26/06/2021
1576

Các Bài Suy niệm Chúa Nhật 13 Thường Niên – B

Lời Chúa: Kn 1,13-15;2,23-24; 2Cr 8,7.9.13-15; Mc 5,21-43

MỤC LỤC

CÁC BÀI ĐỌC

BẢN VĂN CÁC BÀI ĐỌC –  Nguồn: UBPT/HĐGMVN ấn bản năm 1973

Bài Ðọc I: G Kn 1, 13-15; 2, 23-25

“Bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian”.

Trích sách Khôn Ngoan.

Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian.

Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó.

Ðó là lời Chúa.

Ðáp Ca: Tv 29, 2 và 4. 5-6. 11-12a và 13b

Ðáp: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con (c. 2a).

Xướng: Lạy Chúa, con ca tụng Chúa vì đã giải thoát con, và không để quân thù hoan hỉ về con. Lạy Chúa, Chúa đã đưa linh hồn con thoát xa âm phủ; Ngài đã cứu con khỏi số người đang bước xuống mồ. 

Xướng: Các tín đồ của Chúa, hãy đàn ca mừng Ngài, và hãy cảm tạ thánh danh Ngài. Vì cơn giận của Ngài chỉ lâu trong giây phút, nhưng lòng nhân hậu của Ngài vẫn có suốt đời. 

Xướng: Lạy Chúa, xin nhậm lời và xót thương con. Lạy Chúa, xin Ngài gia ân cứu giúp con. Chúa đã biến đổi lời than khóc thành khúc nhạc cho con; Lạy Chúa là Thiên Chúa của con, con sẽ tán tụng Chúa tới muôn đời.

Bài Ðọc II: 2 Cr 8, 7. 9. 13-15

“Sự dư thừa của anh em bù đắp lại sự thiếu thốn của những anh em nghèo khó”.

Trích thư thứ hai của Thánh Phaolô Tông đồ gửi tín hữu Côrintô.

Anh em thân mến, cũng như anh em vượt trổi về mọi mặt: về lòng tin, về hùng biện, về sự hiểu biết, về mọi hình thức nhiệt thành, cũng như về lòng bác ái của anh em, thì anh em cũng phải vượt trổi trong việc phúc đức này.

Vì anh em biết lòng quảng đại của Ðức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta: mặc dù giàu sang, Người đã nên thân phận nghèo khó, để nhờ việc nghèo khó của Người, anh em nên giàu có. Nhưng không lẽ để cho kẻ khác được thư thái, mà anh em phải túng thiếu, nhưng phải làm sao cho đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, sự dư giả của anh em bù đắp lại chỗ thiếu thốn của họ, để sự dư giả của họ bù đắp lại sự thiếu thốn của anh em, hầu có sự đồng đều như lời đã chép rằng: “Kẻ được nhiều, thì cũng không dư; mà kẻ có ít, cũng không thiếu”.

Ðó là lời Chúa.

Alleluia: Ga 6, 64b và 69b

Alleluia, alleluia! – Lạy Chúa, lời Chúa là thần trí và là sự sống; Chúa có những lời ban sự sống đời đời. – Alleluia.

Phúc Âm: Mc 5, 21-43

“Hỡi em bé, Ta bảo em hãy chỗi dậy”.

Tin Mừng Chúa Giêsu Kitô theo Thánh Marcô.

Khi ấy, Chúa Giêsu đã xuống thuyền trở về bờ bên kia, có đám đông dân chúng tụ họp quanh Người, và lúc đó Người đang ở bờ biển. Bỗng có một ông trưởng hội đường tên là Giairô đến. Trông thấy Người, ông sụp lạy và van xin rằng: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống”. Chúa Giêsu ra đi với ông ấy, và đám đông dân chúng cũng đi theo chen lấn Người tứ phía.

{Vậy có một người đàn bà bị bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà đã chịu cực khổ, tìm thầy chạy thuốc, tiêu hết tiền của mà không thuyên giảm, trái lại bệnh càng tệ hơn. Khi bà nghe nói về Chúa Giêsu, bà đi lẫn trong đám đông đến phía sau Người, chạm đến áo Người, vì bà tự nhủ: “Miễn sao tôi chạm tới áo Người thì tôi sẽ được lành”. Lập tức, huyết cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Ngay lúc ấy, Chúa Giêsu nhận biết có sức mạnh đã xuất phát tự mình, Người liền quay lại đám đông mà hỏi: “Ai đã chạm đến áo Ta?” Các môn đệ thưa Người rằng: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy tứ phía, vậy mà Thầy còn hỏi ‘Ai chạm đến Ta?’!” Nhưng Người cứ nhìn quanh để tìm xem kẻ đã làm điều đó. Bấy giờ người đàn bà run sợ, vì biết rõ sự thể đã xảy ra nơi mình, liền đến sụp lạy Người và thú nhận với Người tất cả sự thật. Người bảo bà: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an và được khỏi bệnh”.}

Người còn đang nói, thì người nhà đến nói với ông trưởng hội đường rằng: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?” Nhưng Chúa Giêsu đã thoáng nghe lời họ vừa nói, nên Người bảo ông trưởng hội đường rằng: “Ông đừng sợ, hãy cứ tin”. Và Người không cho ai đi theo, trừ Phêrô, Giacôbê và Gioan, em Giacôbê. Các Ngài đến nhà ông trưởng hội đường và Chúa Giêsu thấy người ta khóc lóc kêu la ồn ào, Người bước vào và bảo họ: “Sao ồn ào và khóc lóc thế? Con bé không chết đâu, nó đang ngủ đó”. Họ liền chế diễu Người. Nhưng Người đuổi họ ra ngoài hết, chỉ đem theo cha mẹ đứa bé và những môn đệ đã theo Người vào chỗ đứa bé nằm. Và Người cầm tay đứa nhỏ nói rằng: “Talitha, Koumi”, nghĩa là: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!” Tức thì em bé đứng dậy và đi được ngay, vì em đã được mười hai tuổi. Họ sửng sốt kinh ngạc. Nhưng Người cấm ngặt họ đừng cho ai biết việc ấy và bảo họ cho em bé ăn.

Ðó là lời Chúa.

1. Đừng sợ, hãy vững tin! – Huệ Minh

Với con người, chết nghĩa là chấm hết.

Thật thế, dấu chấm hết cho đời một con người sau khi người đó trút hơi thở cuối cùng.

Theo Thánh Kinh, khi sự dữ, khi sự ác đi vào con người thì khi đó, sự chết đột nhập vào thế gian như những lời trong sách Khôn Ngoan mà chúng ta vừa nghe:

Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi người sống phải chết. Người tác thành mọi sự cho có. Người tạo dựng mọi sự trên mặt đất đều lành mạnh, chúng không có nọc độc sự chết, và không có địa ngục ở trần gian.

Vì chưng, công chính thì vĩnh cửu và bất tử. Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Chúa, để sống vĩnh viễn. Nhưng bởi ác quỷ ghen tương, nên tử thần đột nhập vào thế gian: kẻ nào thuộc về nó thì bắt chước nó (Kn 1, 13- 15).

Ngày hôm nay, các môn đệ cũng như đám đông dân chúng chứng kiến hình ảnh lạ. Hình ảnh của một người đàn ông trai tráng không dám nói là bảnh bao. Chắc hẳn ông là người khá đứng tuổi vì ông là trưởng hội đường. Có tuổi, có vị thế là trưởng một hội đường như vậy nhưng đứng trước Chúa Giêsu, ông đã tỏ thái độ hết sức khiêm nhường là sụp lạy và van xin rằng: “Con gái tôi đang hấp hối, xin Ngài đến đặt tay trên nó để nó được khỏi và được sống”.

Và, trước thái độ của ông, Chúa Giêsu đã có thể nói là lập tức lúc ấy đi theo ông, về dến nhà ông và đi vào nhà và nói luôn: “Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy!”

Trong khi đó, ta vẫn thấy thái độ cứng tin của đám đông dân chúng. Lòng cứng tin của họ không còn để trong lòng nữa, lòng tin của họ đã khép lại khi họ nói: “Con gái ông chết rồi, còn phiền Thầy làm chi nữa?”

Thế nhưng, đứng trước thái độ cứng tin của đám đông dân chúng, ông trưởng hội đường vẫn tin tưởng, vẫn tín thác vào tình thương của Chúa. Tình thương của Chúa dành cho con người hay nói cách khác dành cho mỗi người tùy theo cách cảm nhận của mỗi người.

Khi ta cảm nhận được Chúa thương ta rồi thì ta lại càng tín thác cuộc đời của ta như ông trưởng hội đường đã tín thác. Niềm tin của ông đã được Thiên Chúa đáp trả bằng việc Chúa cho con ông sống lại.

Cuộc đời ta, ngổn ngang biết bao nhiêu chuyện. Chuyện của người, chuyện của đời và chuyển của chính bản thân chúng ta. Có những chuyện xảy ra làm ta giật cả mình và không hiểu tại sao nó lại là như thế? Và, trong lắng đọng của cuộc đời ta nhận ra rằng Chúa thương mình hơn là mình nghĩ.

Có những biến cố trong đời không khỏi chạnh lòng tôi.

Hai vợ chồng đứa cháu cưới nhau được vài năm. Chồng cháu gặp rắc rối về răng và chữa trị. Chẳng hiểu sao trên bàn mổ vì lý do nào đó mà chồng đã ra đi vĩnh viễn ở cái tuổi rất đẹp: 30. Cháu hoàn toàn suy sụp. Cha cháu phải dọn về ở chung với cháu vì sợ trong cơn suy sụp cháu sẽ có những hành động thiếu suy nghĩ hay hành động khác người.

Khi được chị kể lại câu chuyện của cháu ở phương trời xa. Tôi chỉ biết nói với chị là chị cùng gia đình và dạy con cái để cho chúng thấy rằng gia đình được như ngày hôm nay đó là hồng ân và tạ ơn Chúa. Hãy tạ ơn Chúa vì không biết ngày nào là ngày cuối của mình và hãy sống cái ngày hôm nay như là ngày cuối của mình cách nào đó cho đẹp.

Hay là, mới đây, khi hỏi thăm hai vợ chồng quen biết về cuộc sống, người vợ không ngần ngại kể cho tôi rằng 2 vợ chồng đã không còn chung bước với nhau 2 năm nay rồi. Chuyện là không biết lý do nào đó anh làm gì đó để vỡ nợ và phải bán luôn cả căn nhà mà suốt bao nhiêu năm trường hai vợ chồng cùng con cái ôm ấp biết bao nhiêu kỷ niệm.

Nghe như thế, nhìn như thế để thấy rằng gia đình của mình còn may mắn là không phải rơi vào cảnh nợ nần và phải bán nhà cũng như chia tay như thế. Nhìn như thế để liệu liệu mà sống để đừng phải bước theo con người đó. Con đường của vỡ nợ, bán nhà, túng thiếu chẳng phải là con đường của nhiều người muốn bước vào. Khi mình may mắn mình không phải rơi vào những hoàn cảnh như thế là minh cũng là người hạnh phúc hơn họ rồi.

Nói như vậy không phải để so đo, tính toán, so sánh … nhưng giật mình nhận ra rằng Chúa thương mình quá sức tưởng tượng. Lẽ ra trong cuộc sống mình phải mất mát nhiều do tội lỗi của mình nhưng sao Chúa thương mình như thế.

Có như vậy, nhìn như vậy để thấy rằng Chúa thương mình nhiều và mình lại tiếp tục tín thác cuộc đời vào lòng bàn tay của Chúa hơn.

Niềm tin của chúng ta luôn luôn bị thách thức. Có khi thách thức do sự yếu lòng của ta, có khi do sự thúc đẩy của đám đông đông dân chúng, có khi lại do ta không cảm nhận được tình Chúa thương ta.

Xin Chúa thêm ơn cho mỗi người chúng ta để dù giữa biết bao nhiêu sóng gió của cuộc đời ta luôn chạy đến với Chúa và xin Chúa đặt tay lên cuộc đời của ta để ban ơn lành cho chúng ta.

 

2. Cần phải có niềm tin mạnh mẽ

(Suy niệm của Huệ Minh)

Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới của những câu hỏi “tại sao” mà lý trí con người không thể lý giải được.

Trang Tin Mừng hôm nay mời gọi chúng ta đi vào thế giới của những câu hỏi “tại sao” mà lý trí con người không thể lý giải được.

Cuộc sống vốn là một phép lạ, từng hơi thở con người là một phép lạ, mỗi ngày là một phép lạ, mỗi phút giây là một phép lạ. Chỉ có đôi mắt nội tâm mới cho con người cảm nhận được phép lạ triền miên ấy. Sống đích thực, sống dồi dào, là biết chiêm ngưỡng để đón nhận phép lạ từng ngày ấy.

Phép lạ một người đàn bà bị băng huyết được chữa lành nhờ chỉ chạm đến áo của Chúa Giêsu, và phép lạ một em bé gái chết được Chúa Giêsu cho sống lại; cả hai phép lạ đều phát xuất từ lòng tin của con người.

Niềm tin của người đàn bà được tưởng thưởng. Bà mau chóng được chữa lành. Tuy nhiên ngay khi bà định lẩn vào đám đông vô danh. Đức Giêsu đã tìm thấy bà. Người không ưa chuộng cách chữa bệnh ấy. Một vài người chữa bệnh giản lược đến mức tối thiểu sự tiếp xúc nhân bản. Nhưng Đức Giêsu thì không. Người luôn luôn đối xử với con người trên một bình diện cá nhân. Mặt khác, Đức Giêsu biết có năng lực từ Người phát ra, chứng tỏ có người sờ vào áo Người để được chữa bệnh và lấy năng lực đó từ Người.

Ông trưởng hội đường đã biểu lộ lòng tin bằng cách lặn lội tìm đến với Chúa Giêsu xin Ngài tới đặt tay trên con gái của ông; người đàn bà băng huyết tin một cách mãnh liệt nơi sức mạnh phát xuất từ con người Chúa Giêsu. Nơi ông trưởng hội đường, lòng tin được tuyên xưng tỏ tường; nơi người đàn bà băng huyết, niềm tin rụt rè kín đáo. Nhưng dù tỏ tường hay kín đáo, chính lòng tin đã giúp cho phép lạ xảy ra, như Chúa Giêsu đã nói với người đàn bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.

Chính Chúa Giêsu xác nhận lòng tin là chìa khóa thần kỳ mở ra cho người đàn bà kho tàng chứa đựng điều mà bà khao khát: được chữa lành chứng bệnh nan y.

Niềm tin làm cho con người được sống, điều này vẫn thường xảy ra trong đời sống con người. Tất cả những thành công trong cuộc sống đều nhờ ở niềm tin, nhưng niềm tin tôn giáo thì quan trọng hơn, bởi vì chính sự sống tinh thần và tâm linh mới là điều cần thiết cho con người đạt được thành công. Có tất cả, nhưng thiếu đời sống tâm linh, con người vẫn như sống dở. Sống sung mãn, sống dồi dào, chính là sống nội tâm. Chỉ có một đời sống nội tâm sung mãn mới giúp con người thấy được, cảm nhận được những gì mà giác quan và lý trí không thể đạt được.

Tin vào những chuyện dễ dàng, tin khi cuộc sống bình an xuôi thuận thì chưa hẳn là đức tin. Đó chỉ là một chuyện đương nhiên thôi. Đức tin là một nhân đức căn bản của Đạo. Phải là vẫn cứ tin vào những chuyện khó khăn vượt quá sức loài người. Vẫn cứ tin khi cuộc đời gặp lúc cheo leo. Đức tin vững vàng như vậy có thể làm nên những phép lạ. Bởi lẽ, trước một hoàn cảnh quá khó khăn, trong lúc đời sống quá gian nan, nếu ta vẫn tin thì không phải là ta tin vào sức riêng của ta nữa, mà là tin vào sức Chúa, và Chúa quyền năng làm được mọi sự.

Để được chữa lành, Chúa cần lòng tin và chỉ cần lòng tin mà thôi. Lòng tin của người phụ nữ thật đơn sơ, nhưng mạnh mẽ: “tôi chỉ cần đụng được vào áo của Người thôi, là sẽ được cứu”. Ở những nơi hành hương, người ta vẫn thể hiện lòng tin bằng cách đụng vào các bức tượng hay thánh tích.

Đức tin là vị thuốc thần đem lại hạnh phúc cho nhân loại. Đức tin là bí quyết đem lại hy vọng cho nơi nào không còn gì để hy vọng! Sau khi mọi hy vọng, mọi biện pháp chữa trị của con người đã trở nên vô hiệu quả, thì chỉ còn niềm tin mới có khả năng “cứu độ”. Đức Giêsu đã đem lại niềm vui và bình an cho những ai tuyệt vọng mà vẫn một lòng cậy trông. Có lần Đức Giêsu đã nói: “Nếu bạn có đức tin bằng hạt cải, thì bạn có thể nói với ngọn núi này ‘hãy di chuyển từ đây đến kia’, nó sẽ di chuyển” (Mt 17,20).

Đây không phải là một lời phóng đại, nhưng là một sự thực được chứng minh qua cuộc đời các vị Thánh. Các vị Thánh là những người đã tin và các ngài đã làm được nhiều điều kỳ diệu.

Tin là điều kiện cần thiết để Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ. Thế nhưng việc Chúa Giêsu thực hiện các phép lạ cũng không nằm ngoài mục đích là củng cố niềm tin cho những kẻ đi theo Ngài, để họ tin rằng Ngài là Thiên Chúa, là Đấng Cứu Thế, nhờ đó mà họ được ơn cứu độ. Không bao giờ Chúa Giêsu làm phép lạ để biểu diễn như lời dụ khị của Satan; hay là để cho nhân dân tán thưởng như các võ sĩ, các nhà ảo thuật, hoặc các diễn viên xiếc…

Lòng tin thường phát xuất từ tình yêu. Hiện thực cuộc sống cho ta thấy điều này: tình yêu đến trước rồi đôi nam nữ dần tin nhau chứ không phải vì họ tin nhau trước rồi họ mới yêu nhau. Để xây dựng lòng tin, trước hết ta hãy có một chút tình. Ta hãy đi bước trước trong việc yêu thương như Chúa Giêsu yêu thương. Nguời không chỉ chăm sóc các môn đệ mà còn tìm mọi cách để cho các ông sinh hoa kết trái và tạo điều kiện để các ông “làm được nhiều việc lớn lao hơn cả những việc Người làm” (x.Ga 14,11-12).

Khi Chúa đòi hỏi phải có lòng tin, Người không đòi hỏi quá đáng. Chỉ cần ta thực tâm và cố gắng rồi Chúa sẽ tạo điều kiện cho chúng ta biểu lộ lòng tin và ban thưởng cho lòng kiên trì của ta, dù đó là những phấn đấu nội tâm thầm kín.

Nhìn lại tất cả những biến cố của cuộc đời ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Gia-ia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà không cần kêu xin nài nẵng như ông Gia-ia, bà chỉ có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.

 

3. Hãy bám vào Chúa

(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Tôi mới nghe tin một người quen bị ung thư. Tôi liền điện thoại hỏi thăm. Người bạn đó bảo: bác sĩ tây y – đông y đều bó tay rồi. Bây giờ trong người đau nhức lắm. Tôi chỉ mong ra đi sớm cho khỏi chịu sự đau đớn này. Tôi nói với người bạn: còn nước còn tát. Còn một hơi thở cũng đừng bỏ cuộc. Là người ky-tô hữu chúng ta còn có một phương dược diệu kỳ là cậy dựa vào quyền năng Chúa. Hãy cầu nguyện và bám chặt vào Ngài.

Dầu thế nào đi nữa, sinh bệnh lão tử là lẽ thường tình. Con người dường như bất lực với lẽ thường tình ấy. Dù Tần Thủy Hoàng có thuốc linh đan trường sinh rồi cũng chết. Dù văn minh khoa học tiến bộ rồi cũng bất lực trước những bệnh tật khổ đau của con người. Sự bế tắc trong sinh tử cho thấy con người không thể dựa vào khả năng của mình để thoát khỏi dòng sinh mệnh ấy. Con người đành ngậm ngùi tiếc thương cho nhau khi gặp hoạn nạn gian nan. Chúng ta vẫn thường nghe bác sĩ nói nhỏ với bệnh nhân hoặc người nhà bệnh nhân: “tôi rất tiếc vì không có thể làm gì hơn được nữa!”

Xem ra chỉ có Thiên Chúa mới có quyền trên mọi bệnh tật. Chỉ có Ngài mới cầm quyền sinh tử cho con người. Ông hội trưởng trong tin mừng thánh Marco có lẽ đã từng “vái tứ phương” để tìm thầy chạy thuốc cho đứa con cưng của mình. Nhưng đã hoàn toàn thất bại. Chỉ khi ông gặp được Chúa, đặt niềm tin nơi Chúa. Con gái ông mới được cứu. Niềm tin vào Chúa đã được bù đắp bằng ơn lành Chúa ban theo ý ông xin.

Thế nhưng, đôi khi chúng ta không khỏi thắc mắc băn khoăn. Tại sao Chúa nhận lời người này mà lại không nhận lời người kia? Tại sao giữa dòng đời có người vui và có người buồn? Có người khoẻ mạnh. Có người ốm đau. Có những người cả cuộc đời sống trong lụa là gấm vóc. Có những người lại cơ cực lầm than. Có người được yêu thương, có người bị khinh chê ruồng bỏ. Có người hạnh phúc, có người bất hạnh.

Phải chăng Thiên Chúa yêu thương người này và ghét bỏ người kia? Chắc chắn là không. Vì Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài yêu thương mọi loài mà Ngài đã tạo dựng nên. Hoa cỏ đồng nội. Muôn thú muôn loài đều được Ngài chăm sóc huống chi con người. Sự dữ không phải do Thiên Chúa mang đến. Sự dữ là thế lực thù nghịch với Thiên Chúa. Ma qủy luôn tìm cách phá hủy công trình của Chúa. Trong đó công trình vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã làm nên, đó là tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Chính vì điểm này mà Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người dùng tự do để quy phục Thiên Chúa thay vì quay lưng lại với Ngài. Con người có tự do để hành xử. Theo Chúa để chống lại sự dữ, để sống vâng phục theo thánh ý Chúa. Khi con người sử dụng tự do để sống theo thánh ý Chúa là lúc con người chấp nhận những thử thách khó khăn trong cuộc đời, với một niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi những ai trung tín theo Ngài.

Cuộc đời vẫn thường có những trái ngang. Dòng đời không thiếu những bất trắc xảy ra, khiến chúng ta dễ thất vọng về những gì đang diễn ra trong cuộc đời. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Hãy chạy đến cùng Thiên Chúa. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho dân Ngài.

Ước gì chúng ta có đủ đức tin để chạy đến kêu cầu Chúa chữa lành khi gặp những tai ương hoạn nạn. Xin cho chúng ta luôn tín thác vào Chúa dẫu cuộc đời vẫn còn đó những phong ba gió bụi cuộc đời. Amen.

 

4. Đừng tuyệt vọng …

(Suy niệm của Lm. Jos. Tạ Duy Tuyền)

Điều cao qúy nhất của con người không phải là của cải vật chất, là danh vọng, địa vị mà là tự do. Tự do để đi lại. Tự do để hành động mà không bị một thế lực nào khống chế hay kềm kẹp. Thế nên, có tự do là có hạnh phúc, ngược lại là đau khổ và bất hạnh.

Con người có thể mất tự do bởi đau ốm bệnh tật. Con người cũng có thể mất tự do bởi những đam mê tội lỗi. Đau ốm bệnh tật giam hãm con người phần xác. Đam mê tội lỗi giam hãm con người phần hồn. Tất cả đều làm cho con người đau khổ và thất vọng. Có những người đau khổ vì đau lâu ốm dài. Có những người đau khổ vì tai nạn hay mắc những căn bệnh hiểm nghèo. Có những người đau khổ vì lỡ nghiện ngập hay sa chân lỡ bước mà không thể tử bỏ và làm lại cuộc đời được. Tất cả những ai đang sống trong tình trạng này đều mong muốn được giải thoát, được cứu chữa. Họ đều cảm thấy mình bất lực với sự dữ đang hoành hành thân xác và tâm hồn mình. Họ cần một phép lạ có thể biến đổi tình trạng của họ nên tốt hơn.

Đó cũng là tâm trạng của ông Hội trưởng có con gái bị bệnh và của người phụ nữ bị bệnh băng huyết trong bài tin mừng hôm nay. Ông hội trưởng có lẽ đã từng đi “vái tứ phương” để tìm thầy chạy thuốc cho đứa con cưng của mình. Người phụ nữ có lẽ đã đi đến đường cùng, nên đánh liều xông thẳng vào Chúa, chỉ mong được chạm vào Chúa, với hy vọng nho nhỏ là được lành bệnh. Họ đã được toại nguyện. Người phụ nữ cảm thấy nhẹ mình. Không còn khổ sở vì căn bệnh đã kéo dài suốt 12 năm. Ông hội trưởng cảm thấy hạnh phúc vì đứa con đã ngồi dạy, ăn uống bình thường. Có lẽ họ rất vui vì được Chúa nhận lời họ. Niềm tin của họ vào Chúa đã được bù đắp bằng ơn lành Chúa ban cho họ. Họ đã được giải thoát khỏi đau khổ bằng sức mạnh và quyền năng của Chúa.

Thế nhưng, đôi khi chúng ta không khỏi thắc mắc băn khoăn. Tại sao Chúa nhận lời người này mà lại không nhận lời người kia? Tại sao giữa dòng đời có người vui và có người buồn? Có người khoẻ mạnh. Có người ốm đau. Có nhũng người cả cuộc đời sống trong lụa là gấm vóc. Có những người lại cơ cực lầm than. Có người được yêu thương, có người bị khinh chê ruồng bỏ. Có người hạnh phúc, có người bất hạnh. Phải chăng Thiên Chúa yêu thương ngừơi này và ghét bỏ người kia? Chắc chắn là không. Vì Thiên Chúa là Cha nhân từ. Ngài yêu thương mọi loài mà Ngài đã tạo dựng nên. Hoa cỏ đồng nội . Muôn thú muôn loài đều được Ngài chăm sóc huống chi con người. Sự dữ không phải do Thiên Chúa mang đến. Sự dữ là thế lực thù nghịch với Thiên Chúa. Ma qủy luôn tìm cách phá hủy công trình của Chúa. Trong đó công trình vĩ đại nhất mà Thiên Chúa đã làm nên, đó là tạo dựng con người giống hình ảnh Thiên Chúa. Chính vì điểm này mà Thiên Chúa luôn đòi hỏi con người dùng tự do để quy phục Thiên Chúa thay vì quay lưng lại với Ngài. Con người có tự do để hành xử. Theo Chúa để chống lại sự dữ, để sống vâng phục theo thánh ý Chúa. Khi con người sự dụng tự do để sống theo thánh ý Chúa là lúc con người chấp nhận những thử thách khó khăn trong cuộc đời, với một niềm tin vào Thiên Chúa tình yêu, Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi những ai trung tín theo Ngài.

Người ta kể rằng: có một thiếu phụ sống rất bi quan. Cô cảm thấy dường như Chúa đã bỏ rơi mình. Một lần kia, thiếu phụ đang đi trên đường và gặp một linh mục, sau câu chào hỏi, linh mục đã nói với thiếu phụ rằng: Cô có dám buông tay cho đứa bé rớt xuống đất không?

Thiếu phụ nhìn linh mục với sự ngạc nhiên, không hiểu sao ngài lại nói như thế?

Linh mục nói tiếp: Nếu có ai trả cho cô một số tiền lớn để buông đứa bé cho rơi xuống đất, cô có chịu không?

Thiếu phụ trả lời: Dù ai có cho tiền nhiều như sao trên trời tôi cũng không đời nào buông con tôi rơi xuống cách đau đớn như vậy.

Lúc ấy, linh mục ôn tồn bảo: Thiên Chúa là người cha nhân lành, Ngài sẽ không bao giờ để con cái Ngài rơi xuống hố thẳm của đau khổ đâu.

Nghe lời đó, thiếu phụ bừng tỉnh, và dường như cô không còn bi quan trong cuộc sống nữa.

Cuộc đời vẫn thường có những trái ngang. Dòng đời không thiếu những bất trắc xảy ra, khiến chúng ta dễ thất vọng về những gì chúng ta đang có. Hãy tin tưởng vào Thiên Chúa. Hãy chạy đến cùng Thiên Chúa. Ngài sẽ không bao giờ bỏ rơi chúng ta. Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho dân Ngài.

Nguyện xin Thiên Chúa luôn nâng đỡ trợ giúp chúng ta vượt qua khó khăn, thử thách và ban cho chúng ta một đức tin vững vàng, để chúng ta luôn tin rằng: Thiên Chúa là người Cha đầy nhân ái, bao dung, Ngài sẽ làm những điều tốt đẹp nhất cho cuộc đời của chúng ta. Amen.

 

5. Khẽ chạm vào Chúa Giêsu

(Suy niệm của PM. Cao Huy Hoàng)

“Tôi mà sờ vào được áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa” (Mc 5,28)

Đó là xác tín của “người đàn bà bị băng huyết 12 năm khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc, đến tán gia bại sản”. Và bà đã thực hiện điều bà đã xác tín.

Cái khẽ chạm của người đàn bà bị băng huyết, chỉ nơi gấu áo choàng của Chúa Giêsu, cũng đủ làm cho Người phát hiện một năng lực đang tiêu hao, đang xuất phát. Vì cái khẽ chạm ấy bắt nguồn từ một ước muốn ngay lành và niềm tin mãnh liệt.

Ước muốn ngay lành

Ước muốn ngay lành là ước muốn được trở nên tinh tuyền, không còn ô uế, không còn phải xấu hổ vì sự ô uế của mình trước mặt thiên hạ. Thánh Marcô cho biết “bao năm chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản” đủ cho thấy ước muốn ấy, đã đến mức thành khẩn biết bao! Một ước muốn ngay lành. Một khao khát chính đáng. Ước muốn sống động của một con người khôn ngoan không chấp nhận đầu hàng trước số phận nghiệt ngã. Khao khát cháy bỏng nhưng tế nhị biết người biết ta trong quan hệ tương giao vừa đủ. Bởi bà biết mình là ai, bà biết mình cần gì. Bà cũng biết Đức Giêsu là ai, và bà biết tránh cho Đức Giêsu khỏi bị lây nhiễm cái ô uế oan nghiệt của cuộc đời. Bà biết nghĩ đến Chúa Giêsu, biết giữ gìn cho danh giá Con Thiên Chúa. Từ ước muốn ngay lành và khôn ngoan của bà, đã điều phối mọi cử chỉ, theo với niềm tin mãnh liệt.

Niềm tin mãnh liệt

Niềm tin mãnh liệt là một khẳng định “có một không hai”- không ai khác ngoài Chúa Giêsu mới có thể cứu chữa bà: “Tôi mà sờ vào được áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa”. Niềm tin ấy đơn sơ mộc mạc, không cầu kỳ, không vênh vang, nhưng âm thầm lặng lẽ. Niềm tin của người đau khổ. Niềm tin của người bé nhỏ, thấp kém. Niềm tin mãnh liệt nhưng thể hiện khiêm tốn: “bà lách qua đám đông, tiến đến phía sau Người và sờ vào áo choàng của Người”. Giữa một đám đông chen lấn như thế, thì việc đụng chạm vào Chúa Giêsu là điều không tránh khỏi. Có biết bao nhiêu cái chạm vào Chúa Giêsu , nhưng chỉ có cái khẽ chạm phát xuất từ niềm tin và khao khát hoàn thiện của bà băng huyết ấy, mới có sức làm tiêu hao năng lực Chúa Giêsu mà thôi, mới có sức lôi kéo sự sống, sự toàn thiện của Chúa Giêsu về làm sự sống, sự toàn thiện cho mình.

Còn chúng ta? Trong số những người chen lấn, đụng chạm vào Chúa Giêsu có cả tôi và bạn đấy chứ? Có cả chúng ta? Có cả những người đương thời, đương chung sống với chúng ta đấy chứ? Có cả những người mang danh là tín hữu, có cả những người vô thần… Nhưng có năng lực nào đã xuất phát từ Đức Giêsu về phía chúng ta không? Sự sống và sự toàn thiện của Ngài sao không xuất phát ra để chúng ta khỏi trầm mình trong bóng tối sự chết, trong cõi mê lầm, lung lạc?

Hẳn là vì chúng ta đang chen lấn, đụng chạm vào Chúa Giêsu để ghi tên vào danh sách những người đi theo Chúa Giêsu mà không hề có một ước muốn hoàn thiện, một đức tin được chữa lành. Hoặc có người đang đụng chạm vào Chúa Giêsu như một xúc phạm để làm cho danh giá của Ngài bị vùi dập trước mặt người đời.

Nếu chúng ta không thực sự khẽ chạm vào Chúa Giêsu với niềm tin mãnh liệt để chính mình được nên toàn thiện với Ngài, thì việc rao giảng về Chúa Giêsu Kitô, việc dạy giáo lý về Chúa Giêsu Kitô, cũng không khác gì việc truyền bá một mớ vốn liếng kiến thức của các kinh sư ngày ấy. Càng không thể lay chuyển hay mời gọi ai đến chạm vào Chúa Giêsu khi căn bệnh trầm kha trong đời mình chưa chữa khỏi: căn bệnh “không ước muốn hoàn thiện”.

Sự cần thiết của ước muốn hoàn thiện…

Ôi sự cần thiết của ước muốn hoàn thiện đang trở nên cấp bách dường nào trong tình thế, trong môi trường truyền giáo của chúng ta hôm nay.

Chúng ta đang sống trong một đất nước xã hội chủ nghĩa với những người cộng sản vô thần. Họ đang mang căn bệnh trầm kha “không ước muốn hoàn thiện” theo ý của Thiên Chúa. Và tư tưởng ấy, căn bệnh ấy, đang là một chủ trương cuốn hút nhiều người sa đà theo cách sống hoàn thiện vật chất “ăn ngon, mặc đẹp” là đủ ý nghĩa cuộc đời!

Thách thức mới trong thời đại chúng ta là chúng ta phải thực sự trở nên toàn thiện nhờ múc lấy năng lực của Chúa Giêsu mới có thể thực hiện ước mơ biến đổi não trạng của những người vô thần. Họ là bà con, là anh em, là đồng bào của chúng ta. Họ cũng được sinh ra và lớn lên trên mảnh đất Việt Nam thân yêu thắm đẫm máu các thánh Tử Vì Đạo. Họ cũng là những công trình thượng đẳng của Thiên Chúa. Tiếc là, họ không tin nhận Thiên Chúa. Và vì không có «đấng trên đầu trên cổ» nên họ đã sa vào bao lầm lạc. Người công giáo Việt Nam, không xem họ là kẻ thù. Kẻ thù chính yếu là những lầm lạc của satan trong lòng họ. «Kẻ thù ta đâu có phải là người. Giết người đi thì ta ở với ai. Kẻ thù ta tên nó là gian ác…» (Phạm Duy).

Trong những ngày nầy, có thể đang có những giằng xé tận thâm tâm của những người cộng sản nắm giữ vận mạng đất nước, về sự tồn vong của tổ quốc của dân tộc Việt nam! Người công giáo Việt Nam khắp nơi đang thắp nến cầu nguyện công khai, đang âm thầm cầu nguyện nơi các nhà thờ, các gia đình, cầu cho giới lãnh đạo khôn ngoan nhận ra con đường phải đi, việc phải làm vì lợi ích chung cho dân tộc; cầu cho họ «có ước muốn hoàn thiện» để sửa chữa khẩn cấp những chủ trương có thể nguy hại cho vận mệnh đất nước. Việc đạo đức ấy, chính là việc làm phát xuất từ Ước Muốn Hoàn Thiện và Đức Tin Mãnh Liệt của «bà băng huyết 12 năm khổ sở chạy thầy chạy thuốc đến tán gia bại sản». Việc đạo đức ấy chính là việc khẽ chạm vào gấu áo Chúa Giêsu, với lòng tin Ngài sẽ tuôn sức sống nơi Ngài xuống cho mình và cho cả cộng đồng dân tộc

Và việc cần làm ngay là mỗi người phải nhận ra mình đang lâm trọng bệnh, cần có ước muốn hoàn thiện nhờ lòng tin mãnh liệt vào Chúa Giêsu, Đấng duy nhất có thể, không chỉ cứu chữa mà còn tuôn tràn sức sống, sự toàn thiện của Ngài để chúng ta có sức chu toàn ơn gọi yêu thương và giới thiệu Chúa cho mọi người.

Một cái khẽ chạm vào chân lý, sẽ ngộ ra ngay mình lầm lạc bấy nay…

Lạy Chúa Giêsu, không cần phải báo cáo, Chúa cũng đang biết có bao nhiêu người Việt Nam đang thành tâm khẽ chạm vào gấu áo Ngài… Xin tuôn tràn sức sống của Chúa cho chúng con. Amen.

 

6. Đức tin

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay đã ghi lại hai mẫu gương đức tin sáng chói.

Trước hết là ông Giairô, ông đến với Chúa để van nài Ngài: Lạy Thầy, đứa con tôi sắp chết, xin Ngài hãy tới. Khi người ta báo tin đứa bé đã chết, Chúa Giêsu liền bảo ông: Đừng sợ, nhưng hãy tin. Tiếp đến là người đàn bà mắc bệnh loạn huyết. Bà từ phía sau, đến gần Chúa và tự nhủ: Nếu tôi chạm tới gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi.

Ước gì mỗi khi lên rước lễ, chúng ta cũng có được một đức tin như thế, khi miệng lưỡi chúng ta chạm tới Mình Máu Thánh Chúa.

Qua đức tin, Phúc Âm cũng dạy cho chúng ta một bài học về đức cậy. Thực vậy, đứa con gái đã chết và người ta cười nhạo Chúa. Thế nhưng Ngài điềm nhiên nói: Đứa bé không chết đâu, nó ngủ đấy. Cũng vậy, khi thân xác Lagiarô bắt đầu rữa thối, nhưng Ngài muốn cho ông ta được sống lại, thì liền nói: Bạn Lagiarô của Ta đang ngủ.

Thực vậy, Đức Kitô, qua cái chết và sống lại, đã giải phóng chúng ta khỏi cái chết. đôn đốc tin vào Đức Kitô cũng có nghĩa là hy vọng Ngài sẽ cho chúng ta được sống lại. Thế nhưng tin có khó hay không? Cha Thomas có viết như sau: Vấn đề gai góc ngày hôm nay, không phải là vấn đề Giáo Hội có bị lung lay chăng, nhưng là vấn đề đức tin của chúng ta hôm nay gặp quá nhiều chướng ngại, nào là văn minh vật chất, nào là óc thực nghiệm và duy khoa học, sợ dấn thân và thích yên ổn. Trong khi đức tin đòi hỏi chúng ta phải dấn thân, phải phó thác, phải hy sinh. Tin đồng nghĩa với bị quên lãng, bị bách hại và phải chấp nhận hy sinh. Tóm lại, tin là phải sống chính thân phận của Đức Kitô, là Thiên Chúa Ngài đã hạ mình xuống, mặc thân phận tôi đòi, đã vâng lời cho đến chết và chết trên thập giá. Là Thiên Chúa Ngài đã chấp nhận thân phận tội nhân, để con người tội lỗi chúng ta được gọi là con Thiên Chúa.

Ngoài ra, tin còn là hiệp thông với Giáo Hội bởi vì Giáo Hội gắn liền với Đức Kitô, cùng thao thức với Giáo Hội trước những vấn đề của thế giới hôm nay. Cùng đau khổ vì những chống đối, những sai phạm và những khinh khi của kẻ khác đối với truyền thống xã hội.

Vậy niềm tin đem lại ích gì? Tôi xin thưa đó là sự an bình đích thực cho tâm hồn. Trong một cuộc động đất kinh hoàng, mọi người đều lo sợ, tuy nhiên có bà cụ vẫn bình tĩnh chăm sóc cho những nạn nhân, mặc dầu nhà cửa của bà cũng đã bị sụp đổ. Người ta hỏi thì bà trả lời: Tôi chẳng bao giờ phải sợ hãi vì tôi tin rằng Thiên Chúa là Cha tôi và Ngài có thể lay chuyển cả trời lẫn đất với tình yêu thương của Ngài.

Chính vì thế, chúng ta hãy kêu lên như các tông đồ ngày xưa: Lạy Chúa, xin hãy củng cố niềm tin bé nhỏ của chúng con.

 

7. Này bé, Chỗi dậy đi!

(Suy niệm của Lm. Trầm Phúc)

Thánh Máccô tường thuật một loạt các phép lạ của Chúa Giêsu; và hôm nay, Giáo Hội mời gọi chúng ta dừng lại nơi hai phép lạ cả thể này, hai phép lạ mang nhiều ý nghĩa: một người được lành bệnh nan y và một người chết sống lại.

Chúa Giêsu vẫn là con người của đám đông. Ngài thuộc về họ. Đi đến đâu cũng bị bao vây. Đang lúc bận bịu với đám đông, một ông trưởng Hội Đường đến gặp. Thánh Máccô ghi rõ thái độ của ông: ông sụp lạy dưới chân Ngài. Một ông trưởng Hội Đường, một người danh giá trước mặt dân chúng, thế mà ông quì sụp xuống dưới chân Ngài. Thật khiêm tốn và khẩn thiết! Vì ông đã đến đường cùng và ông nhìn Chúa Giêsu như một Đấng có thể giúp ông vượt qua cơn ngặt nghèo. Ông chỉ có một đứa con gái duy nhất. Giàu có như ông, chắc không thiếu gì thầy thuốc, nhưng tình trạng của con ông gần như tuyệt vọng. Ông chỉ còn cậy trông vào “ông Giêsu” mà ông đã từng nghe nói tới.

Chúa Giêsu nhận lời ông ngay và cùng đi với ông. Đám đông vẫn đi theo, chen lấn. Nhưng dọc đường, một người đàn bà bị băng huyết đã đến, âm thầm lách qua đám đông, sờ vào áo Ngài. Bà nghĩ rằng: nếu có thể động vào áo Ngài chắc bà sẽ khỏi bệnh. Tình trạng của bà cũng gần như tuyệt vọng. Bà đã chạy thầy chạy thuốc suốt bao nhiêu năm, nhưng bệnh tình càng ngày càng trầm trọng hơn. Chỉ còn một tia hy vọng cuối cùng là “ông Giêsu.”

Tại sao bà không đi đến với Ngài trực tiếp xin Ngài chữa cho?

Theo luật Do thái, những bệnh như bà là những bệnh ô uế, không được phép ra khỏi nhà và đụng vào ai người ấy bị ô uế. Làm sao bà có thể đường đột đến xin Ngài chữa bệnh? Vì thế bà lén lút lách qua đám đông để tìm cách chạm vào áo Ngài thôi.

Niềm tin của bà mang một chút mê tín, nhưng là một niềm tin thành thật và mãnh liệt.

Bà đã thành công. Bà đã động được áo Ngài và bà đã được lành bệnh. Nhưng Chúa Giêsu biết mọi sự, Ngài dừng lại và hỏi: “Ai đã động vào áo Ta?” Các môn đệ bảo: “Thầy xem người ta chen lấn Thầy thế này mà Thầy còn hỏi ai động vào Thầy!” Chúa Giêsu khẳng định: “Có người động vào Ta”. Có điều gì quan trọng đã xảy ra khiến Ngài chú ý. Ngài rảo mắt tìm quanh. Người đàn bà run lên vì thấy mình bị bại lộ. Mình là một người ô uế! Mình đã làm một điều trái Luật! Bà quì xuống dưới chân Ngài và thú tội. Nhưng trái với ý nghĩ của bà, không những không bị quở trách và đuổi xua, bà lại nghe một lời dịu ngọt, đầy an ủi: “Nầy con, lòng tin của con đã cứu lấy con.. Hãy về và khỏi hẳn bệnh”.

Chúng ta nghĩ, người đàn bà đó sẽ vui mừng như thế nào! Đó là phần thưởng của niềm tin chân thật.

Chúng ta vào tòa giải tội. Có những người sợ sệt, run rẫy, nhưng khi đã xưng thú tội lỗi đã nhận được sự bình an đến nỗi reo lên: “Ô! Tôi nhẹ như cất cả một khối sắt trong tâm hồn! Hồng ân của lòng tin thành thật là sự bình an. Chúa Giêsu vẫn chờ đón chúng ta khi chúng ta gần như thất vọng. Ông Giai-ia và bà băng huyết đã đi đến mức tuyệt vọng như thế và đã không hối tiếc.

Chúa Giêsu muốn cho mọi người thấy lòng tin của người đàn bà băng huyết và hồng ân Ngài ban tặng. Ngài có thể làm như không hay biết, nhưng Ngài muốn cho mọi người thấy kết quả của lòng tin.

Ngài tiếp tục đi tiếp về nhà ông Giai-ia, nhưng một biến cố mới xảy đến. Người nhà ông trưởng Hội đường cho hay: “Em bé đã qua đời, đừng phiền Thầy nữa”. Chúng ta nghĩ ông Giai-ia sẽ như thế nào khi nghe tin đó? Tất cả niềm hy vọng của ông phụt tắt. Ông òa lên khóc. Chúa Giêsu bảo: “Đừng sợ. Tin thôi!” Và Ngài tiếp tục cuộc hành trình.

Giữa bao nhiêu thử thách cam go của cuộc sống, nhiều khi chúng ta nản lòng,mất phương hướng. Chúa Giêsu chỉ bảo chúng ta một điều: tin thôi.

Chúng ta dám tin, Chúa dám làm. Nhưng ngược lại, nếu chúng ta kém tin, Chúa không thể hoạt động. Điều kiện tiên quyết để Chúa hành động chính là niềm tin của chúng ta. Ngay khi chúng ta ở trong những tình trạng bế tắc nhứt, Chúa vẫn chờ đợi chúng ta tin vào Ngài: “Thầy đây! Đừng sợ!”

Đến nhà ông Giaia, người ta đang khóc lóc ồn ào và đợi ông về để quấn khăn liệm cho em bé. Chúa Giêsu bước vào, Ngài nói ngay: “Sao lại khóc ồn ào như thế? Em bé nầy có chết đâu, nó ngủ đó”.

Ai cũng cười nhạo Ngài, và cho Ngài là một tên “xạo” nào đó. Đứa bé đã chết cóng rồi mà ông nói nó ngủ! Thật là buồn cười! Chúa Giêsu làm như cố tình để cho người ta nhạo cười để rồi Ngài cho họ thấy uy quyền của Thiên Chúa.

Ngài bảo mọi người ra khỏi nhà, trả lại sự yên tĩnh cho căn nhà. Ngài chỉ cho ba môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan đi theo vào nhà và đến trước nơi em bé đang nằm. Ngài cầm tay em bé và gọi: “Em bé, dậy đi con”. Thế là em bé ngồi dậy…như vừa tỉnh giấc. Những người cười nhạo đâu rồi? Giờ nầy họ mới sáng mắt ra và ngỡ ngàng.

Lòng tin của ông trưởng Hội đường được ân thưởng. Chúng ta thử tưởng tượng nỗi vui mừng của ông và gia nhân của ông.Niềm vui đột ngột đến nỗi không ai có thể hiểu được. Nếu chúng ta có mặt ở đó, chúng ta sẽ nghĩ sao? Có thể nói, chúng ta cũng như những người đang có mặt đó thôi. Ngỡ ngàng và thán phục. Chưa từng thấy ai làm được một việc cả thể như thế! Vậy ông Giêsu nầy là ai? Sao ông có thể làm được một việc kỳ diệu như thế? Nó là kết quả của niềm tin và lòng khiêm tốn. Chúa Giêsu thường nói đến niềm tin và đòi buộc những người đến với Ngài một niềm tin không sứt mẻ. Anh mù ở Giêrikhô,bà góa Xyrô-Phênixi có đứa con gái bị quỉ ám, người đàn ông có đứa con trai bị quỉ ám…đều là những người đã tin vào Chúa vô điều kiện.

Chính Ngài cũng bảo chúng ta: “Nếu đức tin chúng con bằng hạt cải thôi, chúng con cũng có thể chuyển núi dời non”. Thế nhưng chúng ta có ai đã làm được? Tại sao? Chúa nói sai hay sao? Không! Chỉ vì chúng ta kém tin. Niềm tin của chúng ta còn quá xanh xao, không đủ sức mang lại hiệu quả. Chúng ta luôn tưởng rằng chúng ta đã tin vững vàng, nhưng trong thực tế, cần phải xét lại…

Chúng ta đã cố gắng rất nhiều, đã dùng mọi phương tiện tối tân, đã đổ bao công sức để truyền giáo, kết quả như thế nào? Chẳng được bao nhiêu như các môn đệ xưa chài lưới suốt đêm mà không được con cá nào. Vì người ta cứng tin hay vì chính chúng ta cũng không tin? Hay chúng ta chỉ làm việc mà không cần đến Chúa? Chúng ta chỉ tin vào khả năng và phương tiện của chúng ta?

Khi chúng ta nhận thấy được rằng chúng ta không là gì cả, chúng ta hoàn toàn bất lực; Lúc ấy, chúng ta mới chạy đến sấp mình dưới chân Chúa để nói rằng: xin Thầy đến giúp chúng con, vì chúng con không thể làm gì mà không có Thầy. Đa số chúng ta đều mang một thứ bệnh không ai chữa được là bệnh tự phụ. Ai cũng muốn cho cái tôi nổi cộm lên, và như thế, Chúa Giêsu nhỏ lại. Chúng ta che lấp Chúa vì chúng ta lớn quá, che cả mặt trời.

Chúa Giêsu ngược lại, Ngài trở nên nhỏ bé, đến nỗi người ta không thấy Ngài mà chỉ thấy ông thợ mộc Nadaret, con ông Giuse. Ngài nhỏ bé đến nỗi chỉ còn là một tấm bánh và chúng ta nuốt vào trong mình mà không hay. Chúng ta khác Chúa như thế làm sao chúng ta làm công việc của Ngài được? Người đàn bà mắc bệnh băng huyết, và ông trưởng Hội đường đã dạy chúng ta bài học về sự khiêm tốn. Chúa Giêsu cũng dạy chúng ta một bài học duy nhất đó thôi: “Hãy học cùng Ta vì Ta hiền lành và khiêm nhượng”. Sự khôn ngoan nằm trong sự khiêm tốn. Thành công vĩ đại không phải là làm những việc to tác mà làm việc cho Chúa tôi, không cầu vinh, không ham mê kết quả thấy được. Chính Chúa mới làm cho con người khỏi bệnh hay sống lại. Chính Chúa mới cầm tay chúng ta kéo chúng ta đứng dậy và cho chúng ta ăn, như em bé kia.

Nầy đây, bàn tiệc của Chúa đang chờ chúng ta đến tham dự. Hãy đến với niềm tin chân thành và khiêm tốn, chúng ta sẽ thấy được quyền năng của Đấng là sự thật và là sự sống.

 

8. Đừng sợ! Hãy cứ tin

(Suy niệm của Lm. Giuse Đỗ Văn Thụy)

Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin phải được tôi luyện trong đau khổ. Trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên những phép lạ.

Chúa Giêsu nói với ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”.

Câu chuyện trong Tin Mừng cho chúng ta biết đôi điều về ông Trưởng Hội Đường này. Ông là Chủ Tịch Ban Quản Trị Hội Đường và là Chủ Tịch Hội Đồng Kỳ Mục và có trách nhiệm điều hành mọi công việc trong Hội Đường. Ông có trách nhiệm trong việc chỉ đạo các buổi hội họp, có trách nhiệm phân phối công việc và xem xét mọi việc thực hiện cho đúng như luật định. Ông là nhân vật quan trọng trong cộng đồng, nhưng khi con gái ông ngã bệnh, ông nghĩ ngay đến Chúa Giêsu.

Ông đã quên đi các thành kiến. Trước kia có thể ông đã coi Chúa Giêsu như một người xa lạ, một người giảng tà giáo, bị các hội đường cấm cửa, một người mà bất luận người nào coi trọng chính thống giáo cũng phải xa tránh.

Ông quên đi vị thế của mình. Ông là Trưởng Hội Đường đầy quyền lực thế mà lại đến hạ mình dưới chân Đức Giêsu.

Còn một điều lạ lùng nữa là ông đã đích thân đến với Chúa Giêsu chứ không sai người nhà đi. Có lẽ sở dĩ ông ta phải đi vì không còn ai chịu đi. Người nhà ông đều tỏ ra nghi ngờ và bảo ông rằng đừng đi tìm ông Giêsu làm gì cho mất công. Theo tinh thần câu chuyện, nếu ông không đi tìm Chúa Giêsu để xin Ngài giúp đỡ, họ còn hài lòng hơn, nhưng ông đã bất chấp dư luận và thách đố cả những lời khuyên bảo của người nhà khi ông ta đến kêu cầu Chúa Giêsu.

Ông đã đến với Chúa Giêsu và Chúa Giêsu cùng đi với ông …nhưng đang khi đi đường thì có người nhà đến báo: “Con gái ông chết rồi, còn làm phiền Thầy làm chi nữa!” Nhưng Chúa Giêsu bảo ông: “Đừng sợ, hãy cứ tin”…chính nhờ lòng tin mà ông đã được một điều ngoài cả sự mong ước của mình.

“Đừng sợ, hãy cứ tin”…thế là đứa bé được sống lại. Một người chết rồi mà Chúa còn cho sống lại, phương chi làm cho một người bệnh, dù bệnh nặng như người phụ nữ bị loạn huyết 12 năm thì có gì là khó đối với Chúa Giêsu.

Chúng ta trở lại diễn tiến của câu chuyện: Theo luật Do Thái, người nào mắc chứng bệnh này thì đương nhiên bị liệt vào hàng ô uế, cho nên không được vào Đền Thờ, không được tham dự các lễ nghi phụng tự, và cũng không được đụng tới ai vì hễ ai mà bị người ô uế đụng phải thì cũng trở thành người ô uế luôn.

Trong đau khổ, bà đã nảy ra một ý tưởng táo bạo là tìm cách đụng vào gấu áo Đức Giêsu. Ý định này táo bạo ở chỗ là việc đó trái lề luật, và cũng chẳng ai chịu cho bà ta đụng vào mình vì sợ bị lây nhiễm sự ô uế, vì thế mà bà ta phải làm một cách lén lút. Dù vậy Đức Giêsu vẫn biết.

Khi Đức Giêsu hỏi “Ai đã đụng đến ta?” thì bà ta sợ hãi vì thấy việc làm của mình đã bị bại lộ. Nhưng bà ta ngạc nhiên hết sức vì Đức Giêsu không hề quở trách, trái lại đã chữa bà khỏi bệnh, và còn an ủi bà “con hãy đi bình an”.

Chúa chỉ cần đức tin. Đức tin của ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”.

Chúa chỉ cần đức tin, một đức tin vững mạnh của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an”.

Qua thái độ của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết và của ông Trưởng Hội Đường Giairô, ta thử nhìn lại đức tin của chúng ta xem như thế nào.

Tin khi đời sống yên ổn, thuận buồm xuôi gió thì chưa phải là một đức tin đích thực. Đức tin phải được tôi luyện trong đau khổ. Trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên những phép lạ.

Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm được tình yêu của Thiên Chúa ngay trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng là cho chúng ta một năng lực để chuyển hoá đau khổ như ông Francois Mauriac đã phát biểu:”Ngài đến không phải để cất đi sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Nghĩa là Thiên Chúa đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.

Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ phải chịu đựng bệnh tật, họ phải chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật và phải chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Trái lại, đối với những người có đức tin thì đau khổ lại là một cơ hội để đức tin lớn mạnh và trưởng thành hơn.

Trường hợp của người phụ nữ bị loạn huyết và của ông Trưởng Hội Đường, cả hai hầu như bị dồn vào đường cùng, nhưng đường cùng có thể làm chúng ta tuyệt vọng nhưng đường cùng cũng có thể là một cơ hội làm cho đức tin của chúng ta nên mạnh mẽ như trong bài Tin Mừng hôm nay:

Chúa chỉ cần đức tin, đức tin của ông Trưởng Hội Đường: “Đừng sợ, hãy cứ tin”.

Chúa chỉ cần đức tin, một đức tin vững mạnh của người phụ nữ bị bệnh loạn huyết: “Hỡi con, đức tin của con đã chữa con, hãy về bình an”. Amen.

 

9. Đức tin.

Đoạn Tin Mừng sáng hôm nay được chia thành hai màn nhưng cùng chung một khung cảnh, đó là bên bờ hồ với đông đảo dân chúng. Màn thứ nhất đó là ông chủ hội đường đến, phủ phục dưới chân Chúa mà van xin: Lạy Thầy, con bé nhà tôi gần chết xin Ngài đến đặt tay lên cháu để cháu được qua khỏi và được sống. Trước một nguy cơ đang đe doạ nghiêm trọng sự sống của con gái ông, ông đã khước từ hy vọng vào loài người để chỉ trọn vẹn tin vào Đức Kitô. Thế nhưng, cái tin đau đớn về cái chết của cô bé ập xuống trên đầu ông. Tức khắc Chúa Giêsu an ủi ông: Đừng sợ, chỉ cần tin mà thôi. Điều ông xin lúc mới gặp Chúa Giêsu thì bây giờ đã bị vượt qua. Có lẽ nhờ đó mà ông có được một niềm tin lớn hơn, đúng như Chúa Giêsu đã mời ông thực hiện. Ngài đem ba môn đệ thân tình nhất cùng với cha mẹ cô bé ra riêng mà nói với họ: Con bé không chết đâu, nó ngủ đấy, trong khi đó đám đông cười nhạo Ngài. Là người Kitô hữu hôm nay chúng ta hiểu được ý nghĩa sâu xa của câu nói đó. Khi Chúa Giêsu đến thì cái chết không còn là cái chết, mà đó chỉ là giấc ngủ. Xuyên qua niềm tin của Giairô, chúng ta thấy thấp thoáng niềm tin của ông vào Đấng sẽ làm cho kẻ chết sống lại.

Đang khi Chúa Giêsu gặp ông Giairô thì một người đàn bà đến từ phía sau và lén động tới gấu áo của Ngài. Lén, là bởi vì bà ta đang trong tình trạng ô uế, vì bị băng huyết. Ở đây, chúng ta thấy nổi bật lên hai nét: Một thứ tín ngưỡng tin vào sức mạnh thể lý nào đó của người làm phép lạ và quyền năng của Đức Kitô trước thất bại của các lương y khác. Hai ghi nhận đó được diễn tả trong câu: Tức khắc máu cầm lại và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi bệnh. Đó là niềm tin dưới dạng thức sơ khai của người đàn bà được một thứ tính toán vụ lợi hướng dẫn, nhưng cuối cùng đã được toại nguyện, với cái giá phải trả là chạm mặt với Đức Kitô. Nhưng đó mới là màn một, còn màn hai thì như thế nào.

Màn hai này mang lại cho câu chuyện một tầm vóc khác xa những gì đã diễn ra trước đó. Bởi vì Đức Kitô muốn con người đã lén động đến Ngài vượt ra khỏi cảnh vô danh. Ngài bắt bà ta phải tự giới thiệu công khai và cùng bà ta đi vào một quan hệ cá nhân, một cuộc trực diện có thể soi sang chúng ta. Khi đó, bà ấy đã trình bày sự thật và khi nhấn mạnh tới niềm tin của bà, Chúa Giêsu cho bà ta lui về bình an: Này con, đức tin của con đã chữa con, con hãy đi bình an và khỏi bệnh. Từ một niềm tin sơ khai, người đàn bà đã bước sang một niềm tin trọn vẹn, mang sâu đậm một mối quan hệ của bà với Chúa Giêsu, Đấng Cứu Thế. Và ông Giairô đã trông thấy điều đó khi ông đứng cạnh Chúa Giêsu, cho nên chúng ta dễ hiểu tại sao chính ông cũng đã đạt được đức tin trọn vẹn như chúng ta vừa mới chứng kiến ở trên.

Hãy tự hỏi xem coi long chai đá của chúng ta có thể đi từ sợ sệt đến đức tin, có thể vượt qua mọi e dè để từ từ khai mở cho một đức tin đầy tin tưởng hay không?

 

10. Đừng sợ.

Sợ hãi có lẽ là tâm trạng chung của con người, ngày xưa cũng như hôm nay. Qua đoạn Tin Mừng vừa nghe, chúng ta thấy: Trong khi các môn đệ và Chúa Giêsu vượt biển, thì bỗng dưng cuồng phong nổi lên, sóng gió ập vào đến nỗi thuyền đầy nước và sắp chìm. Các môn đệ ra sức chèo chống và tát nước, còn Chúa Giêsu vẫn đang ngủ say. Các ông sợ hãi đánh thức Ngài dậy. Chỉ với một lời đầy quyền năng: Hãy im đi, hãy lặng đi. Lập tức sóng liền yên, biển liền lặng và các ông đem thuyền vào bến bình an.

Với chúng ta cũng vậy, cuộc đời người Kitô hữu nói riêng, hay Giáo Hội nói chung, vẫn không thiếu những sóng to và gió lớn. Nó làm cho con thuyền cuộc đời chúng ta bị chao đảo và dường như muốn chìm xuống đáy nước. Trong những giờ phút đen tối, chúng ta hãy nhớ lại lời Chúa Giêsu: Đừng sợ.

Đây cũng là lời Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II, Đấng kế vị thánh Phêrô, đã lặp lại để động viên chúng ta, ngay từ những ngày đầu lãnh nhận sứ vụ thay mặt Chúa ở trần gian. Và từ đó, Đức Thánh Cha đã không mệt mỏi lặp lại lời này. Nó có giá trị trấn an thế giới đang sẵn sàng bước vào ngàn năm thứ ba.

Tại sao lại đừng sợ? Vì bên trên chiến tranh, tàn khốc, bên trên những xung khắc kinh tế và xã hội, bên trên tính bất khoan dung và sự nghèo đói mà nhân loại đang phải gánh chịu, còn có Tin Mừng mang lại sự sống và sự bình an. Đó chính là nguồn hy vọng cho thế giới ngày mai. Tuy nhiên bản thân chúng ta cần phải làm gì để không còn sợ hãi?

Trước hết chúng ta phải biết làm chủ cảm xúc của mình. Thực vậy, cây cỏ tuỳ vào thời tiết để sinh trưởng, nhưng chúng ta thì khác, chúng ta phải tạo ra thời tiết chung quanh chúng ta. Trong giao tiếp hằng ngày, nếu chúng ta chỉ đem đến mưa bão, gió lạnh và bóng tối, thì những người chung quanh chúng ta cũng sẽ đáp trả lại bằng những mưa bão, gió lạnh và bóng tối. Trái lại, nếu chúng ta đem đến cho họ niềm vui, tiếng cười, lòng hăng say và ánh nắng rực rỡ, thì sọ sẽ phản ứng với niềm vui mừng và hy vọng chan chứa. Cái thời tiết chúng ta đã tạo ra sẽ mang đến cho chúng ta một mùa gặt sung mãn. Gieo gì thì gặt nấy. Nếu chúng ta gieo rắc sự bình an, thì chúng ta cũng sẽ gặt lấy được sự bình an và chúng ta sẽ không còn phải sợ hãi.

Tiếp đến, chúng ta phải xây dựng cuộc đời chúng ta trên nền tảng đức tin. Bởi vì đức tin luôn chiến thắng sợ hãi, đức tin là một sức mạnh mà nỗi sợ hãi không thể nào chống đỡ được. Nếu cõi lòng chúng ta chất đầy niềm tin, thì chắc chắn sẽ không còn chỗ cho sợ hãi nữa. Và như thế, chúng ta chỉ còn một nỗi lo sợ duy nhất đó là lo sợ không mến Chúa và yêu người cho đủ mà thôi.

 

11. Đức Kitô là nguồn sống

(Suy niệm của Lm Giuse Đinh Lập Liễm)

  1. DẪN NHẬP

Sách Thánh dạy chúng ta:”Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài” để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, nhưng chương trình ấy đã bị phá vỡ bởi tội lỗi con người, và từ đó sự chết đã nhập vào thế gian, khiến con người phải chết (Kn 1,13-15). Ngoài ra, con người còn phải chịu nhiều đau khổ như bệnh tật, thiên tai, hận thù, chiến tranh, chém giết nhau… Chúng rình rập chúng ta như săn đuổi con mồi, hòng chộp bắt chúng ta, đánh qụy chúng ta và sớm đẩy chúng ta xuống mồ.

Nhưng sách Khôn ngoan hôm nay dạy chúng ta:”Thiên Chúa không tạo dựng sự chết, chẳng vui mừng khi kẻ sống phải chết”(Kn 1,13). Ngài muốn cứu sống chúng ta, đem lại hạnh phúc và bình an cho chúng ta. Vì thế, nếu chúng ta biết tin tưởng và kêu cầu Ngài thì được Ngài cứu sống (Đáp ca:Tv 29).

Chúa sẽ nghe lời chúng ta kêu cầu nhưng đòi hỏi chúng ta phải đặt hết niềm tin vào Ngài và cộng tác với ơn Ngài theo gương người đàn bà băng huyết và ông trưởng hội đường Giairô trong bài Tin mừng hôm nay. Ngoài ra, chúng ta cần có thái độ tích cực và khôn ngoan trước những đau khổ, trước những gian nan thử thách mà Chúa gửi đến cho chúng ta:”Ông đừng sợ, hãy vững tin”(Mc 5,36).

  1. TÌM HIỂU LỜI CHÚA.

+ Bài đọc 1: Kn 1,13-15; 2,23-24.

Sách Khôn ngoan được soạn vào khoảng thế kỷ I trước công nguyên. Tác giả là một người rất ư lạc quan. Dưới con mắt của ông, Tạo hoá mong muốn mọi sự tồn tại và danh dự của Ngài không cho phép cái chết thắng sự sống. Mọi sự có lẽ sẽ hài hoà nếu tội lỗi không xen vào chương trình sáng tạo để làm nó bị lạc hướng và dẫn nó đến cái chết, bởi vì con người được tạo dựng giống hình ảnh Thiên Chúa, để cho loài người được sống vĩnh viễn.

Để giải quyết vấn đề do cái chết đặt ra, tác giả bèn liên kết cái chết thể xác với cái chết tinh thần: sở dĩ có sự chết là do tội lỗi mà ra. Tuy nhiên, cái chết thể xác nằm trong viễn tượng Phục sinh, vì nó sẽ khai mở tới sự sống đời đời.

+ Bài đọc 2: 2Cr 8,7-9.13-15.

Lúc ấy cộng đoàn Giêrusalem đang gặp nạn đói, thánh Phaolô đang tổ chức một cuộc lạc quyên để giúp đỡ cộng đoàn này. Để thuyết phục tín hữu tích cực tham gia đóng góp, Ngài đã đưa ra gương sáng của Đức Giêsu Kitô, Đấng giầu sang vô cùng, đã tự ý trở nên nghèo khó để làm cho loài người được nên giầu có.

Cuộc lạc quyên này sẽ chứng tỏ sự bình đẳng giữa người Do thái và Hy lạp: người Do thái đã chia sẻ cho người Hy lạp những đặc ân tinh thần, thì cũng là điều bình thường khi người Hy lạp chia sẻ cho người Do thái những may mắn của họ về vật chất trong lúc này. Như thế, sự dư dả của người này bù đáp sự thiếu thốn của người kia. Có như thế,”Kẻ được nhiều cũng không dư, mà kẻ có ít thì cũng không thiếu”.

+ Bài Tin mừng: Mc 5,21-43.

Thánh Marcô thuật lại cho chúng ta hai phép lạ có liên quan đến nhau: phép lạ làm cho con gái ông trưởng hội đường Giairô sống lại và phép lạ làm cho người đàn bà bị băng huyết đã 12 năm được khỏi. Hai phép lạ này gợi cho chúng ta hai điều:

  1. Trước hết, hai phép lạ này mạc khải cho chúng ta về lòng nhân hậu của Đức Kitô, khiến không bao giờ cho Ngài được dửng dưng trước đau khổ của người khác. Đồng thời cũng hé mở cho chúng ta về quyền năng phát xuất từ Đức Giêsu: Ngài có thể làm cho khỏi bệnh dễ dàng, nhất là làm cho kẻ chết sống lại.
  2. Những phép lạ này đòi hỏi đức tin nơi người muốn kêu xin. Đức tin cần thiết biết bao:”Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi”(Mc 5,36). Đức tin của ông Giairô và người đàn bà băng huyết rất lớn: đặt hết tin tưởng vào Đức Kitô. Ngài dùng quyền năng cứu chữa và ban sự sống Ngài mang trong mình cho những ai, dù bề ngoài thất bại cách nào đi nữa, xin thì sẽ được như ý.
  3. THỰC HÀNH LỜI CHÚA.

Sống trong niềm tin và hy vọng.

  1. TIN THÌ ĐƯỢC SỐNG.

Bài đọc 1 hôm nay nhắc cho chúng ta tư tưởng lạc quan về cuộc sống. Khi tạo dựng con người, Thiên Chúa đã tạo dựng con người giống hình ảnh Ngài, để con người được tham dự vào sự sống vĩnh cửu, được hạnh phúc đời đời, nhưng con người đã phá vỡ kế hoạch của Thiên Chúa vì phạm tội. Tuy nhiên, Thiên Chúa giầu lòng thương xót sẽ nhận lời những ai thành khẩn kêu xin Ngài (Đáp ca:Tv 29). Tư tưởng này được minh chứng bằng hai phép lạ dưới đây:

  1. Chữa người đàn bà băng huyết.

Bỏ địa hạt Cêsarê, Đức Giêsu lại trở về Capharnaum. Thấy Ngài trở lại, dân chúng đến đón Ngài rất đông để được nghe giảng và xin phép lạ. Trong số đó, ông trưởng hội đường Giairô có đứa con gái bệnh nặng gần chết. Ông đến xin Ngài đến chữa cho con ông. Ngài nhận lời đi ngay.

Đang trên đường đi đến nhà ông Giairô thì dọc đường có một người đàn bà bị bệnh băng huyết đã 12 năm, không dám đến gần Ngài một cách công khai vì luật lệ cấm ky, vì bệnh băng huyết là một thứ bệnh nhơ nhớp, bệnh nhân không được công khai giao thiệp với dân chúng. Bà lén lút đến đàng sau Đức Giêsu với ý nghĩ rằng miễn sao chạm được vào gấu áo Ngài là khỏi bệnh ngay. Bà đã sờ vào được gấu áo Chúa nên bà cảm thấy lập tức trong mình đã được khỏi bệnh. Đức Giêsu biết rõ sự việc đã xẩy ra và hỏi xem ai đã động đến gấu áo Ngài? Bà thành thật thú nhận việc đã làm, Đức Giêsu đã yên ủi và khích lệ bà:”Hỡi con, đức tin của con đã chữa con”.

  1. Cứu sống con gái ông Giairô.

Vừa chữa bệnh cho một người đàn bà bị băng huyết, Đức Giêsu vừa tiếp tục đi tới nhà ông Giairô. Tình cờ người nhà ông đến báo tin con ông đã chết rồi, đừng phiền đến Thầy nữa. Nhưng Đức Giêsu khích lệ ông:”Đừng sợ, hãy cứ tin”.

Quang cảnh nhà đứa bé thật nhộn nhịp: tiếng khóc của thân nhân cũng như của những người khóc mướn, tiếng trống tiếng kèn , cùng với lời báo tin của người nhà cũng như thái độ cười nhạo của những người chung quanh không tin vào quyền năng của Đức Giêsu cho thấy cô bé đã chết thật. Nhưng ở đây Đức Giêsu lại bảo:”Cô bé không chết đâu, nó ngủ đấy”. Ngài nói thế là vì Ngài muốn tỏ ra rằng Ngài làm cho kẻ chết sống lại dễ dàng như người ngủ thức dậy, để người khó tin được dễ hiểu.

Trước mặt 5 nhân chứng là cha mẹ cô bé và 3 môn đệ là Phêrô, Giacôbê và Gioan, Đức Giêsu cầm lấy tay cô bé và nói:”Hỡi em bé, Ta truyền cho em hãy chỗi dậy”. Và em bé chỗi dậy mạnh khỏe. Ở đây Đức Giêsu tỏ ra có quyền trên sự chết và sự sống. Ngài làm chủ của kẻ sống và kẻ chết.

  1. THIÊN CHÚA MUỐN ĐỨC TIN CỦA CHÚNG TA.
  2. Phép lạ và đức tin.

Tất cả các phép lạ Đức Giêsu làm đều có ý khơi dậy lòng tin cho người ta. Không ai có thể chối cãi được những phép lạ Ngài đã làm như chữa bệnh, trừ qủi, dẹp yên sóng gió, làm cho kẻ chết sống lại… Vì những phép lạ này làm công khai trước mặt nhiều người và làm ngay tức khắc nên mọi người phải công nhận. Khi chữa bệnh xong, Đức Giêsu hay nói với bệnh nhân:”Đức tin của con đã chữa con”.

Còn những nơi người ta không tin Ngài thì Ngài không làm phép lạ, như trường hợp ở quê hương Ngài vì “gần chùa gọi bụt bằng anh”; còn đối với những luật sĩ và liệt phái chống đối Ngài thì Ngài cũng không làm phép lạ cho họ. Họ không thật lòng xin Ngài làm phép lạ mà chỉ thách thức Ngài thôi. Nếu không tin, không kêu xin Ngài thì làm gì có phép lạ?

Người đàn bà bị băng huyết này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà, nhưng bà tự nhủ:”Tôi chỉ cần sờ vào gấu áo Ngài thì tôi sẽ được khỏi”. Nghĩ thế và bà đã dám làm, bất chấp luật lệ cấm đoán phiền phức và khắt khe. Điều đó chứng tỏ bà đã có đức tin vững mạnh, và thúc đẩy Chúa làm phép lạ. Kết quả là bà đã được như ý khi Chúa nói với bà:”Đức tin của con đã chữa con”.

Trường hợp ông trưởng hội đường Giairô cũng thế. Ông là một người có địa vị và thế giá trong dân. Điều này nói lên việc ông làm có ý thức và có thế giá. Thái độ khiêm nhường của ông trước mặt Đức Giêsu diễn tả niềm tin sâu xa của ông, ông đã qùy mọp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin:”Con bé nhà tôi gần chết rồi, xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống”. Như vậy ông này phải tin Đức Giêsu là ai, có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ và thái độ khiêm nhường và kêu xin như thế. Qua thái độ tin tưởng và lời cầu xin ấy, ông đã được toại nguyện.

  1. Phép lạ có còn hợp thời không?

Đứng trước những dữ kiện “phép lạ” Chúa làm mà Tin mừng kể lại, (1/3 của Tin mừng Marcô) chúng ta thấy ngày nay có hai khuynh hướng trái ngược nhau. Một số khoa học gia cho rằng phép lạ chỉ gây rắc rối cho đức tin, dần dần khoa học sẽ giải quyết nhiều bệnh lý. Trái lại, ngày nay, phong trào Thánh Linh đang phát triển mạnh làm cho người ta tin tưởng rằng trong một cộng đoàn có Chúa Thánh Thần hoạt động, phép lạ không còn là một sự phi thường. Kinh nghiệm bản thân và sự quan sát khách quan đã minh chứng điều đó (Theo Sr Briege Mckenna, O.S.C, Des Miracles d’Aujourd’hui).

Sống trong không khí thực nghiệm và duy vật, người ngày nay, cả trong Kitô hữu, có khi là cả tu sĩ hay giáo sĩ, có khuynh hướng muốn phủ nhận phép lạ và chối bỏ các điều mầu nhiệm của đạo.

– Đối với phép lạ, họ cho là nghịch công lệ tự nhiên, trái với sự bất di dịch của Thiên Chúa. Không nghịch, không trái gì hết. Tin phép lạ là tin Thiên Chúa có thể làm được những việc mà không loài thọ tạo nào tự sức mình có thể làm được. Ta hãy nghe nhà văn hào J.J Rousseau nói:”Thiên Chúa có làm được phép lạ không? Nghĩa là Ngài có thể làm khác với các định luật Ngài lập không? Câu hỏi ấy mà có ý đặt ra thực, thì quả là ngạo mạn, nếu không là vô lý. Đối với kẻ trả lời rằng không, thì phạt nó còn là quá hân hạnh cho nó, hạng ấy cứ giam vào ngục là xong”.

– Đối với các mầu nhiệm, họ bảo người tin có mầu nhiệm nghĩa là tin cái không hiểu được, là mê tín. Không phải là mê tín. Tin mầu nhiệm chỉ là công nhận rằng sự thông minh của Thiên Chúa vượt hẳn trí khôn ta. Ông Charles Nicolle, một bác học có hạng, khi trở lại Công giáo nói:”May mà còn có những mầu nhiệm của tôn giáo! Nếu không, thì thật là khả nghi, vì tôi sợ rằng đó chỉ là sản phẩm giả tạo của trí óc loài người. Mầu nhiệm của tôn giáo làm tôi an tâm. Nó là biểu hiệu của Thiên Chúa” (Trần văn Khả, Phúc âm Chúa nhật năm B, tr 151-152).

Truyện: Phải chăng là phép lạ?

Trong chương trình “The Extraordinary” có kể câu chuyện lạ, xẩy ra tại Melbourne, Australia vào năm 1987. Buổi sáng đẹp trời, một bà bẹ chở đứa con gái 7 tuổi đến trường. Đang lúc mẹ con trò chuyện vui vẻ, bất chợt một chiếc xe trọng tải đâm thẳng vào hông xe, nơi em bé ngồi. Em bé bị ngất xỉu. Sau khi cứu sống, hội đồng bác sĩ cho biết là em sẽ không bao giờ có thể đi lại được nữa! Em sống, nhưng mất nhiều khả năng tri giác và cảm xúc. Thật là tin buồn cho người mẹ. Tuy nhiên bà ngoại vẫn điềm tĩnh và có linh cảm rằng cháu của bà sẽ được ơn đặc biệt. Bà thường đến bệnh viện thăm và giúp cháu đọc kinh và cầu nguyện. Những ai thấy bệnh trạng của em bé đều thương hại cho em. Nhiều người ngạc nhiên là trên khuôn mặt của em luôn hiện lên sự bình an từ trong tâm hồn và niềm vui siêu nhiên. Sau khi rời bệnh viện, dần dần em đi học lại và theo kịp các bạn cùng lớp (Hà ngọc Đoài).

Câu chuyện em bé hôm nay và con gái ông trưởng hội đường hôm xưa cũng tương tự. Xưa và nay cũng chỉ là một Thiên Chúa. Ngài luôn tươi trẻ với thời gian và luôn gần gũi trong không gian để an ủi và nâng đỗ những ai tìm đến Ngài.

III. ĐỨC TIN VÀ HÀNH ĐỘNG.

  1. Phải cộng tác với Chúa.

Thánh Giacôbê đã khẳng định về sự cần thiết của việc làm song song với đức tin:”Đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết. Đàng khác, có người sẽ bảo: “Bạn, bạn có đức tin; còn tôi, tôi có hành động. Bạn thử cho tôi thấy thế nào là tin mà không có hành động, còn tôi, tôi sẽ hành động để cho bạn thấy thế nào là tin”(Gc 2,17-18).

Tin là cộng tác với ơn Chúa, và muốn sống đời đời cũng phải đồng hành với Chúa như người đàn bà băng huyết, bà nghĩ mình phải làm cái gì đó chứ không chỉ tin suông, nên bà đã đến với Chúa chớ không chờ Chúa đến với mình.

Ông Giairô cũng vậy, ông tin Đức Giêsu có thể cứu sống con ông, ông vội vã đến với Chúa. Cả hai đều tin tưởng vào Chúa và nỗ lực cộng tác với Ngài. Vì thế, chúng ta không thể cứ thụ động chờ Chúa làm phép lạ, nhưng hãy xử dụng hết những phương tiện Chúa ban, còn phần kia tùy Chúa định liệu.

Truyện: Hãy tự cứu mình trước

Câu chuyện xẩy ra vào mùa thu, có một vùng quê bị một trận lụt dữ dội tàn phá, khiến cho một bà già bị kẹt trong căn nhà bà. Đang khi bà ta đứng tựa cửa sổ nhà bếp nhìn ra thì một chiếc thuyền xuất hiện, người lái thuyền bảo bà:”Hãy leo lên thuyền để thoát nạn”. Bà lão đáp lại:”Không, cám ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.

Ngày hôm sau, cơn lụt dâng cao đến tầng hai của căn nhà. Đang lúc bà lão đứng tựa cửa sổ tầng hai ngắm nhìn con nước thì một chiếc thuyền khác lại xuất hiện. Người lái thuyền bảo bà:”Hãy lên thuyền để thoát nạn”. Bà già đáp lại:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa. Ngài sẽ cứu tôi”. Người lái thuyền lắc đầu rồi bỏ đi.

Ngày kế tiếp cơn nước dâng lên tận nóc nhà. Đang khi bà lão ngồi trên nóc nhà nhìn con nước dâng, một chiếc trực thăng lại hiện ra. Viên phi công dùng loa gọi vọng xuống:”Tôi sẽ thả một chiếc thang dây cho bà, hãy leo lên và bà sẽ thoát nạn”. Bà già lại nói:”Không, cảm ơn, tôi tin vào Chúa, Ngài sẽ cứu thoát tôi”. Viên phi công nhìn bà lắc đầu, rồi bỏ đi.

Ngày sau đó, cơn lụt nhận chìm ngôi nhà và bà lão bị chết đuối. Khi được đưa về trời, bà ta nói với thánh Phêrô:”Trước khi vào đây, tôi xin được phàn nàn một điều. Tôi đã tin chắc Chúa sẽ cứu tôi thoát khỏi trận lụt, thế mà Ngài lại để tôi bị chết chìm”. Thánh Phêrô bối rối nhìn bà lão đoạn lên tiếng:”Tôi chả hiểu Chúa có thể làm thêm điều gì được cho bà nữa, vì Ngài đã gửi tới cho bà những hai chiếc thuyền và một chiếc trực thăng rồi còn gì” (M. Link, Giảng lễ Chúa nhật, năm B, tr 254-255)?

Bà lão trong trận lụt này quá lầm lẫn. Bà quên rằng Chúa thường hoạt động trong đời sống chúng ta xuyên qua những phương tiện bình thường. Bà quên rằng chúng ta phải làm hết phận vụ mình và hợp tác với Chúa bằng cách xử dụng những phương tiện bình thường Ngài ban cho ta. Nói cách khác, chúng ta không thể ngồi thụ động chờ Chúa làm phép lạ, mà phải dùng tất cả mọi phương tiện thông thường Chúa ban để tự giúp mình trước đã.

Tục ngữ Việt nam đã nói lên chân lý này:”Mưu sự tại nhân, thành sự tại thiên”: con người phải bắt đầu làm đã, còn thành bại thế nào thì sẽ do Trời định liệu. Nhưng về phía Trời thì chắc chắn:”Thiên thượng bất phụ hảo tâm nhân”, Trời sẽ giúp cho những ai biết cố gắng dùng mọi phương tiện Chúa đã ban cho, đúng như tục ngữ Pháp có câu: Aide-toi, le Ciel t’aidera: anh hãy tự giúp mình trước, Trời sẽ giúp mình sau.

  1. Xét lại đức tin của mình.

Qua thái độ của người đàn bà băng huyết và của ông trưởng hội đường Giairô, ta thử xét lại đức tin của chúng ta xem sao: Tin khi đời sống bình an, thuận buồm xuôi gió thì chưa hẳn là đức tin thật, nó phải được tôi luyện trong đau khổ, trong khó khăn, trong gian nan thử thách mà vẫn kiên trì, thì đức tin ấy mới có thể làm nên phép lạ.

Hay nói đúng hơn, lúc ấy Thiên Chúa mới trợ giúp, mới cứu chữa, vì khi đó chúng ta không tin vào sức riêng mình mà tin vào Chúa, thì Chúa phải thực hiện thôi. Như Abraham xưa, như Phêrô đi trên mặt biển, như người đàn bà và ông Giairô trong bài Tin mừng hôm nay, chúng ta hãy tin tưởng.

Cuộc đời của chúng ta không bao giờ hết đau khổ. Chúng ta có thể cảm nghiệm tình yêu của Thiên Chúa cả trong đau khổ. Sự hiện diện của Thiên Chúa không nhất thiết lấy đi đau khổ, nhưng cho chúng ta năng lực chuyển hoá đau khổ. Chúng ta cần Thiên Chúa giúp đỡ để linh hồn chúng ta không bị thu hẹp vào sự thụ động hoàn toàn, gần giống như những đồ vật, bị tác động nhưng không bao giờ hoạt động.

Thấu hiểu chân lý này, ông Francois Mauriac đã phát biểu:”Ngài đến không phải để cất sự đau khổ mà để hiện diện với đau khổ”. Như vậy nghĩa là Ngài đến ban đức tin cho chúng ta để chúng ta biết chịu đựng đau khổ, biết chuyển hoá đau khổ, biến nó thành phương tiện để đạt tới ơn cứu độ. Bằng không thì chúng ta chịu đau khổ một cách vô ích và những đau khổ trở nên vô nghĩa.

Những ai không có đức tin thì gặp nhiều bất lợi trước đau khổ. Họ chịu đựng đau khổ gấp ba lần: họ chịu đựng bệnh tật, họ chịu đựng sự vô nghĩa của bệnh tật (vì đối với họ, bệnh tật chỉ là phiền toái, kết quả của một số phận mù quáng) và họ chịu đựng đau khổ vì cuộc sống của họ bị ngưng trệ. Họ coi bệnh tật của họ như một việc phải chịu đựng thay vì một việc phải sống. Đời sống của họ như bị giữ chặt lại vì họ chờ đợi thụ động cho đến khi mọi việc trở lại bình thường để họ có thể bắt đầu cuộc sống trở lại.

Mặt khác, các bệnh nhân có đức tin ở trong một tình thế tốt hơn. Dù đức tin không giải thoát họ khỏi bệnh tật, hoặc làm giảm bớt đau khổ do bệnh tật gây ra, người có đức tin tiếp tục sống một cách mãnh liệt như trước đây, có khi còn mãnh liệt hơn. Họ có thể tìm thấy Thiên Chúa trong bệnh tật cũng như trong lúc khỏe mạnh, và bệnh tật của họ có thể sinh ra kinh nghiệm có lợi là họ sẽ xin Chúa chữa lành cho bệnh tật ấy (Flor McCarthy).

 

12. Sống chết trong tay Chúa – ViKiNi

(Trích trong ‘Xây Nhà Trên Đá’ của Lm. Giuse Vũ Khắc Nghiêm)

Tin mừng Chúa nhật 12 đến Chúa nhật 13 như một cuốn phim sống động quay lại cảnh con thuyền các môn đệ gần chìm đắm trong bão biểm đêm tối, đến cảnh người dân ngoại sống dưới ách xiềng xích, cùm kẹp khốn khổ của quỷ dữ giữa mồ mả, đồi núi, hoang dại. Để cứu họ, Đức Giêsu đã dẹp tan bão tố, xua đuổi ác quỷ chui đầu xô đẩy đàn heo lối hai ngàn con xồng xộc chạy theo dốc núi chênh vênh nhào xuống biển chết ngộp.

Sau đó, Đức Giêsu đã lên thuyền trở về với đám đông dân chúng đầy thiện cảm đang chờ đón Ngài bên bờ biển Galilê. Mới lên bờ, ông trưởng hội đường đến sấp mình dưới chân Ngài, tha thiết kêu xin Ngài cứu chữa đứa con gái mười hai tuổi gần chết. Ngài chẳng nói một lời, chỉ vội vàng đi với ông và dân chúng chen nhau kéo theo Ngài. Họ đụng cả vào Ngài.

Tự nhiên, Ngài quay lại hỏi đám đông: “Ai đã sờ vào áo Ta?”. Môn đệ chỉ thấy đám đông chen nhau đụng vào Ngài, còn Ngài thấu suốt tâm tư mọi người. Người phụ nữ như thấy Ngài trực tiếp hỏi mình, sợ run lên, đến sấp mình trước mặt Ngài. Ngài đã ôn tồn nhắn nhủ: “Này con, lòng tin của con đã cứu con, hãy đi bằng an và lành hẳn tật nguyền của con”.

Quá sung sướng, người phụ nữ đã mạnh dạn khai báo hết nỗi lòng đau khổ vì bệnh băng huyết. Suốt 12 năm chạy đủ mọi thầy, mọi thuốc, sạch bách tiền của mà tật bệnh vẫn còn.

Đang lúc đó, người nhà ông hội trưởng nhắn tin con ông đã chết rồi! Như sét đánh ngang tai, ông sợ quá. Đức Giêsu đã trấn an ông: “Đừng sợ, hãy tin”. Ông tin dù mọi người khóc lóc, kêu ầm ĩ, có kẻ còn nhạo cười Ngài. Trước cái chết, loài người chỉ biết khóc than hay cười ra nước mắt vì quá bất lực, quá đau đớn và lặng lẽ cúi đầu!

Thánh Phêrô đã chứng kiến từ đầu đến cuối những phép lạ đó và khi đi rao giảng Tin mừng, ngài đã kể rành mạch mọi chi tiết, kể rõ cả tên ông trưởng hội đường là Giairô và đứa con gái 12 tuổi. Chắc chắn ông Giairô và con gái ông vẫn còn sống để làm chứng cho lời Phêrô giảng. Phêrô muốn cho mọi người thấy Chúa Giêsu là Chúa biển cả trời đất, Chúa thống trị quỷ thần và là Chúa nắm giữ sự sống chết của loài người.

Sự sống, sự chết của mỗi người chúng ta đều thuộc quyền Đức Giêsu, cho nên Phaolô đã quyết tâm thực hiện: “Đối với tôi, sống là chính Đức Kitô” (Phil. 1, 21). Lý do là: “Ngài đã chết thay cho tất cả mọi người, hầu kẻ sống không sống cho chính mình, mà sống cho Đấng đã chết và sống lại cho họ” (2Cr. 5, 15).

Thánh Xiprianô đã mạnh mẽ trả lời tổng trấn Galêriô khi ông ra lệnh: “Các hoàng đế đã truyền cho ngươi phải tế thần”.

Xiprianô đáp: Tôi không tế.

Galêriô nói: Hãy suy nghĩ kỹ đi, hãy tuân lệnh đi.

Xiprianô đáp: Thần là quỷ ma giả dối, chỉ có Thiên Chúa là Đấng chân thật, sáng tạo vạn vật. Đó là chân lý, không cần suy nghĩ nữa.

Galêriô nói: Ngươi phải chịu án trảm quyết.

Xiprianô đáp: Xin ngợi khen Chúa.

Vì tin Chúa nắm sự sống chết, nên người sống cho Chúa, coi cái chết nhẹ như lông hồng, như một giấc ngủ. Chính Chúa Giêsu đã bảo cha đứa trẻ: “Con bé không chết, nó ngủ”. Sau này, khi nghe tin Lagiarô chết, Ngài cũng nói: “Lagiarô, người thân của Ta ngủ, Ta đi đánh thức ông dậy”.

Đối với kẻ không nắm được sự sống chết, thì chết là tận diệt, nên phải khóc than, gào thét. Đối với Chúa, sự chết thật là một giấc ngủ. Để được chết an lành như vậy thánh Vinh sơn Phaolô đã tập coi giấc ngủ mỗi đêm là việc lặp đi lặp lại của cái chết thực sự, và thức dậy là dấu của sự sống lại trong ánh sáng của Đức Kitô.

Lạy Chúa Giêsu, cái chết của Chúa trên thập giá đau đớn đến cùng cực, nhưng vì yêu thương cứu độ loài người chúng con, Chúa đã coi cái chết đó như một giấc ngủ thật nhẹ nhàng, bình an, trong sáng. Xin cho con biết hy sinh, tập chết đi những ích kỷ, kiêu căng vì mến Chúa yêu người để đến giờ chết con được an nghỉ êm ái trong Chúa muôn đời. Amen.

 

13. Tin thì được chữa lành và được sống

(Suy niệm của Jos. Vinc. Ngọc Biển, S.S.P.)

Tin Mừng Mc 5: 21-24.35-43 Khi tin tưởng vào Ngài, chúng ta sẽ nhận ra Chúa không thờ ơ trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh và không ngừng quan phòng cho chúng ta: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng…

Mang trong mình kiếp con người từ khi sinh ra đến lúc chết đi, ai cũng trải qua những giai đoạn như: sinh, bệnh, lão, tử. Tuy nhiên, trong 4 cái khổ ấy, đệ nhị khổ là thứ khổ dai dẳng nhất.

Khổ về mặt thể lý, con người đã cảm thấy ngán ngẩn. Nhưng cái khổ tâm lý, khổ tinh thần, người đối diện với nó sẽ cảm thấy day rứt khôn nguôi!

Hôm nay, Tin Mừng thuật lại hai phép lạ Đức Giêsu đã làm. Một phép lạ chữa lành bệnh tật. Một phép lạ cứu sống. Phép lạ chữa lành bệnh tật, Ngài đã chữa lành cả thể bệnh lẫn tâm bệnh. Phép lạ cứu sống, Ngài thể hiện uy quyền nhờ lòng tin của người kêu xin.

Qua mạc khải được gợi hứng từ chính bài Tin Mừng hôm nay, chúng ta cùng nhau tìm hiểu thêm những phép lạ khác Đức Giêsu đã làm để thấy được sứ mạng chính yếu của Đức Giêsu ngang qua những phép lạ ấy.

  1. Thực thi phép lạ để cứu chuộc

Các sách Tin Mừng ghi lại Đức Giêsu đã làm rất nhiều phép lạ liên quan đến việc chữa lành, chẳng hạn như: chữa hai người bị quỷ ám (x. Mt 8, 29-34; Mc 5,1-20; Lc 8, 26-39); chữa nhạc mẫu ông Phêrô khỏi sốt (x. Mt 8, 14-15; Mc 1, 29-31; Lc 4, 38-39); chữa lành người bại liệt (x. Mt 9,1-8; Mc 2,1-12; Lc 5,17-26); chữa 10 người phong cùi được lành (x. Lc 17, 11-19); chữa hai người mù (x. Mt 9, 27-31); chữa người câm bị quỷ ám (x. Mt 9,32-34); chữa con gái người đàn bà Canaan cũng bị quỷ ám (x. Mt 15,21-28; Mc 7,24-30); chữa nhiều bệnh nhân tại bờ Biển Hồ Galilê (Mt 15,29-31); chữa rất nhiều người ốm đau và mắc đủ thứ bệnh cũng như loại trừ ma quỷ (x. Mt 8,16-17; Mc 1,32-34; Lc 4,40-41); và rồi ngay trước lúc bị bắt, Ngài đã chữa lành tai bị đứt của đầy tớ thầy thượng tế (x. Mt 26,47-55; Mc 14,43-49; Lc 22,47-51; Ga 18,3-11).

Qua một số phép lạ đã liệt kê ở trên, chúng ta thấy có điểm chung, đó là tin thì được lành và được sống.

Điều này cũng được Tin Mừng thánh Máccô ghi lại hôm nay thật rõ:

Phép lạ thứ nhất, Máccô kể lại giữa một đám người ô hợp, họ chen lấn, xô đẩy và à uôm. Vì thế, việc đụng chạm tới Đức Giêsu là chuyện bình thường. Tuy nhiên, có một cái đụng rất ấn tượng khiến Máccô không thể bỏ qua, bởi vì cái đụng này được Đức Giêsu để ý và nhắc tới. Ngài nói: “Ai đã đụng đến ta?”. Cái đụng ấy chính là cái đụng của một phụ nữ bị coi là ô uế suốt nhiều năm. Trong những năm ấy, người phụ nữ Dothái này đã phải tủi nhục, đắng cay và nhiều khi đặt ra cho mình những câu hỏi tại sao? Tại sao? Chính câu hỏi trong đầu và tâm khảm của chị phụ nữ này đã làm cho nàng không còn câu nệ vào luật lệ, bất chấp mọi thứ cấm cản và đã chạy thẳng tới nơi Đức Giêsu và đụng chạm vào Ngài.

12 năm mắc căn bệnh băng huyết. 12 năm đối diện với nhiều tủi nhục. 12 năm tìm thầy chạy thuốc. 12 năm bị cấm không được đụng chạm tới người khác. 12 năm không được đến đền thờ…. Càng đau khổ, tủi nhục bao nhiêu, người phụ nữ này lại càng tăng thêm lòng can đảm bấy nhiêu. Vì thế, bà ta đã quyết tâm và tin tưởng rằng: “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi”. Bà tin thì bà được. Vì thế, Tức khắc, bà cảm thấy lành bệnh vì máu trong người đã cầm lại. Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi cả bệnh thể xác lẫn tinh thần.

Phép lạ thứ hai, thánh sử Máccô nhấn mạnh đến đức tin của người liên hệ và đề cao tinh thần liên đới giữ người cha và cô con gái xấu số. Từ một người trưởng Hội Đường, không quen biết gì đến Đức Giêsu, chỉ nghe người ta nói về Ngài. Từ một người giàu có và quyền thế trong dân, lẽ ra ông bám víu vào thế gian để đảm bảo cho con gái ông khỏi lưỡi hái tử thần. Tuy nhiên, những thứ vật chất và quyền hành trần thế đã không làm cho điều ông mong muốn được thành hiện thực, vì thế, ông đã can đảm, dốc hết lòng tin vào Đấng xa lạ chưa một lần gặp mà chỉ nghe đồn thổi về Ngài. Nhưng khi gặp, ông đã quỳ mọp dưới chân và năn nỉ Ngài đến chữa lành bệnh tật cho con gái ông.

Gặp được Đức Giêsu, ông giống như cá gặp nước, bởi vì từ lòng dạ xót thương, Đức Giêsu đã an ủi ông: “Đừng sợ, cứ tin“. Nói xong, Ngài đã đích thân tới tận nơi để an ủi những người còn sống: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” và ngay lập tức, Ngài tiến lại gần đứa trẻ và nói: “Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi!”

Hai phép lạ khởi đi từ lòng tin. Hai phép lạ kết tụ ở sự sống được trao ban.

Sự sống thể lý nơi người đàn bà mất dần bởi chứng loạn kinh tới 12 năm. Khi chữa lành, Đức Giêsu đã trả lại cho bà sự sống sung mãn thủa ban đầu.

Còn đứa trẻ con ông trưởng Hội Đường thì sự sống đã tắt, nhưng Đức Giêsu đã làm cho sự sống ấy được hồi sinh.

Như vậy, phép lạ có được là do lòng tin từ phía con người và do quyền năng của Thiên Chúa cũng như lòng xót thương của Ngài đúng như lời Kinh Thánh đã chép: “Không phải lá cây, chẳng phải thuốc đắp đã chữa họ lành, nhưng chính Lời Ngài chữa lành tất cả” (Kn 16,12).

  1. Niềm hy vọng của chúng ta

Lược qua những phép lạ trong cuộc đời sứ vụ Đấng Cứu Thế, nhất là hai phép lạ được thánh Máccô nhắc tới trong bài Tin Mừng hôm nay đã đem lại cho chúng ta bài học quý giá, đó là:

Nếu sự giàu có, quyền hành của ông trưởng Hội Đường đã không thể tự cứu con của mình khỏi chết, hay sự bất lực không thể diễn tả nổi của người phụ nữ đã tìm thầy chạy thuốc suốt 12 năm, tốn biết bao tiền, mất biết bao công sức… đã dẫn đến một đức tin trưởng thành và can trường vào sự hiện diện của Đấng có thể cứu chữa cả xác và hồn.

Thì đức tin của mỗi chúng ta cũng vậy. Nhiều lúc, mỗi người cũng cảm thấy trống trải khi bám víu vào sự giàu có hay quyền cao chức trọng hoặc cậy vào những khả năng của con người mà phớt lờ Thiên Chúa, Vị Thầy Thuốc tuyệt hảo của cuộc sống để bám víu vào nỗ lực trần gian. Những lúc như thế, ấy là chúng ta đã bị phai nhạt đức tin và không xác tín vào Thiên Chúa nữa. Noi gương người đàn bà và ông trưởng Hội Đường, chúng ta hãy tin tưởng tuyệt đối vào quyền năng của Thiên Chúa, Ngài sẽ ra tay cứu chữa và trao ban cho chúng ta sự sống thần linh. Nói cách khác, bí quyết được chữa lành chính là đức tin. Chìa khóa này sẽ mở được cánh cửa của lòng thương xót Chúa để ta được đắm chìm trong ân sủng và chính sự sống thần linh của Thiên Chúa.

Khi tin tưởng vào Ngài, chúng ta sẽ nhận ra Chúa không thờ ơ trước lời kêu cầu đầy lòng tin của người bệnh và không ngừng quan phòng cho chúng ta: “Hãy xem chim trời: chúng không gieo, không gặt, không thu tích vào kho; thế mà Cha anh em trên trời vẫn nuôi chúng. […] Hãy ngắm xem hoa huệ ngoài đồng mọc lên thế nào mà rút ra bài học: chúng không làm lụng, không kéo sợi; thế mà, Thầy bảo cho anh em biết: ngay cả vua Salômôn, dù vinh hoa tột bậc, cũng không mặc đẹp bằng một bông hoa ấy.Vậy nếu hoa cỏ ngoài đồng, nay còn, mai đã quẳng vào lò, mà Thiên Chúa còn mặc đẹp cho như thế, thì huống hồ là anh em!” (x. Mt 6, 25-30).

Lạy Chúa Giêsu, xin Chúa giải thoát chúng con khỏi những căn bệnh thể lý đang dằn vặt thể xác chúng con, đồng thời, xin Chúa cũng chữa lành những căn bệnh tự kiêu, tự mãn, tự ti, tự phụ của chúng con, để thân xác và tâm hồn chúng con được lành mạnh. Amen.

 

14. Sống đức tin

Thiên Chúa là sự sống và tình thương. Tình thương của Người là tình thương cứu vớt, đem lại cho con người được sự sống, tham dự sự sống của cộng đoàn và tham dự vào sự sống thần linh của Thiên Chúa. Chỉ nơi Ngài, mới có tình thương và sự sống tuyệt đối.

Khi muốn xin ai hay thỉnh cầu điều gì, thì chúng ta tin tưởng vào người chúng ta đang đặt niềm tin. Người phụ nữ mắc bệnh băng huyết và người cha có đứa con gái bị bệnh nặng gần chết đã làm như thế. Cả hai đã tin Chúa Giêsu nên đến xin Ngài cứu chữa. Chính vì có lòng tin mạnh mẽ mà cả hai đã được hưởng phép lạ của Chúa Giêsu. Nhưng làm sao chúng ta thấy được hay biết được lòng tin của họ? Vì nó đã được biểu lộ ra qua thái độ, cử chỉ, lời nói và hành động của họ.

Người phụ nữ này không dám công khai trực tiếp xin Chúa chữa bệnh cho bà trước mặt mọi người. Bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo choàng của Người thôi, là sẽ được cứu chữa” (Mc 5, 28). Bà thật khiêm tốn, có thể so sánh với người đàn bà xứ Canaan, hoặc như người trộm lành. Vì thế, bất chấp tất cả những luật lệ phiền phức và nghiêm ngặt, bà lén đến sau lưng Chúa, để thực hiện ý định “rút ơn Chúa”, và kết quả bà đã được toại nguyện. Bà đã thể hiện đức tin một cách sâu sắc, như chính Chúa đã xác nhận và thưởng công cho lòng tin của bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con” (Mc 5, 34).

Tuy nhiên, theo quan niệm của người Do Thái thì máu huyết tượng trưng cho sự sống. Người phụ nữ bị băng huyết có nghĩa là sự sống nơi chị mất dần đi, tiêu hao di nên có thể coi chị là người đã chết. Nhất là trong hoàn cảnh của bà, đau khổ không chỉ vì bệnh kéo dài, tiền mất tật mang mà bà còn đau khổ về tinh thần vì tập quán tôn giáo xã hội lúc đó coi những người mắc những thứ bệnh này cũng giống như bệnh cùi là những người bị ô uế, đáng bị cộng đoàn khai trừ. Có thể nói người phụ nữ này đã chết hai lần, cả về mặt sự sống thể xác lẫn về mặt đời sống tinh thần. Chị đã được Chúa Giêsu chữa lành bệnh tật, hay đúng hơn chị đã được cứu thoát và Ngài đã đem đến cho chị sự sống mới sự sống dồi dào, chị được sát nhập vào đời sống cộng đoàn tôn giáo.

Trường hợp của ông trưởng hội đường Giaia cũng thế. Ông đã thể hiện lòng tin của ông vào Chúa Giêsu. Qua cử chỉ, thái độ và lời nói của ông: Khi đến trước mặt Chúa Giêsu, ông đã quỳ sụp xuống dưới chân Chúa và khẩn khoản van xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu chữa và được sống” (Mc 5, 23). Ông cầu cứu Chúa Giêsu vì ông yin rằng Ngài có thể cứu sống con ông khỏi chết. Phải tin Chúa Giêsu là ai, phải tin Chúa có quyền phép thế nào ông ta mới có cử chỉ, thái độ và lời kêu xin như thế. Ông không hồ nghi, ông tin chắc chắn sự việc sẽ xảy ra như thế, nếu Chúa muốn, vì Ngài là Chúa sự sống và sự sống lại. Ngài động đến đâu thì sức mạnh và sự sống lan tràn tới đó. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.

Trong cả hai phép lạ, chúng ta thấy nổi bật lên một yếu tố, đó là lòng tin. Người phụ nữ bệnh băng huyết khi đã nghe nói về quyền phép của Chúa Giêsu thì chị tin mãnh liệt vào Ngài, bà tin Ngài có thể chữa chị khỏi bệnh, chính vì thế nên chị nghĩ trong lòng rằng: “Nếu tôi sờ vào được áo choàng của Thầy, thì tôi sẽ được khỏi bệnh”. Chính vì tin mà bà vượt qua hàng rào kỳ thị tôn giáo kia, chị vượt qua mọi nếp suy nghĩ và quan niệm của tôn giáo Do Thái lúc bấy giờ để mạnh dạn đến chạm tay vào gấu áo Chúa Giêsu. Chính vì quyền năng đó mà Chúa đã không từ chối chữa lành cho chị. Bên cạnh đó, lòng tin của ông Giaia cũng là yếu tố quan trọng để Chúa Giêsu làm cho con gái ông sống lại. Hai phép lạ trên cho chúng ta thấy Chúa Giêsu có quyền năng trên bệnh tật. Điều này chứng tỏ Ngài chính là Thiên Chúa thật, là vị Cứu Tinh, là Đấng cứu độ con người.

Hai phép lạ này còn loan báo cho chúng ta một sứ điệp tình thương, sứ điệp thời đại mới, thời đại cứu độ mà các tiên tri đã loan báo. Thời đại của Chúa Giêsu Kitô. Trước hết, Thiên Chúa là sự sống, Ngài là chủ sự sống. Ngài ban phát sự sống cho con người và muôn loài muôn vật. Riêng đối với con người, Ngài không chỉ là chủ sự sống đời sống vật chất mà còn là chủ đời sống ân sủng, đời sống làm con cái Chúa. Để thực hiện chương trình cứu độ, Thiên Chúa đã hiến dâng cho loài người tất cả, kể cả Người con yêu dấu, con một của Ngài là Đức Giêsu Kitô.

Suy gẫm về bài phúc âm này, chúng ta nhận thấy: Chúa Giêsu đã bộc lộ thiên tính của Ngài, thực hiện chương trình cứu độ của Thiên Chúa là ban sự sống, là cứu chữa, những gì đã hư mất, là tìm đến những người đau ốm cần thầy thuốc. Ngài luôn quan tâm mọi nhu cầu cụ thể của con người. Ngài quan tâm đến nỗi thống khổ về tinh thần lẫn vật chất của nhân loại. Tất cả nỗi khổ đau của nhân loại đều được Chúa Giêsu cảm thông, chia sẻ và cứu vớt. Chính vì mang trong lòng trái tim yêu thương của Thiên Chúa, nguồn sống từ nơi Chúa Cha nên Ngài đã không khước từ và mau mắn cứu chữa hết người này đến người kia, bình phục cho người này, hồi sinh cho kẻ khác, đem lại phẩm giá và sự tôn trọng cho những ai đang bị loại trừ. Đối với Chúa Giêsu, Ngài không hề loại trừ một ai vì tất cả mọi người đều thuộc về gia đình Thiên Chúa. Điều duy nhất Ngài đòi hỏi chúng ta có tin nơi quyền năng và tình thương của Thiên Chúa hay không?

Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất, nó là một cái gì có thật, nhưng thuộc về thần linh. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Giaia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài nữa. Vì thế, chúng ta cần phải có một đức tin mạnh mẽ như ông Giaia, hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi. Đàng khác, chúng ta cũng cần có một đức tin kín đáo nhưng dẻo dai như lòng tin của người phụ nữ trên đây, bà có một thái độ khẩn khoản khiêm nhường và đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế.

Chúng ta tin Thiên Chúa là chủ sự sống, là nguồn gốc sẽ dẫn chúng ta đến thái độ là biết tôn trọng sự sống, bảo vệ và phát huy sự sống. Không đơn thuần là sự sống thể xác, tinh thần mà còn quan tâm đến sự sống thần linh. Không chỉ quan tâm sự sống nơi bản thân mình mà còn quan tâm đến nhu cầu, lợi ích sự sống nơi tha nhân nữa. Thế nhưng xung quanh chúng ta có rất nhiều sự sống con người đang bị xâm phạm, bị chà đạp, cách này hay cách khác. Biết bao nhiêu trẻ em không có quyền được sinh ra, không có được những điều kiện thiết yếu về mặt vật chất, tinh thần để sống một cuộc sống cho ra người.

Con Thiên Chúa đã xuống thế làm người để con người được sống và sống dồi dào. Nhưng sự sống mà chúng ta đón nhận từ nơi Chúa sẽ không trọn vẹn nếu chúng ta chưa thật sự chia sẻ sự sống ấy cho tha nhân chung quanh chúng ta. Bao lâu nhiều người anh em chung quanh chúng ta chưa được sống xứng đáng vơi nhân phẩm con người, bao lâu niềm vui và quyền được sống như một con người vẫn còn bị khước từ nơi nhiều người đang sống bên cạnh chúng ta thì có lẽ chính chúng ta cũng không thể nào hưởng được một cách dồi dào sự sống mà Chúa Giêsu mang lại cho chúng ta.

Lạy Chúa Giêsu, xin cho chúng con biết trân trọng đức tin, sự sống mà Chúa đã ban, để chúng con luôn tin tưởng mạnh mẽ và quyết liệt, bền bĩ và phó thác vào Chúa, vì chúng con được dựng nên bởi tình thương và sự sống của Chúa. Xin cho chúng con biết quý trọng sự sống của mình, của tha nhân và không ngừng phát huy sự sống ấy bằng cách sống yêu thương và giúp đỡ nhau tiến tới sự hoàn thiện như Chúa muốn. Amen.

 

15. Đức tin mang ơn chữa lành.

(Suy niệm của Lm Trần Bình Trọng)

Trong thời cận đại và hiện tại, với những phát minh tân kì về khoa học, y khoa và kĩ thuật, loài người chứng kiến những việc chữa trị bệnh tật với những cuộc giải phẫu thành công ngoài sức tưởng tượng.

Mặc dầu thế, có những bệnh tật mà y học tân tiến cũng đành bó tay. Lại có những trường hợp khác mà người ta được khỏi bệnh thì y học cũng không cắt nghĩa được tại sao, mà chỉ thấy rằng người ta được khỏi bệnh mà không phải do cách chữa trị của bác sĩ, cũng không phải do thuốc chữa. Tại Lộ Ðức, có toán bác sĩ quốc tế gồm cà người không công giáo đã khám nghiệm, cứu xét và đi đến kết luận rằng có những bệnh nhân được khỏi bệnh một cách ngoại thường.

Phúc âm hôm nay ghi lại một dấu chỉ về quyền năng của Thiên Chúa được thực hiện cho người có đức tin quả quyết và vững mạnh. Ðó là người đàn bà mắc bệnh xuất huyết đã mười hai năm. Bà ta tốn nhiều tiền của đi tìm thầy chạy thuốc mà bệnh tình vẫn không thuyên giảm. Do đó bà ao ước muốn được gặp Ðức Giêsu để xin Người một ân huệ là cho bà được khỏi bệnh. Không may là phong tục người Do thái thời bấy giờ không cho phép đàn ông nói chuyện với đàn bà nơi công cộng. Cũng theo phong tục Do thái thì người đàn bà không được chạm đến người đàn ông nơi công chúng giống như quan niệm: Nam nữ thụ thụ bất thân của Khổng giáo xưa bên Trung Hoa, có ảnh hưởng sang Viêt Nam vậy.

Còn theo luật Lêvi thì khi người đàn bà trong lúc có kinh nguyệt mà đụng chạm đến ai hay ai đụng chạm đến người đàn bà có kinh thì người đó sẽ ra ô uế (Lv 15:19-28). Thời đó chắc người ta chưa chế tạo băng vệ sinh cho các bà dùng khi có kinh nguyệt. Như vậy bệnh xuất huyết kéo dài mười hai năm của ngưởi đàn bà trong Phúc âm gây ra cả một vấn đề bất tiện và khó khăn cho việc giữ vệ sinh như thế nào! Do đó ước muốn được chửa khỏi càng phải gia tăng cường độ vì bà có thể sợ người đời chê bai là hôi hám khi huyết dính vào quần áo. Vậy thì bà ta phải hành xử thế nào trong trường hợp này để đối diện với Ðức Giêsu?

Ðể tránh việc lỗi luật, bà ta chỉ dám động đến gấu áo của Ðức Giêsu mà thôi. Bà tin rằng chỉ cần động đến gấu áo của Người thì bà cũng được khỏi bệnh. Nếu nhóm người Pharisêu hay bới lông tìm vết có tố cáo bà là đụng đến Đức Giêsu, thì bà có thể cãi hoặc nhờ luật sư cãi phăng đi, là bà đâu có đụng đến thân thể của Đức Giêsu đâu, mà chỉ đụng đến gấu áo của Người mà thôi. Quả thật, đức tin của bà đã cứu chữa bà. Ðức Giêsu đã cảm thấy sức chữa trị xuất phát từ thân mình Người. Người quan tâm đến bà, mà không sợ dư luận quần chúng, nên mới hỏi thử: Ai đã động đến tôi (Mc 5:31). Ðức Giêsu đòi bà phải đối diện với thực chất của việc bà làm. Sau khi bà kể tất cả sự thật, Chúa liền chữa bà khỏi bệnh và còn cho bà được bình an (Mc 5:34).

Ðức tin còn đem đến phép lạ cho người chết sống lại. Viên trưởng hội đường Do thái trong Phúc âm hôm nay cũng đã bầy tỏ đức tin vào quyền năng Ðức Giêsu trong khi nhiều nhà lãnh đạo Do thái nghi ngờ và bất tín Người. Ông bất chấp những nhà lãnh đạo Do thái khác nghĩ thế nào về ông khi ông đến xin Ðức Giêsu một ân huệ. Ông chỉ xin Ðức Giêsu đặt tay trên con gái ông đang hấp hối cho được sống lại. Ðức tin của ông khiến Ðức Giêsu làm phép lạ phục hồi sự sống cho con gái ông: Này bé, Thầy truyền cho con: chỗi dậy đi (Mc 5:41).

Phép lạ vẫn xẩy ra hằng ngày trong thời đại ta đang sống. Chỉ cần dùng con mắt đức tin là ta có thể nhận ra và chứng kiến phép lạ. Hằng ngày ta còn có cơ hội để bầy tỏ đức tin vào quyền năng Chúa, xin Người cứu chữa. Ðiều mà ta cần có là lời cầu xin. Phong trào Thánh linh trong Giáo hội đời nay đã giúp khơi dậy ước muốn cầu nguyện, không hẳn là cầu nguyện xin cho được khỏi bệnh, mà còn cầu nguyện để tạ tội, tạ ơn và ca tụng Thiên Chúa. Và lời cầu nguyện của ta phải đi đôi với đức tin, vì nếu cầu nguyện mà không có đức tin, thì lời cầu nguyện của ta chưa chắc gì được Chúa trả lời. Bằng chứng được ghi lại trong Phúc âm là khi người Pharisêu xin Ðức Giêsu một dấu lạ, Người từ chối việc làm phép lạ vì họ không có lòng tin (Mc 6:5,6) hay chỉ muốn thử Người (Mc 8:11-12). Trái lại ta thấy đức tin của người đàn bà loạn huyết và của viên trưởng hội đường là một đức tin quả quyết, vững mạnh, đơn sơ, chân thành và khiêm tốn. Phúc âm ghi lại: Ông ta sụp xuống dưới chân Người (Mc 5:22); còn bà đến phủ phục trước mặt Người (Mc 5:33). Là người, ta cũng cảm thấy khó từ chối khi có ai kêu cầu đến ta một cách khẩn khoản và khiêm tốn như vậy.

Bất cứ khi nào Chúa làm phép lạ đều do người ta xin với lòng tin. Nếu không có đức tin, sẽ không có phép lạ, cũng không được ơn chữa lành. Tất cả những người được thụ hưởng phép lạ của Chúa đều có một điểm giống nhau là họ được thúc đẩy bởi lòng tin vào quyền năng và lòng thương xót của Chúa.

Ðôi khi ta có thể có thái độ như người Pharisêu, nghĩa là ta ngồi đó há miệng chờ ho, đợi cho Chúa làm phép lạ, trước khi ta có thể đặt tin tưởng vào Chúa. Còn Chúa thì lại muốn ta bầy tỏ niềm tin trước đã, trước khi Người hành động. Chúa biết nhu cầu thiếu thốn của mỗi người. Tuy nhiên nếu ta đóng cửa nhà tâm hồn, thì Chúa cũng đành chịu, vì Chúa đã ban cho loài người được tự do lựa chọn và Chúa tôn trọng tự do của loài người.

Nói như vậy không có nghĩa là khi mắc bệnh, người tín hữu không cần đi bác sĩ, không cần uống thuốc chữa trị. Việc đi bác sĩ hay vào nhà thương nếu cần, ta vẫn tiến hành, nhưng đồng thời ta cũng vẫn cầu xin cho được ơn khỏi bệnh. Cách thế Chúa chữa trị bệnh tật loài người thông thường là dùng bác sĩ và thuốc men để chữa trị. Ðôi khi Chúa không cần dùng đến bác sĩ hay thuốc chữa, nhưng là chữa trực tiếp. Cách thế chữa trị đó được gọi là phép lạ. Có một vài giáo phái Kitô giáo chủ trương không đi bác sĩ và uống thuốc. Họ cho rằng đi bác sĩ và uống thuốc là làm giảm lòng tin vào quyền năng của Chúa. Họ không biết rằng Chúa cũng dùng bác sĩ và thuốc men để chữa trị bệnh tật loài người. Như vậy không có việc xung khắc giữa việc đi bác sĩ, uống thuốc và lời cầu nguyện cho được khỏi bệnh. Cả hai phương pháp: đi bác sĩ/uống thuốc và cầu nguyện cho được khỏi bệnh đều bổ túc cho nhau để phục hồi sức khoẻ.

Tuy nhiên có những trường hợp người ta vừa đi bác sĩ, vừa uống thuốc, vừa cầu nguyện với đầy lòng tin tưởng mà bệnh vẫn không được khỏi. Như vậy thì phải giải thích thế nào? Thưa rằng khi Ðức Giêsu còn tại thế, Người có chữa bệnh tật của một số ít người, nhưng mục đích chính của việc Ðức Giêsu xuống thế là để chữa bệnh tật linh hồn của loài người. Ðược chữa trị khỏi bệnh tật phần xác là một niềm vui và là một hồng ân, ta cần tạ ơn Chúa. Tuy nhiên ta cũng phải nhận thức rằng mỗi người phải đi qua tiến trình của kiếp sống con người: sinh, lão, bệnh, tử, để ta có thể chấp nhận những giai đoạn cuối của cuộc đời. Trước khi Ðức Giêsu xuống thế cứu chuộc, thì tác giả sách Khôn ngoan đã nhận ra vì tội ganh tị của quỉ dữ, mà sự chết về phần linh hồn đã lọt vào thế gian (Kn 1:24). Do đó Ðức Giêsu đến để phục hồi sự sống cho hồn thiêng loài người.

Lời cầu nguyện xin cho được ơn giải thoát khỏi bệnh tật đau khổ:

Lậy Chúa Giêsu nhân lành hay thương xót!

Cũng như Chúa đã chữa trị bệnh tật

của người đàn bà loạn huyết

và cho con gái viên trưởng hội đường được sống lại

vì họ bầy tỏ lòng tin xác tín vào Chúa.

Xin Chúa cũng chữa trị bệnh tật của những người

kêu cầu đến Chúa, gồm cả chính con

với tất cả lòng chân thành, khiêm tốn và tin tưởng

để chúng con được tự do phụng thờ Chúa

với lòng an vui thanh thoả. Amen.

 

16. Đức tin mạnh mẽ nhờ hành động

(Suy niệm của Lm. Joshepus Quang Nguyễn)

Một lần kia, trong cuộc phỏng vấn trên truyền hình, Mẹ Têrêxa Calcutta phải đối diện với một phóng viên không mấy thiện cảm đối với Giáo Hội. Mẹ Têrêxa nói với ông: “Tôi nghĩ rằng ông nên có đức tin”. Người phóng viên hỏi: “Tôi phải làm gì để có đức tin?” Mẹ Têrêxa đáp: “Ông hãy cầu nguyện”. Ông chống chế: “Tôi không biết và không thể cầu nguyện”. Mẹ Têrêxa dịu dàng nói: “Tôi sẽ cầu nguyện cho ông. Nhưng về phần ông, ông hãy cố gắng mỉm cười với những người chung quanh ông. Vì một nụ cười có thể đánh động được tâm hồn người khác. Một nụ cười có thể cho chúng ta cảm nghiệm được Thiên Chúa hiện diện trong cuộc sống chúng ta”.

Đúng thế, những hành động cụ thể thường hùng hồn hơn, có khả năng thuyết phục hơn những lời nói suông. Trong bài Tin Mừng, người phụ nữ bị hoại huyết được chữa lành hoàn toàn do lòng thương xót Chúa. Người phụ nữ bệnh hoạn này theo luật Môisê, là một người ô uế, không được ra trước công chúng. Ấy thế mà hôm nay dám ra trước đám đông, lách qua đám đông rồi tiến đến gần Chúa Giêsu. Vì quá tin vào Chúa, bà ta đã biểu lộ đức tin của mình, dù có khó khắn cách mấy, bao lâu đến mấy, bất chấp luật cấm phiền phức và khắt khe, người ta xua đuổi khinh chế bà đến với Chúa Giêsu và chỉ cần chạm đến Chúa là chắc chắn được khỏi bệnh. Đức tin của bà quá sống động, cực kỳ vững mạnh cho nên Chúa Giêsu đã xác nhận và ban thưởng cho bà: “Lòng tin của con đã cứu chữa con”.

Rồi đến ông Gia-ia có đứa con gái mắc bệnh nặng thập tử nhất sinh, ông đến xin Chúa cứu chữa con ông. Lòng tin mạnh mẽ của ông được bộc lộ ra qua tất cả con người ông, nghĩa là qua các cử chỉ cũng như lời yêu cầu của ông. Thực vậy, khi đến trước mặt Chúa, ông quì sụp dưới chân Chúa, đây là một cử chỉ dành riêng cho Thiên Chúa trong Cựu ước, cử chỉ này chứng tỏ ông tin và nhận ra Chúa là Đấng Thiên Sai. Cử chỉ thứ hai là ông xin Chúa đến đặt tay trên cháu, để nó được cứu thoát và được sống. Nhận thấy lòng tin mạnh mẽ của ông, Chúa đi tới nhà ông và cho con gái ông sống lại.

Chúng ta hôm nay đã có đức tin, chúng ta đã tin Chúa Giêsu nhờ Phép Rửa Tội. Điều quan trọng là sống lòng tin như thế nào trong cuộc sống hôm nay. Khi vui và hạnh phúc hay khi gặp thử thách, hoạn nạn, đau khổ tinh thần hay thể xác thì sao đây?

Niềm tin, lòng tin hay đức tin thì không thể nhìn thấy, bởi vì nó không phải là vật chất nhưng nó là một cái gì đó có thật, nhưng thuộc về tinh thần. Người ta không thể thấy được nó nhưng người ta có thể biết nó có nhờ khi nó biểu lộ qua hành động bên ngoài. Cũng như không ai nhìn thấy lòng tin của ông Gia-ia và của người đàn bà băng huyết, nhưng qua thái độ, lời nói và cử chỉ của họ đã biểu lộ lòng tin của họ. Cũng vậy, chúng ta có đức tin hay không, chẳng ai biết, nhưng khi thấy chúng ta đi lễ, thấy chúng ta đi vào nhà thờ nghiêm trang, người ta có thể biết được chúng ta là người có đức tin. Như thế, một điều chúng ta có thể ghi nhận là: đức tin chỉ ở trong lòng thôi thì chưa đủ mà còn phải biểu lộ ra bên ngoài bằng hành động. Cho nên, Thánh Giacôbê nói: “Ai bảo rằng mình có đức tin mà không hành động theo đức tin, thì nào có ích lợi gì? Đức tin có thể cứu người ấy được chăng? đức tin không có hành động thì quả là đức tin chết” (Gc 2,14.17). Còn thần học gia Arialdo Beni nói rằng: “Đức tin thật sự là đức tin dấn thân. Nó được thể hiện trong chiều kích qui Thiên Chúa và qui tha nhân. Chính trong cuộc sống thực tiễn và trong tương quan với tha nhân mà đức tin trở thành sống động”.

Vì thế, chúng ta cần phải thể hiện đức tin mạnh mẽ qua những hành động như ông Gia-ia vàngười phụ nữ hiên ngang mà không hổ thẹn, vững chắc chứ không hồ nghi, dẻo dai và can đảm nhưng đầy tin tưởng trong tâm hồn, thế là đủ. Chúa cũng đang chờ đợi ở chúng ta những tâm tình như thế trong từng biến cố, hoàn cảnh trong cuộc sống. Đó là cách thẩm định đức tin của chúng ta. Niềm tin ấy, như Mẹ Têrêxa Calcutta đã nói: “Phải được biểu lộ và nuôi dưỡng, dù chỉ bằng một nụ cười hay một ánh mắt cảm thông”.

Cho nên, trong bài đọc 2 Thánh Phaolô dạy chúng ta phải trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái. Ước gì, Lời Chúa hôm nay xin cho mỗi người chúng ta luôn thể hiện đức tin của mình một cách mạnh mẽ qua việc sống thương người: Cho kẻ đói ăn. Cho kẻ khát uống. Cho kẻ rách rưới ăn mặc. Viếng kẻ liệt cùng kẻ tù rạc. Chôn xác kẻ chết. Rồi, lấy lời lành mà khuyên người. Mở dậy kẻ mê muội. Yên ủi kẻ âu lo. Răn bảo kẻ có tội. Tha kẻ dể ta. Nhịn kẻ mất lòng ta. Cầu cho kẻ sống và kẻ chết. Amen.

 

17. Đụng đến áo.

(Trích trong ‘Manna’)

Suy Niệm

Giữa đám đông chen lấn chung quanh Đức Giêsu, có những người đụng vào áo Ngài. Nhưng chỉ có một cái đụng cố ý, đụng lén như sợ bị bắt quả tang. Đó là cái đụng của một người phụ nữ, mười hai năm mắc bệnh băng huyết, mười hai năm tìm thầy chạy thuốc mà không khỏi, mười hai năm bị coi là ô nhơ: không được đụng đến người khác, không được tham dự nghi lễ ở Đền thờ.

Người phụ nữ đụng vào áo Đức Giêsu bằng tay và bằng lòng tin, một lòng tin đơn sơ mà mạnh mẽ. “Dầu tôi chỉ đụng vào áo Ngài, tôi sẽ được khỏi.” Cái đụng của lòng tin đã cứu bà khỏi bệnh.

Trong đời sống Kitô hữu, chúng ta đã nhiều lần đụng vào Chúa. Đụng đến Lời Ngài, đụng đến Mình Máu Thánh Ngài. Đụng bằng tay, bằng miệng, bằng rung động của trái tim.

Có những lần đụng chạm hời hợt vì thói quen, không để lại một âm vang nào, không đem lại một biến đổi nào trong cuộc sống. Nhưng cũng có lần, như người phụ nữ, ta run rẩy đụng vào Ngài, dù biết mình ô nhơ tội lỗi. Hay nói đúng hơn, vì biết mình ô nhơ tội lỗi mà ta cả dám đụng vào Ngài. Đụng vào Đấng Thánh để được nên trong sạch.

Chúng ta cần đụng đến Đức Giêsu mỗi ngày và chúng ta cũng cần được Ngài đụng đến.

Ông trưởng hội đường xin Ngài đặt tay trên con mình. Ngài đã cầm tay cô bé để kéo cô ra khỏi cái chết.

Như con gái của ông trưởng hội đường, chúng ta cần được Chúa cầm tay và bảo: “Hãy chỗi dậy.”

Chỗi dậy khỏi bệnh tật và cái chết. Chỗi dậy và đi lại, ăn uống như người bình thường. Chỗi dậy và sống vui tươi, tự do như con cái Thiên Chúa.

Hai phép lạ xảy ra nhờ có lòng tin.

Đức Giêsu xác nhận lòng tin vững vàng của người phụ nữ: “Này con, lòng tin của con đã cứu chữa con” (c.34).

Ngài nâng đỡ lòng tin đang chao đao của Gia-ia: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (c.36).

Cần có lòng tin khi đụng chạm Chúa Giêsu. Cần nhạy cảm để nhận ra cái đụng nhẹ của Ngài.

Khi đụng vào Thân Mình Ngài nơi bí tích Thánh Thể, ta được mời gọi đụng đến nỗi khổ của anh em, là những chi thể của Nhiệm Thể Ngài.

Khi đụng đến Lời Chúa nơi những trang Tin Mừng, ta được mời gọi chạm đến Lời Chúa nơi mọi biến cố.

Chỉ cần để Chúa đụng đến bạn một lần thôi, đời bạn sẽ hoàn toàn đổi mới.

Gợi Ý Chia S

Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?

Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?

Cầu Nguyện

Lạy Chúa Giêsu,

Dân làng Nazareth đã không tin Chúa vì Chúa chỉ là một ông thợ thủ công. Các môn đệ đã không tin Chúa khi thấy Chúa chịu treo trên thập tự. Nhiều kẻ đã không tin Chúa là Thiên Chúa chỉ vì Chúa sống như một con người.

Cũng có lúc chúng con không tin Chúa hiện diện dưới hình bánh mong manh, nơi một linh mục yếu đuối trong một Hội Thánh còn nhiều bất toàn.

Dường như Chúa thích ẩn mình nơi những gì thế gian chê bỏ, để chúng con tập nhận ra Ngài bằng con mắt đức tin.

Xin thêm đức tin cho chúng con để khiêm tốn thấy Ngài tỏ mình thật bình thường giữa lòng cuộc sống.

 

18. Lời kêu xin.

Đoạn Tin mừng sáng hôm nay cho chúng ta thấy các tông đồ đang ở vào một tình thế tuyệt vọng. Lời van xin của họ dường như bị sóng biển vùi lấp:

– Lạy Thầy, xin cứu chúng con.

Chúa Giêsu rất có thể lên tiếng trách cứ các ông:

– Bộ các con không hiểu rằng bao lâu Thầy còn ở với các con, thì không một tai ương hoạn nạn nào có thể xảy ra.

Thế nhưng lời van xin ấy lại rất bình thường và gần gũi với bản tính của chúng ta. Lời van xin xuất phát từ trái tim của một tạo vật nhỏ bé, như muốn xác quyết rằng: Vấn đề thật vô phương cứu chữa, chỉ mình Chúa mới có thể giúp đỡ.

Thế nhưng ngày hôm nay, liệu chúng ta có còn tìm thấy những lời van xin đầy tin tưởng và hy vọng như thế hay không? Nếu chúng ta hỏi những người lính chiến rằng: Vào những lúc nguy hiểm có bao giờ các bạn đã nghĩ tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.

Nếu chúng ta hỏi những người lái xe rằng khi xảy ra tai nạn có bao giờ các bạn nghĩ tới đời sau và xin Chúa phù trợ hay không. Hầu như tất cả đều trả lời rằng không.

Chiếc tàu Dora với một ngàn bảy trăm hành khách, chẳng may gặp nạn và chìm dần xuống biển, người ta đã ghi nhận được một cảnh tượng thật trái ngược trong thời điểm hoảng hốt đó. Các cô thì lo giữ lấy đôi giày của mình. Các bà thì lo giữ lấy những bộ áo của mình. Các ông thì lo giữ lấy ví tiền của mình. Chỉ có một em bé năm tuổi là đã quỳ gối cầu nguyện.

Ngay cả bản thân chúng ta cũng thế. Mỗi khi gặp phải tai ương hoạn nạn, chúng ta vùng vẫy, chúng ta kêu gào, chúng ta làm mọi cách để thoát khỏi tai ương hoạn nạn ấy, nhưng lại không biết mở miệng kêu xin:

– Lạy Chúa, xin Chúa cứu giúp con kẻo con chết mất. Chỉ mình Chúa mới có thể bảo đảm cho con được an toàn.

Chúng ta cũng giống như dân ngoại. Chẳng tìm thấy hướng đi cũng như ánh sáng cho cuộc đời chúng ta. Ngày xưa mỗi khi mất mùa đói kém giặc giã xảy ra, người ta kêu cầu Chúa:

– Lạy Chúa xin giúp đỡ con.

Người ta tổ chức những cuộc rước kiệu, những cuộc hành hương để kêu cầu Chúa. Còn chúng ta ngày hôm nay thì sao?

Ngày hôm nay, người ta có rất nhiều phương tiện, chẳng hạn như thuốc trụ sinh, công ty bảo bảo hiểm, và người ta cảm thấy không còn cần đến sự trợ giúp của Chúa nữa. Và tệ hơn nữa, người ta muốn trục xuất Thiên Chúa ra khỏi những sinh hoạt cá nhân và xã hội. Người ta muốn thay trời vắt đất làm mưa. Người ta sống như không còn sự hiện diện của Ngài nữa.

Từ những điều vừa trình bày chúng ta đi tới kết luận: Bao lâu Chúa Giêsu còn ở trong chúng ta thì không một tai nạn nào có thể xảy ra. Tuy nhiên con người thời nay lại không hiểu là như thế. Do đó, vấn đề cần phải đặt ra cho mỗi người, đó là Chúa Giêsu có thực ở trong thuyền đời chúng ta hay không. Tôi đã phản ứng và hành động như thế nào trong những hoàn cảnh đen tối. Tôi có biết hướng tới Chúa và xin Ngài giúp đỡ hay không? Đó là những câu hỏi mà mỗi người chúng ta phải tự tìm lấy lời giải đáp.

 

19. Suy niệm của ĐTGM. Giuse Ngô Quang Kiệt

CẢM NGHIỆM VỀ CHÚA

Hai người hưởng phép lạ hôm nay đều được đụng chạm đến Chúa.

Người đàn bà bị bệnh băng huyết lén lút sờ vào gấu áo Người. Vừa đụng chạm vào áo Người, lập tức bà thấy có biến chuyển: bệnh tật bao năm hành hạ bà, làm cho bà tốn biết bao công sức tiền của chạy chữa tưởng như vô vọng, nay bỗng tiêu tan trong phút chốc.

Em bé không đụng chạm đến Chúa vì em đã chết. Nhưng chính Chúa đụng chạm đến em. Chúa cầm tay dắt em chỗi dậy. Cuộc tiếp xúc với Chúa đã gây nên những biến đổi mãnh liệt nơi thân xác. Căn bệnh bị xua trừ. Thân xác khỏe mạnh lại. Người phụ nữ được sinh hoạt bình thường với xã hội. Thần chết bị trục xuất. Sự sống trở lại. Em bé được giải thoát khỏi thế giới tử thần, trở về với thế giới sự sống.

Nhưng những biến đổi trong tâm hồn còn mãnh liệt hơn. Khi Đức Giêsu gọi người phụ nữ đến để khen ngợi và khích lệ chị, tâm hồn chị hẳn phải rộn ràng hạnh phúc. Với thái độ khoan dung nhân hậu, Đức Giêsu đã biến đổi sâu xa tâm hồn chị. Từ mặc cảm là người ô uế, bị xã hội khai trừ, chị thấy mình được đối xử một cách trân trọng. Từ thân phận một người lén lút như kẻ ăn trộm phép lạ, chị trở thành người được Đức Giêsu công khai khen ngợi. Từ một người xa lạ, chị trở thành người thân thiết của Đức Giêsu. Chắc chắn, chị sẽ chẳng bao giờ quên được những lời nói và thái độ của Đức Giêsu. Những lời nói, những thái độ ấy đã đem lại cho chị niềm tin, niềm bình an và lòng tự tín. Còn em bé, khi trở lại sự sống, người đầu tiên mà em nhìn thấy là Đức Giêsu. Hơi ấm đầu tiên em cảm nhận được từ bàn tay Người đã làm em thấy yên tâm. Ánh mắt hiền từ của Người cho em niềm tin yêu phó thác. Và thái độ của Người thật như một người cha hiền. Việc đầu tiên Người bảo mọi người là cho em bé ăn. Thật là một sự quan tâm ân cần. Ơn lớn nhất Người ban là trả lại sự sống cho em bé. Em đã được cứu thoát khỏi bàn tay tử thần. Nhưng chính ánh mắt, cử chỉ và lời nói đầy tình yêu thương đã ghi khắc trong tâm hồn em bé một hình ảnh rất đẹp và rất sâu đậm về Người. Trọn đời em sẽ ghi nhớ mãi hình ảnh Người. Trọn đời em sẽ biết ơn Người. Trọn đời em sẽ sống xứng đáng với tình yêu thương mà em đã cảm nhận được.

Người phụ nữ và em bé đã được Đức Giêsu thương yêu vì họ đã có những phẩm chất đáng quí.

Phẩm chất thứ nhất mà họ có, đó là đức tin mạnh mẽ. Ông trưởng hội đường tin tưởng mãnh liệt nên đã đến tìm Đức Giêsu. Hội đường Do Thái vốn không ủng hộ Đức Giêsu, trái lại còn chống đối và tìm cách giết Người. Thế mà ông trưởng hội đường này vẫn đến cầu cứu Người, chứng tỏ lòng tin của ông mãnh liệt biết bao. Chính Đức Giêsu đã bảo ông: “Chỉ cần tin thôi!”. Còn người phụ nữ tuy sợ hãi không dám nói với Người, nhưng với lòng tin tưởng mãnh liệt đã sờ vào gấu áo Người. Đức Giêsu đã khen ngợi đức tin của họ: “Lòng tin của con đã chữa con”. Đức tin mãnh liệt như thế đã xứng đáng được Chúa thưởng công.

Phẩm chất thứ hai mà họ có, đó là đức khiêm nhường thẳm sâu. Sự khiêm nhường được biểu lộ không những qua sự nhận biết thân phận thiếu thốn, bất lực của bản thân, mà còn diễn tả qua thái độ bên ngoài. “Vừa thấy Đức Giêsu, ông sụp lạy dưới chân Người”. Sau khi bị phát giác, người phụ nữ cũng đến phủ phục dưới chân Người và tỏ bày tất cả mọi sự. Chính thái độ khiêm nhường ấy đã được Chúa thương.

Hằng ngày có nhiều lần ta đụng chạm đến Chúa hoặc Chúa đụng chạm đến ta. Ta đụng chạm đến Chúa trong khi đọc Sách Thánh. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta đụng chạm tới Chúa khi ta lãnh nhận các bí tích. Ta đụng chạm đến Chúa khi ta tiếp xúc với tha nhân, đặc biệt những anh em bệnh tật, nghèo túng, bị bỏ rơi. Nhưng những đụng chạm ấy dường như chẳng để lại dấu ấn nào trong ta. Điển hình là khi ta rước Mình Thánh Chúa. Ta trực tiếp đụng đến Chúa. Thế nhưng vì ta đã đụng đến Chúa cách hời hợt, máy móc, theo thói quen, thiếu lòng tin, thiếu tình yêu, nên đời sống ta chưa biến đổi. Hôm nay, ta hãy noi gương ông trưởng hội đường và người phụ nữ bị bệnh băng huyết, đến với Chúa bằng một đức tin mãnh liệt và bằng sự khiêm nhường thẳm sâu. Với đức tin và sự khiêm nhường, ta sẽ cảm nghiệm được Chúa. Chỉ cần một lần nếm cảm được tình yêu Chúa, được thấy ánh mắt nhân từ của Chúa, được lắng nghe những lời êm dịu, khích lệ của Chúa, ta sẽ chẳng còn muốn làm gì khác hơn là đền đáp tình yêu thương của Chúa.

Lạy Chúa, xin hãy ban cho con một đức tin mạnh mẽ và một lòng khiêm nhường thẳm sâu. Amen.

KIỂM ĐIỂM ĐỜI SỐNG

1) Có khi nào bạn được đánh động bởi một câu Lời Chúa không? Có câu nào đã gây nên một âm vang lâu dài trong đời bạn?

2) Việc rước lễ có giúp bạn sống vui tươi và can đảm không? Bạn thấy mình phải chuẩn bị thế nào cho cuộc gặp gỡ này, khi Chúa đụng vào bạn và bạn đụng vào Chúa?

3) Có lần nào bạn đã cảm nghiệm được Chúa đụng chạm vào bạn chưa?

 

20. Hệ lụy tất yếu

(Suy niệm của Trầm Thiên Thu)

Cái gì cũng có hệ lụy riêng. Có khởi đầu thì có kết thúc; có sinh thì có tử; có tội thì bị phạt; có công thì được thưởng; có nguyên nhân thì có kết quả hoặc hậu quả, gọi là quy luật nhân quả. Và còn nhiều hệ lụy khác. Đó là những hệ lụy tất yếu của cuộc sống.

Thiên Chúa là Chúa của sự sống, Ngài chỉ có những ước muốn thánh thiện, và trao ban mọi điều tốt lành cho mọi người: “Thiên Chúa không làm ra cái chết, chẳng vui gì khi sinh mạng tiêu vong” (Kn 1:13). Tại sao? “Vì Ngài đã sáng tạo muôn loài cho chúng hiện hữu, mọi loài thọ tạo trên thế giới đều hữu ích cho sinh linh, chẳng loài nào mang độc chất huỷ hoại. Âm phủ không thống trị địa cầu” (Kn 1:14). Thật vậy, “đức công chính trường sinh bất tử” (Kn 1:13-15).

Ngài tốt lành nên Ngài cũng muốn chia sẻ những điều đó cho chúng ta: “Thiên Chúa đã sáng tạo con người cho họ được trường tồn bất diệt. Họ được Ngài dựng nên làm hình ảnh của bản tính Ngài” (Kn 2:23). Người ta tạo ra cái kia hay vật nọ, nhưng không ai làm ra cái gì giống mình. Vậy mà Thiên Chúa đã tạo nên chúng ta giống hình ảnh Ngài, và còn phú cho bản chất thiện hảo: Nhân chi sơ tính bổn thiện. Sinh ra ai cũng tốt lành, “nhưng chính vì quỷ dữ ganh tị mà cái chết đã xâm nhập thế gian” (Kn 2:24a), và chắc chắn rằng “những ai về phe nó đều phải nếm mùi cái chết” (Kn 2:24b). Chúng ta đã lây nhiễm điều xấu, càng sống lâu càng tội nhiều, thế nên chúng ta luôn được “cảnh báo” bằng sự chết, vậy mà vẫn không ai sợ. Phàm nhân quá bướng bỉnh và ngang tàng. Chưa thấy quan tài chưa đổ lệ!

Dù vậy, Thiên Chúa vẫn muốn chúng ta cải tà quy chánh, trở nên những người thực sự tốt lành: “Hãy hoàn thiện như Cha trên trời là Đấng hoàn thiện” (Mt 5:48). Nhưng chúng ta vẫn cố chấp, ngang nhiên nghe lời xúi giục của ba thù (xác thịt, thế gian, ma quỷ) mà phạm tội. Chính chúng ta là “đại thù đệ nhất” của chính mình. Vậy mà Thiên Chúa vẫn xót thương, không nỡ làm ngơ, nên Ngài lại sai Con Một Giêsu nhập thể và chịu chết để cứu độ chúng ta. Còn hạnh phúc nào hơn! Vì thế, chúng ta phải thành tâm thân thưa: “Lạy Chúa, con xin tán dương Ngài, vì đã thương cứu vớt, không để quân thù đắc chí nhạo cười con” (Tv 30:2).

“Ngài đã kéo chúng ta lên từ âm phủ, tưởng đã xuống mồ mà Ngài thương cứu sống” (Tv 30:4). Tác giả Thánh vịnh cảm nghiệm như vậy nên kêu gọi: “Hỡi những kẻ tín trung, hãy đàn ca mừng Chúa, cảm tạ thánh danh Ngài” (Tv 30: (Tv 30:5). Không cảm tạ Ngài sao được, vì Ngài quá tốt lành, vượt ngoài tầm hiểu của phàm nhân chúng ta: “Ngài nổi giận, giận trong giây lát, nhưng yêu thương, thương suốt cả đời. Lệ có rơi khi màn đêm buông xuống, hừng đông về đã vọng tiếng hò reo” (Tv 30:6). Không vì lòng thương xót của Thiên Chúa thì chúng ta đừng hòng được gì. Vả lại, chính Chúa Giêsu đã dạy chúng ta tôn sùng Thánh Tâm Ngài van xin Lòng Thương Xót của Thiên Chúa. Ngài đã “bật đèn xanh”, thế nên chúng ta đừng cố chấp và cũng đừng ngần ngại cầu xin: “Lạy Chúa, xin lắng nghe và xót thương con, lạy Chúa, xin phù trì nâng đỡ” (Tv 30:11). Khúc ai ca được Chúa đổi thành vũ điệu hoan ca, và cởi áo sô mà mặc cho chúng ta lễ phục huy hoàng. Vì thế, chúng ta không thể nín lặng mà không ca ngợi Ngài: “Lạy Chúa là Thiên Chúa con thờ, xin tạ ơn Ngài mãi mãi ngàn thu” (Tv 30:13), đồng thời loan truyền hồng ân thương xót ấy cho mọi người cùng nhận biết.

Kinh nghiệm đầy mình, Thánh Phaolô khuyên: “Cũng như anh em từng trổi vượt về mọi mặt: về đức tin, lời giảng, sự hiểu biết, lòng nhiệt thành trong mọi lãnh vực, và về lòng bác ái mà anh em đã học được nơi chúng tôi, anh em cũng phải trổi vượt về lòng quảng đại” (2 Cr 8:7). Tốt về lĩnh vực này thì cũng cần tốt về lĩnh vực kia. Có “máu xấu” này cũng dễ “nhiễm” thói xấu khác. Mắc bệnh này rồi sẽ dễ mắc bệnh khác. Người tốt càng thêm tốt, người xấu càng thêm xấu. Cũng là hệ lụy tất yếu vậy. Cuộc sống đã và đang cho thấy ai mê đắm cái gì thì sẽ chết vì chính cái đó. Sinh nghề, tử nghiệp. Để cứu vãn, không gì hơn là phải tin theo Đức Giêsu Kitô, Chúa chúng ta, Đấng đã có lòng quảng đại vô cùng. Thánh Phaolô giải thích: “Ngài vốn giàu sang phú quý nhưng đã tự ý trở nên nghèo khó vì anh em, để lấy cái nghèo của mình mà làm cho anh em trở nên giàu có” (2 Cr 8:9). Thật lạ!

Thánh Phaolô nói cặn kẽ hơn: “Vấn đề không phải là bắt anh em sống eo hẹp để cho người khác bớt nghèo khổ. Điều cần thiết là phải có sự đồng đều. Trong hoàn cảnh hiện tại, anh em có được dư giả, là để giúp đỡ những người đang lâm cảnh túng thiếu, để rồi khi được dư giả, họ cũng sẽ giúp đỡ anh em, lúc anh em lâm cảnh túng thiếu. Như thế, sẽ có sự đồng đều” (2 Cr 8:13-14), y như lời đã chép: “Kẻ được nhiều thì không dư, mà người được ít thì không thiếu” (2 Cr 8:15). Đó mới là yêu thương thực sự, yêu thương triệt để, không yêu thương bằng lời nói suông mà bằng cả hành động. Hành động mới đủ sức thuyết phục và “nói” to hơn ngôn ngữ. Thiên Chúa rất thực tế khi Ngài đặt vấn đề: “Có người nào trong anh em, khi con mình xin cái bánh, mà lại cho nó hòn đá?” (Mt 7:9).

Chúa Giêsu thực tế trong từng lời nói, cử chỉ và hành động. Thánh sử Máccô kể rất tỉ mỉ, rõ ràng, dễ tửng tượng ra các diễn biến từng chi tiết: Một lần nọ, Đức Giêsu xuống thuyền trở sang bờ bên kia Biển Hồ. Một đám rất đông tụ lại quanh Ngài. Chợt có một ông trưởng hội đường tên là Gia-ia đi tới. Vừa thấy Đức Giêsu, ông ta sụp xuống dưới chân Ngài và khẩn khoản nài xin: “Con bé nhà tôi gần chết rồi. Xin Ngài đến đặt tay lên cháu, để nó được cứu thoát và được sống” (Mc 5:23). Chúa Giêsu đang vội, không rảnh, nhưng Ngài không do dự, không chần chừ, mà liền đi theo ông.

Khi đó, đám đông chen lấn đi theo xem sự thể ra sao. Trong đám đông đó có một bà kia bị băng huyết đã 12 năm, bao phen khổ sở vì chạy thầy chạy thuốc đã nhiều đến tán gia bại sản mà vẫn tiền mất tật mang, lại còn thêm nặng là khác. Bà nghe đồn về Đức Giêsu, bà cố lách qua đám đông, tiến đến phía sau Ngài, và sờ vào áo của Ngài, vì bà tự nhủ: “Tôi mà sờ được vào áo Ngài thôi, là sẽ được cứu” (Mc 5:28). Lạ thay, máu cầm lại tức khắc, và bà cảm thấy trong mình đã được khỏi ngay chứng băng huyết. Lúc đó, Đức Giêsu thấy có một năng lực tự nơi mình phát ra, Ngài liền quay lại giữa đám đông mà hỏi: “Ai đã sờ vào áo tôi?” (Mc 5:30).

Nghe Thầy mình hỏi vậy, chắc là các môn đệ nghĩ Thầy mình quá lẩm cẩm và ngây ngô hết sức, nên họ thưa: “Thầy coi, đám đông chen lấn Thầy như thế mà Thầy còn hỏi: Ai đã sờ vào tôi?” (Mc 5:31). Hỏi thế thì… “bó tay”. Nhưng Đức Giêsu vẫn ngó quanh để nhìn người phụ nữ đã làm điều đó khiến bà này sợ phát run lên vì biết cái gì đã xảy đến cho mình. Biết không thể giấu được, bà đến phủ phục trước mặt Ngài và nói hết sự thật với Ngài. Ngài nhẹ lời: “Này bà, lòng tin của bà đã cứu chữa bà. Bà hãy về bình an và khỏi hẳn bệnh” (Mc 5:34). Mắc chứng nan y mà được khỏi hẳn. Bà ta sướng rơn, sướng như người về từ cõi chết!

Chúa Giêsu luôn đề cao đức tin. Ngài không nói Ngài chữa lành mà chính niềm tin của chúng ta khả dĩ chữa lành chúng ta – cả tâm bệnh và thể bệnh.

Đang lúc đó, có mấy người từ nhà ông trưởng hội đường đến bảo: “Con gái ông chết rồi, làm phiền Thầy chi nữa?” (Mc 5:35). Nghe vậy, Đức Giêsu liền trấn an ông trưởng hội đường: “Ông đừng sợ, chỉ cần tin thôi” (Mc 5:36). Một lần nữa, Chúa Giêsu lại nhấn mạnh đức tin. Rồi Ngài không cho ai đi theo mình trừ ông Phêrô, ông Giacôbê và em ông này là ông Gioan. Đến nhà ông trưởng hội đường, Đức Giêsu thấy người ta khóc lóc, kêu la ầm ĩ. Ngài bước vào nhà và bảo họ: “Sao lại náo động và khóc lóc như vậy? Đứa bé có chết đâu, nó ngủ đấy!” (Mc 5:39). Chết mà bảo ngủ. Quái lạ! Ông Giêsu này “tâm thần” chắc! Thế nên người ta xầm xì chế nhạo Ngài.

Ngài bắt họ ra ngoài hết, rồi dẫn cha mẹ đứa trẻ và những kẻ cùng đi với Ngài vào nơi nó đang nằm. Ngài cầm lấy tay nó và nói: “Ta-li-tha kum”, nghĩa là: “Này bé, Thầy truyền cho con: trỗi dậy đi!” (Mc 5:41). Lập tức con bé đứng dậy và đi lại được. Ai nấy đều kinh ngạc sững sờ. Họ câm họng, hết dám xào xáo. Đức Giêsu không trách họ mà chỉ nghiêm cấm họ không được để một ai biết việc ấy. Ngài còn thực tế đến nỗi bảo người nhà cho con bé ăn.

Lạy Chúa, chúng con thật đắc tội với Ngài ngay từ những ý nghĩ hão huyền của chúng con. Cúi xin Ngài thương xót mà đại lượng ân xá. Xin Chúa mở lòng trí chúng con để chúng con cũng biết sống thực tế như Ngài, biết sẵn sàng hành động theo Ý Ngài và biết cương quyết khước từ những gì trái Ý Ngài. Chúng con cầu xin nhân Danh Thánh Tử Giêsu Kitô, Thiên Chúa cứu độ của chúng con. Amen.


Đang xử lý, vui lòng đợi trong giây lát...