  Không phải trong nháy mắt là chúng ta quay một trăm tám mươi độ đâu, nhưng đòi hỏi thời gian.  Sống sám hối là một diễn trình kéo dài suốt cuộc đời.  Nhưng Chúa Giê-su, Đấng cứu độ đã tới gần và đang đợi chúng ta!

Về mục lục

.

SỐNG MÙA VỌNG BẰNG NIỀM VUI TRONG CHÚA

Lm JB Nguyễn Minh Hùng

Hãy sống mùa Vọng bằng sự vui tươi của niềm hy vọng và nụ cười. Đã bao lâu rồi bạn chưa có những nụ cười thực sự, nụ cười của những người ấp ủ những hoài bão, những định hướng mới trong niềm tín thác, biết đặt trọn lòng tin tưởng vào Chúa?

Hãy lợi dụng tinh thần mùa Vọng, lợi dụng bầu khí thánh thiện của mùa chờ đợi Chúa đến, chờ đợi niềm vui Giáng sinh mà khoác lấy niềm vui trong tinh thần, trong cuộc sống từng ngày của mình.

1. Xác tín niềm vui trong Chúa của người Cựu Ước.

“Đừng buồn bã vì niềm vui của Đức Chúa là thành trì bảo vệ anh em” (Nhm 8, 10). Đó là lời mà tư tế Nehemiah mời gọi toàn dân sau khi kết thúc 70 năm lưu đày bên Babylon và được trở về cư ngụ trên chính quê Cha đất Tổ.

Toàn dân vui mừng họp lại cùng nhau cử hành phụng vụ trên chính quê hương. Từ đây, họ bắt đầu công cuộc tái thiết quê hương trong rạng rỡ của niềm hạnh phúc.

Họ lắng nghe tư tế Ezra công bố Lời Chúa. Họ khóc. Nhưng không khóc vì thân phận lưu đày, mà khóc trong niềm vui sướng, khóc vì lại được sống trên quê hương là đất mà Thiên Chúa ban cho cha ông và dòng dõi của họ.

Vừa trở về từ phương xa, từ đất lưu đày khổ ải, cho nên họ khóc. Họ khóc vì cứ ngỡ mình đang mơ, trong khi đang thực sự hiện diện trong nhà mình, nơi quê hương của mình. Khóc vì cuộc gặp gỡ thân tình gắn bó cùng cội rễ của chính mình.

Nhưng trên hết mọi sự, họ khóc trong sung sướng vì tin rằng, Chúa giải thoát họ. Và nơi Chúa cũng đang tràn đầy niềm vui. Thiên Chúa vui trong niềm vui tuyệt đỉnh của chính Người.

Từ đây họ sống niềm vui của tương lai đời họ, tương lai dân tộc họ là niềm vui trong Chúa. Và niềm vui của Chúa là niềm vui của họ, là “thành trì bảo vệ họ”.

2. Xác tín niềm vui trong Chúa của chúng ta.

Sống những ngày mùa Vọng, Như người Cựu Ước vừa thoát ách lưu đày, chúng ta hãy tận hưởng niềm vui của Chúa bằng cách sống niềm vui trong Chúa.

Sống niềm vui trong Chúa là biết cậy dựa vào Chúa, tín thác đời mình trong tay Chúa, biết để Chúa an bài trong sự khôn ngoan quan phòng của Người.

Hãy xác tín mạnh mẽ như niềm xác tín của dân Chúa xưa, đó là: chỉ có niềm vui của Chúa mà chúng ta tận hưởng mới thực là “thành trì bảo vệ” chúng ta mà thôi.

Vui trong Chúa mới thực là vui, mới chính là niềm vui. Vui trong Chúa mới là niềm vui trọn vẹn. Vui trong Chúa chính là điểm nhấn, là đích đến của niềm vui. Vui trong Chúa là niềm vui bền đổ, mang đến cho người sở hữu nó sức sống vĩnh cửu.

Vui trong Chúa là niềm vui mang lấy sự hãnh diện của đức tin. Tin rằng, Thiên Chúa là gia nghiệp, là lẽ sống, là tình yêu, là nguồn đón nhận bền bỉ không chê chối ai, không bao giờ mai một, không bao giờ suy giảm.

Vui trong Chúa là tin tưởng tuyệt đối, một khi có Chúa, thì không còn gì đáng sợ. Bởi “án lệnh phạt ngươi, Đức Chúa đã rút lại; thù địch của ngươi, Người đã đẩy lùi xa” (Sph 3, 15).

Vui trong Chúa còn là niềm ý thức rằng, trong mọi khó khăn, ta luôn có thể hướng về Chúa, Người không bao giờ từ chối những lời khẩn cầu của ta.

Vui trong Chúa là niềm vui có sức nuôi dưỡng trong ta tràn đầy hy vọng và can đảm, ngay cả khi đối diện khó khăn và đau khổ.

Vui trong Chúa còn là niềm vui xác tín: Không có bất cứ hoàn cảnh nào có thể cướp mất niềm bình an nội tâm mà Thiên Chúa trao ban cho bất cứ ai tin tưởng và yêu mến Người.

Về mục lục

.

NGUYÊN NHÂN BẤT CÔNG

Trầm Thiên Thu

Tín Nghĩa Với Ân Tình Nay Hội Ngộ

Hoà Bình Và Công Lý Đã Giao Duyên

Tv 85:11 đã xác định như vậy. Hòa bình không chỉ là không có bom đạn và máu lửa, mà là không có thù hận, hiềm khích, áp bức, bóc lột, cướp phá,… Muốn có hòa bình thì công lý phải được tôn trọng đúng mức.

Rất có thể có người ngạc nhiên về lời xác định của Thánh GH Phaolô VI: “Chính trị là một trong các hình thức bác ái cao cấp nhất.” Chính trị không là gì xa lạ mà là những gì rất đời thường liên quan công lý.

Vì kiêu ngạo mà sinh ra tội lỗi, vì tội lỗi mà hành xử bất công, vì có bất công nên cần có công lý, ở mọi cấp độ – từ gia đình tới xã hội. Vì thiếu công lý mà người ta nổi loạn, đấu tranh, để đòi lại công lý – cho chính mình và cho người khác. Chính Chúa Giêsu đến thế gian để đòi lại công lý cho chúng ta.

Công lý là gì? Đó là công bằng xã hội, là nghĩa vụ đầu tiên của xã hội, đặc biệt là Thánh Luật của Chúa. Bất công xã hội là phi công lý. Theo La ngữ, chữ “Justitia” nghĩa là Nữ Thần Công Lý (Lady Justice), một nhân vật nữ được cách điệu hóa để trở thành biểu tượng của công lý, pháp luật, được khắc họa và được miêu tả với ba biểu tượng đặc trưng: [1] một tay cầm thanh gươm (biểu tượng về quyền lực cưỡng chế, quyền uy của toà án; [2] một tay cầm chiếc cân để phân định cái thiện và cái ác (biểu tượng cho lẽ phải, sự công bằng, chính trực, nghiêm minh, không thiên vị); [3] mắt bịt chiếc khăn (tượng trưng cho ý tưởng công lý, đối lập với áp lực và sự ảnh hưởng từ bên ngoài).

Thần Công Lý là một trong các biểu tượng tiêu biểu, nhưng Thần Công Lý đến từ đâu và ủng hộ cái gì? Chắc chắn vị thần này bảo vệ công lý và chân lý. Chúa Giêsu đã xác định: “SỰ THẬT sẽ giải phóng quý vị.” (Ga 8:32)

Từ ngàn xưa, Thiên Chúa đã ban luật về công lý: “Ngươi không được phao tin đồn nhảm. Đừng làm chứng gian mà tiếp tay với kẻ xấu. Ngươi không được hùa theo số đông để làm điều trái; trong một vụ kiện, ngươi không được ngả theo số đông mà làm chứng, khiến công lý bị sai lệch. Ngươi không được thiên vị người yếu thế khi họ có việc kiện tụng.” (Xh 23:1-3) Ngài luôn thẳng thắn, nói tận nơi, không vòng vo, vì sợ nên người ta tìm cách né tránh, thích đường vòng, để thừa nước đục thả câu rồi tìm cách “chơi bài chuồn” luôn. Con chó sủa to là con chó nhát, và người ta cũng thế.

Kinh Thánh luôn đề cập rõ ràng vấn đề công lý, cả Cựu Ước và Tân Ước. Tuy nhiên, nhân danh lòng thương xót, công lý cũng phải được thể hiện đối với kẻ thù: “Nếu gặp bò hay lừa của kẻ thù đi lạc, ngươi phải dẫn nó về cho người ấy. Nếu thấy lừa của kẻ ghét ngươi quỵ ngã vì chở nặng, ngươi không được để mặc người ấy; ngươi phải giúp người ấy đỡ lừa dậy.” (Xh 23:4-5) Công lý rất cần thiết và rất quan trọng, phải được tôn trọng tuyệt đối và phải được thể hiện với mọi người, không trừ ai. Thật vậy, Eleanor Roosevelt xác định: “Công lý không phải chỉ dành cho một phía, nó phải dành cho cả hai phía.” Đó là lý lẽ chung, không dành riêng cho ai, và cũng không ngăn cấm ai.

Người ta lạm dụng và áp dụng sai trái nên cố ý làm lệch cán cân công lý. Nhưng từ xưa, sách Đệ Nhị Luật đã nói rõ: “Anh em KHÔNG ĐƯỢC làm sai lệch công lý, KHÔNG ĐƯỢC thiên vị ai và không được nhận quà hối lộ, vì quà hối lộ làm cho những kẻ khôn ngoan hoá ra đui mù và làm hỏng việc của những người công chính.” (Đnl 16:19) Ngày nay người ta còn nói tới “chỉ số công lý”, tức là đề cao sự công tâm và tính hợp lý. Horace Walpole định nghĩa: “Công lý là hành động của sự thật hơn là đạo đức. Sự thật cho chúng ta biết điều gì do người khác, và công lý thực hiện sự thích đáng đó. Sự bất công là hành động của dối trá.” Một cách nhận định và lý luận tuyệt vời!

Thế gian bất an vì thiếu công lý, loài người có nhiều kiểu bất công, vì vậy mà người ta luôn khao khát bình an. Do đó nhân loại không ngừng mong chờ Đấng Thiên Sai – Đức Giêsu Kitô – xuất hiện để đòi lại công lý cho những chính nhân, bởi vì họ bị áp bức, bị đối xử tệ quá nhiều. Không thể tách rời công lý và hòa bình, có cái này thì ắt có cái kia, không có cái kia thì cũng chẳng có cái này. Điều đó như một hệ lụy tất yếu vậy.

Thuở xưa, ngôn sứ Isaia đã xác định: “Từ gốc tổ Gie-sê sẽ đâm ra một nhánh nhỏ, từ cội rễ ấy sẽ mọc lên một mầm non. Thần khí Đức Chúa sẽ ngự trên vị này: thần khí khôn ngoan và minh mẫn, thần khí mưu lược và dũng mãnh, thần khí hiểu biết và kính sợ Đức Chúa.” (Is 11:1-2) Thánh Phaolô cho biết: “Ai được Thần Khí Thiên Chúa hướng dẫn thì đều là con cái Thiên Chúa.” (Rm 8:14) Ai không yêu công lý là người không chuộng chân lý, ai bóp méo sự thật là người không thích hòa bình, ai cố ý né tránh sự thật là kẻ hèn nhát – đối với cả Chúa và tha nhân. Đó là một hệ lụy vừa minh nhiên vừa mặc nhiên, không thể biện hộ bằng bất kỳ lý do nào hoặc bất cứ kiểu lý luận nào. Thiên Chúa là Đấng công chính, (Tv 11:7) là Đấng không ưa thích bạo tàn. (Tv 11:5)

Từ cổ chí kim, thời nào cũng vậy, xã hội luôn có bất công, đủ kiểu và đủ mức, nên luôn cần công lý của Thiên Chúa, vì chính Ngài là công lý: “Lòng kính sợ Đức Chúa làm cho Người hứng thú, Người sẽ không xét xử theo dáng vẻ bên ngoài, cũng không phán quyết theo lời kẻ khác nói, nhưng xét xử công minh cho người thấp cổ bé miệng, và phán quyết vô tư bênh kẻ nghèo trong xứ sở. Lời Người nói là cây roi đánh vào xứ sở, hơi miệng thở ra giết chết kẻ gian tà.” (Is 11:3-4) Còn có bất công vì con người bất chính, thế nên cứ lẩn quẩn trong cái “tam giác” Tham-Sân-Si của kiếp phàm nhân.

Thật thú vị với cách giải thích của ngôn sứ Isaia: “Đai thắt ngang lưng là đức công chính, giải buộc bên sườn là đức tín thành. Bấy giờ sói sẽ ở với chiên con, beo nằm bên dê nhỏ. Bò tơ và sư tử non được nuôi chung với nhau, một cậu bé sẽ chăn dắt chúng. Bò cái kết thân cùng gấu cái, con của chúng nằm chung một chỗ, sư tử cũng ăn rơm như bò.” (Is 11:5-7) Có công lý thì có hòa bình, đó là thời đại mà Đức Kitô xuất hiện. Ngài chưa xuất hiện nên loài người ngày đêm mong đợi Ngài đến giải thoát, cứu độ.

Trong thời đại đó, mọi thứ trở nên dễ dàng, tuyệt vời, ngỡ là điều không tưởng, nhưng lại là sự thật minh nhiên: “Bé thơ còn đang bú giỡn chơi bên hang rắn lục, trẻ thơ vừa cai sữa thọc tay vào ổ rắn hổ mang. Sẽ không còn ai tác hại và tàn phá trên khắp núi thánh của Ta, vì sự hiểu biết Đức Chúa sẽ tràn ngập đất này, cũng như nước lấp đầy lòng biển. Đến ngày đó, cội rễ Gie-sê sẽ đứng lên làm cờ hiệu cho các dân. Các dân tộc sẽ tìm kiếm Người, và nơi Người ngự sẽ rực rỡ vinh quang.” (Is 11:8-10) Nhân loại biết mình không làm được gì nên hằng khao khát Đức Kitô như đất hạn chờ mưa. Trong xã hội loài người, có những người lấy danh nghĩa là công lý nhưng thực ra lại chỉ mạo danh để trục lợi cho mình mà làm khổ người khác. Công lý của họ là “đầu môi, chót lưỡi,” hành động của họ lại trái ngược. Tất nhiên điều đó không hợp với Thiên Chúa.

Như một lời cảnh báo với câu nói của người Pháp: “Đừng vì kính mến Chúa mà chống đối người khác.” Câu nói giản dị mà thâm thúy, đơn giản mà sâu sắc. Rất hay và chí lý biết bao!

Thánh Vịnh gia đã sử dụng lời của vua Salômôn: “Tâu Thượng Đế, xin ban quyền bính Ngài cho vị Tân Vương, trao công lý Ngài vào tay Thái Tử, để Tân Vương xét xử dân Ngài theo công lý, và bênh vực quyền lợi kẻ nghèo hèn.” (Tv 72:1-2) Quả thật, công lý luôn “gắn liền” với đám dân đen, những người vừa nghèo vừa hèn, vừa thấp cổ vừa bé miệng, vừa khốn khổ vừa bị nhục, không có ăn mà còn bị bóc lột tận xương tủy. Khốn thay những kẻ lạm dụng quyền bính mà hành hạ người khác, trong khi đáng lẽ phải dùng quyền mà phục vụ. Thế nhưng họ lại làm sai ý muốn của Thiên Chúa.

Thật tồi tệ đối với những người có quyền hành và chức tước chỉ lo vinh thân phì da chứ chẳng làm lợi gì cho dân, thế mà vẫn “mồm loa mép dải”, thế nên mới có vụ “cóc kiện trời”. Xã hội ngày nay cũng vẫn có những người “liều mình” như Cóc ngày xưa, nghèo và khổ nhưng vẫn kiên trì đòi cho được công lý. Tuy nhiên,, ai cũng biết rằng “quan nhất thời, dân vạn đại,” đáng lẽ biết vậy để sống sao cho dân thương, đàng này họ lại hiểu theo ý riêng họ, thế nên họ “tận dụng” thời gian làm quan mà “vơ vét” lợi lộc để hưởng riêng. Thật hèn nhát với lũ “đỉa người” như vậy! Người ta không thể không mơ ước thời vua Nghiêu, vua Thuấn. (Ba ông vua Thuấn, Nghiêu và Vũ được Khổng giáo coi là các vua kiểu mẫu, nêu gương đạo đức, thời Tam Hoàng Ngũ Đế, năm 2852-2205 trước công nguyên, nhân dân an cư lạc nghiệp.)

Xã hội nhân loại quá lộn xộn, Thiên Chúa biết rõ đám người “bụng to” (cả đời và đạo) làm ăn ra sao nên Ngài mới sai Con Một Ngài tới trần gian. Con Một Thiên Chúa chính là Đức Kitô, là Hoàng Tử Bình An, là Vua Công Lý. Khi Con Ngài tới cai trị thì đám dân đen mới có thể ngóc đầu lên được. Thánh Vịnh gia cho biết: “Triều đại Người đua nở hoa công lý và thái bình thịnh trị tới ngày nao tuế nguyệt chẳng còn. Người làm bá chủ từ biển này qua biển nọ, từ Sông Cả đến tận cùng cõi đất.” (Tv 72:7-8) Thật tuyệt vời! Và vì thế mà nhân loại luôn khao khát Đấng Công Bình – Đấng Thiên Sai của Thiên Chúa.

Thật vậy, công lý của Thiên Chúa luôn được thực hiện đúng mức: “Người giải thoát bần dân kêu khổ và kẻ khốn cùng không chỗ tựa nương, chạnh lòng thương ai bé nhỏ khó nghèo. Mạng sống dân nghèo, Người ra tay tế độ, giải thoát cho khỏi áp bức bạo tàn.” (Tv 72:12-14) Đức Kitô chính là Vua Hòa Bình, vì thế danh Ngài sẽ lưu trong sử sách và trong trí nhớ của mọi người ở mọi thời: “Danh thơm Người sẽ trường tồn vạn kỷ, nức tiếng gần xa dưới ánh mặt trời. Ước gì mọi sắc tộc trần gian, nhờ Người được chúc lành, và muôn dân thiên hạ ngợi khen Người có phúc.” (Tv 72:17) Đó là điều tất yếu – ắt có và đủ.

Như một cách giải thích, Thánh Phaolô nói: “Mọi lời xưa đã chép trong Kinh Thánh đều được chép để dạy dỗ chúng ta. Những lời ấy làm cho chúng ta nên kiên nhẫn, và an ủi chúng ta, để nhờ đó chúng ta vững lòng trông cậy.” (Rm 15:4) Và thánh nhân chân thành cầu chúc: “Xin Thiên Chúa là nguồn kiên nhẫn và an ủi, làm cho anh em được đồng tâm nhất trí với nhau, như Đức Kitô Giêsu đòi hỏi. Nhờ đó, anh em sẽ có thể hiệp ý đồng thanh mà tôn vinh Thiên Chúa, là Thân Phụ Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Vậy, anh em hãy đón nhận nhau, như Đức Kitô đã đón nhận anh em, để làm rạng danh Thiên Chúa.” (Rm 15:5-7) Lời cầu chúc này đồng nghĩa với lời khuyên nhủ, mệnh lệnh hoặc cảnh báo. Và đó cũng là “phong cách sống” mà ai cũng phải thực hiện, nhất là trong Mùa Vọng – thời gian tín nhân chúng ta chờ đợi Đấng Cứu Thế đến thực hiện công lý cho mỗi tội nhân chúng ta.

Thánh Phaolô quả quyết: “Đức Kitô có đến phục vụ những người được cắt bì, để thực hiện những gì Thiên Chúa đã hứa với tổ tiên họ, đó là do lòng trung thành của Thiên Chúa. Còn các dân ngoại có được tôn vinh Thiên Chúa, thì đó là do lòng thương xót của Người, như có lời chép: Vì thế giữa muôn dân con cất lời cảm tạ, dâng điệu hát cung đàn ca mừng danh thánh Chúa.” (Rm 15:8-9) Thánh nhân cũng nói đến lòng thương xót của Chúa, vì lòng thương xót này đã có từ ngàn xưa, trải qua đời nọ đến đời kia, chứ chẳng riêng gì là lòng sùng kính Thánh Tâm hoặc lòng sùng kính Lòng Chúa Thương Xót. Hai cách gọi lòng sùng kính nhưng vẫn chỉ là một, phát xuất từ Tình Yêu của Thiên Chúa. Sống tinh thần Mùa Vọng cũng là sống lòng thương xót của Chúa, và Lòng Chúa Thương Xót cũng chính là công lý.

Chắc chắn ai cũng phải sống lòng thương xót, và mọi người đều phải thể hiện công lý. Tuy nhiên, những người mệnh danh là những người truyền bá Lòng Chúa Thương Xót, là hội viên của cộng đoàn Lòng Chúa Thương Xót, là hội viên của hội này hay đoàn nọ thì phải chứng tỏ rõ nét hơn. Nếu vẫn cứ kèn cựa và phe cánh thì đó là trái ngược với Thiên Chúa – ngôn hành không song song. Như thế thì thật nguy hiểm, nghĩa là đi ngược với tinh thần Mùa Vọng: Chưa thực sự sám hối, chưa sửa đường-lòng-mình cho thẳng, mà cái gì chưa “thẳng” thì không thể là công lý, tức là giả hình, loại người mà Chúa Giêsu đã nhiều lần nguyền rủa là “nòi rắn độc” hoặc “mồ mả tô vôi” mà thôi.

Theo lời kể của Thánh sử Mát-thêu, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giu-đê rằng: “Anh em hãy sám hối, vì Nước Trời đã đến gần.” (Mt 3:2) Ông chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi. Ông chỉ là “tiếng kêu trong hoang địa” nên chẳng ai thèm nghe, có nghe thì “tai này qua tai kia” mà thôi. Ông cũng bị người ta ghét vì ông là người dám nói thẳng nói thật, nói “chạm tự ái” bất kỳ ai, đồng thời luôn thể hiện công lý, vì ông yêu chuộng hòa bình và chân lý của Đức Giêsu Kitô.

Là người sống nội tâm và rất giản dị, dạng rất “bụi đời”, ông Gioan thể hiện ra cả bề ngoài: mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn. Thế thì đúng là “dân bụi đời” thứ thiệt. Như vậy mới là “ngon” vì dám sống “khác người.” Ở đời dễ có mấy ai, thế nhưng loại “hàng hiếm” mới quý giá.

Nhưng rất lạ, bởi vì vẫn có người thích tìm hiểu “sự lạ” về Ông-Bụi-Đời ấy. Chứng cớ là người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giu-đê, cùng khắp vùng ven sông Gio-đan, kéo đến với ông. Có thể mới đầu họ chưa thực tâm mà chỉ vì tò mò và hiếu kỳ, nhưng rồi sẽ khác, mưa dầm thấm sâu.

Đúng là lạ thật, người ta quyết tâm thú tội và xin ông làm phép rửa cho họ trong sông Gio-đan. Lạ hơn nữa là còn có nhiều người thuộc phái Pha-ri-sêu và phái Xa-đốc đến chịu phép rửa. Thấy vậy, ông biết lòng họ thế nào nên nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” (Mt 3:7) Chúa Giêsu luôn thẳng thắn, nhiều lần dùng cụm từ “nòi rắn độc” để nguyền rủa những kẻ ưa thói giả hình, thính khoe hình thức.

Và rồi Ông-Bụi-Đời nói một lèo với đám người giả hình: “Các anh hãy sinh hoa quả để chứng tỏ lòng sám hối. Đừng tưởng có thể bảo mình rằng: ‘Chúng ta đã có tổ phụ Áp-ra-ham’. Vì, tôi nói cho các anh hay, Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Áp-ra-ham. Cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa. Tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh sám hối. Còn Đấng đến sau tôi thì quyền thế hơn tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.” (Mt 3:8-12) Nghe mà thấy “đầy lỗ tai” quá!

Chắc hẳn những ai thành tâm thiện chí thì sẽ cảm thấy “rát tai” với những lời thẳng thắn của Ông-Bụi-Đời. Nếu nghe và thấy “giật mình” thì thật là phúc, bởi vì có cảm thấy như vậy mới chân thành sám hối và cố gắng chấn chỉnh lối sống.

Lạy Thiên Chúa nhân lành, xin giúp chúng con luôn biết sống tích cực khi trông mong Đấng Thiên Sai – đặc biệt là sẵn sàng chờ đợi Con Chúa đến thế gian lần thứ hai, xin soi sáng để chúng con biết yêu mến chân lý, quyết tâm bảo vệ công lý, sống công bình, và triệt tiêu mọi bất công. Chúng con cầu xin nhân danh Đức Giêsu Kitô, Đấng Cứu Độ duy nhất của nhân loại. Amen.

Về mục lục

.

ANH EM HÃY HỐI CẢI

Lm. JB. Hoàng Văn Khanh

Suốt tuần I Mùa Vọng đã vang lên lời loan báo đầy hứa hẹn của ngôn sứ Isaia về một Đấng Thiên sai cứu độ thuộc vương triều Đavít, mang tên gọi Emmanuel (Is 7,14), sẽ xuất hiện như vị Thủ lãnh để giải cứu dân Chúa khỏi vùng bóng tối (Is 9,1-5) và phục hưng dân Chúa trong trật tự công lý và hoà bình (Is 11,1-9); bấy giờ toàn nhân loại sẽ hành hương về Giêrusalem để phụng thờ Giavê (Is 2,2-5). Vào những lúc bi thảm của lịch sử, những sấm ngôn ấy đã nung nấu nơi tâm hồn con người niềm hy vọng tha thiết: “Trời cao hãy đổ sương mai và ngàn mây hãy mưa vị Cứu tinh”. Chúa nhật II Mùa Vọng hôm nay nói cho ta vị Cứu tinh mà nhân loại ngàn năm chờ mong ấy đang đến qua sự dọn đường của Gioan Tẩy giả, vị ngôn sứ cuối cùng của thời chuẩn bị, đồng thời là vị Tiền hô loan báo và chỉ cho thấy khi Đấng Cứu thế xuất hiện.

  1. Gioan Tẩy giả là vị Tiền hô

Gioan Tiền hô, cũng gọi là Tẩy giả, xuất hiện trên sân khấu cứu độ cách đặc biệt. Đặc biệt vì ông được cưu mang và sinh hạ cách lạ thường khi cha mẹ là Giacaria và Elisabeth đã hết thời sinh nở (Lc 1,7). Điều đó nói lên tình yêu vô cùng của Thiên Chúa đúng với tên mà thiên thần đã đặt cho ông ngày truyền tin: Gioan nghĩa là “Thiên Chúa thương”. Đặc biệt vì ông đã được thánh hoá từ trong lòng thân mẫu nhờ cuộc viếng thăm của Đức Maria đang cưu mang Ngôi Lời (Lc 1,15.44). Ngày ông sinh ra, phụ thân hết câm và mở miệng tiên báo về sứ mệnh cao cả và định mạng của con mình (Lc 1,64.67), đến nỗi mọi người đều sửng sốt và tự hỏi: “Rồi đây con trẻ này sẽ thế nào?” (Lc 1,66). Ông rút vào hoang địa tĩnh lặng, sống đời khổ chế, ăn châu chấu và uống mật ong rừng (Mt 3,1-4), để trầm tư mặc tưởng về sứ vụ sắp thi hành. Ông xuất hiện bên bờ sông Giođan, rao giảng và làm phép rửa sám hối chuẩn bị cho phép Rửa của Chúa Giêsu bằng Thánh Thần để ban ơn tha tội (Mt 3,11) Ông khiêm tốn nhận mình chỉ là tiếng kêu trong hoang địa (Mt 3,3), là người tôi tớ không xứng đáng cởi quai dép cho Đấng sắp đến, Đấng có trọn quyền phán xét (Mt 3,11), là tiền hô dọn đường cho Đấng Thiên sai cứu độ đang đến là chính Chúa Giêsu (Ga 1,15). Ông đã làm chứng Chúa Giêsu chính là Đấng Thiên Chúa tuyển chọn (Ga 1,34) và chỉ cho mọi người biết Ngài là Chiên Thiên Chúa (Ga 1,35). Thế mà khi ngồi trong tù vì đã thẳng thắn vạch tội nhà vua, ông đã băn khoăn sai các môn đồ đến hỏi Chúa Giêsu là đấng phải đến hay còn phải đợi một ai khác (Lc 7,18). Cái chết của ông vì chân lý cũng loan báo trước cái chết vô tội của Đấng mà ông có sứ vụ dọn đường. Cả cuộc đời của Gioan là một chuẩn bị và dọn đường cho Đấng Thiên sai Giêsu xuất hiện để cứu độ.

Giáo hội tiếp tục bước đi trên con đường của Gioan để thực thi sứ vụ truyền giáo mà Giáo hội xác tín là lý do hiện hữu của mình: “Giáo hội lữ hành, tự bản chất, là truyền giáo”(AG 2). Kitô hữu luôn noi theo gương Gioan để sống ơn gọi của mình là làm chứng nhân cho Đức Kitô, giới thiệu Ngài cho mọi người và dọn đường để Ngài đến với mọi tâm hồn.

  1. Hãy sám hối

Lời rao giảng của Gioan gồm tóm trong câu:Hãy sám hối. Các ngôn sứ thời Cựu ước luôn mời gọi mọi người hãy trở về với Thiên Chúa để được tha thứ. Khi bắt đầu sứ vụ, Chúa Giêsu cũng tha thiết mời gọi hãy sám hối (Mc 1,15). Ngài truyền cho các Tông đồ hãy đi rao giảng để mọi người sám hối mà nhận lãnh ơn tha tội (Lc 24,47).

Hoán cải là sự thay đổi tận căn và toàn diện: từ não trạng, tư tưởng đến bản thân, hành động và cuộc sống. Cuộc trở lại nào cũng đòi phải chiến đấu cam go, cho đến lúc được Chúa chiếm hữu qua những thanh luyện. Chướng ngại lớn nhất của hoán cải là tính kiêu căng, sự tự mãn cho mình là công chính không cần ơn cứu độ, là mãi mê với sự đời và hưởng thụ vật chất. Gioan đã tuyên bố cách đanh thép: “Hãy làm việc lành chứng tỏ lòng sám hối. Lưỡi rìu đã kề sẵn gốc cây. Cây nào không sinh quả tốt, sẽ bị chặt đi và quăng vào lửa” (Mt 3,7-10). Ông Giakêu đã thật sự hoán cải khi sẵn sàng đền bù gấp bốn cho những ai bị ông làm thiệt hại, bố thí phân nữa tài sản cho kẻ nghèo và từ bỏ tất cả để theo Chúa Giêsu (Lc 19,8). Hoán cải theo sấm ngôn Isaia là lấp đầy những hố sâu của lòng ích kỷ, tham vọng và hưởng thụ, là bạt đi những đồi cao của kiêu căng tự mãn, là uốn cho ngay những quanh co lươn lẹo trong tư tưởng và hành động dối trá, để có thể đón nhận Đấng Cứu thế và sống tình liên đới huynh đệ với mọi người.

Kết luận

Hãy hoán cải. Hãy thành tâm trở về với Chúa, nổ lực tìm kiếm Người, nhiệt thành đáp ứng lời mời gọi sám hối bằng việc thực thi đức bác ái là giềng mối trọn lành (Cl 3,14) và là sự chu toàn mọi lề luật (Rm 13,10). Đó là điều kiện tiên quyết để dọn đường Chúa đến trong tâm hồn và đời sống của mình và của mọi người.

Về mục lục

.

NƯỚC THIÊN CHÚA ĐÃ ĐÊN GẦN

Lm. Giuse Nguyễn Thể Hiện

Bài Tin Mừng hôm nay (Mt 3,1-12) bắt đầu bằng sự kiện ông Gioan “đến”. “Hồi ấy, ông Gioan Tẩy Giả đến rao giảng trong hoang địa miền Giuđê” (c.1). Tác giả Tin Mừng không cung cấp các thông tin chính xác về thời điểm ông Gioan xuất hiện, nhưng cẩn thận cung cấp thông tin về nơi chốn: “trong hoang địa miền Giuđê”. Đây không chỉ là một ghi chú địa dư, mà chính yếu là một ghi nhận thần học. Quả thực, trong truyền thống Thánh Kinh, “hoang địa” là nơi chốn lý tưởng của những cuộc gặp gỡ với Thiên Chúa, và chính trong hoang địa, Thiên Chúa đã nói lời của Ngài với ông Môsê, với ông Êlia và với Israel (Xh 3; 1V19; Xh 19).

Vậy, trong nơi chốn đặc biệt như thế, ông Gioan rao giảng. Động từ “rao giảng” là một thuật ngữ của Tân Ước để chỉ việc công bố Tin Mừng. Chủ từ của động từ này là ông Gioan (3,1), Chúa Giêsu (4,17) và các tông đồ (10,7). Nội dung lời rao giảng của ông Gioan là: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” (c.2). “Nước Trời đã đến gần” là thông tin được công bố, và điều kiện để có thể “đi vào” Nước đó chính là sự hoán cải đời sống (metanoia). “Nước Trời” là một kiểu nói sêmít để tránh đọc tên Thiên Chúa, vì thế, có ý nghĩa như kiểu nói “Nước Thiên Chúa” trong các Tin Mừng khác. Để gia nhập Nước Trời, người ta phải hoán cải (metanoeô), tức là thực hiện một sự thay đổi con người mình, từ nội tâm bên trong đến thái độ bên ngoài, hoàn toàn quy hướng về Thiên Chúa. Sự hoán cải đời sống hay cuộc metanoia đó có nền tảng trong lời giảng dạy ngôn sứ, như được trình bày trong Is 1,16-17: “Hãy rửa cho sạch, tẩy cho hết, và vứt bỏ tội ác của các ngươi cho khỏi chướng mắt Ta. Đừng làm điều ác nữa. Hãy tập làm điều thiện, tìm kiếm lẽ công bình, sửa phạt người áp bức, xử công minh cho cô nhi, biện hộ cho quả phụ”.

Trong niềm trông chờ Nước Thiên Chúa, vốn rất mãnh liệt suốt lịch sử Israel, dân chúng nói chung nghĩ rằng Nước ấy sẽ được thực hiện nhờ Đấng Mêsia, vị Vua thuộc dòng dõi Đavít, Đấng sẽ chiến thắng muôn dân và đem lại vinh quang vĩ đại cho Israel. Tuy nhiên, khi rao giảng về sự hoán cải đời sống như là một điều kiện để được gia nhập Nước Thiên Chúa, ông Gioan đã cho thấy rằng Nước Thiên Chúa không chỉ là kết quả can thiệp của Thiên Chúa, mà còn đòi hỏi sự cộng tác của con người.

Tác giả Mt quy chiếu lời rao giảng của ông Gioan về một bản văn ngôn sứ Isaia. Ông viết: “Ông [Gioan] chính là người đã được ngôn sứ Isaia nói tới: Có tiếng người hô trong hoang địa: Hãy dọn sẵn con đường cho Đức Chúa, sửa lối cho thẳng để Người đi” (c.3). Đây là lời trích từ Is 40,3tt theo bản LXX, khác biệt một chút với bản văn Hípri. Bản văn Hípri viết: “Có tiếng người hô: ‘Trong hoang địa hãy dọn sẵn một con đường cho Đức YHWH; trong hoang giao, hãy san bằng một lối đi cho Thiên Chúa chúng ta”. Lời ngôn sứ này nói đến cuộc giải thoát và hồi hương từ chốn lưu đày của dân Do Thái. Tác giả Tin Mừng áp dụng lời này vào sự kiện ông Gioan rao giảng và công cuộc Đức Giêsu sắp khởi sự. Ngoài ra, cả bản Hípri lẫn bản LXX đều không xác định ai là người cất tiếng hô, nhưng Mt gán vai trò đó cho ông Gioan, và thay thế hạn từ “Thiên Chúa” trong bản văn Is bằng đại từ “Người” để áp dụng cho Chúa Giêsu. Kiểu nói “hô trong hoang địa” không có nghĩa là tiếng hô vô vọng trong nơi hoang vắng không người, mà là tiếng hô từ hoang địa, nhưng vọng vang ra bên ngoài hoang địa, vang đến tận Giêrusalem và khắp miền Giuđê (c.5).

Thần học của các rabbi Do Thái, dựa trên Ml 3,23 (“Này Ta sai ngôn sứ Êlia đến với các ngươi, trước khi Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”), đã khai triển sâu rộng một quan điểm, theo đó, ngôn sứ Êlia sẽ đến như người tiền hô của Đấng Mêsia, để thanh luyện Israel và chuẩn bị cho dân đi vào Vương quốc Mêsia. Chính với hậu cảnh thần học đó mà ông Gioan được miêu tả trong hình dung của chính ngôn sứ Êlia: “Ông Gioan mặc áo lông lạc đà, thắt lưng bằng dây da, lấy châu chấu và mật ong rừng làm thức ăn” (c.4). Quả thực, hình ảnh ông Gioan mặc áo dệt bằng lông lạc đà và nhất là thắt lưng bằng dây da, khiến người đọc nhớ đến ngôn sứ Êlia (x. 2V 1,8; chú ý: chỉ Êlia và Gioan mới được Kinh Thánh mô tả là thắt lưng bằng dây da). Có thể nói, trong ý hướng của mình, tác giả Mt có ý khẳng định ông Gioan chính là ngôn sứ Êlia. Mà nếu như thế, thì có nghĩa là biến cố sắp xảy đến chính là “Ngày của ĐỨC CHÚA đến, ngày trọng đại và kinh hoàng”, vì nhiệm vụ của ngôn sứ Êlia quy chiếu về chính Thiên Chúa, và ông không chuẩn bị cho biến cố “đến” của bất cứ ai khác.

Đáp lại lời rao giảng của ông Gioan là một sự kiện đặc biệt.“Bấy giờ, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđê, cùng khắp vùng ven sông Giođan, kéo đến với ông Gioan” (c.5). Rõ ràng đám đông kéo đến bao gồm hai “cánh” khác nhau: một bên là những người đến từ trung tâm quyền lực tôn giáo – chính trị (Giêrusalem) và bên kia là từ khắp vùng xung quanh “hoang địa miền Giuđê”. Đám đông dân chúng, như vậy, đã tỏ rõ thái độ không hài lòng đối với các thiết chế tôn giáo – chính trị đương thời và đối với những nhà lãnh đạo thuộc về các thiết chế đó.

Đám đông đó kéo đến với ông Gioan, đoạn “họ thú tội, và ông làm phép rửa cho họ trong sông Giođan” (c.6). Đương thời, người Do Thái rất quen với những nghi thức thanh đẩy theo luật lệ và thói tục. Nhưng phép rửa của ông Gioan ở đây có những yếu tố khác thường. Thay vì cử hành nghi thức thanh tẩy cho chính mình tại một nơi do Luật ấn định và nước phải được giữ sạch theo quy định, ông Gioan lại làm phép rửa cho những người khác và là trong dòng nước sông Giođan. Đàng khác, phép rửa này được ban với dấu chỉ của một sự hoán cải luân lý, và có ý nghĩa đánh dấu sự thay đổi đã hoặc sắp xảy đến nơi người lãnh nhận.

Trong số những người kéo đến với ông Gioan, có nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc. Những người Pharisêu thường tự hào về sự trung thành của họ đối với Luật được giải thích theo các truyền thống rabbi. Họ có ảnh hưởng trên dân chúng và đại diện cho một thứ quyền bính thiêng liêng. Những người Xađốc thì thuộc về tầng lớp lãnh đạo, gồm phần đông là những nhà quý tộc hoặc giới tăng lữ quý tộc giàu có. Họ là những đại diện cho quyền lực kinh tế, chính trị và tôn giáo. Họ kéo đến với ông Gioan để chịu phép rửa, nhưng lại không ý thức đầy đủ về tình trạng bất chính của mình, trái lại, hình như còn có thể làm cho dân chúng tưởng rằng những hệ thống áp bức bất chính đó không đối nghịch với hình ảnh ngôn sứ của ông Gioan và biến cố mà ông công bố rằng sắp xảy đến.

Vậy, “thấy nhiều người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc đến chịu phép rửa, ông nói với họ rằng: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ sắp giáng xuống? Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng hối cải” (cc.7-8). Ông Gioan không chấp nhận họ, trái lại, còn thẳng thắn và gay gắt khiển trách họ. Ông gọi họ là “nòi rắn độc”, tức là ông xác định bản chất gian ác của quyền bính chính trị – tôn giáo mà họ có trong tương quan với dân chúng. Sau này, chính Đức Giêsu cũng nặng lời như thế đối với những người Pharisêu và các kinh sư (12,32; 23,33). Ông khẳng định rằng điều họ cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”.

Rồi ông Gioan tiếp tục nói với họ: “Đừng tưởng có thể tự nhủ rằng: “Chúng ta có tổ phụ là ông Abraham.” Quả thật, tôi bảo các anh: Thiên Chúa có thể làm cho những hòn đá này trở nên con cháu ông Abraham” (c.9). Họ tưởng rằng để được cứ, chỉ cần là con cháu ông Abraham là đủ. Ông Gioan cho họ biết rằng không phải dòng dõi mà chính hành động của người ta mới là yếu tố quan trọng. Ông chơi chữ khi cho biết có là con cháu (benayyâ’) của ông Abraham hay chỉ là những hòn đá (abenyyâ’) thì cũng chẳng khác gì. Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10).

Như thế, không phải sự tinh tuyền về di truyền (là người Do Thái chính hiệu), không phải sự thực hiện các nghi lễ phụng tự tại đền thờ (phái Xađốc), cũng chẳng phải sự trung thành giữ những quy định chi li của Luật (phái Pharisêu), mà chính thái độ sống với những người khác trong thực tế, mới là yếu tố làm cho người ta không “bị chặt đi và quăng vào lửa”.

Cuối cùng, ông Gioan so sánh mình với Đấng sắp đến. Ông nói: “Phần tôi, tôi làm phép rửa cho các anh trong nước để giục lòng các anh hối cải. Còn Đấng đang đến sau tôi thì quyền thế hơn (ischyroteros) tôi, tôi không đáng xách dép cho Người. Người sẽ làm phép rửa cho các anh trong Thánh Thần và lửa. Tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi” (cc.11-12). Ông Gioan tự nhận mình không đáng xách dép cho Đấng đang đến, tức là không đáng làm một công việc bình thường mà người đầy tớ vẫn làm cho chủ mình. Đồng thời, ông cũng cho thấy Đấng đang đến có ba đặc điểm quan trọng: (1) có “quyền thế”, (2) “làm phép rửa trong Thánh Thần và lửa”, và (3) là thẩm phán cánh chung rất nghiêm khắc “sẽ rê sạch lúa trong sân”.

Việc gắn tính từ “thánh” vào hạn từ “Thần Khí”, trước hết, có nghĩa là phép rửa trong Thần Khí mà Đấng đang đến sẽ thực hiện chính là thực tại thuộc về cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Thứ hai, điều đó có nghĩa là hoạt động của Đấng đang đến sẽ là hoạt động thánh hóa, tức là đưa con người vào cảnh vực thần linh của Thiên Chúa. Sự thông ban sự sống thần linh từ bên trong sẽ biến đổi con người, làm cho con người gắn kết với Thiên Chúa và trung thành với Người (Ed 36,26t).

Gợi ý suy niệm và chia sẻ:

Đọc bài Tin Mừng hôm nay trong khung cảnh Mùa Vọng, chúng ta có thể suy niệm về ba điểm quan trọng:

  1. Đấng đang đến chính là Đức Chúa.

Một trong những điểm nhấn quan trọng của bài Tin Mừng hôm nay là việc giới thiệu Đấng đang đến trong dung mạo Đức Chúa. Sứ điệp của ông Gioan (“Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần”: c.2) liên quan đến chính Đức Chúa. Việc giới thiệu ông Gioan là ngôn sứ Êlia cho thấy Đấng sắp đến sau ông sẽ chính là Đức Chúa, vì ngôn sứ Êlia có nhiệm vụ chuẩn bị cho Đức Chúa ngự đến chứ không phải chuẩn bị cho một ngôn sứ khác xuất hiện. Bằng việc cử hành phép rửa, ông Gioan nhấn mạnh sự cần thiết phải thanh luyện để đến gần Đức Chúa đang đến. Khi so sánh mình với Đấng đang đến, ông Gioan nhấn mạnh quyền thế hơn hẳn của Đấng ấy, và nhất là ông khẳng định rằng Thánh Thần (vốn là sự sống và sức mạnh của chính Thiên Chúa) sẽ hiện diện với Đấng đang đến; Đấng ấy sẽ hành động trong quyền năng của Đức Chúa và sẽ ban cho người ta sự sống của Thiên Chúa. Với Đấng ấy, chính Thiên Chúa đến để ban sự sống và đồng thời để phán xét.

Đó chính là Đấng mà chúng ta đang đợi chờ trong suốt Mùa Vọng này. Mùa Vọng không phải là sự chuẩn bị và chờ đợi một lễ hội lớn lao, hoành tráng và vui tươi sẽ được cửa hành vào cuối tháng 12! Mùa Vọng là thời gian đón chờ chính Đức Chúa, Đấng đang đến.

  1. Hoán cải là đòi hỏi khẩn thiết.

Nội dung căn bản trong lời rao giảng của ông Gioan là: “Anh em hãy hối cải, vì Nước Trời đã đến gần” (c.2). Hơn nữa, “cái rìu đã đặt sát gốc cây: bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa” (c.10). Đấng đang đến là Thẩm Phán cánh chung, “tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân: thóc mẩy thì sẽ thu vào kho lẫm, còn thóc lép thì bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi”” (c.12).

  1. Những nghi thức và hoạt động bề ngoài không phải là điều chính yếu trong khi chuẩn bị đón Chúa đến.

Những người thuộc phái Pharisêu và phái Xađốc muốn tránh cơn thịnh nộ sắp giáng xuống bằng cách đặt mình vào một nghi thức bề ngoài nhưng không thực hiện đòi hỏi nghiêm túc là phải hoán cải đời sống, tức là không thay đổi hệ thống bất chính đang kềm tỏa mình. Theo ông Gioan, những nghi thức bề ngoài không đủ để người ta được bước vào Nước Thiên Chúa; cần phải thay đổi đời sống thật sự.

Đó cũng có thể là vấn đề của chúng ta trong Mùa Vọng này. Tất nhiên những hành động bề ngoài là cần thiết: trong bài Tin Mừng hôm nay, việc hoán cải được thể hiện qua việc để cho mình được dìm trong một phép rửa tỏ lòng sám hối, tức là qua một hành động bề ngoài. Nhưng chỉ những hoạt động bề ngoài thấy được thôi, thì chưa đủ. Điều chính yếu cần phải làm là “sinh hoa quả xứng với lòng hối cải”. Đó chính là điều quan trọng nhất trong Mùa Vọng này.

Về mục lục

.

HÃY SÁM HỐI ĂN NĂN

Lm. Phêrô Trần Minh Đức

Thế giới đang chuẩn bị một trang sử mới. Mọi công sở đều lo tính sổ sách. Nhiều người đưa ra những dự đoán cho năm mới. Báo chí, truyền hình làm thống kê, thường đề cập tới những chuyện không may trong thời gian qua: nơi này phong ba bão tố; nơi kia hạn hán mất mùa, chiến tranh. Ngoài những tai nạn xe cộ, còn có tai nạn máy bay, thậm chí còn đụng nhau trên bầu trời bao la nữa! Sắp tận thế chăng? Khắp nơi đều cho thấy những dấu hiệu bất ổn về mọi phương diện, nhất là về an ninh và kinh tế. Nhưng nhiệm vụ của chúng ta không phải là ngồi cắt nghĩa điềm thiêng dấu lạ, mà là giữa một thế giới hỗn độn chúng ta sáng suốt nhận ra dấu chỉ của thời đại và lời kêu gọi sám hối ăn năn. Tất cả đều tuỳ thuộc vào đó.

Năm xưa, Gioan Tẩy giả đã xuất hiện trong một hoàn cảnh cụ thể. Ông được kêu gọi và sai đến với dân Do thái. Sứ mạng của ông luôn gắn liền với khởi điểm của cuộc đời công khai của Đức Giêsu. Điều này được tất cả bốn tác giả Phúc âm nói đến. Sứ mạng của Gioan được thánh Mátthêu trình bày tóm tắt qua bài Phúc âm Chúa nhật hôm nay. Ngài nhấn mạnh tới lời kêu gọi sám hối ăn năn hơn là phép Rửa. Có thể nói, phép Rửa của Gioan Tẩy giả là dấu chỉ dành cho những người đã nhận biết lỗi lầm của mình, đồng thời sẵn sàng sám hối ăn năn.

Sám hối trước hết là từ bỏ nếp sống giả hình, nếp sống ‘khẩu phật tâm xà’: môi miệng đọc hết kinh này sang kinh khác nhưng lòng dạ đầy những toan tính xấu xa; ngoài xã hội thì khuyên người khác ăn ngay ở lành còn riêng mình thì lại sống bê tha, khuyên mọi người hãy thương mến nhau nhưng sau lưng thì toàn đi nói xấu kẻ khác!

Sám hối có nghĩa là từ bỏ những hình thức suy tôn tạo vật, những hình thức ỷ lại vào danh vọng, tiền tài. Đừng nghĩ rằng đậu được bằng bác sĩ kỹ sư thì tự cho rằng mình là bậc thông thái, biết hết mọi chuyện. Đừng nghĩ rằng mình sinh ra trong một gia đình giầu có, muốn gì cũng được. Đừng nghĩ rằng mình là con nhà gia giáo, là con ông cháu cha, có quyền ngồi xét đoán kẻ khác. Giống như thái độ kiêu căng tư phụ của dân Do thái xưa: Họ nhìn đời bằng nửa con mắt, vênh vang tự đắc, khinh khi người khác vì nghĩ rằng mình là con cháu Ápraham.

Sám hối không có nghĩa chỉ là nhìn nhận lỗi lầm của mình nhưng còn phải đi xa hơn một bước nữa. Sám hối phải dẫn tới việc sửa đổi đời sống như Gioan đã nói: ‘Hãy làm việc lành cho xứng với lòng sám hối’, và cụ thể như thánh Phaolô khuyên: ‘Anh em hãy tiếp rước nhau như chính Đức Giêsu đã tiếp nhận anh em’.

Sám hối ăn năn chính là ngưỡng cửa bước vào ‘trời mới đất mới’ mà tiên tri Isaia đã diễn tả: sói sống chung với chiên con, beo nằm chung với dê, trẻ con măng sữa sẽ vui đùa kề hang rắn lục, … Khi vợ chồng con cái yêu thương hoà thuận với nhau, khi con người sẵn sàng trở về làm lành với Thiên Chúa thì cuộc sống sẽ trở thành một mảnh thiên đường. Chúng ta không cần phải đợi sau khi chết mới được hưởng phúc thiên đàng, nhưng ngay trong lúc này nếu như chúng ta muốn, chúng ta có thể biến cuộc sống thành thiên đường. Hạnh phúc thiên đàng có nghĩa là sự hiệp thông của con người với Thiên Chúa và giữa con cái loài người với nhau.

Để có thể sám hối ăn năn, chúng ta phải nhận ra lời mời gọi của Thiên Chúa. Một tấm lòng hỗn độn, đầy những lo âu và tham vọng chắc chắn không thể nào nhận ra. Lời kêu gọi của Gioan Tẩy giả phát xuất từ sa mạc. Cũng vậy, chỉ khi trong tâm hồn có một chỗ trống, có nghĩa là sẵn sàng dẹp bỏ mọi lo âu bận rộn qua một bên, trở về với lòng mình trong thinh lặng, chúng ta mới nhận ra tiếng Chúa. Chính lúc đó Thánh Thần của Thiên Chúa sẽ làm việc trong chúng ta. Ngài sẽ ban cho chúng ta sự khôn ngoan và thông suốt để phận biệt đâu là công minh chính trực, đâu là gian tà, phận biệt đâu là lúa, đâu là rơm. Ngài sẽ tăng sức giúp chúng ta đạt tới đích điểm.

Về mục lục

.

LỜI CÔNG BỐ CỦA GIOAN TẨY GIẢ

Lm. Giuse Nguyễn An Khang

Gioan, có biệt danh là Tẩy giả. Mátthêu trích dẫn Isaia 40,3 để giới thiệu: Gioan Tẩy giả chính là tiếng kêu trong hoang địa mà ngôn sứ Isaia tiên báo, có nhiệm vụ dọn đường cho Đấng Cứu Thế. Sống trong hoang địa từ thời niên thiếu (Lc 1, 80), Gioan xa lánh mọi tiện nghi (Mt 11,8; Lc 7,25), xa lánh những khuôn khổ đạo đức Dothái, đặc biệt của đền thờ và hội đường. Ông gần những người Esseniens ở Qumrân. Mátthêu khi phục sức cho Gioan Tẩy giả giống Êlia, mang một bộ áo da lông, ngang lưng thắt dây da (2V 1,8). Mátthêu mặc nhiên bảo, Gioan Tẩy giả chính là Êlia. Theo truyền thống, ÊLia đã được đưa lên trời, không chết, sẽ trở lại làm Tiền hô cho ngày cánh chung, ngày Đấng Messia đến (Mt 3,23).

Trong hoang địa, Gioan lấy châu chấu và mật ong làm thức ăn. Mátthêu không quả quyết Gioan chỉ sống bằng hai thức ăn đó. Châu chấu chẳng phải thức ăn lạ thường. Người Bédouins hiện thời thường ăn châu chấu chiên hoặc ướp muối. Tài liệu Damas ở Qumrân có bảo phải chiên hoặc luộc chúng mà ăn. Còn mật hoặc mật ong tìm trong các hốc đá, hoặc nước rỉ của cây Tây hà liễu.

Bởi cuộc sống đơn sơ đạm bạc, Gioan không có vấn đề béo phì, nhồi máu cơ tim, tiểu đường hay dư cholesterone. Gioan, một con người với thân hình khoẻ mạnh và khắc khổ, nhưng nơi ông toát ra một tâm hồn thánh thiện. Hữu xạ tự nhiên hương, người ta từ Giêrusalem và khắp miền Giuđêa, cùng khắp vùng ven sông Giođan kéo đến với ông.

Thi hành sứ vụ trong hoang địa, có lẽ Gioan muốn gắn liền với truyền thống khá phổ biến trong Israel. Theo truyền thống, thời Israel lang thang trong hoang địa, từ Ai cập vào đất hứa, được xem như một thời kỳ chứa chan ân sủng, tuyển dân sống thân tình với Thiên Chúa, được Ngài đối xử nhân hậu (Đnl 2,7). Vì thế, người ta tin, thời cánh chung, nước Thiên Chúa sẽ khởi đầu trong hoang địa và Đấng Messia sẽ xuất hiện tại đấy (Mt 24,26). Do đó, một vài thủ lãnh các phong trào thiên sai thường dẫn đồng đảng của mình vào hoang địa (Cv 21,38).

Ở hoang địa Gioan rao giảng gì? Gioan kêu gọi: “Anh em hãy sám hối, vì Nước trời đã gần đến”. Sám hối hay hối cải, tiếng Latinh “conversio”, tiếng hy lạp “metanoia”, có nghĩa thay đổi não trạng, ăn năn trở lại, canh tân đổi mới. Trong Cựu ước, từ này có nghĩa bỏ tà thần trở về với Đức Giavê. Trong Tân ước, nó giả thiết một sự thay đổi toàn diện bao hàm cả về phương diện tiêu cực bỏ đàng tội lỗi, lẫn phương diện tích cực hướng con người về Thiên Chúa.

Với Gioan, chốn hoang địa không còn là nơi cô tịch, nó đã trở thành trung tâm khơi động một phong trào sám hối, đầy nghịt những người. Thấy nhiều người thuộc phái Pharisiêu và Sađốc đến chịu phép rửa, Gioan nói với họ: “Nòi rắn độc kia, ai đã chỉ cho các anh cách trốn cơn thịnh nộ của Thiên Chúa sắp giáng xuống vậy?” Tại sao Gioan gọi họ như thế? Có lẽ Gioan thấy nơi họ có sự gian dối, giống con rắn trong sách Sáng thế. Họ đến chịu phép rửa không để được tha tội, nhưng để dò xét ông (Ga 1,19-28).

Tuy gọi là “nòi rắn độc”, nhưng Gioan vẫn cho họ một lời khuyên: “Các anh hãy sinh hoa quả xứng với lòng sám hối, đừng nghĩ: Chúng ta đã có tổ phụ Abraham.” Người Dothái thường tự hào là con cháu Abraham. Họ quan niệm: Ngày cánh chung, ngày Giavê sẽ biểu lộ cơn thịnh nộ của Người. Cơn thịnh nộ ấy sẽ giáng trên lương dân, những kẻ tội lỗi. Còn toàn thể con cái Israel được tham dự vào thế giới tương lai, bởi lời Thiên Chúa hứa cho Abraham và các tổ phụ vẫn có giá trị cho hậu duệ. Theo lối cắt nghĩa của các giáo sĩ, hậu duệ ấy là những người con xác thịt của Abraham. Bởi đấy, trong Dothái có câu châm ngôn quả quyết, ai thuộc dòng máu Dothái, chắc chắn sẽ được cứu rỗi. Một châm ngôn kiểu đó dễ làm cho một số người Dothái sống phóng túng về mặt luân lý và làm cho những người Pharisiêu và Sađốc tự mãn kiêu căng. Đối với Thiên Chúa là con cháu Abraham hay không, điều đó không quan trọng. Điều quan trọng là có giữ giao ước, có yêu mến và thực thi ý Người hay không. Nếu Israel không trung thành với Thiên Chúa, không tin vào Đấng Người sai đến, Người sẽ làm cho những hòn đá trở nên con cháu Abraham, nghĩa là loại trừ Israel và kêu gọi lương dân làm thành một Israel mới phát sinh hoa trái (Mt 8,11-12).

Bởi thế, Gioan đã kêu gọi họ sám hối. Nếu họ không sinh quả phúc đức để chứng tỏ lòng sám hối, họ không thoát khỏi cơn thịnh nộ của Thiên Chúa. Theo Gioan điều đó cần thiết và cấp bách, không trì hoãn được, vì Nước trời đã đến: “Cái rìu đã đặt sát gốc cây, bất cứ cây nào không sinh quả tốt đều bị chặt đi và quăng vào lửa”. Cũng như không gì có thể cứu cây khô khỏi lửa đốt, cũng chẳng có gì cứu nổi Israel chai đá khỏi cơn oán phạt.

Đấng sáng lập đến sau ông, quyền thế hơn ông. Sánh với Người ông chẳng là gì. Phép rửa ư? Phép rửa của Gioan là phép rửa tạm thời, phép rửa bằng nước, giục lòng sám hối. Phép rửa của Người là phép rửa bằng Thánh Thần và lửa, là sự thanh tẩy tuyệt đỉnh, ban ơn tha tội và sự sống mới. Con người ư? Ông chỉ là Tiền hô, là người dọn đường không đáng xách dép cho Người. Người là Đấng Messia, là Đấng thẩm phán đầy quyền năng: tay Người cầm nia, Người sẽ rê sạch lúa trong sân, thóc mẩy thu vào kho lẫm, thóc lép bỏ vào lửa không hề tắt mà đốt đi.

Thật tuyệt vời, Gioan Tẩy giả đã khiêm nhường tự xóa mình đi trước Đấng mà ông đã nhận nhiệm vụ dọn đường. Đức Giêsu phải lớn lên, ông phải nhỏ đi. Đức Giêsu bắt đầu sứ vụ là lúc ông vào nhà tù Macheronte, ở đó ông đã bị chém đầu. Với cái chết, Gioan đã hoàn thành sứ vụ Tiền hô dọn đường. Ông là người vĩ đại. Jean Perron viết: “Thu tóm trong chính mình tất cả những ngôn sứ từ thời Êlia, đấng Tiền hô rõ ràng là ngôn sứ sau cùng đồng thời cũng là người thứ nhất trong các tông đồ Kitô giáo, kết thúc ngôn sứ và mở đầu Phúc âm, ông là bản lề nối Cựu ước và Tân ước”. Đức Giêsu quả quyết: “Trong các người nam không ai trọng hơn Gioan Tiền hô”.

Về mục lục

.

THẾ GIỚI LUÔN CẦN NHỮNG CON ĐƯỜNG ĐẦY HOA

Lm. Giuse Trương Đình Hiền

Mùa Vọng thường gợi lên hình ảnh những con đường: con đường về Núi Thánh Sion, con đường hồi hương tái thiết lại Sa Lem, con đường trong hoang mạc, con đường gồ ghề, con đường cong queo…cùng với những nỗ lực để có những con đường đẹp, con đường thẳng như “bạt thấp nổng đồi”, “lấp đầy hố sâu”, “uốn thẳng con quẹo…”.

Và tất cả những cuộc hành trình đó, những con đường đó chỉ là hình ảnh, biểu trưng để dẫn dắt chúng ta biến thời gian cử hành Mùa Vọng thành một cuộc “lên đường”, một cuộc tiến bước trên “lộ trình” hướng đến và gặp gỡ Thiên Chúa. Và trong cuộc lên đường để gặp gỡ Thiên Chúa không chỉ phải “bạt xuống nhưng đồi núi của kiêu căng, hợm hĩnh, của tham vọng ngông cuồng”, mà còn phải “lấp đi những hố sâu của hận thù chia rẽ, ghen ghét giận hờn, đố kỵ, cách ngăn”. Có nghĩa là để đón nhận Đức Kitô và sứ điệp Tin Mừng Nước Thiên Chúa, phải sửa dọn con đường thích hợp, con đường ăn năn sám hối (metanoia), con đường từ bỏ hy sinh, con đường yêu thương thuận hòa…. Chúng ta cần sửa dọn “con đường tâm hồn” ta, “con đường cuộc sống” ta. Chúng ta cần sửa dọn những con đường đến với anh em, những con đường là các tương quan người với người trong gia đình, trong cộng đoàn, trong môi trường xã hội quanh ta…

Câu chuyện “con đường giữa hai cái hang” sau đây có thể là một minh họa rõ nét cho câu chuyện “dọn đường, sửa đường đón Chúa” mà chúng ta chia sẻ với nhau hôm nay:

Tại một vùng núi nọ, người ta truyền tụng cho nhau câu chuyện nầy: Ngày xưa, có hai thầy dòng quyết tâm nên thánh bằng cách chọn con đường ẩn tu. Để thực hiện việc nầy, cả hai thầy lên núi, tìm hai hang động cách xa nhau làm chỗ dung thân để qua hết cuôc đời trong thinh lặng và kết hợp với Chúa. Để cuôc sống ẩn tu đạt kết quả cao, và để khỏi bận tâm, chia trí về những “sự thế gian”, cả hai quyết định, hang ai nấy ở, mỗi người môt không gian riêng, một thế giới riêng, không liên hệ, không giao tiếp với nhau và với mọi người… Rồi năm tháng qua đi. Cả hai chết lúc nào không ai biết. Hai hang động trở thành hoang phế, như nhai chiếc mồ hoang lạnh giữa rừng sâu. Thời gian sau đó, có hai tên cướp bị săn đuổi, đã thay tên, đổi họ, lần mò trốn lên núi nầy để ẩn danh tìm chút bình an cho cuộc sống thừa. Gặp được hai cái hang hoang lạnh của người xưa, cả hai nẩy sinh sáng kiến: chọn nơi đây làm chốn dừng chân để sám hối và làm lại cuộc đời. Thế là cả hai dọn sạch hang cũ và bắt đầu cuộc sống mới của những người “ẩn tu bất đắc dĩ.” Chỉ khác với hai thầy dòng trước một điều là cả hai quyết định làm một con đường nối liền hai hang để thường xuyên qua lại, thăm viếng, giúp đỡ, ủi an …Dần dà, dọc theo con đường nối hai hang đã mọc đầy hoa, xung quanh hang động cảnh trí phô đầy sức sống và vẻ đẹp. Hai tên cướp năm nào giờ đây đã trở thành hai vị ẩn tu hiền lành, thánh thiện, đến nổi hương thơm thánh đức lan toả khắp vùng khiến nhiều người cất công lên núi để xin “Hai Thầy” cầu nguyện và hưóng dẫn đạo đức. Từ đó, phát xuất phát từ hai cái hang đó, đã có nhiều lối đi, nhiều con đường dẫn đến các khu dân cư, và trên các lối đi đó cùng mọc đầy hoa tươi thắm… Và rồi, hai “thầy tướng cướp ẩn tu” đó qua đời. Vì đời sống thánh thiện và vì có những phép lạ xảy ra cho một số người lên núi cầu xin, nên dân chúng vùng đó “tự động” phong thánh cho hai “thầy cướp ẩn tu” nầy…

Con đường đến với Thiên Chúa và đến với anh em của mỗi người chúng ta trong Mùa Vọng nầy cũng phải được phát quang và trồng đầy hoa như thế. Và chỉ có những con đường “hiệp thông, chia sẻ, bác ái, khoan dung, quảng đại, tha thứ…như thế mới có thể biến những “hang đá tâm hồn” lạnh lẽo hiu quạnh của những tên cướp trở thành thánh nhân, mới biến chúng ta trở nên những Kitô hữu đích thực, mới biến thế giới quanh ta trở thành an vui hòa bình, và đặc biệt, biến Mùa Vọng, Mùa Giáng sinh năm nay trở thành một “Tin Vui đích thực” cho chính chúng ta và cho mọi người quanh ta. Quả thật trong thế giới nầy, trong cuộc đời nầy, cần thiết biết bao những con đường đầy hoa như thế. Amen.

Về mục lục

.

NƯỚC TRỜI ĐÃ GẦN BÊN

Lm Louis Gonzaga Đặng Quang Tiến

Matthêô bắt đầu nói về Chúa Giêsu từ chương 3 trong tương quan với Gioan Tẩy Giả (3,1-12). Theo sau đoạn nầy là hai biến cố quan trọng: Chúa Giêsu chịu phép rửa (3,13-17), và chịu cám dỗ (4,1-11). Sau đó, sứ vụ của Chúa Giêsu bắt đầu cách chính thức (4,12-17) với lời rao giảng: “Hãy sám hối vì Nước Trời đã gần đến” (4,17).

Đoạn nầy có thể chia thành ba phần: – Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6); – Gioan ngỏ với nhóm Pharisêô và Sađucêô (3,7-10); – Gioan loan báo Đấng sẽ đến và sứ vụ trổi vượt của Người (3,11-12). Chủ đề chính của đoạn nầy là “sám hối”, metanoeò (3,2.8 ) và “phép rửa” baptizò (3,1.7.11[2x]). Gioan rao giảng sự sám hối vì “Nước Trời đã gần đến” (3,2), và ông thanh tẩy bằng nước cho những ai tỏ lòng sám hối (c.11). Chúa Giêsu sẽ xuất hiện ở câu 3,13. Gioan Tẩy Giả xuất hiện trước khi Người đến để chuẩn bị lòng dân đón tiếp Người.

Sứ vụ và con người của Gioan Tẩy Giả (3,1-6): – Gioan xuất hiện và lời rao giảng của ông (3,1-2); – Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4); – Dân chúng đến với ông (3,5-7).

Trong hai câu đầu tiên Matthêô giới thiệu ngay khung cảnh, thời gian và lời rao giảng của Gioan (c.1). Gioan xuất hiện (c.1), paraginomai, “đến”, động từ nầy cũng được dùng cho Chúa Giêsu (3,13). Matthêô muốn gắn liền sứ vụ của Gioan vào sứ vụ của Chúa Giêsu (4,17). Chỉ dẫn thời gian “trong những ngày ấy” ám chỉ lúc Gioan xuất hiện Chúa Giêsu đang còn ở Giuđêa (x. 2,1). Khung cảnh “trong sa mạc xứ Giuđêa” đặt con người Gioan và lời loan báo của ông liên hệ đến Isaia người loan báo kế hoạch cứu độ mới của Thiên Chúa cho dân Israel (x. Is 40,1-11).

Lời kêu gọi của Gioan là “Hãy sám hối, vì Nước Trời đã gần đến” (3,2; 4,17; 10,7)

Đặc điểm của Matthêô là đặt việc sám hối liên hệ với Nước Trời, chứ không trực tiếp với việc tha tội (x. Mc 1,4; Lc 3,3). Động từ metanoeò theo nguyên tự có nghĩa là “thay đổi tâm trí” “thay đổi cách hiểu/cách suy nghĩ”; trong meta-noeò có “meta” có nghĩa là “thay đổi”, “chuyển sang”, “biến đổi” (x. 21,29.32; 17,2); và “noeò” có nghĩa là nhận thức bằng tâm trí, là hiểu biết. Matthêô dùng động từ noeò nầy ở thể phủ định trong lời Chúa Giêsu khiển trách hoặc người Pharisêô hoặc các môn đệ của Người, vì họ không hiểu đúng theo cách của Chúa (x. 15,17; 16,9.11). Liên quan đến động từ metanoeò, trong 11,20-21 Chúa Giêsu trách dân thành Kôrazin và Bêthsaiđa vì họ đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện, nhưng họ không “sám hối”, vì họ đã không hiểu/nhận ra Người là ai dù đã thấy những việc kỳ diệu Người thực hiện (x. 11,20.21; 12,41). Cũng thế, trong 12,41 Chúa Giêsu lại khiển trách “thế hệ nầy” vì họ đã không “sám hối” khi nghe lời Người rao giảng. Lý do duy nhất là vì họ không nhận Người là “cao trọng hơn Giôna”.

Cách nói “Nước Trời” là theo cách dùng của người Do thái để tránh gọi tên “Thiên Chúa”. Matthêô dùng nó đến 24 lần, trong khi “Nước Thiên Chúa” chỉ bốn lần (12,28; 19,24; 21,31.43). Ý nghĩa của hai cách nói nầy giống nhau (x. 19,23-24). Động từ “gần đến”, egizò, chỉ một sự kiện tới giai đoạn cuối cùng và sắp hoàn tất. Khi Chúa Giêsu đến gần Giêrusalem là lúc Người sắp kết thúc của sứ vụ cứu chuộc (21,1; 26,45-46); cũng thế về mùa gặt (21,34). Như thế, “Nước Trời đến gần” là giai đoạn cuối cùng trong chương trình cứu chuộc và không còn một nước nào khác nữa. Nước Trời nầy chính là Chúa Giêsu, Con Thiên Chúa. Vậy, sám hối là thay đổi cách suy nghĩ để nhận ra Nước Trời đang đến và có điều kiện đi vào Nước Trời. Đó cũng chính là nhận ra và tin vào Chúa Giêsu.

Những đặc tính nơi Gioan (3,3-4)

Câu 3,3 trích dẫn từ phần mở đầu của sách Isaia 40,1-11. Đoạn mở đầu nầy loan báo thời kỳ cứu độ mới cho dân Israel. Tiếng kêu “dọn đường cho Chúa” ngỏ đến một tập thể. Hình ảnh “bạt lối Người đi” nói đến việc tiến vào khải hoàn của một vị vua. Theo sau lời kêu gọi dọn lối sửa đường, Isaia loan báo việc Thiên Chúa đến để cứu độ dân Người (Is 40,4). Matthêô mô tả Gioan Tẩy Giả theo hình tượng của Isaia là thắt lưng bằng da thú vật (3,4; 2 V 1,8) để xác nhận ông là chính là Isaia mà các ngôn sứ loan báo là phải đến trước để dọn đường cho Đấng Kitô (x. 11,14). Như thế sự cứu độ mà Isaia đã loan báo, nay sắp được thực hiện. Như Isaia đã chỉ chuẩn bị đường cho Thiên Chúa, Gioan Tẩy Giả cũng thế. Đấng sắp đến không phải là một ngôn sứ, mà là Thiên Chúa. Tuy nhiên, Gioan còn hơn mọi ngôn sứ thời Cựu ước, khi ông loan báo cùng một sứ điệp Chúa Giêsu và các tông đồ sẽ làm là “Nước Trời đang đến gần” (3,2; 4,17; 10,7). Làm như thế ông được thông phần vào sứ vụ của Chúa Giêsu thời Tân ước, và được nhận là “còn hơn một ngôn sứ nữa!” (x. 11,9).

Dân chúng đến với ông (3,5-6)

“Tote” “bấy giờ”, mở đầu câu 5, liên kết đoạn nầy lại với câu 3,2. Nghe lời Gioan rao giảng dân chúng kéo đến với ông. Matthêô kể tên Giêrusalem, Giuđêa và vùng dọc theo sông Giorđan (c. 5); nghĩa là cả miền Giuđêa. Khi Chúa Giêsu đến rao giảng, dân chúng sẽ kéo đến với Người, không chỉ từ các vùng nầy mà cả Galilêa và Đêcapolis nữa (4,25). Chú ý ở đây là Matthêô phân biệt “dân chúng từ Giêrusalem” ở đây với “tất cả Giêrusalem với vua Hêrôđê” (x. 2,3). “Tất cả” bấy giờ có cả nhóm Pharisêô và Sađucêô nữa (c. 7). Họ đến để chịu phép rửa tại sông Giorđan trong khi xưng thú tội lỗi (c. 6). Tên Gioan “Tẩy Giả” liên kết với việc thanh tẩy ông làm và sông Giorđan. Việc xưng thú tội của dân chúng được xem là kết quả của lời rao giảng “hãy sám hối” của ông (c. 2; 3,11). Trong Cựu ước sông Giorđan gợi lại giai đoạn sau cùng của thời gian 40 năm lưu lạc trong sa mạc: vượt qua sông để vào đất hứa, theo sự chỉ huy của Giôsuê (Giôsua 3-4). Giôsuê là tên bằng tiếng hipri của cùng tên Giêsu bằng tiếng aramaic. Tên nầy có nghĩa là “Chúa cứu độ” (x. 1,21). Như thế, sông Giorđan có ý nghĩa đặc biệt trong kế đồ cứu chuộc của Thiên Chúa. Chúa Giêsu cũng sẽ bước xuống sông Giorđan để dẫn đầu cuộc xuất hành mới nầy (3,13-17).

Chúa Giêsu đến để dẫn dân Người vào Nước Trời, chứ không vào bất cứ một đất nước nào. Chỉ ai biết sám hối, nghĩa là thay đổi tâm và trí theo ý Thiên Chúa, mới có thể nhập vào cuộc xuất hành nầy.

Về mục lục

.

CHUẨN BỊ ĐÓN NHẬN NƯỚC TRỜI

Lm. Bùi Mạnh Tín

Để mang lại kết quả, mỗi công việc cần được chuẩn bị kỹ lưỡng và thích hợp. Thiếu chuẩn bị hay chuẩn bị không đúng cách sẽ trở thành nguyên nhân của những thất bại. Đón nhận Nước Trời là công việc rất quan trọng vì liên quan đến định mệnh mai sau của nhân loại.

Trong bài giảng hôm nay, Gioan Tiền hô đề ra cho chúng ta hai khía cạnh của việc chuẩn bị: tiêu cực và tích cực.

Tiêu cực: Cản trở lớn lao nhất trong việc đón nhận ơn Cứu độ là các khuynh hướng xấu và tội lỗi. Thật vậy, chính các khuynh hướng xấu đã đẩy con người xa lìa Thiên Chúa, làm con người lạc hướng và quên hẳn cuộc gặp gỡ quan trọng của mình với Thiên Chúa. Chính tội lỗi đã tạo nên bức tường ngăn cách giữa con người và Thiên Chúa, một hố sâu giữa thân phận nhân loại và Ơn Cứu độ. Chúa Giêsu đã từng nói:Chỉ những tâm hồn trong sạch mới nhìn thấy Thiên Chúa. Nhưng thật đáng tiếc, các khuynh hướng xấu và tội lỗi đã dần dần làm lu mờ tâm hồn con người, đánh mất sự trong sạch nguyên thủy. Gioan Tiền hô đã cụ thể hóa thái độ tiêu cực này bằng hình ảnh con rắn độc hay một cây cằn cỗi không sinh hoa trái.

Tích cực: Sau khi dẹp bỏ những cản trở, con người sẽ dễ dàng nhìn thấy đích điểm cần tiến tới, rồi hăng hái bước đi, bước đi về phía Nước Trời, về phía ơn Cứu độ. Nói cách cụ thể, nhân loại phải đến gặp Thiên Chúa, Đấng không còn xa lạ và cao vời ở một thế giới thần thánh nào đó, nhưng đã nhập thể hóa thân làm người mà Gioan tuyên bố: “Đấng ấy sẽ đến sau tôi, quyền năng hơn tôi, và tôi không đáng cởi dây giầy cho Ngài. Chính Đấng ấy sẽ thanh tẩy anh em…” Bước về phía Nước Trời, có nghĩa là chúng ta cần tích cực trong cuộc sống Đức Tin của mình: cầu nguyện, tham dự các Bí tích, chia sẻ cơm áo cho tha nhân, sống hòa hợp và tạo niềm cảm thông với người khác, v..v..

Công việc chuẩn bị này cần được thực hiện liên tục để tạo nên tư thế “sẵn sàng”, vì chúng ta không biết ngày nào giờ nào Con Người sẽ đến, như ông chủ đi xa bỗng trở về, như tân lang xuất hiện lúc nửa đêm. Nói theo kiểu của Gioan: “Cái rìu đã đặt sẵn gốc cây.”

Mùa Vọng này chính là thời gian thuận tiện, thời gian cứu rỗi, để mỗi người chúng ta, theo lời kêu gọi của Gioan và sự trợ giúp của Thiên Chúa, mạnh dạn dẹp tan mọi cản trở và những ràng buộc bất chính, rồi hăng hái nhanh bước tiến về phía Đức Kitô để lãnh nhận Nước Trời.

Về mục lục

.

XIN CHO CON BIẾT LẮNG NGHE

Lm. Bùi Quang Tuấn

“Tiếng của người hô trong sa mạc: Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” (Mt 3:3)

Tại sao tiếng hô lại được cất lên trong sa mạc mà không phải là thành thị, phố xá hay phòng trà, chợ búa, nơi người ta đang quây quần đông đúc hay vui chơi tội lỗi? Tiếng hô phải được cất lên chính những nơi này mới có người nghe, mới mong có kẻ hồi đầu qui chánh, sửa đường bạt lối, làm nên nẻo chính đường ngay cho Đấng Thiên Sai chứ.

Gioan sống trong sa mạc. Tiếng hô của ông vang lên giữa vùng hoang vắng.

Không biết chốn trời không mông quạnh thế kia thì tiếng hô được mấy ai chú ý. Tiếng hô vang. Vang lên mãi. Nhưng trong nơi trống vắng thì ai nghe cho!

Phải chăng Gioan đã hô lên cho chính mình? Nếu thế thì lời kêu gọi “Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi” trước tiên phải là lời nói với chính mình.

Nhờ biết hô với chính mình trước hết nên Gioan đã có sức lôi kéo từng đoàn người từ khắp xứ Giuđê đến với ngài, để nghe tiếng ngài hô, và chịu làm theo lời răn dạy. Nhờ hô với chính mình mà tiếng hô đã vang đến tận khắp các vùng Giêrusalem, xâm nhập tới cõi lòng của bao kẻ sa đoạ khô khan.

Không phải chỉ sau khi nghe tiếng hô của Gioan mới bắt đầu có người ăn ăn hối cải, chịu thanh tẩy để dọn đường cho Chúa đến. Đúng hơn, từ hoang vắng của sa mạc và trong nơi tịch liêu của cõi lòng, Gioan đã nghe tiếng hô “hãy dọn đường cho Chúa đến” phát ra. Lời đó vang đi dội lại trong lòng ông, thúc bách ông nối dài tiếng hô bằng cách ra đi “dọn lòng người cho Chúa đến.”

Cho nên, Gioan chính là người đã dọn đường lòng mình trước nhất. Vì biết lắng nghe những điều mình hô nên tiếng hô của mình có người đáp lại. Sự lắng nghe không chỉ bằng thính giác, nhưng còn bằng tâm hồn. Và từ tâm hồn mới phát sinh những thái độ sống. Một đứa trẻ “biết nghe” không cứ phải là một đứa trẻ có thính giác tốt, song là một đứa trẻ biết ghi tâm lời nói của bố mẹ, thầy cô, và thực thi.

Những gì phát xuất từ con tim cũng đều mang sắc thái của tình yêu và sự sống.

Thế ra, không biết lắng nghe bằng con tim thì con tim sẽ không thể cất lời. Và nếu lời cất lên không phát xuất từ con tim, lời đó sẽ chẳng mang hiệu quả gì. Thomas Merton đã từng nhận xét:

“Nếu đời ta cứ phun ra những lời vô ích

Chẳng bao giờ ta nghe được bất cứ điều gì,

Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ điều gì,

Chẳng bao giờ ta trở nên bất cứ cái gì.

Thế rồi,

Vì cứ nói mãi trước khi có cái gì để nói,

Ta trở thành người không biết nói.”

Không biết nói hoặc nói điều vô ích mà cứ bắt người khác lắng nghe thì chỉ tạo nên những cực hình, phản kháng.

Nhiều gia đình bất an, nhiều cộng đoàn bất thuận, nhiều quốc gia bất hoà chỉ vì có kẻ không biết nói. Nguyên do là thiếu lắng nghe, sự lắng nghe của tâm hồn. Tâm hồn không nghe được vì còn ngổn ngang đây đó nhiều chướng ngại của tự ái, ích kỷ, kiêu căng, tự mãn…

Lắm khi ta than thở: Chúa không chịu nghe tiếng tôi. Nhưng thử hỏi: Chúa không nghe tiếng tôi hay vì tôi không nghe được tiếng Ngài? Rồi khi nghe được tiếng Chúa, liệu tôi có chấp nhận để tiếng ấy nhồi nắn biến đổi đời mình chăng?

Nhiều lúc tôi buồn vì người ta không chịu nghe điều tôi muốn nói. Nhưng thử hỏi: họ không nghe tiếng lòng của họ? Mà nghe tiếng lòng người khác sao được khi chính tôi lại bịt tai tâm hồn? Âm thanh của lời tôi nói sẽ chẳng truyền lan nếu nó không phải là Lời đã vang dội lại trong sa mạc lòng mình.

Có nghe được tiếng nói nơi lòng mình mới mong đổi được đời mình. Có đổi được đời mình mới làm thẳng đường cho Chúa đến. Chúa đến trong đời tôi để rồi qua tôi Ngài đến với người khác.

“Hãy dọn đường Chúa, hãy bạt lối Người đi.” Tôi muốn hô vang lời ấy cho mọi người nghe. Nhưng trước hết, tôi bắt chước thánh Gioan, đi vào sa mạc cuộc đời, tức là bước vào nơi thanh vắng và tĩnh lặng của nguyện cầu, nơi đó tâm hồn tôi sẽ nghe được tiếng nói của trời cao. Tiếng ấy sẽ dần dần lớn mạnh, cho đến khi oà vỡ và tuôn chảy đến muôn tâm hồn.

Phải chăng đó chính là thái độ sống mà Tin Mừng mùa Vọng năm nay muốn tôi mặc lấy.

Về mục lục

.

THỐNG HỐI

Lm. Cao Vũ Nghi

Đứng trước tình trạng của một quốc gia không còn nhận biết hồng ân Thiên Chúa, Tổng thống Abraham Lincoln đã chỉ định ngày 30 tháng 4 năm 1863 là Ngày Toàn Quốc Chay Tịnh, Hãm Mình, và Cầu Nguyện. Trong dịp này, Tổng thống Lincoln đã nói: “Chúng ta đã được lãnh nhận biết bao ơn phúc của trời cao. Qua nhiều năm, chúng ta được sống trong bình an và thịnh vượng. Đất nước chúng ta đã phát triển về dân số, thế lực, và kinh tế, như chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Nhưng chúng ta đã quên Thiên Chúa… Với một trái tim đầy ắp tự mãn, chúng ta mộng tưởng rằng những gì chúng ta có là do sự khôn ngoan vượt mực của mình. Say sưa trong sự thành công của mình, chúng ta không còn thấy sự cần thiết của ơn thánh Chúa, và trở nên kiêu hãnh đến nỗi không còn cảm thấy nhu cầu phải cầu nguyện với Đấng đã tác thành nên mình. Vì vậy, chúng ta cần phải hạ mình xuống trước Đấng mà chúng ta đã xúc phạm, phải xưng thú tội chung của quốc gia, và cầu xin ơn thương xót và tha thứ.”

Đó cũng là lời kêu gọi của Thánh Gioan Tẩy giả đối với mỗi người chúng ta trong những ngày chuẩn bị mừng kỷ niệm ngày Ngôi Hai Thiên Chúa nhập thể làm người: “Hãy ăn năn thống hối, vì Nước Trời đã gần đến.” Nhưng phải chăng, cũng như các tiên tri trong thời Cựu Ước, chúng ta không muốn nghe những lời kêu gọi này. Chúng ta không muốn nghe là vì chúng ta đã quá chán ngán khi nghe những lời này, hay cũng có thể vì chúng ta không muốn phải bỏ đi nếp sống thoải mái, bỏ đi những đam mê, tật xấu, và phải ép mình để tuân theo những điều Chúa dạy, và cũng có thể vì chúng ta thấy chúng ta có tội lỗi gì đâu mà phải ăn năn thống hối.

Mới đây, khi nhìn vào hiện trạng của thế giới, mục sư Billy Graham đã có nhận xét sau đây: “Chúng ta đang mắc phải một chứng bệnh trầm trọng. Chứng bệnh này không liên quan đến vấn đề chủng tộc, không phải là cảnh nghèo khó, và cũng không phải là chiến tranh. Chứng bệnh trầm trọng này liên quan đến trái tim của chúng ta. Chúng ta cần một trái tim đổi mới.” Chúng ta cần một tấm lòng dám nhìn thẳng vào sự thật về con người của mình. Nhưng đối với con người, đây là một vấn đề thật khó khăn. Người Rôma có những cách xử tử tội nhân thật man rợ, như đóng đinh vào thập giá, dùng người để làm đuốc, hay…nối kết người sống với người chết. Họ lấy giây buộc người bị xử tử dính liền với một người đã chết: mặt đối mặt, tay liền tay. Sức sống của người tử tội tiêu hao một cách mau chóng, để rồi cũng đồng hóa với người chết. Con người chúng ta có lẽ phần nào cũng vậy. Khuyết điểm tội lỗi đã ăn liền với con người của mình, đến nỗi cho dù muốn thoát ly, chúng ta cũng không thể tự giải thoát mình được. Nhưng chúng ta đã có ơn phù trợ của Thiên Chúa. Ngài đã kêu gọi chúng ta hãy ăn năn thống hối trở về với Ngài, thì chắc chắn Ngài sẽ ban ơn cho chúng ta. Điều quan trọng là chúng ta muốn.

Lời Chúa đến với chúng ta hôm nay là cơ hội để chúng ta trở về với tâm hồn mình, để chúng ta ý thức rõ ràng hơn những lỗi tội nào đang làm cho chúng ta xa cách Chúa, để chúng ta bắt đầu con đường trở về với Thiên Chúa trong tâm tình ăn năn thống hối, và nhất là để chúng ta có một thái độ khác đối với Thiên chúa. Ngày nay, nhiều người nhận mình là Kitô hữu, nhưng trong hành động họ lại sống như Thiên Chúa không hiện hữu. Những người này tỏ ra họ không cần ơn phù trợ của Chúa và bất chấp những giáo huấn của Ngài. Một cách nào đó, có lẽ cũng có những lúc chúng ta sống như vậy, và vì thế, với tấm lòng ăn năn thống hối, chúng ta hãy bỏ đi thái độ tự kiêu, tự mãn, và thay vào đó, là tấm lòng thảo hiếu tin tưởng vào tình thương của Thiên Chúa là Cha chúng ta ở trên trời. Ngài đã tạo dựng chúng ta, đã cứu chuộc chúng ta, và đã ban tràn đầy ơn phúc cho chúng ta. Trong thời gian qua, chúng ta đã bội bạc với tình yêu thương của Ngài, thì giờ đây chúng ta hãy đền bù bằng tấm lòng thảo hiếu mến yêu. Chíng tấm lòng thảo hiếu mến yêu này sẽ giúp cho chúng ta có được một tấm lòng ăn năn thống hối thật, và giúp chúng ta bền vững trong ơn nghĩa Chúa.

Về mục lục

.

LỜI KHUYÊN DUY NHẤT

Lm Phạm Quốc Hưng

“Hãy hối cải, vì nước trời đã gần”

Truyện ngắn Lời Khuyên Duy Nhất đăng trên Nguyệt San Đức Mẹ Hằng Cứu Giúp từ số tháng 12/1996-05/1997 là một truyện giả tưởng thuật về việc Chúa Giêsu đích thân đến giảng tĩnh tâm vào mùa Vọng 1999 ở một giáo xứ của người Việt Nam tại Hoa kỳ, để giúp mọi người chuẩn bị bước vào đệ tam thiên niên kỷ.

Vì được cha xứ cho biết chính Chúa Giêsu sẽ đến giảng tĩnh tâm cho giáo xứ vào tối thứ bảy 27/11/1999, áp Chúa nhật thứ nhất của mùa vọng dẫn vào năm 2,000, mọi người trong xứ đều thu xếp công việc để đến tham dự. Ai nấy đều cảm thấy mình bị đánh động mãnh liệt khi lắng nghe những lời giảng dạy từ môi miệng của chính Chúa Giêsu. Sau khi nghe Chúa giảng, một số người muốn xin Chúa cho họ một lời khuyên để làm hành trang cho cuộc sống mới của họ sau khi gặp gỡ Chúa.

Lời khuyên duy nhất mà Chúa nói với mọi người – từ những người mang tiếng là xấu xa tội lỗi như cậu Johnny Lê, cô Tư Ngựa và ông Sơn Rô đến những người được tiếng là đạo đức thánh thiện như “bà Năm xướng kinh”, từ giáo dân trong xứ đến cả cha xứ và cha phó – chính là những lời Chúa đã nói với mọi người khi bắt đầu cuộc đời truyền giáo công khai của Người. Đó là: “Hãy hối cải và tin vào Tin mừng”. Và ai nấy đều cảm nhận rằng đó chính là lời khuyên thích đáng nhất, cần thiết nhất, và ích lợi nhất cho họ.

Với Johnny Lê, hối cải nghĩa là phải bỏ lối sống đi hoang và băng đảng để trở về nhà giúp mẹ, học hành tử tế và sống đạo tích cực qua việc xin làm huynh trưởng đoàn thiếu nhi.

Với Tư Ngựa, hối cải nghĩa là phải trở về làm hòa với cha mẹ, bỏ lối sống lang chạ để bắt đầu một cuộc đời trong sạch.

Với ông Sơn Rô, hối cải nghĩa là đóng cửa sòng bài, sàn nhảy, bỏ luôn lậu cần sa, không tiếp tụd mướn bọn cao bồi cướp phá uy hiếp các cửa tiệm của bà con đồng hương, bồi thường các thiệt hại đã gây cho người khác, và trở về sống với vợ con và sinh hoạt cùng giáo xứ.

Với “bà Năm xướng kinh”, hối cải nghĩa là phải từ bỏ hình ảnh một Thiên Chúa khó tính và khắc nghiệt để tin tưởng nơi một Thiên Chúa đầy lòng khoan dung từ ái; phải tìm sự an bình nội tâm bằng cách cậy trông nơi tình thương vô cùng của Chúa và công nghiệp Chúa Kitô chứ không phải dựa vào các việc thiện của riêng mình.

Với ông chủ tịch hội đồng giáo xứ, hối cải nghĩa là phải bỏ đi sự tự ái, tính sợ dư luận gièm pha, để dấn thân cho lợi ích chung.

Với cha phó, hối cải nghĩa là phải từ bỏ lối nhìn Giáo hội với con mắt thế gian, phải cố gắng sống theo các Giáo huấn chân thực tốt lành của Giáo hội chứ không đòi Hội thánh phải thay đổi Giáo huấn cho phù hợp với lối sống của mình, và phải gia tăng lòng yêu mến gắn bó với Mẹ Maria và Hội thánh.

Với cha xứ, hối cải nghĩa là phải tận lực quan tâm làm đẹp lòng Chúa hơn là tìm cách lấy lòng dân chúng, phải sống như một ngôn sứ chứ không phải một chính khách, phải quan tâm đến việc truyền giáo chứ không được tự thỏa vì sự sung túc điều hòa của giáo xứ.

Câu truyện kết thúc bằng việc chính cha xứ đã thực hiện lời khuyên ấy trước tiên qua việc ngài xin xưng tội cùng cha phó khi đồng hồ điểm 12:00 AM, giờ bắt đầu Chúa nhật thứ nhất mùa vọng dẫn vào năm 2000.

Cũng như Chúa Giêsu đã kêu gọi mọi người phải hối cải và tin vào Tin mừng trong truyện Lời Khuyên Duy Nhất, trong Tin mừng hôm nay, thánh Gioan Tiền hô đã kêu gọi mọi người “Hãy hối cải, vì nước trời đã gần bên.”

Lời mời gọi hối cải của Gioan mà Giáo hội muốn chúng ta lắng nghe trong phụng vụ Chúa nhật tuần này tiếp tục lời mời gọi phải tỉnh thức và sẵn sàng của chính Chúa Giêsu như chúng ta đã được nghe trong Phúc âm tuần trước. Đây là một sự nối tiếp rất hợp lý và cần thiết. Thực vậy, chúng ta sẽ không cảm thấy phải mau mắn hối cải, phải thay đổi tâm hồn và cải thiện đời sống, nếu chúng ta không tỉnh thức để nhận ra sự hèn yếu, tội lỗi và bất toàn của mình, nếu chúng ta không nhận ra tính cách khẩn cấp của sứ điệp Tin mừng. Cái đẹp của truyện ngắn Lời Khuyên Duy Nhất trên đây là trong đó con người cảm thấy chính mình là người tội lỗi cần phải hối cải hơn cả, không phải là ai khác những lại chính là cha xứ, người từng được bà con trong xứ khen là hiền lành, khiêm nhường và thánh thiện.

Những người không nhận ra nhu cầu phải hối cải thường lại là những người cần phải hối cải hơn cả. Tin mừng hôm nay nói đến việc những người biệt phái và Sađốc đến với Gioan và xin thanh tẩy. Họ là những người thường được tiếng là đạo đức trong dân và tự hào là con cháu Abraham, nhưng họ đã bị Gioan gọi là “nòi rắn độc” đáng “cơn thịnh nộ” của Chúa. Ngài còn cảnh cáo họ phải gấp rút ăn năn thống hối vì “lưỡi rìu đã sẵn gốc cây; cây nào không sinh quả lành sẽ bị chặt và quăng vào lửa.”

Nhiều lần chúng ta được nhắc nhở phải cầu nguyện cho những người tội lỗi được ơn ăn năn trở lại, cho những người chưatin Chúa, chưa biết Chúa, chưa yêu Chúa, được ơn tin Chúa, biết Chúa, và yêu Chúa. Đó là điều chúng ta phải luôn ghi nhớ và thực hiên trong liên hệ yêu thương đối với người khác. Nhưng điều chúng ta phải ghi nhớ và thực hiện hơn cả đó là chúng ta phải thành thực xét mình trước mặt Chúa là Đấng thánh thiện tuyệt đối và là Đấng đã mời gọi chúng ta nên thánh, để nhận biết và xác quyết rằng chính chúng ta là những người tội lỗi cần phải hối cải hơn cả, chính chúng ta là những người cần đến lòng thương xót của Chúa hơn cả. Chúng ta phải nhận ra rằng mình chưa thực sự biết Chúa và yêu Chúa cách hoàn hảo như Chúa muốn nơi chúng ta. Vì thế, chúng ta phải có tinh thần khiên cung thống hối trong mọi nơi mọi lúc vì “không có ai tốt lành trừ phi có một Thiên Chúa” (Mc 10:18).

Cha giáo tập của tôi trước đây, cha Andrew Costello, CSsR, trong cuốn sách của Ngài mang tựa đề “Thank God – It’s Friday” có viết như sau: “Người phải hối cải chính là người đang ngồi trong chỗ tôi ngồi, đang ở trong làn da của tôi, đang suy tưởng với khối óc của tôi.”

Chính tôi là người phải hối cải hơn cả, phải hối cải trước hết.

Nếu tôi là người đang sống trong tội lỗi như ngoại tình, tà dâm, gian dối, bất công, tham lam, ghen ghét, tị hiềm, tôi phải gắng chừa bỏ và xa lánh dịp tội.

Nếu tôi là người đang lãnh đạm thờ ơ, đang khô khan nguội lạnh và biếng nhác trong đời sống đức tin, tôi phải sốt sắng nhiệt thành và siêng năng hơn.

Nếu tôi là người có cảm nghĩ lệch lạc và thiếu sót về Chúa Kitô và Hội thánh của Người, tôi phải ra công học hỏi để hiểu biết và yêu mến Chúa và Giáo hội một cách đúng đắn và đầy đủ hơn.

Nếu tôi chưa dấn thân vào việc tông đồ, chưa hề giúp người khác biết Chúa và yêu Chúa, tôi phải nổ lực trong việc giúp những người khác cũng biết Chúa và yêu Chúa.

Bao lâu còn sống ở trần gian, bấy lâu tôi còn phải nỗ lực hối cải liên lỉ cho đến lúc tôi được Chúa biến đổi để nên giống hệt Chúa Kitô và nên một với Người trong cõi vĩnh hằng của Chúa Ba Ngôi.

Lạy Mẹ Maria, xin Mẹ “cầu cho chúng con là kẻ có tội” biết nhìn nhận sự yếu đuối, tội lỗi, và thiếu sót của mình, nhất là biết cậy trông ở ân sủng và lòng thương xót Chúa, để nỗ lực cải thiện đời sống không ngừng đùng như lời Chúa khuyên dạy chúng con. Amen.

Về mục lục


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...